Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức: Một chọn lựa bất hạnh (I)

 Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức: Một chọn lựa bất hạnh (I)

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

01/10/2024

Dương Văn Ba (thứ hai từ trái), cựu dân biểu đối lập VNCH, Tổng Thư Ký Tòa Soạn báo Tin Sáng, Phó Giám Đốc Cimexcol Minh Hải, bị cáo đầu vụ trong oan án Cimexcol Minh Hải.

Miền Nam những năm 1963-1970 gặp rất nhiều xáo trộn từ phía những người mà sau này có danh xưng  “ The 3rd“ (Lực lượng thứ ba). Họ có ăn học và họ quậy phá miền Nam đủ kiểu dưới danh xưng các dân biểu đối lập một cách hợp pháp.

Nếu gọi họ là những kẻ nội thù kể cũng không sai. Hay nói nôm na, họ là những thành phần “ nối giáo cho giặc”..

Miền Nam có mất cũng một phần do bọn này.

Khi tôi viết những dòng này thì một trong những kẻ ấy¨ ông Dương Văn Ba ở trong tình trạng sức khỏe đáng lo ngại. Ông bị tai biến mạch máu não lần thứ ba và nằm liệt tại chỗ từ nửa năm nay trong hoàn cảnh gia đình không mấy khá. Họ có vài chục người, nhưng xin nêu ba tên sừng sỏ nhất:

Đó là Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức: Un choix malheureux – Một chọn lựa bất hạnh.

Gia đình ông sau nhiều nỗi gian truân của những lớp sóng chính trị xô đẩy vùi dập cuối cùng kết thúc là sự tù đầy. Ông bị kết án tù chung thân, nhưng chỉ ngồi tù hơn bảy năm và được thả ra nhờ sự vận động của nhiều người.

Nhưng tài sản của công ty Cimexcol lên đến bạc triệu cũng như nhà cửa của ông đều bị tịch biên hết.

Nay được tha ‘coi như trắng án’ thì theo lẽ phải trả lại hết tài sản của công ty Cimexcol – với tư cách phó Giám đốc – cho Dương Văn Ba mới phải.

Căn nhà riêng của ông ở đường Đinh Bộ Lĩnh không đòi lại được vì thủ tục hành chánh. Một căn nhà khác ở làng đại học Thủ Đức cũng mất luôn. Khi tịch biên, chính quyền cộng sản đã không quên bắt theo cả một đàn heo.

Lần đầu tiên, heo cũng bị ra tòa như chủ nó và chắc lãnh án tử?

Ra tù, ông toan tính xây dựng lại sự nghiệp từ đầu nên làm ăn lại như mở Restaurant, đấu thầu bếp ăn tập thể. Cuối cùng cũng thất bại luôn.(1) Nay tình trạng vật chất không khấm khá gì đến nỗi không có nổi một căn nhà, phải đi ở thuê. Phải nói là ông ở trong tình trạng túng quẫn theo một vài thông tin nhận được.

Hiện ông đang ở địa chỉ 78-31 đường Nguyễn Thị Tú, Khu công nghiệp Tân Bình T.p. Hồ Chí Minh.

Vì sao nên nỗi? Bài viết này nhằm trả lời câu hỏi ấy.

Thật ra, tôi chỉ thực sự có ý định viết về ông khi được đọc hai cuốn hồi ký Hồi Ký Những ngã rẽ ông gửi cho viet-studies.info cách đây ít lâu, lúc mà ông biết mình chẳng còn sống được bao lâu nữa. Hồi ký ấy như muốn để lại một cái gì và tôi nghĩ nên được công bằng tìm hiểu, đồng thời giúp giới trẻ sau này biết tới một thời kỳ với rất nhiều biến động.

Biến động lớn nhất là đổi đời! Người xuống hàng trâu ngựa và trâu chó lên làm người.

Hồi ký thứ hai, cuốn Đời của Hồ Ngọc Nhuận. Cuốn này tôi đã có dịp đọc bản thảo ngay từ khi chưa được phép xuất bản dưới dạng photocopy. Photocopy là một thứ dạng văn hóa chui để có mặt.

Chui ở Việt Nam là một nếp sống văn hóa.

Sau này bản photocopy này được sửa chữa khá nhiều, có chương mới liên quan đến những tranh chấp giữa Lý Quý Chung, Ngô Công Đức, Dương Văn Ba và Hồ Ngọc Nhuận.

Bản hồi ký này của Hồ Ngọc Nhuận là để trả lời một số điều được coi là viết sai lầm trong hồi ký của Dương Văn Ba. Và sau đó được cho đăng trên Diễn Đàn Forum (diendan.org).

Bản hồi ký đã sửa chữa của Hồ Ngọc Nhuận, thêm nhiều chi tiết, đặc biệt chủ yếu nhắm vào việc phê phán Lý Quý Chung – từ những sự việc rất nhỏ đến không đáng nói – và một phần về Dương Văn Ba mà có thể trước đây ông đã cố tình im lặng để giữ hòa khí anh em trong lần đầu.

Lần này, ông xả láng như thể nói một lần cho xong. Khi một người theo cộng sản xả láng là lúc họ bắt đầu nói thật. Nói thật là thứ quý hiếm lắm nên cần phải đọc.

Cuốn hồi ký của Dương Văn Ba trên đây tôi nghe nói đã lâu, ngay từ khi Hồi Ký Không Tên của Lý Quý Chung được cho xuất bản lần đầu trong nước. Tôi hỏi bạn bè trong nước thì được biết có hai cuốn Hồi Ký không được phép xuất bản là cuốn Đời của Hồ Ngọc Nhuận và cuốn Những ngã rẽ của Dương Văn Ba. (Lúc đó tôi không được biết tên cuốn hồi ký này).

Cũng vì thế ở đây cũng phải cám ơn ông Trần Hữu Dũng, của viet-studies.info, đã cho đăng lại cuốn Hồi Ký do chính ông Dương Văn Ba gửi ra hải ngoại. Nhờ đó ít ra một lần, Dương Văn Ba được bày tỏ, viết lại những hoạt động của ông từ thời sinh viên đến lúc làm báo, làm chính trị và làm kinh tế với chức vị Phó chủ tịch công ty Cimexcol, rồi bị án tù chung thân, bị sa cơ thất thế, bị rơi vào hoàn cảnh túng quẫn, mất nhà mất cửa và bệnh hoạn như hiện nay.

Hành trình nhận thức thời tuổi trẻ với “những ngã rẽ” như ông viết đã đưa đến một kết thúc khá bi kịch của một người trí thức miền Nam. Ông trôi theo dòng bị đẩy đưa từ một thầy giáo dạy triết, ông trở thành người khuynh tả, rồi lực lượng thứ ba.

Rồi đến lúc nước ngập đến chân vào năm 1975, cuối cùng ông bám vào cái đuôi cộng sản như cái phao cứu sinh. Cái đuôi ấy đã giúp ông qua một dòng sông đi một đoạn đường dài. Nhưng cũng chính cái đuôi ấy quất ông chết chìm trước khi qua được bờ sông bên kia.

Kết thúc cuộc đời chính trị của Dương Văn Ba cũng là kết thúc vai trò của thành phần lực lượng thứ ba – kết thúc một ảo tưởng.

Lý Quý Chung trước 1975 tự nhận ông là những người đứng giữa mà thực tế chính trị sau 1975 không thể nào cái lực lượng ấy có bất cứ vai trò gì cũng như lý do gì để tồn tại.

Đứng giữa tự nó là không đứng chỗ nào cả về mặt chính trị. Lực lượng thứ ba đối với phía cộng sản ví như con thuyền. Khi đã qua sông thì con thuyền chở qua sông sẽ trở thành gánh nặng nếu tiếp tục vác nó lên bờ.

Có ai dại khờ vác thuyền lên bờ không? Không. Cách tốt nhất là dẹp bỏ nó như một vật dư thừa.

Phải chăng tìm đọc lại hồi Ký Dương Văn Ba sẽ là một bài học muộn, bài học trễ cho tất cả những ai đã đang và không theo cộng sản?

Bất cứ ai cũng có thể rút ra một bài học cho mình. Ngay những người quốc gia như tôi thì giúp chúng tôi củng cố thêm niềm tin rằng cộng sản là một điều xấu – tồi tệ nhất trong các điều xấu. Vậy điều xấu nhất ấy là gì?

Là họ mất tính người.

Nó biểu tượng cho một cái bi kịch làm người-ở-đời-trong chế độ cộng sản mà lúc ‘ngộ’ ra thì đã quá muộn. Sự chọn lựa của những người trí thức lực lượng thứ ba là một chọn lựa bất hạnh ngay từ đầu.

Đối với miền Nam, họ là những kẻ bội phản. Và đối với cộng sản, họ trở thành kẻ dư thừa sau 1975.

Bất hạnh nằm ở chỗ đó.

Và những người như Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận và Ngô Công Đức đều đã có một chọn lựa có thể là sai lầm lúc thời trẻ? Chọn lựa ấy đến ngày hôm nay trở thành một chọn lựa bất hạnh – choix malheureux-?

Ngô Công Đức đã chết. Nhiều người khác cũng đã chết: Nguyễn Trọng Văn đã chết. Nguyễn Ngọc Thạch đã chết. Bành Ngọc Quý đã chết. Lý Quý Chung đã chết. Lê Hiếu Đằng đã chết. Dương Văn Ba kể cũng như chết. Lý Chánh Trung cũng vậy.

Nhưng nỗi bất hạnh vẫn đeo dính vào cuộc đời họ! Họ ăn năn cũng trễ, họ muốn chuyển trục cũng không còn cơ hội nữa.

Nay chỉ còn Hồ Ngọc Nhuận còn sống đại diện cho ít nhất ba người trong số họ. Liệu ông có gánh vác nỗi cái nỗi bất hạnh thay cho những người đã ra đi?

Mới đây nhất, vào ngày 23-7-2015, Ông Hồ Ngọc Nhuận đã viết một lá thư gửi ông Nguyễn Phú Trọng lên án đảng cộng sản Việt Nam. Sự suy nghĩ lại của ông Hồ Ngọc Nhuận là điều đáng mừng.(2)

Trong Hồi ký không tên của Lý Quý Chung, có một đôi dòng thú nhận mà tôi cho là thấm thía và chua xót nhất của thân phận những kẻ đứng giữa, cần được trích lại ở đây của tác giả như sau:

Nhưng trong 30 năm đó, tôi vẫn cảm nhận mình là người khách đặc biệt. Chưa bao giờ là một thành viên trọn vẹn của chế độ mới. Tôi cũng không hề phiền hà về cái quy chế không chính thức này. Là một người từng làm chính trị (dù là do thời cuộc mà làm), tôi vẫn hiểu được rằng thật khó cho người cộng sản tin dùng trọn vẹn một người không phải của mình…

[…]

Trong các cuộc đấu tranh hay mâu thuẫn trong nội bộ cơ quan mà tôi từng cộng tác, cái chuẩn ‘Người của Đảng’ đáng tin cậy hơn ‘người ngoài đảng’ vẫn thường đuợc vận dụng.”(3)

Sự thú nhận của Lý Quý Chung cũng đã được ông Trần Bạch Đằng, người giới thiệu tập hổi ký viết, “Thật ra, giới trí thức Sài gòn như Lý Quý Chung, ‘phơi phới sống với chế độ mới’ là chuyện không thể có, tức không thể đòi hỏi.”(4)

Họ đã chịu đựng âm thầm, nhẫn nhục cố khuôn mình trong cái khuôn cộng sản hẳn là có.

Vậy mà cũng không xong. Mà xong sao được. Họ làm sao ‘phơi phới’ được. Nếu có phơi phới thì chỉ là đóng kịch mà thôi. Cái không xong sẽ bám dính lấy họ trong suốt cuộc đời còn lại.

Hầu hết những người này đều là bạn bè mà tôi quen biết.

Nguyễn Ngọc Lan về chầu Chúa sớm nhất vẫn còn mang theo nỗi bực tức cộng sản. Bành Ngọc Quý chết lãng xẹt bị xe đụng. Nguyễn Hữu Hiệp chết quá trẻ khi bị sốt rét ác tính khi đi làm gỗ với Dương Văn Ba bên Lào. Nguyễn Ngọc Thạch, một người lúc trẻ lúc nào cũng sẵn những câu chuyện vui tếu giữa đám đông bạn bè, cũng lẳng lặng ra đi.

Còn một số đông bạn bè còn ở lại. Họ muốn giữ thái độ im lặng trong tuổi già.

Không biết trong tất cả những bạn bè, những người quen biết ấy, vào lúc này, có can đảm cho rằng sự chọn lựa đi theo ‘con đường cách mạng xã hội’ là một chọn lựa đứng đắn nhất?

Tôi không tin một ai đó dám trả lời, đó là một chọn lựa đúng.

Những người còn lại có lúc gắn bó, tưởng chừng như anh em một nhà. Rồi cũng chia rẽ nhau, lên án, kết tội nhau trước Đảng (trường hợp Lý Quý Chung, Dương Văn Ba kết tội Ngô Công Đức. Hồ Ngọc Nhuận)

Rồi còn bao nhiêu bạn bè, anh em họ hàng, vợ con họ cả trăm người sau 1975 sống bám vào tờ Tin Sáng, bộ mới để sống còn cho đến lúc tan đàn, tản mác mỗi người mỗi nơi.

Họ đành mỗi ngưởi tự tìm cho mình một lối thoát.

Lối thoát với dầy gian nguy và thử thách đó là vượt biên. Lối thoát không lối thoát chính là ở lại, tiếp tục cuộc sống lưu đầy trên chính quê hương mình.

Tôi sẽ lần lượt điểm mặt những khuôn mặt tiêu biểu để cho thấy chỉ là một đám người đối lập “phá làng, phá xóm”, chữ dùng của Hồ Ngọc Nhuận trước 1975 và sau 1975, chỉ là đám lục bình trôi.

Ở đây cũng xin bỏ trong ngoặc trừ một số nhà giáo có căn bản học lực, thầm lặng cộng tác làm báo như Nguyễn Hữu Hiệp, Nguyễn Ngọc Thạch, Võ Văn Điểm, Trần Ngọc Báu, Hoàng Ngọc Biên, Nguyễn Đồng và vợ Nguyễn Thị Hợp, v.v.Họ chọn sống thầm lặng..

Phần những người chủ chốt như Ngô Công Đức, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Quý Chung kiến thức đều thuộc loại làng nhàng – học dở dang chưa ra ngô ra khoai! Hồ Ngọc Nhuận, chỉ đủ điều kiện theo học khóa sĩ quan Thủ Đức 14 ra trường với cấp bậc chuẩn úy. Lý Quý Chung bỏ Quốc gia Hành Chánh khóa 10. (Võ Long Triều cho rằng Lý Quý Chung chưa có tú tài II) Riêng Ngô Công Đức thì kỹ sư Võ Long Triều trong Hồi ký của ông, chương 26 viết, “Dù biết rằng văn hóa của Ngô Công Đức rất kém, không có được văn bằng tú tài!”

Thật ra thì chuyện bằng cấp có chi quan trọng cần đến một sự miệt thị như thế! Nhưng cứ bình thường thì làm thế nào một chuẩn úy như Hồ Ngọc Nhuận ra trường, về dạy tại Trung Tâm Huấn Luyện vùng IV Chiến Thuật mãi miệt núi Thất Sơn, sau 1-11-1963, lại có công điện khẩn của Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng gọi về trình diện. Trong công điện lại thòng thêm chi tiết: Nếu cần sẽ cho trực thăng đến đón!(5)

Tất cả câu chuyện bức công điện khẩn này có nguyên do của nó và đã xoay chuyển cuộc đời sự nghiệp chính trị của Hồ Ngọc Nhuận sau này.

Chi tiết nảy cũng làm tôi chợt nghĩ đến Lý Quý Chung với cuốn Hồi Ký Không Tên đã gây biết bao tranh luận sóng gió, đã bắt buộc Ngô Công Đức, chủ nhiệm Tin Sáng, bộ mới phải lên tiếng về những lời kết tội ‘giết Người’ của Lý Quý Chung. Nó cũng bắt buộc ông Hồ Ngọc Nhuận phải viết lại, sửa chữa một số chương trong cuốn Hồi Ký Đời của ông đến như đọc cuốn Hồi Ký Đời của Hồ Ngọc Nhuận đã sửa như thể Hồi Ký đã mang một bộ mặt khác. Và cũng như thế khi đọc Hồi Ký Những ngã rẽ của Dương Văn Ba.

Tôi có cảm tưởng khi đọc những hồi ký này, những nhân vật trẻ trên chẳng khác gì trường hợp Vi Tiêu Bảo trong truyện Kiếm Hiệp của Kim Dung. Và có thể áp dụng cho Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, Ngô Công Đức!

Vậy mà ông kỹ sư Võ Long Triều mà tôi gọi là ‘người hùng ngây thơ” vô số tội’ đã bao che, nâng đỡ, cất nhắc, tài trợ tiền bạc để cho đám này và nhiều dân biểu gốc miền Nam ra tranh cử, tài trợ ra báo, dùng trung gian Nguyễn Cao Kỳ cất nhắc bọn họ có những chức vụ lớn trong chính phủ cho Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, Ngô Công Đức.

Ngay cả bao che trốn quân dịch cho Lý Quý Chung, Dương Văn Ba để cuối cùng bọn họ đều phản phé lại Võ Long Triều.

Hồi Ký của ông Võ Long Triều, theo người viết nên dành hẳn một chương Hồi ký viết về những kẻ bội phản.

Riêng phần Dương Văn Ba, đảng thưởng cho ông 20 năm tù chung thân, rút lại ngồi tù hơn 7 năm mà trong Hồi Ký, Những ngã rẽ, ông cũng chỉ dám dành chương chót – chương 20 với nhan đề: Vài chuyện nhỏ về ông Nguyễn Văn Linh, người đã ra lệnh bắt tôi.

Chuyện án tù chung thân, mất nhà mất cửa, thân bại danh liệt mà ông gọi là chuyện nhỏ? Ông viết vỏn vẹn chỉ có 4 trang giấy thì quả là chuyện nhỏ thật? Trong khi đó, tôi nhận được hẳn một cuốn sách in photocopy do Hồ Ngọc Nhuận chịu khó thu tập tài liệu để trình bầy lại toàn bộ vụ án của ông, dài mấy trăm trang. Không có Hồ Ngọc Nhuận, người ta sẽ không cách nào hiểu nội vụ, đầu đuôi câu chuyện vụ án Cimexcol như thế nào.

Lúc ấy, tôi cảm nhận được là Dương Văn Ba cần tuyệt đối im lặng đễ giữ được cái mạng sống của mình, gia đình mình – mạng chính trị thì kể như đã tiêu tan – để cho Hồ Ngọc Nhuận lên tiếng thay cho anh ta.

Sau đây, xin lần lượt khai triển lại những gì Dương Văn Ba viết trong Hồi Ký Những ngã rẽ, phần nào đúng, phần nào sai, phần nào cường điệu, phần nào nổ, phần nào che đấu, phần nào nói thật.

Dù thế nào đi nữa thì chúng tôi cũng từng học với Dương Văn Ba, Nguyễn Trọng Văn, Nguyễn Hữu Hiệp, Bành Ngọc Quý vv.., xuất thân từ cùng một ngôi trường, cùng học một thầy mà mỗi người đi theo những ngả khác nhau.

Phải chăng đó là cuộc đời, nhân sinh hệ lụy mà không một ai có thể biết trước được đời một người sẽ ra sao!

Dương Văn Ba và bạn bè thời sinh viên Triết Đà Lạt

Viện Đại học Đà Lạt

Trong Hồi ký của mình, Dương Văn Ba đã dành hẳn một chương nói về bạn bè thời còn đi học của mình. Phải nói Dương Văn Ba sống vì bạn bè, lúc nào cùng có bạn bè bao quanh, thứ bạn bè đàn đúm, có thể làm việc chung, có thể chửi thề, có thể nhậu nhẹt, ăn tục nói phét, có thể sống bạt mạng, ngay cả uống máu ăn thề, rồi nuốt lời thề như chơi.

Tôi nghĩ Dương Văn Ba có một thứ đạo lý hay một thứ triết lý sống được gọi là thứ đạo lý giang hồ, thấm đậm tình tự con người dân của vùng đất mới mà tổ tiên họ có thể là những kẻ lưu dân hoặc trôi sông lạc chợ hoặc Phản Thanh Phục Minh.

Dương Văn Ba gốc gác người Triều Châu ở Cà Mâu mà tổ tiên đã trôi dạt từ bên Tàu sang ta lánh nạn.

Gốc gác ấy ở mặt triết lý sống như thế có thể là đẹp.

Vì thế, cuộc đời một người đôi khi có những dấu ấn định đoạt mang tính tiền định như một sắp xếp, một nếp gấp của tờ giấy và điều đó phải chăng có thể áp dụng trong trường hợp Dương Văn Ba? Trước sau gì nó cũng phải đi đến chỗ đó thôi.

Có thể, không bao giờ Dương Văn Ba, Nguyễn Trọng Văn nghĩ rằng có một ngày nào đó họ sẽ đóng một vai trò xã hội, chính trị trong một đất nước dưới sự cai trị của một đảng (duy nhất)? Và theo tôi, phải nhìn nhận, tuy họ đều là những người thông minh và có tài, lại trở thành nạn nhân của chế độ ấy.

Nguyễn Trọng Văn bị cấm cầm bút ngay từ những năm đầu sau 1975. Điều đó, theo sự hiểu biết của tôi, nó là mội nỗi đau, nỗi nhục không nói ra được, vì cá tính Nguyễn Trọng Văn mạnh lắm.

Trước 1975, Nguyễn Trọng Văn viết như một kẻ bứt phá, ngòi bút lý luận sắc gọn, ngay cả khi cần viết truyện khiêu dâm.

Nghĩa là trước 1975, người cầm bút như Nguyễn Trọng Văn có một sự thỏa mãn trọn vẹn cá tính qua ngòi bút không bị cương tỏa. Nhưng khác hẳn Dương văn Ba, Nguyễn Trọng Văn vẫn là mẫu người khó tính không có bạn bè, cô độc và cô đơn một mình. Ngoài chuyện viết lách ra, Văn khó có thể chơi với ai mà có chơi rồi cũng đến lúc rã đám.

Dương Văn Ba cũng là một mẫu người cá tính mạnh, tung hoành không chỉ trong phạm vi làm báo, ngang dọc trong phạm vi chính trị, kết bè kết đảng xem ra đời sống phóng khoáng và thoải mái hơn Nguyễn Trọng Văn.

Nhưng tiếc thay, khi bỏ làm báo, ông lao vào vào việc kinh doanh gỗ, cấu kết với nhiều thành phần, cuối cùng lãnh bản án án tù chung thân và kể từ đó sống vất vưởng vay nợ, quỵt nợ để sống qua ngày cũng không xong.

Tôi vẫn tự hỏi với cá tính của họ, học vấn của họ, khả năng của họ liệu có thể đưa họ tới một vị trí vững vàng trong một xã hội cộng sản không?

Câu trả lời là không. Hoàn toàn không.

Cá tính càng mạnh như một vật cứng trong cỗ máy nghiền thì càng chết mau. Guồng máy đảng sẽ nghiền nát họ như cám.

Nguyễn Trọng Văn rơi vào trường hợp đó.

Những phát biểu thẳng thừng như dao cắt của Nguyễn Trọng Văn trước đám đông cựu trí thức miền Nam và lãnh đạo Đảng trong các buổi họp. Nhiều người nghe thấy lạnh gáy, sợ thay cho Nguyễn Trọng Văn!

Thủ tướng Võ Văn Kiệt là người dễ tính nhất cũng không chịu nổi Nguyễn Trọng Văn.

Biện pháp nhẹ nhất là cấm cầm bút. Nhưng phần Dương Văn Ba khôn khéo hơn nhiều rồi cũng chết.

Tôi vẫn còn giữ cái cảm thức về một Nguyễn Trọng Văn có vẻ vênh váo, hãnh tiến, cái vinh dự hão huyền vì còn được ngồi lại ở Đại Học Văn Khoa. Cũng như tôi vẫn còn giữ cái kỷ niệm trong khi tôi gò lưng dạp xe đạp vào một buổi trưa trên đường Bùi Thị Xuân, gần trường Nguyễn Bá Tòng, nghe tiếng gọi giật của Dương Văn Ba. Ông đang lái một chiếc xe Land Rover, mầu trắng, vẻ tự hào!

Sự cách biệt giữa chiếc xe đạp và chiếc xe Land Rover khác nhau xa quá.

Quả thực đã có hai thế giới giữa bạn bè? Sau này nghĩ lại thì khác, chúng tôi tất cả đều ngồi chung một nhà tù mà không biết.

Nhận xét đầu tiên có tính trổi bật đến như không chối cãi được là hầu như phần đông các sinh viên ấy đều thuộc một tầng lớp người có trí thông minh hơn người. Họ là những Nguyễn Đa, Vĩnh Đễ, khóa đàn anh, ngay từ thời còn sinh viên đã được anh em kính nể.

Nhưng có lẽ sự đánh giá họ trở nên chính xác hơn nếu ta dựa trên cái ta gọi là esprit de révolte, tinh thần phản kháng, theo Tây Phương. Khả năng ấy dấn xa hơn nữa trở thành thái độ ‘nổi loạn’, dấu hiệu của sự thông minh, trưởng thành?

Phần đông đám sinh viên ấy đều ít nhiều có sự phủ nhận như điều kiện ắt có và đủ để họ là họ.

Có nghĩa là họ khác người khác. Họ không bị lẫn vào đám đông.

Và nhiều khi người bàng quan nhìn vào họ như thể những hiện tượng không giống ai.

Mỗi người là một thế giới riêng -tôi là tôi và không là ai khác- tự tạo cho mình một nhân cách, một vóc dáng. Nói thẳng ra, họ tự coi như những đỉnh núi của đỉnh núi.

Có những ngọn núi như Huỳnh Phan Anh, Dương Văn Ba, Phùng Quyên. Cho đến bây giờ phong cách Huỳnh Phan Anh vẫn vậy, vẫn thấy ngông nghênh một mình, vẫn có phong cách nghệ sĩ khác người, những suy tư một mình một cõi. Ông viết nhiều, dịch vô số kể, nhưng tôi chưa hề đọc một tác phẩm nào của ông. Phần dịch thuật, tôi thầm nghĩ, đó có thể chỉ là món nợ trả áo cơm, bia rượu và thuốc lá sau 1975.

Hay dở, nó ngoài khả năng thẩm định của tôi!

Thứ hai phần đông đều là thứ ‘mọt sách’. Trong giao tiếp, họ gián tiếp cho biết điều đó. Dương Văn Ba trong Hồi ký Những Ngã rẽ đã cho thấy anh đọc đủ thứ ngay từ tiểu học. Nhưng không thiếu người khác cũng đã đọc Nam Phong tạp chí, Phạm Quỳnh, đã đọc Tự Lực Văn Đoàn, đã đọc các nhà văn tiền chiến như Nam Cao, Trần Tiêu, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan. Đã say mê các nhà thơ như Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên.

Nhưng đã ít người nói đến Sáng Tạo, đến Mai Thảo, v.v.

Và chưa kể, họ liệt kê, bầy hàng về sự hiểu biết của họ về các nhà văn, nhà tư tưởng Pháp, nhà văn Nga hay Mỹ.

Người được viện dẫn nhiều nhất có thể là J.P. Sartre. Không nói về Sartre thì như thể chưa là trí thức.

Phần Dương Văn Ba, 16 tuổi đã đỗ tú tài. Không biết có khai gian tuổi không?

Thứ ba, phần đông bọn họ có nếp sống ngoài khuôn khổ, khác người trong lối ăn mặc, lối suy nghĩ như thể mỗi người cố tạo cho mình một phong cách, một cái gì riêng độc đáo, cố biểu hiện một tư cách không giống ai, một cái gì ngoài quy củ. Như ngậm ống píp, để râu, quần áo bỏ ngoài quần cẩu thả, hút thuốc lá đến hai ngón tay ám khói, tối ngày ngồi cà phê.

Và xem ra họ tự hào về điếu ấy và sự trình diễn phái tính nam tính một cách công khai chẳng khác giới phụ nữ. Nếu phụ nữ phô bầy cái vẻ đẹp, nét dịu dàng.

Họ làm ngược lại! Họ phơi bày cái nam tính trong tính cách thô kệch của nó.

Họ cho thấy sự thô bạo trong ngôn ngữ, buông thả trong những lối nhận định và luôn luôn tỏ ra bất cần đời.

Và đặc biệt không hề biết ngượng.

Dương Văn Ba sống phô bầy một cá tính mạnh mẽ trong lối nói, lối suy nghĩ, trong thứ ngôn ngữ đôi khi sắc sảo, đôi khi đao búa, hạ đối phương bằng được ngay cả bằng sự nhạo báng, báng bổ cay độc, qua cách cười của ông.

Tiêu biểu cá tính ấy có thể tụ lại trong một vài mẫu hình tiêu biểu như Huỳnh Phan Anh, Dương Văn Ba, Nguyễn Trọng Văn,

Họ chỉ một có một cái chung nếu gọi là cái chung. Đó là ‘thích’ triết học mà phần đông nghiêng về thái độ triết học tả phái, thái độ phủ nhận, hoặc thái độ hiện sinh vô thần hầu như trở thành một cái mốt.

Mốt sống hiện sinh! Là một thái độ sống phủ nhận tất cả.

Đối với họ, phủ nhận là thái độ tiến bộ, phủ nhận là đi tới, là khai phá, là tìm kiếm, là đi trên đường mà không phải là lối mòn, biết nói không trước nhiều sự kiện. Phủ nhận làm cho người đó lớn lên, nhân cách lớn lên. Ngay cả phủ nhận của phủ nhận. Phủ nhận điều mà ta phủ nhận và rơi vào hư vô.

Trên thực tế về mặt chính trị, họ phủ nhận và chống đối chiến tranh một cách gratuit! Họ là cực tả và việc theo cộng sản chỉ là bề mặt trái của sự cực tả.

May mắn thay là phần đông anh em sinh viên chúng tôi, đa số dù có là nạn nhân của chế độ cộng sản thì cuối cùng phần đông chúng tôi vẫn có một cuộc sống của người bình thường.

Sống bình thường đôi khi nghĩ lại mới thấy thực sự là khó và mới thực sự là có ý nghĩa của đời sống.

Bởi vì thế mới là sống thật. Những lo toan đời thường. Những bổn phận làm cha, làm chồng tưởng chừng dễ dàng lại là những mục đích ở đời, sống cho trọn kiếp người.

Lối sống kia mới thật là sống giả, sống vay mượn.

Phủ nhận trước hết và ngay cả tôn giáo mà đúng nghĩa ở đây là công giáo. Nơi một đại học được coi là công giáo. Phủ nhận thứ hai là các giá trị đạo đức, chính trị, xã hội đã được nhìn nhận.

Đi rốt ráo hơn là sự phủ nhận chính mình và rơi vào những suy tư siêu hình, trừu tượng, ảo tưởng như trường hợp Huỳnh Phan Anh, một người bạn thân thiết của Dương Văn Ba khi ngồi ở ghế đại học. Tôi nhớ không lầm thì Huỳnh Phan Anh khi viết cuốn Văn Chương và kinh nghiệm hư vô? Tôi tự hỏi mình kinh nghiệm hư vô là thứ kinh nghiệm gì?

Một vài dòng tóm tắt trên để thế hệ sau nảy hiểu được nếp sống của một số bạn bè chúng tôi trong môi trường đại học miền Nam. Lối sống ấy đã làm nền cho việc tìm hiểu cuộc đời Dương Văn Ba sau này đi vào những ngã rẽ.

Những ngã rẽ mà nhiều người trong chúng tôi tránh được trong khi Dương Văn Ba không tránh được. Dương Văn Ba không tránh được vì máu phiêu lưu mạo hiểm, máu liều, tính bạt mạng đã dẫn đường đến việc dấn thân vào chính trị thiên tả và cuối cùng theo cộng sản!

Theo tôi, thái độ cực tả là con đường ngắn nhất để đi tới chủ nghĩa cộng sản.

Cùng học một trường, cùng chịu ảnh hưởng một nền giáo dục lành mạnh, được giảng dạy bởi phần đông các vị giáo sư đủ quốc tịch, người ngoại quốc, mà đặc điểm của họ là sự hiểu biết thông thái, thái độ trí thức cởi mở, chấp nhận đối thoại, tinh thần khoan nhượng và khiêm tốn.

Họ diễn giảng như một mời gọi mà không có tính cách áp đặt hoặc tham vọng giảng đạo.

Nhưng quyết định chọn lựa một thái độ sống, thái độ hành động lại tùy thuộc vào mỗi người.

Điều này cũng đã được Nguyễn Trọng Văn kể lại khi anh ta dự kỳ thi nhập học ban Triết. Đề thi triết nhập học năm chúng tôi dự thi có nhan đề: Triết học là một thái độ luôn luôn đi trên đường (en route). Và vì thế, những câu hỏi thường quan trọng hơn những câu trả lời. Anh nghĩ gi về tư tưởng trên? Không biết Nguyễn Trọng Văn viết cái gì, chỉ biết bài viết của Nguyễn Trọng Văn có nhiều điều ‘chệch hướng’, đi ngược với hướng chung của phần lớn các triết gia hiện sinh. Người chấm bài của Nguyễn Trọng Văn là giáo sư André Gaultier, dạy môn triết sử. Mặc dù nếu cứ theo thường tình, ông có thể đánh rớt Nguyễn Trọng Văn, nhưng đã chấm đậu và cho Nguyễn Trọng Văn đậu cao. Sau này, giáo sư André Gaultier đã cho Nguyễn Trọng Văn biết điều đó. Dĩ nhiên là Nguyễn Trọng Văn cảm phục và nhớ ơn thầy.

Chính việc giới thiệu này có thể là nguyên cớ mở đường cho Hồ Ngọc Nhuận và một số người khác lăn vào chính trị sau này. (Mặc dầu Hồ Ngọc Nhuận không phải công giáo nhưng lại chơi và quen biết nhiều giới công giáo vì học trường Taberd).

Trước hết, hãy cứ viết lại những nhận định của ông:

Nhiều người đã nổi loạn và có lẽ đã may mắn gặp con đường đi làm cách mạng theo kiểu cộng sản. Trong giới sinh viên đại học Đà Lạt thời đó, không thiếu những chàng trai âm thầm đi theo tiếng gọi của cộng sản. Võ Văn Điểm, Nguyễn Trọng Văn, sau nữa Cao Thị Quế Hương… là thể hiện tích cực của những tình cảm nổi loạn, bức phá”.

Đại đa số đi theo chiều ngược lại. Hiện sinh, vô thần, không chấp nhận khuôn thước, rào cản, luôn đi tìm cái mới. Trong số những người này có Huỳnh Phan Anh, Huỳnh Đạt Bửu, Võ Văn Bé, Tô Văn Lai, Huỳnh Quan Trọng và nhiều thanh niên khác đứng giữa dòng cộng sản và tôn giáo.

Chúng tôi đi không bến bờ
Trước mặt là dòng sông, sau lưng là nghĩa địa
(Thơ Tô Thùy Yên, nhóm Sáng Tạo)

Não trạng sống của trí thức Sài Gòn, trí thức miền Nam lúc bấy giờ tương tự như thế. Còn ngày mai sẽ ra sao? Đó là những bến bờ không định trước được của lịch sử. Tôi và nhiều bạn bè đã rời ghế trường Đại Học trong hoàn cảnh suy tư đó. Chúng tôi đã bị xô đây và vùi dập bởi nhiều cơn sóng lớn nhỏ của lịch sử kể từ 1965 về sau này.”(7)

Theo tôi, từng là bạn cùng lớp với những bạn bè vừa kể trên, tôi cho phần nhận xét của Dương Văn Ba có tính cách tô hồng quá khứ tuổi trẻ, mặc cho nó một cái áo khoác quá rộng với một ngôn ngữ cường điệu, một thói quen của Dương Văn Ba!

Cuộc sống thực của chúng tôi hồi đó như thế nào? Chắc chắn không phải như Dương Văn Ba mô tả.

Số người cực tả là hiếm hoi lắm. Số người theo cộng sản đếm chưa đủ mười ngón. Đa số chúng tôi là những thày giáo dạy Triết, sống bình thường và thanh bạch.

Lớp chúng tôi là khóa 4, Đại học Sư phạm Triết Sài Gòn được lên học nhờ Đà Lạt.

Về vật chất với học bổng 1500 đồng/tháng. Bảo rằng thiếu vẫn là thiếu. Bảo rằng thừa vẫn là thừa. Tiền trọ 200 đồng, tiền ăn hai bữa, mỗi bữa 5 đồng. Nói chung ăn ở mất 500 đồng còn lại để chi tiêu. Ăn sáng tự liệu, mua bánh mì kẹp đường, uống sữa bột của viện trợ Mỹ.

Một cái bánh mì nóng hổi, hai đồng, mà tôi và Trương Đình Tấn, Nguyễn Văn Vũ thường ăn thêm, kẹp thêm mỡ shortening và đường trắng vào buổi tối. So sánh với giá một chiếc xe Solex là 3000 đồng một chiếc thì quả số tiền 1500 là một gia tài.

Phải nhìn nhận so với người lính VNCH, chúng tôi quá được ưu đãi. Chế độ Ngô Đình Diệm lo cho chúng tôi được ăn học, có tiền trợ cấp đầy đủ hơn cả lương một người lính.

Một người sinh viên hiểu biết nghĩ được tới cái chung phải biết điều đó mà bổn phận chính yếu của họ là lo chăm học sau ra giúp giới trẻ miền Nam được học hành tử tế. Tôi nhìn nhận rằng hơn 100 giáo sư Triết ấy đã tỏa ra khắp bốn vùng chiến thuật và dạy cho học sinh một giai đoạn vỡ lòng về triết học!

Những đóng góp nhỏ ấy có thể không được ai nhìn nhận, nhưng nó lại làm ra miền Nam là miền Nam và sau này cho thấy vốn văn hóa là cái vốn lớn nhất làm cho một dân tộc mạnh hay yếu!

Những trò khuấy động chính trị thật ra chỉ là nhất thời thôi.

Nhưng những người như Dương Văn Ba đã không nghĩ được như thế. Họ cũng như nhóm sinh viên phản chiến du học ở hải ngoại, nhận học bổng của chính phủ mà phản bội lại miền Nam. Dưới mắt tôi thì bọn những người như Dương Văn Ba, Nguyễn Trọng Văn, Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Đức thiếu hắn một tấm lòng đối với miền Nam.

Từ con người đến cuộc sống của họ đáng được nói lại ở đây. Họ đã làm gì cho miền Nam ngoài sự phá rối!

Trường hợp Nguyễn Trọng Văn thì tôi chơi khá thân với anh ta thời sinh viên; theo trí nhớ của tôi, Nguyễn Trọng Văn bàn cãi nhiều vấn đề triết lý với tôi, nhưng tên tuổi K. Marx là không thấy nhắc tới. Sau này, tôi đến nhà Nguyễn Trọng Văn tại khu Nguyễn Tri Phương, vào khoảng 1970 trở đi, Nguyễn Trọng Văn cho biết, anh được học trò ở Vĩnh Long móc nối và dọa rằng, “Nu thầy không theo MTGPMN thì việc đi đường từ Vĩnh Long-Saigon có thể gặp nguy hiểm.”

Sau này, sự móc nối chặt chẽ hơn với MTGPMN thế nào thì tôi không biết.

Nhưng khi Nguyễn Trọng Văn cho in bài nói chuyện tại trường Đại Học Văn khoa Saigon ngày 6-6-1971, sau đó cho in thành sách.(10) Cuốn sách có nhan đề: Phạm Duy đã chết thế nào. Tôi đọc xong cuốn sách, nhưng vẫn chưa nhận ra được con người thật Nguyễn Trọng Văn. Tôi vẫn cho là anh ta quá hăng say chỉ trích và bất mãn. Cũng như Nguyễn Trọng Văn khi cộng tác viết bài trên tờ Đất Nước do Nguyễn Văn Trung làm chủ nhiệm.,Trong một số Đất Nước, Nguyễn Trọng Văn viết bài: Hoàn cảnh những người cầm bút trước và sau 1963.(11)

Tôi vẫn cho rằng do ảnh hưởng lôi kéo của Nguyễn Văn Trung mà Nguyễn Trọng Văn viết như thế. Cũng trong số đó có bài thơ của nguyên Sa: Giã từ khóa đàn anh. Sự không nghi ngờ ấy cũng được hiểu tương tự như trường hợp anh Nguyễn Tử Lộc, một thày giáo dạy Triết khác lý tưởng, đầy lòng nhân ái, hòa nhã, đạo đức cũng có viết một bài khá danh thép: Vấn đề dân tộc đặt cho người công giáo.

Phải nhìn nhận rằng, ở cái thời kỳ đó, không dễ gì đánh giá ai là thiên tả, ai theo cộng sản, ai là quốc gia?

Chỉ sau này, tôi mới thực sự nghĩ rằng việc Nguyễn Trọng Văn phê bình Phạm Duy có sự điều động ngấm ngầm của cộng sản.

Phần tôi còn nhớ những kỷ niệm đẹp đời sinh viên nghèo. Những kỷ niệm rất tình người, rất bình thường của những con người bình thường.

Vào mùa hè, số tiền 1500 tiền học bổng không phải đụng đến, tôi mang xuống cho anh chị cả của tôi. nhà đông con, lương trung sỉ Bảo An Đoàn. Phải chăng đó cũng là cách nổi loạn của tôi?

Thật ra, những điều suy nghĩ của Dương Văn Ba chỉ là những suy nghĩ thuần túy sách vở, ngoài luồng và chỉ là sự nhái lại cái không khí thời thượng của thời thập niên 1945 bên Pháp?

Tôi thú thật nhiều khi ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường, tôi chán thứ chủ nghĩa hiện sinh đã mối mọt.

Tôi thích tìm về các tư tưởng đạo học trong triết học Đông Phương như của Lão Tử.

Việc học Triết nhiều khi là một công việc lao dịch, khổ sở, vất vả, kiên trì và tốn kém thời giờ. Không dễ dàng gì để hiểu hết. Nào những Apologie de Socrate trước tòa (biện luận của Socrate trước tòa án), Nào học thuyết lý tưởng của Platon, rồi sau đó tiếp đến các hệ thống của Descartes, rồi Kant và Hégel. Tiếp đến triết học kinh viện với thánh Thomas.

Học là để quên.

Ngay cả triết học Hiện Đại với Martin Heidegger đầy thi ca và thi vị mà tôi thích thú một thời rồi cũng trở thành những tư tưởng cứng đọng.

Triết học không phải là môn học mà không phải bất cứ ai cũng có thể bước vào ngưỡng cửa của ngôi trường Platon.

Triết học dạy tại trường Đại học Đà Lạt là có mục đích để đào tạo một số thầy giáo có thể chuyển tải một số kiến thức cơ bản về Triết như một thứ nhập môn triết học cho học sinh chứ không phải để đào tạo những triết gia hay nhà tư tưởng.

Những cao vọng và ước mơ của một số sinh viên ngay từ khi bước vào đại học đã tự cho mình một cái vai trò mà thực sự họ không xứng tầm! Nếu sau này họ có thể tiếp tục con đường ấy thì thật sự họ vẫn có đủ cơ hội để đi tiếp con đường mà đại học Đà Lạt chỉ là viên gạch lót đường.

Ngã rẽ thứ nhất của Dương Văn Ba: gia nhập nhóm Liên Trường

Câu hỏi đặt ra là có thể nào suốt đời Dương Văn Ba sẽ cặm cụi làm một thày giáo Triết không ? Câu trả lời của tôi nghĩ là không. Với cá tính con người ấy, với tham vọng và sự thông minh ấy, nó sẽ vùng dạy khi thời cơ đến. Đúng vậy, trong chương 5: Làm chính trị vào Quốc Hội. Dương Văn Ba đã viết:

“Chúng ta ngụp lặn trong dòng chảy cuộc sống không phải như cánh bèo. ‘Bèo dạt hoa trôi’. Mỗi người như con cá trong dại dương. Cá kình hay cá chép là do trong cọ xát của dòng chảy, mỗi người đã vận động như thế nào, đến mức nào, với những ai.

Dòng chảy trong cuộc đời thầy giáo của tôi sớm gặp nhiều khúc quanh.”(12)

Lý Chánh Trung là người gốc gác ở miền Nam nên đã cùng với Võ Long Triều tổ chức một buổi họp mặt vào năm 1965. Trong buổi họp mặt này dĩ nhiên là những quan hệ quen biết đều là cánh miền Nam cả. Từ một khởi đầu mang tính dịa phương, tính miền và tham vọng đóng góp vào sự phát triển và thăng tiến cho miền Nam. Và một lúc nào đó, nó biến thành mộ tham vọng và một lực lượng chính trị.

Trong số những người có mặt hôm ấy có ba anh em giáo sư là: Trần Bá Phẩm, Lâm Văn Bé và Dương Văn Ba. Thật ra còn có cả Bành Ngọc Quý (Triết khóa 3), giáo sư Nguyễn Văn Trường, giáo sư Lê Thanh Liêm, Cao Thắng, kỹ sư Lê Văn Danh, đại học Bách Khoa và ký giả thể thao Lý Quý Chung.

Sau này Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, Bành Ngọc Quý. Cả bốn người sau đó đều tham gia sinh hoạt chính trị khởi đầu bằng cách ra một tờ báo ở Mỹ Tho với sự tham dự của một số giáo sư như Lê Thanh Liêm, Phan Công Minh, Trần Bá Phẩm, Nguyễn Ngọc Thạch, Nguyễn Hữu Cầu, Võ Văn Điểm. Báo Tiếng gọi miền Tây, theo Hồ Ngọc Nhuận sau đó phải tự đóng cửa vì những bài viết đặc sệt mùi kỳ thị Nam Bắc của bác sĩ Trần Văn Tải, chủ nhiệm báo. Nhưng theo Dương Văn Ba thì báo Tiếng Gọi Miền Tây xuất bản được 8 tháng với 30 số báo thì bị Nguyễn Cao Kỳ rút giấy phép. Cho đến nay thì tôi không có chút xíu tài liệu nào về tờ báo này.

Từ chỗ nghỉ làm báo, họ xoay ra làm chính trị.

Thứ chính trị khuynh đảo, một thứ chính trị thời thượng được nhiều người trân trọng. Họ đều nộp đơn ứng cử dân biểu Quốc Hội. Và cả bốn đều đắc cử do sự tài trợ tiền bạc của ông Võ Long Triều và bà vợ ông Triều là bà Tô Thị Viễn, học ở Anh Quốc về, hiệu trưởng trường London School.

Nhiều yếu tố đã giúp họ thành công trong việc đắc cử vào Hạ Nghị Viện như yếu tố miền, yếu tố tôn giáo, sự ủng hộ của phụ huynh học sinh và ngay cả sự ủng hộ ngầm của cộng sản. Tiền thì không có, nhưng đã có tổ chức cung ứng đầy đủ. Từ chỗ đó họ trở thành một lực lượng, một phong trào!

Tôi có nhận xét rất sát thực là một trong những câu ý nghĩa nhất, nó gói ghém trọn vẹn ý đồ của nhóm Liên Trường nằm trong câu phát biểu của Võ Long Triều như sau:

“Đã tới lúc anh em mình nên hợp tác lại làm một cái gì đó có lợi cho dân miền Nam. Không thể để cho nhóm Nguyễn Cao Kỳ muốn làm gì thì làm trên phần đất quê hương của chúng ta”(13).

Nguyễn Cao Kỳ đinh ninh là mua chuộc được phe cánh miền Nam, đặc biệt giới trí thức khoa bảng Nam Kỳ, qua trung gian Võ Long Triều để cân bằng lực lượng với Nguyễn văn Thiệu.

Lá bài của Nguyễn Cao Kỳ đã hoàn toàn thất bại nếu không nói là ông đã trở thành con cờ cho phái Liên Trường xoay sở ông. Câu phát biểu của Võ Long Triều, nếu đúng như ở trên, cho thấy ông Triều chơi lá bài hai mặt: Đi với Nguyễn Cao Kỳ để lợi dụng và đồng thời hạ bớt tay chân của Nguyễn Cao Kỳ.

Nhờ những sự vận động ấy, qua trung gian Võ Long Triều-Nguyễn Cao Kỳ. Nguyễn Văn Thiệu đã ký sắc lệnh thành lập đại học Cần Thơ và bổ nhiệm giáo sư Phạm Hoàng Hộ làm Viện Trưởng đầu tiên.

Đây là một điều đáng mừng và hãnh diện cho các tỉnh phía Nam. Cũng như sau này mở thêm cái đại học Cao Đài, Đại học Hòa Hảo mà phẩm chất giáo dục đáng nghi ngại, chỉ là sự vá víu vay mượn giáo sư ở Sài Gòn.

Nhưng đây cũng là một bước tiến thêm nữa về mặt ảnh hưởng chính trị cho Dương Văn Ba và Lâm Văn Bé theo cái kiểu rượu gọi thêm rượu, một công đôi ba việc. Sau này, ông Lâm Văn Bé trở thành Khu trưởng Khu giáo dục miền Tây kiêm nhiệm thêm chức Tổng Thư Ký Viện đại Học Cần Thơ. Cũng phải nói thêm là theo lời Dương Văn Ba, qua quen biết với bà chị của vợ ông Nguyễn Văn Thiệu là bà chị Năm Jacqueline nên Dương Văn Ba và Lâm Văn Bé thường ghé nhà bà Năm ăn nhậu. Và đến cuối tuần, Trung tướng, chủ tịch Ủy Ban lãnh đạo Quốc gia về thăm nhà bên vợ, đánh cách tê hoặc đánh xì phé với các anh em bạn rể, trong đó có cả Lâm Văn Bé và Dương Văn Ba. Dương Văn Ba viết: Tôi thường đến chơi nên lần lần mặc nhiên được các bà chị của phu nhân trung tướng Thiệu xem như người thân.(14)

Có một nhận xét mà tôi thấy cần đưa ra ở đây là, ngoại trừ hồi ký của Dương văn Ba, trong các Hồi Ký Võ Long Triều cũng như trong cuốn Đời của Hồ Ngọc Nhuận, Hồi Ký Không Tên của Lý Quý Chung, nhất là Lý Chánh Trung, tôi không thấy họ nhắc đến hai chữ Liên Trường. Không hề đả động đến các buổi họp mặt, các sinh hoạt ra báo, các vận động của Liên Trường, v.v. Xem ra đó là trò ném đá dấu tay.

Người húy kỵ và né tránh vấn đề này nhất lại chính là Lý Chánh Trung. Nó không có một chữ nào trong các bài viết của ông. Nhưng người phát động phong trào ấy cũng chính lại là ông.

Họ có nói tới một số vấn đề vận động Viện Đại Học Cần Thơ. Nhưng như không nhắc tới Nhóm Liên Trường. Lý Chánh Trung cũng vậy mà tất cả những thành viên khác như Lâm Phi Điểu, Lâm Văn Bé, cũng như Bành Ngọc Qúy, Lê Thanh Liêm đều tránh né, im lặng, v.v.

Nếu Dương Văn Ba không bộc lộ rõ ra trong Hồi Ký, chắc câu chuyện Liên Trường sẽ không được ai biết tới nữa!

Xem tiếp phần 2, 3


 

Tàu cá Việt Nam bị Trung Quốc tấn công ở Biển Đông, 10 ngư dân bị thương

Ba’o Dat Viet

October 1, 2024

Vào ngày 29/9, một tàu cá Việt Nam đã bị tấn công khi đang hoạt động tại vùng biển gần quần đảo Hoàng Sa, khu vực tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc. Sự việc khiến 10 ngư dân trên tàu bị thương, trong đó có ba người bị gãy tay chân và bảy người khác gặp phải những chấn thương khác, theo thông tin từ tờ Tiền Phong và các viên chức địa phương ở xã Bình Châu, tỉnh Quảng Ngãi. Hiện tại, vẫn chưa rõ tàu nào đã tấn công tàu cá Việt Nam, và lực lượng biên phòng Việt Nam đang tiến hành điều tra vụ việc.

Quần đảo Hoàng Sa, nằm cách bờ biển Việt Nam khoảng 400 km và cách tỉnh Hải Nam của Trung Quốc khoảng cùng khoảng cách, là điểm nóng tranh chấp chủ quyền giữa hai nước. Cả Trung Quốc và Việt Nam đều tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo này, khiến khu vực thường xuyên xảy ra các xung đột và va chạm trên biển, đặc biệt giữa các tàu cá Việt Nam và các tàu tuần tra của Trung Quốc.

Biển Đông, nơi Hoàng Sa tọa lạc, có vị trí chiến lược quan trọng với nhiều tuyến đường thủy thương mại quan trọng, ước tính khoảng 5 nghìn tỷ USD hàng hóa toàn cầu đi qua hàng năm. Đây cũng là vùng biển giàu tài nguyên thiên nhiên, với trữ lượng khí đốt và dầu mỏ khổng lồ. Trung Quốc, với yêu sách chủ quyền bao trùm hầu hết khu vực này, đã liên tục tăng cường các hoạt động kiểm soát, trong đó có việc xây dựng cơ sở hạ tầng quân sự trên các đảo tranh chấp.

Trong khi đó, Hoa Kỳ không có yêu sách chủ quyền tại Biển Đông nhưng thường xuyên tiến hành các cuộc tuần tra tự do hàng hải, thách thức yêu sách chủ quyền “quá mức” của Trung Quốc. Năm ngoái, Mỹ đã điều tàu khu trục đi qua khu vực Hoàng Sa, khiến Trung Quốc phản ứng mạnh mẽ, đe dọa sẽ có “hậu quả nghiêm trọng”.

Sự kiện tàu cá Việt Nam bị tấn công lần này chỉ là một trong nhiều sự cố đã xảy ra tại khu vực tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc. Trung Quốc đã kiểm soát thực tế quần đảo Hoàng Sa từ năm 1974, sau khi chiếm quần đảo này từ tay Việt Nam Cộng hòa trong một trận hải chiến ngắn. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã không ngừng xây dựng các công trình quân sự tại đây, bao gồm đường băng, bến cảng và các cơ sở radar, dù Bắc Kinh luôn khẳng định rằng mục đích của họ chỉ nhằm đảm bảo an toàn hàng hải.

Vụ tấn công mới này càng làm tăng thêm căng thẳng giữa các quốc gia tranh chấp ở Biển Đông, đồng thời khiến tình hình an ninh hàng hải tại khu vực này trở nên phức tạp hơn. Kết quả điều tra của Việt Nam về vụ việc có thể sẽ làm rõ thêm về tác nhân và bối cảnh dẫn đến cuộc tấn công này.


 

Người Việt vô địch về cúng tổ tiên xây mộ tiền tỷ

Người Việt vô địch về cúng tổ tiên xây mộ tiền tỷ

Đối với Luke Digweed, một chàng trai từ thị trấn Andover, Anh quốc, tập tục cúng giỗ ở Việt Nam để lại cho anh nhiều ấn tượng thú vị.

Digweed hiện là sinh viên cao học tại Trường Kinh tế và Khoa học Chính trị London (LSE), đồng thời là cây viết về xã hội, nhân chủng và du lịch cho trang web Vietnam Coracle.

Anh đã sinh sống tại Việt Nam từ năm 2011 tới nay và sống ở Huế trong khoảng thời gian 2016 – 2022. Digweed sẽ quay về Anh vào tháng 9/2024.

Thừa Thiên-Huế là nơi có nhiều khu nghĩa trang hoành tráng, như tại làng An Bằng tại huyện Phú Vang, cách trung tâm thành phố Huế khoảng 30 km – nơi thu hút du khách trong nước lẫn quốc tế bởi những ngôi mộ có họa tiết tinh xảo, cầu kỳ, được khảm sành sứ như các kiến trúc cung đình.

Nhiều người lần đầu đến đây cứ ngỡ như đang đi thăm khu lăng mộ dành cho vua chúa, chứ không hề nghĩ rằng đó chỉ là những nơi an nghỉ của thường dân.

Khu nghĩa trang này được mệnh danh là “thành phố ma” hay “thành phố của người chết”.

Theo Sở Du lịch Thừa Thiên-Huế, nhiều ngôi mộ tại đây có kinh phí xây dựng từ vài trăm triệu đến vài tỷ đồng. Năm 2013, VnExpress cho biết có những ngôi mộ tại khu nghĩa trang này được xây với kinh phí lên tới 10 tỷ đồng.

Để so sánh, giá chung cư TP HCM theo số liệu mà công ty bất động sản CBRE công bố vào tháng 7/2024 là 2.800 USD/m2, tức khoảng 71 triệu đồng.

Như vậy, với 10 tỷ VND, người dân có thể mua được hai căn hộ 70 m2 ở TP HCM hiện nay.

Hàng đầu khu vực

Trong báo cáo được xuất bản vào đầu tháng 7/2024 của Trung tâm Nghiên cứu Pew (Mỹ), Việt Nam đứng hàng đầu trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á ở các chỉ số liên quan đến việc thờ phượng ông bà, tổ tiên.

Khảo sát được Pew tiến hành trong năm 2022 và 2023.

Trong số những người được khảo sát, 85% người Nhật Bản và 84% người Việt Nam cho biết họ có khu mộ dành cho gia đình, dòng họ. Đây cũng là hai nước đứng đầu bảng xếp hạng này.

Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa hai quốc gia. Trong khi người Nhật vừa hỏa táng vừa chôn cất người đã khuất thì khảo sát cho thấy hầu hết người Việt Nam chọn cách chôn cất và chỉ số ít chọn phương pháp hỏa táng.

Phần lớn người được khảo sát trả lời chính họ hoặc các thành viên khác trong gia đình sẽ chăm lo những ngôi mộ này thay vì trả tiền cho bên nào khác.

Trong số các tập tục, nghi lễ thờ phượng tổ tiên ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á, khảo sát của Pew cho thấy việc cúng đồ mã, những thứ mà người dân nghĩ ông bà mình sẽ dùng tới ở thế giới bên kia, ít được thực hiện nhất .

Tuy nhiên, điều này lại phổ biến ở Việt Nam và Đài Loan. Có tới 73% người Việt được khảo sát cho biết họ có đốt đồ vàng mã, đứng đầu bảng xếp hạng.

Không chỉ các loại vàng mã theo phong cách truyền thống như thỏi vàng, áo binh, nhiều gia đình Việt Nam đã chọn đốt những món đồ mã với thiết kế hiện đại như nhà lầu, xe hơi đời mới, các mẫu iPhone vừa trình làng.

Theo một số cách giải thích, người Việt có quan niệm “trần sao âm vậy”, nên nhiều người cúng đốt linh đình để người âm “không thiếu thốn” và phù hộ cho họ những điều họ mong muốn.

Nhiều trường hợp đặt làm đồ mã xe máy phân khối lớn và xe hơi với kích thước thật có giá lên tới hàng triệu đồng.

Bảo Trâm, một nhân viên văn phòng ở Quảng Bình: “Tôi cũng không rõ tập tục này bắt nguồn từ đâu. Xưa nay tôi thấy nhà mình làm như thế nào thì mình làm theo thế đấy. Tôi cũng có tâm lý muốn cho ông bà mình được hưởng ở thế giới bên kia và mong ông bà phù hộ để mình thành đạt.”

Trâm nói thêm mình vẫn mua các loại đồ mã phong cách truyền thống.

Giải thích về giá trị văn hóa của đồ mã, Tiến sĩ Trần Đình Hằng, Phân Viện Trưởng, Phân Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam tại Huế, bình luận News Tiếng Việt vào tháng 8/2023: “Từ khát vọng tương sinh Trời – Đất, nhân loại đã có tín ngưỡng phồn thực để tiếp thu ánh mặt trời, với nghi lễ hiến sinh, nhờ chất xúc tác làm tối ưu hóa sự thông linh đó là máu quý giá từ Đồng loại (hài nhi, trinh nữ, tù binh), rồi Động vật (voi – trâu – dê – gà), đến Đồ vật (hàng mã).”

Theo ông, vàng mã mang tính biểu tượng, thể hiện qua hình ảnh trong bộ tranh cúng hoặc các vật phẩm thu nhỏ mô phỏng thế giới nhân sinh. Việc đốt vàng mã hay thả xuống nước tượng trưng cho phương thức “hóa” (đốt) và “thủy” (thả xuống nước) để người dương chia sẻ với người âm, thể hiện niềm tin rằng tấm lòng thành kính của họ đã được người âm tiếp nhận.

Tiến sĩ Trần Đình Hằng nói rằng từ thời Lê – Nguyễn, vàng mã đã được triều đình và dân gian công nhận, trở thành vật dụng quan trọng phục vụ nhu cầu tín ngưỡng tâm linh. Ngành thủ công làm vàng mã cũng phát triển mạnh mẽ, hình thành nên những làng nghề truyền thống độc đáo như làng tranh cúng Sình (Lại Ân), làng hoa giấy Thanh Tiên (trang thờ Bà, Bếp), hay hàng mã Bao Vinh, An Cựu (Huế)…

Tùy theo nhu cầu của người sử dụng, tài năng và cảm xúc của người thợ, sản phẩm vàng mã được làm ra vô cùng đa dạng, từ đơn giản mộc mạc đến tinh tế cầu kỳ, mang giá trị nghệ thuật và tâm linh sâu sắc, theo tiến sĩ.

Theo khảo sát của Pew, những người theo Kitô giáo nhìn chung ít đốt vàng mã. Tuy nhiên, nhiều Kitô hữu Việt Nam đã đốt nhang, dâng hoa hoặc thắp nến để chăm sóc tổ tiên trong năm qua.

Quỳnh Giang, một cư dân ở quận 7, TP HCM, chia sẻ: “Trước kia tôi theo đạo Phật thì đốt vàng mã nhiều. Ngày giỗ, tôi còn đốt cho cha mình bộ com lê hàng mã. Nhưng từ khi cưới chồng và cải đạo sang Kitô giáo, vào ngày giỗ cha, tôi chỉ tới nhà thờ và cầu nguyện, sau đó về nhà, thắp nến và nhang, đặt một nhành hoa trước di ảnh cha là xong. Tôi cũng không bày mâm cúng hay mua trái cây gì cả.”

Ngoài việc xếp đầu trong số các nước, khu vực được Pew khảo sát về việc cúng đồ mã, Việt Nam còn đứng đầu trong việc đốt nhang; cúng đồ ăn thức uống; cúng hoa và thắp nến.

Những ngôi mộ hàng tỷ đồng

Người này yêu cầu giấu tên vì độ nhạy cảm của câu chuyện và kể: “Người dân An Bằng trước kia sống bằng nghề chài lưới. Sau khi chiến tranh kết thúc, đời sống trở thiếu thốn, nghèo đói, có lúc phải luộc xương rồng chấm muối để ăn. Lúc đó mùa đánh cá cũng liên tục thất bát và họ thì không có ruộng đồng để canh tác.

“Đến khoảng năm 1977, nhiều người chỉ còn hai lựa chọn: phải đi hoặc ở lại và chịu chết. Họ đã chọn cách vượt biên. Và như những thuyền nhân khác, nhiều người trong số họ đã bỏ mạng dưới đại dương.

“Đa số những người may mắn thì đến được Mỹ và Úc. Họ tiếp tục nghề đánh cá với các tàu nước ngoài và kiếm được nhiều tiền. Họ nghĩ mình sống sót và trúng mánh là phúc phận lớn, là nhờ có ông bà, tổ tiên phù hộ. Thế nên họ gửi tiền về quê nhà để xây lăng tẩm.”

“Dần dần cũng hình thành hiện tượng ‘con gà tức nhau tiếng gáy’ ở trong làng. Khi một gia đình xây một ngôi mộ hoành tráng, các nhà khác có xu hướng tân trang mộ ông bà mình để trông bề thế hơn, thậm chí có trường hợp đập đi xây mới hoàn toàn dù đã bỏ hàng trăm triệu đồng xây ngôi mộ trước đó.”

Người này cho biết dù lăng mộ của ông bà, tổ tiên tốn nhiều tiền là thế, những người dân ở đây vẫn sống trong các căn nhà bình thường, vừa đủ tiện nghi chứ không phải các biệt phủ xa hoa, lộng lẫy.

“Phần lớn người nhà của những lăng mộ này ở An Bằng không làm nghề gì cả. Họ được bà con bên nước ngoài gửi tiền về nuôi và chăm lo mộ phần tổ tiên.

“Có người đang còn sống nhưng đã xây trước lăng mộ cho mình. Cũng tốn vài tỷ đồng.”

“Khi so sánh nền văn hóa quê hương của tôi với cách nhìn về cái chết ở Việt Nam, tôi cảm thấy rằng Việt Nam dường như thể hiện một cách tốt hơn để tưởng nhớ và thương tiếc những người thân đã khuất,” Digweed cho biết.

From: Tu Phung

https://baomai.blogspot.com/2012/05/nghia-ia-giau-co-bac-nhat-vn.html

Trần Huỳnh Duy Thức-Tác Giả: Hồ Phú Bông

Ba’o Nguoi-Viet

Tác Giả: Hồ Phú Bông

26/09/2024

Trần Huỳnh Duy Thức ngày đầu từ nhà tù nhỏ ra nhà tù lớn. Ảnh FB Chieu Anh Nguyen

Người bất đồng chính kiến với đảng cộng sản Việt Nam đều vui khi ông Trần Huỳnh Duy Thức bị đặc xá cưỡng bức trở về gia đình sau 15 năm 4 tháng trong ngục thất của bản án phi pháp 16 năm. Điều đáng nói là suốt trong thời gian tù ông Thức vẫn tranh đấu không ngừng vì ông hoàn toàn vô tội. Không những thế ông còn tranh đấu chống chế độ giam giữ khắc nghiệt đối với tù nhân. Vì thế hình ảnh tù nhân Trần Huỳnh Duy Thức cũng là hình ảnh tù nhân nổi tiếng Nelson Mandela của Nam Phi.

Trong LỜI CHÀO ĐẦU TIÊN gửi đến công luận, ông Thức kể:

Duy có một điều khá khôi hài mà tôi muốn kể ngay với quý bạn lúc này. Đó là việc tôi bị ĐẶC XÁ CƯỠNG BỨC, một chuyện có thể nói là vô tiền khoáng hậu ở đất nước này.

Ngày 19/9/2024, đại diện của Trại giam số 6, thừa lệnh Bộ Công an, thông báo với tôi rằng, Chủ tịch nước muốn đặc xá cho tôi trước thời hạn và yêu cầu tôi làm đơn xin đặc xá.

Tất nhiên, ngay lập tức tôi từ chối nhận đặc xá, và không ký vào đơn từ nào cả. Lý do là vì tôi phải được trả tự do theo đúng quy định mới của Bộ luật Hình sự hiện hành về hành vi mà tôi bị cáo buộc vi phạm, chứ tôi không cần ra tù nhờ sự đặc xá đó.

Vậy mà vào lúc 17g45 ngày 20/9/2024, hơn 20 người của Trại giam số 6 đã xông vào buồng giam đọc thông báo, rằng Chủ tịch nước đã ký Quyết định đặc xá số 940 ngày 20/9/2024 về việc “đặc xá” cho tôi. Vì vậy, tôi trở thành người tự do và không có quyền tiếp tục ở lại trại giam. Tôi phản ứng ngay rằng, tôi không có tội cũng như lý do gì để nhận đặc xá và sẽ không đi đâu cả.

Thế là họ cưỡng bức, khiêng tôi ra khỏi cổng nhà tù trước sự phản đối của các anh em tù chính trị ở đó, rồi đưa tôi lên xe ra sân bay Vinh. Cuối cùng tôi bị buộc phải lên máy bay trong chuyến muộn vào Sài Gòn.” (hết trích)

Đúng là chuyện khôi hài khi công an cho biết Chủ tịch nước đã ký quyết định đặc xá nên tù nhân Trần Huỳnh Duy Thức không có quyền tiếp tục ở lại nhà tù. Nói cách khác, bằng mọi giá họ phải trục xuất ông. Và họ dùng đến 20 công an cưỡng bức khiêng ông ra, áp tải đến tận sân bay Vinh!

Khi thời thế đổi thay mọi người sẽ có dịp được xem đoạn video clip lý thú ghi lại sự kiện này. Và từ điển tiếng Việt từ nay có thêm chữ “đặc xá cưỡng bức”.

Công luận xác nhận ông Trần Huỳnh Duy Thức là một nhân tài, không những về tri thức thời đại tin học mà còn về tầm nhìn chính trị ông viết trong Con Đường Việt Nam, nên ảnh hưởng của ông rất lớn với công luận. Chính vì thế ông Tô Lâm mới đặc xá ông và thêm bà Hoàng Thị Minh Hồng, người bảo vệ môi trường từng được Tổng thống Obama chụp hình chung, để tìm cách rửa bớt bộ mặt lem luốc của chế độ và của cá nhân ông khi còn giữ chức bộ trưởng công an, về Nhân quyền.

Nhưng chuyện ông Tô Lâm trực tiếp chỉ huy tổ chức bắt cóc quốc tế Trịnh Xuân Thanh tại Đức vẫn còn đó. Chuyện “công an vì nhân dân quên mình” mà ông há miệng đớp miếng thịt bò dát vàng khoảng 1200 USD của “Thánh rắc muối” Salt Bae ở nước Anh, vẫn đầy trên internet. Hóa đơn bữa tiệc đó giá 37.023 bảng Anh (49.000 USD)

Còn quốc nội thì có hơn trăm nghi can bị giết ngay tại đồn khi vừa bị bắt mà theo tường trình, người thì tự tử “vì ân hận”, người thì dùng lưỡi dao cắt giấy tự cắt cổ, người thì dùng dây điện thoại để bàn… Vụ nổi tiếng là dùng 3.000 công an giữa khuya tấn công vào xã Đồng Tâm, giết rồi mổ bụng đảng viên già Lê Đình Kình vì cụ quyết giữ đất đồng Sênh.

Với các phong trào tranh đấu như công nhân biểu tình, chống Formosa đầu độc môi trường, chống luật an ninh mạng và dự luật đất đai… đều ôn hòa vì đó là quyền sống, quyền tự do dân chủ nhưng bị công an đàn áp dã man. Người chết, người bị đánh đến tật nguyền như trường hợp nhà báo Phạm Đoan Trang và cụ thể đang có 160 tù nhân lương tâm.

Sơ lược về “thành quả” của bộ trưởng công an Tô Lâm như thế thì bộ mặt của tân đảng trưởng cộng sản Việt Nam và chủ tịch nước của ông liệu có sớm rửa sạch được hay không?

Nhưng, bản chất khôn vặt cộng sản, đặc xá ông Trần Huỳnh Duy Thức và cho bà Hoàng Thị Minh Hồng ra tù sớm cũng chỉ là món quà “miếng trầu đầu câu chuyện” khi ông gặp Tổng thống Biden bên lề Đại hội đồng Liên hiệp quốc ở New York.

Mọi người đều biết và hiểu sự kiện vì không phải mới xảy ra lần đầu.

Vấn đề là ông Trần Huỳnh Duy Thức ra tù và quyết tâm tiếp tục tranh đấu.

Công an hành hạ nhưng không dám ám hại ông trong tù. Trái lại, rất lo sợ ông chết vì bệnh. Vì nếu xảy ra thì chế độ có nguy cơ lớn. Nhưng khi đã ra tù thì mọi “tai biến” đều có thể. Con Đường Việt Nam mà trở thành đảng, thành phong trào lớn mạnh thì “tai biến” càng dễ xảy ra. Vì bản chất cộng sản là man trá, ám muội.

Như Nga, dù đang có chế độ tổng thống, nhưng Putin, từng là trùm KGB, vẫn tổ chức ám sát đối thủ chính trị gần như công khai. Không những thế, ám sát khi họ đã thoát ra nước ngoài.

Tại Việt Nam thì những cái chết bí ẩn tầm cỡ như Chủ tịch nước Trần Đại Quang từng là bộ trưởng công an, Phạm Quý Ngọ, Thượng tướng công an, Nguyễn Bá Thanh mới nhận chức Trưởng ban nội chính, đặc biệt là Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, một tên tuổi nguy hiểm về gián điệp cung đình… Tất cả họ đều chết vì “bệnh hiểm nghèo” mà y học bó tay! Tại sao? Và do bàn tay của ai?

Rất khó xác định nhưng phải nằm trong ba nhóm: Đặc tình Tàu cộng, phe Công an và phe Quân đội. Tùy từng trường hợp họ phải thanh toán nhau để bảo vệ quyền và lợi ích riêng của phe mình. Riêng bọn đặc tình Tàu cộng thì chắc chắn đang có mặt ở mọi cấp, mọi nơi để kiềm giữ Việt Nam không thể thoát khỏi lá bùa “4 tốt và 16 chữ” (vàng!) của Bắc Kinh.

Những nhân vật tầm cỡ của chế độ được bảo vệ an ninh tối đa mà vướng “bệnh” như thế thì liệu ai có thể bảo vệ ông Trần Huỳnh Duy Thức và mấy người cùng nhóm?

Ông Nelson Mandela, sau khi ra tù, dù gì cũng được pháp luật dân chủ bảo vệ nên trở thành tổng thống. Còn ông Trần Huỳnh Duy Thức, dù chỉ mong Việt Nam sớm thoát khỏi đại nạn độc tài cộng sản để dân tộc sớm theo kịp đà văn minh của nhân loại, liệu có thoát được ba nhóm đặc tình chỉ vì quyền và lợi ích riêng của chúng?

Xin chấp tay cầu nguyện. Vì sự thật không ai có thể bảo vệ được ông Trần Huỳnh Duy Thức giữa hỗn mang chính trị hiện tại ở Việt Nam.

(25/9/2024)


 

Việt Nam tuyên án 8 năm tù đối với người kêu gọi từ bỏ học thuyết Marx-Lenin

Ba’o Dat Viet

September 27, 2024

Một tòa án ở tỉnh Lâm Đồng vừa tuyên án 8 năm tù đối với một người đàn ông bị khép vào tội “tuyên truyền chống nhà nước”, do ông ấy đăng bài trên Facebook kêu gọi chính quyền Việt Nam từ bỏ học thuyết Marx-Lenin mà đảng cộng sản cầm quyền theo đuổi hơn 90 năm qua.

Tại phiên tòa sơ thẩm hôm 24/9, hội đồng xét xử tuyên phạt án tù trên đối với ông Hoàng Việt Khánh, 41 tuổi, cáo buộc ông tạo, đăng 126 bài viết và một video clip trên Facebook chỉ trích các chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và nhà nước về chính trị, kinh tế và xã hội, các báo mạng nhà nước đưa tin.

“Ông cũng xuyên tạc lịch sử dân tộc, phỉ báng và lăng mạ các nhà lãnh đạo, vu khống các quan chức cấp cao của Đảng, cũng như phát tán thông tin sai sự thật”, báo chí trong nước dẫn cáo trạng tường thuật.

Với tài khoản trên Facebook mang tên Hoàng Dũng, từ tháng 6/2018 đến tháng 9/2023, ông Khánh bị cho là đã “tham gia các hội nhóm kín, kêu gọi từ bỏ học thuyết Marx-Lenin, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam”, trang ANTV của Bộ Công an đưa tin.

Tài khoản Facebook của ông Khánh, người bị bắt hồi 2/2024, thu hút hơn 45.000 người đăng ký và theo dõi, cáo trạng cho biết.

Chủ nghĩa Marx-Lenin được Liên Xô áp dụng để diễn dịch và xây dựng chủ nghĩa xã hội từ đầu những năm 1920, tiếp đến được thực thi ở các nước Đông Âu và sau đó lan sang các nước như Cuba, Venezuela, Trung Quốc, Triều Tiên, và Việt Nam.

Dù học thuyết này bị một số quốc gia phương tây chỉ trích là mô hình để các nhà lãnh đạo cộng sản thể hiện tính độc tài, chuyên quyền, và toàn trị, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn theo đuổi nó từ lúc thành lập vào năm 1930 đến nay.

Chính quyền Việt Nam do Đảng Cộng sản cai trị thường bác bỏ các cáo buộc vi phạm nhân quyền và không dung thứ những tiếng nói chỉ trích đảng cầm quyền hay các nhà lãnh đạo của đảng.

Hồi đầu tháng này, một tòa án ở Hà Nội tuyên phạt ông Hoàng Tùng Thiện 6 năm tù sau khi ông lập các trang web bị xem là nhằm “tuyên truyền đa nguyên, đa đảng” và có ý định sáng lập đảng Lạc Hồng để cạnh tranh với Đảng Cộng sản Việt Nam.

Cũng như ông Khánh, ông Thiện bị án tù với tội danh “tuyên truyền chống nhà nước” theo quy định tại Điều 117 của Bộ luật Hình sự 2015.

Nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế, các quốc gia phương tây và cả các báo viên đặc biệt của Liên Hiệp Quốc nhiều lần khuyến nghị chính quyền Việt Nam bãi bỏ điều luật này, cùng với các điều luật khác của Việt Nam về an ninh quốc gia, cho rằng chúng được sử dụng rộng rãi để hạn chế quyền tự do ngôn luận của người dân.

Tuy nhiên, chính quyền Việt Nam bác bỏ khuyến nghị này, biện hộ rằng chúng được xây dựng “hoàn toàn hợp hiến” và phù hợp với các công ước quốc tế về nhân quyền.

(Theo VOA)


 

Tô Lâm trong vòng vây các phe phái đòi chia sẻ quyền lực- Bình Thiên/SGN

Ba’o Nguoi-Viet

September 25, 2024

Bình Thiên/SGN

Bước vào hội nghị Trung Ương 10, Tổng Bí Thư Tô Lâm đang đứng trước một thử thách lớn: duy trì sự ổn định và kiểm soát quyền lực trong bối cảnh các phe phái đối thủ đang tìm cách củng cố ảnh hưởng. Kết quả của cuộc đấu tranh quyền lực này sẽ quyết định tương lai chính trị của ông Tô Lâm và định hình cục diện chính trị Việt Nam trong những năm tới.

Tháng Chín năm nay mang theo hai sự kiện quan trọng có ý nghĩa đặc biệt đối với chính trường Việt Nam: hội nghị Trung Ương 10 và chuyến thăm Hoa Kỳ của Tổng Bí Thư, kiêm Chủ Tịch Nước Tô Lâm. Trước đó, ông Tô Lâm đã tập trung quyền lực đáng kể khi nắm giữ cả hai chức vụ quan trọng nhất của Đảng và Nhà nước sau hội nghị Trung Ương 9 thông qua các phiên họp bất thường.

Với việc ông Tô Lâm sẽ phải thôi kiêm nhiệm chức vụ chủ tịch nước, hội nghị Trung Ương lần này có nhiệm vụ quan trọng là quyết định các vấn đề nhân sự cấp cao, trong đó có việc lựa chọn người kế nhiệm tại vị trí này. Động thái này được cho là nhằm tạo sự đồng thuận và thống nhất trong Đảng trước chuyến thăm Mỹ quan trọng của ông Tô Lâm, nơi ông sẽ tham dự Đại hội đồng Liên Hợp Quốc và có thể có các cuộc gặp gỡ cấp cao khác.

Kết thúc hội nghị Trung Ương 10, dự kiến cuộc chiến giành quyền lực sẽ tiếp diễn, tạo nên vòng xoáy tranh giành quyền lực vốn đã trở thành đặc điểm của chính trường Việt Nam. Việc ông Tô Lâm nắm giữ vị trí tổng bí thư, cùng với sự thăng tiến của phe Hưng Yên, đã tạo nên những xáo trộn trong cán cân quyền lực. Sự trỗi dậy của phe Hưng Yên, với 2 ủy viên Bộ Chính Trị là ông Tô Lâm và Thượng Tướng Lương Tam Quang, đều xuất thân từ lực lượng Công an, đang là mối quan ngại của các phe phái khác.

Các phe phái chịu thiệt hại sau các kỳ đại hội, đặc biệt là phe Nghệ An và Hà Tĩnh, đang tìm kiếm cơ hội để lấy lại vị thế. Tuy nhiên, việc đối đầu với phe Hưng Yên, do ông Tô Lâm lãnh đạo, là một thách thức lớn. Ông Tô Lâm không chỉ nắm giữ chức vụ cao nhất trong Đảng mà còn kiểm soát chặt chẽ lực lượng Công An, cùng với sự hỗ trợ từ Bộ Trưởng Lương Tam Quang.

Hiện tại, ít nhất ba thế lực đang chờ thời cơ để phản công phe Hưng Yên bao gồm phe Nghệ An, Hà Tĩnh và phe Thanh Hóa của Thủ Tướng Phạm Minh Chính. Bên cạnh đó, quân đội, dù đang phân tán quyền lực với mâu thuẫn âm ỉ giữa phe Tổng Cục Chính Trị do Thượng Tướng Lương Cường đứng đầu và phe Tổng Tham Mưu Trưởng do Đại Tướng Phan Văn Giang lãnh đạo nhưng vẫn là một đối trọng tiềm tàng. Sự chia rẽ nội bộ này khiến quân đội khó có thể hình thành một mặt trận thống nhất để chống lại sự bành trướng quyền lực của ông Tô Lâm và phe Hưng Yên, đồng thời cản trở khả năng trở thành một lực lượng chính trị đủ mạnh. Việc quân đội thất thế trước công an trong thời gian qua một phần cũng xuất phát từ sự thiếu đoàn kết này.

Việc ông Tô Lâm phải nhường lại chức vụ chủ tịch nước cho phe quân đội được coi là một thắng lợi bước đầu của lực lượng này trong cuộc cạnh tranh quyền lực nội bộ. Tuy nhiên, để thực sự trở thành một thế lực chính trị đủ tầm ảnh hưởng, quân đội cần phải vượt qua nhiều thách thức, trước hết là vấn đề thống nhất nội bộ.

Sự liên kết chặt chẽ giữa các tướng lĩnh trong Bộ Chính Trị với bộ trưởng Bộ Quốc Phòng là yếu tố then chốt để tạo nên một khối quyền lực đủ mạnh, đủ sức cạnh tranh với phe Hưng Yên – nhóm đang nắm giữ lực lượng Công An hùng hậu. Nếu không thể đoàn kết nội bộ, phe quân đội sẽ khó có thể duy trì được ưu thế vừa giành được.

Bên cạnh đó, tham vọng thanh trừng phe Nghệ Tĩnh, nhằm thay thế toàn bộ hệ thống nhân sự do cố Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng để lại, cũng đang gặp trở ngại. Các nhân vật cốt cán như Trần Cẩm Tú, Phan Đình Trạc, Trần Hồng Hà vẫn giữ vững vị trí của mình. Điều này phản ánh rõ nét tình thế hạn chế quyền lực của Tổng Bí Thư Tô Lâm trong việc củng cố quyền lực.

Đối thủ tiềm tàng của ông Tô Lâm không chỉ giới hạn trong nội bộ Bộ Công An, mà còn trải rộng khắp các lĩnh vực. Từ Bộ Quốc Phòng, nơi có những tướng lĩnh có thể dè chừng trước sự lớn mạnh của lực lượng Công An và ảnh hưởng ngày càng tăng của ông Tô Lâm trong hệ thống chính trị, đến Ban Bí Thư, nơi một số ủy viên có thể lo ngại về sự tập trung quyền lực vào tay ông Tô Lâm, Chính Phủ với các thành viên có thể thuộc các phe phái chính trị khác, và ngay cả trong lòng Bộ Công An, nơi tồn tại các nhóm lợi ích và phe cánh cạnh tranh nhau.

Ông Tô Lâm đang phải đối mặt với một bài toán khó: làm thế nào để kiểm soát và xử lý những đối thủ tiềm tàng, cả trong và ngoài Bộ Công An? Mặc dù ông sở hữu kinh nghiệm chính trị dày dạn và đang kiểm soát chặt chẽ bộ máy, nhưng việc duy trì sự cân bằng quyền lực và vô hiệu hóa ảnh hưởng của các phe phái đối thủ không phải là điều dễ dàng. Đặc biệt, việc xử lý những nhân vật có liên hệ mật thiết với các phe phái khác, như trường hợp bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn, cựu chủ tịch Hội Đồng Quản Trị Công Ty AIC, sẽ là một thử thách lớn, cho thấy khả năng thực sự của ông Tô Lâm trong cuộc chiến quyền lực này.

Nếu các phe phái đối lập, như Nghệ An, Hà Tĩnh và Thanh Hóa, vượt qua được những mâu thuẫn và bất đồng, thành công liên kết với một lực lượng quân đội thống nhất và hùng mạnh, cán cân quyền lực sẽ thay đổi đáng kể. Sự kết hợp này có thể tạo nên một liên minh đủ sức đối trọng với phe Hưng Yên, đe dọa sự kiểm soát của lực lượng Công An và vị trí quyền lực của ông Tô Lâm.

Tuy nhiên, khả năng này vẫn còn bỏ ngỏ, bởi lòng tham, sự ích kỷ, tính toán cá nhân, và những mâu thuẫn lịch sử có thể ngăn cản sự hình thành một liên minh vững chắc. Mỗi phe phái đều có những toan tính riêng, và việc đặt lợi ích chung lên trên hết là một bài toán khó. Nếu không thể vượt qua được rào cản này, các phe phái đối lập sẽ tiếp tục bị chia rẽ, tạo điều kiện cho ông Tô Lâm và phe Hưng Yên củng cố quyền lực.

Gần đây, xuất hiện thông tin về một kế hoạch được cho là nhằm củng cố quyền lực và tấn công vào phe cánh của Thủ Tướng Phạm Minh Chính và quân đội, thông qua việc xử lý bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn, nhân vật nắm giữ nhiều bí mật động trời liên quan đến cả Thủ Tướng Chính và bộ trưởng Bộ Quốc Phòng Phan Văn Giang. Theo đó, phe cánh ông Tô Lâm đang ráo riết xúc tiến một kế hoạch xâm nhập vào Đức và thực hiện việc bắt cóc bà Nhàn về Việt Nam “tự thú,” tương tự trường hợp Trịnh Xuân Thanh trước đây.

Cụ thể, bộ trưởng Bộ Công An Lương Tam Quang được cho là đã có chuyến công du sang Belarus, với mục đích phối hợp với Cơ Quan Tình Báo Nga (GRU) và Cơ Quan An Ninh Liên Bang Nga (FSB) để bắt bà Nhàn. Bộ Công An Việt Nam cũng được cho là đã kích hoạt cơ sở nằm vùng tại Hungary của Cục Tình Báo (B04), đồng thời tăng cường nhân sự thâm nhập vào Đức thông qua các con đường du học, học nghề và tu nghiệp sinh.

Thời điểm tiến hành kế hoạch này được dự kiến trùng với thời gian Tổng Bí Thư, Chủ Tịch Nước Tô Lâm sang Hoa Kỳ dự kỳ họp thường niên của Đại Hội Đồng Liên Hợp Quốc.

Kế hoạch bắt cóc và đưa bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn về Việt Nam “tự thú” được xem là một canh bạc ngoại giao rất lớn của ông Tô Lâm. Hậu quả của vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh tại Đức vẫn còn đọng lại. Nếu tiếp tục tiến hành một chiến dịch tương tự nhằm vào bà Nhàn, Việt Nam có thể phải đối mặt với phản ứng quyết liệt từ Đức và các nước liên quan, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín và hình ảnh của đất nước trên trường quốc tế.

Tuy nhiên, đối với ông Tô Lâm, đây là một canh bạc mà ông buộc phải chơi. Nếu thành công, việc đưa bà Nhàn về nước sẽ là “quân bài tẩy” giúp ông giành chiến thắng trong cuộc chiến quyền lực nội bộ, củng cố quyền lực “tuyệt đối” của mình. Bà Nhàn không chỉ là một nhân vật quan trọng trong vụ án AIC, mà còn có mối liên hệ mật thiết với phe cánh của Thủ Tướng Chính và quân đội. Việc xử lý bà Nhàn sẽ là một đòn chí mạng nhằm vào đối thủ, đồng thời cảnh báo những ai có ý định chống đối ông Tô Lâm.

Giai đoạn hơn một năm trước thềm Đại Hội 14 hứa hẹn sẽ là một giai đoạn đầy biến động và kịch tính trong chính trường Việt Nam. Cuộc chiến giành quyền lực sẽ tiếp diễn với những toan tính, dàn xếp, và đấu tranh ngầm phức tạp. Kết quả của cuộc chiến này sẽ quyết định tương lai của đất nước trong những năm tới, và phụ thuộc vào sự tương quan lực lượng, khả năng liên kết, và những toan tính chiến lược của các phe phái. 


 

Có nên vạch những thói xấu của người Việt không?- Hà Sĩ Phu

Ba’o Tieng Dan

Hà Sĩ Phu

24-9-2024

Câu hỏi ấy tưởng là thừa, vì ai chẳng biết muốn một người hay một cộng đồng thay đổi để tiến lên, tất nhiên phải biết cả ưu và nhược điểm của đối tượng đó. Nhưng nói ưu điểm thì quá dễ, được hoan nghênh ngay. Quan trọng và khó khăn là vạch những nhược điểm, những thói xấu của dân tộc mình.

Cụ Phan Châu Trinh và cụ Hồ Chí Minh đều phải làm việc đó, vạch NHỮNG THÓI XẤU CỦA NGƯỜI VIỆT. (Chính ban Tuyên giáo của ĐCSVN cũng viết một bài “Giả dối – thói xấu tệ hại, người cộng sản cần loại bỏ”).

Phải nêu những dẫn chứng rất thừa như thế để nói điều rất ngạc nhiên là HSP cũng làm điều vạch thói xấu của Đảng và Dân một cách rất tế nhị, thì lại bị quy tội “Phản bội tổ quốc”, tội nặng nhất trong Luật Hình sự, với lệnh khởi tố, giam tại nhà 8 tháng và hỏi cung 400 buổi trước khi ra Tòa (xem hình chụp).

Điều vô lý ấy khiến 2000 trí thức trong và ngoài nước đã ký một kiến nghị đòi trả tự do cho tôi (http://hasiphu.com/vuanIII_31.html).

Cuối cùng vụ án ấy đã bị hủy bỏ, thay bằng nghị định 31-CP (kết tội không cần Tòa án) giam tại nhà, hàng tháng phải lên trình diện và kiểm điểm. Ngoài 1 năm tù chính thức đã qua, còn 3 lần khám nhà, tịch thu 3 máy vi tính, 3 lần đấu tố trước phường, khu phố và Tổ Dân phố, cắt 2 điện thoại bàn và 20 SIM di động.

Chuyện cũ đã qua rồi, nay tôi 84 tuổi đã được tự do, nhưng cũng xin VUI VẺ NÓI LẠI để cùng nhau rút kinh nghiệm, mong làm sáng tỏ một điều gì hữu ích chăng?

Bây giờ xin nói cụ thể một chút việc, nói “thói xấu” của người Việt thế nào mà phải trừng trị đến tội phản quốc? Năm 2000, thấy khối CS Đông Âu đã đổ, trí thức trong và ngoài nước nghĩ rằng, CSVN sẽ tiếp tục đổ theo nên thảo một Tuyên bố, gọi là “Kết ước năm 2000” để chuẩn bị cho cuộc đổi đời. Nhiều người hưởng ứng và đã ký, nhưng HSP không ký! Bạn bè hỏi “Tại sao không ký? HSP trả lời “CS Đông Âu đổ chứ CS Việt Nam còn lâu mới đổ”. Bạn bè yêu cầu tôi giải thích quan điểm của mình, nên tôi phải viết hai bức thư (nhưng nhà không có Internet nên phải nhờ bạn tôi là ông Mai Thái Lĩnh gửi đi giúp).

Bức thư hơi dài (http://hasiphu.com/vuanIII_20.html ), nhưng có thể nói gọn: Vốn là thân phận nhỏ bé nên muốn tồn tại phải chọn kiểu sống khôn vặt. Đảng cũng từ dân mà ra nên cũng mang tính cách ấy. Cuộc kết hôn giữa anh khôn vặt với chị khôn vặt tất nhiên chẳng lý tưởng gì, nhưng họ không đánh nhau và còn sống với nhau đến “bách niên giai lão”, bên nào cũng giả vờ yêu, nhưng tìm cách lợi dung và khai thác nhau, vẫn ve vãn nhau, ra chiều hạnh phúc!

Khi đã khôn vặt thì lòng tự trọng và nhân cách phải xếp xuống dưới nhu cầu tồn tại để sống còn. Nếu ngược lại là chết. Khi đã thành thói quen thì không phải do nhu cầu sinh tồn lớn lao gì mà cứ thấy lợi là ăn cắp hàng hóa ở siêu thị nước ngoài, người Việt đã nổi tiếng thế giới về tính ăn cắp nhục nhã đó.

Tính khôn vặt cũng đi đôi với sự dối trá, tạo ra một trạng thái bùng nhùng như bùn nhão, không đứng lên để có một hình thể rõ ràng. Xã hội cứ như trên con đường hẹp mà cả đoàn người cứ ấm ức đi sau một con trâu mộng có sừng nghênh ngang.

Người Nhật xưa để lòng tự trọng cao hơn sự sống còn, nên nhiều khi đã tự mổ bụng để quyên sinh (Samurai).

Tôi quả thực không dám khen chê về cách sống ở đời, nhưng câu nói “Dù mâu thuẫn thế nào, hai kẻ khôn vặt vẫn sống bên nhau đến bách niên giai lão” có thể là câu “thậm xưng” để ví von, nhưng CS Đông Âu đổ, mà ¼ thế kỷ qua rồi, CSVN có đổ đâu, thì dự đoán ấy thế mà đúng chứ nhỉ? Dự đoán đúng thế mà mà bị tội phản quốc? (Một nhà báo Công an đã bảo: Phê cả Đảng và Dân đều khôn vặt thì anh sống với ai, chẳng phản quốc là gì?). Đấy, phê phán tận gốc quả là việc khó, nhưng không thể tránh né nếu muốn thay đổi số phận một Dân tộc.

Kết luận:

1/ Chúng ta phải bảo nhau đừng thực dụng quá, để cho tính khôn vặt khôn vặt  làm lu mờ nhân cách và lòng tự trọng của người Việt Nam.

2/ Tính khôn vặt còn phát sinh sự giả dối, sợ sự thật, nên đã thần thánh hóa những điều không có thật, coi điều tưởng tượng không có thật ấy là thiêng liêng “bất khả xâm phạm”, ai vạch điều đó ra phải bị trừng trị thật nặng nề. Ngoại giao uốn éo kiểu “cây tre” cũng là thứ khôn vặt mà thôi.

3/ Chủ nghĩa “Mác-Lê thiêng liêng” làm khổ nhân dân nhưng đem lại ngai vàng quá béo bở cho Đảng cầm quyền, từ đó phát sinh bao tệ nạn. Giới cầm quyền Đông Âu bỏ được Mác-Lê vì nhân cách của họ cao hơn sự khôn vặt, chứ kêu gọi nhà cầm quyền Việt Nam bỏ cái ngai vàng béo bở ấy thì …hơi bị khó.

H.S.P. (24/9/2024)

(Hình minh họa: Hồ sơ Tội Phản quốc dành cho người dám nhẹ nhàng vạch thói xấu khôn vặt và giả dối của người Việt).


 

Tổng bí thư đảng CSVN đã khai tử lịch sử Việt Nam?

Ba’o Nguoi-Viet

September 25, 2024

*Chuyện Vỉa Hè
*Đặng Đình Mạnh

Trong chuyến công du đến Hoa Kỳ để tham dự cuộc họp thường niên Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc, vào ngày 23 Tháng Chín 2024, ông Tô Lâm được mời đến phát biểu tại trường Đại Học Columbia, về chính sách của ông ấy trong tư cách tân Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam kiêm tân Chủ Tịch nước.

Ngay trong những lời đầu tiên của bài diễn văn, ông Tô Lâm nói: “Sau gần 80 năm lập nước và gần 40 năm Đổi mới, dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản, Việt Nam đang đứng trước khởi điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình của Dân tộc Việt Nam”.

Giáo Sư Nguyễn Thị Liên Hằng (trái) điều hợp buổi hội thảo có mặt ông Tô Lâm, Tổng bí thư Chủ tịch nước CSVN, tại đại học Columbia University, New York, ngày 23 Tháng Chín 2024. (Hình: Chụp từ màn hình trang web Columbia University)

“Sau gần 80 năm lập nước”!

Với lời khẳng định ấy trước quốc tế, tính ngược lại, lịch sử dân tộc với ông Tô Lâm chỉ bắt đầu được tính từ năm 1945, khi Đảng Cộng sản thực hiện cuộc “Cướp chính quyền” mà thôi. Cũng theo đó, quá trình lập nước và giữ nước của tổ tiên nước Việt Nam từ nhiều nghìn năm trước đó đã bị ông Tô Lâm và Đảng Cộng sản của ông ấy khai tử, loại bỏ hoàn toàn ra khỏi trang lịch sử dân tộc.

Chưa nói đến lịch sử dân tộc dựng nước từ thời kỳ Thượng Cổ, thì những trang sử giữ nước từ thời Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ngô Quyền, rồi đến thời Lê, thời Lý, thời Trần, thời hậu Lê, thời Tây Sơn với những Lê Đại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… cùng với những chiến công giữ nước oai hùng của những vị vừa nêu trên … Kể cả 3 lần thắng quân Nguyên Mông hầu như đều không có chỗ trong lịch sử “lập nước” của ông Tô Lâm.

Phải chăng “Thiên triều” Trung Cộng đã yêu cầu Cộng sản Việt Nam khai tử lịch sử dân tộc để xóa đi nỗi nhục nhã của họ trong quá khứ khi xâm lược Việt Nam: Tại sông Như Nguyệt, Bạch Đằng Giang, Hàm Tử quan, Ngọc Hồi, Đống Đa…

Từ đâu và khi nào mà ông Tô Lâm và Đảng Cộng sản bắt đầu mang những mầm mống thoát ly khỏi lịch sử dân tộc để rồi công bố công khai điều ấy trước cộng đồng quốc tế vào chiều ngày 23 Tháng Chín?

Chúng ta hẳn còn nhớ, vào thượng tuần Tháng Hai 2020, Nhị Lê, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Phó Tổng Biên tập Tạp Chí Cộng Sản, một lý thuyết gia của Đảng Cộng sản đã từng phát biểu công khai trên truyền thông đại chúng, cho rằng: “Đảng tự mình ngày càng xứng đáng trở thành dân tộc”, gây rất nhiều tranh cãi trong dư luận.

Khi ấy, lý giải về phát biểu của mình, lý thuyết gia Cộng sản Nhị Lê cho biết: “Trong Tuyên ngôn, Các-Mác và Ăng-Ghen lưu ý: Sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản mang tính quốc tế nhưng giai cấp vô sản mỗi nước phải hoàn thành nghĩa vụ trước hết với dân tộc mình. Yêu cầu đặt ra là “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc” và: “Tôi gói các ý tưởng khoa học rất toàn diện và sâu sắc của Các-Mác và Ăng-Ghen, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Điều lệ Đảng, một cách hệ thống và căn cơ, để rút tít gồm 11 từ cho bài báo đã đăng”.

Cho thấy, chủ trương nâng Đảng Cộng sản lên rồi đồng hóa trở thành dân tộc, “Dân tộc Cộng sản”, đã có từ trong lý thuyết Cộng sản và thảo luận trong Đảng từ nhiều năm qua. Bất chấp khái niệm dân tộc chỉ về chủng tộc hơn là một đảng phái chính trị.

Theo thống kê, hiện nay, số lượng đảng viên Đảng Cộng sản có khoảng hơn 5.2 triệu người. Tương đương 5% dân số Việt Nam. Là con số đáng kể nếu số đảng viên được nâng lên và đồng hóa thành một dân tộc riêng biệt, hiện diện bên cạnh hơn 50 dân tộc khác như Kinh, Hoa, Khơ Me, Chăm, Tày, Ê Đê… đang sinh sống trên cùng lãnh thổ. Theo đó, dân số của “Dân tộc Cộng sản” hiện nay chỉ đứng sau dân tộc Kinh mà thôi?!

Trong trường hợp đã là dân tộc, thì cần phải xác định lịch sử của dân tộc ấy. Qua phát biểu của ông Tô Lâm tại trường Đại học Columbia, thì Đảng Cộng sản đã lấy sự kiện “Cướp chính quyền” vào năm 1945 làm mốc thời điểm lịch sử “lập nước” của “Dân tộc Cộng sản”.

Sự tự tôn một cách kiêu ngạo của Đảng Cộng sản hiện nay, đến mức độ phủ nhận cả lịch sử dân tộc, thì ngay chính người du nhập Chủ nghĩa Cộng sản vào Việt Nam, đồng thời cũng là lãnh tụ sáng lập Đảng Cộng sản là ông Hồ Chí Minh cũng chưa từng dám nghĩ đến.

Trong dịp đến thăm đền Hùng tại Phú Thọ vào trung tuần Tháng Chín 1954, ông Hồ Chí Minh được cho là đã phát biểu: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Cho thấy, trang lịch sử dựng nước từ thời kỳ Thượng Cổ của các vua Hùng vẫn tồn tại trong tư duy của ông Hồ Chí Minh.

Điều khá khôi hài khi một mặt phủ nhận sạch trơn lịch sử dân tộc, thì mặt khác, trong bài phát biểu của mình, ông Tô Lâm lại nhắc đến ý tưởng “Lấy chí nhân thay cường bạo” của Nguyễn Trãi, một nhân vật lịch sử thời hậu Lê trong bài Bình Ngô Đại Cáo.

Tự tạo trang lịch sử riêng bằng cách nâng mình lên và đồng hóa thành một dân tộc ưu quyền là “Dân tộc Cộng sản” và thoát ly hoàn toàn khỏi lịch sử chính thống của dân tộc từ hàng nghìn năm. Đảng Cộng sản ngày càng tự tôn và kiêu ngạo một cách lố bịch so với những hậu quả nặng nề mà họ đã gây ra cho đất nước.

Điểm về tính chất đảng viên Cộng sản và vài con số trích từ những báo cáo của chính cơ quan Đảng cho thấy họ có xứng đáng gì với sự tự tôn, kiêu ngạo đến mức trở thành “Dân tộc Cộng sản”?

Người Việt Nam biểu tình chống Tô Lâm trước trụ sở LHQ ở New York ngày 22 Tháng Chín 2024. (Hình: Việt Tân)

Một bài trên trang Tuyên giáo từ Tháng Hai 2019 thừa nhận số lượng đảng viên đông không nhất thiết phản ánh chất lượng: “Cũng cần nhìn nhận rõ hơn động cơ vào Đảng của một bộ phận đảng viên có phải vì lý tưởng cách mạng của Đảng, vì dân, vì nước hay để có chức quyền, để mưu lợi riêng”.

Bên cạnh đó, chỉ riêng số ủy viên Trung ương Đảng khóa XIII có tới 26 người bị kỷ luật hoặc khởi tố hình sự vì tham nhũng, 5 ủy viên Bộ Chính trị và 3 thành viên trong nhóm tứ trụ cũng bị vạch mặt tương tự.

Tính riêng trong 6 tháng đầu năm 2024, trên cả nước đã khởi tố mới, điều tra 2,836 vụ án với 5,975 bị can về các tội tham nhũng, kinh tế, chức vụ (tăng 841 vụ, 1,487 bị can so với cùng kỳ năm 2023), trong đó có 475 vụ án với 1,094 bị can về các tội tham nhũng.

Đảng viên cao cấp của Đảng Cộng Sản, rờ đến đâu phát hiện ra tham nhũng đến đó, đất nước tan hoang, đạo đức xã hội xuống cấp, hàng loạt thiết chế cơ bản để điều hành, quản lý của đất nước bị vô hiệu hóa… Không lẽ tất cả những điều đó trở thành thành tích vẻ vang, đến mức làm cho Đảng Cộng sản hãnh diện, phủ nhận lịch sử cả hàng nghìn năm của dân tộc chăng?

DC, ngày 24 Tháng Chín, 2024

Đặng Đình Mạnh 


 

Nhận hối lộ triệu đô, cựu chủ tịch Nhà Xuất Bản Giáo Dục Việt Nam sắp bị truy tố

Ba’o Nguoi-Viet

September 23, 2024

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Cơ Quan Cảnh Sát Điều Tra Bộ Công An đã đề nghị truy tố bị can Nguyễn Đức Thái, cựu chủ tịch Hội Đồng Thành Viên Nhà Xuất Bản Giáo Dục Việt Nam, về tội “nhận hối lộ.”

Theo báo đài trong nước hôm 23 Tháng Chín, cùng vụ án, năm bị can khác là cán bộ Nhà Xuất Bản Giáo Dục Việt Nam gồm: Hoàng Lê Bách và Lê Hoàng Hải, phó tổng giám đốc; Phạm Gia Thạch, thành viên Hội Đồng Thành Viên; Nguyễn Thị Thanh Thủy, cựu trưởng Ban Kế Hoạch Marketing; và Đinh Quốc Khánh, phó Phòng In, Phát Hành của Nhà Xuất Bản Giáo Dục Hà Nội, bị đề nghị truy tố về tội “vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng.”

Ông Nguyễn Đức Thái khi đương chức. (Hình: VNExpress)

Ngoài ra, hai bị can Tô Mỹ Ngọc, cựu chủ tịch Hội Đồng Quản Trị công ty Phùng Vĩnh Hưng, và Nguyễn Trí Minh, giám đốc công ty Giấy Minh Cường Phát, bị đề nghị truy tố về tội “đưa hối lộ.”

Báo VNExpress dẫn kết luận điều tra cho hay đầu năm 2017, khi được bà Ngọc và ông Minh nhiều lần gặp, đề nghị “tạo điều kiện” cho công ty Phùng Vĩnh Hưng và Minh Cường Phát tham gia đấu thầu, chào giá, cung cấp giấy in cho Nhà Xuất Bản Giáo Dục Việt Nam và hứa hẹn “sẽ cảm ơn,” ông Thái đều nhận lời giúp đỡ.

Từ Tháng Bảy, 2017, sau khi được bổ nhiệm làm chủ tịch Hội Đồng Thành Viên, ông Nguyễn Đức Thái như “ hổ thêm cánh,” nắm trọn quyền quyết định trong việc mua sắm giấy in phục vụ in ấn sách cho Bộ Giáo Dục.

Tháng Mười Một, 2017, ông Thái đã chỉ đạo nhân viên thực hiện việc mua sắm giấy in thông qua hình thức “chào hàng cạnh tranh rút gọn” để đưa công ty Phùng Vĩnh Hưng, Minh Cường Phát vào danh sách các nhà thầu được tiết lộ thông tin về thông số kỹ thuật, khối lượng hàng hóa,… nhằm giúp hai công ty này hợp thức các thủ tục đấu thầu trái quy định.

Sau khi hai công ty trên trúng thầu và ký hợp đồng với Nhà Xuất Bản Giáo Dục Việt Nam, ông Thái đã nhận số tiền 3.2 tỷ đồng ($130,000) từ bà Ngọc; nhận 2.9 tỷ đồng ($117,812) từ ông Minh.

Với cách thức trên, từ năm 2018-2021, ông Thái đã thông đồng, thống nhất trước với ông Minh, bà Ngọc để sắp xếp, tạo điều kiện cho công ty của hai người được trúng thầu cung cấp giấy in cho Nhà Xuất Bản Giáo Dục Việt Nam.

Theo báo VNExpress, trong bốn năm đó, đều đặn hàng năm, bà Ngọc đều đến phòng làm việc của ông Thái đưa số tiền 4 tỷ đồng ($162,500) để “cảm ơn” sau khi trúng thầu.

Cách thức đưa tiền các năm đều giống nhau, thường vào dịp cuối năm hoặc đầu năm Dương Lịch, bà Ngọc tự chuẩn bị 4 tỷ đồng gồm tám cọc, mỗi cọc 10 thếp, mỗi thếp 50 triệu đồng ($2,031), được bọc kín, đựng vào một túi đựng quà Tết, có hai quai xách và được buộc lại, sau đó úp ngược lại cho vào túi giấy cùng loại.

Nhà Xuất Bản Giáo Dục Việt Nam có dấu hiệu “lợi ích nhóm” trong in, phát hành sách giáo dục. (Hình: Phạm Tuấn/Dân Việt)

Bà Ngọc xách túi tiền và một mình đến phòng làm việc của ông Thái, đều ngồi đúng ghế đầu tiên, để túi tiền cạnh bàn nước và nói có chút quà biếu cảm ơn ông Thái. Khi bà Ngọc đưa tiền, không có ai chứng kiến.

Ngoài ra, vào dịp Tết Nguyên Đán các năm 2018-2022, bà Ngọc đều đưa “cảm ơn” ông Thái số tiền 200 triệu đồng ($8,124)/năm.

Ông Thái khai tất cả những lần đưa tiền hối lộ, bà Ngọc và ông Minh đều đi một mình nên lúc đưa tiền không có ai biết và chứng kiến. Nhận tiền xong, ông ta đều cất tiền vào két sắt sau bàn làm việc và sử dụng để chi tiêu cá nhân.

Cơ Quan Cảnh Sát Điều Tra cáo buộc, ông Nguyễn Đức Thái đã nhận hối lộ với tổng số tiền là gần 24.9 tỷ đồng ($1 triệu) để cho hai công ty trên trúng 13 gói thầu trái quy định với tổng trị giá 2,100 tỷ đồng ($85.3 triệu).

“Việc mua giấy in này được thực hiện hằng năm, giá giấy in chiếm 30%-40% cơ cấu giá bán sách giáo khoa, việc mua giấy in với giá cao sẽ làm tăng giá sách, tạo thêm gánh nặng cho nhiều gia đình có con em đang đi học, làm hạn chế sự tham gia của các đơn vị cung cấp có năng lực, có phẩm chất tốt và giá bán thấp, không bảo đảm sự cạnh tranh, tính công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế,” kết luận điều tra nêu. (Tr.N)


 

Vụ Vạn Thịnh Phát: 3 người chết bị tịch thu hàng triệu đô la

Ba’o Nguoi-Viet

September 21, 2024

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Ba người chết “bất thường” trong vụ án Vạn Thịnh Phát đã bị nhà chức trách tịch thu tiền, vàng, sổ tiết kiệm, giấy tờ nhà đất, phong tỏa tài khoản ngân hàng… lên đến hàng triệu đô la.

Ba người xấu số được kể tên là bà Nguyễn Phương Hồng (cựu giám đốc chi nhánh Sài Gòn của ngân hàng SCB), ông Nguyễn Tiến Thành (chủ tịch Hội Đồng Quản Trị kiêm tổng giám đốc công ty cổ phần Chứng Khoán Tân Việt, TVSI) và ông Nguyễn Ngọc Dương (cựu tổng giám đốc tập đoàn Sài Gòn Peninsula).

Ông Nguyễn Tiến Thành (trái) và bà Nguyễn Phương Hồng, hai trong số ba người chết “bất thường” trong vụ án Vạn Thịnh Phát. (Hình: Trang web SCB)

Cả ba người nêu trên tuy làm ở các công ty khác nhau nhưng được hiểu đều là thuộc cấp của bà Trương Mỹ Lan, cựu chủ tịch tập đoàn Vạn Thịnh Phát, và lần lượt qua đời trong vòng vài ngày sau khi bà này bị bắt hồi Tháng Mười, 2022.

Nhân lúc phiên tòa xử giai đoạn hai của vụ Vạn Thịnh Phát đang diễn ra tại Sài Gòn, báo VietNamNet hôm 21 Tháng Chín tiết lộ, dù bà Hồng và hai ông Thành, Dương đã chết nhưng để bảo đảm khắc phục hậu quả của vụ án, cơ quan điều tra “đã áp dụng các biện pháp đối với các tài sản của họ.”

Cụ thể, người bị tịch thu nhiều tiền, vàng nhất trong số ba người là ông Nguyễn Ngọc Dương. Ông này bị ngăn chặn giao dịch 9.1 tỷ đồng ($369,844) trong ba tài khoản tại nhà băng SCB, ngăn chặn giao dịch 50.5 tỷ đồng ($2 triệu) trong các tài khoản của con trai ông.

Ngoài ra, khi khám xét tư gia của ông Dương, công an còn tịch thu 216 miếng vàng, sáu sổ tiết kiệm trị giá 132 tỷ đồng ($5.3 triệu), “sổ đỏ” của ba căn nhà tại Sài Gòn và tỉnh Long An, cùng 100 triệu đồng ($4,064) tiền mặt.

Bị cáo Trương Mỹ Lan, cựu chủ tịch tập đoàn Vạn Thịnh Phát, tại phiên tòa. (Hình: Pháp Luật TP.HCM)

Toàn bộ số tài sản nêu trên bị phong tỏa và tịch thu sau khi Bộ Công An kết luận rằng những người nhà trong hàng thừa kế thứ nhất của ông Nguyễn Ngọc Dương “không đưa ra được căn cứ xác định rõ nguồn gốc các khoản tiền, tài sản liên quan đến ông này.”

Cùng lúc, bà Nguyễn Phương Hồng bị kê biên 2.5 triệu cổ phần tại TVSI, “sổ đỏ” một khu đất tại quận 4, Sài Gòn, ngăn chặn tài khoản ngân hàng có 85 triệu đồng ($3,454).

Người còn lại, ông Nguyễn Tiến Thành bị chặn giao dịch 8.7 triệu cổ phần TVSI và phong tỏa 386 triệu đồng ($15,687) trong hai tài khoản ngân hàng. (N.H.K) [qd]


 

‘Rải truyền đơn,’ 2 người ở Sài Gòn bị bắt

Ba’o Nguoi-Viet

September 20, 2024

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Một bà 56 tuổi và một ông 67 tuổi, cùng ở quận Gò Vấp, Sài Gòn, bị bắt giữ với cáo buộc “rải truyền đơn, kích động biểu tình nhân dịp Quốc Khánh 2 Tháng Chín.”

Theo báo VNExpress hôm 20 Tháng Chín, bà Nguyễn Thị Hường và ông Trần Văn Linh bị Công An ở Sài Gòn vu cho tội “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.”

Ông Trần Văn Linh (trái) và bà Nguyễn Thị Hường. (Hình: VNExpress)

Bản tin cho biết, tại tư gia của bà Hường, công an tịch thu “1,000 tờ truyền đơn,” cùng máy điện toán, máy in màu, điện thoại… và một số tang chứng khác.

Trong vụ này, ông Linh bị cáo buộc “được giao nhiệm vụ khảo sát các nơi đông người ở Sài Gòn như công viên, trường học, bệnh viện… để rải truyền đơn.”

Bà Hường và ông Linh bị quy kết tham gia tổ chức Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời.

Vụ bắt giữ hai người nêu trên được mô tả là “chiến công đặc biệt xuất sắc” của công an, giúp chính quyền “kịp thời ngăn chặn hoạt động phá hoại, bảo vệ tuyệt đối an toàn lễ quốc khánh.”

Facebooker Thành Nguyễn, cựu nhà hoạt động, bình luận trên trang cá nhân: “Thế giới này chắc chỉ còn vài nhà cầm quyền độc tài và man rợ mới xem hình thức biểu đạt này là tội hình sự. Nhưng Công An ở Sài Gòn lại xem đây là ‘chiến công đặc biệt xuất sắc’ khi bắt hai ông bà già để lập công và giải ngân dự án. Tôi cũng tò mò không biết nội dung truyền đơn là gì mà có thể ảnh hưởng đến ‘an ninh quốc gia’ như vậy? [Cơ quan] An ninh ở Sài Gòn cũng nên công bố nội dung truyền đơn để dư luận được rõ.”

Bà Nguyễn Thị Hường (phải) khi bị bắt. (Hình: VNExpress)

Trong một vụ bắt giữ tương tự, theo báo Tuổi Trẻ hồi cuối tháng trước, ông Phạm Hoàng, 66 tuổi, quê Nam Định, bị bắt với cáo buộc “chuẩn bị rải truyền đơn tại Sài Gòn nhân dịp 2 Tháng Chín.”

Ông Hoàng cũng bị chính quyền vu cáo là “người của tổ chức Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời.”

Sau vụ bắt giữ ông Hoàng, Phòng An Ninh Nội Địa và Phòng An Ninh Điều Tra của Công An Tỉnh Nam Định được “thưởng nóng” 50 triệu đồng ($2,035).

Ông Trần Văn Linh (trái) bị bắt tại tư gia ở quận Gò Vấp, Sài Gòn. (Hình: VNExpress)

Liên quan tổ chức Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam Lâm Thời, báo Gia Lai hồi Tháng Bảy cho hay, bị cáo Phan Thị Thảo, 67 tuổi, tạm trú tại thị trấn Đắk Đoa, tỉnh Gia Lai, bị kết án 13 năm tù vì “hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân.”

Đáng nói, bị cáo Thảo “có nhiều năm công tác tại Công An Thành Phố Hà Nội” trước khi bà này làm đơn xin ra khỏi ngành công an hồi năm 1989.

Sau đó, bà bị chính quyền dán nhãn “phản động” cho đến khi bị bắt và phạt tù. (N.H.K) [qd]


 

Sự trở lại của Văn học đô thị miền Nam- Tuấn Khanh/SGN

Ba’o Nguoi-Viet

September 19, 2024

Tuấn Khanh/SGN

Thời gian trước, tôi thật may mắn được chứng kiến buổi ngỏ ý của một nhà xuất bản, muốn tái bản lại cuốn “Vòng tay học trò” của nhà văn Nguyễn Thị Hoàng, một cây viết quen thuộc của độc giả miền Nam Việt Nam trước năm 1975.

Với Nguyễn Thị Hoàng, bà rõ là điểm sáng đáng quý trên bầu trời lấp lánh của văn chương tự do miền Nam Việt Nam trước năm 1975.

Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng, một trong những danh sĩ của miền Nam được cho phép tái bản gần đây (Hình: TK)

Văn chương miền Nam nói chung, thời gian gần đây dần dần được tái bản lại nhiều ở trong nước, trong con mắt nhìn kiểm duyệt ít vằn vện nghi ngờ hơn. Rồi thoáng thấy trên Facebook, báo điện tử… những lời chia sẻ với nhà văn Nguyễn Thị Hoàng về cuốn sách “Vòng tay học trò” được tái bản, cùng sự hào hứng của những người giới thiệu, quen gọi tên là tác phẩm thuộc “dòng văn học đô thị miền Nam.”

Nhưng nghe mà sao đột nhiên thấy chạnh lòng. Nghe “đô thị” có vẻ như co cụm và không thuộc về nhân dân, không thuộc về một thời, một đời. Nói như nhà văn Nguyễn Hưng Quốc, nói văn chương “đô thị” miền Nam, thì không sai nhưng thừa. Bởi sự nhấn nhá riêng “đô thị” của miệng lưỡi tuyên truyền là thừa ác ý. Có nơi còn gọi là sự “trở lại” – sự trở lại của “văn chương đô thị miền Nam.” Cụm từ giới thiệu này thường được thấy khi có một tác phẩm của miền Nam trước 1975 được in lại.

Thế nhưng văn chương miền Nam đi đâu mà trở lại?

Toàn bộ chữ nghĩa đã được hình thành, nuôi dưỡng và tồn tại suốt trong hai nền cộng hòa ở miền Nam Việt Nam chỉ có một hành trình duy nhất là đi xuyên qua sự thù hận, bước qua chà đạp và hủy diệt… mà dù có đau đớn hay rách nát thế nào, nền văn chương (hay nền văn hóa Cộng hòa miền Nam Việt Nam nói chung) vẫn tiếp tục tồn tại trong một thời đại mới, và vẫn tỏa sáng với những tư tưởng tự do không kiểm duyệt.

Văn chương miền Nam Việt Nam, tự nó cũng giống như số phận của ông Khai Trí, một người ước mơ đem sách và chữ đến cho dân tộc mình, rồi chính quyền mới, nói tiếng Việt, tịch thu. Gia sản tri thức bị đốt và bản thân ông cũng bị cầm tù. Nhưng câu chuyện Khai Trí và những ấn phẩm của ông vẫn tiếp tục lưu truyền một cách im lặng trong lòng người dân Việt Nam, mà có những giai đoạn phải thầm kín và gìn giữ trong nơm nớp sợ hãi không khác gì những tờ truyền đơn của người Do Thái trong thời Phát xít Đức.

Gần nửa thế kỷ, suốt thời thống nhất địa lý, văn chương miền Nam Việt Nam (chứ cũng không phải là đô-thị-miền-Nam), trở thành một di sản quý được tìm mua với những giá ngày càng đắt. Hãy thử nghĩ xem, vì sao một tổng tập của nhà thơ Tố Hữu có thể được in ấn tuyệt đẹp, trợ giá bán rẻ vẫn không có sức thu hút bằng một tập thơ mỏng, cũ rách của Nguyên Sa hay Thanh Tâm Tuyền?

“Văn học đô thị miền Nam” – cách gọi bị ám ảnh từ lối tuyên truyền văn hóa của chính quyền mới sau năm 1975 cho đến nay – vẫn ngầm chứa trong đó như một sự khinh thị, chỉ để góp vào cái nhìn toàn cảnh cố không công nhận miền Nam Việt Nam là một chính thể.

Rất nhiều những tham luận, những nghiên cứu, và cả cuốn sách dày cộp của tác giả Trần Trọng Đăng Đàn “Văn hóa văn nghệ Việt Nam từ 54 đến 75” đều coi văn chương miền Nam là một thứ hỗn độn hình thành từ sự phồn vinh giả tạo của Mỹ-Ngụy.

Báo Nhân Dân số ra ngày 13-9-2016, với bài viết “Ứng xử với văn học miền Nam trước năm 1975” của tác giả Hạnh Nguyễn, còn nói với giọng trịch thượng rằng “bằng sự gạn đục khơi trong, chính quyền cách mạng đã cho phép lưu hành 1067 cuốn sách tiếng Việt, 562 cuốn sách tiếng Anh, 359 cuốn từ điển bằng tiếng nước ngoài.”

Sự cho phép nó chỉ là một giả định trên đời sống thật. Không có phép thì suốt vài thập niên nay, người miền Nam vẫn ca hát những bài hát không được duyệt, thậm chí còn làm cho nó lan ra đến cả nước. Sách vở không được in, không có phép thì vẫn được chuyền tay nhau, và vẫn được thế hệ mới ngày hôm nay tìm đọc với một sự kinh ngạc về khung trời tự do trong tư tưởng. Cho phép và không cho phép, chỉ là màn trình diễn giả định về luật pháp giữa người dân và chính quyền, nghiễm nhiên tồn tại suốt bấy lâu nay.

Vì vậy, cách nói rằng văn chương đô thị miền Nam “trở lại”, khi có dăm ba cuốn sách cũ tái bản, có vẻ khiên cưỡng trong sự thật lịch sử của một di sản văn hóa vĩ đại của Việt Nam Cộng Hòa.

Trong sự kiểm duyệt chặt chẽ, một số sách vở của miền Nam VNCH dần được tái bản vì giá trị không thể phủ nhận được (Hình: Facebook)

Nói “trở lại” là giả tạo trong việc mô tả một chính quyền đủ tốt để dung nhận tất cả. Giả tạo như tất cả mọi thứ trong cuộc sống đang là một vòng quay đẹp đẽ theo tự nhiên, nhưng lờ hẳn phần xin lỗi về một giai đoạn mà những nhà văn, nhà thơ miền Nam đã từng bị tù đày, và tác phẩm của họ thì bị đấu tố như kẻ thù của dân tộc.

Trong tiểu luận “Văn học Miền Nam 1954-1975: những Khuynh hướng chủ yếu và thành tựu hiện đại hóa” của giáo sư, tiến sĩ Huỳnh Như Phương, mô tả về căn nguyên quan trọng ra đời của nền văn hóa văn nghệ Miền Nam Việt Nam là bởi “nhờ đồng lương và các khoản thu nhập khác, nên một bộ phận công chức và giới trung lưu có thể chi tiêu những khoản tiền vào việc mua sắm theo ý muốn, ngoài các nhu cầu thiết yếu hằng ngày. Chính đây là tiền đề dẫn đến sự hình thành một thị trường văn nghệ ở miền Nam những năm 1954-1975.”

Có vẻ sự căn bản hình thành của văn chương miền Nam Việt Nam thực dụng và không được cao quý, theo cách mô tả của tất cả những ngôn luận nhận định từ bên thắng cuộc. Nhưng lại không hiểu vì sao hàng chục năm xây dựng xã hội chủ nghĩa, với những thành tựu xuất chúng, như trên báo chí vẫn nói, xã hội cách mạng hôm nay vẫn reo mừng khi những thứ bị chà đạp ấy quay “trở lại,” như “Vòng tay học trò” của nữ sĩ Nguyễn Thị Hoàng, và của nhiều trí thức miền Nam khác, từng bị phủ nhận.