Các nhóm lãnh đạo Việt Cộng dưới nét nhìn của Bà Dương Thu Hương.

Linh hồn cao cả của Thái-Bình đất Bắc hiện có một người …! Biết đâu rồi sẽ có hàng ngàn người…! hàng triệu triệu người từ đất Bắc, Trung, Nam sẽ ” Hành Động.Hành Động…! vì linh hồn của họ chưa bị bán rẻ cho ma quỷ… hay chưa chết và mục nát…!  

Trích một đoạn trong bài của Phạm Bá Hoa:

 Các nhóm lãnh đạo Việt Cộng dưới nét nhìn của Bà Dương Thu Hương.

Thưa quý vị, với nội dung này tôi trích dẫn và tóm lược bài viết trong Wikipedia + bài phỏng vấn của nhà báo Đinh Quang Anh Thái năm 2005 + bài phỏng vấn của Nguyễn Huy Đức năm 2006 + và bài phỏng vấn của Quốc Phương đài BBC năm 2009.

Người được phỏng vấn là bà Dương Thu Hương, người phụ nữ bên thắng cuộc. (Bên Thắng Cuộc là tựa một quyển sách của Huy Đức)

Bà từng là đảng viên đảng cộng sản Việt Nam, bị khai trừ khỏi đảng vào năm 1989.

Năm 1994, Bà được Bộ Trưởng Văn Hoá Pháp -ông Jacques Toubon- trao tặng Huân Chương Văn Hoá Nghệ Thuật (Chevalier des Arts et des Lettre). 

Tháng 4/2006, bà được mời sang Paris (Pháp), sau đó sang New York (Hoa Kỳ) dự hội nghị Văn Bút Quốc Tế.

Xin có đôi lời để mong quý vị thông cảm, sở dĩ tôi giữ nguyên những chữ quá mạnh -nếu không nó là chói tai- khi Bà Dương Thu Hương trả lời phỏng vấn của đài BBC, và sau đó là nhà báo Đinh Quang Anh Thái, vì đó là tính cách của Bà.

Và đây là lời của Bà Dương Thu Hương:

Tôi chào đời năm 1947 tại tỉnh Thái Bình trên đất bắc.

Năm 1955 -lúc ấy 8 tuổi- tôi trong đoàn học sinh tiểu học, do nhà trường dẫn đi dự buổi đấu tố những người bị xếp vào hàng địa chủ trong chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất, và bị giết chết ngay tại chỗ.

Tôi thật sự hãi hùng vì những cách giết những người bị đấu tố!

Năm 1967, theo tiếng gọi của nhà nước, tôi trong số 120 bạn học cùng trường, đã cắt máu xin theo đoàn quân vào Nam đánh Mỹ cứu nước, vì những bài học chính trị mà họ đã dạy chúng tôi, thì Mỹ Ngụy rất tàn ác với gười dân trong đó, cho nên người dân rất khổ..   

Năm 1968, tôi theo đoàn quân vào chiến trường miền Nam để cứu dân tộc trong Nam.

Sau những năm tháng bị cuốn vào cuộc chiến đẫm máu, đến tận bây giờ, cuộc chiến đó vẫn ám ảnh tôi. Nhớ lại, số học sinh của cả bốn lớp 10 của trường gồm 120 học sinh chúng tôi vào chiến trường miền Nam.

Sau 7 năm, chiến tranh kết thúc, chúng tôi chỉ còn lại 2 người: Tôi thì bị bom làm tai bên phải bị điếc, còn người kia là cậu Lương bị cụt một tay, và trở nên ngớ ngẩn. 

Chưa hết. Khi tôi đi tìm mộ của những bạn đã chết, tôi mới biết là trong những trận đánh mà chúng tôi thua, thì không lưu lại tên tuổi của bất cứ người nào đã chết, cũng không chôn cất người nào. Và họ giải thích rằng:

“Dân tộc ta là dân tộc anh hùng phải chiến thắng quân thù, nhưng trận này chưa thắng, nên không thể kiểm kê các liệt sĩ được. Cho nên hàng trăm người chết dưới đáy hồ, dưới đáy vực, không cần tìm tung tích”.

Và dấu mốc quan trọng làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời tôi, là khi “đoàn quân của bên thắng cuộc” vào Sài Gòn, trưa ngày 30 Tháng Tư 1975.

Từ ngày đó, là ngả rẽ trong đời tôi. Khi mọi người trong đội quân chúng tôi đều hớn hở cười, thì tôi ngồi bên lề đường, và khóc. Tôi khóc, vì thấy tuổi xuân của tôi đã hy sinh một cách oan phí.

Vào Sài Gòn, tôi không choáng ngộp vì nhà cao cửa rộng, vì xe cộ trên đường phố thênh thang, mà tôi choáng ngộp vì những tác phẩm của những nhà văn miền Nam đều được xuất bản trong một chế độ tự do mà tôi không thể tưởng tượng được.

Trong nhà sách, trưng bày vô số những tác phẩm của các tác giả tôi từng biết tên cũng như chưa biết tên, và cả tác phẫm của các tác giả ngoại quốc nổi danh,với nội dung trong các lãnh vực xã hội, đặc biệt là những tác phẫm chính trị, có cả tác phẫm của Karl Marx, Lénine nữa.

Đến các phương tiện truyền đạt tin tức, như Radio, Tivi, Cassette, ..v..v… Những tác phẩm, những phương tiện truyền đạt tin tức, hình ảnh, đối với người dân miền Bắc chúng tôi, chỉ là những giấc mơ không tưởng. 

 Ở miền Bắc chúng tôi, tất cả báo chí, sách vở, đều do nhà nước quản trị. Những cán bộ được đảng tin tưởng, mới được nghe đài phát thanh Trung Quốc. Còn toàn dân chúng tôi chỉ được nghe loa phóng thanh tập thể ở từng khu phố. Tôi muốn nói là, người dân chỉ được nghe một tiếng nói mà thôi.  

 Vào được Sài Gòn, tôi mới hiểu rõ rằng, chế độ ngoài Bắc là chế độ man rợ. Vì nó chọc mù mắt con người, nó bịt lỗ tai mỗi người dân.

Trong khi đó ở miền Nam, mọi người trong xã hội tự do nghe bất cứ thứ đài nào trong nước, và cả đài phát thanh của Pháp, của Anh, của Mỹ, tùy người dân muốn. Ðó mới là chế độ của nền văn minh.

Và thật chua chát, khi nền văn minh đã thua chế độ man rợ.

Sự chống đối mạnh mẽ của Bà, đã đẩy bà vào nhà tù Việt Cộng từ tháng 4 đến tháng 11 năm 1991.

Bà nói tiếp: Năm 1998, trong bài diễn văn tôi đọc ở Đại Hội Nhà Văn, tôi nói rằng: “Đảng cộng sản phải biết ơn nhân dân. Bởi vì xưa nay họ chỉ nói nhân dân phải biết ơn đảng thôi. Tôi phân tích rằng, cả một dân tộc đã đổ xương máu để kháng chiến chống Pháp, và những gì dân tộc đạt được là do truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, nhưng đảng cộng sản đã cướp tất cả công đó, và nhận vơ là công của đảng. Họ còn dậy dỗ quần chúng là phải biết ơn đảng. Hành động như thế vừa đểu cáng, vừa vô ơn bạc nghĩa, và tự cao tự đại. Những kẻ như thế, không xứng đáng để lãnh đạo dân tộc.

Vẫn trong năm 1998, trong một nghị của trí thức Hà Nội, tôi đọc bài diễn văn với tựa  là “Nhân Cách Trí Thức”. Đọc xong, Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh tỏ ra đắc ý với nội dung, ông ta đến ôm tôi và hôn tôi thắm thiết, đồng thời xin bài diễn văn của tôi. Đến lúc giải lao, người thư ký của ông ta tìm tôi và chuyển đề nghị của ông Linh muốn tặng tôi một căn nhà theo tiêu chuẩn cấp cho hàng Bộ Trưởng. Cùng lúc, người thư ký này muốn tôi im lặng để cho đảng tự cải sửa. Tôi trả lời rằng, tất cả những việc tôi làm là vì dân tộc chứ không phải vì bản thân tôi. Tôi không giàu có, nhưng cũng có một căn nhà đủ để ở. Tôi nhờ ông ta nói với ông Tổng Bí Thư rằng, hiện giờ đang có 20.000 giáo viên tiểu học ở Hà Nội không có nhà để ở, nếu nhà nước có dư nhà thì nên cấp cho họ có chổ ở.

Bà còn nói rằng: Tổng Bí Thư Việt Cộng Nguyễn Văn Linh chửi tôi là “con đỉ chống đảng. Lúc đó tôi nói với một ông trong ban tổ chức đảng rằng, nếu tôi là đĩ thì may cho cái đảng này; nhưng vì tôi không được làm đĩ, nên tất cả năng lực của tôi đều dồn vào việc ỉa vào mặt đảng. Họ đã chửi tôi như vậy thì từ giờ trở đi mọi sự đều rõ ràng, không còn con đường thứ ba nữa. Nghĩa là tôi dấn thân đến cùng trong mục tiêu đấu tranh cho dân chủ.

Tôi chẳng có gì phải kiêng dùng những danh từ mà nhiều người cho là thô bỉ, như là “ỉa vào mặt kẻ cầm quyền”. Vì đó là cách nói thuần của người Việt Nam răng đen mắt toét như tôi. Là ngôn ngữ đích xác của người nông dân, khi họ biểu lộ thái độ khinh bỉ và bất chấp. Tôi hành động như thế là có dự tính, chứ không phải ngẫu hứng. Tôi rất ghét những thứ ngôn ngữ nhờ nhờ nhạt nhạt. Chế độ hiện nay tại Việt Namchỉ sống bằng xác chết thôi. Nó không có giá trị gì trong thời đại này cả. Những người lãnh đạo chế độ hoàn toàn vô năng và tham nhũng”.

“Những kinh nghiệm trong chiến tranh, những chua chát của tháng 4 năm 1975, được Bà gói ghém trong những tác phẩm “Những Thiên Đường Mù”, “Bên Kia Bờ Ảo Vọng”, “Khải Hoàn Môn”, “Đỉnh Cao Chói Lọi”, và  “No Man Land” là bản Anh ngữ, dịch sang tiếng Pháp là “Terre Des Oublis”.

Và đây là nhận định của nhà báo Đinh Quang Anh Thái về bà Dương Thu Hương: “Từ nhận thức trên đây, báo chí Pháp gọi bà là “Con Sói Đơn Độc” ngay giữa bầy sói của mình. Vì hầu như không có người nào trong hàng ngũ lên tiếng đấu tranh cho dân chủ sau năm 1975, mà có lối nói như “chém đinh chặt sắt” như bà. Trong khi Bà tự nhận mình là người đàn bà nhà quê”.     

Nhà báo Đinh Quang Anh Thái nêu câu hỏi: “Bà đã tiêu phí tuổi trẻ trong chiến tranh, để rồi bị chế độ mà bà phục vụ đày đọa vì họ nói bà làm giặc, bản thân bà thì không ai dám giao tiếp vì sợ bị liên lụy. Vậy, có bao giờ bà chùn bước không?”

Bà trả lời: “Không. Không bao giờ chùn bước”.

“Bà có tin vào thuyết nhân quả không?”

Bà trả lời: “Có. Tôi hoàn toàn tin vào thuyết nhân quả. Tôi hoàn toàn tin vào kiếp sau. Khi dậy các con tôi,  tôi không yêu cầu các con tôi phải trở thành bác sĩ, kỹ sư, hay tiến sĩ, mà yêu cầu duy nhất của tôi là các con tôi phải làm con người tử tế trong gia đình, trong xã hội, vì  đạo đức là cốt lõi của con người”.

Nhà báo Đinh Quang Anh Thái nhận định: “Bà Dương Thu Hương có nguyên tắc sống đạo đức rạch ròi, không khoan nhượng. Tôi xin phép biếu bà chút quà, thì Bà quát lên: Tôi không nhận bất cứ vật chất nào của bất cứ ai”.

Thậm chí những bữa ăn tại Paris,  bà giành trả tiền và khẳng định rằng: “Nếu Anh trả tiền thì từ nay đừng  phỏng vấn tôi nữa’.

Câu cuối cùng trong bài viết của Đinh Quang Anh Thái như sau: “Tôi đành bó tay chịu thua “mụ nhà quê mắt toét. Đó là cách mà tôi vẫn gọi bà Hương mỗi khi điện thoại thăm hỏi Bốp chát, bõ bã, không khoan nhượng, chính là Bà Dương Thu Hương. Đạo đức cốt lõi, cũng chính là Bà Dương Thu Hương.

Và bây giờ, “Con Sói Đơn Độc” đã bước vào tuổi 70, vậy mà ngọn lửa đấu tranh cho một tương lai Việt Nam tươi sáng vẫn ngùn ngụt cháy trong trái tim bà.

From: TU-PHUNG

Mạn đàm về người Việt và “văn hóa” ngụy biện

Lê Hoàng Nam

Mạn đàm về người Việt và “văn hóa” ngụy biện

  1. “Nhìn lại mình đi rồi hẵng nói người khác”

Mình làm sai thì là sai rồi, sao lại không nhận sai, không nói thẳng vào vấn đề “mình sai” mà lại quay qua tìm điểm yếu của người khác? Việc này cũng giống như khi nhận được góp ý: “Viết sai chính tả rồi kìa”, thì thay vì sửa sai, bạn lại đốp chát: “Thế mày chưa viết sai bao giờ à?”

  1. “Có làm được gì cho đất nước đâu mà to mồm”

Người ta có làm được gì hay không thì là điều mình chưa biết, hơn nữa bạn đã “lạc đề” rồi. Vấn đề người ta nêu ra thì bạn không trả lời, không đưa ra luận điểm logic, mà lại đi đường vòng, chuyển qua công kích người khác.

  1. “Nó ăn trộm chó thì cứ đánh cho nó chết”

Lập luận này đã khiến cho những kẻ trộm chó vốn không đáng phải chết bị giết chết bởi chính những người dân tưởng chừng “lương thiện” rồi. “Ăn trộm chó” là sai, nhưng “giết người” cũng là sai, hai sai thì không phải là một đúng, mà là sai lại càng sai.

  1. “Làm được như người ta đi rồi hãy nói”

Lại một hình thức “lạc đề”. Luận điểm mà người ta đưa ra thì bạn không xoay quanh mà bàn luận, lại cứ phải công kích cá nhân người khác thì mới vừa lòng sao?

  1. “Nếu không hài lòng thì cút xéo ra nước ngoài mà sinh sống”

Lời nói này không chỉ đánh lạc hướng vấn đề, mà còn rất bất lịch sự, chuyên dùng để làm người đối diện tức giận, chứ chẳng có một chút logic nào trong đó cả.

  1. “Chỉ có những người chân lấm tay bùn từ nhỏ mới là người cần cù chăm chỉ xây dựng đất nước”

Câu khẩu hiệu này đã từng xuất hiện ở Việt Nam trong quá khứ. Người ta có câu “vơ đũa cả nắm”, ấy chính là để chỉ việc lập luận cảm tính, khái quát cảm tính, mà không hề đưa ra logic hợp lý nào cả.

Cũng như vậy, khi phân chia giai cấp và tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp, thì người ta đã mắc sai lầm ngụy biện, ví như chủ đất không nhất định là xấu, chủ doanh nghiệp cũng không nhất định là xấu, và người làm công ăn lương hay nông dân chắc gì đã là một người tốt cần cù chăm chỉ?

  1. “Nước nào mà chẳng có tham nhũng”

Vì nước nào cũng có tham nhũng nên Việt Nam được phép có tham nhũng hay sao? Vì mọi người đều vượt đèn đỏ nên tất nhiên tôi cũng phải vượt đèn đỏ? Vì xã hội thiếu gì nghiện hút nên trong nhà có người hút chích cũng là bình thường?

  1. “Nếu anh là họ mà anh làm được thì hẵng nói”

Đặt mình vào vị trí người khác là một tiêu chuẩn người xưa dùng để tu sửa bản thân, hướng vào bản thân tìm lỗi, là một nét văn hóa rất độc đáo của phương Đông. Tuy nhiên câu nói đó chỉ sử dụng khi một người tự răn mình, chứ không phải là một câu nói dùng trong tranh luận.

Việc sử dụng nó trong tranh luận không chỉ là sự bịt miệng những phê bình của người khác, không giải thích các luận điểm của người khác, mà còn chứng tỏ rằng chúng ta đang phá hoại và lãng quên văn hóa truyền thống của chính mình.

  1. “Tại sao anh dám nói chúng tôi sai? Anh là một tên phản bội dân tộc”

Kiểu lập luận chụp mũ này mặc nhiên coi mình là đúng, họ là sai, và những người đồng quan điểm với họ cũng là sai. Nó không hề đưa ra một thứ logic nào, nhưng lại cắt ngang một cái giới tuyến, và tùy tiện định tội cho người khác.

Tất nhiên đây mới chỉ là những câu ngụy biện cơ bản nhất, thường thấy nhất. “Văn hóa ngụy biện” đã ngày càng xuất hiện thường xuyên hơn, muôn hình vạn trạng, và luôn ẩn giấu trong tư duy của người Việt. Vậy nguyên nhân của thói quen này là từ đâu?

Trong phần nhiều các lỗi ngụy biện thường gặp của người Việt, có một tâm lý cơ bản hiện rõ ra khi tham gia thảo luận, đó chính là tâm tranh đấu, hiếu thắng, và không hề tôn trọng người đối diện. Ngoài đó ra, chúng ta cũng hay bị ảnh hưởng của tâm lý đám đông, lợi dụng tâm lý đám đông để che đi trách nhiệm của bản thân mình.

Muốn tránh cách tư duy ngụy biện, chúng ta không những phải sửa lối tư duy vòng vo, thiếu suy nghĩ, mà còn phải sửa chính từ tâm thái của mình khi trao đổi và luận bàn về mọi việc. Điều cơ bản nhất khi tham gia tranh luận là có trách nhiệm trong lời nói của chính mình và biết tôn trọng người đối diện.

Nguồn: https://tachcaphe.com/man-dam-ve-nguoi-viet-va-van-hoa-ngu…/

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Nguyễn Văn Vàng Bis

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Nguyễn Văn Vàng Bis

Trong những trang sổ tay trước, tôi đã có dịp ghi lại đôi điều về cuộc đời hoạt động của linh mục Nguyễn Văn Vàng (N.V.V) và những ngày tháng cuối cùng của ngài nơi trại kiên giam A 20. Tuần qua, có độc giả nêu câu hỏi: Cha Vàng đã “đột tử” ra sao trong trại tù Xuân Phước, nơi đã từng được mệnh danh là Thung Lũng Chết?

Thực sự, người tù N.V.V không lìa đời một cách đột ngột. Cái chết của ông đã được nhà nước hiện hành “định sẵn,” ngay từ khi ông vừa bị bắt:

“Khoảng tháng 8-1977, Mặt Trận Liên Tôn tức Mặt Trận Quốc Gia Giải Phóng 2 do Linh-mục Nguyễn Văn Vàng lãnh đạo bị bể. Cha Vàng và người em là Thiếu-tá Nguyễn Văn Viên cùng tất cả bộ phận đầu não và những người tham gia tổ chức bị bắt gần 100 người. Thiếu-tá Nguyễn Văn Viên là một trong những người Tiểu Đoàn Trưởng kỳ cựu của Lữ Đoàn Dù VNCH. Cha Vàng bị giam ở xà lim 25 khu C-1 và ông Viên giam ở xà lim 11 khu C-2 tại Phan Đăng Lưu.

 “Thời gian hỏi cung, Cha Vàng và ông Viên được đối xử rất đặc biệt làm ngạc nhiên tất cả tù ở khu C-1 và C-2. Chúng tôi ăn tiêu chuẩn mỗi ngày một khúc khoai mì buổi trưa và 1 chén cơm với nước muối vào buổi chiều, thì Cha Vàng và ông Viên được một tô cơm với thịt hoặc cá và một trái chuối tráng miệng, mỗi ngày trại trưởng đều xuống tận xà lim hỏi han sức khỏe…

 “Sự biệt đãi hai anh em Cha Vàng kéo dài hơn hai tháng cho đến khi kết thúc hỏi cung. Vụ án ra tòa, ông Nguyễn Văn Viên bị tử hình, Cha Vàng và ông Nguyễn Quốc Bảo, Ủy-viên Quân Sự của tổ chức bị kết án chung thân, những người khác trong Bộ Tham Mưu lãnh án 20 năm. Những người không ra tòa bị đưa đi tập trung cải tạo lao động.

“Năm 1982, gặp Cha Vàng ở trại Xuân Phước, tôi hỏi Cha vì sao Cha và ông Viên được “ưu đãi”, Cha Vàng giải thích đó là một thủ đoạn dụ cung rẻ tiền của chấp pháp…” (Nguyễn Chí Thiệp. Trại Kiên Giam. Los Angeles, CA: Sông Thu, 1992).

Thay vì bị tử hình như bào đệ Nguyễn Văn Viên, nhờ vào chức danh tu sỹ và uy tín cá nhân đối với giáo dân nên linh mục N.V.V chỉ bị kết án chung thân. Tuy thế, cái chết của ông thì đã được Cục Quản Lý Trại Giam “sắp sẵn” rồi – theo lời của người bạn chung tù (và cùng chung xà lim biệt giam) cho biết:

“Tết Nguyên Ðán năm 1984, chúng tôi lại trải qua một cuộc “xóa bài làm lại” trong khu biệt giam của Phân trại E thuộc A-20 Xuân Phước, nghĩa là phải thay đổi chỗ ở sau một màn tất cả lần lượt “bị” lùa ra giếng nước ngay bên cạnh ao thả cá rô phi sau khu biệt giam. Trời Tháng Giêng ở thung lũng tử thần lạnh như có ai cầm dao cắt vào da, nhất là khi trời vào tiết Xuân, gió hiu hiu làm lay động hàng dừa trong sân trại.

 “Cái lạnh thiên nhiên cộng với việc thiếu đường và chất béo từ 9 năm qua khiến cho buổi sáng ngày 30 Tết Nguyên Ðán năm 1984 trở thành buổi sáng không thể nào quên được trong đời. Chân tay anh em chúng tôi gần như tê liệt. Linh Mục Nguyễn Văn Vàng đứng như trời trồng trước cửa biệt giam số 5 khi ngài được trật tự mở còng cho đi tắm và làm tổng vệ sinh buồng giam.

“Một tu sĩ Công Giáo nhỏ con, lanh lẹ như một con sóc, nổi tiếng hùng biện và can trường như ngài mà chỉ mới hơn 3 năm bị cùm trong xà lim, thân xác không khác gì người tù Do Thái trong các trại tập trung của Ðức Quốc Xã hồi Thế Chiến Thứ Hai.

“Linh Mục Vàng đứng lên được nhưng không thể nào bước đi được… Tôi được tháo cùm sau Linh Mục Vàng, hai đầu gối tê cứng, thân mình xiêu đổ khi đứng lên và cũng được hai tù hình sự dìu ra giếng nước. Một trong hai tù hình sự đứng kéo nước từ giếng lên để xối cho chúng tôi biết ông Vàng là linh mục nên nói: “Cha ngồi xuống dựa vào bức tường chắn cho đỡ lạnh. Anh cũng vậy. Em kéo nước lên sẽ dội ra ngoài để che mắt bọn nó. Cả hai người yếu quá rồi chỉ nên thay quần áo chứ không thôi thì ở dơ không chết mà chết vì cảm lạnh đấy.” Chúng tôi thấy người tù hình sự này nói có lý nên làm theo.

“Cả hai chúng tôi ngồi cho đến hết giờ tắm để lại được dìu ra khỏi giếng nước đến ngồi ở bờ hè bên bức tường hông nhà bếp nơi có thùng nước nóng mà tù cải tạo đội nhà bếp xin mang ra để phát cho những tù nhân biệt giam ra tắm. Tôi cho ca nước của mình múc một ca, uống hết một nửa, một nửa đưa cho Linh Mục Vàng.

 “Ngài uống hết rồi múc thêm một nửa ca nữa. Tôi hỏi ngài: “Bố vẫn còn khát hả” Ngài trả lời: “Uống phòng xa.” Ðộng từ “phòng xa” anh em chúng tôi dùng để chỉ thời kỳ bị nhục hình bằng chính sách hai muỗng cơm, hai muỗng nước, hai muỗng muối khi chúng tôi bị nhận chìm vào cơn khát của những người đi trong sa mạc nên mỗi khi bị gọi ra “làm việc” phải xin uống cho thật nhiều nước trước lúc bị dẫn trở lại buồng giam rồi đái ra để uống cho đỡ khát.” (Vũ Ánh. Thung Lũng Tử Thần. Westminster, CA: Người Việt Books, 2014).

Tôi cũng đã đi qua đôi ba nhà tù, và cũng có dịp tìm biết qua sách báo/phim ảnh về nhiều loại trại giam ở khá nhiều nơi nhưng chưa thấy nơi đâu (kể cả những trại tập trung của Đức Quốc Xã) mà tù nhân phải uống nước thải để sinh tồn cả. Với “chính sách hai muỗng cơm, hai muỗng nước, hai muỗng muối” mỗi ngày (và tình trạng thường xuyên “bị nhận chìm vào cơn khát của những người đi trong sa mạc”) mà tù nhân vẫn còn có thể sống sót thì mới là chuyện lạ.

Linh mục Nguyễn Văn Vàng lìa đời trong xà lim, tại Trại Kiên Giam A20 vào tháng 4 năm 1985, qua lời tường thuật (và cảm thán) của một người đồng cảnh –  nhà báo Vũ Ánh:

“Cha Vàng lâm bệnh vào lúc sức khỏe của ngài đã quá yếu. Có lẽ ngài đã kiệt sức, sốt cao rồi đi vào hôn mê. Tôi đập cửa kêu cấp cứu suốt ngày, nhưng lúc tên trực trại chịu mở cửa để cho một y sĩ vào khám bệnh, thì mọi việc có vẻ quá muộn…

 “Trước đó, dù yếu và bệnh, ngài đã bàn với tôi là làm sao có được bánh thánh lúc ngài làm lễ nửa đêm trong Noel 1985 mà con chiên duy nhất trước ngài lúc đó lại là một Phật tử như tôi. Nhưng mơ ước của Ngài không thành, kể cả việc lớn trước đó là lập lực lượng võ trang để mong lật ngược lại tình thế của một đất nước vừa chìm đắm trong luồng sóng đỏ.

 “Nhưng dù ngài đã mất đi, trong suy nghĩ của tôi cho đến bây giờ, Linh Mục Nguyễn Văn Vàng vẫn là một ngọn lửa, âm thầm cháy như con cúi vải ngày nào bỗng bùng lên soi sáng cái không gian tăm tối của tất cả những xà lim đang hiện diện trên đất nước Việt Nam.”

Có bao nhiêu tu sỹ (Công Giáo, Phật Giáo, Cao Đài, Hòa Hảo) và bao nhiêu người dân Việt Nam đã bị “giết nguội” trong nhà giam một cách dã man và tàn độc như thế – gần thế kỷ qua – trong chế độ hiện hành?

Trao đổi với với BBC, luật sư Phạm Công Út, trưởng văn phòng luật Phạm Nghiêm phát biểu:

“Một khi kết quả giám định pháp y những vụ này không được công khai và vẫn được xem là ‘bí mật nhà nước’ thì người dân càng hoang mang và hoài nghi không biết chuyện gì sẽ xảy ra khi mình hoặc người thân được mời đến đồn công an.”

Không có nhà nước nào tồn tại mãi, những “bí mật” của mọi chế độ cũng thế. Rồi ra – chắc chắn – sẽ phải có những phiên tòa “muộn” về những cái chết oan khuất và thảm khốc của linh mục Nguyễn Văn Vinh (1971), thượng tọa Thích Thiện Minh (1978), linh mục NVV… Quá khứ cần phải được thanh thỏa để hậu thế có thể an tâm sống với hiện tại, và tránh bớt những lỗi lầm (cùng tội ác) cho mai sau.

Cựu trụ trì chùa ở Hưng Yên tham gia vụ ‘chạy án $2.2 triệu’ 

Cựu trụ trì chùa ở Hưng Yên tham gia vụ ‘chạy án $2.2 triệu’ 

July 8, 2022

HƯNG YÊN, Việt Nam (NV) – Ông Nguyễn Ngọc Triệu, 49 tuổi, tức Thượng Tọa Thích Đồng Huệ, cựu trụ trì chùa Nôm ở huyện Văn Lâm, thừa nhận cầm $400,000 trong vụ “chạy án” cho giám đốc bệnh viện thành phố Thủ Đức.

Theo báo Zing hôm 8 Tháng Bảy, sau khi bị phát giác, ông Triệu lập tức trả lại cho một “mắt xích” trong đường dây $100,000 và 2.39 tỷ đồng ($102,322).

Ông Nguyễn Ngọc Triệu, 49 tuổi, tức Thượng Tọa Thích Đồng Huệ, là cựu trụ trì chùa Nôm ở huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên. (Hình: Dân Việt)

Theo quy trình xử phạt giới chức tôn giáo, Thượng Tọa Thích Đồng Huệ bị bắt sau khi bị ép buộc hoàn tục hai ngày hồi Tháng Mười Một năm ngoái.

Ông Triệu là một trong sáu người bị Cơ Quan Cảnh Sát Điều Tra Bộ Công An CSVN đề nghị truy tố trong vụ “chạy án” cho ông Nguyễn Minh Quân, giám đốc bệnh viện Thủ Đức.

Báo Zing dẫn hồ sơ của công an cho hay, hồi năm 2021, ông Quân tìm người để nhờ lo lót nhằm không bị bắt, xử phạt do “có sai phạm về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng.” Vụ này sau đó được hiểu là vụ bê bối kit xét nghiệm COVID-19 của công ty Việt Á.

Theo sự sắp đặt của giới chức Bộ Công An CSVN, một người trong đường dây “chạy án” là ông Hà Duy Tuấn, được mô tả là “người lao động tự do,” nhận $1 triệu của ông Quân tại khu vực cổng sau của Bộ Công An ở Hà Nội.

Ông Tuấn khai rằng sau khi nhận tiền, ông này sáu lần mang đến chùa Nôm, đưa $970,000 cho sư trụ trì là ông Triệu để nhờ lo việc cho ông Quân. Tuy nhiên, ông Triệu chỉ thừa nhận với công an rằng đã nhận tổng số tiền $400,000.

Ông Triệu khai đã lấy $100,000 đóng kín vào hộp giấy kèm theo chiếc chuông gió phong thủy, mang đến gặp ông Vũ Văn Đắc, chủ tịch Hội Đồng Quản Trị công ty cổ phần môi trường Thuận Thành, để nhờ “tìm hiểu tình hình” để “chạy án” cho ông Quân.

Ông Triệu còn khai là do không giải quyết được vụ này nên đã trả lại cho Hà Duy Tuấn $100,000 và 2.39 tỷ đồng vào tài khoản ông này.

Hai nhân vật chủ chốt trong vụ “chạy án” cho ông Quân là ông Bùi Trung Kiên, cựu cán bộ Phòng 6, và ông Lê Thanh An, cựu cán bộ Phòng 5 thuộc Cơ Quan Cảnh Sát Điều Tra Bộ Công An.

Theo quy trình xử phạt giới chức tôn giáo, Thượng Tọa Thích Đồng Huệ bị bắt sau khi bị ép buộc hoàn tục hai ngày hồi Tháng Mười Một năm ngoái. (Hình: VOV)

Theo tờ Tuổi Trẻ, ông Kiên bị cáo buộc “lừa đảo chiếm đoạt tài sản,” trong lúc ông An bị đề nghị truy tố tội “môi giới hối lộ.”

Tổng cộng ông Kiên đã nhận $2.2 triệu trong vụ này.

Do nhận thấy “không nhờ vả được,” ông Quân đòi tiền nhưng ông Kiên chỉ trả lại $1.15 triệu trong số tiền đã nhận. Khoản còn lại, ông Kiên dùng để mua nhà đất ở nhiều địa phương. Sau đó, ông Quân nhờ người khác “móc nối” đưa $1.5 triệu cho ông Lê Thanh An “nhờ giúp đỡ.” (N.H.K) [qd]

Sổ tay thường dân -Tưởng Năng Tiến – Trần Khuê

Trần Khuê – Sổ tay thường dân -Tưởng Năng Tiến

“Một ngày phiên chợ, u tôi mua về đôi gà nhỏ. Hai con gà: một trống, một mái, dáng còn bé tí teo, như vừa mới lìa đàn. Suốt ngày chúng cứ rúc vào một góc sân và kêu chim chíp bằng một giọng thảm thương, ai oán!”

Những câu trên được trích dẫn từ tập truyện O Chuột mà tôi đã được cô giáo đọc cho nghe, khi còn thơ ấu. Hơn nửa thế kỷ đã qua nhưng tôi vẫn tin rằng mình vừa ghi lại “gần” đúng nguyên văn, theo trí nhớ. Sao tôi cứ thương mãi đôi gà côi cút đó, và có cảm tình hoài với tác giả của đoạn văn dẫn thượng.

Tô Hoài chắc chắn sẽ rất sung sướng khi biết có một người đọc đã nhớ nằm lòng cả một đoạn văn của mình, và (có lẽ) sẽ bớt sướng đi nhiều, nếu biết thêm rằng tôi chưa bao giờ đọc thêm một trang sách nào khác của ông.

Tôi sinh trưởng ở miền Nam, nơi mà trẻ con không đeo khăn quàng đỏ, không thi đua lập chiến công, cũng không có kế hoạch (lớn – nhỏ) nào phải hoàn thành. Chúng tôi chỉ có việc học với chơi, và chơi mới là chuyện chính. Tôi quá mãi chơi nên không rảnh để đọc sách vở của bất cứ ai.

Mãi cho đến khi cuộc chiến Bắc/Nam chấm dứt tôi mới bắt đầu để ý đến sách báo. Cũng như nhiều người dân miền Nam khác, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi  bỗng hoá ra rất rảnh, và rất … đói!

Tác phẩm duy nhất mà tôi tâm đắc, vào thời điểm đó, là Hồ Chí Minh Toàn Tập. Đây là bộ cuốn sách đồ sộ, giấy in cực tốt nhưng giá rất bèo nên được những bà và những cô bán hàng rong vô cùng ưa thích. Họ cần giấy để gói (hoặc để chùi) còn tôi thì cần một phần ăn nhiều hơn số tiền túi mình có thể mua.

Do đó, dù có đói thảm thiết tôi cũng chả bao giờ xà ngay xuống mẹt xôi hay mẹt bánh. Tôi chịu khó đi (lòng vòng) mua sách, rồi mới mang đổi lấy thức ăn, cho đỡ khổ cái dạ dầy!

Nói tình ngay, lỡ có thấy những tác phẩm của Tô Hoài – trong hoàn cảnh ấy – tôi chắc mình cũng sẽ ngó lơ thôi. Mắt tôi lúc nào cũng chỉ dáo dác, liếc nhìn ra biển, tìm một đường chui.

May mắn là tôi chui lọt.

Lưu lạc mãi, có hôm, tôi tình cờ gặp lại Tô Hoài trong tác phẩm (Cây Bút, Đời Người, nxb Phương Nam 2002) của nhà phê bình xã hội & văn học Vương Trí Nhàn:

“Ngay từ năm 1940, khi bắt tay làm quen với giới sáng tác đương thời, thì đồng thời tác giả Dế Mèn cũng bước vào hoạt động cách mạng…  Mặt khác, ngay trong giới cầm bút, ông cũng luôn luôn có hoạt động xã hội của mình, khi là Phó Tổng thư ký Hội Nhà Văn, khi chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội, từ đó đẻ ra cơ man nào là đầu việc, là họp hành, mà người ta gọi chung là công tác.” (sđd 264).

Tiểu sử Tô Hoài (như thế) có vẻ lung tung lang tang, ngổn ngang cả đống chức vụ, nhưng không để lại một ấn tượng đậm nét nào về đời người và cây bút của ông. Tô Hoài như luôn bị nhấn chìm vào những đoàn đội hay đoàn thể (vớ vẩn) gì đó, “với cơ man nào là đầu việc”. Toàn là những công việc chán ngán và nhạt nhẽo, tôi đoán thế.

Được thế thì đã phúc!

Cuộc đời của Tô Hoài chán ngán (hẳn) có thừa nhưng nhạt nhẽo thì chưa chắc, và đắng chát với tủi nhục (xem ra) không thiếu – vẫn theo như ghi nhận của Vuơng Trí Nhàn: “Đại khái có thể hình dung như cái cảnh đứa bé bị qùy, thì cũng quỳ đấy, song mắt vẫn liếc về phía mọi người đùa bỡn. Xá gì chuyện này, qùy cho xong nợ, tí nữa lại tha hồ tung tẩy.” (sđd 266).

Tôi thực muốn ứa nước mắt xót xa cho “cây bút” và “đời người” của Tô Hoài khi biết rằng (đôi lúc) ông vẫn phải qùi như thế. Tôi còn e rằng Vuơng Trí Nhàn chỉ khéo miệng mà nói thế (để đỡ tủi cho nhau) chứ chuyện “đùa bỡn” và “tha hồ tung tẩy” làm sao tìm được trong “cây bút” và “đời người” (chật hẹp) của Tô Hoài!

Đến như Nguyễn Tuân – dù vốn tính bất tuân – khi phải mặc đồng phục, trông cũng rúm ró và thảm hại chả kém gì cái hình ảnh Tô Hoài cả. Ở vào hoàn cảnh đó, mới hiểu và thông cảm cho sự cuống cuồng của một người – vốn tính đồng bóng và yếu bóng vía – như Xuân Diệu:

“Xuân Diệu sợ chúng tôi say sưa quá, bốc đồng quá tử vì đạo, rồi không giữ được ngòi bút của mình. Hơn ai hết, ông hiểu về những lưỡi gươm Damoclès thường xuyên treo trên đầu người làm văn nghệ. Khi nói chuyện này đột nhiên giọng ông đột nhiên nhỏ hẳn đi, khe khẽ thì thào. Rồi ông lắc đầu, ông le lưỡi, ý bảo rằng sợ lắm, mà cỡ các cậu thì càng phải nên biết sợ ngay thì vừa, nên nhớ là sau có hối cũng không kịp nữa” (sđd 295).

Xuân Diệu đã chết. Cái cung cách và thái độ ‘đột nhiên giọng nhỏ hẳn đi’, ‘khe khẽ thì thào”, “lắc đầu”, “le lưỡi” cũng … chết luôn. Thế hệ của những người cầm bút kế tiếp, không có vẻ gì là hào hứng và sẵn sàng tiếp nhận sự khiếp đảm mà Xuân Diệu muốn truyền đạt cho họ.

Trần Khuê là một trong những người này.

Ông đòi đổi tên Nước, tên Đảng, đòi hủy bỏ điều 4 hiến pháp, đòi Trường Chinh phải xin lỗi Kim Ngọc (bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phú, tác giả của Khoán 10), đòi Tố Hữu phải xin lỗi những văn nghệ sĩ trong nhóm Nhân Văn, đòi Lê Đức Thọ phải xin lỗi những người trong “vụ án xét lại”, đòi lập Hội Chống Tham Nhũng …

Nói tóm lại là Trần Khuê không để yên cho bất – cứ – cái – gì và bất – cứ – ai, kể cả những nhân vật được coi là untouchable:

“Chúng ta đề nghị Tổng cục thống kê và Bộ tài chính thử tính sổ xem 30 năm qua ta đã tiêu tốn vào lăng Người tổng số là bao nhiêu tiền của… Và thử xem riêng ngân sách dụ chi cho năm 2000 xem có thể xây được bao nhiêu trường học cho một ngàn xã hãy còn trắng về giáo dục ở miền cao. Có thể xây bao nhiêu căn nhà để nuôi trẻ mồ côi … Có thể xây bao căn nhà dưỡng lão cho người già lão cô đơn, không nơi nương tựa. Có thê xây bao nhiêu nhà thương làm phúc chữa bệnh cho người nghèo …” (Trần Khuê – Ng. T. Thanh Xuân, Đối Thoại Năm 2000).

Đến cỡ như bác Hồ (dù đã mồ yên mả đẹp) mà còn bị hạch hỏi đủ điều như thế thì có ai khác mà được không bị … làm phiền. Mọi kẻ có chức quyền, từ Tổng Bí Thư trở xuống – kể cả ông TBT Giang Trạch Dân của nuớc bạn Trung Hoa vĩ đại – đều bị mang ra hỏi tội và chửi mắng (xối xả) vì sự ngu dốt, cũng như tội gian tham – của từng người một!

Thảo nào mà đã có lúc Trần Khuê được mô tả như một Sao Khôi hoặc Sao Khuê. Vì sao này (tiếc thay) lại “khi tỏ khi mờ,” theo nhận xét của một vị thức giả cùng thời – nhà văn Phạm Đình Trọng:

Trần Khuê thấy được giữ lại thi thể Hồ Chí Minh trong hòm kính dù đặt trong nhà hầm vẫn là tênh hênh trên mặt đất, là không thuận ý nguyện cuối cùng, ý nguyện thiêng liêng nhất của người chết, không thuận qui luật tự nhiên, là đày đọa thân xác người quá cố và tạo ra cái thùng không đáy ngốn tiền mồ hôi nước mắt dân. Nhận ra những cái có hại sờ sờ như vậy, Trần Khuê đòi đốt xác Hồ Chí Minh nhưng hồn vía Trần Khuê vẫn thuộc về Hồ Chí Minh.

Sắt son với con người rước họa cộng sản về đày đọa người dân Việt Nam, thờ phụng con người mất gốc không còn hồn Việt Nam là khoảng mờ rất đáng tiếc của ngôi sao Khuê họ Trần.

Kể cũng “hơi” tiếc thật nhưng vẫn hơn rất nhiều vị thức giả (cùng thời) chỉ sống cả đời trong cái khoảng mờ!

Tưởng Năng Tiến
7/2022

THẢM HẠI…

8 SÀI GÒN

THẢM HẠI…

Thì ra, họ nó đã đổi xong bia “liệt sĩ vô danh” ở nhiều tỉnh rồi, trong hình là Quảng Nam.

Cha nó lú thì phải có chú nó khôn chứ! Chẳng lẽ ông bộ trưởng dốt đã đành rồi nhưng cả bộ máy không còn ai khác biết tiếng Việt nữa sao?!

Nhắc lại, “vô danh” là một tính từ, không phải danh từ. Kẻ nào “dịch” “vô danh” thành “không tên” là cực kỳ dốt nát. Vô danh có nghĩa là không biết tên, không có tiếng tăm, không nổi tiếng…, chứ không phải không có tên!

Vô danh cũng không phải “khuyết danh”, vì khuyết danh chỉ có nghĩa là không biết tác giả là ai, và chỉ dùng trong trường hợp đối với các tác phẩm nghệ thuật. Không ai nói “người khuyết danh” bao giờ cả! Tác phẩm “Thoại Khanh – Châu Tuấn” là khuyết danh, nhưng tên nó là “Thoại Khanh – Châu Tuấn”, chứ không phải nó không có tên.

Đó là chưa kể đến việc nếu đổi từ Hán-Việt “vô danh” thành “chưa xác định được thông tin” thì sao không đổi nốt mấy chữ còn lại: “Liệt sĩ” thành “người chết trong khi làm nhiệm vụ”; “hi sinh” đổi thành “chết”?

Tôi đề nghị, dừng ngay cái việc làm có tính phá hoại này: phá hoại tiền của, phá hoại văn hóa – tâm linh, phá hoại tiếng nói dân tộc.

THÁI HẠO

Bộ Ngoại giao: Tây Ban Nha đang thu thập chứng cứ vụ án tố 2 nghệ sĩ Việt hiếp dâm

Bộ Ngoại giao: Tây Ban Nha đang thu thập chứng cứ vụ án tố 2 nghệ sĩ Việt hiếp dâm

07/07/2022

Bãi biển ở đảo Mallorca, Tây Ban Nha, nơi thu hút nhiều du khách quốc tế đến tham quan, nghỉ dưỡng. Hai nghệ sĩ Việt Nam bị tố cáo xâm hại tình dục tại đảo này.

Bộ Ngoại giao Việt Nam hôm 7/7 cho biết các cơ quan chức năng Tây Ban Nha hiện đang thu thập các thông tin, chứng cứ để phục vụ cho việc điều tra vụ án tố cáo hai nghệ sĩ nổi tiếng của Việt Nam hiếp dâm một thiếu nữ người Anh trong lúc đi du lịch tại đây.

“Hai công dân nói trên sức khoẻ bình thường, được hỗ trợ pháp lý theo đúng quy định”, người phát ngôn Lê Thị Thu Hằng cho biết trong cuộc họp báo vào ngày 7/7 khi được yêu cầu cung cấp thông tin chi tiết về tình hình hai công dân Việt Nam, được cho là diễn viên Hồng Đăng và nhạc sĩ Hồ Hoài Anh, hiện đang bị cảnh sát Tây Ban Nha điều tra với cáo buộc xâm hại tình dục.

Trước đó, vào ngày 1/7, Bộ Ngoại giao Việt Nam xác nhận Đại sứ quán Việt Nam tại Tây Ban Nha đã nhận được thông báo từ cảnh sát đảo Mallorca của nước này cho biết đã bắt giữ 2 công dân Việt Nam với cáo buộc “xâm hại tình dục đối với trẻ vị thành niên 17 tuổi” và “xâm phạm quyền riêng tư”, sau khi hàng loạt hãng truyền thông Anh và Tây Ban Nha đưa tin một thiếu nữ Anh 17 tuổi đã tố cáo với cảnh sát Tây Ban Nha rằng cô đã bị hai người là “nam diễn viên và nhạc sĩ nổi tiếng” người Việt, ở độ tuổi 37 và 42, cưỡng hiếp trong khách sạn tại Majorca (Mallorca), sau khi cô gặp các nghệ sĩ này ở một nhà hàng gần đó và giao lưu với họ.

Hai nghệ sĩ Việt đã bị cảnh sát Tây Ban Nha bắt vào ngày 25/6 và ra hầu tòa vào ngày 28/6. Mặc dù đã được tại ngoại, nhưng họ bị tịch thu hộ chiếu, bị cấm rời khỏi Tây Ban Nha trong khi cuộc điều tra đang diễn, theo truyền thông địa phương của Tây Ban Nha.

Thiếu nữ người Anh đã trở về nước cùng với gia đình sau khi đưa lời khai đầy đủ cho cảnh sát Tây Ban Nha.

Trả lời tại buổi họp báo ngày 7/7, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết thêm rằng “Đại sứ quán đã khẩn trương bước đầu triển khai các biện pháp bảo hộ công dân”, và những thông tin liên quan đến vụ án cũng như việc bảo hộ công dân “sẽ được Bộ Ngoại giao cung cấp theo đúng chức năng nhiệm vụ và thẩm quyền phù hợp với quy định của pháp luật Việt Nam”.

Cho đến nay, mặc dù danh tính của hai nghệ sĩ người Việt vẫn chưa được các cơ quan chức năng tiết lộ, nhưng công luận và truyền thông Việt Nam đều đưa thông tin ám chỉ đến diễn viên Hồng Đăng và nhạc sĩ Hồ Hoài Anh, là hai nghệ sĩ có cùng độ tuổi và cũng đang có chuyến công tác kết hợp nghỉ dưỡng tại Italy và tại đảo Majorca của Tây Ban Nha.

Sau khi thông tin về vụ bê bối được đưa ra, hai nghệ sĩ này dù chưa xuất hiện nhưng đã bị các hình thức kỷ luật ảnh hưởng nặng nề đến sự nghiệp.

Ngay ngày 1/7, ngày đầu tiên thông tin được công bố tại Việt Nam, Đài truyền hình Việt Nam (VTV) đã ra chỉ thị thay thế hoặc cắt bỏ tất cả các chương trình có sự xuất hiện của diễn viên Hồng Đăng và nhạc sĩ Hồ Hoài Anh, dù họ đang là hai tên tuổi đang ăn khách của làng giải trí Việt.

Đến tối 1/7, Ban giám đốc Học viện Âm nhạc Quốc gia Việt Nam, nơi nhạc sĩ Hồ Hoài Anh đang là giảng viên, đã có cuộc họp khẩn cấp và đưa ra quyết định đình chỉ công tác của nhạc sĩ này với lý do “vi phạm quy định tự động ra nước ngoài nhưng không xin phép hay thông báo tới nhà trường”.

Hôm 5/7, Thứ trưởng Bộ Văn hóa – Thể thao và Du lịch Tạ Quang Đông cho biết diễn viên Hồng Đăng và nhạc sĩ Hồ Hoài Anh đã có luật sư và vẫn đang ở Tây Ban Nha để chờ gặp thẩm phán.

Những con số nóng mặt

Những con số nóng mặt

Lưu Trọng Văn

6-7-2022

Việc phổ cập giáo dục và miễn học phí đã được hiến định từ Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1946, trong đó có quy định: “Nền sơ học cưỡng bách và không học phí…”; Hiến pháp những năm 1959, 1980 đều có quy định tương tự và còn cao hơn nữa.

Luật Giáo dục năm 2019, có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2020, trong đó nêu rất cụ thể “giáo dục bắt buộc là giáo dục mà mọi công dân trong độ tuổi quy định bắt buộc phải học tập để đạt được trình độ học vấn tối thiểu theo quy định của pháp luật và được Nhà nước bảo đảm điều kiện để thực hiện.”

Vậy thì kiến nghị của TS Nguyễn Kim Sơn bộ trưởng GD&ĐT vừa trình chính phủ yêu cầu miễn phí cho học trò trung học cơ sở hệ quốc doanh là quá… quá ư là chậm trễ.

Có thể nói toẹt: Chậm trễ đến mức xấu hổ. Chậm trễ đến mức thấy quá xúc phạm lòng tự tôn của người Việt và của quốc gia mang tên cộng hoà XHCN.

Thước đo để một thể chế tự hào có mang tính XHCN hay không, bao giờ giáo dục cũng là chỉ số đầu tiên.

Vậy thì nền giáo dục của VN đang ở đâu nếu tính theo quyền học trò được miễn phí khi đến trường?

Theo TS Nguyễn Hồng Cổn thì:

Bảng thống kê thời lượng giáo dục bắt buộc (ứng với số năm học được miễn phí hoàn toàn) ở 171 nước trên thế giới, đăng trên trang NationMaster – một trang chuyên cung cấp số liệu thống kê và so sánh giữa các nước (xem link):

Xem kỹ cái bảng này thì thấy trong 171 nước có:

– 6 nước miễn phí 13 năm

– 9 nước miễn phí 12 năm

– 18 nước miễn phí 11 năm

– 35 nước miễn phí 10 năm

– 37 nước miễn phí 9 năm

– 17 nước miễn phí 8 năm

– 15 nước miễn phí 7 năm

– 27 nước miễn phí 6 năm

– 6 nước miễn phí 5 năm

– 1 nước miễn phí 4 năm

Như vậy Việt Nam xếp thứ 165/171 đồng hạng với 5 nước vào loại lạc hậu nhất thế giới đó là Pakistan, Banglades, Nepal, Myanma, Guinea có số năm miễn học phí ít nhất (5 năm), chỉ hơn một nước duy nhất là Angola (4 năm).

Không biết khi đưa ra kiến nghị miễn phí cho học sinh trung học cơ sở, ngài bộ trưởng GD&ĐT có gửi cho chính phủ và đặc biệt cho Quốc hội các số liệu tụt hậu ê chề đến nóng mặt dân Việt này không?

Mà nếu chỉ dân Việt nóng mặt thì có tác dụng gì cơ chứ?

THƯ KỸ SƯ NGUYỄN LÂN THẮNG GỬI CON GÁI

Nguyễn Kim Chi

Nguyễn Ngọc Nam Phong

THƯ KỸ SƯ NGUYỄN LÂN THẮNG GỬI CON GÁI

(Thư gửi bé Đậu)

Con thương yêu của bố.

Khi sinh con ra trên đời này thì bố mẹ đã đến tuổi có thể sắp có cháu, đó là một thiệt thòi rất lớn với con. Mẹ hay đùa là bố mẹ chỉ còn khoảng ba chục năm nữa ở bên con, biết làm sao được với số phận con nhỉ. Nhưng bố vẫn ngàn lần cảm ơn số phận đã mang con đến cho bố mẹ, bố chấp nhận những khó khăn không thể tránh khỏi khi mai này con lớn lên trong cảnh cha già con cọc. Chính vì thế bố muốn viết thư này cho con để mai sau, khi nhỡ ra con còn chưa hiểu việc đời mà bố đã đi xa thì đây là những dòng tâm tư để con hiểu được lòng bố.

Con được sinh ra trong hoàn cảnh xã hội rất rối ren, lòng người ly tán, đất nước bị xâm lăng. Gia đình mình vốn thuộc loại công thần trong xã hội miền Bắc, được nhiều người quyền cao chức trọng cũng như người dân nể trọng. Nếu xã hội vẫn bình bình như trước đây thì đó là một lợi thế mà chắc chắn con sinh ra sẽ được đủ đầy hơn mọi người. Nhưng than ôi, cái chế độ mà gia đình ta cũng như nhiều gia đình khác đổ cả máu và mồ hôi để phụng sự nó hàng chục năm về trước đã không còn vì đất nước, vì nhân dân nữa. Người ta đã phản bội tất cả những gì đã hứa với dân để vun vén cho quần thần, cho gia tộc của họ. Tham nhũng tràn lan, đạo đức băng hoại, tài nguyên kiệt quệ, công nhân làm đĩ, nông dân ăn mày, trí thức hạ mình, tổ quốc lâm nguy, nợ nước ngoài đến đời con chắc chắn chưa trả được.

Tất cả những điều đó là hậu quả của sự nói dối. Người ta nói dối để có nhiều người ủng hộ cách mạng cướp chính quyền. Người ta nói dối để dân tộc lao vào đánh nhau như quân thù hòng phục vụ mưu đồ của nước lớn. Người ta nói dối để giữ vững quyền lực sinh sát điều khiển xã hội muôn đời. Người ta nói dối để người dân tự hào trong vũng lầy nghèo đói. Kẻ nào dám thốt lên sự thật ngược ý họ thì không những bản thân mà gia đình sẽ khốn nạn. Thế rồi khi sống trong sự dối trá hơn nửa thế kỷ, cả xã hội dần quên đi những gì thuộc về quy luật của tự nhiên, đó là sự thật. Không có sự thật thì vĩnh viễn không cái gì có thể tồn tại và phát triển được. Cái cây muốn tồn tại được thì cái rễ phải lần tìm đến chỗ có nước, cái lá phải vươn đến ánh mặt trời. Sẽ ra sao nếu nó bị đánh lừa đến chỗ không có nước, không có nắng… con người cũng như vậy thôi con ơi.

Sự thật là điều kiện sống còn để mọi cơ thể sống trong tự nhiên hay cấu trúc xã hội phát triển. Mọi cơ thể sống thì phải có sự trao đổi chất, nếu thông tin phản hồi méo mó thì mọi cấu trúc sống sẽ không thể tự hấp thu hay loại bỏ những gì cần thiết trong quá trình tồn tại và phát triển. Xã hội loài người cũng vậy, và vì thế sự thật mới quan trọng đến nhường nào. Thế mà vì sự thật, đã bao người thức tỉnh vùng lên đấu tranh trong xã hội để rồi nhận lấy kết cục bi thảm khôn lường. Cũng có những người vì mạng sống của họ, vì gia đình của họ, họ phải chấp nhận sống chung với sự giả dối. Bố không trách họ vì quyền được sống của mỗi con người là tối cao, nhưng nếu cứ chấp nhận mãi như vậy thì hậu quả đã rõ ràng. Đó chỉ là cách sống mòn và thế hệ sau đã lãnh đủ.

Bố có thể có nhiều lựa chọn. Nếu chấp nhận cuộc sống giả dối, tung hô những điều dối trá, tận dụng những quan hệ và lợi thế sẵn có thì sẽ chả thiếu thứ gì. Rồi khi mai này đất nước tan hoang, ta có thể ra nước ngoài sinh sống không cần biết nước Việt ra sao. Rồi con sẽ được sống trong môi trường bình yên với những điều kiện giáo dục, y tế, văn hóa tốt nhất. Nhưng con ơi, không ai chọn được tổ quốc, không ai lựa được gia đình. Bố yêu con như thế nào thì bố cũng yêu mảnh đất này như thế. Bố không thể chấp nhận làm kẻ bỏ chạy mà phải chiến đấu bằng được để giữ mái nhà tổ quốc này cho con. Bố không thể nhởn nhơ sống cho riêng mình khi xung quanh toàn khổ đau và nước mắt. Đối với bố đó không phải là hạnh phúc. Bố ước gì con được sống trong một tương lai tốt đẹp hơn bố. Con được sống trong tình thân ái, trong niềm tin, niềm hân hoan và những thứ mà một con người đáng được hưởng.

Có thể bố sẽ thất bại. Có thể bố sẽ không được ở bên con ba mươi năm còn lại như dự tính. Nhưng dù thế nào bố cũng đã quyết định thế rồi, và nếu cuộc đời con gặp những khó khăn vì bố gây ra thì xin con hãy nhớ về một ông bố đã tuyệt vọng chiến đấu để con có cuộc sống hạnh phúc đích thực mà tha thứ cho bố.

Bố yêu con rất nhiều, bé Đậu tuyệt vời của bố!

Gia Tài Của Mẹ

Gia Tài Của Mẹ

Báo Tiếng Dân

Lê Minh Nguyên

2-7-2022

Tất cả những công trình vĩ đại do con người làm ra trên thế giới, từ vật chất như đường hầm dưới biển, cho tới tinh thần qua các tác phẩm văn chương nghệ thuật như truyện Kiều của Nguyễn Du, đều do sức tưởng tượng phong phú của trí tuệ con người mà ra.

Sự tưởng tượng đưa tới sự sáng tạo, và sự sáng tạo đưa tới sự hiện thực. Tiến trình này chỉ có thể thực hiện được khi mà tư tưởng được tự do, được bay bổng mà bầu trời là giới hạn. Muốn được vậy thì con người phải được sống trong môi trường tự do, nhất là tự do tư tưởng.

Trên phương diện văn học nghệ thuật, Việt Nam có ba nhạc sĩ lớn là Văn Cao, Phạm Duy và Trịnh Công Sơn.

Văn Cao thời tiền chiến chưa bị trói buộc về tư tưởng nên đã cho ra những tác phẩm tuyệt vời như Suối Mơ, Thiên Thai, Làng Tôi… Nhưng khi ở lại miền Bắc, sống dưới chế độ cộng sản thì tự do không còn nữa, ông tịt ngòi! Tựa như Hoàng Cầm qua tâm trạng Lá Diêu Bông, tức chiếc lá tự do mà ông không bao giờ tìm ra được, dù người ông yêu đã có chồng đến mấy mặt con.

Phạm Duy nhờ di cư vào Nam mà những tác phẩm của ông phong phú và tuyệt vời, bởi vì ông được sống trong môi trường tự do của miền Nam Việt Nam. Khi ông qua Mỹ cũng vậy, ông tiếp tục tự do sáng tác và say mê trong thế giới âm nhạc.

Trịnh Công Sơn ở miền Nam trước năm 1975, cũng như Phạm Duy, ông cho ra những tác phẩm phong phú, đánh động lòng người, phản ảnh được nỗi lòng của dân chúng là không thích chiến tranh, yêu chuộng hòa bình, giống như người dân Ukraine hiện nay. Chiến tranh gây ra là do miền Bắc đem hàng chục sư đoàn với chủ trương bạo lực cách mạng để thôn tính miền Nam. Nhưng sau tháng 4/1975, Trịnh Công Sơn ở lại Việt Nam và không còn nhạc phẩm nào có giá trị nữa.

Điều này cho thấy, một đất nước tự do sẽ tạo ra người tài giỏi, và một đất nước chỉ thực sự hùng mạnh khi mà mỗi con dân trong đất nước đó đều tài giỏi.

Đất nước hùng mạnh không phải là đất rộng, dân đông, tài nguyên phong phú, mà là năng lực của mỗi một người dân trong đất nước đó. Nhật, Anh, Thụy Sĩ, Đài Loan, Nam Hàn, Singapore… là những điển hình.

Ngày nay Việt Nam vẫn còn dưới chế độ độc tài cộng sản, một chế độ mà đã gần nửa thế kỷ có hoà bình vẫn còn sợ một bài ca phản chiến.

Một đất nước mà chính quyền không phải là bạn dân, lúc nào cũng sợ dân, coi dân như thù địch. Đó không phải là một đất nước thực sự ổn định.

Một đất nước mà đại khối quần chúng đều bị tịt ngòi không phát triển được năng lực để trở thành người tài giỏi. Ngay cả một nhóm tu hành nhỏ như Tịnh Thất Bồng Lai, được vài em bé có năng lực, thành công trên môi trường thế giới, cũng bị trù dập. Trong khi giai cấp lãnh đạo thì chỉ biết nịnh bợ, trung thành để thăng tiến và tham nhũng. Hậu quả là sau vài thập niên, giai cấp lãnh đạo càng ngày càng bất tài, càng tham ô, càng gia tộc hoá chính quyền, nên rất sợ quần chúng tài giỏi, vì nó đe dọa giai cấp ký sinh trùng của họ đang tàn phá cơ thể Việt Nam.

Một bên là giai cấp đè đầu cởi cổ nhưng bất tài vô tướng, chỉ biết tham nhũng và nhận giặc làm đại ca để chống lưng chế độ, và một bên là đại khối dân chúng bị kìm hãm năng lực phát triển, thì đúng như câu hát của Trịnh Công Sơn: Gia tài của Mẹ là nước Việt buồn!

 Nhà boạt động, blogger Nguyễn Lân Thắng bị bắt với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước” (RFA)

 Nhà boạt động, blogger Nguyễn Lân Thắng bị bắt với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước”

RFA

2022.07.05

Nhà hoạt động Nguyễn Lân Thắng

 Facebook Nguyễn Lân Thắng

Nhà boạt động, blogger Nguyễn Lân Thắng vào ngày 5/7 bị bắt với cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước.”

Truyền thông nhà nước Việt Nam đưa tin Công an thành phố Hà Nội đã bắt giữ nhà hoạt động- Facebooker Nguyễn Lân Thắng với cáo buộc “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo Điều 117 của Bộ luật Hình sự. Lệnh khởi tố và bị bắt cũng được Viện Kiểm sát Nhân dân thành phố phê chuẩn.

Theo một người thân của gia đình, ông Nguyễn Lân Thắng bị bắt vào khoảng 8 giờ sáng khi đang trên đường đi uống cà phê sáng ở phường Thịnh Quang. Công an đưa ông đi luôn và sau đó quay lại khám xét nhà riêng của ông, tịch thu điện thoại, laptop và một số sách về nhân quyền.

Ông Thái Văn Đường, một người đang xin tị nạn chính trị tại Thái Lan, cho biết, ông có thời gian tham gia các cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội và một số lần bị cơ quan an ninh đưa về đồn công an cùng với ông Nguyễn Lân Thắng. Ông nói với RFA như sau:

“Nguyễn Lân Thắng là một người hoạt động khá tiêu biểu ở Việt Nam nói chung và ở Hà Nội nói riêng, một người đấu tranh trong phong trào dân chủ.

Anh Thắng ngoài hoạt động trên mạng xã hội còn có các hoạt động bên ngoài khá là nhiều. Không chỉ một mình tôi mà các anh em trong nước và báo đài quốc tế biết đến anh Thắng là một người hoạt động xuất sắc, không phải như những lời những người đánh phá nói anh Thắng thế này, thế kia.

Chỉ có những người từng tiếp cận, tiếp xúc với Nguyễn Lân Thắng rồi mới hiểu được tính cách và cái cách hoạt động của Nguyễn Lân Thắng.”

Ông Thái Văn Đường cho biết thêm, chính sách đàn áp của chính quyền Hà Nội ngày càng tinh vi, nếu như trước đây bắt chủ yếu những người mới lên tiếng trước bất công thì từ năm 2020, cơ quan an ninh chuyển hướng sang bắt nhiều nhà hoạt động kỳ cựu và sau đó tuyên các bản án nặng nề.

Bình luận về vụ bắt giữ nhà hoạt động, blogger Nguyễn Lân Thắng, ông Phil Robertson- Phó giám đốc phân ban Châu Á của tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW) nói với Đài Á Châu Tự Do qua email:

“Cuộc đàn áp quá mức và không thể chấp nhận được của chính quyền Việt Nam đối với quyền tự do ngôn luận vừa khiến một nạn nhân khác phải đối mặt với phiên tòa xét xử bởi tòa án Kangaroo (phiên tòa xét xử thiếu bằng chứng) và nhiều năm tù giam vì nói ra suy nghĩ của mình. Ông Nguyễn Lân Thắng vận động cải cách dân chủ và công lý một cách ôn hoà nên cần được tôn trọng và lắng nghe hơn là đối mặt với loại đàn áp phi lý này. Các chính phủ trên khắp thế giới nên yêu cầu trả tự do ngay lập tức và vô điều kiện cho ông Nguyễn Lân Thắng, đồng thời gây áp lực buộc Hà Nội phải ngăn chặn làn sóng lạm dụng này.”

Ông Phil Robertson nói thêm rằng ông không hiểu hoạt động cụ thể nào của ông Nguyễn Lân Thắng dẫn tới vụ bắt giữ như vừa nêu.

Ông Nguyễn Lân Thắng xuất thân từ một gia đình khoa bảng ở Hà Nội. Ông nội ông là giáo sư Nguyễn Lân, tác giả cuốn Từ điển tiếng Việt được sử dụng từ nhiều thập niên qua. Nhiều người con của cụ Nguyễn Lân là giáo sư, tiến sỹ, hoặc bác sỹ nổi tiếng của Việt Nam.

Ông Nguyễn Lân Thắng (sinh năm 1973) là kỹ sư xây dựng. Ông tham gia phong trào biểu tình chống Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Việt Nam từ năm 2011 và là một trong số những thành viên cốt cán của Phong trào No-U.

Ông còn là một nhà nhiếp ảnh với nhiều hình ảnh và video về biểu tình vì chủ quyền biển đảo và đấu tranh chống bất công ở Việt Nam, và là một Facebooker với hơn 152.000 người theo dõi.

Ông còn tham gia nhiều hoạt động thiện nguyện, như cứu trợ đồng bào miền Trung bị bão lụt, và xây trường cho trẻ em vùng cao.

Năm 2013, ông bị câu lưu ở sân bay Nội Bài và tra khảo bởi an ninh sau khi trở về từ Thái Lan và Philipine nơi ông học một khoá học dân sự và gặp quan chức nhân quyền của Liên Hiệp quốc để báo cáo về vi phạm nhân quyền ở Việt Nam.

Một năm sau, ông bi cấm xuất cảnh trên đường sang Hoa Kỳ để tham dự Ngày Tự do Báo chí Thế giới tổ chức bởi UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc).

Nhiều lần gia đình ông bị tấn công bởi lực lượng dân sự thân với chính quyền Việt Nam.

Ông Nguyễn Lân Thắng có những bài đóng góp trên trang blog của Đài Á Châu Tự do từ cuối năm 2013.

Theo thống kê của Đài Á Châu Tự Do, Việt Nam đã bắt giữ ít nhất 19 người thuộc giới bất đồng chính kiến từ đầu năm đến nay, hơn một nửa trong số này bị cáo buộc “tuyên truyền chống nhà nước” theo Điều 88 của Bộ luật Hình sự 1999 hoặc Điều 117 của Bộ luật Hình sự 2015, với mức án tù từ ba đến 12 năm tù, có khi lên tới 20 năm tù nếu bị kết tội. Cũng trong thời gian này, năm người đã bị kết tội theo tội danh này với mức án từ năm năm đến tám năm tù giam.

SỨC MẠNH CỦA CHỦ NGHĨA NGU DÂN – Nhà văn Dương Thu Hương.

TrongDe Ho

SỨC MẠNH CỦA CHỦ NGHĨA NGU DÂN

Nhà văn Dương Thu Hương.

Một lần, một nhà văn Pháp hỏi tôi:

– Cái gì tạo nên sức mạnh của chúng mày trong cuộc chiến tranh Việt-Mỹ?

Tôi đáp:

– Một nửa là thói quen của hàng ngàn năm chống xâm lược. Nửa kia là sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân.

Anh bạn chưng hửng:

– Mày không đùa đấy chứ? Ai có thể tin nổi một thứ lý thuyết quái gở như thế.

Tôi cười:

– Rất nhiều thứ quái gở ở phương Tây lại là sự thực đơn giản ở phương Đông. Và ngược lại.

Bây giờ, tôi xin giải thích “thứ lý thuyết quái gở” này.

Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ được đảng cộng sản phát động với lời tuyên bố: Đánh đuổi quân xâm lược Mỹ.

Năm 1964, tôi mười bẩy tuổi. Vào tuổi ấy, tất thảy thanh niên ở miền Bắc không có quyền nghe đài nước ngoài, không có ti-vi, không có máy quay đĩa, không có bất cứ nguồn thông tin nào ngoài báo chí cộng sản và đài phát thanh trung ương. Lần đầu tiên, tôi được nghe những bài hát nước ngoài là năm tôi mười sáu tuổi. Mùa hè năm 1963, anh họ tôi là phiên dịch tiếng Nga dẫn tôi cùng đứa em trai đến nhà ông chuyên gia mỏ thiếc Tĩnh Túc ở Hà Nội. Ông bà ấy đón tiếp rất tử tế, ngoài việc chiêu đãi bánh ngọt và nước trà chanh, còn mở máy quay đĩa cho chúng tôi nghe. Cảm giác của tôi lúc đó là choáng váng, như muốn chết. Đó là cảm giác thật sự khi con người lạc vào một thế giới mà họ vừa cảm thấy ngây ngất vừa cảm thấy như ngạt thở. Đĩa nhạc đó là của Roberto… (không nhớ họ), một giọng ca Ý tuyệt diệu nhưng chết trẻ. Những bài hát tôi nghe là các bài nổi tiếng cổ truyền: Ave Maria, Santa Lucia, Paloma, Sérénade, Histoire d’amour, Besame Mucho…

Ra khỏi cửa nhà ông chuyên gia Nga nọ, tôi bước đi loạng choạng. Lần đầu tiên, tôi hiểu rằng cuộc sống của chúng tôi là cuộc sống của những kẻ bị nhốt dưới hầm. Những bài hát kia là một thứ ánh sáng mà lần đầu tiên tôi được thấy. Ánh sáng đó rọi từ một thế giới khác, hoàn toàn ở bên ngoài chúng tôi. Kể lại chuyện này, để hậu thế nhớ rằng, thời đại của chúng tôi là thời đại của một thứ chủ nghĩa ngu dân triệt để. Một thứ chủ nghĩa ngu dân tàn bạo, nó buộc con người sống như bầy súc vật trong một hàng rào được xây nên bằng đói khát, hà hiếp và tối tăm.

Khi con người bị điều khiển cùng một lần bằng tiếng gào réo của dạ dầy và cái bỏng rát của roi vọt thì họ không thể là người theo nghĩa thực sự. Chủ nghĩa ngu dân là thứ lá chắn mắt ngựa, để con vật chỉ được quyền chạy theo chiều mà ông chủ ra lệnh. Khi tất cả những con ngựa đều chạy theo một hướng, ắt chúng tạo ra sức mạnh của “bầy chiến mã”, nhất là khi, trong máu chúng đã cấy sẵn chất kích thích cổ truyền “chống xâm lăng”.

Với lũ trẻ là chúng tôi thời ấy, danh từ Xâm lăng dùng để chỉ: quân Nguyên, quân Minh, quân Thanh, và bây giờ là quân Mỹ. Danh từ ấy đồng nghĩa với Tô Định, Mã Viện, Thoát Hoan… Tóm lại, Mỹ là lũ giặc phương Bắc nhưng mũi lõ, mắt xanh, tóc vàng.

Ngôn ngữ vốn là một nhà tù, mà chúng tôi không có điều kiện để tiếp cận với các nguồn thông tin khác, các ngôn ngữ khác, nên hiển nhiên chúng tôi là đám tù binh ngoan ngoãn sống trong nhà tù ấy, đinh ninh rằng mình ra đi là để bảo vệ non sông.

Bởi vì, tổ tiên chúng tôi đã quen chết hàng ngàn năm để chống lại những kẻ thù mạnh hơn họ bội phần, chúng tôi cũng sẵn sàng ra chiến trường chống quân xâm lược Mỹ theo đúng cách thức ấy.

Đó là lý do tôi nói, “sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân”.

Fb Vũ Tuân