Vỉa hè lát đá tự nhiên ‘có độ bền 70 năm’ ở Hà Nội vỡ nát sau khi sử dụng một thời gian ngắn là vì ‘mưa xuống đá giãn nở nên tự vỡ’…
Tuần này, phát biểu của một số viên chức hữu trách từ trung ương (như phát biểu của ông Vũ Đức Đam – Phó Thủ tướng: Chuyên gia các nước phát triển ước ‘quay lại, phát triển theo định hướng Việt Nam’ [1]) đến địa phương,… tiếp tục hun nóng mạng xã hội Việt ngữ, khiến thiên hạ sôi sùng sục nhưng góp nhiều nhiệt nhất có lẽ là ý kiến của ông Võ Nguyên Phong – Giám đốc Sở Xây dựng Hà Nội (Vỉa hè lát đá tự nhiên ‘có độ bền 70 năm’ ở Hà Nội vỡ nát sau khi sử dụng một thời gian ngắn là vì ‘mưa xuống đá giãn nở nên tự vỡ’ [2])…
Không thể đếm xuể đã có bao nhiêu người bình luận về những phát biểu kiểu đó. Có một điểm đáng chú ý là những phát biểu theo logic hết sức khác thường ấy không làm công chúng ngạc nhiên nữa. Tuy sôi sùng sục nhưng các bình luận về những phát biểu khác thường ấy chỉ thể hiện hai điểm chung – mỉa mai đầy vẻ khinh miệt và ngán ngẩm, kiểu như: Nghe giải thích xong bỗng nhớ tới ‘đá cá, lăn dưa’. ‘Đá tự vỡ vì giãn nở sau mưa’ đi với ‘đá cá, lăn dưa’ rất hợp quy hoạch (3).
Một số trong số những bình luận thường là rất ngắn dẫu không dài lắm nhưng đủ để khái quát vấn đề . Ví dụ như bình luận của ông Kim Van Chinh: Đá tự nhiên không phải đá nào cũng làm được vật liệu xây dựng, dù chỉ là đá lát vỉa hè. Đại để đá xây dựng có hai loại chính. Đá marble có cấu trúc không định hình, cho vân đẹp, độ nhám tốt, nhưng kém chịu lực, dễ bị phong hóa ố màu, hoặc ngấm nước tự vỡ… Đá granite có kết cấu chắc hơn nhưng lại hay có thớ dọc ngang theo tấm, bề mặt cứng nhưng lại trơn trượt nếu bề mặt bào mòn hay mài bóng. Do vậy, dùng đá tự nhiên làm vật liệu lát đường, vỉa hè, sân nhà, bia mộ cần nghiên cứu rất cẩn thận và đặt hàng, sản xuất, nghiệm thu rất nghiêm chỉnh chứ không phải chuyện đùa giỡn hoặc ngu ngốc vô học cho rằng cứ đá là bền, cứ đá là chắc, cứ đá là sang… Các nước có nền văn hóa dùng đá lâu đời và nền khoa học – sản xuất đá có kinh nghiệm họ thường lấy đá granite ốp, xây tường, làm cột chịu lực,… dùng đá marble làm đá trang trí lát sàn trong nhà, ốp tường… rất đẹp với sức bền hàng thế kỷ. Riêng đá làm đường họ có thể dùng marble hay granite nhưng họ hay dùng đá chẻ thành cục vuông và để thô. Mới lát trông lổn nhổn và nhám nhưng đi lại hàng chục năm, hàng trăm năm… dần dần viên đá mòn nhẵn nhưng vẫn không trơn (do đá chẻ miếng nhỏ lát có mạch, có khi chỉ ghép lại với nhau, không có mạch vữa vẫn bám cứng…).
Dự án đá hóa vỉa hè Hà Nội là dự án lớn kinh khủng nhưng những người làm dự án là một lũ vô học và cẩu thả. Chúng cứ nghĩ đá là bền, là đẹp như các nước họ đã làm… Hỡi ôi, giờ thì nát bét hết cả vỉa hè Hà Nội rồi. Đá 70 năm thì hai năm đã vỡ toác. Chỗ cần nhám (vỉa hè, gờ đường cho xe máy lên xuống) thì chúng lát đá trơn, ngã cứ oành oạch… Chỗ cần đá chẻ thì chúng lát đá phiến. Chỗ cần granite thì chúng lát marble. Chỗ cần marble thì chúng lát granite. Chỗ không được gắn vữa cứng thì chúng trét xi măng đóng cứng… Hết giám đốc này đến giám đốc khác, hết chủ tịch này đến chủ tịch khác nhưng quyết tâm đá hóa vỉa hè không hề thay đổi… Lần này, Giám đốc Sở Xây dựng có khá hơn là công bố nguyên nhân của đá vỉa hè vỡ là do “đá gặp mưa tự giãn nở rồi vỡ” giống hệt ông nào ngày xưa trả lời đê vỡ là do mưa quá to, có gì đâu, vỡ đê là vẫn theo kế hoạch. Chủ tịch Nguyễn Thế Thảo xưa là kỹ sư vật liệu xây dựng đấy. Còn Võ Nguyên Phong, tân Giám đốc Sở Xây dựng Hà Nội, sinh năm 1969, quê quán tại Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị thì là cán bộ ngành xây dựng với chuyên ngành quản lý đô thị. Ông Phong từng là Phó Giám đốc Sở Xây dựng Hà Nội, Phó Bí thư quận Đống Đa, Chủ tịch quận Đống Đa (5).
***
Khác với đa số, thêm chuyện ‘Đá tự vỡ vì giãn nở sau mưa’ , ông Nguyễn Trường Sơn không giễu cợt để mỉa mai mà nêu thắc mắc, dân chúng còn bị sỉ nhục đến bao giờ: Tôi nghĩ không có gì là quá đáng khi người dân đòi hỏi công chức làm tròn trách nhiệm tối thiểu của họ. Trong đó bao gồm hoàn thành các trọng trách mà công việc yêu cầu, có thái độ làm việc chuyên nghiệp, ứng xử với dân một cách văn minh và ân cần, nói năng theo cách mà ai cũng có thể hiểu. Bởi bản thân mỗi chúng ta khi đi làm cũng đều được yêu cầu phải làm được những điều căn bản này. Không có doanh nghiệp nào muốn giữ lại một nhân viên mà ngay cả những điều đơn giản như vậy cũng không làm được. Do vậy chúng ta có quyền yêu cầu chí ít công chức cũng phải làm được như chúng ta, chứ chưa nói là phải làm tốt hơn. Bởi sau cùng, chúng ta muốn tự hỏi bản thân rằng số tiền mà chúng ta bị trừ hàng tháng, hay phải trả thêm mỗi lần mua hàng (gọi chung là thuế), rốt cuộc có đáng hay không nếu người thụ hưởng nó lại không làm tròn trách nhiệm?Ấy thế mà. Hết lần này đến lần khác, chúng ta bị sỉ nhục bởi những người vẫn hàng tháng ngửa tay lãnh lương từ tiền thuế mà chúng ta phải đổ mồ hôi, sôi nước mắt mới kiếm ra. Nào là ‘đá vỉa hè bị nứt do mưa’, rồi ‘Việt Nam không cần quá giàu’,…
Ông Nguyễn Trường Sơn nhấn mạnh: Hết lần này đến lần khác, dân chúng bị đối xử như trẻ ranh, bị cợt nhả và không coi ra gì bởi những phát ngôn coi thường phát ra từ miệng công chức. Những lời nói này không chỉ tự thân chúng bộc lộ sự yếu kém về năng lực của công chức xứ ta mà đằng sau nó là một vấn đề trầm trọng hơn rất nhiều, đó là những người làm công ăn lương ở nước ta mang trong họ thái độ coi thường đối với công việc và khinh bỉ đối với dân chúng. Vì nếu là một công chức coi trọng chức trách và có trách nhiệm với sự tín nhiệm của người dân, thì sẽ suy nghĩ trước khi mở miệng. Một bộ máy nhà nước đầy rẫy những công chức không coi công việc và người dân ra gì thì sẽ không thể vận hành một cách trơn tru và càng không thể tạo ra sự phát triển cho đất nước. Cũng giống như một doanh nghiệp với những nhân viên rệu rã, làm việc với thái độ dửng dưng, coi khách hàng là cỏ rác thì sẽ không thể thành công. Cái chết ở đây đó là bộ máy nhà nước thì sẽ tạo ra hệ lụy nghiêm trọng hơn một doanh nghiệp rất nhiều. Một doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả thì đối mặt với phá sản, cùng lắm là ảnh hưởng đến những người làm việc cho nó nhưng một bộ máy nhà nước với những công chức vô năng, vô tri thì hệ luỵ vô cùng lớn.
Do vậy, ông Sơn lưu ý: Không chỉ quốc gia bị tụt hậu bởi sự vô dụng của các cơ quan nhà nước, mà người dân còn chịu khổ bởi nạn tham nhũng và thói hách dịch từ công chức, cùng với đó là dịch vụ công đắt đỏ và kém chất lượng. Mỗi một lần công chức đưa ra những phát ngôn chướng tai thì sẽ nhận lại sự cười cợt từ dân chúng. Người dân coi đó là một màn tấu hài, là dịp để cả xã hội được phen cười vào mặt quan chức cho hả hê những khổ ải mà chúng ta phải chịu đựng bấy lâu nhưng theo tôi đó là thái độ sai lầm. Bởi cười cợt sẽ không mang lại bất cứ sự thay đổi nào, rồi đâu lại hoàn đó, những bất công và ngang trái vẫn sẽ đè lên đầu lên cổ chúng ta. Thay vào đó, chúng ta cần phải cảm thấy bị sỉ nhục, phải cảm thấy tự ái và nhục nhã mỗi khi những người nắm giữ trọng trách trong bộ máy nhà nước có những phát ngôn như vậy. Thử hỏi có cay không khi những kẻ ăn trên ngồi trốc từ tiền thuế của chúng ta lại quay sang khinh bỉ chúng ta? Rốt cuộc thì có đáng không khi chúng ta nai lưng ra làm để bị thu thuế nhưng cái chúng ta nhận được lại là sự coi thường(6)?
“Nơi nào người ta đốt sách thì họ sẽ kết thúc bằng việc đốt sinh mạng con người”.
Theo Sử ký Tư Mã Thiên, sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa, thừa tướng Lý Tư đã đề nghị dẹp bỏ tự do ngôn luận để thống nhất chính kiến và tư tưởng. Lý Tư chỉ trích giới trí thức dùng ‘sự dối trá’ qua sách vở để tạo phản trong quần chúng.
Chủ trương Đốt sách, Chôn nho (Phần thư, Khanh nho) của Tần Thủy Hoàng được thực hiện từ năm 213 trước Công nguyên. Qua đó, tất cả những kinh điển từ thời Chư tử Bách gia (trừ sách Pháp gia, trường phái của Lý Tư) đều bị đốt sạch. Lý Tư còn đề nghị đốt tất cả thi, thư, sách vở, trừ những quyển được viết vào thời nhà Tần. Sách trong lĩnh vực triết lý và thi ca, trừ những sách của Bác sĩ (cố vấn nhà vua) đều bị đốt. Những nho sinh dùng sử sách để chỉ trích chính quyền đều bị hành hình. Những ai dựa vào chế độ cũ để phê phán chế độ mới sẽ bị xử tội chém ngang lưng.
Lý Tư tấu: “Thần xin rằng sử sách không phải do Tần ghi chép đều bị đem đốt. Ngoại trừ quan chức không phải là tiến sĩ thì trong thiên hạ không ai được phép cất giữ Thi, Thư, sách của Bách gia, tất cả đều phải đem đốt. Nếu dám dùng những lời ngụ ngôn trong Thi, Thư thì chém bêu đầu ở chợ. Lấy xưa mà chê nay thì giết cả họ. Quan lại thấy mà không tố cáo sẽ bị coi là đồng phạm. Nay lệnh trong ba mươi ngày mà không đem đốt, sẽ bị xăm mặt và bắt đi xây dựng trường thành”.
Năm 212 TCN, Tần Thuỷ Hoàng phát hiện ở Hàm Dương có một số nho sinh đã từng bình phẩm về mình liền hạ lệnh bắt để thẩm vấn. Các nho sinh không chịu nổi tra khảo, lại khai ra thêm một loạt người khác. Tần Thuỷ Hoàng hạ lệnh đem tất cả trên 460 nho sinh đó chôn sống ngoài thành Hàm Dương. Đốt sách, chôn Nho là hành vi được người đời sau coi là tàn bạo nhất của Tần Thủy Hoàng. Đó cũng là tội danh hàng ngàn năm sau vẫn còn ghi nhớ. Không riêng gì người Hán mà cả nhân loại lên án.
Trong thâm tâm, Tần Thủy Hoàng cũng như Lý Tư đều biết rất rõ, lệnh đốt sách không thể nào xóa sạch những tư tưởng trong đầu óc dân chúng, những cuốn sách ‘khó đốt’ nhất là nằm trong tinh thần con người. Như vậy, việc đốt sách thực tế chỉ là một thủ đoạn chứ không tạo được tác dụng triệt để trong việc xóa sạch vết tích văn hóa-chính trị như mong muốn.
***
Việt Nam vốn tự hào là quốc gia có hơn 4000 năm văn hiến, nhưng sách vở của người xưa để lại thì rất ít. Nguyên nhân chính là vì quân nhà Minh bên Tàu đã ra lệnh hủy hết sách vở ngay trong những ngày đầu đô hộ nước ta để dễ bề cai trị. Sau này, cuộc Cách mạng Văn hóa tại Trung Hoa từ năm 1953 đến 1966 cũng đã gây nhiều ảnh hưởng đến miền Bắc. Do đó, xét về mặt lịch sử, Việt Nam đã trải qua rất nhiều thời kỳ sách vở bị tiêu hủy cho phù hợp với những thay đổi qua các giai đoạn chính trị.
Trên thực tế, tại miền Bắc, ngay sau khi tiếp quản Hà Nội, việc kiểm duyệt sách báo, bài viết trước khi đem phổ biến ra công chúng đã được thực hiện ngay từ năm 1954. Đối với các loại sách báo đã in ra từ trước 1954 dưới thời Pháp thuộc cũng đã bị đốt. Thế cho nên, việc đốt sách tại miền Nam năm 1975 chỉ là rập khuôn của chính sách cũ năm 1954.
Hồi ký của Một người Hà Nội ghi lại sự kiện đốt sách năm 1954 khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiếp quản miền Bắc: “Chơi vơi trong Hà Nội, tôi đi tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi Nam. Tôi phải học năm cuối cùng, Tú tài 2, cùng một số ‘lớp Chín hậu phương’, năm sau sẽ sáp nhập thành ‘hệ mười năm’. Số học sinh ‘lớp Chín’ này vào lớp không phải để học, mà là ‘tổ chức Hiệu đoàn’, nhận ‘chỉ thị của Thành đoàn’ rồi ‘phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!’. Họ truy lùng… đốt sách!
Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn ‘kiểm tra’, lục lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang ‘tập trung’ tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy ngày, trong niềm ‘phấn khởi’, lời hô khẩu hiệu ‘quyết tâm’, và ‘phát biểu của bí thư Thành đoàn’: Tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn là… ‘cực kỳ phản động!’. Vào lớp học với những ‘phê bình, kiểm thảo… cảnh giác, lập trường”.
***
Tại miền Nam, trong thời điêu linh ngay sau ngày 30/4/1975, việc đốt sách được thể hiện qua chiến dịch Bài trừ Văn hóa Đồi trụy-Phản động. Tự bản thân khẩu hiệu trong chiến dịch đã nêu rõ 2 mục đích: (1) về chính trị, bài trừ các luồng tư tưởng phản động chống đối chế độ và (2) về văn hóa, xóa bỏ hình thức được coi là ‘đồi trụy theo hình thức tư bản’.
Một trong những việc làm cấp thiết của chính quyền mới khi miền Nam sụp đổ là niêm phong, tịch thu sách tại các thư viện. Những tác phẩm của nhà in, nhà xuất bản và nhà sách lớn tại Sài Gòn như Khai Trí, Sống Mới, Độc Lập, Đồng Nai, Nam Cường, Trí Đăng… đều bị niêm phong và cấm lưu hành.
Xuống đường Bài trừ Văn hóa Đồi trụy & Phản động trong thời điêu linh
Đội ngũ những người cầm bút miền Nam phải nói là rất đông và bao gồm nhiều lãnh vực. Về triết học phương Tây có Lê Tôn Nghiêm, Trần Văn Toàn, Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Văn Trung, Trần Bích Lan… Triết Đông có Nguyễn Đăng Thục, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Khắc Kham, Nghiêm Toản, Kim Định, Nhất Hạnh…
Phần biên khảo có Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi, Lê Ngọc Trụ, Lê Văn Đức, Lê Văn Lý, Trương Văn Chình, Đào Văn Tập, Phạm Thế Ngũ, Vương Hồng Sển, Thanh Lãng, Nguyễn Ngu Í, Nguyễn Văn Xuân, Lê Tuyên, Đoàn Thêm, Hoàng Văn Chí, Nguyễn Bạt Tụy, Phan Khoang, Phạm Văn Sơn, Nguyễn Thế Anh, Nguyễn Khắc Ngữ, Nguyễn Văn Sâm…
Về thi ca có Nguyên Sa, Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền, Cung Trầm Tưởng, Tô Thùy Yên, Đinh Hùng, Bùi Giáng, Viên Linh, Hoàng Trúc Ly, Nhã Ca, Trần Dạ Từ, Phạm Thiên Thư, Nguyễn Đức Sơn, Du Tử Lê…. Phê bình văn học có Tam Ích, Cao Huy Khanh, Lê Huy Oanh, Đỗ Long Vân, Đặng Tiến, Uyên Thao, Huỳnh Phan Anh…
Đông đảo nhất là văn chương với Võ Phiến, Mai Thảo, Vũ Khắc Khoan, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu, Bình Nguyên Lộc, Mặc Thu, Mặc Đỗ, Thanh Nam, Nhật Tiến, Nguyễn Thị Vinh, Phan Du, Đỗ Tấn, Nguyễn Mạnh Côn, Sơn Nam, Võ Hồng, Túy Hồng, Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Minh Đức Hoài Trinh, Nguyễn Đình Toàn, Chu Tử, Viên Linh, Duyên Anh, Phan Nhật Nam, Nguyên Vũ, Vũ Hạnh, Y Uyên, Cung Tích Biền, Duy Lam, Thế Uyên, Lê Tất Điều, Hoàng Hải Thủy, Văn Quang, Nguyễn Thụy Long, Phan Lạc Tiếp, Thế Nguyên, Thế Phong, Diễm Châu, Thảo Trường, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Mộng Giác, Ngô Thế Vinh…
Toàn bộ sách ấn hành tại miền Nam của những tác giả nêu trên (còn một số người nữa mà người viết bài này không thể nhớ hết) đều bị ‘đánh đồng’ là tàn dư Mỹ-Ngụy, văn hóa nô dịch, phản động và đồi trụy. Các cấp chính quyền từ phường, xã, quận, huyện, thành phố ra chỉ thị tập trung tất cả các loại sách vở, từ tiểu thuyết, biên khảo cho đến sách giáo khoa để hỏa thiêu.
Không có con số thống kê chính thức nhưng người ta ước đoán có đến vài trăm ngàn sách báo và băng, đĩa nhạc bị thiêu đốt trong chiến dịch truy quét văn hóa phẩm đồi trụy-phản động tại Sài Gòn. Sách báo trên kệ sách trong nhà của tư nhân bị các thanh niên đeo băng đỏ lôi ra hỏa thiêu không thương tiếc. Tại các cửa hàng kinh doanh, sách báo bị thu gom để thiêu hủy, coi như đốt cháy cả cơ nghiệp lẫn con người những cá nhân có liên quan. Tất nhiên, những người có sách bị đốt cũng có phản ứng quyết liệt. Trong hồi ký Viết trên gác bút, nhà văn Nguyễn Thụy Long ghi lại một diễn biến trong vụ đốt sách năm 1975:
“Một cửa hiệu chuyên cho thuê truyện tại đường Huỳnh Quang Tiên bên cạnh nhà thờ Ba Chuông tại Phú Nhuận phát nổ khi đoàn thu gom sách mang băng đỏ xâm nhâp tiệm. Ông chủ nhà sách mời tất cả vào nhà. Rồi một trái lựu đạn nổ. Chuyện xảy ra không ai ngờ. Đương nhiên là có đổ máu, có kẻ mạng vong. Những chú nhỏ miệng còn hôi sữa, những cô bé chưa ráo máu đầu là nạn nhân vô tội. Trên cánh tay còn đeo tấm băng đỏ, quả thật súng đạn vô tình! Cả chủ tiệm cũng mạng vong”.
Nguyễn Thụy Long là cháu ruột nhà văn Nguyễn Bá Học nổi tiếng với câu “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Những tiểu thuyết của Nguyễn Thụy Long như Loan mắt nhung, Kinh nước đen cũng gian truân không kém cuộc đời của tác giả, chúng được xếp vào loại ‘văn hóa nô dịch’ nên phải lên giàn hỏa.
Năm 1975, Duyên Anh (Vũ Mộng Long) bị chính quyền mới coi như ‘một trong mười nhà văn nguy hiểm nhất của miền Nam’ với hơn 50 tác phẩm văn chương, trong đó nổi bật có Luật hè phố, Dzũng Đakao, Điệu ru nước mắt, Vẻ buồn tỉnh lỵ, Thằng Vũ, Thằng Côn, Con Thúy. Chế độ mới cấm ông viết lách và bắt giam không xét xử suốt sáu năm qua các nhà tù và trại tập trung.
Vượt biển sang Pháp, Duyên Anh tiếp tục viết và cho xuất bản gần hai mươi tác phẩm, trong đó có Un Russe à Saigon và La colline de Fanta do nhà Belfond xuất bản. Báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình Pháp viết nhiều, nói nhiều về ông. Sử gia Piere Chaunu, giáo sư Đại học Sorbonne, coi Duyên Anh là ‘nhà thơ lớn, vinh quang của quốc gia’.
Đầu năm 1997, Duyên Anh từ trần tại Pháp. Dù muốn dù không, nhiều người ngậm ngùi nghĩ đến tác giả của truyện ngắn đọc đến mủi lòng, có tựa đề là Con sáo của em tôi đăng trên Chỉ Đạo năm 1956. Những truyện ngắn, truyện dài thật trong sáng của tuổi ô mai như Dưới dàn hoa thiên lý hoặc du côn du đãng như Dzũng Dakao… Tất cả lần lượt được hóa kiếp bằng ngọn lửa.
Trong cuốn Những tên biệt kích của chủ nghĩa thực dân mới trên mặt trận văn hóa – tư tưởng xuất bản sau năm 1975 có đoạn viết:
“… Một số người như Duyên Anh, Nhã Ca… chấp nhận chủ nghĩa chống Cộng với một thái độ hoàn toàn tự nguyện. Nhưng nếu xét gốc rễ thái độ thù địch của họ đối với cách mạng, thái độ đó có nguyên nhân ở sự tác động của chủ nghĩa thực dân mới. Họ vừa là kẻ thù của cách mạng, của nhân dân. Nhưng nếu xét đến cùng họ cũng vừa là một nạn nhân của đường lối xâm lược tinh vi, xảo quyệt của Mỹ.
Dù xét dưới tác động nào, hoạt động chống Cộng bằng văn nghệ của đội ngũ những cây bút này cũng là những hoạt động có ý thức. Ý thức đó biểu hiệu trước hết trong thái độ chấp nhận trật tự xã hội thực dân mới, chống lại một cách điên cuồng chủ nghĩa Cộng Sản…
Họ cho văn nghệ là sự chọn lựa một phạm vi hoạt động, một phương tiện để đạt mục đích và tự nguyện dùng ngòi bút của mình phục vụ cho chế độ. Thái độ tự nguyện của họ cũng đã có nhiều người tự nói ra. Vũ Hoàng Chương tự ví mình là ‘viên gạch để xây bức tường thành ngăn sóng đỏ’, Doãn Quốc Sĩ coi mình như một ‘viên kim cương, răng Cộng Sản không sao nhá được’…”
Trong vụ án được mệnh danh là Nhũng tên Biệt kích Cầm bút năm 1986, một số nhà văn ra tòa tại Sài Gòn với tội ‘gián điệp’. Chính quyền mới muốn dựng một vụ án điển hình để đe dọa các nhà văn miền Nam nhưng bất thành vì áp lực từ bên ngoài. Theo kịch bản được dàn dựng, họ muốn xử Doãn Quốc Sĩ mức án tử hình hay chung thân, Hoàng Hải Thủy (từ chung thân đến 20 năm), Dương Hùng Cường (18 năm), Lý Thụy Ý (15 năm), Nguyễn Thị Nhạn (12 năm), Hiếu Chân Nguyễn Hoạt (10 năm) và Khuất Duy Trác cùng Trần Ngọc Tự (8 năm).
Tính ra Hoàng Hải Thủy (còn có bút danh Công tử Hà Đông, Con trai bà Cả Đọi…) ngồi tù ngót nghét 10 năm sau đó tìm đường vượt biên sang Mỹ. Tác phẩm của ông gồm đủ thể loại: tiểu thuyết đăng nhiều kỳ trên các báo, truyện phóng tác, bình luận, phiếm luận… Bây giờ tuy đã già nhưng vẫn còn viết rất hăng ở Rừng Phong (Virginia) trên blog http://hoanghaithuy.wordpress.com/.
Những nhà văn như Hoàng Hải Thủy, Duyên Anh, Nguyễn Thụy Long thường sinh sống bằng nghề viết báo bên cạnh việc viết văn. Trong lãnh vực báo chí, Sài Gòn vẫn được coi là trung tâm của báo chí với những nhật báo lớn đã xuất hiện từ lâu như tờ Thần Chung (sau đổi thành Tiếng Chuông của Đinh Văn Khai), Sài Gòn Mới của bà Bút Trà… Khi người Bắc di cư vào Nam có thêm tờ Tự Do, tiếp đến là Ngôn Luận. Đó là những nhật báo lớn có ảnh hưởng sâu rộng trong quần chúng. Hoạt động báo chí ở Saigòn càng ngày càng phát triển, theo Vũ Bằng, đến tháng 12/1963, ở Sài Gòn có tới 44 tờ báo ra hàng ngày.
Nhật báo Tiếng Chuông
Một đặc điểm của văn học miền Nam là việc hình thành các nhóm văn học. Nhóm Quan Điểm do Vũ Khắc Khoan thành lập với Nghiêm Xuân Hồng, Mặc Đỗ. Quan Điểm (cũng là tên nhà xuất bản do Mặc Đỗ điều hành) được người đương thời gọi là nhóm ‘trí thức tiểu tư sản’, bởi tác phẩm của họ, trong những ngày đầu chia cắt đất nước sau hiệp định Genève, thường có những nhân vật mang nỗi hoang mang, trăn trở của người trí thức tiểu tư sản trước ngã ba đường: theo bên này, bên kia, hay đứng ngoài thời cuộc?
Theo Trần Thanh Hiệp, nhóm Sáng Tạo là một nhóm sinh viên hoạt động trong Tổng hội sinh viên Hà Nội, trước 1954, gồm bốn người: Nguyễn Sĩ Tế, Doãn Quốc Sĩ, Thanh Tâm Tuyền và Trần Thanh Hiệp. Di cư vào Sài Gòn, họ tiếp tục hoạt động văn nghệ với tuần báo Dân Chủ (do Trần Thanh Hiệp và Thanh Tâm Tuyền phụ trách), rồi tờ Người Việt (tiền thân của tờ Sáng Tạo). Sau đó Mai Thảo gia nhập nhóm với truyện ngắn Đêm giã từ Hà Nội, rồi đến Lữ Hồ, Ngọc Dũng, Duy Thanh, Quách Thoại.
Trên tạp chí Sáng Tạo, ngoài những tên tuổi kể trên người ta còn thấy Nguyên Sa, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng, Tô Thùy Yên, Dương Nghiễm Mậu, họa sĩ Thái Tuấn. Sáng Tạo số đầu ra tháng 10/1956 và tạm ngưng ở số 27 (tháng 12/58). Sáng Tạo bộ mới chỉ đến số 7 (tháng 3/62).
Tạp chí Sáng Tạo (1958)
Nhóm Bách Khoa ra đời tháng 1/1957 và sống đến ngày Sài Gòn sụp đổ. Bách Khoa là nguyệt san văn học nghệ thuật có tuổi thọ dài nhất với 426 số. Bách Khoa do Huỳnh Văn Lang điều hành trong những năm đầu. Đến 1963, khi Ngô Đình Diệm đổ, Huỳnh Văn Lang bị bắt, bị tù, nên giao hẳn cho Lê Ngộ Châu.
Bách Khoa quy tụ được nhiều tầng lớp nhà văn khác nhau thuộc mọi lứa tuổi. Những cây bút nổi tiếng cộng tác thường xuyên với Bách Khoa là Nguyễn Hiến Lê, Võ Phiến, Nguyễn Ngu Ý, Vũ Hạnh, Võ Hồng, Đoàn Thêm, Nguyễn Văn Xuân, Bình Nguyên Lộc…. Theo Võ Phiến, trong thời kỳ cực thịnh, tức là khoảng 1959-1963, mỗi số Bách Khoa bán được 4500 đến 5000 bản.
Tạp chí Bách Khoa (1962)
Đắt khách nhất là tạp chí Văn của Nguyễn Đình Vượng, ra đời ngày 1/1964 và sống đến 1975. Văn do Trần Phong Giao trông nom trong 10 năm đầu, đến 1974 chuyển lại cho Mai Thảo. Văn cũng quy tụ được nhiều nhà văn ở nhiều lứa tuổi thuộc nhiều khuynh hướng, từ Dương Nghiễm Mậu, Thanh Tâm Tuyền đến Thế Uyên, Nguyễn Mạnh Côn, Bình Nguyên Lộc… Văn đặc biệt quan tâm đến việc dịch thuật và giới thiệu văn học nước ngoài. Trần Phong Giao cũng là một dịch giả nổi tiếng, còn có thêm Trần Thiện Đạo, sống ở Paris, dịch và viết về những phong trào văn học đang thịnh hành ở Pháp.
Tạp chí Văn
Tạp chí Văn hoá Ngày nay của Nhất Linh ra đời ngày 17/6/1958, được 11 số thì đình bản. Nguyễn Thị Vinh tiếp tục chủ trương tiếp các tờ Tân Phong, Đông Phương, theo chiều hướng Văn hoá Ngày nay.
Tạp chí Đại học, tờ báo của Viện đại học Huế do Linh mục Cao Văn Luận, viện trưởng, làm chủ nhiệm, ra đời năm 1958 ở Huế, và sống đến năm 1964. Trên Đại học, xuất hiện những bài đầu tiên của Nguyễn Văn Trung, người sau này có ảnh hưởng lớn đến thế hệ sinh viên và trí thức.
Về các nhóm, Viên Linh trong cuốn Chiêu niệm văn chương, cho biết: “Các nhà văn xuất hiện thường xuyên, trên nhật báo, qua các nhà xuất bản, nhất là trên các báo định kỳ, và thành từng nhóm. Lý lịch văn chương và sắc thái địa phương của họ rất tương đồng, tùy theo nhóm tạp chí trên đó họ góp mặt”.
Đa số các nhà văn miền Nam qui tụ trên các tờ tuần báo Đời Mới, Nhân Loại, và nhật báo như Tiếng Chuông, Sàigon Mới (Hồ Hữu Tường, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam, Kiên Giang, Lưu Nghi, Thẩm Thệ Hà, Trang Thế Hy…). Các nhà văn gốc miền Trung xuất hiện trên tờ Văn Nghệ Mới, Bách Khoa (Võ Thu Tịnh, Nguyễn Văn Xuân, Võ Phiến, Đỗ Tấn, Vũ Hạnh, Bùi Giáng, Võ Hồng, Nguyễn Thị Hoàng); các nhà văn ‘di cư’ có mặt trên các tờ Đất Đứng, Sáng Tạo, và trên các nhật báo như Tự Do, Ngôn Luận (Đỗ Thúc Vịnh, Nguyễn Hoạt, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Sỹ Tế, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền) hay Văn Nghệ (Lý Hoàng Phong, Dương Nghiễm Mậu, Viên Linh, Nguyễn Đức Sơn), Hiện Đại (Nguyên Sa, Trần Dạ Từ, Nhã Ca). Tờ Chỉ Đạo, Phụng Sự, Tiền Tuyến quy tụ các nhà văn quân đội hay quân nhân đồng hoá như Nguyễn Mạnh Côn, Mặc Thu, Thanh Nam, Phan Nhật Nam, Thảo Trường…
Nhật báo Tiền Tuyến
Khuynh hướng Phật giáo có các tờ Tư Tưởng, Vạn Hạnh với Tuệ Sỹ, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Nguyễn Hữu Hiệu; khuynh hướng Thiên chúa giáo La mã có Hành Trình, Đối Diện với Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Ngọc Lan, Diễm Châu, Thế Nguyên. Mặc dù khi đó đảng Cộng Sản bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, song các nhà văn theo Cộng Sản như Nguyễn Ngọc Lương, Minh Quân, Vũ Hạnh vẫn tạo được diễn đàn riêng trên Tin Văn hay hiện diện trong tổ chức Văn Bút dưới thời linh mục Thanh Lãng làm chủ tịch.
Những tờ như Văn, Phổ Thông, Văn Học, qui tụ các nhà văn không có lập trường chính trị rõ rệt, họ thuần túy làm văn thơ cổ điển như Đông Hồ, Mộng Tuyết, Nguyễn Vỹ, Bùi Khánh Đản, hay văn nghệ thời đại, sinh hoạt thành phố như Nguyễn Đình Toàn, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Túy Hồng. Những tờ về nghệ thuật hay về phụ nữ quy tụ các nhà văn như Tùng Long, An Khê, Lê Xuyên, Nguyễn Thụy Long, Hoàng Hải Thủy, Văn Quang…
Về giới cầm bút sau 1963, Nguyễn Văn Trung viết: “Giới cầm bút sau 1963, họ là những người hồi 1954 trên dưới mười tuổi theo gia đình vào Nam hoặc sinh trưởng và lớn lên ở miền Nam hầu hết có tú tài và tốt nghiệp đại học. Số lượng giới trẻ cầm bút này càng ngày càng đông đảo theo đà thành lập các đại học ở các tỉnh Huế, Đà Lạt, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, Long Xuyên, Tây Ninh và các đại học tư ở Sàigòn như Vạn Hạnh, Minh Đức…”
Những nhà văn trẻ đã trưởng thành về tuổi đời và nhận thức sau 1963, trong hoàn cảnh nhiều xáo trộn chính trị-xã hội, chiến tranh mở rộng với sự can thiệp ồ ạt của quân đội nước ngoài. Thời cuộc và chính trị ảnh hưởng trực tiếp đến họ vì bị động viên hay quân dịch… Do đó, họ có lối nhìn thời cuộc đất nước và nghệ thuật văn học khác hẳn với lối nhìn của những đàn anh viết từ trước 1963… Thơ văn giới trẻ viết sau 1963 thường theo một xu hướng chung, phản ánh vũ trụ Kafka, như tên đặt cho một số đặc biệt về thơ văn của Hành Trình, hoặc phản ánh thân phận những nhân vật Việt Nam tương tự những nhân vật trong tiểu thuyết Giờ thứ hai mươi lăm của Gheorghiu.
Nhờ hệ thống báo chí phát triển, quần chúng độc giả bao gồm nhiều thành phần trong khi các nhà văn nổi tiếng như Mai Thảo, Bình Nguyên Lộc, Túy Hồng, Nhã Ca, Duyên Anh, Chu Tử, Thanh Nam… đều sống bằng ngòi bút một cách dư giả. Họ là những người viết chuyên nghiệp, thậm chí nhiều nhà văn có nhà xuất bản riêng.
Nguyễn Hiến Lê trong 30 năm biên khảo và dịch thuật đã viết được 100 quyển sách trước 1975, và 20 cuốn thời gian sau đó. Nguyễn Văn Trung, ngoài lượng sách về triết học, văn học, in trước 1975, trong những công trình sau 1975, có bộ Lục Châu Học, nghiên cứu về văn học miền Lục tỉnh Nam Kỳ. Những nhà văn như Hồ Hữu Tường, Bình Nguyên Lộc, Mai Thảo… cũng đều có những số lượng tiểu thuyết trên dưới 30 cuốn. Về sáng tác, số lượng tỷ lệ nghịch với chất lượng và đó là cái giá mà nhà văn phải trả.
Về đối tượng độc giả, có thể nói, lớp trẻ ‘bụi đời’ thích đọc Duyên Anh, lớp sống vũ bão thích Chu Tử. Phụ nữ thích Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca vì họ phản ảnh đời sống người phụ nữ tân tiến. Lớp trí thức thích cách đặt vấn đề của Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Nghiêm Xuân Hồng. Lớp trẻ lãng mạn giao thời thích đọc Mai Thảo. Tuy nhiên, Thanh Tâm Tuyền, Dương Nghiễm Mậu là những tác giả đòi hỏi người đọc một trình độ trí thức cao. Quần chúng bình dân thích Lê Xuyên, Tùng Long… Học sinh trường Tây đọc văn chương ngoại quốc qua tiếng Pháp, tiếng Anh. Học sinh trường Việt đọc các tác phẩm ngoại quốc qua bản dịch hoặc phóng tác.
Nhà văn Chu Tử qua Vũ Uyên Giang
Bộ sách Văn Học Việt Nam Nơi Miền Đất Mới của Nguyễn Q. Thắng xuất bản sau năm 1975 có đề cập tới 53 ‘văn gia’ của VNCH, mỗi người được tác giả gắn cho một nhãn hiệu. Chẳng hạn, Nguyễn Văn Trung là ‘nhà văn nhập cuộc’, Cao Xuân Hạo ‘nhà lập thuyết ngữ học’, Nguyễn Ngọc Lan ‘nhà văn Công giáo, nhà báo dấn thân’, Thanh Việt Thanh (?) ‘nhà văn cần cù’, Thế Uyên ‘nhà văn nhập cuộc’, Viên Linh ‘hoàng đế’, ‘nhà độc tài’ văn học’ (!?), Hồ Trường An ‘dược sĩ (?), nhà văn’…
Những nhà văn nữ như Nguyễn Thị Thụy Vũ được khoác cho cái nhãn ‘nhà văn nữ giầu tình dục’, Túy Hồng ‘nữ văn sĩ giầu tính nhục cảm’, Nguyễn Thị Hoàng ‘nhà văn trẻ của tình lụy’, Thu Vân (?) ‘nhà văn dùng tính dục để giải quyết vấn đề’…
Nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ dưới mắt họa sĩ Chóe
Nhà văn Túy Hồng dưới mắt họa sĩ Chóe
Nhà văn Nguyễn Thị Hoàng dưới mắt họa sĩ Chóe
Một điều không ai có thể phủ nhận là miền Nam trước khi có chiến dịch đốt sách năm 1975 rất phong phú về sách báo, từ sáng tác đến dịch thuật, từ chính luận đến phiếm luận. Điều chắc chắn là trong số các tác phẩm đó ‘có vàng’ nhưng cũng ‘có thau’. Người đọc đủ sáng suốt để lọc ra những gì với họ là tinh túy để giữ lại, hoặc dấu nếu cần.
Khi người Bắc di cư vào Nam năm 1954, họ rất ngạc nhiên khi thấy những người đạp xe xích lô đến buổi trưa, tìm chỗ mát nghỉ ngơi. Họ ngồi gác chân đọc nhật trình. Người bình dân miền Nam có truyền thống đọc sách báo mà ở ngoài Bắc không có. Ngay từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 miền Nam đã là vùng đất của tiểu thuyết và báo chí trong khi ngoài Bắc, sách vở, báo chí phần lớn chỉ dành cho người có học.
Miền Nam vào những thập niên 60-70 lại có hiện tượng giao thoa giữa hai nền văn hóa Pháp và Mỹ với sự du nhập ồ ạt của các loại sách Livre de poche của Pháp và các loại sách soft cover của Mỹ. Giá sách nói chung tương đối rẻ vì mục đích chính là phổ biến văn hóa, thương mại chỉ là phụ.
Người đọc có thể tìm loại sách IC (Information & Culture) dưới hình thức sách bỏ túi (Livre de Poche) của Pháp bày bán tại các nhà sách Sài Gòn trước 1975 một cách dễ dàng. Nếu có chút vốn liếng về tiếng Pháp, người ta có thể tìm đọc những tác phẩm cổ điển của Platon, Homère hoặc các tác phẩm đương đại của Albert Camus, Jean-Paul Sartre, Saint Exupéry, Francoise Sagan…
Quân đội Mỹ ào ạt đổ bộ vào miền Nam, nhưng văn hoá Mỹ có vai trò áp đảo hay không? Theo giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, “Thời chiến tranh lạnh, với thế lưỡng cực trên thế giới, miền Nam nằm trong vùng ảnh hưởng Mỹ, và như vậy là có thêm tác nhân mới. Tuy nhiên, văn hoá Mỹ, theo gót đoàn quân viễn chinh, cũng chưa thể gọi là có ảnh hưởng gì sâu đậm. Ở lối sống, ở những giai tầng thấp thì có thể gọi là có ảnh hưởng một cách xô bồ, nhưng ở thượng tầng thì chưa”.
Hoa Kỳ thành lập cơ quan thông tin-văn hóa JUSPAO (Joint United States Public Affairs Office) và tạp chí Thế giới Tự do được phát hành miễn phí cho mục đích tuyên truyền. Đây là báo ảnh, được in ấn bằng phương tiện tối tân nên rất hấp dẫn người đọc.
Cũng có một nguồn cung cấp sách tiếng Anh hoàn toàn miễn phí nhưng rất ít người biết để đem về kệ sách riêng của mình. Đó là sách của Asia Foundation (Cơ quan Viện trợ Văn hóa Á Châu) một tổ chức phi mậu dịch, tặng không cho người đọc là quân nhân, công chức với số lượng hạn chế mỗi lần 5 quyển cách nhau 3 tháng.
Tôi là ‘khách hàng’ thường xuyên của Asia Foundation. Sách của Asia Foundation là loại sách viện trợ thuộc đủ mọi lĩnh vực, trên sách có đóng dấu bằng 2 thứ tiếng “Not for sale” và “Xin đừng bán”. Nếu gặp may, bạn có thể gặp những sách thuộc loại ‘quý, hiếm’.
Tôi còn giữ được một bộ 2 cuốn World Masterpieces (dày khoảng 3000 trang in lại những kiệt tác văn chương của thế giới qua các thời kỳ như Iliad của Homer, Don Quixote của Miguel de Cervantes, Hamlet của William Shakespeare, Thoughts (Les Pensées) của Blaise Pascal, Faust của Von Goethe, The Death of Iván Ilyich của Leo Tolstoy, Theseus (Thésée) của Andre Gide, Remembrance of Things Past của Marcel Proust, No Exit của Jean-Paul Sartre…
Sách do Asia Foundation tặng
Một số sách xuất bản ở miền Nam trước 1975 nay đã được in lại, và càng ngày càng có một nhu cầu muốn tìm hiểu và phục hồi lại nền văn học đã mai một này. Hơn nữa, tên tuổi và tác phẩm của những nhà văn nổi tiếng ở miền Nam đã xuất hiện khá nhiều trên Internet. Sau 1975, Từ điển văn học bộ mới cũng được phép in một số mục từ về Bình Nguyên Lộc, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu, Cung Trầm Tưởng, Bùi Giáng…
Chỉ tiếc một điều là một số sách báo xưa đã biến mất sau đại họa 1975 và chỉ còn lưu giữ rất hạn chế tại các thư viện tại hải ngoại dưới hình thức microfilm. Rồi người ta cũng quên đi ‘bữa tiệc BBQ’ nhưng vấn đề là những thế hệ sau này sẽ mất hẳn sợi dây liên lạc bằng sách báo với quá khứ.
Kết thúc bài viết này, tác giả xin mượn ý thơ của Vũ Đình Liên than thở cho thân phận ông đồ trước cảnh tàn lụi của nền nho học:
Sáng 5.12, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức hội nghị toàn quốc quán triệt Nghị quyết Hội nghị T.Ư 6 khóa XIII. Trong cuộc họp Trưởng ban Nội chính T.Ư Phan Đình Trạc nhấn mạnh rằng: Nâng cao đời sống để cán bộ không còn tham nhũng chỉ giải quyết được một phần vì những người tham nhũng vừa qua đều là người giàu.
Ông nói đúng, bởi tham nhũng phải có quyền lực. Bản chất của tham nhũng, tiêu cực là lợi dụng quyền lực. Chỉ có cán bộ nhà nước mới có quyền lực và thời nay người giàu chính là các cán bộ. Chỉ cần một cái gật đầu, một chữ ký họ có thể thu về cả triệu đô la. Họ có sân sau, sân trước, tay chân bộ hạ mang về cho họ lợi tức khổng lồ. Doanh nghiệp sống nhờ cán bộ và quan chức làm giàu từ doanh nghiệp. Vẽ vời dự án, duyệt dự án cũng mang lại cho họ những món tiền ba đời ăn không hết. Mối quan hệ giữa đại gia với cán bộ là đường dây không thể tách rời. Không có thế lực chính trị hậu thuẫn, doanh nghiệp khó tồn tại và phát triển.
Đó là chưa kể họ tham nhũng từ ngân sách của nhà nước. Từ lớp cán bộ cấp thấp ở làng, xã, phường cho đến cấp cao đều có dính đến hối lộ và tham nhũng. Họ giàu, rất giàu nên tăng phúc lợi cho họ bằng cáchtăng lương là một việc làm vô ích.
Tăng bao nhiêu họ vẫn tham nhũng vì số tiền họ thu được từ chức vụ lớn gấp ngàn lần đồng lương của họ. Khi bị phạm tội họ dùng chính một ít đồng tiền đó để khắc phục hậu quả. Dính vụ nào đền vụ đấy. Nhưng trong thời gian đương chức họ làm cả trăm vụ. Điều tra vụ nào họ chỉ khắc phục vụ đó. Trong quá trình điều tra họ đã tẩu tán phần nhiều tài sản.
Kết án vài ba năm, chục năm trở về họ vẫn là những người giàu. Mà theo ý kiến của cụ Tổng, khắc phục được thì án giảm, nhẹ hều. Thiết nghĩ khi bị dính tội, hành động đầu tiên là phải kiểm kê tài sản và tịch biên. Nếu trong quá trình xét xử nhận thấy số tài sản có nguồn gốc rõ ràng, hợp lý thì sẽ trả lại, con ngược lại làm hồ sơ tịch biên gia sản do tham nhũng mà có. Kiểm kê tài sản của mỗi cá nhân cán bộ là việc cần làm và ai cũng phải bị kiểm tra.
Cách bốc thăm như hiện nay đang áp dụng chỉ là một trò hề. Làm cho có thôi. Chuyện này làm dễ ợt, khó khăn chi.
Thật ra, bàn chơi cho vui thế thôi.Với cách quản lý, điều hành như hiện nay; Với thể chế và cơ cấu cán bộ như hiện nay, không thể và không bao giờ diệt được tham nhũng.
Đá tự nhiên không phải đá nào cũng làm được vật liệu xây dựng, dù chỉ là đá lát vỉa hè
Đại để đá xây dựng có hai loại chính: Đá marble có cấu trúc không định hình, cho vân đẹp, độ nhám tốt, nhưng kém chịu lực, dễ bị phong hóa ố màu, hoặc ngấm nước tự vỡ… Đá granit có kết cấu chắc hơn nhưng lại hay có thớ dọc ngang theo tấm, bề mặt cứng nhưng lại trơn trượt nếu bề mặt bào mòn hay mài bóng.
Do vậy, dùng đá tự nhiên làm vật liệu lát đường, vỉa hè, sân nhà, bia mộ cần nghiên cứu rất cẩn thận và đặt hàng, sản xuất, nghiệm thu rất nghiêm chỉnh chứ không phải chuyện đùa giỡn hoặc ngu ngốc vô học cho rằng cứ đá là bền, cứ đá là chắc, cứ đá là sang…
Các nước có nền văn hóa dùng đá lâu đời và nền khoa học – sản xuất đá có kinh nghiệm họ thường dùng đá granit cho việc ốp, xây tường, làm cột chịu lực…, dùng đá marble làm đá trang trí lát sàn nhà trong nhà, ốp tường… rất đẹp với sức bền hàng thế kỷ. Riêng đá làm đường họ có thể dùng mable hay granit nhưng họ hay dùng đá chẻ thành cục vuông và để thô lát ban đầu trông lổn nhổn và nhám, nhưng đi lại hàng chục năm, hàng trăm năm… dần dần viên đá mòn nhẵn nhưng vẫn không trơn (do đá chẻ miếng nhỏ lát có mạch, có khi chỉ ghép lại với nhau, không có mạch vữa chết cứng…).
Dự án đá hóa vỉa hè Hà Nội là dự án lớn kinh khủng
Nhưng những người làm dự án là một lũ vô học và cẩu thả. Chúng cứ nghĩ đá là bền, là đẹp như các nước họ đã làm…
Hỡi ôi, giờ thì nát bét hết cả vỉa hè Hà Nội rồi: Đá 70 năm thì 2 năm đã vỡ toác.
Chỗ cần nhám (vỉa hè, gờ đường lên xuống xe máy) thì chúng lát đá trơn, ngã cứ oành oạch…
Chỗ cần đá chẻ thì chúng lát đá phiến. Chỗ cần granit thì chúng lát marble. Chỗ cần marble thì chúng lát granit. Chỗ không được gắn vữa cứng thì chúng trét xi măng đóng cứng…
Hết giám đốc này đến giám đốc khác, hết chủ tịch này đến chủ tịch khác, nhưng quyết tâm đá hóa vỉa hè không hề thay đổi…
Lần này, Giám đốc Sở Xây dựng Võ Nguyên Phong có khá hơn là công bố nguyên nhân của đá vỡ, vỉa hè vỡ là do “đá gặp mưa tự giãn nở rồi vỡ”.
Ảnh chụp màn hình bài trên báo Tuổi Trẻ
Ông giải thích, “chất lượng đá sử dụng để lát vỉa hè Hà Nội được khai thác bằng phương pháp nổ mìn nên đá bị om. Ngoài ra, đá marble thường có gân đá, không được đồng chất, khi mưa xuống thì bị giãn nở, tự vỡ, thậm chí không cần tác động vật lý“.
Nguyên nhân gốc rễ là lát bằng đá marble chứ chỗ nào lát granit vỉa hè không vỡ? Nhưng trơn kinh khủng…
Giống hệt ông nào ngày xưa trả lời đê vỡ là do mưa quá to, có gì đâu, vỡ đê là vẫn theo kế hoạch.
Chủ tịch Nguyễn Thế Thảo xưa là kỹ sư vật liệu xây dựng đấy.
Còn tiểu sử Võ Nguyên Phong: “Tân Giám đốc Sở Xây dựng Hà Nội sinh năm 1969, quê quán tại Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Ông Võ Nguyên Phong là cán bộ ngành xây dựng với chuyên ngành quản lý đô thị. Ông Phong từng là Phó Giám đốc Sở Xây dựng Hà Nội.
Ảnh trên mạng
Vào tháng 8/2017, Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội có quyết định điều động ông Võ Nguyên Phong – Phó Giám đốc Sở Xây dựng tham gia Ban Chấp hành Đảng bộ, Ban Thường vụ Quận ủy Đống Đa, giữ chức Phó Bí thư Quận ủy nhiệm kỳ 2015 – 2020. Sau đó, HĐND quận Đống Đa đã bầu ông Phong làm Chủ tịch UBND quận“.
Sư thầy Thích Pháp Vân tên thật là Đỗ Vân, sinh năm 1972, quê ở thôn Quang Châu, xã Hoà Châu, huyện Hoà Vang, Đà Nẵng, trong một gia đình đông con, cùng cực và đói nghèo. Đỗ Vân là con áp út, dưới Vân còn có một em gái.
Vốn hiếu thảo, học giỏi, nhưng “chọn đường tu, mong sao đủ công đức cho kiếp sau cha mẹ, anh em dòng họ bớt khổ”, như sư tâm sự của thầy.
Năm 1982, Đỗ Vân được Hoà thượng Thích Huệ Hướng (1940-1995) trù trì chùa Quán Thế Âm, dưới chân ngọn núi Kim Sơn, thu nạp đệ tử, đặt cho pháp danh Pháp Vân, cùng đồng môn: Pháp Như, Pháp Châu, Pháp Bửu, Pháp Chiếu…
Năm 1990, thể theo nguyện vọng các đồ đệ trưởng thành, Hoà thượng Thích Huệ Hướng khuyến khích đệ tử cứ tự lập tịnh thất để phát triển đạo pháp. Pháp Châu lập tịnh thất Huệ Quang tại ngọn núi Mộc Sơn (nay là chùa Huệ Quang). Pháp Bửu, Pháp Vân ở lại với thầy cho đến khi Hoà thượng lâm trọng bệnh và viên tịch vào năm Ất Hợi 1995.
Ảnh: Làng Quang Châu, quê của sư Pháp Vân. Nguồn: Tác giả gửi cho Tiếng Dân
Ảnh: Chùa Quán Thế Âm, nơi sư Pháp Vân tầm sư học đạo. Ảnh trên mạng
Sau đó mấy năm, khi nỗi nhớ, niềm thương sư phụ nguôi ngoai, sư Vân lên đỉnh Sơn Trà tìm nơi yên tĩnh, tịnh tâm, học đạo tu hành. Bãi Bụt, vùng đất bằng phẳng, hướng vọng về phía chùa Quán Thế Âm, Ngũ Hành Sơn, vị trí này tương truyền có Phật Bà hiển linh, thường hiện ra trong sương mờ, là nơi sư Vân dừng chân, dựng một tịnh thất nho nhỏ. Tháng ngày trôi đi, nơi thâm sơn cùng cốc, sư làm bạn cùng chim muông, cây cỏ, cùng loài voọc chà vá chân nâu. Sư Vân sẽ bình yên gởi nốt phần đời còn lại nơi cửa Phật, nếu như không có một ngày…
Lửa thiêng gào thét
Năm 2004, sau khi đánh bại phe Trần Văn Thanh – Dũng “lửa”, thu tóm được hàng loại chức vụ, bí thư thành uỷ, trưởng đoàn đại biểu Quốc hội, chủ tịch HĐND TP Đà Nẵng, Nguyễn Bá Thanh chính thức trở thành ông trùm ở Đà Nẵng. Một mặt, Bá Thanh cho rà soát, thiết kế lại bộ máy công chức, cài cắm, đưa người của ông ta vào nắm hết công an và chính quyền.
Về tôn giáo, Bá Thanh cũng can thiệp, để đưa người tin cậy vào Hội đồng trị sự giáo hội Phật giáo thành phố, trong đó có thượng toạ Thích Thiện Nguyện (1946-2016), tức “thầy Nguyện”, trụ trì hai ngôi chùa Linh Ứng 1 ở Ngũ Hành Sơn và Linh Ứng 2 ở Bà Nà.
Mặc khác, Bá Thanh chỉ đạo cho ồ ạt “chỉnh trang đô thị”, thẳng tay đàn áp, cưỡng chế thu hồi đất, móc nối chia chác dự án, phân lô bán nền. Hàng ngàn đại gia, doanh nghiệp, “ông lớn” bất động sản từ TPHCM và Hà Nội đổ về Đà Nẵng để xí phần. Dân oan bị những kẻ nhân danh đảng và nhà nước cướp đất, mất nhà, kêu khóc như xé nát trời xanh.
Từ sau vụ án Phạm Minh Thông, Nguyễn Bá Thanh cảnh giác rất cao. Ông ta không trực tiếp nhận tiền chung chi, hối lộ, mà thông qua thư ký, tay chân như Phan Văn Tâm, Vũ “nhôm” và vài nhân vật tin cẩn khác. Thậm chí, doanh nhân đến nhà chơi, hầu chuyện dịp Tết, Bá Thanh cũng buộc họ cởi bỏ veston, áo khoác, để điện thoại bên ngoài, nhằm tránh bị ghi âm, ghi hình.
Để lấy được dự án, được giao đất, được bất động sản, công sản với giá bèo bọt, doanh nghiệp phải hối lộ cho Bá Thanh khoản tiền từ 8-10% giá trị lô đất, giá công sản, tùy vị trí. Tiền có được, một phần ông ta chung chi cho các “đại ca” trung ương, phần còn lại thì bỏ túi. Về sau, thấy việc lấy tiền qua các “đầu sai” dễ bị lộ, nên Bá Thanh nghĩ ngay đến việc rửa tiền qua chùa.
Bá Thanh cho phép thầy Nguyện chọn bất kỳ địa điểm nào mà thầy muốn, để xây chùa Linh Ứng 3, ông ta cũng giúp “giải phóng mặt bằng”. Thoả thuận “tội lỗi” được Bá Thanh đề nghị, tiền của thập phương cúng dường công đức xây chùa, thì thầy Nguyện lấy, còn tiền doanh nghiệp, công ty “ủng hộ xây chùa” sẽ là của Bá Thanh. Mỗi tuần, hai bên đối chiếu, chia tiền qua biên lai, sổ sách.
Thầy Nguyện muốn xây được chùa to, hoành tráng để đời, nên tất tật phải chấp nhận, nghe theo mọi yêu cầu Bá Thanh đưa ra. Bù lại, Bá Thanh hứa sẽ trích thêm chút tiền cho thầy Nguyện xây Linh Ứng 3 và đưa thầy lên đỉnh cao quyền lực trong hệ thống Phật giáo thành phố.
Chùa Linh Ứng 3, sau này có tên Linh Ứng Bãi Bụt, được thầy Nguyện chọn ngay địa điểm gần sư Vân thiền tu. Bá Thanh cấp ngay gần 20 hecta đất, lấy trùm luôn tịnh thất nhỏ bé của sư Vân. Chùa được khởi công ngày 4-7-2004 và khánh thành ngày 30-7-2010. Ròng rã suốt 6 năm, số tiền ước đoán lên đến hàng ngàn tỷ đồng hối lộ, núp dưới mác “ủng hộ xây chùa”, đã chảy vào túi Bá Thanh.
Chùa Linh Ứng Bãi Bụt. Ảnh trên mạng
Một số hình ảnh Nguyễn Bá Thanh trong ngày khánh thành chùa Linh Ứng – Bãi Bụt. Nguồn: Báo Giác Ngộ
Về phần sư Vân, được biết, sư không hề oán trách hay tranh giành đất đai gì với thầy Nguyện. Bởi lẽ, đất của “nhà nước quản lý”, tịnh thất nép mình sau đại tam bảo cũng là kính Phật, thầy Nguyện cũng là bạn thân với cố hoà thượng Thích Huệ Hướng và cũng là người sư Vân luôn kính trọng và ngưỡng mộ, lúc rỗi sư Vân thường sang bên thầy Nguyện đàm đạo. Thầy đâu biết rằng, những tháng ngày bình yên, tĩnh lặng mà thầy đang tu tập nơi núi cao, sắp chấm dứt.
Một buổi trưa đầu tháng 8-2008, sư Vân sang thăm thầy Nguyện như thường lệ. Cửa chính không đóng, sư Vân sững người lại khi nhìn thấy ông trùm Nguyễn Bá Thanh và thầy Nguyện đang kiểm đếm tiền, lấy từ các két sắt để chia nhau. Sư Vân không tin vào mắt mình, khi thấy toàn những xấp Mỹ kim dày cộm và những cây tiền đồng Việt Nam nguyên đai, nguyên kiện còn dấu niêm phong của ngân hàng. Quan ngại lẫn kinh sợ, sư Vân xin phép cáo từ, quay lui.
Sư Vân đi rồi, Bá Thanh chau mày nói với thầy Nguyện: “Thầy tính răng (sao) thì tính, chứ phải xử nó thôi”. Một tuần sau, thầy Nguyện cùng bộ phận hậu cần, quản viện bên chùa Linh Ứng 3, hô hoán, bị kẻ trộm lẻn vào lấy đi số tiền 50 triệu đồng. Rất nhanh, công an Đà Nẵng vào cuộc điều tra. Giám đốc CA Phan Xuân Sang, cùng các phó giám đốc như Thái Công Sỹ, Lâm Cao Luynh, Nguyễn Đình Chính đều thay nhau chỉ đạo rốt ráo. Người ta tìm thấy bọc tiền đúng 50 triệu được giấu trong chậu hoa trong khuôn viên tịnh thất của sư Vân.
Cơ quan điều tra liên tục triệu tập sư Vân để lấy cung, nhưng sư có biết gì đâu để khai báo. Không một ai đứng ra biện bạch, giải oan, ngược lại mọi con mắt hồ đồ đều ném cái nhìn đầy nghi kỵ về phía sư Vân. Cuối cùng, sư Vân cũng nhận được đề nghị lựa chọn từ điều tra viên. Một là sư Vân phải vĩnh viễn rời khỏi tịnh thất, ra đi thật xa; hai là sư sẽ bị khởi tố, tội danh “trộm cắp tài sản”.
Đớn đau cả về nhục thể lẫn tinh thần, nước mắt nhà sư uất nghẹn như hoà trong mây ngàn, gió núi…
Biết trước sau gì Bá Thanh cũng sẽ mượn bàn tay công an côn đồ hoặc
xã hội đen giết mình, nên sư Vân đã ghi âm toàn bộ sự thật câu chuyện, cùng đôi lời trăng trối vào điện thoại di động, rồi chuyển về cho gia đình.
Để giữ sự sáng trong, đạo hạnh suốt 25 năm của bậc chân tu nương nhờ cửa Phật, sư Vân đành phải hoá thân.
Lúc 9h sáng, ngày 15-8-2008, tức ngày 15-7 năm Mậu Tý, khi bình minh chưa tan hết những giọt sương mai, sư Vân rời tịnh thất, xuống khúc quanh cung đường dẫn lên chùa Linh Ứng 3, rồi tưới xăng châm lửa tự thiêu. Ngọn lửa bao trùm xác thân vị sư thầy vô tội, khói đen cuộn lên như dấu hỏi to ngáng giữa lưng trời.
Dân chài vùng Thọ Quang gần đó cho biết, công an phong toả tất cả các ngã đường lên xuống chùa. Không có ai dập lửa cho đến khi có tiếng sét đùng đùng nổ giữa trời quang. Có lẽ trời Phật cũng khóc thương cho thân phận cô đơn, oan khốc của bậc tu hành, nên giáng mưa giông bất ngờ, làm tắt ngọn lửa sắp tàn.
Công an Đà Nẵng xoá sạch hiện trường trong buổi sáng. Thi thể sư Vân được bàn giao cho gia đình đưa về quê mai táng. Truyền thông của đảng cấm đưa bất kỳ thông tin nào, vì vậy ngày đó, kể cả người dân Đà Nẵng, cũng không nhiều người biết sự việc.
Khúc quanh, địa điểm nơi sư Vân tự thiêu. Nguồn: Tác giả gửi tới Tiếng Dân
Tiếc thương bậc chân tu, khổ hạnh, nguyện duyên bạc mệnh, dân trong vùng lập một am nhỏ ngay vị trí sư tự thiêu, để nhang khói tưởng niệm. Người ta cho rằng, lửa thiêng gào thét đưa sư Vân hoá thân về cõi Phật tại Bãi Bụt năm ấy, như hồi chuông mong mỏi thức tỉnh lương tri những kẻ tham lam, gian ác, vô minh.
Mấy năm sau đó, luật pháp chưa đụng đến, nhưng luật trời đã ra tay. Những “đại quan” cai trị sở tại, từng dính líu đến oan án sư Vân, cũng lần lượt quy hồn địa phủ khi còn đương chức, nắm quyền sinh sát trong tay.
Thiếu tướng Phan Xuân Sang, giám đốc CA Đà Nẵng, bị ung thư gan, chết hồi tháng 1-2011, hưởng dương 59 tuổi.
Các cấp phó của Phan Xuân Sang cũng chịu chung số phận:
– Đại tá Lâm Cao Luynh, bị ung thư não, chết tháng 8-2015, hưởng dương 55 tuổi.
– Đại tá Thái Công Sỹ, bị ung thư vòm họng, nằm trên giường bệnh suốt 8 năm rồi đứt bóng vào tháng 9-2016, ở tuổi 61.
Riêng Nguyễn Bá Thanh được cho là bị đầu độc phóng xạ (ARS). Sau ba lần hoá trị không thành công, người co quắp, đen sì như bị hỏa thiêu rồi chết trong trong đau đớn hồi tháng 2-2015, khi gần tới tuổi 62.
Riêng cá nhân thầy Nguyện, đang khoẻ mạnh bỗng dưng phát bệnh, bệnh viện Đà Nẵng không chữa trị được. Dù đưa vào bệnh viện Việt-Pháp rồi bệnh viện 115 TPHCM, nhưng các bác sĩ hàng đầu vẫn bó tay.
Tháng 9-2016, hòa thượng Thích Thiện Nguyện, chức vụ Ủy viên Thường trực Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam; Trưởng ban Trị sự Giáo hội Phật giáo TP Đà Nẵng; Ủy viên Ủy ban MTTQ Việt Nam TP Đà Nẵng; đại biểu HĐND TP khoá VII, VIII; Trụ trì chùa Linh Ứng 1,2,3 Đà Nẵng, trút hơi thở cuối cùng.
***
Dưới bàn tay của Nguyễn Bá Thanh, còn rất nhiều vụ án kinh người, mà trong khuôn khổ bài này không thể kể hết.
Vụ huy động cả ngàn công an Đà Nẵng đàn áp đẫm máu Giáo xứ Cồn Dầu vào ngày 4-5-2010, bắt nhiều người, đánh dập não đến chết giáo dân Nguyễn Thành Năm vào ngày 3-7- 2010, sau đó loan tin rằng ông Năm “bị đột quỵ” mà nhiều người đã biết.
Hay vụ kỹ sư Phạm Thanh Sơn, đến trụ sở UBND TP để khiếu kiện về việc cưỡng chế thu hồi đất, bị công an bảo vệ tại đây đánh chết, quẳng ra đường Bạch Đằng tưới xăng đốt xác phi tang, rồi rêu rao đó là vụ tai nạn giao thông lúc 12h30 trưa ngày 17-2-2011. Sau, truyền thông của đảng lại đưa tin, kỹ sư Sơn “bị bệnh tâm thần nên tự thiêu”.
Đó chỉ là hai trong số hàng trăm vụ oan án, dân bị cướp đất, bị đánh chết nếu khiếu kiện kéo dài.
Hai năm sau ngày Bá Thanh chết, Ban thường vụ Thành uỷ Đà Nẵng chỉ đạo làm hồ sơ, đề nghị nhà nước truy phong cho ông ta danh hiệu “Anh hùng lao động” và đề nghị được lấy tên đặt cho một con đường.
Dư luận xã hội mỉa mai, kẻ sẵn sàng thủ tiêu đối thủ chính trị, bức tử cả người xuất gia tu hành, nấu cao hổ và nghiện món thịt chó như Bá Thanh, lại được xưng thánh và truy phong anh hùng, thì Lê Thanh Hải, tức Hai Nhựt ở Sài Gòn, phải được gọi là “đại thánh” và phong tặng “đại anh hùng”.
Còn dân nghèo bị cưỡng chế cướp đất, khi họ lên tiếng bảo vệ tài sản của mình thì bị quy chụp “phản động”, bị đánh đập dã man đến chết, là chuyện không hề hiếm tại xứ “thiên đường XHCN” dưới chế độ cộng sản.
Điều kỳ lạ là, dù cướp cạn của dân, bán hết tài nguyên lẫn công sản Đà Nẵng để rồi mở vài tuyến phố, xây dăm ba cây cầu, “hung thần” Nguyễn Bá Thanh lại được đồng đảng tôn vinh như thánh. Chừng đó thôi đủ để thấy chế độc độc tài tàn bạo khát máu, nhưng luôn dùng đủ ngón nghề, thủ đoạn xảo trá, mị dân, lừa đảo, bịp bợm, gây ra muôn vàn tội ác cho dân. Nhưng tất cả bọn chúng đều không thoát khỏi lưới trời!
Thành phố Đà Nẵng tách ra khỏi tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, trở thành thành phố trực thuộc trung ương từ tháng 1-1997. Kể từ đây, những cuộc quyết đấu tranh giành quyền lực giữa các phe nhóm chính trị địa phương, gay gắt và kinh hoàng hơn bao giờ hết. Nguyễn Bá Thanh, một trong những hung thần khét tiếng, giờ đây đã mồ yên mả đẹp, nhưng dư âm về ông ta mãi là nỗi ám ảnh kinh hoàng…
Thủ tiêu Viện trưởng Viện Kiểm sát Phúc thẩm Tối cao 2
Nguyễn Văn Tùng sinh năm 1942, quê Nghệ An. Năm 1998, khi đang là Phó Viện trưởng Viện Kiểm sát xét xử hình sự, thuộc VKS Tối cao, ông được chuyển về làm Viện trưởng VKS Phúc thẩm tại Đà Nẵng (còn gọi là Viện Phúc thẩm 2) phụ trách địa bàn từ Quảng Trị đến Khánh Hoà và các tỉnh Tây Nguyên. Nhận nhiệm sở mới, ông đưa cả vợ con vào Đà Nẵng sống. Nguyễn Văn Tùng là mẫu người cộng sản liêm chính còn sót lại của thời bao cấp, là cán bộ có năng lực, điềm đạm và khiêm tốn.
Ngày 4-6-2000, tin từ Viện Phúc thẩm 2 báo về VKS Tối cao, ông Tùng mất tích, không đến nhiệm sở, không liên lạc được. Sự việc chấn động, người của Vụ Tổ chức cán bộ VKS Tối cao bay gấp vào Đà Nẵng. C16 của Bộ Công an cũng vào cuộc. Thông tin từ cơ quan và người nhà dần hé lộ, diễn biến vụ án mất tích thật đáng ngờ…
Ngày ngày 30-5-2000, ông Tùng có lịch cùng vợ ra Hà Nội bằng máy bay. Sáng hôm đó, ông trực tiếp cầm CMND để đi mua vé và không thấy trở về. Xác minh tại Vietnam Airlines, thì trong danh sách hành khách các chuyến bay đi từ Đà Nẵng đến Hà Nội từ ngày 30-5 đến 1-6-2000, không tìm thấy tên ông Nguyễn Văn Tùng. Như vậy ông Tùng không hề bay ra Hà Nội, vậy ông đi đâu?
Trong khi đó, tại Thị xã Hội An (nay là TP Hội An) cách Đà Nẵng hơn 30km, buổi chiều ngày 31-5-2022, anh Trần Văn Tuấn sinh 1973, trú tại thôn Phước Trạch, xã Cẩm An, thị xã Hội An, đi thể dục và phát hiện ra tư trang của ông Tùng tại bãi tắm biển Cửa Đại, gần khách sạn Victoria. Tư trang gồm: đôi dép, một mũ lưỡi trai, một cặp da màu đen và chiếc áo mưa. Cách đó 200 mét, trên rừng dương liễu ven biển, phát hiện xe máy của ông Tùng, hiệu Custom màu xanh, biển số 29-846 K9.
Ảnh: Khu vực Victoria Hotel Cửa Đại, Hội An, nơi có hiện trường giả năm 2000. Nguồn: Tác giả gửi TD
Vụ mất tích của một Viện trưởng VKS đã dấy lên nhiều đồn đoán và dư luận xôn xao tại Việt Nam. Người ta thêu dệt, cho rằng ông tự sát, bị thủ tiêu hoặc tạo hiện trường giả để vượt biên trốn sang nước ngoài.
Cô Nguyễn Thu Trang, con gái ông Tùng, cho biết, gia đình cô rất hạnh phúc. Bố Tùng không việc gì phải đào tẩu hoặc tự vẫn. Ngoài ra, trong quan hệ xã hội, công việc cũng không thấy bố Tùng than vãn gì về việc căng thẳng và ông cũng chưa từng gây thù, chuốc oán với ai.
Vụ án ông Nguyễn Văn Tùng, Viện trưởng VKS Phúc thẩm 2 mất tích được khởi tố điều tra. Có điều, cơ quan thụ lý là Công an tỉnh Quảng Nam, chứ không phải Công an Đà Nẵng, trong khi mọi diễn biến trước ngày ông Tùng mất tích, đều xảy ra trên địa bàn Đà Nẵng. Cơ quan điều tra đưa ra nhận định ban đầu, hiện trường trên bờ biển xã Cẩm An, Hội An, nơi phát hiện vật dụng của ông Nguyễn Văn Tùng, có khả năng chỉ là một cách đánh lạc hướng cơ quan điều tra.
Nhưng ai đã giết ông Tùng, tạo hiện trường giả đánh lừa cơ quan chức năng? Vì sao kẻ chủ mưu thủ tiêu ông Viện trưởng và xác ông Tùng hiện ở đâu?
Tất cả các câu hỏi đều đi vào ngõ cụt. Cơ quan Công an Quảng Nam im hơi lặng tiếng, không công bố bất kỳ tin tức gì. Báo chí quốc doanh cũng không có dòng nào lần theo dấu vết điều tra.
Một tháng sau, tức đầu tháng 7-2000, một xác chết được phát hiện, nổi trên vùng biển Quảng Ninh, khuôn mặt đã phân huỷ, quần áo nguyên vẹn, trong túi áo có CMND mang tên Nguyễn Văn Tùng, sinh năm 1942, quê Nghệ An. Thật bí ẩn, ly kỳ, khi mà người chết trôi ngược gần 1000 km, từ biển Hội An, Quảng Nam ra đến biển Quảng Ninh và quần áo còn nguyên trên người.
Không tìm ra hung thủ, Cơ quan điều tra CA Quảng Nam vĩnh viễn đóng lại hồ sơ vụ ông Nguyễn Văn Tùng mất tích bí ẩn.
Trong khi đó, dư luận ở Đà Nẵng và Quảng Nam, kể cả trong và ngoài ngành công an, lại rò rỉ nhiều thông tin đáng sợ đến ghê người.
Trước khi ông Tùng đi lấy vé máy bay, ông nhận được cuộc gọi hẹn gặp gấp. Đầu dây bên kia chắc chắn là người có thế lực, có thể liên quan hoạt động nội chính, tư pháp. Do đó, khi lên xe máy, ông Tùng đem theo cả cặp da đựng hồ sơ quan trọng. Tin nội bộ cho biết, ông Tùng có đầy đủ tài liệu vụ án Cầu Sông Hàn và Phạm Minh Thông đang gây xôn xao cả nước.
Vào ngày 29-3-2000, Cơ quan điều tra Công an TP Đà Nẵng bắt khẩn cấp Phạm Minh Thông, sinh năm 1938, quê Điện Minh, Điện Bàn, Quảng Nam. Lúc đó, Thông là giám đốc Công ty hợp doanh Xây lắp và kinh doanh nhà Quảng Nam – Đà Nẵng. Trong các bản cung, Thông khai đã đưa hối lộ cho Nguyễn Bá Thanh, Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng nhiều lần, số tiền xấp xỉ 4-5 tỷ đồng, theo yêu cầu chia phần trăm từ Nguyễn Bá Thanh.
Viện Phúc thẩm 2 nhận được các báo cáo từ VKS TP Đà Nẵng. Ông Tùng được cho là sẽ đi Hà Nội, xin lệnh bắt Nguyễn Bá Thanh, nhưng đã muộn…
Ông Nguyễn Bá Thanh (phải) tặng hoa cho Thiếu tướng Nguyễn Văn Sơn, Giám đốc CA TP Đà Nẵng.
Ảnh: PLTP Ông Phạm Minh Thông, bị cáo vụ án Cầu sông Hàn. Nguồn: AS&CS
Những người theo dõi sự kiện này có chung nhận định rằng, sát thủ đã giết ông Tùng buổi sáng, xe máy cùng tư trang ông Tùng được chuyển đến Hội An vào tối 30-5-2000 để dựng hiện trường giả, trong đó chiếc cặp da trống rỗng. Xác ông Tùng được các thủ phạm nguỵ trang thành hàng hoá, gởi kho ướp đông. Gần một tháng sau, chúng lại đưa lên xe thùng chuyên chở hàng thuỷ sản đông lạnh, vận chuyển ra Quảng Ninh và ném xuống biển.
Vụ án ông Nguyễn Văn Tùng mất tích bế tắc, không lâu sau đó, đại tá Trần Văn Thanh, nhân vật đối đầu trong “Chuyện song Thanh tại Đà Nẵng” bị mất chức giám đốc Sở Công an và bị điều về Bộ Công an. Sau cái chết của ông Tùng, lo sợ đến lượt mình, ông Trần Văn Thanh nhanh chóng bán nhà tại Đà Nẵng, đưa cả vợ con ra Hà Nội…
Ông Nguyễn Quốc Dũng, tức Dũng “lửa”, Viện trưởng VKS Đà Nẵng, anh ruột ông Nguyễn Xuân Phúc, cũng nghỉ hưu sớm.
Đã hơn hai mươi năm trôi qua, các cơ quan nội chính của nhà nước cộng sản cố xoá đi tài liệu về vụ án. Tuy vậy, cái chết của ông Nguyễn Văn Tùng đến nay vẫn còn tranh cãi âm ỉ, nhức nhối trong hàng ngũ cán bộ CA và cả VKS Tối cao.
Vì sao một Viện trưởng VKS đầy quyền lực, bị giết hại giữa thanh thiên bạch nhật, mà cả hệ thống chính trị của đảng phải bó tay, hung thủ thì vẫn nhởn nhơ, thách thức pháp luật?
Đập chết “Anh hùng Lực lượng Vũ trang”
Đỗ Văn Quả, sinh năm 1948, quê làng Ô Gia Nam, xã Đại Cường, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Tuy sống miền quê thanh bình, nhưng tuổi thơ của Quả cực kỳ dữ dội. Đỗ Văn Quả bị xúi giục, lôi kéo đi làm giao liên cho Việt Cộng từ năm 15 tuổi. Lớn hơn một chút, được huấn luyện thành sát thủ, Quả tham gia đội vũ trang An ninh Quảng Đà và lập nhiều công trạng.
“Chiến công” lớn nhất của Quả phải kể đến là, ông ta đã giết rất nhiều đồng hương xứ Quảng, kể cả những người là bà con họ hàng, chỉ vì họ bị Việt Cộng tình nghi có cộng tác, làm việc hoặc có thân nhân dính dáng đến chế độ VNCH. Phần thưởng mà Quả nhận được là danh hiệu “Anh hùng LLVT” mà chính phủ lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tặng vào năm 1976. Sau này, Đỗ Văn Quả mang lon trung tá, Trưởng công an huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Thời bao cấp, khoảng năm 1988-1989 có Đặng Thanh Bình, sinh năm 1963, Chủ nhiệm HTX Nông nghiệp II, Đại Nghĩa – Đại Lộc – Quảng Nam, câu kết với Nguyễn Bá Thanh, lúc này là Chủ nhiệm HTX Hòa Nhơn 3, Hòa Vang, TP Đà Nẵng, buôn lậu hàng chục tấn thóc giống của nhà nước. Đỗ Văn Quả trực tiếp chỉ đạo điều tra, phá án, nhưng rốt cuộc tội phạm vẫn lọt lưới, cao chạy xa bay, bởi tội phạm được bảo kê, thậm chí nhiều kẻ có thế lực trong tổ chức đảng không muốn làm to vụ này.
Chẳng những không bị pháp luật sờ gáy, bộ đôi Bá Thanh – Thanh Bình càng ngày càng “chui sâu, leo cao”. Năm 2007, khi đã là Uỷ viên Trung ương đảng, Bí thư thành uỷ Đà Nẵng, Nguyễn Bá Thanh đưa Đặng Thanh Bình lên ghế Giám đốc Công ty Phát triển và khai thác Hạ tầng KCN Đà Nẵng. Cùng năm ấy, “cuộc chiến song Thanh” đã đến đỉnh điểm, tướng Trần Văn Thanh, Chánh thanh tra Bộ công an bị khởi tố điều tra, đình chỉ công tác.
Có thông tin cho hay, trung tá Đỗ Văn Quả tuyên bố muốn “lật lại hồ sơ vụ án” để giúp giải nguy cho tướng Trần Văn Thanh, người bạn, người đồng đội cùng chiến hào năm xưa ở Ban An ninh Quảng Đà. “Tai vách mạch rừng”, Đỗ Văn Quả, Trưởng công an huyện Đại Lộc chưa kịp làm gì thì đối phương đã ra tay trước.
Vợ ông Quả là bà Trương Thị Hạnh, sinh năm 1954, kể rằng, ông đi công tác, có kẻ mạo danh, gọi điện thoại báo tin khẩn, kêu ông Quả về nhà ngay vì vợ đang cấp cứu. Nửa đêm, đường quê nhá nhem, sát thủ giấu mặt từ bụi rậm nhảy ra, phang một nhát gỗ to vào gáy Quả. Người và xe máy ông trung tá bị bay xuống mương nước. Quả bị gãy cổ, dập não, đa chấn thương, chết không kịp trối một lời.
Những tài liệu mà trung tá Đỗ Văn Quả có, mọi bí mật mà ông biết rõ về Nguyễn Bá Thanh, đã vĩnh viễn mang theo ông xuống mồ. Rất nhiều cơ quan vào cuộc điều tra mà không có kết quả. Hoặc người ta biết, nhưng không dám làm. Vụ án khép lại, hung thủ biệt tăm.
Ai giết Đỗ Văn Quả? Cơ quan điều tra không trả lời được. Nhưng dân chúng rất nhạy, họ biết kẻ chủ mưu không ai khác ngoài “hung thần” Nguyễn Bá Thanh và đám tay sai. Tuy nhiên, vì sợ đại hoạ vào thân, dân tình tụ tập đây đó chỉ dừng lại ở mức xầm xì, bàn tán.
Có bốn sĩ quan CA biết tường tận về những gì Nguyễn Bá Thanh nhúng tay. Đó là trung tướng Lê Ngọc Nam, cựu Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Xây dựng lực lượng BCA, giám đốc CA Đà Nẵng; đại tá Nguyễn Đình Chính, cựu Phó giám đốc CA, Chỉ huy trưởng lực lượng cảnh sát Đà Nẵng. Cả Nam và Chính đều cùng tuổi, đều là con liệt sĩ, học sinh miền Nam trên đất Bắc với Nguyễn Bá Thanh, cũng là hai “hung thần” khét tiếng tàn bạo tại Đà Nẵng. Hai nhân vật còn lại cũng hiểu rõ nội tình, đó là thượng tá Vũ “nhôm”, là người đang thụ án 30 năm tù giam và đại tá Hùng “CD”, một người bạn, được phong “anh hùng LLVT” cùng đợt với ông Quả vào năm 1976.
Chân dung Lê Ngọc Nam và Nguyễn Đình Chính
Ảnh: Hùng “CD” và Vũ “nhôm”
Hùng “CD” tên thật là Nguyễn Thanh Hùng, sinh năm 1950, quê Quế Sơn, nhưng đầu quân dưới trướng Nguyễn Bá Thanh nên nhận bổng lộc đầy đủ. Hùng “CD” từng là Đội trưởng Cảnh sát Hình sự Công an tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, cấp bậc sau cùng là lon đại tá, Trưởng phòng Cảnh sát bảo vệ và cơ động CA Đà Nẵng. Ông ta nghỉ hưu năm 2011.
Sau mấy chục năm vơ vét đầy túi, Hùng “CD” đã kịp đưa hai cô con gái sang Mỹ du học, bỏ ra mấy triệu Mỹ kim để mua nhà ở Mỹ cho con bên đó. Hùng “CD” có ba vợ, có bốn cây xăng kinh doanh tại các vị trí đắc địa, cùng hàng chục căn nhà lầu đang cho thuê tại Đà Nẵng.
Vợ chồng Hùng “CD” có nhà riêng ở Ravensworth Virginia, Hoa Kỳ và đi về liên tục giữa Mỹ và Việt Nam mỗi năm vài lần.
Chúng tôi trở lại bốn nhân vật đồ đệ của Nguyễn Bá Thanh này vào một dịp khác.
Nhân mùa World Cup 2022, xin đọc lại vài hồi ức về túc cầu VNCH, qua những gì ghi chép của ông Nguyễn Ngọc Chính…
****
Hồi đó, nhóm học sinh nhà ở khu Địa dư, gần trường Lycée Yersin, có đội bóng hay nhất trong số các học sinh ở lại trường vào buổi trưa. Nhà tôi ở được xếp vào khu Địa dư dù cách đó hơi xa nhưng vẫn nằm trong khu Saint Benois hay còn gọi là Chi Lăng, gần trường Võ bị Đà Lạt. Chúng tôi đá bóng chân đất và sau mỗi trận đấu thường xuống hồ rửa ráy để chuẩn bị vào lớp buổi chiều. Sân bóng gần hồ rất tiện lợi cho việc tắm rửa nhưng cũng có điều bất lợi mỗi khi đá mạnh quá bóng có thể lăn theo triền dốc xuống hồ, mất công lội xuống nước để nhặt bóng.
Đá bóng là môn thể thao ưa thích của tôi ngay từ hồi còn nhỏ. Tôi thường chơi trong vai trò trung phong với những đường lừa bóng và sút bóng… có hạng. Tôi nhớ mãi đã có lần sút bóng mạnh đến nỗi thủ môn của phe đối phương phải chảy máu mũi vì bóng trúng mặt. Bản thân tôi lúc đó cũng thấy sợ phát khiếp. Điều lý thú là người giữ khung thành, Nguyễn Thanh Hà, sau này gia đình cũng chuyển qua Ban Mê Thuột học lớp Đệ Ngũ tại trường trung học Ban Mê Thuột. Hà về sau trở thành một cầu thủ có hạng còn tôi thì lại không còn chọn con đường đá bóng.
****
Ngày xưa, bóng đá được người Sài Gòn gọi nôm na là đá banh hay văn hoa hơn là túc cầu. VNCH thời 1966 đã từng đoạt cúp Merdeka của Malaysia, khi đó đội tuyển được đặt dưới sự dìu dắt của huấn luyện viên Weigang, người Đức. Đội hình ra sân có thủ môn Lâm Hồng Châu, hậu vệ gồm Phan Dương Cẩm (tự Hiển), Nguyễn Văn Có, Phạm Huỳnh Tam Lang, Lại Văn Ngôn, giữ vị trí tiền vệ có Đỗ Thới Vinh, Nguyễn Ngọc Thanh và hàng tiền đạo gồm Nguyễn Văn Ngôn, Nguyễn Văn Chiêu, Lê Văn Đức, Trần Chánh.
Trận chung kết giải Merdeka có khoảng 40,000 khán giả ngồi kín Sân Vận động Quốc gia với sự chủ tọa của Quốc vương Mã Lai và Thủ tướng Abdulraman. Đội tuyển VNCH ra sân trong màu áo vàng, quần trắng, vớ vàng, được sự cổ vũ nồng nhiệt của khán giả Malaysia, nhất là tiền vệ Đỗ Thới Vinh, người dễ nhận ra nhất trong đội hình Việt Nam với cái đầu hói và những pha lừa bóng điệu nghệ cùng những cử chỉ pha trò có duyên của anh trên sân cỏ đã thu được cảm tình của khán giả và báo chí nước chủ nhà.
Với ý chí quyết tâm, toàn đội Việt Nam đã “ăn miếng trả miếng” trong trận chung kết với đội Miến Điện (ngày nay gọi là Myanmar) một cách xuất sắc. Tuy nhiên, hiệp một chấm dứt mà không bên nào mở được tỉ số. Sang đến hiệp hai, cơ hội bằng vàng đến với đội tuyển VNCH ở phút 72. Từ đường chuyền của thủ quân Phạm Huỳnh Tam Lang, nhà ảo thuật Đỗ Thới Vinh khéo léo dẫn banh qua hai cầu thủ Miến Điện, mở bóng xuống vừa đúng tầm để trung phong Nguyễn Văn Chiêu băng xuống.
Chiêu dùng ngực hứng bóng, xoay người, tung quả sút hiểm hóc từ xa 25 mét bằng chân trái, bóng đi như ánh chớp vào góc thượng của khung thành Miến Điện trước sự ngỡ ngàng của Đệ nhất Thủ môn Á Châu thời bấy giờ là Tin Tin An, mở tỷ số 1-0 cho Đội tuyển Việt Nam. Bàn thắng này cũng là tỷ số chung cuộc của trận đấu và là bàn thắng đáng giá ngàn vàng đưa đội tuyển VNCH lên ngôi Vô địch Giải Túc cầu Merdeka 1966 tại Mã Lai.
Trung phong Nguyễn Văn Chiêu và tiền vệ Đỗ Thới Vinh là đôi bạn thân thiết cùng chung màu áo từ đội Quan Thuế rồi khi vào quân ngũ cả hai đá cho Đội Tổng tham mưu. Giải ngũ, cả hai trở về đội Quan Thuế và cùng đá trong đội tuyển quốc gia. Cuộc đời hai anh gắn liền cả chục năm trời bên nhau trên sân cỏ.
Tại Giải Merdeka năm 1966, Vinh và Chiêu là hai người lập công trạng lớn nhất đem vinh quang về cho Việt Nam. Giờ đây, hai anh kẻ trước người sau ra đi trong âm thầm, thiếu vắng đồng đội tiễn đưa, không một lời ai điếu nhắc lại thời huy hoàng của trên sân cỏ.
Nguyễn Văn Chiêu đã vĩnh viễn ra đi năm 1987 tại Long Thành trong hoàn cảnh thương tâm, chỉ có người vợ cùng mấy người con khóc nghẹn trước thân xác lạnh lẽo của chồng và cha trong căn chòi lá nằm sâu trong một góc vắng của thị xã Long Thành. Đám tang anh vội vã, không kèn không trống. Mộ phần không tiền xây cất, đắp đất sơ sài.
Tiền vệ Đỗ Thới Vinh cũng mất tại Việt Nam năm 1995 vì bệnh tiểu đường. Anh là nhân vật tên tuổi trong giới túc cầu được nhiều người ái mộ từ trong nước ra tới hải ngoại nhưng anh cũng âm thầm ra đi trong hoàn cảnh đơn chiếc, túng thiếu.
Lão tướng Quách Hội, 73 tuổi, kể về chiếc Cúp Merdeka năm 1966 như sau:
“Năm 1995, một sáng tôi đi ngang một tiệm bán đồ lạc-xon trên đường Hải Thượng Lãn Ông, tình cờ tôi nhìn thấy, bày trong số đồ bán của tiệm, chiếc Cúp Vô Địch Giải Túc Cầu Merdeka mà Đội Tuyển Túc Cầu Việt Nam Cộng Hoà, trong đội có tôi, đoạt được năm 1966 tại Malaysia. Người chủ tiệm nói chắc giá 5 triệu đồng. Không có tiền, tôi đứng trước tiệm lạc-xon ấy từ sáng đến trưa với hi vọng có bạn đồng đội cũ nào đi ngang thì báo tin để kêu gọi anh em góp tiền mua lại chiếc Cúp. Chờ mãi không gặp được ai, tôi đi về mà nước mắt ứa ra vì tiếc cho kỷ vật ghi lại chiến tích một thời của anh em chúng tôi. Không biết giờ này chiếc Cúp Merdeka của anh em chúng tôi lưu lạc về đâu.”
Cũng phải nói thêm về thủ môn Phạm Văn Rạng một thời nổi tiếng với danh hiệu “Lưỡng thủ vạn năng” vẫn sống mãi trong ký ức của những người hâm mộ bóng đá thuộc lứa tuổi U-60 và U-70. Năm 1949, từ vai trò trung phong của trường Việt Nam Học đường, ông bất ngờ trở thành người giữ khung thành khi thủ môn chính thức không thể ra sân.
Năm 1951 Phạm Văn Rạng được đội Ngôi sao Bà Chiểu của ông bầu Võ Văn Ứng mời về giữ khung thành, rồi chỉ hai năm sau được chọn làm thủ môn cho đội tuyển Thanh Niên. Năm 1953 bị động viên, ông trở thành người trấn giữ khung thành cho đội Tổng Tham mưu. Cùng năm đó, ông được tuyển vào đội tuyển VNCH, khi mới 19 tuổi và khoác áo đội tuyển cho đến năm 1964 thì giải nghệ. Năm 1966, dù đã 31 tuổi, ông vẫn được mời vào đội tuyển Ngôi sao châu Á (All Stars Team of Asia), bởi vị trí thủ môn chưa có cầu thủ nào của châu Á có thể cạnh tranh được. Đội Ngôi sao châu Á do cựu danh thủ Lý Huệ Đường làm HLV trưởng, trợ lý HLV là ông Peter Velappan (hiện nay là Tổng Thư ký LĐBĐ châu Á).
Sau khi được các đồng đội như Tam Lang, Dương Văn Thà, Võ Thành Sơn, Tư Lê, Hồ Thanh Cang cùng nhiều người hâm mộ đã giúp đỡ xây dựng cho một ngôi nhà cấp 4 tại sân bóng Thuận Kiều, thủ môn huyền thoại Phạm Văn Rạng đã qua đời vào Tháng Mười Một 2008. Tôi còn nhớ, ngày xưa mỗi khi họp nhau đá bóng, bọn trẻ chúng tôi luôn luôn bàn cãi trong việc chọn lựa ai sẽ là… Gôn Rạng! Hai chữ Gôn Rạng đã đi vào đầu óc non trẻ của chúng tôi trong ngôn ngữ hàng ngày.
Danh thủ Tam Lang với cup vô địch Merdeka 1966 (file photo)
Tại sân vận động Cộng Hòa vào giữa Tháng Mười Hai 1967 có Giải Túc cầu Thân hữu Việt-Mỹ. Từ Mỹ sang là đội Dallas Tornado, họ đấu hai trận, trận thứ nhất gặp Hội tuyển Thanh niên ngày 14 Tháng Mười Hai 1967 và trận thứ nhì ngày 16 Tháng Mười Hai 1967 gặp Hội tuyển Sài Gòn. Trận gặp đội tuyển có tới 20,000 khán giả đến chật kín sân vận động và kết quả hai đội hòa nhau 1-1.
Đặc biệt vào thời xưa, trước các trận đấu chính luôn luôn có các trận mở màn để các đội bóng thanh thiếu niên hoặc lão tướng có dịp ra sân trình diễn trước khán giả. Tôi nghĩ đây là một việc làm rất tốt của Tổng cục Túc cầu Việt Nam thời đó, một mặt khuyến khích các đội trẻ mặt khác phục vụ khán giả một cách tận tình bằng những “bữa tiệc” túc cầu có nhiều món khác nhau. Điều này, bóng đá sau năm 1975 không hề có.
Trở lại chuyện mê đá bóng của tôi hồi còn đi học. Túc cầu cũng mang lại cho tôi nhiều rắc rối. Đá bóng vào giờ nghỉ trưa thì không sao nhưng những trận đấu sau giờ học chiều mới có chuyện vì khi đó chắc chắn sẽ về nhà muộn. Tàn trận bóng mới bắt đầu lo vì đường từ trường Trần Hưng Đạo về đến khu Hòa Bình quá xa mà lại còn phải đi bộ. Đến bến xe đò đi Trại Hầm trước 6 giờ thì may còn kịp chuyến xe chót về nhà và nếu không còn xe thì đành cuốc bộ.
Như vậy, cuốc bộ suốt con đường từ trường về nhà, tròm trèm 6km, cũng mất độ gần hai tiếng. Về đến nhà còn phải nghĩ ra lý do để giải thích: Có việc đột xuất ở trường nên thầy giáo cho về trễ hoặc không hiểu sao xe đò lại nghỉ sớm, nhưng hoàn toàn không bao giờ có lý do… mê đá bóng.
Bây giờ tuổi đã già, niềm say mê bóng đá vẫn còn đó nhưng chỉ thể hiện qua việc xem bóng đá trên TV vào những ngày cuối tuần. Bóng đá Việt Nam vẫn chưa đi vào chuyên nghiệp, cầu thủ đa số là những người có chút ít kỹ thuật nhưng lại không được đào tạo về văn hóa còn khán giả phần đông là những người trẻ, họ đến sân với một tinh thần “cay cú, ăn thua”. Những khán giả chân chính chỉ còn biết ngồi nhà xem TV để không phải “tai nghe, mắt thấy” những hành động thiếu văn hóa diễn ra trên sân cỏ!
KIÊN GIANG, Việt Nam (NV) – Đám cưới “lớn chưa từng thấy” của con gái “đại gia Phú Cường” với thiết kế xa hoa, hoành tráng với kinh phí triệu đô ở thành phố Rạch Giá, khiến công luận không ngớt bàn tán những ngày qua.
Theo báo Người Đưa Tin, đám cưới “siêu khủng” trên diễn ra vào hai ngày 3 và 4 Tháng Mười Hai vừa qua tại Quảng Trường Biển thuộc Đảo Phú Gia, khu đô thị Phú Cường, thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang.
Toàn cảnh không gian nơi tổ chức đám cưới triệu đô của con gái “đại gia Phú Cường.” (Hình: Tú Anh/Người Đưa Tin)
Cô dâu là cô Nguyễn Thị Ngọc Như (Sophia Nguyễn), con gái út của ông Nguyễn Việt Cường, chủ tịch tập đoàn Phú Cường Group, nổi tiếng miền Tây.
Ngay sau khi được chia sẻ trên mạng xã hội, những hình ảnh về lễ đường “trong mơ” của đám cưới “siêu khủng” này đã khiến dân mạng trầm trồ vì “đẹp và tráng lệ ngoài sức tưởng tượng,” bởi nó được lấy cảm hứng từ không gian đậm chất thơ của khu vườn “Garden by The Bay” tại Singapore, và do đạo diễn Hoàng Công Cường, người từng chỉ đạo sân khấu cho lễ khai mạc và lễ bế mạc của SEA Games 31 đảm nhiệm.
Để tạo ra được lễ cưới “trong mơ” có sân khấu tiệc cưới nằm trên biển này, toàn bộ ý tưởng và thi công đã được chuẩn bị ròng rã chín tháng trời, với nhân sự phục vụ cho lễ cưới lên đến hơn 2,000 người.
“Chúng tôi đã có mặt tại hiện trường của một khu vực chuẩn bị sân khấu dành cho đám cưới có thể nói đến thời điểm này là lớn nhất Châu Á. Tất cả những chuyên gia đầu ngành đã có mặt và cuộc họp của chúng tôi kéo dài ròng rã trong ba tháng và quá trình chuẩn bị từ ê kíp Việt Nam và cả Philipines gần sáu tháng trời,” đạo diễn Hoàng Công Cường nói.
“Khu vực sảnh tiệc được trang trí bởi 25 tấn hoa lụa và năm tấn hoa tươi (hơn 13 tỷ đồng), sử dụng hơn 2,000 mét vuông gỗ MDF sơn chống nước tạo hình nghệ thuật, được dàn dựng thi công liên tục trong suốt sáu tháng. Cụ thể, mặt dựng Mapping lớn nhất với 700 mét vuông, sử dụng hơn 10,000 khối layer truss, 1,000 mét khung truss sản xuất riêng với kích cỡ đặc biệt. Toàn bộ bề mặt được phủ ánh sáng và visual mapping nghệ thuật được trình chiếu bởi sáu thiết bị chuẩn quốc tế công suất 30,000 asilumen,” ông Cường cho biết thêm.
Thậm chí, trong buổi tiệc tối, để khẳng định độ “chịu chi” của mình, gia đình cô dâu còn tổ chức bắn pháo hoa.
Ở phía ngoài khơi, có 100 chiếc tàu đánh cá được huy động, sẵn sàng thực hiện nghi lễ bắn pháo hoa cho người dân Kiên Giang chiêm ngưỡng.
Ngoài ra, mỗi khách mời cũng được tặng một chiếc ô (dù) để “phòng trường hợp có mưa.”
Sảnh đường tổ chức lễ cưới. (Hình: Tú Anh/Người Đưa Tin)
Ước tính, tổng chi phí của đám cưới lên đến cả trăm tỷ đồng. Sau lễ cưới, địa điểm này sẽ được sử dụng cho một số sự kiện văn hóa nghệ thuật của tỉnh để người dân Rạch Giá và các tỉnh lân cận đến thăm viếng, vui chơi vào dịp lễ cuối năm.
Hồi năm 2016, “đại gia Phú Cường” cũng từng gây sốt mạng xã hội khi chi tới cả chục tỷ đồng để làm tiệc cưới cho cô con gái đầu. Trong đó, 9 tỷ đồng ($374.960) sửa nhà hàng giữa hồ nước rộng hơn 80,000 mét vuông thành “Đảo Uyên Ương” và 2 tỷ đồng ($83,324) để mời các nghệ sĩ tên tuổi về biểu diễn góp vui. Riêng của hồi môn khi ấy, cô dâu được nhận tới 300 tỷ đồng ($12.49 triệu). Tiền khách mừng sẽ được trích ra 50% làm từ thiện. (Tr.N)
Lê Vi
CÁI CỔNG CHÀO (từ đây viết tắt là CCC )
CCC này, hình dáng vô cùng vĩ đại, màu sắc vô cùng quang vinh, kết cấu vô cùng muôn năm, rộng 12,5, cao 6,8 m, tại xã Tam Mỹ Tây ( huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam ) có tổng mức đầu tư 386 triệu đồng, được phê duyệt vào ngày 29-6-2021. Trong đó, ngân sách tỉnh là 300 triệu, ngân sách xã 71 triệu và nhân dân đóng góp 15 triệu ( đầy tớ nhân dân liếm hết bao nhiêu chưa thấy sao kê ).
Phan Đình Dung, chủ tịch ủy ban đầy tớ nhân dân xã Tam Mỹ Tây, giải thích CCC được xây dựng trên con đường cũ, khi huyện đầu tư khu trung tâm hành chính xã Tam Mỹ Tây, do sự phối hợp không kỹ lưỡng của xã và cơ quan chuyên môn của huyện, con đường đi vào có sự thay đổi nên CCC lệch sang một bên, một trụ móng nằm dưới ruộng, trụ móng kia nằm ngay chính giữa con đường.
Chắc lúc thiết kế và thi công, đỉnh cao trí tuệ đã ứng dụng công nghệ 0.4, không định vị bằng mắt phàm mà định vị bằng vệ tinh, do thiên tai bão lụt hay cá mập cắn cáp gì đó nên sóng bị nhiễu tí !
Mà cũng chẳng sao, CCC dành cho tất cả chúng sinh, một bên dành cho bò giống người đi, một bên dành cho người giống bò đi.
https://m.baomoi.com/cong-chao-gan-400…/c/44437480.epi
Canh Le
Ngày 4/12, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an vừa ra quyết khởi tố ông Vũ Ngọc Minh (SN 1961) – nguyên cán bộ Đại sứ quán Việt Nam tại Angola; Lý Tiến Hùng (SN 1969) – nguyên cán bộ Đại sứ quán Việt Nam tại Nga, hiện là chuyên viên Vụ Khoa học công nghệ và môi trường, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Vũ Hồng Quang (SN 1977) – Phó Trưởng phòng vận tải hàng không, Cục Hàng không Việt Nam.
Ba người này bị bắt và khởi tố để điều tra về tội Nhận hối lộ, theo Điều 354 Bộ Luật Hình sự.
Cùng ngày, liên quan đến vụ án, ba người khác bị bắt về tội Đưa hối lộ, theo Điều 364 Bộ Luật Hình sự, gồm ông Đào Minh Dương (SN 1971) – Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Vijasun, Nguyễn Thế Dũng (SN 1980) – Giám đốc Công ty TNHH du lịch, thương mại Sang Trọng và bà Nguyễn Thị Hiền (SN 1987) – nghề nghiệp tự do.
Một người khác bị khởi tố điều tra về tội Môi giới hối lộ, quy định tại Điều 365 Bộ Luật Hình sự, là bà Phạm Thị Kim Ngân (SN 1982) – cán bộ Phòng Trị sự, Tạp chí Thanh Tra thuộc Thanh tra Chính phủ.
HÀ TĨNH, Việt Nam (NV) – Hai nghi can Lãi Thế Tân và Nguyễn Thị Khánh Ly vừa bị bắt và khởi tố với cáo buộc “tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi ngoại quốc” theo Điều 349 Bộ Luật Hình Sự CSVN.
Tân, 31 tuổi, ở huyện Thạch Hà và Khánh Ly, 28 tuổi, ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh.
Nghi can Lãi Thế Tân (ngoài cùng bên trái) lúc bị bắt. (Hình: Hùng Lê/VNExpress)
Theo báo VNExpress hôm 4 Tháng Mười Hai, vào hai tháng trước, Tân và Khánh Ly “nổ” rằng họ có đường dây đưa người sang Mỹ làm việc trót lọt bằng cách thoạt đầu giả vờ đi du lịch sang Chile, Nam Mỹ, sau đó sẽ được dẫn bỏ trốn qua Mỹ. Chi phí cho mỗi người đi Mỹ dạng này là $65,000.
Tin tưởng vào lời dẫn dụ của Tân và Khánh Ly, anh Nguyễn Kim Hoàng, 26 tuổi, ở thành phố Hà Tĩnh và chị Phạm Thị Xoan, 31 tuổi, ở huyện Lộc Hà, đã nộp tiền “đi Mỹ.”
Giữa Tháng Mười Một, tại phi trường Nội Bài, Hà Nội, Tân bị công an bắt quả tang đang làm thủ tục xuất cảnh cho anh Hoàng và chị Xoan lên chuyến bay sang Chile.
Trong một vụ tương tự, theo báo Pháp Luật TP.HCM hôm 24 Tháng Mười Một, Công An ở Sài Gòn khởi tố vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra tại công ty Bluekeystone Immigration & Investment Consulting Việt Nam ở phường Nguyễn Cư Trinh, quận 1.
Sự việc liên quan đến tố cáo của hai ông THP và ông NVT, Hai ông P. và T. được ghi nhận nộp tổng cộng 1.3 tỷ đồng ($52,324) cho giám đốc và giám đốc điều hành công ty Bluekeystone, để làm hồ sơ định cư Mỹ theo diện visa EB-3.
Đây là hình thức nhập cư theo diện định cư làm việc dưới sự bảo lãnh của một doanh nghiệp uy tín tại Mỹ.
Tuy nhiên, sau khi ông P. và T. ký kết hợp đồng và nộp khoản tiền nêu trên thì lãnh đạo công ty Bluekeystone “đi đâu không rõ.”
Theo xác minh của cơ quan công an, công ty Bluekeystone không ghi danh kinh doanh và cũng không được Cục Quản Lý Lao Động Ở Ngoại Quốc, Bộ Lao Động-Thương Binh và Xã Hội Việt Nam, cấp giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở ngoại quốc theo hợp đồng lao động.
Phi trường Nội Bài là nơi các nghi can đưa nạn nhân xuất cảnh đi Chile, thay vì đi Mỹ như hứa hẹn. (Hình: Zing)
Từ hơn một năm trước, một số báo ở Việt Nam đã đăng bố cáo của công an truy tìm bà Tuyền và ông NTN, nhưng đến nay vẫn chưa thấy tăm hơi về hai người này.
Trong một bài đăng gần nhất, công ty Bluekeystone quảng cáo rằng thời gian xét duyệt hồ sơ cho diện lao động phổ thông EB-3 là từ 24 đến 30 tháng. (N.H.K)