S.T.T.D. Tưởng Năng Tiến – Dương Tường

Dương Tường

Tưởng Năng Tiến

Tôi có cái thói hễ thấy người sang là bắt quàng làm họ. Nhưng riêng chuyện tôi cũng (muốn) là bạn của ông Dương Tường thì không hẳn thế. Ông ấy (rõ ràng) trông dáng bộ cũng bệ rạc y như tôi thôi, chứ có sang trọng quái gì đâu. Theo như lời bè bạn:

Một lần Dương Tường đưa nhóm hoạ sĩ 5 người (Gang of Five) từ Hà Nội vào thành phố Hồ Chí Minh mở triển lãm. Nguyễn Quân mời tất cả tới khách sạn chiêu đãi. Dương Tường đi xích lô, tay cầm tờ Vietnam News cẩn thận, bước vào khách sạn. Người gác cửa khách sạn to lớn, mặc sắc phục nắm chặt vai anh, đẩy ra vỉa hè: “Không được bán báo ở trong ấy! Đi ra ngoài kia mà bán!”

Một ngày giáp tết, nghe mấy họa sĩ trẻ rủ rê, Dương Tường đi chợ hoa với họ. Vào chợ, họ tản mát khắp nơi để chọn bằng được một cành hoa đào ưng ý. Lơ ngơ một mình giữa chợ, Tường mua đại một cành đào, vác ra ngoài cổng chợ đứng chờ. Đang cầm cành hoa mới mua, xo ro trong mưa dầm gió bấc, bỗng một bàn tay nắm lấy vai anh, đẩy vào trong chợ: “Không được bán hoa ở đây! Mang vào trong chợ mà bán!” Đó là người bảo vệ chợ. (Bùi Ngọc Tấn. “Tôi Là Bạn Của Ông Dương Tường”. Viết Về Bè Bạn. Hải Phòng: Nhã Nam, 2003).

Vẫn cứ theo như lời Bùi Ngọc Tấn thì Dương Tường nhỏ người. Đã là dân Việt mà lại nhỏ con thì phải hiểu là… nhỏ lắm. Tôi áng chừng ông ấy cao khoảng một thước năm mươi lăm đổ lại, và nặng cỡ bốn mươi lăm ký là hết sức.

Tôi thì khác. Tôi cao đến một thước tám mươi, và nặng gấp rưỡi Dương Tường. Chỉ có điều đáng tiếc là cái vóc dáng “cao cả” này đã không khiến cho tôi trông cao sang, và quí phái hơn ông ấy được bao nhiêu, nếu không muốn nói là ngược lại.

Tôi cũng thường bị “trông lầm” (nhiều lần) chỉ vì trông không được ngon lành, hay bảnh bao gì cho lắm. Mới hôm qua chứ đâu, tôi ngồi cú rũ (một đống) trên mấy bậc thềm – trước khu thương xá Phước Lộc Thọ – ở phố Bolsa. Tôi hay bị buồn (ngang) khi ngày sắp tắt, nhất là vào những buổi chiều tàn, ở California. Màu nắng vàng hanh, hay đỏ rực của ráng chiều, dễ làm cho kẻ tha hương chạnh lòng nghĩ về chốn cũ: “Chiều nay gửi đến quê xưa, bao là thương là nhớ cho vừa… ”

Tôi cứ ngồi hát nho nhỏ, chỉ đủ cho chính mình nghe như thế, mà thấy nẫu cả lòng. Hẳn là trông tôi phải thê thảm lắm nên có một bà đồng hương đi qua, đã cúi xuống, kín đáo dúi cho tôi một tờ giấy bạc. Cầm thì kỳ mà không cầm cũng kẹt nên tôi cầm (đại) và miệng lí nhí nói cảm ơn mà mặt đỏ bừng!

Cũng theo lời kể của Bùi Ngọc Tấn, vào những năm đầu thập niên 60, Dương Tường phải sinh sống bằng nghề… bán máu. Ông Tấn đã hơi bi thảm hoá vấn đề, khiến nhiều người nghe muốn rơi nước mắt, chứ ở đất nước tôi mà có máu để bán, và có người mua, lại không phải qua cò (vì ông Tường vốn quen biết lớn) thì sung sướng và hạnh phúc lắm rồi, còn than van gì nữa?

Sau 1975, đất nước thống nhất, “Nam/Bắc hoà lời ca”, tôi ca (hơi) trật nhịp nên bị túm đi học tập một thời gian. Ra khỏi trại tù, tôi sống lang thang vất vưởng ở nhiều nơi, trước khi trôi giạt về Rạch Giá. Thành phố này, vào mùa mưa, hay có những ngày biển động. Trời thấp, ẩm, lạnh, mây xám màu chì. Lòng buồn, bụng đói, dạ hoang mang, tôi bước đi không thấy phố, không thấy nhà, chỉ thấy mưa sa trên màu cờ đỏ. Tôi hay loanh quanh trong chợ Nhà Lồng của Rạch Giá, mắt láo liên nhìn quanh những bàn ăn, chỉ chờ thực khách buông đũa là nhào vào húp vội phần ăn còn lại. Chao ơi, giá lúc ấy mà có máu để bán và có người mua thì đỡ (khổ) biết chừng nào?

Những cảnh đời (không may) mà Dương Tường trải qua, tôi cũng đều đã nếm. Đồng cảnh tương lân. Kiếp sống lao đao của ông ấy khiến tôi sinh lòng ái ngại nên (thoáng) có ý muốn làm bạn cho vui, thế thôi.

Nhưng cuộc đời của Dương Tường không chỉ khốn khổ và khốn nạn như thế. Nó tệ hơn thế, đôi khi. Ông ấy còn bị bạn bè xa lánh, “bị công an thẩm vấn nhiều lần, mỗi bước đi đều bị giám sát chặt chẽ.” Cũng có những khi Dương Tường được ưu ái cho đi nước này nước nọ. “Anh được Cộng đồng Pháp ngữ mời sang Pháp. Anh sang Đức trong ‘Festival Gặp Việt Nam của Đức’”. (Bùi Ngọc Tấn, sđd. Tr. 42).

Lúc nào thì Dương Tường cũng nằng nặc… đứng về phe nước mắt, như ông đã tuyên bố như vậy, qua thơ. Ngày 28 tháng 5 năm 2004, tại viện Goethe, khi giới thiệu buổi đọc văn của một bạn đồng nghiệp, ông phát biểu:

Những gì chảy ra từ ngòi bút Bùi Ngọc Tấn khiến tôi nghĩ đến quan điểm của Albert Camus về nhà văn và nghề văn được bày tỏ trong diễn từ nhận giải Nobel Văn học tại Stockholm (Thụy Điển) ngày 10/12/1957: Theo định nghĩa, nhà văn giờ đây không thể phụng sự những người làm ra lịch sử, anh ta phục vụ những kẻ cam chịu lịch sử. Nếu không, anh ta sẽ cô đơn và mất nghệ thuật của mình. Tất cả những đạo quân của bạo cường với hàng triệu người cũng sẽ không cứu nổi anh ta ra khỏi sự cô đơn, ngay cả và nhất là nếu anh ta thuận tình đi đều bước với họ. Nhưng sự im lặng của một người tù không quen biết ở tận cùng thế giới, bị bỏ mặc trong nhục nhằn, cũng đủ kéo nhà văn ra khỏi trạng thái lưu đày ấy mỗi khi, giữa những đặc quyền đặc lợi của tự do, anh ta có thể vượt lên để không quên sự im lặng đó và làm cho nó vang lên bằng những phương tiện của nghệ thuật.

Nếu tính từ lúc Nguyễn Mạnh Tường đọc tham luận, góp ý với Đảng CSVN, trước phiên họp của Mặt Trận Tổ Quốc (vào ngày 30 tháng 10 năm 1956, rồi bị vùi dập cho đến chết) thì mãi đến nửa thế kỷ sau, người ta mới lại được nghe tiếng nói dõng dạc và thẳng thắn như thế, của luơng tri, qua miệng Dương Tường, giữa lòng Hà Nội.

Tôi trộm nghĩ (rất có thể) là Dương Tường đã tạo nền cho những bài tham luận nẩy lửa trước thềm Đại Hội Nhà Văn Việt Nam lần thứ VII. Sau nhiều năm nín lặng, những người cầm bút Việt Nam đã cùng lên tiếng (nói một cách “chẻ hoe” và “trắng phớ”) về hoàn cảnh tồi tệ và nghiệt ngã mà chế độ đã dành cho họ. Nếu những suy đoán chủ quan của tôi mà không trật thì Dương Tường (rõ ràng) quá bảnh. Ông ấy chỉ có cái dáng ngoài bệ rạc (như tôi) thôi chứ tư cách thì ngon lành hết biết. Tôi mới đụng chuyện với Đảng và Nhà nước CS đâu có vài năm (lẻ) đã ù té bỏ chạy, và chạy luôn tới bữa nay, tuyệt nhiên không dám quay đầu nhìn lại. Còn Dương Tường, và những kẻ đồng hội đồng thuyền, theo lời của Phạm Xuân Nguyên:

 Đã gánh cây thập ác đi trọn đường trần ai của mình.
Không vứt xuống
Không chạy trốn.
Không ngã gục.
Không dừng bước
Và dẫu không là Chúa, các ông đã được phục sinh
.

– Tưởng Năng Tiến

Chủ tịch nước mới của Việt Nam đưa tổng bí thư Trọng đến gần chế độ độc tài

Theo Nikkei Châu Á

TOMOYA ONISHI, biên tập viên

03/03/2023 02:55 JST

Tân Chủ tịch nước Việt Nam Võ Văn Trường, trái, là đồng minh thân cận của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Nguyễn Phú Trọng, phải. © TTXVN/Kyodo

HÀ NỘI –– Việc lựa chọn một đồng minh thân cận của Nguyễn Phú Trọng làm chủ tịch nước tiếp theo của Việt Nam càng củng cố quyền lực của tổng bí thư Đảng Cộng sản, làm dấy lên lo ngại về sự kiểm soát chặt chẽ hơn của đảng đối với nền kinh tế.

Tân Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, người giữ chức Bí thư Trung ương Đảng khóa thứ 5 từ năm 2021, nằm trong số những người có tuổi thọ cao trong đảng trong bối cảnh chiến dịch chống tham nhũng do ông Trọng đứng đầu đã hạ bệ các quan chức hàng đầu.

Chiến dịch chống tham nhũng của Trọng

Chiến dịch Đốt Lò, chống tham nhũng đã được so sánh với chiến dịch của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, người đã sử dụng một cuộc đàn áp tương tự để loại bỏ các đối thủ tiềm tàng khỏi hàng ngũ cấp cao nhất của đảng.

Trọng, người đứng đầu phe bảo thủ tập trung vào học thuyết của Đảng Cộng sản, “dường như đang củng cố quyền lực của mình bằng cách lật đổ các quan chức cấp cao được coi là thân phương Tây hơn và ủng hộ doanh nghiệp”, một phân tích của BBC cho biết.

Không còn sự quân bình trong đối ngoại ở Việt Nam

Mặc dù Việt Nam từ lâu đã gần gũi với Trung Quốc với tư cách là một quốc gia xã hội chủ nghĩa độc đảng, nhưng Việt Nam cũng đã củng cố mối quan hệ với phương Tây sau khi áp dụng nền kinh tế thị trường vào cuối những năm 1980. Hà Nội không có “thân Mỹ” rõ ràng hoặc phe “thân Trung Quốc”, nhưng các quan chức có thâm niên trong đảng thường nghiêng về phía Bắc Kinh trong khi những người có thời gian làm việc lâu hơn trong chính phủ lại có xu hướng hướng về phương Tây.

Trong những năm gần đây, sự lãnh đạo tập thể của chủ tịch nước, thủ tướng, chủ tịch quốc hội và tổng bí thư đã tạo ra sự cân bằng giữa hai bên. Mặc dù ông Trọng đã đến thăm Trung Quốc vào tháng 10, Chủ tịch nước tiền nhiệm Nguyễn Xuân Phúc đã thực hiện nhiều chuyến công du tới Hoa Kỳ, Châu Âu và Nhật Bản để xây dựng mối quan hệ ở đó.

Nhiều quan chức bị lật đổ trong chiến dịch chống tham nhũng thuộc phe thân phương Tây. Điều đó bao gồm cả bản thân Phúc, người đã bị buộc thôi việc vào tháng Giêng. Phó Thủ tướng Thường trực Phạm Bình Minh và Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, những người đã có nhiều năm cầm quyền, cũng bị cách chức.

Các lựa chọn khác được xem xét ngoài chức vụ chủ tịch nước là lựa chọn để ông Trọng tự mình đảm nhận chức vụ tổng bí thư, hoặc đề bạt Bộ trưởng Công an Tô Lâm, người đã lãnh đạo chiến dịch chống tham nhũng. Các vấn đề về tuổi tác và sức khỏe của Trọng khiến lựa chọn này trở nên khó khăn, nhưng việc chọn một đồng minh thân cận sẽ giúp đảm bảo cho kế hoạch và mong muốn của ông được thực hiện (một cách trọn vẹn hơn).

Trọng ngã về phía Trung Quốc

Một số nhà quan sát nhận thấy Trọng đang rút ra từ vở kịch mà Tập đã sử dụng để củng cố chế độ độc tôn của mình ở Trung Quốc. Hai nhà lãnh đạo đã thể hiện mối quan hệ nồng ấm của họ bằng nụ cười và cái ôm trong cuộc gặp vào tháng 10, ngay sau khi ông Tập đắc cử nhiệm kỳ thứ ba.

Trung Quốc là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam và các công ty Trung Quốc đã tăng cường đầu tư vào đây. Bất chấp tình cảm chống Bắc Kinh sâu sắc trong công chúng Việt Nam, một phần do tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông, các nước láng giềng đã không có xích mích ngoại giao lớn trong vài năm qua. Trọng có thể đưa Hà Nội xích lại gần Bắc Kinh hơn khi ông tập trung củng cố đảng.

Một số lo ngại rằng một Đảng Cộng sản mạnh hơn có thể thắt chặt kiểm soát nền kinh tế, cản trở những nỗ lực dưới thời Phúc nhằm mở cửa hơn nữa và khiến tăng trưởng gặp rủi ro.

Ảnh hưởng đến các mối quan hệ với phương Tây

Với xu hướng “friendshoring” của Hoa Kỳ – chuyển chuỗi cung ứng sang các nước đồng minh hoặc thân thiện – Việt Nam đã thu hút sự chú ý với tư cách là một trung tâm sản xuất của Đông Nam Á và các công ty như Intel đã tăng cường đầu tư. Việc Hà Nội nghiêng về phía Bắc Kinh nhiều hơn có thể buộc các đối tác phải suy nghĩ lại về những kế hoạch này.

Chính phủ Việt Nam và Đảng Cộng sản dường như sẵn sàng tiếp tục đàn áp các nhà lãnh đạo không chỉ của các doanh nghiệp nhà nước, mà cả các doanh nghiệp tư nhân, khiến các công ty nước ngoài có đối tác địa phương thêm đáng lo ngại. Các giám đốc điều hành hàng đầu của tập đoàn tập trung vào bất động sản Tập đoàn FLC và nhà phát triển Tập đoàn Vạn Thịnh Phát đã bị bắt vì tội lừa đảo vào năm ngoái.

Phan Sinh Trần 

Vì dân, do dân là vậy sao?-Đỗ Duy Ngọc

Báo Tiếng Dân

Đỗ Duy Ngọc

Theo các báo, Bệnh viện Chợ Rẫy có thể tạm ngưng hoạt động và có nguy cơ đóng cửa. Bệnh viện hiện gặp nhiều khó khăn trong việc mua sắm trang thiết bị, vật tư y tế, hóa chất, máy móc hư hỏng không thể sửa chữa buộc phải chuyển bệnh nhân đến cơ sở khác.

Bệnh viện Chợ Rẫy được xây dựng và hoạt động từ năm 1900 và từ 1971 đến tháng 6.1974, Bệnh viện Chợ Rẫy được tái xây dựng do chính phủ Nhật Bản tài trợ trên diện tích 53.000 m2, với tòa nhà 11 tầng, trở thành một trong những bệnh viện lớn nhất Đông Nam Á lúc bấy giờ.

Theo báo cáo của BV, số người bệnh nội trú trung bình/ngày là 2.544 người, người bệnh ngoại trú khám bệnh trung bình 3.500 người/ngày. Giờ đây, BV có nguy cơ đóng cửa, số bịnh nhân khổng lồ đó sẽ đi về đâu. Được biết, lý do từ chuyện đấu thầu và những quy định, cơ chế bất hợp lý nên BV không đủ hóa chất để xác định chẩn đoán và không đủ vật tư y tế tiêu hao để điều trị cho người bệnh nếu tiếp tục chờ 3 báo giá.

Ảnh chụp màn hình

Nếu BV ngưng hoạt động hay đóng cửa, các BV công khác trên cả nước cũng có nguy cơ đóng cửa đồng loạt vì cũng chịu những quy chế như thế. Nền y tế Việt Nam rồi sẽ đi về đâu? Hàng trăm ngàn bịnh nhân hàng ngày đành chờ chết hay sao? Những người lãnh đạo Bộ Y tế cũng như chính phủ phải chịu trách nhiệm chuyện này. Phải nhanh chóng, cấp bách có biện pháp sớm nhất để cứu dân. Viện Pasteur và các phòng xét nghiệm của nhà nước lâu nay cũng đã đóng cửa, người dân đành chấp nhận vào BV tư để xét nghiệm, chấp nhận giá cao. Giờ lại đến các bệnh viện.

Nếu các quan chức y tế không đủ khả năng để lãnh đạo và điều hành, đề nghị các vị từ chức ngay đi để người dân được sống. Ngay từ những năm tháng chiến tranh và khó khăn về kinh tế cũng không bao giờ có hiện tượng này. Thuốc men, máy móc, sinh phẩm y tế không thiếu. Các công ty dược phẩm, hoá chất y tế đổ xô vào thị trường Việt Nam, không thể gọi là không có hàng cung cấp được. Chẳng qua lâm vào bế tắc này là do những người đang điều hành, do những chính sách bất hợp lý. Bác sĩ không có thuốc men, BV không có hoá chất, sinh phẩm cũng như người lính ra trận mà không có vũ khí. Họ sẽ chiến đấu bằng cái gì?

Không thể để các BV đóng cửa, cũng như không thể để người dân phải chết vì bịnh mà không được chữa. Các người còn có lương tâm không? Các người còn có trách nhiệm không? Hay đồng tiền đã che mất rồi. Lương tâm đã bị chó tha mất rồi? Chỉ tội cho người dân nghèo, è cổ đóng thuế mà không được hưởng một chút gì của an sinh xã hội, lâm bịnh cũng không có BV để chữa trị. Vì dân, do dân là vậy sao?

27/02/2023

18 NƠI CỔ XƯA NHỨT SÀI GÒN

-Đàm Ngọc Tuyên-

  1. Ngôi trường xưa nhứt

Trường Lê Quý Đôn được xây vào năm 1874, hoàn tất năm 1877 do người Pháp quản lý. Lúc đầu trường có tên Collège Indigène (Trung học bản xứ), rồi đổi thành Collège Chasseluop Laubat. Năm 1954, trường mang tên Jean Jacques Rousseau. Năm 1967, trường được trả cho người Việt quản lý mang tên Trung tâm giáo dục Lê Quý Đôn. Từ năm 1975 đến nay đổi tên là trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn. Hơn một thế kỷ qua trường vẫn giữ được kiến trúc ban đầu.

2.Nhà máy điện xưa nhứt

Nhà máy điện Chợ Quán được xây vào năm 1896, máy phát điện chạy bằng hơi nước có 5 lò hơi với 150m2, cung cấp dòng điện 3 pha, công suất chưa tới 120MW [Megawatt]. Máy phát điện chính công suất 1000A/h [A=Ampere hay Amp./h=hour]. Hiện nay, nhà máy đã được trang bị hiện đại với 7 máy phát điện, hòa với lưới điện quốc gia cung ứng phần quan trọng cho lưới điện thành phố. Nhà máy tọa lạc tại số 8 Bến Hàm Tử, quận 5.

  1. Nhà thương xưa nhứt

Nhà thương Chợ Quán được xây vào năm 1826 do một số nhà hảo tâm đóng góp, sau đó hiến cho nhà nước. Năm 1954-1957 nhà thương được giao cho Quân đội và đổi tên thành Viện Bài lao Ngô Quyền. Năm 1974, đổi thành Trung tâm Y tế Hàn-Việt với 522 giường. Tháng 9/1975, mang tên Bệnh viện Chợ Quán. Đến ngày 5/9/1989 chuyển thành Trung tâm Bệnh Nhiệt đới. Hiện nay có 610 Cán bộ-Công nhân viên và 550 giường bệnh.

  1. Nhà hát xưa nhứt

Nhà hát thành phố do kiến trúc sư người Pháp khởi công và hoàn tất vào ngày 17/1/1900. Các phù điêu bên trong được một họa sĩ tên tuổi ở Pháp vẽ giống như mẫu của các nhà hát ở Pháp cuối thế kỷ XIX. Nhà hát là nơi trình diễn ca nhạc kịch cho Pháp kiều xem. Năm 1956-1975, Nhà hát được dùng làm trụ sở Hạ nghị viện cho các chánh phủ Đệ I & II Việt Nam Cộng Hòa; tháng 5/1975 trở thành Nhà hát thành phố với 750 chỗ ngồi. Kỷ niệm 300 năm Sài Gòn, toàn bộ phần kiến trúc bên ngoài Nhà hát đã được tu sửa lại như lúc nguyên thủy.

  1. Khách sạn xưa nhứt

Khách sạn Continental tọa lạc tại 132-134 Đồng Khởi, được xây vào năm 1880 do Kiến trúc sư người Pháp thiết kế, tên khách sạn có ngay từ những ngày đầu. Sau ngày cướp được miền Nam, khách sạn Continental bị Bắc Việt đổi thành Hải Âu. Đến năm 1989, khách sạn được nâng cấp, chỉnh trang và lấy lại tên cũ Continental với diện tích 3430m2, cao 3 tầng, nơi đây đã từng đón tiếp các vị tổng thống, thống đốc, nhà văn, người mẫu nổi tiếng. Ngày nay, khách sạn Continental là một trong những khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế.

  1. Nhà thờ xưa nhứt

Nhà thờ Chợ Quán tọa lạc tại số 20 Trần Bình Trọng, P.2, Q.5 được xây vào năm 1674 là nhà thờ cổ nhứt tại Sài Gòn và cổ nhất ở miền Nam. Ngôi thánh đường nằm ở vị trí trung tâm, có kiến trúc kiểu phương Tây, lợp ngói đỏ, có thể chứa khoảng 1000 người. Ngoài việc sinh hoạt tôn giáo, Họ đạo Chợ Quán tích cực tham gia công tác xã hội giúp đỡ người nghèo. Trải qua hơn 3 thế kỷ Nhà thờ Chợ Quán đã được trùng tu nhiều lần. Hiện nay, nơi đây có phòng khám và phát thuốc từ thiện dưới quyền quản lý của Hội Chữ thập đỏ [Hội Hồng Thập Tự] Quận 5.

  1. Ngôi đình xưa nhứt

Một trong những ngôi đình cổ nhất của đất Gia Định xưa và xưa nhất Nam Bộ là đình Thông Tây Hội, được xây vào khoảng năm 1679, là chứng tích còn nguyên vẹn nhất của thời kỳ dân Ngũ Quảng kéo vào khai khẩn vùng Gò đất có nhiều cây Vắp (từ đó trở thành tên địa phương là Gò Vấp). Đình lúc đầu là của thôn Hạnh Thông–thôn khởi nguyên của Gò Vấp, sau đổi thành Thông Tây Hội (do sự sáp nhập của thôn Hạnh Thông Tây (thôn Mới) và thôn An Hội). Đình Thông Tây Hội có vị Thành Hoàng rất độc đáo. Hai vị thần thờ ở đình là hai hoàng tử con vua Lý Thái Tổ, do tranh ngôi với thái tử Vũ Đức nên bị đày đi khai hoang ở vùng cực Nam tổ quốc và trở thành “Thủy tổ khai hoang” trong lịch sử Việt Nam; hai vị thần đó là: Đông Chinh Vương và Dục Thánh Vương. Ngôi đình còn giữ được khá nguyên vẹn về quy mô và kiến trúc, kết cấu, với những chạm khắc đặc trưng Nam bộ. Đình Thông Tây Hội thuộc P.11, Gò Vấp.

  1. Nhà văn hóa xưa nhứt

Cung Văn hóa Lao Động. Năm 1866, với tên gọi Cèrcle Sportif Saigonnais được xây dựng làm sân thể thao cho các quan chức người Pháp với những hồ bơi, sân quần vợt, phòng đấu kiếm và phòng nhảy đầm. Thời Mỹ, sân chơi được mở rộng hơn phục vụ cho cả giới quý tộc. Tháng 11/1975, Ủy ban Quân quản Sài Gòn–Gia Định trao toàn bộ khu này cho Liên đoàn Lao động Thành phố để biến cải thành khu hoạt động văn hóa thể thao và vui chơi giải trí cho công nhân lao động, lấy tên là Câu lạc bộ Lao Động, sau đổi thành Nhà văn hóa Lao Động, và rồi là Cung Văn hóa Lao Động. Diện tích 2.8ha, với 132 năm hình thành và phát triển, Cung Văn hóa Lao Động là Nhà văn hóa cổ và lớn nhứt của Sài Gòn.

  1. Công viên lâu đời nhứt

Thảo Cầm Viên do người Pháp xây vào năm 1864, nhà thực vật học nổi tiếng người Pháp Louis Pierre làm giám đốc đầu tiên. Mục đích xây dựng Thảo Cầm Viên để ươm cây giống trồng dọc các đại lộ Sài Gòn, đồng thời là nơi nuôi & trồng những động & thực vật thuộc miền nhiệt đới mà các Thảo Cầm Viên của Pháp lúc bấy giờ chưa có. Năm 1865, chính phủ Nhật đã hỗ trợ khoảng 900 giống cây quý như: Chizgnamat, Goyamtz, Acamatz, Coramatz, Kayanoki, Kayamaki, Enoki, Maiki, Asoumaro, Sengni, Momi, Cashi, Kiaki, Inoki… Động vật của Thảo Cầm Viên khá phong phú như: gà lôi, sếu, cu gáy, hồng hoàng, công, hưu, nai, cọp, khỉ, chồn hương, tắc kè, rùa, cọp xám, báo đen, gà lôi xanh, chim cú lợn… Đến năm 1989, Thảo Cầm Viên được trùng tu, mở rộng và nhận thêm nhiều giống thú mới, trồng thêm cây quý. Hiện nay, có 600 đầu thú thuộc 120 loài, 1823 cây gỗ thuộc 260 loài và nhiều loại cây kiểng quý trên diện tích 21.352m2. Năm 1990, Thảo Cầm Viên là thành viên chính thức của Hiệp hội các vườn thú Đông Nam Á. Thảo Cầm Viên đã tròn 134 tuổi, số lượng động & thực vật ngày càng tăng, nơi đây đã gắn bó với từng bước đi lên của thành phố và là một trong những công viên khoa học lớn nhứt Đông Dương.

  1. Ngôi nhà xưa nhứt

Ngôi nhà có tuổi thọ lâu đời nhất còn hiện diện tại Sài Gòn nằm trong khuôn viên Tòa Tổng Giám Mục Sài Gòn, số 180 Nguyễn Đình Chiểu, P.6, Q.3. Năm 1790, Vua Gia Long cho cất ngôi nhà này ở gần Rạch Thị Nghè làm nơi ở cho Linh Mục Bá-Đa-Lộc và làm nơi dạy học cho Hoàng tử Cảnh. Ngôi nhà được xây bên bờ sông Thị Nghè trong địa phận Thảo Cầm Viên bây giờ. Năm 1799, Bá-Đa-Lộc chết, ngôi nhà được giao cho linh mục khác. Từ năm 1811 đến năm 1864 ngôi nhà bị đóng cửa vì chính sách cấm đạo của triều đình Huế. Sau khi vua Tự Đức ký hòa ước với Pháp, ngôi nhà được trao lại cho Tòa Giám Mục và được di chuyển về vị trí đường Alexandre de Rhodes hiện nay.

Sau đó năm 1900 Tòa Giám Mục được xây cất tại 180 đường Richaud (nay là đường Nguyễn Đình Chiểu) thì ngôi nhà gỗ lại được dời về đây làm nhà thờ của Tòa Giám Mục. Ngôi nhà 3 gian 2 chái, lợp ngói âm dương, sườn, cột bằng gỗ, khung cửa và các khung thờ đều được chạm trổ công phu với hình hoa, lá, chim thú, hoa văn. Trong các di vật còn lại của ngôi nhà có một di vật có giá trị lịch sử lớn, đó là đôi liễn gỗ có tám chữ triện khảm xà cừ là tám chữ vua Gia Long ban tặng giám mục Bá-Đa-Lộc, một bên là “Tứ Kỳ Thịnh Hy”, một bên là “Thần Chi Cách Tư”.

Ngôi nhà được tu sửa vào năm 1980, cách tu sửa có tính chất vá víu, cốt giữ lại những gì có thể giữ được. Trải qua hai thế kỷ ngôi nhà không giữ được nguyên trạng nhưng đây là một di tích kiến trúc mang dấu ấn lịch sử, tôn giáo và văn hóa nghệ thuật. Đây là một tài sản có giá trị mà các bậc tiền nhân đã để lại cho chúng ta, không chỉ là truyền thống – bản sắc dân tộc mà còn là bộ mặt quá khứ mang tính văn hóa kiến trúc, một khía cạnh văn minh tại một vùng đất mới mọc lên từ đầm lầy, kênh rạch

  1. Ngôi chùa xưa nhứt

Ngôi chùa có cảnh trí đẹp nhưng nằm ở địa điểm không tiện đi lại nên được ít người biết đến, [đó] là chùa Huê Nghiêm, tọa lạc ở 20/8 Đặng Văn Bi, Thủ Đức. Chùa được thành lập năm 1721 do Tổ Thiệt Thùy (Tánh Tường) khai sáng. Tên chùa lấy từ tên bộ kinh Hoa Nghiêm. Đây là chùa cổ xưa nhất trong các chùa ở TP Sài Gòn nên còn gọi là Huê Nghiêm Cổ Tự. Những ngày đầu là một ngôi chùa nhỏ được xây cất trên vùng đất thấp cách địa thế chùa hiện nay khoảng 100m. Sau đó, Phật tử Nguyễn Thị Hiên pháp danh Liễu Đạo cúng đất để xây lại ngôi chùa rộng rãi khang trang như hiện nay.

Qua nhiều lần trùng tu vào các năm 1960, 1969, 1990 mặt tiền chùa ngày nay mang dáng vẻ kiến trúc của chùa hiện đại nhưng các gian phía trong vẫn giữ nguyên kiến trúc cổ truyền, mái gian mặt tiền được cấu trúc gồm 3 lớp, nhỏ dần về phía trên. Các đường gờ mái chạy dài xuống cuối đầu đăng đều trang trí bằng hoa văn hình cánh sen đối xứng, giữa là hình bánh xe luân pháp, đặt trên hoa sen. Mái lợp ngói ống màu đỏ, đường viền mái ngói màu xanh.

Vườn chùa có nhiều cây xanh bóng mát, có 9 ngôi tháp cổ với nhiều kiểu dáng khác nhau như những cánh sen vươn lên. Những hàng cột gỗ trong chùa được khắc nổi các câu đối bằng chữ Hán màu đen kết hợp với việc chạm khắc mô típ “long ẩn vân” dùng trang trí.

Chùa Huê Nghiêm là một di tích Phật giáo quan trọng, là nơi dừng chân, sống đạo và hành đạo của nhiều vị danh tăng uyên thâm Phật pháp, có đạo hạnh và có đạo đức. Chùa cũng là bằng chứng về trình độ kiến trúc và phong tục tập quán của người Việt trên vùng đất mới khai phá, mở ra nền văn minh trên vùng đất hoang sơ.

  1. Đường sắt đầu tiên ở thành phố

Tuyến đường sắt đầu tiên ở nước ta là đoạn đường sắt Sài Gòn–Mỹ Tho dài 71km, được xây vào năm 1881. Ga chính trước chợ Bến Thành, văn phòng đường sắt là tòa nhà 2 tầng chiếm cả khu đất bao bọc bởi ba đường Hàm Nghi–Huỳnh Thúc Kháng–Nam Kỳ Khởi Nghĩa, nay là Xí nghiệp Liên hợp đường sắt khu vực 3. Xe lửa chạy bằng máy hơi nước phải dùng than củi đốt nồi súp-de nên xe chạy khá chậm. Vì không cạnh tranh nổi với xe đò trong việc chuyên chở hàng hóa và hành khách, đường xe lửa Sài Gòn–Mỹ Tho đã ngưng hoạt động từ lâu. Sau năm 1975, Ga xe lửa Sài Gòn được dời về Ga Hòa Hưng. Vào ngày 8/8/1998, người ta khởi công xây cất Trung Tâm Văn Hóa Thương Mại Sài Gòn trên nền Ga Sài Gòn cũ.

  1. Người Việt đầu tiên viết sử Việt Nam bằng tiếng Pháp

Ông Trương Vĩnh Ký (1837-1898). Năm 1859, Pháo hạm Pháp bắn vào cửa biển Đà Nẵng và thành cũ Gia Định, triều đình nhà Nguyễn bắt buộc chấp nhận mở cửa đất nước cho tư bản thực dân Pháp xâm nhập. Trong giai đoạn lịch sử mới, người Việt Nam từng bước tiếp xúc với ngôn ngữ và văn minh mới. Trương Vĩnh Ký là một trong những người sớm tiếp xúc và hấp thụ ngôn ngữ văn hóa phương Tây đã trở thành học giả có nhiều sáng tác nhất bằng cả tiếng Pháp và tiếng Hán–Việt. Ông là người Việt Nam đầu tiên viết sử Việt Nam bằng tiếng Pháp. Cuốn “Giáo trình lịch sử An Nam” đã được xuất bản gồm hai tập dày 462 trang. Đây thực sự là một công trình bác học biên soạn công phu dưới ánh sáng của một phương pháp luận khoa học tiến bộ so với đương thời.

  1. Tờ báo bằng chữ Quốc Ngữ đầu tiên

Tờ “Gia Định Báo” là tờ báo chữ Quốc ngữ đầu tiên ở nước ta ra đời tháng 4/1865. Tờ báo đăng những thông tin nghị định của nhà nước và những tin kinh tế xã hội, lời bàn về thời cuộc, luân lý, lịch sử. Báo ra hằng tháng. Sau 4 năm phát hành, chính quyền thuộc địa cho phép báo phát hành hàng tuần bằng quyết định số 51 ngày 18/3/1869.

  1. Tờ báo đầu tiên của Phụ nữ Việt Nam

Ngày 1/2/1918 tờ báo chuyên về Phụ nữ đầu tiên ra đời là tờ “Nữ Giới Chung” nhằm nâng cao trí thức, khuyến khích công-nông-thương, đề cao người Phụ nữ trong xã hội, chú trọng đến việc dạy đức hạnh, nữ công, phê phán những ràng buộc đối với Phụ nữ, đánh đổ mê tín dị đoan, động viên Phụ nữ quan tâm đến việc “Nữ quyền”. Muốn có vị trí ngang hàng với nam giới ngoài việc tề gia nội trợ phải am hiểu “tình trong thế ngoài”.

Chủ bút tờ báo là nữ sĩ Sương Nguyệt Anh, con gái nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu, vốn có lòng yêu nước, yêu thương đồng bào như thân phụ nên khi làm báo Bà có ý muốn làm diễn đàn để tỉnh thức lòng yêu nước trong dân chúng. Tuy chỉ tồn tại được hơn 6 tháng nhưng “Nữ Giới Chung” cũng đã gióng lên một hồi chuông nữ quyền còn vang mãi đến ngày nay.

  1. Cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên

“Đại Nam Quốc Âm Tự Vị” là cuốn từ điển tiếng Việt quốc ngữ La-tinh của Huỳnh Tịnh Của gồm hai tập: Tập I xuất bản năm 1895, tập II xuất bản 1896 tại Sài Gòn. Bộ từ điển chứa nhiều từ ngữ xưa, thành ngữ, tục ngữ, từ ngữ về thảo mộc, cầm thú của Việt Nam và của miền Nam. Bộ từ điển này trở thành Từ điển Bách khoa toàn thư đầu tiên về Nam Bộ.

  1. Người kiến trúc sư Việt Nam đầu tiên

Trong lúc ở Sài Gòn, ông Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) đã đứng ra xây cất tu viện dòng thánh Phao-lô (số 4 Tôn Đức Thắng). Đây là công trình xây cất theo kiến trúc Châu Âu do người Việt Nam thực hiện tại Sài Gòn. Công trình được khởi công từ tháng 9/1862 đến 18/7/1864 hoàn thành gồm nhà nguyện với ngọn tháp nổi bật trên cao xây theo kiểu Gô-thic, một tu viện, một nhà nuôi trẻ mồ côi và một tháp chuông. Công trình xây cất này là kết quả nghiên cứu kiến trúc châu Âu của Nguyễn Trường Tộ khi ông ở Hồng Kông. Qua nhiều lần sửa chữa trùng tu, ngày nay tu viện thánh Phao-Lô vẫn giữ được đường nét kiến trúc xưa, chứng tỏ tài năng kiến trúc của Nguyễn Trường Tộ không thua gì các kiến trúc sư người Pháp.

  1. Người Việt Nam đầu tiên vẽ bản đồ địa lý và đồ họa Sài Gòn theo phương pháp phương Tây

Ông Trần Văn Học, sanh quán ở Bình Dương, giỏi Quốc ngữ, La-tinh và tiếng Tây Dương, được giới thiệu làm thông ngôn cho Nguyễn Ánh. Ông phụ trách việc dịch sách kỹ thuật phương Tây, đồng thời kiêm việc chế tạo hỏa xa, địa lôi và các loại binh khí. Năm 1790, Nguyễn Ánh xây thành Bát Quái. Trần Văn Học phụ trách “phác họa đường sá và phân khu phố phường”.

Ông rất có tài vẽ địa đồ, họa đồ và kỹ thuật bản đồ như: tỷ lệ, trắc địa, và vẽ gần như chính xác các thành trì và công trình. Ông được coi như là người đầu tiên vẽ bản đồ Sài Gòn-Gia Định theo phương pháp Tây phương.

Bản đồ Gia Định – Sài Gòn – Bến Nghé do Trần Văn Học vẽ 1815.

Ảnh : Nhà thờ xưa nhứt ở quận 5

Đất và Người Nam – Kỳ

#Annam #Yakukohaiyo

Copy từ: Đàm Ngọc Tuyên

XẤU HỔ VÀ VÔ CÙNG XẤU HỔ

Pham Mylan  Những câu chuyện Nhân Văn

XẤU HỔ VÀ VÔ CÙNG XẤU HỔ

Cầu Long Biên khánh thành năm 1902 sau khi khởi công xây dựng 1898, mất 4 năm.

Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn khởi công 1877 và khánh thành năm 1880,mất 3 năm.

Tuổi đời của Cầu Long Biên là 120 năm.

Tuổi đời của Nhà Thờ Đức bà là 142 năm.

Hai công trình điển hình này do Thực dân Pháp ” cướp nước” ta để lại như là dấu tích của một thời thực dân.

Giờ đã đến lúc phải sửa chữa cho những thứ tồn tại hàng thế kỷ như vậy.

Nhưng.

Cầu Long Biên muốn sửa chữa nhưng trình độ Công nghệ của ta,tạm gọi vậy cho có vẻ khoa học, rất kém.

Nên đang muốn nhờ chính phủ Pháp cho tiền để sửa chữa VÀ.

Và gì.

Cử người Pháp sang làm cho gọn.

Nhà thờ Đức Bà cũng chẳng khác gì.

Sửa chữa từ 2017 khi Tòa Tổng Giám mục Sài Gòn là người Quản trị Công trình này cam kết với Ủy Ban Nhân dân TP.HCM là họ sẽ hoàn thành năm 2019 vì đã có tiền để làm.

Đến cuối 2018 thì họ xin thêm đến 2023 vì ” nó phức tạp quá”.

Đang mừng khấp khởi là đến 2023 sẽ gỡ hàng rào bao quanh.

Không.

Chiều ngày 04/08/2022 giới chức có thẩm quyền công bố là họ mới xin đến 2027 , tức là 5 năm nữa mới hoàn thành sửa chữa và vẫn còn thòng thêm câu là ” trong tình hình diễn biến thuận lợi, nếu có những phát sinh mới sẽ được bổ sung để xin gia hạn tiếp giấy phép sửa chữa”.

Tức là chưa chắc 2027 là thời hạn cuối cùng mà sẽ là dài dài.

Việc còn đến 5 năm nữa mà vẫn không hoạch định được việc mình làm cho thấy gì.

Điều đáng nói là tất cả các chuyên gia phục hồi sửa chữa này đều là từ Pháp và Ý sang từ 2017 , tức là người Việt vẫn không thể làm được cái việc mà người Pháp 142 năm trước đã làm.

Từ cầu Long Biên đến Nhà Thờ Đức Bà đều chung một kết quả thấy được là Người nước ta không biết và không làm chủ được những thứ tri thức và kỹ năng đã có từ hàng thế kỷ trước.

Vậy chúng ta bước vào kỷ nguyên 4.0 bằng cái gì.

Bằng việc không học Số học và nhảy luôn vào Đại số hay sao.

Bằng việc không học Tiểu học mà thi thẳng lên Tiến sĩ hay sao.

Đất nước có 26.000 tiến sĩ và hơn 100.000 thạc sĩ, tức là 10 Sư đoàn thạc sĩ mà đến lúc sửa cầu Thăng Long do Liên Xô làm từ 1985 vẫn không làm nổi.

Công nghệ của Pháp hơn 140 năm trước vẫn không hiểu gì chưa nói tới chuyện để làm.

Vậy đất nước ta, dân tộc ta đứng ở đâu trong kho tàng tri thức của Nhân loại.

Rất xấu hổ.

Vô cùng xấu hổ.

Và bất lực.

Fb Hung Phan

NHẬT KÝ CỦA NGƯỜI VỢ CÓ CHỒNG ĐI “HỌC TẬP CẢI TẠO “

Sau 1975, hầu hết những quân nhân phục vụ trong quân đội miền Nam đều “được “đi học tập cải tạo. Những đoạn nhật ký dưới đây của tôi chắc rằng cũng giống như của hàng vạn người vợ khác ở Miền Nam Việt Nam thời bấy giờ .

Ngày… tháng… năm

Đã một tháng trôi qua, vẫn chưa được tin tức gì về anh, mặc dù ngày anh đi trình diện, họ nói mang theo quần áo và vật dụng cá nhân cho ba ngày? con gái ba tháng tuổi của mình chưa biết gì về sự vắng mặt của bố, nhưng em…

Ngày … tháng… năm

Thấm thoát đã ba tháng dài đằng đẵng, anh vẫn bặt tăm vô tín. Một ngày có 24 giờ, một tháng là 30 ngày, và 3 tháng tới 90 ngày, vậy là có bao nhiêu giờ em mong được tin anh?

Ba ngày và ba tháng nó cách xa nghìn trùng, xa vời vợi…

Em đi hỏi thăm các chị: Lệ kế bên, Nguyệt ở xóm trong, vợ anh Hải con bà Ngoạn… chưa một ai có tin tức gì về chồng của họ.

Con mình vẫn ngoan, vui cười khi chơi với em, chưa biết bố đã vắng nhà khá lâu.

Em vẫn ở nhà với ông bà nội, lo cơm nước và trông con, vậy mà cũng bận rộn hết ngày, vì chợ búa bây giờ phải xếp hàng cả ngày, viết tắt là XHCN

người ta nói vậy…

Ngày… tháng… năm

Em bắt đầu đi chợ trời bán đồ cũ với anh của em, anh Trung đó. Gửi con bà Nội giữ, em ra đường Huỳnh Thúc Kháng, mua và bán tại chỗ, đồng hồ, radio và các thứ linh tinh. Phần đông người mua là bộ đội, thứ gì cũng lạ lẫm đối với họ.

Chắc anh không thể tưởng tượng cái cảnh chợ mà người mua và bán chỉ đi tới đi lui cầm món hàng trong tay và trao qua, trao lại. Người muốn bán đem hàng ra đó, thường là người Miền Nam chồng đi học tập hoặc mất việc làm vì làm việc cho chế độ cũ, cứ bán dần các thứ mình có. Cũng có lúc em đi quanh xóm xem có ai bán gì thì mua.

Người ta nói thời thế tạo anh hùng hoặc đói thì đầu gối phải bò, đúng không? Em của anh đã phải lăn lộn ra đường kiếm sống, à phải bò ra đường để tìm cách sinh nhai, nói một cách hoa mỹ.

Ngày…tháng… năm

Hôm nay được thư anh, cả nhà mừng lắm. Phải cám ơn Bác và Đảng đã nuôi nấng và dạy dỗ anh để trở thành người tốt? mặc dù em chưa biết anh xấu ra sao? em chưa được học tập nên không rành cho lắm.

Cái thư không dài lắm, chỉ vài hàng cho biết là anh vẫn khỏe và sẽ có ngày em được thăm nuôi, vậy mà em đọc hàng giờ.

Chữ viết của anh đây mà, sao không kể gì hơn? trang giấy còn dài mà sao lời quá ngắn? có cái gì đó làm cay mắt em, chữ viết trong thư cứ nhoè đi…

Ngày… tháng…năm

Làm đơn đi thăm nuôi, về phường xác nhận, hẹn đến tháng sau! Họ làm việc đúng nội quy, đúng nguyên tắc. Đến giờ, cánh cửa mở, đến giờ, cánh cửa đóng. Danh sách đã lật qua, cánh cửa khép lại. Bao tháng nay anh không được nhận món gì, đó là việc riêng của anh. Một người tù phải biết chờ đợi. Tháng sau tên anh mới được lật ra, đúng với hệ thống, đúng với qui tắc.

Em có than khóc ư? có van xin ư? cái hệ thống máy móc không nghe thấy gì cả. Đành thôi!

Ngày….tháng… năm

Ba bốn hôm sửa soạn, sắp xếp thức ăn để thăm nuôi anh với bà nội và con. Chỉ được gặp anh 15 phút. Anh chỉ còn xương bọc da, em không dám nhìn lâu. Em nhìn xuống mặt bàn, nơi mà anh để hai bàn tay đầy ghẻ, lắng nghe anh nói với bà nội những gì cần thiết được phép mang cho khi thăm nuôi.

Con nhìn anh, như một người xa lạ.

Em lấy làm buồn khổ khi nghĩ rằng anh đang sống trong một cái phòng tương tự như chuồng khỉ, mà ở trong đó có những con người, nhìn không còn giống con người, suốt ngày họ làm quen với chấy rận, ghẻ lở và đói khát…

Em bổng thấy mình nghèn nghẹn nơi cổ. Khi ra về, vừa đi em vừa nhìn xuống chân, bóng nắng cứ chập chờn, nhòe dần…

Ngày….tháng… năm

Lần nào có giấy phép đi thăm nuôi , em và bà nội cũng hớn hở ghi chép, mua các thứ, xong nấu nướng, gói ghém, rồi lên đường tưởng chừng như đi hội chợ Tết du xuân. Nhưng khi đến cổng trại, xếp hàng ở ngoài chờ đợi, em lại thấy buồn. Chỉ cách cái hàng rào, và mấy bức tường kia, em với anh tuy gần mà xa.

Em chợt nhận thấy cuộc đời anh như một bức tranh hí họa trong tạp chí Tiền Phong. Đời người sau những chấn song. Lúc mới sinh ra người ta được nằm trong những chiếc giường có chấn song để khỏi té. Khi tới tuổi đi học, gởi vào nội trú. Chung quanh trường là những hàng rào song sắt. Lớn lên gia nhập quân đội, trong quân trường, lại là cái hình ảnh sau những hàng rào dây kẽm gai. Cho đến khi vào tù, luôn luôn con người ta ở sau những chấn song. Có thể khi chết, chung quanh ngôi mộ, xây hàng rào sắt kiên cố, để xác chết được nằm yên dưới mồ, khỏi bị trộm cắp đào lên.

Ngày…tháng… năm …

Nhanh quá mới ngày nào, khi anh đi, con nó chưa biết gì, nay đã bập bẹ kêu bà ăn cơm. Bà nội chỉ hình anh rồi bảo nó kêu bố nè. Xong bà còn dạy nó khi hỏi bố con đâu, thì trả lời, bố con đi học tập. Vậy là mỗi lần các bà hàng xóm gặp cứ hỏi, bố con đâu? để được nghe câu trả lời: “bố đi học bập” vì đã nói được rành đâu. Rồi họ cười.

Em dạo này không còn bán chợ trời nữa vì hàng họ đâu còn nhiều, người ta đòi giá cao rất khó mua bán, vả lại ở phường họ khuyến khích chị em phụ nữ không có việc làm nên đi vào làm ở Hợp Tác Xã Mây tre lá. Vậy là bọn em phải gia nhập thôi. Việc làm này không có lương, chỉ trả theo sản phẩm. Cả ngày làm được có 3 cái rổ, không đủ tiền mua ký khoai, ôi sao mà nản quá chừng!

Đi đến đâu cũng có những bảng hiệu Độc Lập Tự Do Hạnh Phúc, độc lập thì có rồi, đương nhiên hai miền không còn chia cá nhân của mình, còn tự do và hạnh phúc thì không dành cho những gia đình như gia đình mình.

Em không hề muốn kể lể hay than vãn với ai, để làm gì? mọi người nhìn nhau với đôi mắt đượm buồn và thông cảm. Không biết phải nói làm sao? diễn tả thế nào? cái bề ngoài câm nín đã bao bọc sự bừng bừng bên trong.

Ngày…tháng…năm …

Được tin anh chuyển trại, không biết em nên buồn hay vui?

nên cười hay mếu?

Anh và em chưa bao giờ được kể và cũng không có thời gian để kể về cuộc sống của mình trong những giờ phút thăm nuôi và những lá thư ngắn ngủi. Nhưng như vậy dường như đã đủ, thấy mặt nhau, bố đã nắm tay con, con đã nhận biết bố, còn thấy mặt nhau là quý lắm rồi.

Thế là an tâm sống với cái đời sống riêng rẻ của mình. Một đôi khi gặm nhấm nỗi ray rứt và tự an ủi rằng mọi sự tuần tự trôi qua. Nhiều lúc hai mẹ con em lủi thủi đi, về, em tưởng rằng đã đủ. Em quen như một người cụt cánh tay mặt, họ làm việc bằng cánh tay trái. Lâu dần mọi sự sẽ quen.

Ngày…tháng…năm …

Sáng nay em dậy sớm đi ra bến xe miền Đông với mẹ của Liễu và một vài người bạn, bọn em đi buôn đậu xanh từ Vỏ Đắc về Saigon. Chưa bao giờ làm việc này, nhưng đánh liều chứ không biết làm gì ra tiền?

Xe đến nơi khoảng 8 giờ, mua vội 5 ký đậu xanh, chia ra từng bọc nhỏ và ngụy trang ít rau cỏ lên trên. Cả bọn lên xe khoảng hơn 10 giờ để trở về Saigon, xe chạy khoảng nửa tiếng thì bị công an chặn lại xét. Thế là cả bọn vào đồn công an để lập biên bản phạt và tịch thu số đậu xanh.

Khi họ cho bọn em về là đã một giờ trưa, đâu còn chuyến xe nào để về Saigon.

Biết làm sao, những bộ mặt tiu nghỉu, dắt díu nhau, đành cuốc bộ trên con đường đồng không mông quạnh, từ trưa cho đến tối khoảng 11 giờ đêm mới thấy một cái nhà bên đường để gỏ cửa xin nước uống và nghỉ nhờ chờ sáng đón xe về.

Sáng ra trên chuyến xe về, họ bàn tán về số lượng thiệt hại, và lo ngại về cái bụng con cái đói khát ở nhà. Có người còn đùa rằng chỉ có cách em nên vớ đại anh bộ đội nào đó, để khỏi phải buôn bán, như có vài người đã đầu hàng với số phận.

Ra đời là phải vật lộn với cuộc sống. Chen đua từng bước một. Người yếu bị kẻ mạnh đè lên, dẫm lên không thương xót. Mẹ con em đang trong dòng thác lũ đó. Miếng cơm manh áo đã mua bằng đồng tiền, đồng tiền do mồ hôi và nước mắt. Em đã sống, em xin được sống. Em có tội tình gì? Xin chúa thương xót em, hàng đêm em vẫn cầu nguyện.

Ngày…tháng…năm

Một đôi người đàn ông thăm hỏi. Em bây giờ đâu còn là buổi sáng, mà em như đã tới chiều, như đã xế bóng. Một bông hoa sắp tàn. Phận em đã định. Đời em đã xong, tự giam cầm mình trong niềm kiêu hãnh cách biệt.

Mỗi người một phần số. Em chấp nhận và chịu đựng số phận mình. Em phải níu lấy cái bổn phận và trách nhiệm để đứng lên, đi với tất cả cố gắng. Dù có phải trèo qua cái dốc đá cuộc đời một mình.

Ngày …tháng…năm…

Thăm nuôi anh dịp Tết. Bà nội mua một ít và em làm thêm các món đồ khô dành riêng cho những người tù mà em rất rành làm, sau nhiều lần thăm nuôi, những món ăn đủ chất dinh dưỡng, để lâu không hư. Sau nhiều năm anh đã trải qua bao trại giam, anh đã quen với bao sự thiếu thốn, khổ sở. Em vẫn buồn cho anh không được về nhà. Riêng em dù không có anh ở bên cạnh thật sự, nhưng em cảm thấy dường như em vẫn có anh hiện hữu. Em chả thường thì thầm tính toán mọi công việc hằng ngày với anh là gì? Những bữa ăn dù ở nơi đâu, em vẫn thường nhắc với con hoặc với mọi người rằng những món nào anh thích. Đêm đêm, em vẫn yên tâm ngủ với cái khoảng trống của anh bên cạnh. Trong những lúc vui buồn em đều nghĩ đến anh. Em vẫn sống bên anh trong tâm tưởng. Cho nên dù ở bên nhau hay xa nhau, theo em không có gì…….

Ngày…tháng…năm…

Đã hơn tháng nay em lại theo anh Trung ra chợ trời bán quần áo cũ. Ông bà nội đã bán nhà và dọn đi chỗ khác. Em không biết ở đâu, đầu óc ngổn ngang, chất chồng cái gì không biết, có lẽ thần kinh căng thẳng quá. Ngủ cứ bị bóng đè liên miên. Những giấc mơ làm nặng đầu ghê gớm. Nhà cửa không có, việc làm không ổn định. Nhiều đêm đang ngủ chợt thức giấc rồi không ngủ lại được.

Thỉnh thoảng em nghĩ đến anh và những buồn phiền đã gặp, em chỉ biết thở dài

Ôi định mệnh!

Ôi cuộc đời!

Ngày … tháng… năm…

Đã từ lâu em chịu đựng, chấp nhận tất cả mọi sự đến với em. Hình như em chỉ còn biết đợi chờ. Em đã chờ đợi từng giờ, từng ngày rồi từng tháng, từng năm. Chờ đến mỏi mòn, em vẫn cứ chờ. Nếu em biết rằng không có cái gì đến nữa, em vẫn cứ chờ đợi mãi. Không còn giải pháp nào nữa là cố đợi chờ.

Ngày….tháng… năm…

Lại một mùa xuân đến. Mọi người đang rạo rực đón xuân. Sơn phết nhà cửa, chưng hoa quả, nào quần, nào áo, đầu tóc ….

Còn em, em đang cặm cụi với những bàn chân… (thêm nghề làm móng). Còn 10 phút đến giao thừa, em mới được đứng dậy. Đau cứng cái lưng, bàn tay mỏi nhừ vì cả ngày làm liên tục, mệt ăn không nổi, cũng may lúc 10 giờ tối bà ngoại sang cho miếng bánh chưng. Giờ này mọi người sửa soạn cúng giao thừa. Pháo lách tách nổ. Con ngủ gục bên ngoại, em đánh thức dậy và bế về.

Cho con ngủ, tắm rửa xong, lên giường nằm nhìn xung quanh, em cảm thấy mình trơ trọi quá. Chả có gì để chứng tỏ có mùa xuân ở đây, một cọng hoa cũng không. Em không có mùa xuân, có lẽ thế! Mệt mỏi quá mà sao mắt em cứ mở. Trong mấy năm xa anh, có lẽ năm nay là em cảm thấy cô đơn nhất, lo lắng nhiều nhất và sức khỏe kém hơn hết. Em đã sống với một cố gắng phi thường để chống trả mọi sự phiền toái trên đời này. Những mối lo lắng hình như không muốn rời xa em. Máu còn chảy, tim còn đập là em còn xoay vần với cuộc sống.

Buổi sáng ra đi vội vã, trưa vội vã ăn, buổi tối vội vã ngủ, để rồi ngày mai tiếp tục vội vã. Thì giờ phải chạy theo cho kịp, kẻo trễ.

Sáng cần đi sớm bán hàng, tối cần về sớm lo cơm nước, giặt giũ. Ngủ sớm để dậy sớm và đi sớm, đều đặn.

Năm nay con sẽ bắt đầu đi học, nó đã biết hỏi bố có dẫn nó đến trường không, em biết trả lời sao?

S.T.
From: Tu-Phung

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Cỏ Hôi

Cỏ Hôi

Tác Giả:  Tưởng Năng Tiến

01/03/2023

Tôi ít học và lười đọc nên mãi đến năm 2011 mới được nhà văn Vũ Thư Hiên giới thiệu cho tập Tùy Tưởng Lục của Ba Kim. Qua tác phẩm này, tôi lại biết thêm một người cầm bút (danh tiếng) khác của đất nước Trung Hoa – Lão Xá.

Ông cũng là một nạn nhân bi thảm trong cuộc Cách Mạng Văn Hoá. Cứ theo như  lời của Ba Kim thì Lão Xá đã “ngậm hờn mà chết.” Ông trầm mình vào ngày 24 tháng 4 năm 1966, với lời trối trăn (“Tôi yêu nước ta lắm chứ, thế nhưng ai yêu tôi?”) khiến ai cũng cảm thấy ngậm ngùi.

Nỗi đắng cay của Lão Xá cũng khiến tôi nhớ đến đôi lời cay đắng (khác) nghe được ngay sau khi Chiến Tranh Việt Nam vừa chấm dứt:

Gần nhà tôi có cụ Lập, hơn bảy chục tuổi, thổi clarinette dàn nhạc cung đình của Bảo Đại, cùng dàn nhạc theo cách mạng, đánh Pháp rồi tập kết ra Bắc … Sống một mình. Nghèo, đói…

Bây giờ, tôi mau mắn mừng cụ sắp được đoàn tụ gia đình. Nhưng cụ nắm tay tôi:

– Cảm ơn ông, đoàn với ai, tụ với ai? Vợ con chưa biết hiện ở đâu, đi theo nhà khác mất rồi có khi. Họ hàng thì chết trong Tết Mậu Thân… Tôi về đó vẫn lại trơ làm thằng tập kết đợt hai trơ trọi một mình… Ra đi để thống nhất đất nước, bây giờ ai thống nhất với thân già tôi? (Trần Đĩnh. Đèn Cù II. Westminster, CA: Người Việt, 2014).

Cụ Lập, tất nhiên, không phải là người duy nhất sống “nghèo đói” và “trơ trọi một mình” như thế. Tôi còn biết thêm nhiều ông cụ nữa, cũng rơi vào hoàn cảnh bẽ bàng (và lỡ làng) tương tự:

“Điển hình nhất là ông Đốc Huệ và ông Đốc Thỉnh của tỉnh Bến Tre. Một học giả uyên thâm có bằng cử nhân Văn chương Pháp thời Pháp thuộc có được mấy người. Nếu ở lại với Pháp thì ông đã vinh thân phì da vào hạng nhất Nam kỳ, nhưng ông đã đem cả gia đình đi kháng chiến. Ra Bắc về Nam hai lần. Khi hiệp ước Hòa Bình 54 được ký kết ông Thỉnh bị bỏ quên…

Riêng ông Mười Huệ chủ tịch tỉnh Bến Tre chín năm liền, ra Bắc được phong cho chức Thư ký của Hội Việt Pháp Hữu Nghị ở đường Lý Thường Kiệt và được cho ở trong một cái garage tồi tàn dột nát đầy sách nát của Tây vứt lại trước khi chúng chuồn. Ông Mười có bệnh cánh tay phải, không được săn sóc, không có cả bếp để nấu cơm phải đi ăn vất vưởng ở hợp tác xã bữa có bữa không hoặc bằng những ổ bánh mì nguội nài nỉ mua bằng những hào bạc hiếm hoi còn sót lại của tháng lương chết đói.

Ngồi viết những dòng này tôi còn trông thấy ông trên những nẻo đường kháng chiến của Ba Tri, Giồng Trôm, Tán Kế mà tôi kính yêu như một thần tượng. Ôi kháng chiến mà chi. Anh dũng mà chi. Thành Đồng Đất Thép để làm gì? Tất cả đều đút vào mồm con sói mặt đỏ Bắc kỳ tên là Hồ Chí Minh thôi. Một tên sát nhân, một thằng bịp lớn nhất lịch sử Việt Nam.”  (Xuân Vũ & Dương Đình Lôi. 2000 Ngày Đêm Trấn Thủ Củ Chi. QII. California: Xuân Thu, 1998).

Tôi hoàn toàn chia sẻ cái tâm cảm uất hận của nhà văn Xuân Vũ. Tuy thế, tôi e rằng ông không được hoàn toàn khách quan khi mang hết đám dân miền Nam tập kết bỏ chung vào … một rọ để cho “một thằng bịp lớn nhất lịch sử Việt Nam” lạm dụng. Thực tế thì cũng có kẻ này, kẻ nọ, chớ Bác và Đảng đâu có bạc đãi tất cả mọi người.

Gần đây, trên trang Vietnamnet (đọc được vào hôm 13/05/2020) Ths Vũ Thị Kim Yến có những ghi nhận như sau :

Đến năm 1975, hơn 15.000 học sinh miền Nam được đào tạo qua bậc đại học và sau đại học ở các trường đại học trong và ngoài nước. Phần lớn các “hạt giống đỏ” mà Bác Hồ, Đảng ta và nhân dân miền Bắc gieo trồng ngày nào đã nẩy mầm thành những cây vạm vỡ, vững chắc.

Trong số này, có 6 ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư TƯ Đảng; 18 nguyên ủy viên TƯ Đảng, 3 Bí thư Tỉnh ủy; 18 Thứ trưởng và Chủ tịch tỉnh…

Điển hình như nguyên Phó Chủ tịch QH Trương Quang Được, nguyên Bộ trưởng, Chủ nhiệm UB Bảo vệ và Chăm sóc trẻ em Trần Thị Thanh Thanh, nguyên Bộ trưởng Văn hoá Nguyễn Khoa Điềm, nguyên Trưởng Ban Nội chính TƯ Nguyễn Bá Thanh…

Nhiều học sinh miền Nam trở thành lãnh đạo cấp cao trong lực lượng công an, quân đội như Thượng tướng Nguyễn Khánh Toàn, Thượng tướng Trương Quang Khánh, Trung tướng Bùi Quang Bền…

Đặc biệt, hiện tại, nhiều học sinh miền Nam vẫn đang đảm nhận những trọng trách rất quan trọng của đất nước như Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Phó Thủ tướng thường trực Trương Hòa Bình, Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Thiện Nhân, Chánh án TAND tối cao Nguyễn Hòa Bình…

Không ai chối cãi được rằng có những hạt giống đỏ miền Nam mà Bác và Đảng gieo trồng nay đã đơm bông. Chỉ có điều đáng tiếc lại là loại hoa hôi. Tuy đều “đảm nhận những trọng trách rất quan trọng của đất nước nhưng những nhân vật thượng dẫn đều không thực hiện được một thành quả nào ráo, ngoài những lời lẽ mị dân hoặc những câu tuyên bố ngây ngô hay sáo rỗng :

Nguyễn Thiện Nhân: “Đến năm 2010, giáo viên sống được bằng lương.”

Nguyễn Xuân Phúc: “Hợp tác xã là con đường để đưa nhân dân đến gần hơn với lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa xã hội.”

Nguyễn Bá Thanh: “Sắp tới tôi sẽ rà một số cái, cho hốt liền, khỏi nói nhiều.”

Nguyễn Hòa Bình: “Nếu không có đủ căn cứ chứng minh là tội nặng thì phải quyết có tội nhưng tội nhẹ.”

Nguyễn Khoa Điềm: “Bây giờ tôi chỉ còn chường cái mặt tôi ra trong thơ.”

Gọi họ là những tinh hoa của miền Nam trong đám người tập kết thì (nghe chừng) không ổn. Về hạn từ này, dịch giả Phạm Nguyên Trường đã rất cẩn thận khi dụng bút: “Nghĩa của từ ELITE: the richest, most powerful, best-educated, or best-trained group in a society cho nên nếu luôn luôn dịch là TINH HOA thì e rằng không đúng.” Vẫn theo lời ông thì có lắm kẻ chỉ đáng gọi là thuộc giới ăn trên ngồi trốc.

Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Bá Thanh, Nguyễn Thiện Nhân, Nguyễn Hòa Bình, Nguyễn Xuân Phúc … quả đúng là những kẻ thuộc giới ăn trên ngồi trốc. Họ là những hạt giống đỏ được gieo trồng từ miền Bắc, và đã ươm mầm thành cây. Loại cây này, học giả Phan Khôi gọi một cách lịch sự là cây Cộng Sản. Còn dân gian thì gọi là cỏ hôi hay cây cứt lợn!

Tưởng Năng Tiến

01/03/2023

Những đứa trẻ khó bỏ bú?

Báo Tiếng Dân

Chu Mộng Long

2-3-2023

Việc nhân viên ngành đăng kiểm đồng loạt không đi làm việc, các bênh viện đồng loạt không chịu nhập thiết bị y tế mà báo chí đăng tin như một báo động sau các vụ Bộ Công an khởi tố điều tra cả hệ thống đăng kiểm và hệ thống tiêu thụ test kit Việt Á.

Bài trước, tôi nói, rằng dễ có cảm giác như một sự đình công tập thể để phản kháng công vụ của Bộ Công an. Bởi các quan chức hai ngành trên nại lý do:

1) cán bộ đăng kiểm lo sợ đi làm sẽ bị bắt;

2) bệnh viện không dám nhập thiết bị vì sợ vu phạm thủ tục đấu thầu. Rõ ràng hai lý do này đều liên quan đến các tội trạng mà Bộ Công an đang khởi tố điều tra.

Dự luận cho rằng, nếu không có sai phạm thì việc gì phải lo sợ như vậy? Nếu cho rằng, trong một ngành nào đó bị điều tra sẽ gây hoang mang cho cả ngành, và hậu quả là không ai còn dám làm việc, tức toàn ngành bị đình trệ, vậy thì công an còn dám khởi tố điều tra ai nữa? Cách phản ứng đó, nếu Bộ Công an sợ thật, khác nào tháo cửa sổ lồng cho tội phạm?

Ngành giáo dục cũng đang bị điều tra về xuất bản sách, về thiết bị trường học, không chừng cũng bắt chước hai ngành trên? Rằng sẽ không xuất bản sách, không đầu tư trang thiết bị cho trường học nữa?

Hậu quả là, chết ai nấy chịu, từ tai nạn giao thông trên đường đến bệnh nhân đang lây lất ở các bệnh viện. Nguy cơ trường học cũng đóng cửa nếu ngành giáo dục cũng hô hoán lên như hai ngành trên?

Nếu làm được như vậy thì tôi mong điều này hơn. Hiện nhiều cán bộ cao cấp bị khởi tố hình sự, các quan cứ hô hoán lên rằng, ai cũng sợ làm quan vì sợ đi tù, và sẵn sàng từ quan đi? Có dám không? Lẽ nào Đảng và Nhà nước không thể tìm người có năng lực và trong sạch để thay thế?

Nếu không phải có ý thức phản kháng hay đình công thì nghe chừng đó là cái tâm lý giận dỗi của em bé trong giai đoạn bỏ bú?

Trong Phân tâm học có phân tích tâm lý em bé trong giai đoạn bỏ bú. Đây là giai đoạn khủng hoảng tâm lý sâu sắc nhất của em bé khi dục tính của nó bị hụt hẫng. Bởi em bé bú không chỉ vì sữa mà còn tham hơn, miệng ngậm vú bên này tay sờ vú bên kia, chưa đủ, đứa bé còn đòi nằm trên bụng mẹ. Đó là lý do, mẹ hết sữa nó vẫn khư khư giữ lấy bầu vú của mẹ. Tách ra khỏi mẹ, tất nhiên, vẫn không để nó đói, thay vì bú là ăn bột hay ăn cháo, nhưng thói quen miệng ngậm, tay sờ vú vẫn khó cắt được. Nó phản kháng bằng trò giận dỗi, khóc lóc, ứ thèm luôn cả bột và cháo! Tức nó viện lý do để đình công, dù hoạt động của nó đơn thuần chỉ là ăn và chơi.

Cán bộ đăng kiểm, cán bộ y tế, kể cả giáo dục và các ngành đều ăn lương nhà nước, tức từ thuế của dân. Hình như chưa đủ. Xem chừng họ có thói quen miệng ngậm lương bên này, tay vẫn sờ đến thu nhập từ phía khác. Như lãnh đạo ngành đăng kiểm thì ngoài lương và phụ cấp, họ còn phải nhận thêm tiền đút lót. Như lãnh đạo ngành y tế, ngoài lương và phụ cấp họ còn phải ăn thêm hoa hồng thiết bị. Như lãnh đạo ngành giáo dục, ngoài lương và phụ cấp, họ còn đòi ăn thêm hoa hồng sách, thiết bị và những thứ khác nữa. Bây giờ khởi tố điều tra tội hối lộ, tội nâng khống giá sách, trang thiết bị… chẳng khác nào bắt họ phải cai nghiện tiền đút lót, tiền hoa hồng, họ bị khủng hoảng tâm lý như thể em bé bị cai sữa vậy?

Tản Đà nói: “Dân hai mươi triệu ai người lớn/ Đất bốn ngàn năm vẫn trẻ con”. Là Tản Đà nói dân Việt trước cách mạng tháng Tám. Lẽ nào bây giờ lại vận vào quan, bậc cha mẹ của dân?

Thưa các quan, đến lúc phải cai sữa được rồi! Bộ Công an làm ráo riết là để báo động các quan phải đến lúc cai sữa đấy. Răng mọc đầy hàm, vú nào của nhân dân chịu nổi?

Chuyện quan chức các ngành đang hô hoán lên nỗi sợ hãi đến làm tê liệt hoạt động của ngành mình, và hiển nhiên làm rúng động đến toàn dân như vậy, tôi so sánh với chuyện khủng hoảng tâm lý của em bé vào giai đoạn bỏ bú, có khập khễnh không? Đúng nhận, sai cãi!

Đảng Cộng sản Việt Nam đề cử Võ Văn Thưởng làm chủ tịch nước mới theo nguồn tin của Reuters

Bài viết của Reuters • 4:00 AM EST

HÀ NỘI (Reuters) – Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề cử ông Võ Văn Thưởng làm tân Chủ tịch nước, hai nguồn tin của đảng cho biết hôm thứ Tư, sau khi người tiền nhiệm của ông đột ngột bị buộc phải từ chức vào tháng Giêng như một phần của chiến dịch chống tham nhũng sâu rộng.

Phó Bí thư Thường trực Thành ủy TP.HCM Võ Văn Thưởng, hình của © Thomson Reuters

Ông Thưởng, 52 tuổi, là thành viên trẻ nhất của Bộ Chính trị đảng, cơ quan ra quyết định hàng đầu của đất nước, và được nhiều người coi là thân cận với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhân vật quyền lực nhất của Việt Nam.

Trọng là kiến trúc sư chính của chiến dịch trừng trị tham nhũng “đốt lò” của đảng, theo đó hàng trăm quan chức đã bị điều tra và nhiều người bị buộc thôi việc, trong đó có cựu chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc và hai phó thủ tướng.

Việc Ban Chấp hành Trung ương đảng đề cử ông Thưởng tuân theo quyết định trước đó của Bộ Chính trị, và sẽ cần được Quốc hội thông qua, dự kiến sẽ tổ chức một phiên họp bất thường vào thứ Năm và phiên họp chính thức vào tháng Năm.

Hôm thứ Tư, cả hai thành phần, Chính phủ và Đảng Cộng sản đều cho biết Ủy ban Trung ương của đảng đã đồng ý về một đề cử cho vị trí chủ tịch nước mà không nêu tên ứng cử viên.

Chủ tịch nước ở Việt Nam giữ vai trò chủ yếu mang tính nghi lễ, nhưng là một trong bốn nhân vật chính trị hàng đầu của đất nước, cùng với tổng bí thư đảng, thủ tướng và chủ tịch quốc hội.

Thế hệ lãnh đạo mới

Carl Thayer, một chuyên gia về chính trị Việt Nam tại Học viện Lực lượng Quốc phòng Úc ở Canberra, cho biết: “Từng là trưởng ban tuyên giáo, “Ông Thương là một nhân vật có thâm niên trong bộ máy đảng và là một thành viên thân cận đáng tin cậy của Tổng Bí thư Trọng.”

Ông hiện là một trong 16 ủy viên Bộ Chính trị và giữ chức Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, một trong những chức vụ cao cấp nhất của đất nước.

Phát biểu tại một cuộc họp đảng vào tháng trước, Thưởng nói: “Lợi ích hợp pháp và chính đáng của nhân dân phải là điểm khởi đầu quan trọng của mọi chủ trương và chính sách của Đảng”.

Các nhà ngoại giao ở Hà Nội nói với Reuters rằng họ thấy quyết định của đảng bổ nhiệm ông Thưởng làm chủ tịch nước là một nỗ lực nhằm thăng tiến một thế hệ lãnh đạo mới và củng cố quyền lực trong trường hợp tổng bí thư 78 tuổi Trọng quyết định từ chức trước khi kết thúc nhiệm kỳ. kỳ thứ ba vào năm 2026.

Một nhà ngoại giao cho biết tổng bí thư thường được chọn trong số một trong những nhà lãnh đạo hàng đầu và ông Trọng, người được tái bổ nhiệm nhiệm kỳ thứ ba vào năm 2021, “đang đảm bảo rằng ông ấy có một người kế vị phù hợp trong số đó”.

https://youtu.be/R1E22R_FG9o

Phan Sinh Trần

Điều luật hình sự 331 không chừa một ai! Luật pháp

 Điều luật hình sự 331 không chừa một ai! Luật pháp

Bauxite Việt Nam

Hoài Nguuyễn

(VNTB) – Dùng Điều 331 Bộ luật Hình sự để trừng phạt một người bịa chuyện nói xấu người khác.

Nhà báo Đặng Thị Hàn Ni đã bị bắt với cáo buộc tội danh theo điều luật Hình sự 331 “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.

Quyền tự do dân chủ ở Việt Nam là một quyền được hiểu ra sao mà đã có khá nhiều công dân xứ này bị vi phạm hình sự thay cho điều chỉnh bằng pháp luật dân sự?

Thời gian qua, bà Đặng Thị Hàn Ni vướng nhiều lùm xùm liên quan đến bà Nguyễn Phương Hằng (tổng giám đốc Công ty cổ phần Đại Nam) và bị bà Hằng từng có đơn đề nghị làm rõ hành vi vi phạm pháp luật của bà Đặng Thị Hàn Ni liên quan đến hoạt động của quỹ Hằng Hữu.

Được cho là liên quan, luật sư Trần Văn Sỹ cũng bị tạm giam để điều tra theo đơn tố cáo của bà Nguyễn Phương Hằng và ông Huỳnh Uy Dũng. Luật sư Trần Văn Sỹ từng là Chủ nhiệm Đoàn luật sư tỉnh Vĩnh Long.

Có ý kiến, rằng trong chuyện đôi co của một số cá nhân trên mạng xã hội cuối cùng biến thành án hình sự với nhiều người bị bắt. Người dân – tức những người đóng thuế, coi như phải nuôi cơm tù cho họ một cách vô lý.

Điều 331 “Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”, có nội dung như sau:

Mức hình phạt tại Khoản 1 Điều 331 Bộ luật Hình sự, thì người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

Người nào phạm tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

Cái đáng bàn ở đây trong cụ thể vụ án bà Nguyễn Phương Hằng, là vì sao các cơ quan bảo vệ pháp luật đã không xử trí ngay từ đầu khi chớm “dấu hiệu lợi dụng các quyền tự do dân chủ”, mà để nó kéo thời gian rất dài, tạo nhiều hệ lụy có thể đưa đến “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”?

Lưu ý, trong các vụ án liên quan điều luật Hình sự 331, lâu nay phía cơ quan tố tụng thường bảo thủ với việc hễ ai đó chỉ cần có bất cứ hành vi nào mà “bề trên” cho rằng có “dấu hiệu lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”, thì vụ án được lập và người phạm tội đã có thể phải chịu hình phạt nghiêm khắc của pháp luật.

“Bề trên” ở đây có thể là quan chức đầu ngành nào đó, hay đại diện cho quyền lực nhóm trong bộ máy chính quyền mà dân gian có lúc ví von rằng “trâu bò đánh nhau, ruồi muỗi chết”.

Trong vụ án bà Nguyễn Phương Hằng, ngay từ lúc ban đầu nhiều người đã hoài nghi cho rằng những mạnh miệng tố cáo hết người này đến người khác của bà chủ thành Đại Nam là do có thế lực chống lưng, với tên tuổi cụ thể luôn đó là một cựu thủ tướng khi ấy đang chuyển sang làm chủ tịch nước.

Nhà báo Đặng Thị Hàn Ni của báo Sài Gòn Giải phóng được biết đến qua loạt bài về quán phở – cà phê Xin Chào ở trước cổng công an huyện Bình Chánh, TP.HCM. Thời điểm đó, những đồng nghiệp của bà Hàn Ni biết rằng bà có mối quan hệ thân tình với người đang giữ chức thủ tướng, và cả bí thư Thành ủy khi ấy là ông Đinh La Thăng.

Rất nhanh sau đó, cơ quan tuyên giáo đảng đã “đẩy” nhà báo Đặng Thị Hàn Ni lên như một cá nhân tiêu biểu chống tiêu cực với những “danh hiệu” như Bông hồng thép, Người truyền lửa truyền thông, Người dũng cảm đi tìm công lý, Người hùng trong làng báo, Hiệp sỹ công luận…

Nay thì hậu trường chính trị liên tục xáo trộn, và rất có thể để tạo làn sóng tin tức trước lần hội nghị trung ương sắp tới, vậy là “tìm con chốt thí” kiểu đưa ra lệnh trừng phạt một người vì bịa chuyện nói xấu một người khác, họ có thể dùng Điều 331, và như vậy vô hình trung vô hiệu hóa một điều luật sẵn có là tội vu khống.

Điều này tương tự muốn trừng phạt những người biểu tình bên ngoài các khu vực cho phép, gây tắc nghẽn giao thông, họ cũng có thể dùng Điều 331, và phớt lờ một tội danh sẵn có là tội gây rối trật tự công cộng.

H.N.

VNTB gửi BVN

80% dân chúng Việt Nam đều có thể có hành vi vi phạm điều 331 BLHS

Báo Tiếng Dân

Trương Nhân Tuấn

28-2-2023

Khi mà hàng loạt luật sư được cho là có hành vi vi phạm một điều luật 331 BLHS thì chuyện cần thiết (của người làm luật và người áp dụng luật) là phải rà soát lại nội dung và phạm vi áp dụng của điều luật đó.

Ý kiến của tôi, nếu truy xét “đại trà” 80% dân chúng Việt Nam đều có thể có hành vi vi phạm điều 331 BLHS. Con số 80% là vì có thống kê cho biết khoảng 80% dân Việt Nam sử dụng một phương tiện (YouTube, Facebook, v.v…)

Theo tôi, cái cách sử dụng quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam trong thời kỳ bùng nổ internet tương tự như cái cách sử dụng phương tiện lưu thông hiện nay ở Hà nội.

Dân Việt Nam vốn khép kín trong một thời gian rất dài. Việc tiếp xúc với thế giới tư bản mang tính đột ngột, thiếu chuẩn bị trên mọi phương diện. Phương tiện giao thông bùng nổ. Người nào, nhà nào cũng có xe gắn máy, bây giờ là xe ô tô. Hầu hết người sử dụng phương tiện giao thông đều thiếu kiến thức cơ bản về luật lệ giao thông. Chỉ cần 1/10 người sử dụng phương tiện giao thông không tôn trọng luật lệ thì hệ quả lây lan có thể khiến cho việc giao thông trở thành hỗn loạn, không ai tôn trọng luật lệ nữa.

Một vụ tại nạn giao thông ở Việt Nam. Ảnh trên mạng

Về ngôn luận, thời xa xưa cách biểu đạt quyền tự do ngôn luận (ở các quốc gia Tây phương) chỉ giới hạn qua các cuộc “diễn thuyết” ở công viên. Báo chí các quốc gia phương Tây thực sự trở thành đại chúng sau Thế chiến II. Quyền “tự do ngôn luận” vì vậy chỉ dành cho một số người giới hạn gọi là “trí thức”. Luật lệ nhằm điều chỉnh, hay giới hạn, quyền tự do ngôn luận cho dầu phức tạp đến đâu cũng không làm khó khăn những người cầm bút. Đa số lớp người cầm bút là “có học”, có một trình độ hiểu biết về luật đủ để thấy các giới hạn về quyền tự do ngôn luận của cá nhân.

Trên phương diện giao thông cũng vậy. Phương tiện xe cộ luôn tương ứng với hệ thống hạ tầng cơ sở. Luật lệ về giao thông cũng tương thích với kỹ thuật xe cộ và hệ thống đường xá.

Người Việt xưa nay không có cái may mắn trong việc sử dụng các quyền về tự do cá nhân, nhứt là quyền tự do ngôn luận.

Luật lệ về giao thông, sử dụng hàng ngày mà giao thông hỗn loạn. Luật về “tự do ngôn luận” dĩ nhiên vô cùng xa lạ với họ.

Trong khi phương tiện internet như youtube, facebook… giúp mọi người có thể phát biểu tư tưởng, ý kiến của mình một cách dễ dàng.

Luật lệ làm sao “chạy” cho kịp với sự bùng nổ kỳ thuật?

Một người “biết luật”, kiểu luật sư, phải đào tạo ít ra 5 năm đại học. Không lẽ họ còn vi phạm luật?

Người làm luật chưa chắc đã “chạy” kịp theo sự bùng nổ internet. Nói chi tới người “áp dụng luật”, tức công an. Tư cách gì họ để diễn giải luật? chưa nói tới việc áp dụng luật!

Điều 331 BLHS nếu tách bạch nội dung ta thấy vô số điều “bất cập”. Trầm trọng hơn cả là nội dung điều luật mang tính “flottant”, không chính xác. Giải thích sao cũng được.

Tập quán quốc tế, nếu một điều luật “diễn giải sao cũng được” thì nó không phải là luật. Nếu luật này áp dụng thì phải áp dụng ở mức độ nhẹ nhứt.

Từ chuyện y tế: Nhân sự theo quy trình; và khốn khổ, chết đúng… quy trình! (Phần 1)

Báo Tiếng Dân

Blog VOA

Trân Văn

27-2-2023

Xây dựng bệnh viện cho dân chúng trong tỉnh nhưng ngay cả Bí thư tỉnh cũng phải dựa vào vài người như bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn (Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc AIC) để “xin vốn Trung ương”. Nguồn: Báo TN

Xây dựng bệnh viện cho dân chúng trong tỉnh nhưng ngay cả Bí thư tỉnh cũng phải dựa vào vài người như bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn (Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc AIC) để “xin vốn Trung ương”.

Gần như hoạt động của toàn bộ các bệnh viện lớn nhất tại Việt Nam đều đã chuyển từ trạng thái bình thường sang cầm chừng. Tuy tất cả các cơ sở y tế bất kể quy mô đều thiếu đủ thứ (dược phẩm, hóa chất, trang bị, thiết bị,…) để có thể khám bệnh, chữa bệnh là hết sức bất thường (1) nhưng việc các điểm tựa cuối cùng cho sức khỏe, tính mạng của những người đang “thập tử, nhất sinh” như Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội), Bệnh viện Việt Đức (Hà Nội), Bệnh viện Chợ Rẫy (TP.HCM),… cũng thiếu đủ thứ khiến bệnh nhân và thân nhân nếu không muốn chết mòn thì phải tự di chuyển nhiều nơi để tìm mua thuốc, tìm mua vật dụng y tế, hoặc làm các xét nghiệm,… rồi giao lại cho bác sĩ của họ chẩn đoán, xác định cách thức điều trị (2)… rõ ràng là không thể tưởng tượng được!

27 tháng 2 hàng năm là Ngày Thấy thuốc Việt Nam và năm nay, vào dịp này, các nhân viên y tế, lãnh đạo các cơ sở y tế chỉ đề cập đến một chuyện, không chỉ ngành y tế mà những người Việt cần được khám bệnh, chữa bệnh đều đang ngắc ngoải. Hôm 23/2/2023, Cổng Thông tin điện tử của chính phủ Việt Nam tổ chức một cuộc tọa đàm nhân dịp 27 tháng 2 nhưng chủ đề lại là “Ngành y vượt khó”. Ở cuộc tọa đàm ấy, Bác sĩ Trần Bình Giang – Giám đốc Bệnh việt Việt Đức – cảnh báo: Tại các bệnh viện lớn trên toàn quốc, vật tư y tế để chăm sóc người bệnh gần như đã hết, các hóa chất xét nghiệm để phục vụ chẩn đoán, điều trị cho người bệnh cũng gần như đã hếtChúng ta chỉ còn khoảng thời gian từ một tuần tới hai tuần nữa. Nếu như chúng ta không tháo gỡ được các vướng mắc liên quan đến mua sắm y tế, các bệnh viện hầu như sẽ không hoạt động được nữa!

Tương tự, khi đón ông Nguyễn Trọng Nghĩa – Bí thư BCH TƯ đảng kiêm Trưởng ban Tuyên giáo của BCH TƯ đảng đến tặng hoa, chúc mừng nhân Ngày Thấy thuốc Việt Nam, giống như các đồng nghiệp trên toàn quốc, Bác sĩ Nguyễn Tri Thức – Giám đốc Bệnh viện Chợ Rẫy – dành phần lớn thời gian để trình bày về những bất cập của qui định hiện hành: Muốn mua sắm thì phải tổ chức đấu thầu. Muốn xét chọn thầu thì phải có ba bảng chào giá nhưng trên thực tế, tỉ lệ gói thầu có đủ ba bảng chào giá chỉ chừng 30% đến 40%. Có thể vì biết yêu cầu đó khó khả thi nên Bộ Tài chính hướng dẫn thêm rằng nếu không đủ ba bảng chào giá thì có thể thẩm định giá kê khai nhưng trên thực tế, không có cơ quan hữu trách nào thẩm định giá kê khai có đúng hay không… Do vậy mua sắm trong ngành y tế rất nhiều rủi ro vì rất dễ trở thành “cố ý làm trái” (3)…

Thiết bị kỹ thuật cao rất đa dạng. Chẳng hạn máy chụp cắt lớp (Computed tomography – CT) có hàng trăm loại, mỗi loại có độ phân giải, chức năng khác nhau. Do đặc điểm, các bệnh viện cấp tỉnh có thể chỉ cần mua máy CT 64 lát cắt nhưng những bệnh viện “tuyến cuối” cần phải loại 258 hay 512 lát cắt… Do đó, cũng là máy CT nhưng giá rất khác nhau và rất dễ bị buộc phải giải trình, dễ gặp rắc rối. Theo Bác sĩ Thức, Bệnh viện Chợ Rẫy cần thiết bị đặt stent mạch vành nhưng không đủ ba bảng chào giá cho gói thầu này nên có thể chỉ tiến hành đặt stent với bệnh nhân cấp cứu, những trường hợp khác sẽ phải chờ… Vào lúc này, 3/5 máy CT của Bệnh viện Chợ Rẫy bị hư nhưng thiếu ba bảng chào giá nên không thể sửa chữa hay mua máy mới để thay thế. Tình trạng tương tự là máy siêu âm, 10/35 máy đã hư…

Thiếu trang bị, thiết bị, nhân viên y tế phải làm thêm giờ (có khoa như Xạ trị phải làm từ 6 giờ sáng hôm nay đến rạng sáng hôm sau), căng thẳng hơn, cực nhọc hơn nhưng đó vẫn chưa phải là điều đáng ngại nhất. Điều đáng ngại nhất là bệnh nhân lãnh đủ. Rất nhiều bệnh nhân có nhu cầu phải đi nơi khác để được chụp, chiếu rồi mang kết quả về Bệnh viện Chợ Rẫy cho bác sĩ chẩn đoán. Trước, mỗi ngày Bệnh viện Chợ Rẫy khám – điều trị cho khoảng 6.000 bệnh nhân ngoại trú, nay – con số này chỉ còn… 2.000! Báo điện tử VietNamNet mới giới thiệu một phóng sự ảnh về Bệnh viện Chợ Rẫy và gọi đó là… “cảnh tượng chưa từng thấy” (4): Hàng loạt thiết bị kỹ thuật cao hư hỏng, bất khiển dụng nhưng không thể mua sắm, sửa chữa nên bệnh viện “tuyến cuối” cho cả khu vực Tây Nam, Đông Nam của miền Nam vốn nổi tiếng đông đúc, giờ thưa vắng khác thường.

***

Giống như nhiều lĩnh vực khác, lĩnh vực y tế tại Việt Nam cũng có đủ loại scandal liên quan đến đầu tư hạ tầng, mua sắm dược phẩm, trang bị, thiết bị,… Giống như nhiều lĩnh vực khác, tham nhũng trong lĩnh vực y tế tại Việt Nam cũng là vấn nạn trầm kha đã vài thập niên. Nỗ lực chấn chỉnh bằng việc đặt ra đủ loại quy định, soạn lập quy trình, rồi thanh tra, điều tra truy cứu trách nhiệm hình sự như đã thấy trong vài năm gần đây đối với lĩnh vực y tế nói riêng và các lĩnh vực khác nói chung không những không khả quan mà còn cho thấy hệ thống chính trị, hệ thống công quyền tại Việt Nam đã mục ruỗng đến mức vô phương cứu vãn! Dựa trên những gì đã biết, không thể chỉ xem yêu cầu ba bảng chào giá đang gieo vạ cho cả y giới lẫn dân chúng là biểu hiện của bất trí, trong nhiều trường hợp, sự vô lý đến mức không thể lý giải vì sao chính là đặt bẫy để kiếm lợi…

Đầu tháng trước, Tòa án thành phố Hà Nội công bố hình phạt đối với 36 bị cáo dính líu tới vụ giao cho Công ty Tiến bộ Quốc tế (AIC) 16 gói thầu trong Dự án xây dựng Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai từ 2010 đến 2015 gây thiệt hại cho công quỹ 148 tỉ (5). Diễn biến của phiên xử kéo dài gần hai tuần này bộc lộ một điều mà không cá nhân hay cơ quan hữu trách nào ở Việt Nam chịu thừa nhận: Chính qui định, quy trình là bà đỡ vụ án này. Xây dựng bệnh viện cho dân chúng trong tỉnh nhưng ngay cả Bí thư tỉnh cũng phải dựa vào vài người như bà Nguyễn Thị Thanh Nhàn (Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc AIC) để “xin vốn Trung ương”. Năm 2016, Trung ương chỉ đồng ý cấp cho Đồng Nai 889 tỉ để làm “vỏ” Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai. Sau khi lãnh đạo Đồng Nai nhờ bà Nhàn, Trung ương cấp thêm 754 tỉ để nhồi “ruột” (mua sắm các thiết bị y tế).

Do bà Nhàn có công, lãnh đạo tỉnh Đồng Nai mới chỉ đạo lãnh đạo Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai sắp đặt để bà Nhàn thắng hết các gói thầu với giá cao hơn nhiều so với giá trị thật và cùng nhau nhận tiền… “tạ ơn”. Trước tòa, ông Trần Đình Thành – cựu Bí thư Đồng Nai – khai, chính ông điện thoại cho bà Nhàn để kể về dự án xây bệnh viện đa khoa cho tỉnh bị thiếu vốn và nhờ bà Nhàn “góp cho tỉnh Đồng Nai một tiếng nói”, bởi “Nguyễn Thị Thanh Nhàn có thể thuyết phục bộ, ngành Trung ương ủng hộ vốn cho các địa phương. Còn bộ, ngành nào thì tôi không biết” (6). Hệ thống tư pháp (công an, kiểm sát, tòa án) chỉ ghi nhận – đúng là hồi đầu (2006), Trung ương chỉ cho Đồng Nai 899 tỉ để xây bệnh viện đa khoa chứ không cấp tiền sắm thiết bị y tế, mãi đến năm 2010, Trung ương mới phê duyệt, cho thêm 754 tỉ để mua thiết bị – nhưng… không nói gì thêm!

(Còn tiếp)

Chú thích

(1) http://daidoanket.vn/khong-the-tram-dau-do-dau-nguoi-benh-5710713.html

(2) https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn/cap-cuu-cua-cap-cuu-hoa-chat-vat-tu-y-te-can-kiet-chi-1-2-tuan-nua-cac-benh-vien-lon-se-khong-the-hoat-dong-119230223140229899.htm

(3) https://vietnamnet.vn/nguy-co-benh-vien-cho-ray-chi-dat-stent-cho-ca-cap-cuu-vi-vuong-gia-goi-thau-2114148.html

(4) https://vietnamnet.vn/canh-tuong-chua-tung-thay-o-benh-vien-cho-ray-2113981.html

(5) https://thanhnien.vn/nhan-hoi-lo-cuu-bi-thu-tinh-uy-dong-nai-tran-dinh-thanh-lanh-11-nam-tu-1851538705.htm

(6) https://cand.com.vn/phap-luat/lanh-dao-tinh-dong-nai-moc-noi-voi-ai-de-xin-duoc-von-tu-trung-uong–i678668/