‘Ba năm trong nhà xác vì khiếu kiện’

‘Ba năm trong nhà xác vì khiếu kiện’

thứ bảy, 26 tháng 1, 2013

nguồn: BBC

Bà Trần Khánh Hà cương quyết đi kiện vì chồng

Bà Trần Khánh Hà cương quyết đi kiện vì chồng

Một phụ nữ Trung Quốc, đi khiếu kiện vì chính quyền hành hạ chồng bà ở một trại lao động, đã bị giam suốt ba năm trong một nhà xác bỏ hoang, theo truyền thông Trung Quốc.

Bà Trần Khánh Hà đã phải sống trong trại cải tạo 18 tháng, nhưng không khuất phục và sau đó chính quyền đã đưa bà vào nhà xác.

Tin tức về vụ này ở tỉnh Hắc Long Giang khiến các mạng xã hội tranh cãi và phẫn uất.

Bà Trần được nói là ở trong tình trạng sức khỏe kém.

Theo các phóng viên, có thể vụ việc sẽ được xem lại sau khi một ủy ban điều tra cấp thành phố được thành lập để xem xét vụ việc.

Mấy tuần qua, có tin đồn chính quyền Trung Quốc có thể cải cách hệ thống lao động cải tạo.

Đau khổ của bà Trần bắt đầu năm 2003 khi chồng bà bị giam vì định phá vỡ cách ly trong trận dịch Sars, theo tờ Global Times.

Sau khi được tự do, sức khỏe của ông, cả thể chất và tâm thần, xuống tới mức mà bà Trần quyết định phải lên thủ đô để khiếu kiện.

Việc này đã khiến bà bị tống vào trại cải tạo 18 tháng.

Sau khi thụ án, bà lại bị giữ trong nhà xác vì vẫn muốn tiếp tục đi kiện.

Có tin nói nay bà được tiếp xúc hạn chế với thân nhân.

Theo báo Global Times, chồng bà được nhập viện để chữa bệnh tâm thần.

Phiên họp giữa Đức Giáo Hoàng và Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng.

Phiên họp giữa Đức Giáo Hoàng và Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng.

Nguyễn Long Thao

1/22/2013

VATICAN CITY 22/1/2013. _ Tin Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam hội kiến với
Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI tại Vatican vào buổi sáng ngày 22 tháng 1 năm 2013
đã được các hãng thông tấn quốc tế loan tải một cách rộng rãi. Nói chung, các
bản tin nhận định rằng quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh Vatican và Việt Nam
đang từng bước được củng cố thêm qua việc Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI lần đầu
tiên tiếp một vị không phải là nguyên thủ một quốc gia mà là Tổng Bí Thư của
một đảng phái chính trị.

Trong cuộc họp báo, Linh mục Federico Lombardi, phát ngôn viên Tòa Thánh, cho
biết: Phái đoàn của ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng có 11 người, gồm giới chức
cao cấp trong đảng và chính quyền. Phái đoàn đã được Tòa Thánh đón tiếp với tất
cả nghi thức ngoại giao dành cho vị nguyên thủ quốc gia.

Ông Tổng Bí Thư đã hội kiến riêng với ĐGH nửa giờ đồng hồ trong phòng đóng kín.
Sau đó, ông Tổng Bí Thư và phái đoàn đã gặp Đức Hồng Y Tarcisio Bertone, Quốc
Vụ Khanh Tòa Thánh, Đức Tổng Giám Mục Dominique Mamberti, Bộ Trưởng Ngoại Giao đặc trách liên lạc giữa Tòa Thánh với các quốc gia. Phái đoàn cũng đã gặp một
số giới chức khác trong Bộ Ngoại Giao Tòa Thánh

Thông cáo báo chí của Tòa Thánh cho biết các buổi thảo luận đã diễn ra trong
tinh thần thân ái, thành thật và xây dựng. Hai bên hy vọng những vấn đề còn tồn
đọng sẽ được giải quyết sớm và sự hợp tác có kết quả hiện nay được củng cố
thêm.

Tòa Thánh Vatican và Việt Nam đang hướng đến việc thiết lập đầy đủ quan hệ
ngoại giao. Hiện giờ Tòa Thánh chỉ có đại diện không thường trú tại Việt Nam và
cả hai bên đang tiếp tục thảo luận vấn đề này.

Sau khi Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng gặp Đức Thánh Cha vào năm 2007, Tòa Thánh và
Việt Nam đã thiết lập uỷ ban nghiên cứu quan hệ ngoại giao. Đây là cuộc họp đầu
tiên giữa Thủ Tướng Việt Nam với giới chức cao cấp của Tòa Thánh. Đến năm 2009
Chủ Tịch Nhà Nước, Ông Nguyễn Minh Triết, đã gặp ĐGH và giới quan sát cho đây
là một bước tiến mới trong quan hệ Việt Nam – Vatican. Sau đó, Đức Tổng Giám
Mục Leopoldo Girelli đã được bổ nhiệm làm Đại Diện không thường trú tại Việt
Nam. Vậy sau phiên họp này, liệu có bước đột phá nào trong quan hệ ngoại giao
giữa Vatican và Việt Nam không? Chúng ta còn phải chờ xem.

Trên bình diện ngoại giao, theo nhận định của giới quan sát, mối liên hệ
Vatican – Hà Nội đã có tiến triển và vấn đề tự do tôn giáo đã có cải thiện.
Nhưng các chính phủ và các cơ quan nhân quyền trên thế giới vẫn coi Việt Nam là
nước đàn áp tôn giáo, đặc biệt là Thiên Chúa Giáo. Chính quyền Việt Nam bắt
chước Trung Quốc vẫn can thiệp vào việc bổ nhiệm Giám Mục. Tại các giáo phận và
các giáo xứ xa xôi, việc hành đạo vẫn bị giới hạn và gặp nhiều khó khăn, vẫn
phải qua thủ tục xin – cho. Tài sản Giáo Hội vẫn bi tịch thu. Người Công Giáo
vẫn bị coi là thành phần không đáng tin cậy, không được hưởng trọn vẹn quyền
lợi dành cho một công dân bình thường

Cô gái Pakistan: Malala Yousafzai – tiếng nói cho giáo dục

Cô gái Pakistan: Malala Yousafzai – tiếng nói cho giáo dc

Jos. Tú Nạc,

 

NMS 1/11/2013

nguồn:Vietcatholic.net

“Họ không cấm được tôi. Tôi cần nhận được sự giáo dục. Dù ở nhà, ở trường học, hay bất cứ nơi nào. Đây là yêu cầu của chúng tôi đối với toàn thế giới. Hãy cứu Pakistan chúng tôi! Hãy cứu Swat của chúng tôi.”

Đây là những lời của Malala Yousafzai. Cô là một thiếu nữ từ Thung lũng Swat ở
Pakistan. Malala đã thốt lên những lời này trong phim “Class Dismissed”. Cuốn
phim này nói về sự giáo dục đối với thiếu nữ ở Thung lũng Swat. Adam Ellick và
tờ New York Times đã dựng cuốn phim này năm 2009. Họ bắt đầu cuốn phim này sau khi một nhóm, gọi là Taliban, nắm quyền kiểm soát thung lũng này. Nhóm Hồi giáo cực đoan này tuyên bố cấm sự giáo dục đối với thiếu nữ.

Malala không đồng ý với Taliban. Cô đã tranh đấu cho sự giáo dục của mình ở
tuổi 11. Từ đó, cô là tiếng nói cho nền giáo dục của thiếu nữ. Sự tranh đấu của
cô đã ảnh hưởng đến thế giới.

Cuối năm 2008, Taliban đưa ra một thông báo trên đài phát thanh. Họ nói rằng
sau ngày 15 tháng 1 ngăm 2009, con gái ở thung lũng swat không còn được đi học.
thông báo này làm Malala rất buồn. Cô đã yêu mái trường.

Sau thông báo này Malala đạ viết một cuốn nhật ký. Mỗi ngày cô đều viết những
suy nghĩ và trải nghiệm của mình. Nhưng Malala không giấu kín cuốn nhật ký. Cô
đã chia sẻ cuốn nhật ký của cô trên website tin tức BBC của Pakistan. Malala
muốn cho thế giới biết về nỗ lực tranh đấu của cô cho giáo dục.

Để bảo vệ sự sống, cô đã dùng bút danh là Gul Makai. Cô đã nói với Owais Tohid,
người viết tin tức của chương trình Spotlight, lý do mà cô muốn chia sẻ cuốn
nhật ký của mình trên internet.

“Tôi muốn gào thét lên. Tôi muốn nói với toàn thế giới những gì mà chúng tôi
đang phải trải qua. Nhưng điều đó không thể. Taliban sẽ giết tôi, giết cha tôi
và cả gia đình tôi. Tôi không muốn chết mà không để lại một dấu tích nào. Nên
khi viết tôi đã chọn một cái tên khác.”

Năm 2009, Pakistan đã đánh Taliban. Trong thời gian giao chiến. Malala và gia
đình đã rời khỏi nhà, nhiều gia đình khác cũng rời khỏi Thung lũng Swat. Sau
vài tháng, chính quyền Pakistan giành được quyền kiểm soát Thung lũng Swat.
Nhưng nhiều thủ lĩnh Taliban vẫn ở trong khu vực này.

Malala và gia đình trở lại thung lũng Swat. Cô cũng đến trường trở lại. Malala
đã bắt đầu lên tiếng nhiều về vần đề quyền lợi giáo dục cộng đồng đối với thiếu
nữ. Sau đó, Adam Ellich đã phát hành phim tài liệu về những trải nghiệm của
Malala. Malala và cha cô đã gặp những nhà lãnh đạo quốc tế. Cô đã xuất hiên
trên truyền hình. Cô đã nói chuyện với nhiều cơ quan thông tấn. Vượt thời gian,
Malala đã trở nên nổi tiếng về sự can đảm của cô đã dám lên tiếng chống lại
Taliban.

Dân chúng trên khắp thế giới đã chú ý đến những nỗ lực của Malala. Năm 2011,
những viên chức nhà nước đã giới thiệu cô là ứng viên Giải thưởng Hòa binh
Thiếu nhi Quốc tế, Cô không đạt. Nhưng cô được tôn vinh về lòng can trường và
dũng cảm. Malala đã nói với BBC về cách mà các phương tiện truyền thông tin tức
đã giúp đỡ tạo cho công việc của cô thực hiện được.

“Trường Trung học và Cao đẳng Khushal của tôi và những phương tiện truyền thông
đại chúng đã ủng hộ tôi rất nhiều. Nếu không có BBC, không có New York Times,
làm sao mà tiếng nói của tôi có thể vươn tới quần chúng.”

Dân chúng Pakistan cũng tôn vinh những nỗ lực của Malala cho nền giáo dục nữ
giới. Tháng 12 năm 2011 các viên chức thẩm quyền đã trao tặng cho cô Giải
thưởng Hòa bình Quốc gia dành cho Thanh niên đầu tiên cho cô. Sau khi nhận phần
thưởng này, Malala đã nói với các cơ quan truyền thông. Cô nói với họ về những
kế hoạch của mình trong tương lai.

“Tôi muốn thay đổi hệ thống chính trị để có một xã hội công bằng và bình đẳng.
Tôi muốn thay đổi vị trí của thiếu nữ và phụ nữ. Tôi có kế hoạch mở trường học
của riêng tôi cho thiếu nữ.”

Nhưng không một ai ở Pakistan tự hào về những thành công của Malala. Taliban
không bằng lòng ý kiến những ý kiến của cô. Họ không ưa cách mà cô đã cổ vũ
thiếu nữ và phụ nữ đi học.

Vào ngày 9 tháng Mười năm 2012, những phần tử thuộc Taliban đã cố tìm cách giết
cô. Họ muốn làm im tiếng nói của cô mãi mãi. Vào lúc tan trường của Malala.
Malala và các học sinh khác đang trên xe bus nhà trường về nhà. Những người có
vũ trang súng đã chận chiếc xe bus. Một trong số họ đã yêu cầu cho biết học
sinh nào là Malala Yousafzai. Kho họ thấy cô, họ đã bắn cô. Những viên đạn đã
trúng đầu và ngực cô. Và cũng trúng hai em khác trên xe bus. Sau biến cố kinh
hoàng này, những tay súng đã bỏ chạy.

Malala đã bị thương rất trầm trọng. Nhưng cô vẫn còn sống sau cuộc tấn công
này. Các bác sỹ đã thực hiện một cuộc giải phẫu để lấy những viên đạn ra. Nhưng
người ta sợ Malala không được an toàn tại bệnh viện địa phương. Họ sợ Taliban
sẽ tìm cách giết cô lần nữa. Nên gia đình Malala và các bác sỹ quyết định đưa
cô rời khỏi Pakistan. Họ đã đưa cô bằng máy bay tới Anh quốc để chữa trị.

Tin tức về Malala đã lan khắp thế giới. Nhiều người tỏ ra căm phẫn Taliban đã
nhắm mục tiêu vào một cô gái trẻ trung, vô tội. Những người khác yêu cầu chính
phủ Pakistan phải đưa ra những hành động của họ. Nhưng hầu hết người ta noi về
việc mà Malala đã tranh cho đấu cho giáo dục đã ảnh hưởng tới họ. Feryal Gauhar
đã viết những suy tư của bà trên tờ Express Tribune của Pakistan.

“Tiếng nói của em là tiếng nói mà đã làm cho chúng ta cân nhắc kỹ rằng có thể
có những đường lối khác để hành động. Điều đó có thể là sự kháng cự đối với mọi
hình thức trấn áp. Hôm nay, những cố gắng làm im tiếng sẽ chỉ tạo cho em thêm
mãnh mẽ hơn.”

Hai nhóm quyền phụ nữ ở Anh, họ đã tổ chức một cuộc tập trung ủng hộ Malala.
Tại sự kiện này, họ đã lên tiếng.

“Malala dũng cảm đã nói lên những gì mà nhiều người trong chúng ta muốn nói
nhưng chúng ta rất sợ …Giống như nhiều người trên khắp thế giới, chúng ta được
đánh thức và cổ vũ bời lòng quả cảm của cô. Chúng ta cầu mong cô và bạn bè của
cô mau bình phục,”

Giờ đây, dân chúng trên toàn thế giới đang trả lời. Cha của cô, ông Ziauddin
Yousafzai đã nói với tạp chí Time,

“Mọi người trên toàn thế giới đã lên án cuộc tấn công bằng những lời mạnh mẽ.
Họ đã cầu nguyện cho con gái tôi. Cháu không chỉ là con gái của tôi, mà cháu là
con gái của mọi người, chị em của mọi người.”

Tình yêu hồi sinh cô gái trẻ Afghanistan Aesha

Tình yêu hi sinh cô gái tr Afghanistan Aesha

Sau hơn 2 năm kể từ ngày thảm kịch kinh hoàng bị chồng cắt tai, xẻo mũi được phát hiện, cô gái Afghanistan Aesha đã hồi sinh trong tình yêu thương chan chứa của cha mẹ nuôi.

Mái ấm gia đình đã giúp cô có thể dũng cảm soi khuôn mặt mình vào gương, đối diện với một phần ký ức đau buồn mà cô từng muốn vùi sâu, chôn chặt. Nếu không có gì thay đổi, vào mùa hè năm tới, Aesha sẽ có một khuôn mặt mới như chưa hề có tai họa xảy ra sau hàng loạt các cuộc phẫu thuật.

Câu chuyện của Aesha lần đầu tiên được biết đến khi hình ảnh đau lòng về khuôn mặt cô xuất hiện ở trang bìa tạp chí Time của Mỹ năm 2010. Kể từ đó, số phận và một phần đời đau khổ của Aesha luôn được cả thế giới chú ý.

Aesha và người cha nuôi Mati sau 3 cuộc phẫu thuật

Nỗi đau tột cùng của cô gái trẻ

Năm 12 tuổi, cha Aesha hứa gả cô cho một tay súng Taliban đã có tuổi ở tỉnh Oruzgan. Đám cưới diễn ra trong nước mắt của những người phụ nữ trong gia đình. Tuy nhiên, sau đám cưới, Aesha vẫn được sống chung cùng cha mẹ. Hai năm sau đó, vào cái ngày Aesha tròn 14 tuổi, người đàn ông Taliban già khụ đó đã đến đón cô bé về nhà để làm vợ.

Gia đình nhà chồng Aesha có tới 11 người anh em. Khi người chồng đi chiến đấu ở Pakistan, Aesha nghiễm nhiên thuộc về quyền sở hữu của cha chồng và 10 người còn lại trong gia đình. Tất cả các thành viên trong nhà chồng Aesha đều là lính Taliban tại tỉnh Uruzgan. Hằng ngày, họ thay nhau lạm dụng và bóc lột sức lao động của cô bé.

Cô gái Afghanistan tự tin và hạnh phúc trong cuộc sống mới

Bị hành hạ triền miên, Aesha nghĩ cách để thoát khỏi gia đình Taliban tàn ác đó. Một hôm, khi gia đình chồng không để ý, cô đã lẻn trốn một mình. Trong thời gian bỏ trốn, Aesha bị cảnh sát Taliban bắt giữ và bị phạt 5 tháng tù giam. Sau đó, Aesha được trả lại cho gia đình nhà chồng. Chồng Aesha trở về biết chuyện đã tố cáo với chính
quyền Taliban rằng hành động bỏ nhà của cô đã bôi nhọ danh dự dòng tộc. Được sự
đồng ý của Taliban, Aesha sẽ phải chịu những hình phạt nặng nhất theo ý của nhà
chồng.

Đó là một buổi chiều, khi Aesha 18 tuổi, cô bị gia đình nhà chồng đưa lên trên một đỉnh núi. Tại đây, chồng cô cùng với những người anh em của anh ta đã khống chế và cắt mũi, cắt tai Aesha. Sau khi thực hiện hành vi thú tính, phần mũi và tai của Aisha được hắn cầm ném xuống vực. Khi tỉnh dậy bên vũng máu với vết thương đau đớn đến tột cùng, Aesha đã cố gắng lê lết về đến nhà ông ngoại. Cha đẻ của Aesha đã đến và
đưa con gái tới một trung tâm y tế của Mỹ, nơi Aesha được chăm sóc suốt 10
tuần. Các bác sĩ tại đây đã chuyển cô tới một trung tâm bí mật ở Kabul và đưa
tới Mỹ hồi tháng 8/2010.

Tình thương yêu giúp hồi sinh

Những ngày mới đến Mỹ, Aesha luôn sống trong sự hoảng loạn tâm lý bởi những cơn ác mộng cứ hành hạ cô triền miên. Nỗi ám ảnh về ngày kinh hoàng trên ngọn núi đôi lúc dội về khiến Aesha như điên dại. Cô từ chối bất cứ sự giúp đỡ y tế nào, thậm chí có những cơn thịnh nộ, kèm theo hành động bạo lực chống trả lại. Đó là một cú sốc tâm lý kinh khủng đối với một cô gái vừa bước qua tuổi trăng tròn. Hiểu được điều này,
các bác sĩ đã tạm dừng quá trình tái tạo mũi để làm biện pháp tâm lý cho Aesha.
Sau khi được trấn an tinh thần, Aesha hứa thay đổi và cho biết, cô rất cần có
người thân và một mái ấm thực sự.

Aesha xuất hiện lần đầu trên tạp chí Time

Và thật kỳ diệu, một cặp vợ chồng người Mỹ gốc Afghanistan đã dang tay chào đón Aesha. Đó là vào trước lễ Tạ ơn năm 2011, ông bà Mati Arsala đã đến làm thủ tục để nhận Aesha làm con nuôi và đón cô gái về nhà sống cùng ở California. Trong vòng tay yêu thương của cha mẹ nuôi, Aesha như lấy lại được sự cân bằng trong cuộc sống.

Cô chia sẻ: “Giờ đây tôi đã hiểu được ý nghĩa của cuộc sống và biết sống như thế nào”. Hiếm có bố mẹ nuôi nào thương con như ông bà Mati. Ông Mati mất ăn mất ngủ vì lo lắng cho cô gái. Ông chăm sóc cô tận tình như đứa con rứt ruột sinh thành. Ông đã phải rút rất nhiều trong phần tiền dành về hưu của mình để trang trải cho những chi phí phát sinh từ việc chữa trị của Aesha.

Aesha không còn gặp những cơn ác mộng nữa. Cô nhận ra có nhiều phụ nữ trên thế giới cũng phải trải qua nỗi khổ giống như cô, vì vậy cô không lẻ loi, đặc biệt là bên cạnh cô còn có rất nhiều người tốt bụng, có cha mẹ nuôi và những nhà hảo tâm luôn lo lắng cho các đợt điều trị của cô. Ông Mati đã chuyển cả gia đình từ California lên
New York để tiện cho việc phẫu thuật của Aesha. Trải qua suốt 6 tháng với các
cuộc phẫu thuật chỉnh hình, trên trán của Aesha đã nổi lên một cục u thâm sì,
còn phần mũi cũng mọc lên một chút ụ thịt nhỏ. Sau lễ Giáng sinh năm nay, Aesha
sẽ bước vào lần phẫu thuật thứ tư dự kiến kéo dài 8 giờ để tái tạo, cấy ghép
nhiều tầng da thịt.

Các bác sĩ đã đặt một vỏ silicon dưới da trán của Aesha và từ từ bơm chất lỏng vào trong đó để mở rộng phần da. Sau đó, họ sẽ sử dụng phần da trán này để đắp vào chiếc mũi mới. Các bác sĩ cũng phải lấy mô từ cánh tay Aesha, cấy nó lên mặt cô để tạo thành lớp bên trong và phần dưới của mũi. Bước kế tiếp là lấy sụn từ xương sườn nằm bên dưới ngực của cô để dựng khung mũi. Sau cùng là phần da từ trán sẽ được đắp phủ lên tạo thành chiếc mũi hoàn thiện. Nếu phẫu thuật lần này thành công,
Aesha đã đi được một nửa đoạn đường tìm lại nhan sắc. Và nếu may mắn, cô gái sẽ
có một chiếc mũi hoàn chỉnh vào mùa hè năm tới.

Aesha cho biết, ký ức kinh hoàng là một phần trong con người cô, thuộc về cuộc đời cô. “Nó mãi mãi trong tâm trí tôi, nhưng tôi phải sống và phải yêu” – cô gái Afghanistan không nhớ nổi mình 21 hay 22 tuổi, mạnh mẽ nói về tương lai như vậy.

nguồn: Anh Nguyễn Đình Hữu gởi

Pháp : phong trào chống luật hôn nhân đồng giới tính xuống đường

Pháp : phong trào chống luật hôn nhân đồng giới tính xuống đường

Từ vùng Var-miền Nam- kéo lên Paris phản đối dự luật cho phép hôn nhân đồng giới tính. Ảnh ngày 13/01/2013.

Từ vùng Var-miền Nam- kéo lên Paris phản đối dự luật cho phép hôn nhân đồng giới tính. Ảnh ngày 13/01/2013.

Reuters

Tú Anh

nguồn:RFI

Hàng trăm ngàn người Pháp chống « hôn nhân đồng giới tính » đã xuống đường tại Paris vào trưa ngày hôm nay 13/01/2013. Được hậu thuẫn của Giáo hội Công giáo và cánh hữu đối lập, đoàn biểu tình từ ba hướng kéo về trung tâm thủ đô để gây sức ép với chính phủ Pháp trước ngày quốc hội thảo luận dự thảo luật cho phép người đồng tính kết hôn chính thức và nhận con nuôi.

Dự luật hôn nhân đồng tính là một trong những lời hứa của ứng cử viên François Hollande sẽ được quốc hội đem ra thảo luận vào ngày 29/01/2013. Trong Liên Hiệp Châu Âu, hôn nhân đồng tính đã được luật pháp bảo đảm tại nhiều nước thành viên như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Hà Lan…

Giáo hội Công giáo Pháp và một phần cánh hữu đối lập hy vọng sẽ huy động ít nhất 800 ngàn người để gây sức ép. Nhiều vị giám mục Công giáo và lãnh đạo Hồi giáo cũng tham gia biểu tình.

Cảnh sát Pháp dự đoán số người tham gia sẽ không hơn 300.000.

Theo một kết quả thăm dò ý kiến , 56% người Pháp đồng ý với dự luật hôn nhân đồng tính nhưng chỉ có 50% ủng hộ việc cho phép các cặp đồng tính nhận con nuôi.

Người Tây Tạng tự thiêu đầu tiên của năm 2013 để phản đối Trung Quốc

Người Tây Tạng tự thiêu đầu tiên của năm 2013 để phản đối Trung Quốc

Người Tây Tạng tự thiêu (ảnh tư liệu)

12.01.2013

nguồn: VOA

Một người đàn ông Tây Tạng đã thiệt  mạng sau khi tự thiêu để phản đối sự cai trị của Trung Quốc tại những khu vực của người sắc tộc Tây Tạng.

Người đàn ông — tên Tsebey, trong độ tuổi 20, đã thiệt mạng tại địa điểm phản
kháng trong vùng Tang Sở ở mạn đông Tây Tạng.

Các nhà hoạt động Tây Tạng nói rằng đây là vụ tự thiêu đầu tiên trong năm 2013.

Từ năm 2009 tới nay, hơn 90 người Tây Tạng đã tự thiêu để phản đối sự chiếm
đóng của Trung Quốc.

Sự gia tăng gần đây của những vụ tự thiêu xảy ra trùng với nhiều cuộc biểu tình
chống Trung Quốc, bất chấp sự hiện diện đông đảo của các lực lượng an ninh
Trung Quốc.

Bắc Kinh tố cáo lãnh tụ tinh thần Tây Tạng đang sống lưu vong, Đức Đạt Lai Lạt
Ma, khích động những vụ tự thiêu để thúc đẩy phong trào đòi độc lập cho Tây
Tạng. Vị tu sĩ đoạt giải Nobel Hòa bình này phủ nhận tố cáo vừa kể.

 

Liên Hiệp Quốc quan ngại về việc kết án tù 14 nhà hoạt động nhân quyền ở Việt Nam

Liên Hiệp Quốc quan ngại về việc kết án tù 14 nhà hoạt động nhân quyền ở Việt Nam

Logo Phủ Cao ủy nhân quyền Liên Hiệp Quốc

Logo Phủ Cao ủy nhân quyền Liên Hiệp Quốc

Thanh Phương
nguồn: RFI

Hôm qua, 11/01/2013, phát ngôn viên Phủ Cao ủy Nhân quyền Liên Hiệp Quốc OHCHR đã bày tỏ mối quan ngại về việc tòa án Việt Nam buộc tội và kết án tù 14 nhà hoạtđộng Công giáo và Tin Lành trong phiên xử sơ thẩm ngày 08 và 09/01 vừa qua ở thành phố Vinh.

Trong phiên xử đó, 14 người nói trên bị khép vào tội « hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân », chiếu theo điều 79 Bộ Luật Hình sự, do họ bị cáo buộc là đảng viên đảng Việt Tân, mà chính phủ Việt Nam xem là một tổ chức khủng bố. Ba người lãnh án nặng nhất là Lê Văn Sơn, tức Paulus Lê Sơn, Hồ Đức Hòa và Đặng Xuân Diệu, mỗi người bị tuyên án 13 năm tù giam và 5 năm quản chế. Những người còn lại lãnh án từ 3 đến 8 năm tù giam và từ 2 đến 4 năm quản chế. Chỉ có một người được hưởng án treo.

Trong cuộc họp báo hôm qua tại Genève, phát ngôn viên OHCHR, ông Rupert
Colville ghi nhận rằng : « Mặc dù Việt Tân là một tổ chức đấu tranh ôn hòa
cho cải tổ dân chủ, chính phủ Việt Nam lại xem đây là một ”tổ chức phản
động”. Trong số những người bị buộc tội, không một ai đã tham gia vào những hành vi bạo lực
».

Phát ngôn viên OHCHR cũng bày tỏ quan ngại về việc các bản án đã được tuyên chỉ sau hai ngày xét xử. Theo lời ông Rupert Colville, vụ xử này, cũng như vụ bắt giam luật sư hoạt động nhân quyền Lê Quốc Quân cuối tháng 12 vừa qua, phản ánh xu hướng gia tăng hạn chế quyền tự do ngôn luận ở Việt Nam, đặc biệt là đối với những người chỉ trích chính phủ. Phát ngôn viên Phủ Cao ủy Nhân quyền LHQ kêu gọi chính quyền Hà Nội xem xét lại việc sử dụng Luật Hình sự để cầm tù những người chỉ trích các chính sách của chính phủ, cũng như xem xét lại toàn bộ những vụ vi phạm quyền tự do ngôn luận và lập hội ở Việt Nam.

Việc kết án tù nặng nề 14 nhà hoạt động Công giáo và Tin Lành đã bị các tổ chức nhân quyền quốc tế và một số nước phương Tây chỉ trích kịch liệt.

Trong thông cáo đưa ra ngày hôm qua, tổ chức Phóng viên không biên giới tuyên bố có thể chứng minh rằng blogger Paulus Lê Sơn, một trong ba người bị kết án nặng nhất, không hề tham gia một hoạt động nào của Việt Tân, khi ở Bangkok trong thời gian từ 25 đến 30/11/2011, đơn giản chỉ là vì lúc đó Lê Sơn dự một khóa huấn luyện do Phóng viên không biên giới tổ chức cho các blogger Đông Nam Á. Đối với Phóng viên không biên giới, rõ ràng là chính quyền Việt Nam đã sử dụng những « chứng cớ ngụy tạo » để kết án những blogger chỉ trích họ. Tổ chức này cực lực phản đối việc kết án Paulus Lê Sơn và bảy blogger khác, đồng thời yêu cầu trả tự do ngay lập tức cho họ.

Tiếp theo Tòa Đại sứ Hoa Kỳ ở Hà Nội, Bộ Ngoại giao Pháp hôm qua cũng vừa ra tuyên bố « lên án » việc chính quyền Việt Nam kết án tù nặng nề 14 nhà hoạt động Công giáo và Tin Lành. Phát ngôn viên bộ Ngoại giao Pháp Philippe Lalliot nhắc lại rằng : « Chính quyền Việt Nam đã có những quyết định tương tự trong những tháng gần đây ». Đối với ông Lalliot, những quyết định như vậy « vi phạm nghiêm trọng nhân quyền, đặc biệt là quyền tự do ngôn luận và tự do lập hội ». Phát ngôn viên
bộ Ngoại giao Pháp nhấn mạnh rằng các quyền tự do này được bảo đảm bởi Công ước
Quốc tế về các quyền Chính trị và Dân sự, mà Việt Nam tham gia.

Giáo hội Campuchia và Năm Đức Tin

Giáo hội Campuchia và Năm Đức Tin

Huy Hoàng

 

Đức giám mục Olivier Schmitthaeusler

WHĐ (5.1.2013) – Tại Campuchia, người Công giáo chỉ chiếm 1% dân số trong một đất nước có đến 96% người Phật giáo. Nhưng Giáo hội địa phương thật nhỏ bé này cũng mong muốn cử hành Năm Đức Tin.

Một hội nghị về Vatican II và về Giáo hội sẽ được tổ chức tại Phnom Penh từ ngày 5 đến 7 tháng 1-2013 với hơn 400 tham dự viên. Hội nghị sẽ giới thiệu bản dịch các văn kiện Công đồng và Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo bằng tiếng Khmer. 500 bản sẽ được phát hành. Một sứ điệp video của Đức Thánh Cha sẽ được gửi đến Hội nghị vào ngày thứ Hai.

Mục đích của Hội nghị là học hỏi các văn kiện Công đồng để đón nhận nguồn năng lượng mới hầu tái thiết Giáo hội tại Campuchia. Hội nghị diễn ra tại mảnh đất mới được giáo phận Tông Tòa mua lại. Chính nơi đây sẽ xây dựng ngôi Nhà thờ chính tòa mới. Nhà thờ cũ đã bị Khmer Đỏ phá hủy vào năm 1975 dưới thời Pol Pot. Cả những cơ sở của nhà thờ cũng bị tháo dỡ và thay vào đó là một trung tâm thông tin. Mọi thứ đều bị phá huỷ: các tôn giáo, và cả văn hóa

Hội nghị được tổ chức theo ý định của vị Đại diện Tông Tòa của Phnom Penh, Đức giám mục Olivier Schmitthaeusler, một trong các giám mục trẻ nhất thế giới và đã tham dự Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới vừa qua về việc Tân Phúc âm hóa ở Roma. Mục tiêu của Hội nghị là giúp đào tạo các Kitô hữu Campuchia trở thành các nhà lãnh đạo Giáo hội của họ. Đến truyền giáo ở Campuchia từ mười lăm năm qua, Đức giám mục Schmitthaeusler đã khởi đi từ con số không.

Trong bốn năm dưới chế độ Pol Pot, từ 1975 đến 1979, Giáo hội Campuchia đã bị bách hại và tiêu diệt, tài sản bị phá hủy, nhiều linh mục và tu sĩ bị giết. Các nhà truyền giáo đầu tiên trở lại Campuchia vào năm 1989. Đức giám mục Schmitthauesler đã thành lập một trường giáo dục đức tin. Theo Đức cha, những thay đổi ảnh hưởng đến nền kinh tế, xã hội và văn hóa đòi hỏi Giáo hội Campuchia phải tự vấn về cách thức loan báo Tin Mừng.

(Vatican Radio, 4-1-2013)

(Nguồn: WHĐ)

Maria Thanh Mai gởi

Giới trí thức Trung Quốc kêu gọi cải tổ chính trị để tránh cách mạng bạo động

Giới trí thức Trung Quốc kêu gọi cải tổ chính trị để tránh cách mạng bạo động

Người dân địa phương biểu tình chống dự án xây dựng một tuyến đường cao tốc mới nối Bắc Kinh đến Thẩm Dương, ngày 09/12/2012.

Người dân địa phương biểu tình chống dự án xây dựng một tuyến đường cao tốc mới nối Bắc Kinh đến Thẩm Dương, ngày 09/12/2012.

REUTERS/Petar Kujundzic

Đức Tâm

nguồn: RFI

Một nhóm học giả có tên tuổi tại Trung Quốc đã gửi thư ngỏ cảnh báo ban lãnh đạo đảng Cộng sản về nguy cơ đất nước rơi vào một cuộc « cách mạng bạo động », nếu chính phủ không đáp ứng những đòi hỏi của người dân và không cho phép tiến hành các cải cách chính trị vốn đã bị trì hoãn từ lâu.

Theo Reuters, 73 học giả, viện sĩ hàn lâm, giáo sư tại các trường đại học có danh tiếng, luật gia, trong số này có những người đã nghỉ hưu, nhấn mạnh rằng cải cách chính trị đã không theo kịp cải cách kinh tế.

Bức thư viết: « Nếu các cải cách mà xã hội Trung Quốc đang rất cần … tiếp tục ngưng trệ không có tiến bộ, nạn tham nhũng chính thức và sự bất bình sẽ ngày càng lớn … thì một lần nữa, Trung Quốc lại bỏ lỡ cơ hội để cải tổ một cách hòa bình và sẽ rơi vào tình trạng xáo trộn, hỗn loạn của một cuộc cách mạng bạo động ».

Bức thư ngỏ được lưu hành trên internet từ đầu tháng 12, tuy nhiên, những bài viết trên báo chí Trung Quốc nhắc đến bức thư này đã bị rút xuống.

Theo những người ký tên vào bức thư, chính phủ dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng sản Trung Quốc từ năm 1949, cần phải khuyến khích dân chủ và sự độc lập của hệ thống tư pháp, đẩy mạnh cải cách thị trường.

Ông Hạ Vệ Phương (He Weifang), giáo sư luật pháp ở Đại học Bắc Kinh, một trong những người ký tên vào bức thư, cho rằng các đề nghị trong bức thư là có chừng mực, nhưng đã đến lúc cần phải thực hiện, vào lúc ông Hồ Cẩm Đào chuẩn bị chuyển giao chức Chủ tịch nước cho ông Tập Cận Bình, người vừa được chỉ định làm Tổng bí thư đảng Cộng sản Trung Quốc, nhân Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 18 hồi tháng 11 vừa qua. Theo vị giáo sư này, Trung Quốc đang ở thời điểm thay đổi ban lãnh đạo. Người dân hy vọng tiếp tục có những bước tiến nếu tiến hành cải cách hệ thống chính trị.

Trong số những người ký tên vào thư ngỏ có ông Trương Tư Chi (Zhang Sizhi), nguyên là luật sư của Giang Thanh, vợ Mao Trạch Đông, người cầm đầu « Tứ nhân bang », lãnh đạo cuộc Cách mạng Văn hóa Trung Quốc (1966-1976) gây ra một thời kỳ hỗn loạn khủng khiếp tại Trung Quốc.

Vào giữa tháng 12, khoảng 65 học giả, luật sư và các nhà hoạt động nhân quyền cũng đã ký tên vào một thư ngỏ kêu gọi các lãnh đạo cấp cao của đảng Cộng sản Trung Quốc khai báo tài sản của họ và coi đây là biện pháp cơ bản để chấm dứt nạn tham nhũng.

Sau đại hội Đảng 18, các nhà phân tích tìm kiếm xem có những tín hiệu nào cho thấy là ban lãnh đạo mới có ý định cải cách chính trị hay không, như nới lỏng hơn quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin trên internet, thử nghiệm mô hình dân chủ hoặc trả tự do các tù chính trị. Thế nhưng, Bắc Kinh vẫn không chấp nhận bất kỳ sự đối lập nào với vai trò của đảng Cộng sản, đặt ổn định, tức bảo đảm quyền lãnh đạo của Đảng, lên trên hết. Không hề có tín hiệu khả quan nào theo hướng thông thoáng hơn về chính
trị, cho dù tân Tổng bí thư Tập Cận Bình cố gắng tạo dựng cho mình hình ảnh một
nhà lãnh đạo mềm dẻo, cởi mở hơn so với người tiền nhiệm.

Trong bối cảnh đó, các học giả ký tên kêu gọi cải cách chính trị cảnh báo ban lãnh đạo mới ở Bắc Kinh rằng dân chủ, Nhà nước pháp quyền và sự tôn trọng nhân quyền là một xu thế của thế giới không gì ngăn cản nổi. Bức thư viết: « Lịch sử 100 năm đẫm máu và bạo lực của Trung Quốc – đặc biệt là bài học đau đớn và bi kịch của cuộc Cách mạng Văn hóa trong một thập niên, cho thấy là một lần nữa chúng ta đang đi ngược trào lưu dân chủ, nhân quyền, chính phủ quản lý theo Hiến pháp và pháp luật, người dân sẽ phải hứng chịu thảm họa và không thể có ổn định chính trị và xã hội ».

Đầu tháng 12, một cơ quan trực thuộc Ngân hàng Trung ương Trung Quốc cho công bố một bản nghiên cứu, báo động về hố ngăn cách giàu nghèo trong xã hội, mầm mống của sự bất bình và bạo động. Theo đó, tại Trung Quốc, hệ số GINI, thước đo mức độ bất bình đẳng trong phân phối thu nhập của cải trong xã hội, đã tăng từ 0,421 trong năm 2000 lên 0,61 trong năm 2010.

Hệ số GINI dao động từ 0 – hoàn toàn bình đẳng – đến 1, bất bình đẳng tuyệt đối về giàu nghèo. Theo giới chuyên gia, hệ số GINI 0,6 trong một xã hội không dân chủ, toàn trị, báo hiệu nguy cơ rất cao về bất ổn xã hội.

Hàng chục ngàn dân Hồng Kông xuống đường đòi dân chủ

Hàng chục ngàn dân Hồng Kông xuống đường đòi dân chủ

 
Biểu tình đòi dân chủ tại Hồng Kông, ngày 01/01/2013

Biểu tình đòi dân chủ tại Hồng Kông, ngày 01/01/2013

REUTERS

Tú Anh

nguồn: RFI

Hôm nay, ngay ngày đầu năm dương lịch 2013, khoảng 50 000 người dân Hồng Kông biểu tình đòi lãnh đạo Hành pháp Lương Chấn Anh từ chức và yêu cầu cải thiện dân chủ 15 năm sau ngày Anh Quốc trao trả về Hoa lục.

Theo AFP, hàng chục ngàn dân Hồng Kông, 50.000 theo ban tổ chức, đã xuống đường vào ngày đầu năm 01/01/2013 lên án lãnh đạo Hồng Kông Lương Chấn Anh « thi hành chánh sách » của Bắc Kinh . Một sinh viên tên Billy Li cho biết « cần phải tiếp tục bày tỏ quan ngại, mặc dù ai cũng thấy tình hình mỗi ngày mỗi nghiêm trọng hơn ». Đoàn biểu tình mang tranh vẽ ông Lương Chấn Anh dưới dạng hồ ly và ác quỷ. Họ hô khẩu hiệu « Hãy trả tức khắc cho nhân dân quyền phổ thông đầu phiếu ».

Ông Lương Chấn Anh được đa số « đại cử tri » trong một Ủy ban 1200 người mà đa số thân Bắc Kinh bầu lên vào tháng ba năm 2012 vào chức lãnh đạo Hành pháp. Đa số người dân Hồng Kông xem cuộc « bầu cử » này thể hiện bàn tay can thiệp của Bắc Kinh vào nội bộ Hồng Kông.

Tuy Hồng Kông tiếp tục duy trì quyền tự do ngôn luận, điều mà người dân Trung Hoa tại Hoa lục không có, nhưng trên thực tế, chính quyền Trung Quốc kiểm soát sinh hoạt chính trị Hồng Kông khiến cho dân bản địa nhiều lần phản kháng qua nhiều hình thức từ biểu tình đến tuyệt thực.

Trong cuộc biểu tình hôm nay, một phát ngôn viên của phong trào phản kháng thuộc Mặt Trận Nhân Quyền Công Dân tuyên bố là họ muốn thúc đẩy ông Lương Chấn Anh từ chức để nhanh chóng được bầu cử tự do.

Bắc Kinh cam kết sẽ cho phép bầu lãnh đạo Hành pháp trực tiếp và tự do vào năm 2017 và bầu cơ quan Lập pháp năm 2020 nhưng nhiều nhà dân chủ Hồng Kông nghi ngờ Trung Quốc nuốt lời hứa như đã từng vi phạm cam kết trong quá khứ.

Sứ Điệp Của Đức Thánh Cha Nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới lần thứ 46

Sứ Điệp Của Đức Thánh Cha Nhân Ngày Hòa Bình
Thế Giới lần thứ 46

SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA BIỂN ĐỨC XVI

NGÀY 01 THÁNG GIÊNG NĂM 2013

“PHÚC CHO AI KIẾN TẠO HOÀ BÌNH”

1. Năm mới luôn mang lại cho chúng ta niềm hy vọng về một thế giới tốt đẹp hơn. Trong ánh sáng này, tôi nguyện xin Thiên Chúa, là Cha của nhân loại, ban cho tất cả chúng ta sự hoà thuận và bình an để những khao khát của chúng ta về một đời sống hạnh phúc và thịnh vượng có thể được thành tựu.

Năm mươi năm sau ngày khai mạc Công Đồng Vaticano II vốn là sự kiện giúp chúng ta đào sâu sứ mạng của Giáo hội trong thế giới, chúng ta phấn khởi nhận ra rằng những Kitô hữu, như là Dân Thiên Chúa trong việc bước theo Người và sống giữa lòng thế giới, chúng ta dấn thân vào lịch sử để chia sẻ vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng [1], khi chúng ta công bố ơn cứu rỗi của Đức Kitô và thăng tiến hoà bình cho nhân loại.

Thực tế, thời đại của chúng ta được đánh dấu bởi sự toàn cầu hoá với những khía cạnh tích cực và tiêu cực của nó, cũng như sự tiếp nối của những xung đột bạo lực và những đe doạ của chiến tranh, đòi hỏi một sự dấn thân mới mẻ và mang tính hợp tác trong việc theo đuổi ích chung cũng như sự phát triển của mọi người, và sự phát triển toàn
diện của con người.

Thật đáng báo động khi chứng kiến sự lan tràn của những căng thẳng và xung đột gây ra bởi sự phát triển của sự bất bình đẳng giữa giàu và nghèo, sự lan tràn của não trạng cá nhân và ích kỷ vốn tìm thấy sự biểu hiện của nó trong chủ nghĩa tư bản tài
chính thiếu sự kiểm soát. Bên cạnh những hình thức đa dạng của chủ nghĩa khủng
bố và tội ác quốc tế, hoà bình cũng bị đe doạ bởi trào lưu chính thống và chủ
nghĩa cuồng tín, bóp méo bản chất tôn giáo đích thực, vốn mời gọi cổ võ tình
liên đới và sự hoà giải giữa mọi người.

Thời nào cũng vậy, những nỗ lực khác nhau trong việc kiến tạo hoà bình nhan nhãn trong thế giới  chúng ta chứng minh rằng ơn gọi căn bản của con người là hoà bình. Nơi mỗingười, khao khát hoà bình là một khao khát căn bản, trong một cách thức nào đó, hoà hợp với nỗi khao khát về một đời sống hạnh phúc và thịnh vượng tròn đầy.
Nói cách khác, nỗi khát khao hoà bình liên quan đến một nguyên lý luân lý nền
tảng, nghĩa là liên quan đến nghĩa vụ và quyền lợi nơi sự phát triển của cộng
đồng và xã hội, vốn cũng là một thành phần trong kế hoạch của Thiên Chúa dành
cho con người. Con người được sáng tạo cho sự hoà bình vốn là một qùa tặng của
Chúa.

Tất cả những thao thức trên thúc đẩy tôi chọn chủ đề cho Thông Điệp năm nay từ những lời của Đức Giêsu: “Phúc thay ai xây dựng hòa bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa” (Mt 5,9).

Mối phúc Tin Mừng

2. Các mối phúc mà Chúa Giêsu công bố là những lời hứa. Trong truyền thống Thánh Kinh, mối phúc là một thể loại văn chương liên quan đến những tin tốt lành, một “Tin Mừng”, là chóp đỉnh của một lời hứa. Do đó, các mối phúc không chỉ là những khích lệ về mặt luân lý, cổ võ người ta tuân giữ để thấy trước, thường là trong đời sống mai sau, những phần thưởng hay những vị thế hạnh phúc trong tương lai. Đúng hơn, phúc lành mà các mối phúc nói đến hệ tại ở việc viên mãn của một lời hứa dành cho tất cả những ai để cho mình được hướng dẫn bởi những đòi hỏi của chân lý, công bình và bác ái. Trong con mắt của thế gian, những người tin tưởng vào Thiên Chúa như thế
thường bị xem là kẻ khờ khạo và xa rời thực tế. Tuy nhiên, Chúa Giêsu nói cho
họ rằng, không chỉ ở đời sau nhưng ngay tại đời này, họ sẽ khám phá ra mình là
con cái của Thiên Chúa, và rằng Thiên Chúa đã, đang và sẽ mãi ở bên cạnh họ. Họ
hiểu rằng mình không lẻ loi, bởi vì Thiên Chúa là đồng minh với những con người
dấn thân cho chân lý, công bình và bác ái. Chúa Giêsu, mạc khải Tình yêu của
Chúa Cha, không do dự trao ban chính mình như một sự tự hiến. Mỗi khi chúng ta
đón nhận Chúa Giêsu, Đấng là Thiên Chúa và là con người, chúng ta kinh nghiệm
được niềm vui về một quà tặng lớn lao: sự sẻ chia chính sự sống của Thiên Chúa,
đời sống ân sủng và là lời hứa về sự hiện hữu hạnh phúc tròn đầy. Cụ thể, Đức
Kitô ban cho chúng ta bình an đích thực phát sinh từ một cuộc gặp gỡ đầy tin
tưởng giữa con người với Thiên Chúa.

Mối phúc của Chúa Giêsu nói cho chúng ta biết hoà bình là một món quà của Đấng Mesia nhưng đồng thời cũng là hoa trái phát sinh từ những nỗ lực của con người. Thực vậy, hoà bình giả thiết về sự mở ra của con người đối với siêu việt. Nó là hoa trái của một món quà hỗ tương, của một sự phong phú mang tính hai mặt. Nhờ vào quà tặng này, một quà tặng có nguồn cội nơi Thiên Chúa, chúng ta có thể sống với và sống
cho người khác. Nền đạo đức của hoà bình là đạo đức của tình liên đới và chia
sẻ. Điều tuyệt đối cần thiết là những nền văn hoá của chúng ta trong thời đại
ngày nay cần vượt qua những hình thức nhân loại học và đạo đức dựa trên những
giả định vốn chỉ mang tính chủ quan và thực dụng, nơi đó mối tương quan đồng
tồn tại được gợi hứng bởi các tiểu chuẩn về quyền lực và ích lợi, phương tiện
trở thành cùng đích chứ không phải ngược lại, văn hóa và giáo dục chỉ đơn thuần
tập trung vào thiết bị, kỹ thuật và hiệu quả.

Điều kiện cần thiết để có hoà bình là sự xoá bỏ chế độ độc tài của chủ nghĩa tương đối và của một giả định về nền luân lý hoàn toàn tự trị vốn không thừa nhận luật luân lý tự nhiên, được Thiên Chúa ghi khắc trong lương tâm của mỗi người nam và người nữ. Hoà bình cần được xây dựng trên sự đồng hiện diện của những thuật ngữ lý trí cũng
như luận lý, được đặt nền tảng trên những tiêu chuẩn vốn không phải do con
người tạo nên, nhưng đúng hơn là do Thiên Chúa. Thánh Vịnh 29 nói rằng: Xin Đức
Chúa ban uy lực cho dân Người, Yavê chúc lành cho dân Người bình an” (câu 11).

Hoà bình: Quà tặng của Thiên Chúa và hoa trái của nỗ lực con người

3. Hoà bình liên quan đến con người xét như toàn thể và nó đòi hỏi sự dấn thân trọn vẹn. Hoà bình với Thiên Chúa là một đời sống được sống theo ý muốn của Ngài. Hoà bình cũng là một sự bình an nội tâm nơi chính mình và hoà bình ngoại tại với tha nhân và với các tạo vật. Trên hết, như chân Phước Gioan 23 đã viết trong thông điệp Hòa Bình Trên Thế Giới (Pacem in Terris), mà chúng ta sẽ kỷ niệm 50 vào những tháng tới, hòa bình đòi hỏi xây dựng trên một sự đồng tồn tại được đặt nền tảng trên chân lý, tự do, bác ái và công bình [2]. Sự khước từ điều làm nên bản chất đích thực của con người trong những chiều kích thiết yếu nhất, trong khả năng nội
tại để biết chân lý và sự thiện, và một cách tối hậu, là khả năng nhận biết
chính Thiên Chúa, sẽ gây nguy hại cho việc kiến tạo hoà bình. Không có chân lý
về con người vốn được Đấng Tạo Hoá ghi dấu trong trái tim con người, tự do và
bác ái trở nên giả tạo, và công bình đánh mất đi nền tảng tồn tại của chính
mình.

Để trở nên người kiến tạo hoà bình đích thực, chúng ta cần phải luôn nhớ về chiều kích siêu việt của mình và phải đi vào một cuộc đối thoại liên lỉ với Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, ngang qua đó chúng ta sẽ khám phá ra ơn cứu chuộc mà Người Con Duy Nhất của Ngài đã mang đến cho chúng ta. Nhờ đó, con người có thể vượt qua được những bóng mờ của sự tiến bộ và sự khước từ hoà bình vốn là tội lỗi trong tất
cả hình thức của nó: ích kỷ, bạo lực, kiêu căng, khao khát quyền lực và thống
trị, thiếu lòng khoan dung, ghen ghét và các cơ cấu bất công.

Thành tựu hòa bình phụ thuộc trước hết vào việc chúng ta nhận ra, nơi Thiên Chúa chúng ta là một gia đình nhân loại. Như Hòa Bình Trên Thế Giới (Pacem in Terris) dạy rằng, gia đình này được cấu trúc bởi các mối tương quan liên vị và các thể chế
vốn được hỗ trợ và được làm sống động bởi cộng đồng “chúng ta”, đòi hỏi một
trật tự luân lý nội tại cũng như ngoại tại, mà trong đó, hợp với chân lý và
công bình, các quyền hỗ tương và các nghĩa vụ tương ứng được chân nhận. Hòa
bình là một trật tự được sống động và hòa hợp bởi đức ái, trong đó chúng ta sẽ
cảm thấy nhu cầu của tha nhân cũng là của chính mình; chúng ta chia sẻ thiện
ích với tha nhân và lao tác cho thế giới cho một sự hiệp thông lớn hơn về những
giá trị tinh thần. Hòa bình là một giá trị đạt được trong tự do, nghĩa là trong
một cách thế phù hợp với phẩm giá của con người, với bản chất của mình như là
những hữu thể có lý trí, con người chịu trách nhiệm cho hành động của mình.[3]

Hòa bình không phải là một giấc mơ hay một điều gì đó không tưởng, nhưng là một điều khả thi. Chúng ta cần nhìn sâu xa hơn, vượt qua những vẻ bề ngoài và các hiện tượng bên ngoài, chúng ta sẽ nhận ra một thực tại tích cực tồn tại trong trái tim con người, vì mỗi người nam và nữ đã được sáng tạo theo hình ảnh của Thiên Chúa và được mời gọi để lớn lên và góp phần vào việc xây dựng một thế giới mới. Chính Thiên
Chúa, ngang qua mầu nhiệm nhập thể của Người Con và công trình cứu chuộc của
Người, đã đi vào lịch sử và đã mang đến một cuộc tạo dựng và một giao ước mới,
giao ước giữa Thiên Chúa và con người (xem Gr 31,31-34), và ngài cũng ban cho
chúng ta một “trái tim mới” và một “thần khí mới” (xem Gr 36,26).

Vì lý do này, Giáo Hội nhận ra một nhu cầu cấp thiết trong việc tái công bố về Chúa Giêsu, là yếu tố đầu tiên và nền tảng của sự phát triển hội nhất nơi con người và cũng là của sự hòa bình. Chúa Giêsu là hòa bình đích thực, là công bình và sự hòa giải của
chúng ta  (x. Ep 2,14; 2Cr 5,18). Người kiến tạo hòa bình, theo mối phúc của Đức
Kitô, là người tìm kiếm thiện ích cho người khác, thiện ích trọn vẹn nơi linh
hồn và trong thân xác, hôm nay cũng như mai sau.

Từ lời dạy này, người ta có thể suy ra rằng, mỗi người và mỗi công đoàn, cho dù thuộc về tôn giáo, nền giáo dục và văn hóa nào đi nữa, tất cả đều được mời gọi để lao tác cho hòa bình. Hòa bình là một sự thành tựu những thiện ích nơi một xã hội trong mọi mức độ khác nhau, ở mức độ cơ sở, trung cấp, quốc gia, quốc tế và toàn cầu. Rõ
ràng, vì lý do này con đường để đạt đến thiện ích chung cũng chính là con đường
phải đi trong việc theo đuổi hòa bình.

Người kiến tạo hòa bình là người yêu mến, bảo vệ và thăng tiến sự sống trong sự toàn vẹn của nó

4. Con đường đạt đến thiện ích chung và hòa bình trên hết cần phải tôn trọng phẩm giá con người trong mọi chiều kích, bắt đầu từ khi thụ thai, thông qua sự phát triển cho đến cái chết tự nhiên của nó. Người kiến tạo hòa bình đích thực phải là người yêu mến, bảo vệ và thăng tiến sự sống con người trong sự toàn vẹn của nó, cá nhân, cộng đoàn và siêu việt. Sự sống trong ý nghĩa trọn vẹn nhất chính là đỉnh cao của hòa bình. Bất cứ ai yêu mến hòa bình thì không thể xem nhẹ những tấn công và tội ác chống lại sự sống.

Những ai không tôn trọng sự sống con người, và hệ quả là, trong số những điều khác, cổ võ việc tự do phá thai, những người này không nhận ra rằng, khi làm như vậy, họ đang theo đuổi một thứ hòa bình giả tạo. Sự chối bỏ trách nhiệm, hạ thấp phẩm giá con người, và thậm chí giết chết những trẻ em vô tội và không có khả năng tự vệ, sẽ
không bao giờ có thể đem lại hạnh phúc và bình an. Thực vậy, làm sao một người
có thể tuyên bố mình đang kiến tạo hòa bình, mang lại sự phát triển toàn diện
cho con người hay bảo vệ môi trường trong khi không bảo vệ những con người yếu
thế nhất, những con người chưa cất tiếng khóc chào đời. Mọi xúc phạm chống lại
sự sống, đặc biệt trong giai đoạn đầu của nó, sẽ gây ra những thiệt hại không
thể sửa chữa được cho sự phát triển, hòa bình và môi trường. Người ta không chỉ
khôn khéo đưa vào luật những quyền và những thứ tự do giả tạo mà, dựa trên nền
tảng của quan điểm giản lược và tương đối về con người, họ còn khéo léo sử dụng
những diễn tả mập mờ nhắm đến việc thăng tiến quyền ủng hộ việc phá thai và
chết êm dịu. Những mánh khóe đó đang đe dọa quyền cơ bản của sự sống.

Cũng cần phải nhìn nhận và thăng tiến cơ cấu tự nhiên của gia đình, là sự kết hợp của một người nam và một người nữ, chống lại những toan tính đồng hóa về mặt pháp lý cơ cấu tự nhiên này với những hình thức hoàn toàn khác biệt; những nỗ lực đồng hóa như thế thực sự làm thương tổn và góp phần làm xáo trộn nền tảng của hôn nhân, che
khuất bản chất đặc biệt và làm lu mờ vai trò của nó trong đời sống xã hội.

Những nguyên lý này  vốn không phải là những chân lý đức tin, và nó cũng không đơn thuần là kết quả của quyền về tự do tôn giáo. Chúng được ghi khắc trong bản chất con người, có thể tiếp cận bởi lý trí và chung cho tất cả mọi người. Do đó, những nỗ lực của Giáo hội để thăng tiến chúng không mang đặc nét của niềm tin, nhưng muốn ngỏ
lời với tất cả mọi người, không kể nguồn gốc tôn giáo của họ. Những nỗ lực như
thế càng cần thiết hơn khi những nguyên lý này bị khước từ hay hiểu lầm, vì
điều này tạo nên một sự xúc phạm chống lại chân lý về con người, và gây nên một
thiệt hại nghiêm trọng cho công lý và hòa bình.

Một phương thế quan trọng khác để kiến tạo hòa bình là các hệ thống pháp luật và việc thực thi công lý nhìn nhận quyền được sử dụng nguyên tắc phản kháng lương tâm trước những luật lệ và biện pháp của chính quyền chống lại phẩm giá con người như phá thai và làm cho chết êm dịu. Cũng liên quan đến hòa bình thế giới, một trong những quyền nền tảng của con người là quyền của cá nhân và cộng đoàn đối với tự do
tôn giáo. Vào thời điểm này của lịch sử, điều có tầm quan trọng khẩn thiết là
phải thăng tiến quyền này, không chỉ từ khía cạnh tiêu cực, nghĩa là tự do khỏi – ví dụ, khỏi những ràng buộc và những giới hạn liên quan đến việc chọn lựa tôn giáo – nhưng còn ở khía cạnh tích cực, trong những diễn tả khác nhau của nó, nghĩa là tự do để, ví dụ, tự do để làm chứng và loan báo, thực hiện những hoạt động giáo dục và từ thiện, hiện hữu và hành động như một tổ chức xã hội hợp với những nguyên lý học thuyết và mục đích của nó. Đáng buồn thay, tình trạng áp bức tôn giáo vẫn gia tăng kể cả ở những nước có truyền thông Kitô giáo lâu đời, đặc biệt liên quan đến Kitô giáo và những người mang những dấu hiệu nói lên căn tính tôn giáo của mình.

Những người kiến tạo hòa bình cũng cần nhớ rằng, trong sự phát triển của quan điểm công chúng, những ý thức hệ về tự do cực đoan và chế độ kỹ trị đang cố gắng thuyết phục người ta rằng sự phát triển kinh tế nên được theo đuổi kể cả khi nó phương hại đến trách nhiệm xã hội của một quốc gia và những mạng lưới liên đới của xã hội dân sự, cũng như các quyền và nghĩa vụ mang tính xã hội. Nên nhớ rằng, các quyền và
nghĩa vụ này vốn là nền tảng để hiện thực hóa những quyền và nghĩa vụ khác,
khởi đi từ những quyền dân sự và chính trị.

Một trong những quyền và nhiệm vụ cơ bản nhất đang bị đe dọa trong thế giới ngày nay là quyền làm việc. Lý do là vì sự thừa nhận quyền lợi về tình trạng pháp lý của công nhân đang không ngừng bị xem nhẹ. Vì sự phát triển kinh tế được xem là một yếu tố phụ thuộc hoàn toàn và chính yếu vào những thị trường tự do. Trong khi đó, lực lượng lao động bị coi là một biến số phụ thuộc vào cơ chế kinh tế và tài chính.
Liên quan đến điều này, tôi xác nhận rằng phẩm giá con người và các yếu tố kinh
tế, chính trị và xã hội, đòi hỏi chúng ta tiếp tục “ưu tiên mục tiêu tạo ra việc làm ổn định cho mọi người” [4]. Để thực hiện được mục tiêu đầy tham vọng này, điều kiện tiên quyết là phải đổi mới cái nhìn về lao động, dựa trên những nguyên tắc đạo đức và những giá trị tinh thần vốn xem khái niệm lao động là một thiện ích cơ bản đối với cá nhân, gia đình và xã hội. Điều này đòi phải nghiên cứu và thực hiện những chính sách can đảm và mới mẻ để mọi người có công ăn việc làm.

Xây dựng thiện ích hòa bình ngang qua một mô hình mới về phát triển và kinh tế

5. Ngày nay, ở nhiều nơi người ta thấy cần một mô hình phát triển mới, cũng như một cách thế tiếp cận mới đối với lĩnh vực kinh tế. Sự phát triển bền vững và hội nhất trong tình liên đới và thiện ích chung đòi hỏi một bậc thang đúng đắn về giá trị và thiện ích, một cấu trúc nhìn nhận Thiên Chúa như là điểm tham chiếu tối hậu của mình. Việc sẵn có các phương tiện và chọn lựa cho dẫu là một điều tốt nhưng chưa đủ. Sự đa dạng các thiện ích cổ võ sự phát triển cũng như sự sẵn sàng của những chọn lựa khác nhau phải được sử dụng nhắm đến việc đảm bảo cho một đời sống tốt, một cách hành xử đúng đắn vốn ý thức về vị trí ưu việt của giá trị thiêng liêng và lời mời gọi lao
tác cho thiện ích chung. Nếu không chúng sẽ đánh mất đi ý nghĩa đích thực của
mình, và cuối cùng là trở nên những thứ ngẫu tượng mới.

Để có thể thoát khỏi cuộc khủng hoảng tài kinh tế và tài chính hiện nay – vốn đưa đến sự bất bình đẳng ngày càng lớn hơn – chúng ta cần những con người, nhóm người và các thể chế thăng tiến sự sống, cổ võ cho sự sáng tạo của con người. Họ có thể rút ra từ
chính cuộc  khủng hoảng này một cơ hội nhận định và tìm kiếm một mô hình kinh tế
mới. Mô hình kinh tế thịnh hành trong những thập niên gần đây thường tìm kiếm
lợi nhuận và tiêu thụ tối đa, dựa trên nền tảng của não trạng cá nhân và ích
kỷ, nhắm đến việc đánh giá con người chỉ dựa trên khả năng của họ trong việc
đáp ứng những đòi hỏi của cạnh tranh. Nhưng xét trên một quan điểm khác, sự
thành công đích thực và lâu dài chỉ đạt được ngang qua món quà là chính chúng
ta. Vì bên cạnh khả năng tri thức và kỹ năng nghề nghiệp, sự phát triển kinh tế
nhân bản đích thực và “sống động” còn đòi hỏi nguyên tắc nhưng không và lô-gích
của quà tặng hiểu như cách biểu lộ tình huynh đệ [5]. Cụ thể, trong lĩnh vực kinh tế, người kiến tạo hòa bình là người thiết lập nên mối dây công bình và tương trợ lẫn nhau nơi các công ty, công nhân, khách hàng và người tiêu thụ. Họ dấn thân vào hoạt động kinh tế vì thiện ích chung. Họ kinh nghiệm sự dấn thân này như là một điều gì
đó vượt lên trên lợi ích cá nhân mình, vì lợi ích của các thế hệ hiện tại và
tương lai. Thực thế, họ làm việc không chỉ cho bản thân, nhưng còn để đảm bảo
cho người khác có tương lai và một công việc xứng đáng.

Trong lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là các quốc gia cần đưa ra các chính sách phát triển nông nghiệp và công nghiệp quan tâm đến sự thăng tiến xã hội và phát triển của các quốc gia lập hiến cũng như dân chủ. Việc tạo ra các cấu trúc đạo đức cho thị trường tiền tệ, tài chính và thương mại cũng là một yếu tố nền tảng và không thể bỏ qua;
những hệ thống này cần được ổn định, phối hợp và kiểm soát tốt hơn để tránh
phương hại đến những người nghèo.

Người kiến tạo hòa bình cũng cần phải tập trung vào cuộc khủng hoảng lương thực, vốn còn nghiêm  trọng hơn cuộc khủng hoảng tài chính. Vấn đề an toàn lương thực luôn là vấn đề trọng yếu của các chính sách quốc tế, như một hệ luận của các cuộc khủng hoảng, vấn đề gia tăng đột biến trong giá cả của các lương thực thiết yếu, những hành vi thiếu trách nhiệm của một vài tổ chức kinh tế, và về phần mình, các chính
phủ và các tổ chức cộng đồng quốc tế thiếu sự kiểm soát cần thiết. Để đối diện
với cuộc khủng hoảng này, những người kiến tạo hòa bình được mời gọi làm việc
với nhau trong tinh thần liên đới, từ mức độ địa phương tới cộng đồng quốc tế,
với mục đích là giúp người nông dân, đặc đặc biệt cho những nông dân nhỏ bé,
thực hiện các công việc của mình trong một cách thức cao quý và bền vững xét từ
quan điểm kinh tế, môi trường và xã hội.

Giáo dục một nền văn hóa hòa bình: vai trò của gia đình và các thể chế

6. Tôi mạnh mẽ xác nhận rằng những người kiến tạo hòa bình được mời gọi để nuôi dưỡng một lòng khao khát dành cho thiện ích chung của gia đình và công bình xã hội đồng thời dấn thân một cách hiệu quả vào lãnh vực giáo dục xã hội.

Không nên phớt lờ hay đánh giá thấp vai trò tiên quyết của gia đình, vốn là tế bào nền tảng của xã hội xét từ quan điểm nhân khẩu học, đạo đức, kinh tế, giáo dục và văn hóa. Ơn gọi tự nhiên của gia đình là thăng tiến đời sống: Gia đình đồng hành với mỗi cá nhân cho đến khi họ trưởng thành và khuyến khích một sự phát triển hỗ tương và
phong phú ngang qua sự chăm sóc và sẻ chia. Cụ thể, gia đình Kitô giáo phục vụ
như là một vườn ươm cho sự trưởng thành của cá nhân theo tiêu chuẩn tình yêu
Thiên Chúa. Gia đình là một trong những chủ thể xã hội không thể thay thế được
trong việc đạt được một nền văn hóa hòa bình. Quyền của các bậc cha mẹ và vai
trò chính yếu của họ trong giáo dục con em mình trong lĩnh vực luân lý và tôn
giáo phải được bảo vệ. Chính trong gia đình mà những con người kiến tạo hòa
bình tương lai, những người thăng tiến nền văn hóa tình yêu và sự sống, được
sinh ra và được dưỡng dục. [6]

Các cộng đoàn tôn giáo cũng dấn thân trong một cách thế đặc biệt trong nhiệm vụ giáo dục hòa bình. Giáo hội tin rằng mình đang chia sẻ trách nhiệm lớn lao này ngang qua sứ mạng Tân Phúc Âm Hóa vốn đặt trọng tâm vào trong việc hoán cải để đến với chân lý và tình yêu của Đức Kitô và, kết quả là sẽ dẫn đến một cuộc tái sinh về luân lý và thiêng liêng nơi các cá nhân và cộng đoàn xã hội. Việc gặp gỡ Đức Kitô khuôn
đúc nên những con người kiến tạo hòa bình, những con người biết dấn thân cho
cộng đồng và vượt qua mọi bất công.

Các thể chế văn hóa, trường học và các trường đại học có một sứ mạng đặc biệt về giáo dục hòa bình. Họ được mời gọi để đưa ra những đóng góp quý giá không chỉ ngang qua việc huấn luyện các thế hệ lãnh đạo tương lai, nhưng còn đổi mới các thể chế công cộng, ở cấp độ quốc gia cũng như quốc tế. Họ có thể góp phần vào những phản tỉnh mang tính khoa học vốn sẽ là nền tảng cho các hoạt động kinh tế và tài chính dựa
trên một nền tảng nhân học và đạo đức vững chắc. Thế giới hôm nay, đặc biệt là
thế giới chính trị, cần được hỗ trợ bởi một lối tư duy mới và một sự tổng hợp
văn hóa mới để có thể vượt qua những phương pháp tiếp cận thuần kỹ thuật và hòa
hợp những khuynh hướng chính trị khác nhau với quan điểm về thiện ích chung.
Thiện ích chung, được xem như là một toàn thể những mối tương quan liên vị tích
cực và có tính cơ cấu trong việc phục vụ cho sự phát triển hội nhất của các cá
nhân và nhóm, chính là nền tảng của một nền giáo dục hòa bình đích thực.

Một khoa sư phạm cho những người kiến tạo hòa bình

7. Cuối cùng, chúng ta thấy cần phải đề nghị và thăng tiến một khoa sư phạm về hòa bình. Điều này đòi hỏi một đời sống nội tâm phong phú, những quan điểm luân lý rõ ràng và giá trị, cùng với những thái độ và lối sống thích hợp. Những hoạt động kiến tạo hòa bình thường kéo theo những thành tựu về thiện ích chung; những hoạt động này tạo ra những lợi ích cho hòa bình và dưỡng nuôi nó. Những suy nghĩ, lời nói và cử chỉ hòa bình thường tạo ra một tâm thức và một nền văn hóa hòa bình cùng với một bầu khí tôn  trọng, yêu thương và thân ái. Vì vậy, cần dạy người ta biết yêu thương nhau, nuôi dưỡng hòa bình và sống cách nhân từ chứ không chỉ bao dung. Một sự khích lệ căn bản đối với thái độ sống này là “nói không với hận thù, nhận ra những
bất công và chấp nhận những lời xin lỗi cho dù không tìm kiếm nó, và cuối cùng
là biết thứ tha” [7]. Trong cách thức này, những lỗi lầm và những thù hận có thể được nhận ra trong chân lý, để cùng nhau đi đến sự hòa giải. Điều này cũng đòi hỏi phải không ngừng lớn lên trong khoa sư phạm tha thứ. Thực vậy, sự dữ chỉ có thể vượt qua nhờ sự thiện, và công bình chỉ có thể tìm thấy ngang qua việc bắt chước Thiên Chúa là Cha yêu thương tất cả con cái mình (xem Mt 5, 21-48). Đây chắc chắn là một tiến trình lâu dài, vì nó giả thiết một sự tiến triển thiêng liêng, một nền giáo dục về những giá trị cao quý và một cái nhìn mới về lịch sử nhân loại. Cũng cần biết từ bỏ thứ bình an giả tạo mà những ngẫu tượng thế gian hứa ban, cùng với những nguy hiểm luôn đi kèm với nó. Thứ bình an giả tạo này chỉ làm lu mờ lương tâm và đưa người ta đến một
lối sống ích kỷ và dửng dưng. Trái lại, khoa sư phạm về hòa bình ám chỉ đến
hoạt động, tình yêu thương, sự liên đới, lòng can đảm và sự kiên định.

Chính Chúa Giêsu là hiện thân cho tất cả thái độ sống này trong đời sống của Ngài, thậm chí Ngài đã tự hiến mình, đến nỗi từ bỏ chính mạng sống mình (xem Mt 13,39; Lc 17,33; Ga 12,25). Ngài đã hứa với các môn đệ rằng sớm muộn gì họ cũng khám phá ra những điều tuyệt diệu mà tôi đã nói ở trên, nghĩa là Thiên Chúa ở trong thế giới và
Thiên Chúa của Chúa Giêsu là Đấng luôn hiện diện với con người. Ở đây, tôi muốn
nhắc lại lời cầu nguyện, lời nguyện xin Thiên Chúa biến chúng ta thành những
khí cụ bình an của Ngài, để chúng ta có thể mang tình yêu đến nơi hận thù, đem
tình thương đến với người đau khổ, chân lý đức tin vào chốn lỗi lầm. Về phần
mình, chúng ta hãy cùng chân phước Gioan 23 cầu xin Thiên Chúa soi sáng cho các
vị lãnh đạo, để ngoài việc quan tâm đến lợi ích vật chất của dân tộc mình, họ
còn biết đảm bảo cho người dân món quà quý giá là sự bình an, phá vỡ những bức
tường chia cắt, đẩy mạnh mối dây yêu thương lẫn nhau, lớn lên trong sự hiểu
biết và sẵn sàng thứ tha cho kẻ làm hại mình. Nhờ đó, ngang qua sức mạnh và
thần hứng của Thiên Chúa, mọi người dân trên trái đất sẽ kinh nghiệm được tình
huynh đệ, và sự hòa bình mà họ hằng mong mỏi, sẽ nở hoa và cư ngụ giữa
họ. [8]

Với lời nguyện này, tôi muốn bày tỏ niềm hy vọng của mình rằng tất cả mọi người sẽ trở thành người kiến tạo hòa bình đích thực, nhờ đó thành đô của nhân loại sẽ lớn lên trong sự hòa hợp huynh đệ, trong thịnh vượng và hòa bình.

Từ Vatican 8 tháng 12 năm 2012

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI

——————————————————————————————–

[1] Xem, Công Đồng Vaticano II, Hiến Chế Mục Vụ Về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay, Gaudium Et Spes, số 1.

[2] Xem Thông điệp Hòa Bình Trên Thế Giới (Pacem in Terris), 11 tháng
4 năm 1963: AAS 55(1963), 265-266.

[3] Xem, Ibid.: AAS 55 (1963), 266.

[4] Biển Đức XVI, Thông Điệp Đức Ái Trong Chân Lý (29 – 06 -2009), 32: AAS 101 (2009), 666-667.

[5] Xem ibid, 34 và 36: AAS 101 (2009), 668-670 và 671-672.

[6] Đức Gioan Phaolo II, Sứ Điệp Nhân Ngày Hòa Bình Thế Giới Năm 1994 (3 tháng 12 năm 1993) AAS 86 (1994), 156-162.

[7] Đức Thánh Cha Biển Đức, Bài Nói trong cuộc gặp với các thành viên chính phủ
Lenbanon (15 tháng 9 năm 2012) báo Quan Sát Viên Roma (16-9-2012), trang 7.

[8] Xem Thông điệp Hòa Bình Trên Thế Giới (Pacem in Terris), 11 tháng
4 năm 1963: AAS 55(1963), 304.

Maria Thanh Mai gởi

Người chuyển
dịch:

Minh
Triệu, S.J.

Nguồn:  RV

Tình hình tại Syria hiện nay giống như cách đây hơn 4.000 năm

Tình hình tại Syria hiện nay giống như cách đây hơn 4.000 năm

Tình trạng Syria hiện nay giống tình trạng hơn bốn thiên niên kỉ trước.
26.12.2012
nguồn: VOA
Hạn hán, thành thị suy tàn, và chính phủ sụp đổ chấm dứt vai trò kinh tế trung tâm của Syria trong Vùng Trung Đông 4.200 năm trước.
Cuộc khảo cứu của trường đại học Sheffield ở Anh nêu lên những điểm tương đồng
quan trọng giữa một Syria bị chiến tranh tàn phá hiện nay với vụ đảo lộn thời
đế quốc Mesopotamia được biết tới với tên Akkadia vào thời kỳ đồ đồng.
Ellery Frahm, thuộc khoa khảo cổ của trường này tìm thấy những liên hệ bằng
cách nghiên cứu vấn đề thương mại tại Osidia trong trung tâm thương mại đô thị
của Urkesh, nơi bây giờ là miền đông bắc Syria.
Kính núi lửa được dùng để chế tạo dụng cụ sắc như dao cạo lấy từ sáu núi lửa
khác nhau trước khi xảy ra vụ sụp đổ của đế quốc Akkadia trải dài tới nước Iraq
hiện tại.
Khi tuyến đường thương mại và các chính phủ trong vùng sụp đổ trong thời kỳ mà
một số sử gia nói là giai đoạn gia tăng chế độ quân phiệt và bạo động, thành
phố này chỉ có thể mua osidian từ hai nguồn cung cấp kế cận, cho thấy ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng đối với sự lưu thông của người và hàng hóa.
Thêm nữa, ông Frahm nói canh nông vào thời đó cũng như bây giờ chủ yếu dựa vào
nước mưa thay vì thủy lợi,và các vụ mùa ở Akkadia không thể đáp ứng trước tình
trạng gia tăng dân số trong vùng.
Ông nói thêm với tình trạng biến đổi khí hậu hiện nay gây ra thêm nhiều khô
hạn, và với dân số đông hơn bao giờ hết, nông nghiệp hiện đại của Syria cũng không
thể bền vững được.
Ông Frahm khẳng định rằng công việc của ông không thể rọi ánh sáng vào tình
hình bạo động hiện nay ở Syria, thay vào đó nó đem lại một phương cách để hiểu
về những gì trước mắt, bằng cách tìm hiểu phương cách mà các bậc tiền bối phản
ứng trước các cuộc khủng hoảng của chính họ và của nước ngoài.