-
ĐẠI SỨ HOA KỲ NIKKI HALEY Ở LHQ
Lâu lắm rồi mới thấy một Đại Sứ Hoa Kỳ ở Liên Hiệp Quốc thông minh và cứng rắn như vậy.
Hôm thứ Bảy cả Nga và Trung Cộng đều bỏ phiếu thuận với toàn thể các thành viên trong Hội Đồng Bảo An LHQ để áp đặt luật cấm vận Bắc Hàn. Thành quả này rất khó xảy ra vì Nga và Trung Cộng luôn luôn cản mũi kỳ đà Hoa Kỳ. Nhất là Trung Cộng hay bao che Bắc Hàn vì nguồn lợi nhuận làm ăn buôn bán.
…
Khi được hỏi chắc phải giằng co đấu trí ghê lắm mới kéo Nga và Trung Cộng về phía Hoa Kỳ. Đại Sứ Nikki Haley không kể lể dài dòng mà trả lời ngắn gọn: Yes.
Bà Đại Sứ không giống các nhà ngoại giao Hoa Kỳ chuyên nghiệp khác về phong thái ẻo lả quanh co mập mờ nửa vời. Bà có lối trình bày rõ ràng mạch lạc đi ngay vào vấn đề.
Ngày 5 tháng 4 vừa qua trong phiên họp khoáng đại LHQ, Đại Sứ Nikki Haley lên án cuộc tấn bằng vũ khí hoá học của chính quyền Syria nhắm vào thường dân. Bà quay đầu nhìn về chỗ ngồi đại diện của chính quyền Nga và chầm chậm hỏi từng chữ: “Có bao nhiêu trẻ thơ phải chết nữa trước khi Nga mới quan tâm?”.
Hai ngày sau Hoa Kỳ phóng 59 hoả tiễn Tomahawks vào Syria. Nhiều hoả tiễn chạm nổ ở phi trường có quân Nga trú phòng.
Đại Sứ Nikki Haley để lộ rõ thái độ cứng rắn không thân thiện với chính quyền Nga và Trung Cộng, không giống thái độ thân thiện của TT Trump dành cho Nga và Hoa Lục. Điều này nói lên sự độc lập mạnh mẽ của bà đối với người đã tuyển chọn bà vào chức vụ quan trọng này.
Trước khi nhậm chức Đại Sứ Hoa Kỳ ở LHQ nhiều người nghi ngờ về kiến thức đối ngoại của bà vì không phải là một nhân viên ngoại giao chuyên nghiệp và chưa bao giờ bà làm việc trong môi trường chính trị quốc tế căng thẳng như vậy. Nhưng có nghe Đại Sứ Nikki Haley thuyết trình hùng hồn trôi chảy về các vấn đề khủng bố ở Trung Đông, nhân quyền, cứu trợ nạn đói ở Phi châu v.v. mới thấy trí tuệ của bà hơn người.
Bà Nikki Haley từng là cựu Dân Biểu rồi Thống Đốc của tiểu bang South Carolina. Học lực của bà khiêm tốn với văn bằng cử nhân ngành kế toán. Bà thuộc về thế hệ thứ 2 trong một gia đình di dân từ Ấn Độ.
Nếu công việc ở LHQ trôi chảy tốt đẹp. Các phân tích gia tiên đoán Đại Sứ Nikki Haley sẽ được đề cử vào chức Ngoại Trưởng Hoa Kỳ trong tương lai. Và từ đó bà có thể ra tranh cử để trở thành một nữ Tổng Thống Hoa Kỳ gốc Ấn Độ.
Cám ơn cánh tay mở rộng của Hoa Kỳ để những người có tài vươn lên.
LHQ cảnh báo Venezuela ‘sử dụng vũ lực quá mức
LHQ cảnh báo Venezuela ‘sử dụng vũ lực quá mức

Cơ quan Nhân quyền Liên Hiệp Quốc cảnh báo “việc sử dụng vũ lực quá mức một cách rộng rãi và có hệ thống” với người biểu tình ở Venezuela.
Cơ quan này cũng lên tiếng về các vi phạm nhân quyền khác, trong đó có “khám nhà thô bạo, tra tấn và đối xử tàn tệ”.
Các lực lượng an ninh Venezuela được cho là chịu trách nhiệm về ít nhất 46 người chết trong các vụ bạo lực có liên quan đến biểu tình.
Tài xế taxi trong cuộc tranh đấu ở Nam Hàn là ai?
Hà Tường Cát/Người Việt (tổng hợp)

“A taxi driver” là cuốn phim mới được phát hành ở Nam Hàn hôm Thứ Tư, 2 Tháng Tám, được trình chiếu ở 1,446 rạp với gần 700,000 vé đã bán được. Bộ phim này sẽ xuất hiện trên các màn ảnh Bắc Mỹ từ ngày 11 Tháng Tám, tại Úc và New Zealand ngày 24 Tháng Tám, và tại các nước Châu Á trong Tháng Chín.
Cuốn phim nói về câu chuyện của ký giả người Ðức Jurgen Hinzpeter năm 1980 đến làm phóng sự về cuộc tranh đấu dân chủ của dân chúng thành phố Gwangju bị chính quyền đàn áp tàn bạo. Những hình ảnh và bài viết của Hinzpeter bí mật chuyển ra nước ngoài đóng vai trò quan trọng trong việc giúp thế giới hiểu được thực trạng của chế độ độc tài quân phiệt và trợ lực thúc đẩy phong trào tranh đấu của dân chúng Nam Hàn tiếp tục tiến tới kết quả cuối cùng là cuộc bầu cử tự do dân chủ năm 1987.
Những năm sau đó, ký giả Jurgen Hinzpeter được giải thưởng của hiệp hội nhà báo Nam Hàn và nhiều tổ chức dân sự khác. Ông qua đời năm ngoái ở tuổi 78. Thành phố Gwangju, 1.5 triệu cư dân, ở miền Nam Nam Hàn đặt bia tưởng niệm ông.
Tướng Pak Chung-hee, tổng thống thứ ba của Nam Hàn từ 1963, bị ám sát Tháng Mười, 1979. Hai tháng sau, bằng một cuộc đảo chính quân sự, Trung Tướng Chun Doo-hwan nắm quyền lãnh đạo Nam Hàn, viện lý do chống sự xâm nhập từ Bắc Hàn, cho thi hành quân luật và ngăn cản phong trào tranh đấu dân chủ.
Ngày 18 Tháng Năm 1980, sinh viên và dân chúng Kwangju biểu tình chiếm tòa thị chính phản đối, ông Chun Doo-hwan ra lệnh thẳng tay đàn áp. Quân đội, lực lượng đặc biệt có chiến xa và trực thăng võ trang yểm trợ đánh chiếm lại tòa thị chính.
Cuộc biểu tình biến thành nổi dậy bạo loạn, chiếm các đồn cảnh sát và lấy vũ khí giao tranh với quân đội. Sau hơn một tuần lễ, phong trào tranh đấu dân chủ tan rã, hàng trăm sinh viên bị bắt. Theo thông báo chính thức, gần 200 người chết kể cả 20 binh sĩ, nhưng theo các ước lượng khác có khoảng 600 người thiệt mạng. Tướng Chun Doo-wan sau đó trở thành tổng thống nhưng chỉ làm một nhiệm kỳ 7 năm và không tái tranh cử.
Nhận biết tin tức có biến động ở Gwangju, ký giả Hinzpeter lúc đó là phóng viên thường trú ở Tokyo cho đài truyền hình Ðức ARD, cùng chuyên viên âm thanh Henning Rumohr bay sang Seoul. Nhờ có người trung gian sắp xếp trước, hai phóng viên Ðức được một người lái taxi tên Kim Sa-bok đón tại phi cảng quốc tế Kimpo và đưa xuống miền Nam.
Theo lời ký giả Hinzpeter kể lại sau này, thì toàn thể vùng Gwangju bị phong tỏa chặt chẽ, binh sĩ trấn đóng trên tất cả những đường vào thành phố, người ngoại quốc cũng như dân Nam Hàn đều bị cấm và rất nguy hiểm cho những ai tìm cách vượt qua. Ông nói là chưa từng gặp sự khó khăn như vậy ở đâu kể cả khi làm việc ở Việt Nam trong thời gian chiến tranh. Phóng viên Nam Hàn bị kiểm soát nghiêm ngặt không thể làm việc, chỉ có rất ít phóng viên ngoại quốc cố gắng len lỏi đến làm phóng sự quay phim, chụp hình,
Tài xế taxi Kim Sa-bok hiểu rõ những rủi ro ấy nhưng đã nỗ lực trợ giúp đưa Hinzpeter vào thành phố Gwangju. Khi gặp trạm kiểm soát không cho đi, ông Kim lái xe theo đường nhỏ vào các làng để đi vòng qua. Ký giả Hinzpeter nói rằng khi gặp một trạm kiểm soát cuối cùng trước khi đến Gwangju, ông phải đặt chuyện giải thích với các binh sĩ rằng ông cần phải tìm người sếp của mình bị kẹt ở đây để đưa ra.
Hinzpeter trở thành ký giả đầu tiên vào được thành phố và có thể quay phim, chụp hình, gặp hỏi chuyện gia đình những nạn nhân bên cạnh các quan tài ở bệnh viện. Nhưng tiếp theo thì việc chuyển tin và tài liệu về không phải là dễ dàng. Các đường dây liên lạc điện thoại đều bị cắt và nếu muốn tìm một máy điện thoại công cộng còn dùng được, phải đi bộ nhiều dặm đến các làng kế cận.
Ký giả Hinzpeter cho những khúc phim đã dùng vào trong vỏ bọc cũ làm như chưa sử dụng và xếp vào trong một hộp bao bằng giấy mạ vàng có quấn băng xanh giống như một món quà cưới. Bằng cách ấy ông đã có thể đem được tài liệu ra khỏi Gwangju và trạm kiểm soát an ninh ở phi cảng Kimpo để đưa về Tokyo ngày 22 Tháng Năm. Ngay sau đó, Hinzpeter bay trở lại Seoul và tiếp tục tìm cách len lỏi vào Gwangju với sự hướng dẫn của Kim Sa-bok để quay phim làm phóng sự quân đội đang tấn công các cơ sở dân sự ở thành phố.
Chính quyền Nam Hàn lúc đó giải thích rằng họ dẹp bạo loạn do Cộng Sản sách động và quân đội làm nhiệm vụ bảo vệ dân chúng. Nhưng những phóng sự của Hinzpeter chứng tỏ cho thế giới và người Nam Hàn thấy rằng lời tuyên truyền ấy là giả trá.
Trong nhiều năm, ký giả Hinzpeter, với sự giúp đỡ của nhiều người dân Nam Hàn, kể cả Park Un-kyoung, nhà sản xuất bộ phim “A Taxi Driver” sau này, không thể nào tìm ra người lái taxi mang tên Kim Sa-bok. Dù cho câu chuyện đã trở thành phổ biến trong dư luận từ thời gian bộ phim được làm, từ Tháng Sáu đến Tháng Mười, 2016, không có ai tự đứng ra xác nhận mình là Kim Sa-bok và đối tượng này dường như mãi mãi là một người anh hùng vô danh trong lịch sử cuộc tranh đấu dân chủ ở Nam Hàn.
Formosa bị nông dân Mỹ kiện đòi bồi thường vì tàn phá môi trường
From facebook: Trần Bang
Formosa bị nông dân Mỹ kiện đòi bồi thường vì tàn phá môi trường
Các cư dân sống gần nhà máy sản xuất hóa chất của Formosa ở Point Comfort, Texas đã kiện công ty này vì xả thải các viên nhựa làm ô nhiễm nặng môi trường vùng biển xung quanh nhà máy.
Đơn kiện Formosa được trình lên ngày 31.7 bởi công ty Trợ Giúp Pháp Lý TexasRioGrand (Texas RioGrande Legal Aid); Công ty luật môi trường Frederick, Perales, Allmon và Rockwell (Environmental law firm Frederick, Perales, Allmon and Rockwell); Công ty luật Sico, Hoelscher, Harris & Braugh.
Nhóm công ty luật nói trên thay mặt cho các nguyên đơn là nông dân, ngư dân sống quanh nhà máy của Formosa ở Point Comfort kiện công ty Formosa vì đã vi phạm Luật Nước sạch (Clean Water Act) một cách “nghiêm trọng, kéo dài và đang diễn ra” gây ô nhiễm cho Vịnh Lavaca và các tuyến đường thủy khác.
Nguyên đơn cho rằng rác thải gây ô nhiễm do Formosa xả ra làm nguy hại đến các loài cá và động vật hoang dã trong khu vực.
Nhóm trợ giúp pháp lý yêu cầu Formosa phải chấm dứt hành động xả thải của mình trong tương lai, dọn dẹp những ô nhiễm môi trường mà họ gây ra và phải bị phạt tổng cộng 57,45 triệu USD.
Nguyên đơn Diane Wilson, cựu ngư dân đánh bắt tôm và là người đứng đầu tổ chức Bảo vệ bờ sông và vùng Vịnh San Antonio (San Antonio Bay Estuarine Waterkeeper) trong nhiều năm qua đã theo đuổi thủ tục pháp lý kiện Formosa khi cho rằng nhà máy tại Point Comfort đã thải bất hợp pháp các viên nhựa vào dòng nước xung quanh nhà máy….
http://motthegioi.vn/…/formosa-bi-nong-dan-my-kien-doi-boi-…

Tác giả «Buồn ơi, chào mi !» cuối đời không còn một xu.
Tác giả «Buồn ơi, chào mi !» cuối đời không còn một xu.
Thụy My Đăng ngày 29-07-2017 Đài Phát Thanh Pháp Quốc RFI.
Tại nước Pháp trên lãnh vực văn hóa xã hội, tuần san L’Obs đề cập đến một mảng xám của nhà văn nữ quen tên: Françoise Sagan, tác giả cuốn «Buồn ơi, chào mi !» nổi tiếng thế giới. Suốt một thời gian dài rong chơi – sáng tác ban ngày, đi khiêu vũ ban đêm – bà tiêu tiền như nước và cuối đời không còn một xu dính túi.
Với số tiền tác quyền đầu tiên ở tuổi 18, cô gái trẻ mua đến bốn chiếc xe hơi: một Jaguer XK140, một Gordini, một Buick và một chiếc Aston Martin – năm 1957 đã lộn nhiều vòng tại một cánh đồng lúa mì khiến Sagan suýt chết. Cô hưởng thụ cuộc sống: hút thuốc, uống whisky, đi casino, lấy chồng, ly dị, tái hôn và lại ly dị, đòi ứng trước tác quyền để tiêu xài… dù sách không còn bán chạy như trước kể từ thập niên 1980.
Nợ thuế rất nhiều, Françoise Sagan cầu cứu người bạn vong niên thân thiết là… Tổng Thống Pháp François Mitterrand. Đầu thập niên 90, ngành thuế xóa nợ cho bà, nhưng Sagan lại dính vào một vụ tai tiếng lớn. Bà nhận làm trung gian cho tập đoàn dầu khí Elf đầu tư vào Ouzbekistan, lãnh món tiền lớn là 3,5 triệu quan Pháp, nhưng đến đầu năm 2002 phải ra tòa vì tội trốn thuế. Ở tuổi 66, Françoise Sagan đã mất tất cả.
Khi bà qua đời năm 2004, một người bạn nhớ lại: «Françoise không có một xu nhỏ trong những năm cuối đời. Bạn bè cho bà ở nhờ. Bà thậm chí phải bán hết nữ trang và những món quà quý giá từng nhận được. Tiền tác quyền được chuyển thẳng cho cơ quan thuế ». Người con trai duy nhất là Denis Westhoff đã phải do dự rất lâu trước khi chấp nhận thừa kế, và đến nay, hàng tháng vẫn trả dần món nợ thuế khổng lồ của mẹ một cách can đảm./.
RFI.
Truyền hình Nhật Bản tối 31/7 lên án ” Bắt giữ nhóm người Việt ăn thịt chó “
From facebook: Lê Hoài Tân shared a link to the group: Những người bạn của Đảng Dân chủ Tự do.

Tại sao Jerusalem Quan Trọng với cả Hồi giáo Cơ đốc và Do Thái giáo ?
Tại sao Jerusalem Quan Trọng với cả Hồi giáo Cơ đốc và Do Thái giáo ?
Tại Jerusalem, mỗi hòn đá đều có câu chuyện, mỗi cây ô liu là một lịch sử, và mỗi ngọn núi có tên khác nhau, tùy thuộc vào người kể cho chúng ta về những địa danh đó là ai. Bởi vì nơi đây là cội nguồn và nơi cùng chung sống của cả 3 tôn giáo hàng đầu thế giới: Hồi giáo, Cơ đốc giáo và Do Thái giáo.
Thành phố ngày nay là một bức tranh khảm vừa cổ kính vừa hiện đại. Từ các bức tường cũ kỹ đầy những cây bụi phủ rêu phong đến tuyến đường sắt hiện đại đi qua các cửa hàng cao cấp và khách sạn năm sao của khu phố đi bộ Mamilla. Cảnh quan sắc tộc của Jerusalem phản ánh sự đa dạng về dân cư, xã hội.
Một góc nhìn về Thành phố cổ Jerusalem. Ảnh (Getty Image)
Bên cạnh vẻ đẹp cổ kính xen lẫn hiện đại của mình, Jerusalem cũng là khởi nguồn của những tranh cãi gay gắt bất tận. Đây là một thành phố bị chia cắt, một phần của người Ả Rập, một phần của người Do Thái, và các bên vẫn đang tranh đấu không ngừng nghỉ cho quyền sở hữu thánh địa này. Cả Israel và Palestine đều tuyên bố Jerusalem là thủ đô của nước mình. Israel đã chiếm Đông Jerusalem trong cuộc chiến tranh năm 1967 và sau đó sát nhập lãnh thổ này vào quốc gia Do Thái, nhưng cộng đồng quốc tế chưa công nhận chủ quyền này.
Ngoài nổi tiếng là vùng đất tranh chấp triền miên giữa Israel và Palestine, Jerusalem cũng được biết đến là thánh địa của cả 3 tôn giáo hàng đầu thế giới là Cơ đốc giáo, Hồi giáo và Do thái giáo, những tín ngưỡng cùng chia sẻ nguồn gốc chung về Thánh Abraham.
Trung tâm của thánh địa này là ‘Thành phố cổ’, một ”mê cung ”
những ngõ hẹp và kiến trúc lịch sử đặc trưng cho bốn phần dân cư: Cơ đốc giáo, Hồi giáo, Do thái và người Armenian. Thành cổ được bao quanh bởi một bức tường và những ngôi nhà bằng đá pháo đài, cùng các địa điểm linh thiêng nhất thế giới.
Mỗi một thành phần chủng tộc, tôn giáo sinh sống tại ¼ lãnh thổ thành phố cổ. Người Cơ đốc giáo có 2 phần vì người Armenia cũng theo đạo Cơ đốc. Người Armenia sống ở ¼ nhỏ nhất và đó là một trong những trung tâm lâu đời nhất của người Armenia trên thế giới.
Vùng đất thiêng của Cơ đốc giáo
Những người hành hương Cơ đốc giáo tổ chức thắp nến tại Nhà thờ Holy Sepulcher ở Jerusalem, theo truyền thuyết là nơi chôn cất của Chúa Jesus. (Ảnh Sebastian Scheiner/AP)
Khi bước vào bất kỳ một nhà thờ Cơ đốc giáo nào, hình ảnh đập vào mắt chúng ta ở trên các bức tường chính là khung cảnh về thánh địa Jerusalem. Trên đó có vẽ các Trạm Thập tự là một chuỗi 14 bức ảnh miêu tả hành trình cuộc đời của Chúa Jesus cho tới khi qua đời. Vào mùa Lễ Mùa Chay các tín đồ Cơ đốc hàng ngày vẫn cầu nguyện trước mỗi bức tranh này. Với mỗi tín đồ Cơ đốc điều quan trọng nhất trong cuộc đời họ là tới được Jerusalem và trở thành một người hành hương đi bộ qua đường Dolorosa – Con đường Đau khổ – theo bước chân của Chúa Jesus đã từng trải qua khi vác thập tự giá. Từ thời trung cổ, hàng ngàn Trạm Thập tự đã được tạo ra ở khắp nơi trên thế giới để cho phép bất cứ con chiên nào cũng có thể hành hương thông qua các bức tranh dù không có khả năng để thực sự tới được Đất Thánh.
Bethlehem là nơi sinh của Chúa Jesus, Nazareth là nơi ông lớn lên, nhưng Jerusalem mới là thành phố thực sự quan trọng đối với các tín đồ Cơ đốc. Đây là nơi mà Chúa Jesus thuyết giảng, dự ‘Bữa tiệc Cuối cùng’ với các môn đồ trước khi chết; cũng là nơi ông bị bắt, đưa ra xét xử, bị kết án tử hình, bị đóng đinh và qua đời; là nơi Jesus bị chế nhạo và tra tấn bởi những người La Mã chiếm đóng. Đó là nơi, các tín đồ Cơ đốc giáo tin rằng, ngôi mộ của ông đã được tìm thấy trống rỗng và Jesus đã hồi sinh từ cõi chết. Do đó, Jerusalem là một nơi đau khổ sâu sắc, tuyệt vọng cùng cực, nhưng cũng là mảnh đất của hy vọng và cứu rỗi. Đó là trái tim thiêng liêng của câu chuyện Cơ đốc giáo.
Nhà thờ tại Jerusalem được quản lý cùng nhau bởi các đại diện của các giáo phái Cơ đốc giáo khác nhau, chủ yếu là Chính thống giáo Hy Lạp, các tu sĩ dòng Franciscan từ Giáo hội Công giáo La Mã và Hội dòng Armenia, và có cả người Ethiopia, Coptics và Giáo hội Chính thống Syria.
Jerusalem không chỉ là một nơi lịch sử cho các tín đố Cơ đốc giáo, nó cũng là phép ẩn dụ cho tất cả những gì mà họ khao khát trong thế giới này và thế giới tiếp theo. Đó là một nơi hoàn hảo, một thành phố hoàng kim, một thiên đường mà họ sẽ đạt được vào một ngày nào đó sau khi chết. Nó cũng đại diện cho việc tạo ra một trái đất mới.
Đế chế Hồi giáo ở Jerusalem kéo dài trong 12 thế kỷ
Phụ nữ Palestine tham dự vào các buổi cầu nguyện thứ Sáu trong tháng lễ Ramadan tại nhà thờ Hồi giáo Al-Aqsa ở Jerusalem. (Ảnh: Getty Image)
Jerusalem (trong tiếng Ả Rập là al-Bayt al-Maqdis – “Nhà Thánh hóa” – hay đơn giản là Al-Quds, “Thành Thánh”) là nơi quan trọng với người Hồi giáo vì nhiều lý do.
Trước tiên, Jerusalem là nơi đầu tiên mà tín đồ Hồi giáo hướng về cầu nguyện (qibla), trước khi nó được đổi sang hướng tới thánh địa Mecca. Khi Nhà tiên tri Muhammad bắt đầu sứ mệnh của mình vào năm 610 sau công nguyên, ông đã theo sau Do Thái và Cơ đốc giáo hướng về Jerusalem khi cầu nguyện hàng ngày và coi Hồi giáo là sự tiếp nối và đổi mới của dòng họ tín ngưỡng Abraham. Tuy nhiên, ông ước rằng Chúa sẽ thay đổi qibla tới Ka’ba ở Mecca và đó là những gì đã xảy ra sau đó.
Jerusalem cũng là một nơi quan trọng của chuyến hành trình tâm linh sâu sắc về đêm của Nhà tiên tri Muhammad được gọi là wal-Mi’raj của al-Isra (“cuộc hành trình ban đêm và hướng thượng”), trong đó ông đã được gặp hiện thân của Chúa. Cuộc hành trình này bắt đầu từ “nhà thờ Hồi giáo thiêng liêng” (al-masjid al-haram, tức là thánh địa Mecca) tới “nhà thờ Hồi giáo xa nhất” (al-masjid al-aqsa, tức là Thánh địa Jerusalem, còn gọi là Núi Đền).
Theo truyền thuyết Hồi giáo, nhà Tiên tri đã đi một cách kỳ diệu từ Mecca đến Jerusalem và sau đó đi lên qua bảy thiên đường, lên đến đỉnh điểm và có một cuộc trò chuyện trực tiếp với hiện thân của Chúa. Trước khi lên thiên đường, Nhà tiên tri Muhammad đã dẫn dắt linh hồn của tất cả các vị tiên tri trước đây của Chúa cầu nguyện, bao gồm tất cả các vị tiên tri trong Kinh thánh và truyền tụng trong người dân Do Thái. Chính theo cách tiếp nối đức tin Abraham này, mà người Hồi giáo thường coi al-masjid al-aqsa (còn được gọi là al-haram al-sharif, hay “Thánh địa Cao quý”) tại Jerusalem như “Đền thờ của Vua Solomon”. Thánh địa này đã trở thành nơi thiêng liêng thứ ba trong hành trình hành hương của các tín đồ Hồi giáo.
Các tín đồ Hồi giáo hành hương tới khu thánh địa này quanh năm, nhưng mỗi thứ Sáu trong tháng Ramadan, hàng trăm ngàn người Hồi giáo đến cầu nguyện tại “Thánh địa Cao quý”.
Luật Hồi giáo đã áp dụng ở Jerusalem kéo dài 12 thế kỷ, dài hơn bất kỳ hệ thống luật lệ nào khác, dù là của Do thái, La Mã, Ba Tư hay Cơ đốc giáo.
Những điểm nổi bật về chính trị bao gồm cuộc chinh phục của Vua Hồi Omar, cuộc phục hồi của Saladin từ những người theo chủ nghĩa thánh chiến, và việc xây dựng lại các bức tường thành của Sulejyman. Ngoài ra, Jerusalem cũng có lịch sử tâm linh và trí tuệ Hồi giáo mạnh mẽ – ví dụ, nhà thần học Al-Ghazali được cho là đã dành cả năm để tĩnh tâm, thiền định và cầu nguyện ở một tháp giáo đường của “Thánh địa Cao quý”.
Từ năm 1967, đối với nhiều người Hồi giáo, Jerusalem đã trở thành biểu tượng kháng chiến chống lại sự chiếm đóng các lãnh thổ Ả Rập của người Israel và tình trạng của Jerusalem là một trong những vấn đề chính cần được giải quyết như là một phần của bất kỳ thỏa thuận hòa bình nào giữa Israel và Ả Rập ở hiện tại và trong tương lai. Trong khi đó, các nhóm cực đoan và khủng bố như al-Qaeda, IS và lực lượng Al-Quds của Iran vẫn thường xuyên gọi “giải phóng Jerusalem” là một trong những mục tiêu chính của họ.
Với người Do Thái, Jerusalem là một ý niệm tôn giáo vượt thời gian
Những người Do Thái được phủ khăn choàng cầu nguyện thực hiện lời cầu nguyện ở Bức tường phương Tây tại Thành phố cổ Jerusalem. (Ảnh: Getty Image)
Đối với người Do Thái, Jerusalem không chỉ là một địa điểm thực tế đầy ý nghĩa trong cả lịch sử Do Thái trong quá khứ và hiện tại, mà đó còn được coi là một lý niệm tôn giáo vượt thời gian. Khu vực này đã được người Do Thái đầu tiên, Abraham (năm 1800 trước Công nguyên) tìm ra trong khi đi vân du khắp các vùng đất để tìm “Miền đất hứa”. Theo truyền thuyết, nơi mà Abraham chuẩn bị quyên sinh đứa con trai Isaac của mình cho Thiên Chúa nhưng sau đã được lệnh không làm như vậy, bởi đây chỉ là một thử thách về đức tin dành cho Abraham, chính là địa điểm mà sau đó thành Jerusalem được xây dựng.
Sau khi người Do Thái đi tới Ai Cập để tránh nạn đói, bị bắt làm nô lệ và sau đó trở về Israel và David đã chọn Jerusalem làm thủ đô của vương quốc mình (khoảng năm 1000 trước công nguyên). Do đó, Jerusalem là một phần quan trọng của vương quốc đầu tiên của Israel. Jerusalem cũng đã trở thành trung tâm tôn giáo, vì ở đó là nơi vua của vương quốc Israel, Solomon đã xây dựng Đền thờ – trung tâm thờ phụng quốc gia. Người đứng đầu tất cả các hộ gia đình Israel đều được yêu cầu phải tổ chức một cuộc hành hương tới Đền thờ đó ba lần một năm để cùng nhau tổ chức ba lễ hội lớn.
Jerusalem là thành phố cực kỳ quan trọng trong thời kỳ đó và những ai không thể hành hương đến đây, ít nhất cũng nên hướng về đất thánh Jerusalem để cầu nguyện, trong trường hợp đó, lời cầu nguyện của họ sẽ được nghe như thể họ có mặt. Cho đến ngày nay, tất cả các giáo hội đều phải hướng về Jerusalem, để những tín đồ Do Thái được định hướng theo đúng truyền thống. Jerusalem bị phá huỷ hai lần, lần đầu bởi người Babylon vào năm 586 trước công nguyên, và lần thứ 2 là trong cuộc chiến Do Thái – La Mã vào năm 70 sau công nguyên.
Người Do Thái đã phải sống lưu vong trong 2.000 năm tiếp theo, nhưng trong trái tim họ Jerusalem vẫn còn nguyên vẹn như là biểu tượng của sự thống nhất quốc gia. Khi nhà nước Israel được khai sinh vào năm 1948, một cách tự nhiên Jerusalem đã được phục hồi là thủ đô của đất nước.
Ngày nay, tại nơi Vua Solomon xây dựng Đền thờ vẫn còn lưu giữ được Bức tường Than khóc – Kotel hay còn gọi là Bức tường phía Tây – là nơi gần nhất mà người Do Thái cho rằng họ có thể cầu nguyện tới Đức Thánh Cha Abraham.
Vấn đề khó khăn nhất để giải quyết tranh chấp giữa Do Thái và khối Ả Rập là thành phố Jerusalem, ai sẽ làm chủ thành phố này ?
Ngược dòng thời gian khi quốc gia Do Thái được thành lập 1948, thành phố Jerusalem bị chia đôi, Do Thái kiểm soát phân nửa phía tây và phía Ả Rập (nước Jordan ) giữ phân nửa phía đông, sự phân chia rất có ý nghĩa để cân bằng lực lượng hai bên.
Trong cuộc chiến 6 ngày năm 1967, Do Thái chiến thắng vẻ vang chiếm luôn phần phía đông của Jerusalem và một phần đất giáp giới với Do Thái của Jordan, bao gồm thành phố Jerusalem.
Do Thái có tham vọng giữ luôn hoàn toàn thánh địa Jerusalem và dời thủ đô của họ từ Tel Aviv về Jerusalem. Mỹ và khối Tây Phương cho đến nay từ chối công nhận phần đất phía đông Jerusalem mới chiếm là thuộc về Do Thái vì lý do rất tế nhị là không muốn làm khối Ả Rập tức giận và xung đột sẽ lan rộng.
Từ 1967 đến nay các tổng thống Mỹ đã khôn khéo tránh đặt chân đến Jerusalem vì có ý không công nhận cả thành phố Jerusalem vĩnh viễn là của Do Thái, tòa đại sứ Mỹ vẫn nằm ở Tel Aviv, cho đến khi mới đây Donald Trump phá lệ đến thánh địa này và còn viếng thăm Western Wall , một biểu tượng thiêng liêng của dân tộc Do Thái.
Tổng thống Mỹ Donald Trump đặt tay lên bức tường Than khóc
Bức tường phía Tây hàng năm thu hút hàng triệu lượt khách du lịch khắp nơi trên thế giới tới thăm quan.
Người Do Thái từ năm châu cũng đến thăm nơi này để cầu nguyện và kết nối với quá khứ của họ.
Mỹ ra lệnh gia đình nhân viên tòa đại sứ ở Venezuela phải rời khỏi nước
CARACAS, Venezuela (NV) – Chính phủ Mỹ hôm Thứ Năm ra lệnh cho gia đình nhân viên tòa đại sứ ở Venezuela phải rời khỏi nơi này trong khi cuộc khủng hoảng chính trị tại quốc gia này đang trở nên trầm trọng hơn, trước ngày có cuộc bầu cử mà theo phía đối lập là sẽ chấm dứt nền dân chủ tại đây.
Bạo động tiếp tục diễn ra trên đường phố, khi thêm bảy người khác thiệt mạng trong cuộc đình công mới nhất do phía đối lập chủ xướng, để phản đối việc Tổng Thống Nicolas Maduro dự trù tổ chức bầu cử Quốc Hội Lập Hiến vào ngày Chủ Nhật.
Trong khi đó, hãng hàng không Avianca của Colombia bất ngờ loan báo ngưng bay tới Venezuela, tạo thêm sự cô lập đối với quốc gia này trên trường quốc tế.
Bên cạnh việc ra lệnh cho thân nhân của giới chức tòa đại sứ phải ra đi, Bộ Ngoại Giao Mỹ hôm Thứ Năm cũng nói rằng các người khác nếu không có nhiệm vụ cần thiết và tình nguyện rời khỏi Venezuela thì cũng sẽ được cho tạm thời đi khỏi quốc gia này. (V.Giang)
Venezuela – khi nhà giàu sa cơ
Người Venezuela đang cạn kiệt đồ ăn, bệnh viện chật ních trẻ em ốm mà không đủ thuốc men, còn điện nước cũng chẳng được bảo đảm.
Venezuela từng là cường quốc giàu nhất khu vực Mỹ Latin và cũng là nước có dự trữ dầu thô lớn nhất thế giới. Khi ấy, dầu mỏ được xem là “giếng tiền” vô tận của quốc gia này. Thậm chí, cựu Tổng thống Mỹ – Bill Clinton còn chọn Venezuela là điểm dừng đầu tiên trong chuyến thăm khu vực này năm 1997.
Nhưng sau đó, bất bình đẳng tại Venezuela ngày càng gia tăng. Tầng lớp giàu có kiểm soát mọi thứ, trong khi phần đông dân số ngày càng nghèo đói. Hiện tại, chính phủ Venezuela đã cạn kiệt tiền, giá cả tăng chóng mặt. Mọi thứ tại đây đều bị đảo lộn.
Chính phủ nước này không cung cấp được bất kỳ số liệu thống kê đáng tin cậy nào, bao gồm cả tăng trưởng kinh tế và lạm phát. Các quan chức nhận hàng triệu USD hối lộ trong các dự án xây dựng, trong lúc Chính phủ phải vật lộn với nhiều khoản nợ cần trả. Trong khi đó, giá dầu thô – mặt hàng xuất khẩu quan trọng nhất của quốc gia này lại đang lao dốc.
*Cuộc chiến bánh mỳ ở Venezuela
Khủng hoảng Venezuela: Mỹ trừng phạt 13 quan chức chính quyền Maduro – Trí thức VN
Hôm thứ Tư (26/7), chính phủ Trump đã phát đi thông báo áp đặt trừng phạt lên 13 quan chức cấp cao Venezuela, trong thời điểm phe đối lập đang tổ chức 2 ngày đình công phản đối chính phủ của đảng Xã Hội Chủ Nghĩa (XHCN) cầm quyền. Điều này càng gia tăng áp lực mạnh mẽ ép Tổng thống Nicolas Maduro phải hủy bỏ kế hoạch thành lập quốc hội mới.
Reuters cho hay các chế tài áp dụng với 13 quan chức Venezuela lần này bao gồm đóng băng tài sản ở Mỹ, cấm di trú tới Mỹ và cấm công dân Mỹ làm ăn với các đối tượng này.

Venezuela : Thất bại của mô hình « Xã hội chủ nghĩa thế kỷ 21 »
Venezuela : Thất bại của mô hình « Xã hội chủ nghĩa thế kỷ 21 »
Caracas, một biển người đòi người kế thừa của Hugo Chavez, là tổng thống Maduro từ chức. Ảnh tháng 6/2017. REUTERS/Christian Veron
Mới chỉ ba thập niên trước, Venezuela là một đất nước giàu có, phát triển không kém Tây Ban Nha, nay nước này lâm vào cảnh đói kém. Sống trên giếng dầu lớn thứ nhì thế giới nhưng người dân Venezuela lại không có xăng để dùng. Hồi kết của mô hình « Xã hội chủ nghĩa thế kỷ 21 » được cố tổng thống Hugo Chavez vạch ra cách nay chưa đầy hai thập niên ?
« Chín tầng địa ngục »
Vào đầu những năm 2000, Venezuela đóng vai trò đầu tàu của châu Mỹ La Tinh. Năm 1999, lãnh đạo cánh tả mang tên Phong Trào Nền Cộng Hòa Thứ Năm, Hugo Chavez, lên cầm quyền và giương cao ngọn cờ mô hình « Xã hội chủ nghĩa thế kỷ 21 », mà ở đó vế phát triển xã hội phải là ưu tiên hàng đầu. Caracas, dưới những năm tháng Chavez đã huy động đến 43 % ngân sách Nhà nước để phát triển các chương trình xã hội, từ y tế đến giáo dục và nhất là nhà ở cho dân nghèo.
Một số chính trị gia, cả ở Tây Âu, từng kỳ vọng nhân vật này đang mở ra một con đường mới. Chính sách xã hội của tổng thống Chavez ở Venezuela khiến nhiều nước ở châu Mỹ La Tinh ngưỡng mộ. Caracas là điểm tựa của Cuba, Nicaragua và nhiều nước bạn ở Nam Mỹ nhờ cấp dầu hỏa cho các quốc gia này với giá « hữu nghị ».
Năm 2017, người bạn hào phóng này của nhiều nước ở châu Mỹ La Tinh lao đao : người dân Venezuela lo kiếm cơm từng bữa. Năm 2006 khi vận động tái tranh cử, ông Chavez tự hào cải thiện đời sống cho 30 triệu dân Venezuela. Một chục năm sau, Venezuela đang thiếu đủ mọi thứ từ thuốc men đến lương thực thực. Thiếu luôn cả điện và xăng dầu.
Venezuela lún sâu vào khủng hoảng kinh tế, xã hội và chính trị. Đất nước bị chia rẽ hơn bao giờ hết. Trên phương diện chính trị, khủng hoảng khơi mào từ cuối 2015 khi phe đối lập giành được đa số tại Quốc Hội. Phe chống tổng thống Maduro đòi ông từ chức.
Từ tháng 09/2019, có tới 80 % người dân Venezuela đòi thay đổi chính quyền. Thế nhưng để bám víu vào chiếc ghế tổng thống, Nicolas Maduro đưa ra sáng kiến vô hiệu hóa Quốc Hội do đối lập kiểm soát bằng cách lập một Quốc Hội Lập Hiến, với 545 thành viên do ông chỉ định. Tối Cao Pháp Viện thân chính quyền đã phủ quyết tất cả các quyết định của Quốc Hội. Đó là giọt nước làm tràn ly.
Khủng hoảng Venezuela bước sang một khúc quanh mới kể từ ngày 18/04/2017, khi ba người biểu tình thiệt mạng trong một cuộc tuần hành chống Maduro. Tính cho tới ngày 10/07/2017, tức chưa đầy ba tháng sau, số nạn nhận đã lên tới gần 100 người.
Trong địa hạt kinh tế và xã hội, hơn 1/4 dân số không có việc làm. GDP giảm 18,6 % so với 2015. Lạm phát sau khi đã tăng 800 % năm ngoái. Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế dự báo vật giá sẽ còn tăng lên gấp 10 lần trong năm 2017.
Giấc mơ tan vỡ
Giấc mơ mở ra một con đường mới, xây dựng một mô hình phát triển mới theo hướng xã hội chủ nghĩa cho thế kỷ 21 của cố tổng thống Chavez tan vỡ. Đâu là những sai lầm của chủ thuyết đó ? Trả lời Jean-Pierre Boris trên đài RFI Pháp ngữ, trong khuôn khổ chương trình Eco d’Ici Eco d’Ailleurs, Luis Colasante, chuyên gia về thị trường dầu khí Venezuela, kinh tế gia Camillo Umana-Dajud thuộc trung tâm nghiên cứu kinh tế CEPII của Pháp và phóng viên độc lập François Xavier Freland cùng phân tích về những sai lầm trong chiến lược phát triển của gần 20 năm dưới thời Chavez và Maduro.
Trưng thu đất của nông dân
Trước hết chuyên gia người Venezuela Luis Colasante nhấn mạnh đến sai lầm của Caracas chỉ trông chờ vào một lĩnh vực dầu khí để đem lại ngoại tệ :
« Venezuela sản xuất có mỗi một mặt hàng là dầu hỏa. Xuất khẩu dầu hỏa bảo đảm 76 % ngân sách quốc gia. Hiềm nỗi, các chính quyền Caracas liên tiếp không biết sử dụng nguồn thu nhập này để mở mang mạng lưới công nghiệp trên toàn quốc- như là ngành chế biến thực phẩm chăn nuôi, trồng trọt. Đáng tiếc hơn nữa, Venezuela có đất đai màu mỡ và phì nhiêu nhưng nông nghiệp lại không được phát triển. Từ gần 20 năm qua, giới tiểu nông đã đua nhau bán đất để lên thành phố kiếm sống ».
Nhà báo François Xavier Freland nói thêm đến chính sách tịch thu đất đai của nông dân để phát triển các hợp tác xã mà hậu quả là một phần giới canh nông phải bỏ nước tha phương cầu thực :
« Có rất nhiều người đã bị chế độ Chavez tịch thu đất đai. Đầu những năm 2000, khi lên cầm quyền, Hugo Chavez chủ trương dẹp bỏ các hoạt động tư nhân để thành lập các tổ hợp tác xã. Chính sách tịch thu đất của nông dân đã tăng tốc trong giai đoạn 2008-2009.
Mọi người còn nhớ những loạt phóng sự truyền hình cho thấy người hùng Chavez ồn ào khánh thành những hợp tác xã với một số máy móc mua lại của Iran. Nhưng rồi, nông dân không được đào tạo để sử dụng từ máy cầy đến máy gặt, hay là hệ thống tự động vắt sữa bò … Chỉ sau một thời gian, hàng trăm hợp tác xã bị bỏ trống. Nông dân thì đói vì không còn đất canh tác. Tôi có biết rất nhiều các trường hợp mà người ta phải bỏ xứ, sang Costa Rica hay Colombia kiếm sống ».
Sai lầm trong quan hệ thương mại
Về phía nhà nghiên cứu Camillo Umana-Dajud, Trung Tâm Nghiên Cứu về triển Vọng Kinh Tế Quốc Tế CEPII của Pháp, ông cho rằng cố tổng thống Chavez đã đi lỡ một nước cờ khi xa rời cộng đồng Andean – CAN để xích lại gần với khu vực MERCOSUR từ đó tách rời hai nhà cung cấp truyền thống là Equador và nhất là Colombia :
« Nông nghiệp không là chủ lực kinh tế của Venezuela. Quốc gia này thường phải nhập khẩu lương thực, thực phẩm Colombia, của Equador. Khúc mắc nằm ở chỗ, khi lên cầm quyền năm 1999, Hugo Chavez và người kế nhiệm ông sau này là tổng thống Nicolas Maduro, đã xa rời Cộng đồng Andean- CAN – bao gồm 10 nước thành viên mà Colombia là một trong bốn cột trụ sáng lập ra khối này. Caracas mở rộng quan hệ với thị trường chung Nam Mỹ- MERCOSUR.
Liên minh mới này dẫn tới hậu quả là Venezuela nhập hàng của Brazil và Achentina nhiều hơn. Thực phẩm, ngũ cốc, lúa mì, bơ, sữa và nhất là thịt bò tăng giá vì phải nhập từ xa, tốn kém nhiều chi phí chuyên chở. Vấn đề này không đặt ra ở thời điểm mà Venezuela xuất khẩu dầu hỏa với giá 120-150 đô la một thùng. Nhưng khi giá dầu bị giảm đi phân nửa, rồi chỉ còn có 1/3 so với thu nhập hồi năm 2010, thì Venezuela lâm vào thế kẹt.
Thêm vào đó, ở vào đầu những năm 1980 kinh tế Venezuela phụ thuộc 75 % vào dầu hỏa, nhưng 25 % còn lại gồm nhiều có nhiều lĩnh vực như công nghệ hóa chất, nhựa và kể cả ngành công nghiệp xe hơi. Trong hơn một chục năm dưới thời của tổng thống Chavez, chỉ còn có mỗi ngành dầu hỏa là đứng vững. Phần còn lại bị thui chột vì hàng sản xuất ra không bán được cho các đối tác trong khu vực Andean. Đặc biệt là cả Chavez lẫn Manduro đều quyết định đóng cửa biên giới với Colombia ».
Quản lý kém cỏi
Sau nhiều lần công tác trên quê hương của Chavez, phóng viên Pháp nhà báo François Xavier Freland nhận thấy là người dân Venezuela mới chỉ 5 năm trước có khuynh hướng béo phì vì ăn uống quá độ, nay đang hốc hác vì thiếu ăn. Với nhà báo François Xavier Freland, Venezuela được thiên nhiên ưu đãi nhưng do quản lý kém cỏi đang đẩy 30 triệu dân vào cảnh đói nghèo.
« Venezuela là một quốc gia may mắn có đủ mọi thứ : có rất nhiều sông ngòi, ruộng đất phì nhiêu. Xưa kia có những nông trại lớn hoạt động tại ngay trên vùng Barinas- quê của Chavez, nhưng nay tất cả đều đã đóng cửa vì thiếu phân bón, vì không có phương tiện để tiếp tục khai thác, chăn nuôi. Venezuela là xứ nuôi bò và gia súc, chỉ sau 2 thập niên lại phải đi mua lại thịt bò của Urugugay và Achentina với cái giá đắt đỏ ».
Nhà kinh tế Camillo Umana-Dajud nêu bật sai lầm của chính sách quốc hữu hóa các ngành công nghiệp chính của Venezuela :
« Mới chỉ vào quảng năm 1985 Venezuela giàu có và phát triển ngang tầm với Tây Ban Nha. Đây là vùng đất hứa của người nhập cư từ bỏ châu Âu đi tìm một chân trời mới để lập nghiệp. Nhưng từng bước, quốc gia nam Mỹ này lún vào khủng hoảng. Đặc biệt bất bình đẳng trong xã hội ngày càng lớn. Đây chính là chìa khóa đưa ông Chavez lên cầm quyền. Có thể nói là trong 12 năm trời, Hugo Chavez đã thu hẹp được khoảng cách giàu nghèo đó lại.
Nhưng bên cạnh đó là hàng loạt những sai lầm trong chính sách kinh tế : chúng ta đã nói tới những vụ trưng thu đất để lập ra các hợp tác xã. Ngoài ra, nhà nước quốc hữu hóa luôn các nhà máy, các công ty khai thác quặng mỏ.
Hàng loạt các tập đoàn ngoại quốc rút vốn khỏi Venezuela. Những hãng cung cấp hàng cho Venezuela gần đây đều ngưng giao dịch với quốc gia này, vì Caracas không còn khả năng thanh toán. Venezuela nợ rất nhiều các công ty của Colombia, hay Chilê, Achentina …
Tất cả những yếu tố đó giải thích vì sao, hiện tại, người dân xứ này thiếu đủ mọi thứ, từ thực phẩm đến thuốc men và kể cả xăng dầu ».
Tự tay bóp chết con gà đẻ trứng vàng
Sau cùng chuyên gia về dầu khí người Venezuela, Colasante nêu lên « sự điên rồ » của chế độ Chavez đã từng bước bóp chết con gà đẻ trứng vàng, đem lại 96 % ngoại tệ cho quốc gia, bảo đảm 76 % ngân sách nhà nước :
« Venezuela đang nắm giữ nguồn dự trữ dầu hỏa lớn thứ nhì trên thế giới, chỉ sau có Ả Rập Xê Út. Nhưng người dân không có xăng. Venezuela có khả năng cung cấp 5.000 triệu thùng dầu một ngày, nhưng trước mắt chỉ sản xuất được có 1,8 triệu. Có nhiều yếu tố giải thích cho điều này : thứ nhất là thiếu đầu tư, do các tập đoàn ngoại quốc từ của Ý đến Anh, hay Hà Lan đều đã rút khỏi Venezuela.
Thứ hai là chính sách quốc hữu hóa của ông Chavez đã đem lại nhiều tai hại. Tập đoàn dầu khí lớn nhất trên toàn quốc bị nhà nước thâu tóm. Chính phủ đuổi một loạt các kỹ sư giỏi và có nhiều kinh nghiệm để đưa những thành phần trung thành với ‘cuộc cách mạng mang tên Chavez’ vào thay thế. Không có đầu tư, không có kỹ thuật và kinh nghiệm, chỉ trong một thời gian ngắn, một phần lớn của nền công nghiệp dầu khí Venezuela- nguồn thu nhập chính của cả nước- đương nhiên bị xuống cấp.
Điểm thứ ba là dầu của Venezuela vừa đặc vưà khó khai thác. Đòi hỏi đầu tư nhiều trong lĩnh vực lọc dầu, mà như đã nói, đầu tư vào công nghệ dầu hỏa của Venezuela đã xuống cấp nghiêm trọng dưới những năm tháng cầm quyền của Hugo Chavez và Nicolas Maduro. Hệ quả trực tiếp là đã xảy ra nhiều tai nạn, như vụ nổ nhà máy lọc dầu vì bảo quản kém … ».
Không chỉ thất bại với công luận trong nước, mà ngay cả trên trường quốc tế, mô hình xã hội chủ nghĩa thế kỷ 21 được ông Chavez vạch ra năm 1999 đã hết thiêng. Cánh tả ở châu Mỹ La Tinh đang phải thoái lui, từ Achentina tới Brazil. Trong lúc đồng minh cốt lõi của Venezuela là Cuba thì ngày càng hướng về Hoa Kỳ.
Caracas không còn khả năng tài chính để giữ những người bạn mới !
Côn Minh & Bắc Kinh- S.T.T.D Tưởng Năng Tiến
Côn Minh & Bắc Kinh- S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

tuongnangtien
Trung Hoa (dường như) chưa từng thoát khỏi đêm trường trung cổ.
Gần hai mươi năm trước, tôi hân hạnh được Đại Tá Phạm Văn Liễu gửi cho mấy tập hồi ký (Trả Ta Sông Núi) cùng lời yêu cầu viết một bài giới thiệu về tác phẩm của ông. Tôi thưa lại rằng mình rất vinh dự khi được nhờ cậy. Tuy nhiên, theo công tâm, tôi sẽ góp đôi lời về những trang sách mà tác giả đề cập đến những nhân vật quá cố (Ngô Đình Diệm & Hoàng Cơ Minh) với quá nhiều hằn học.
Ông không đồng ý như thế nên chút duyên nợ, về chữ nghĩa, giữa chúng tôi đã không có cơ thành tựu. Từ đó đến nay – thỉnh thoảng – tôi vẫn được đọc thêm những cuốn hồi ký khác, của nhiều nhân vật khác.
Phần lớn những người Việt Nam đi làm cách mạng, hồi đầu thế kỷ trước, đều có lúc phải sang Trung Hoa lánh nạn. Họ thường đi qua ngả Vân Nam vì địa danh này giáp giới với miền Bắc nước mình.
Phạm Văn Liễu cũng thế. Là một đảng viên Việt Quốc ông đã phải lưu lạc đến Côn Minh (thủ phủ của Vân Nam) khi còn là một thanh niên, ở tuổi đôi mươi. Ông kể lại rằng khi đang bơ vơ nơi đất lạ quê người thì may mắn được một phú gia người Hoa cho tá túc. Không những thế (và có lẽ vì cảm cái khí phách và nhân cách của chàng trai nước Việt) ông còn được vị ái nữ xinh đẹp, cùng cả gia đình, của vị đại gia này đem lòng thương mến.
Thiệt là quá đã!
Nếu tôi mà rơi vào hoàn cảnh tương tự thì cuộc đời cách mạng, tới đây, là … kể như rồi. Bôn ba làm chi, cho má nó khi. Làm rể người giầu – bất kể Tây/Tầu – là cơ hội hiếm, và (rất) không nên bỏ lỡ.
Quan điểm nhân sinh (nhỏ hẹp) của tôi, tất nhiên, cũng không được Phạm Văn Liễu đồng tình. Vì nghĩa lớn nên ông từ chối một cuộc sống ấm êm – bên cạnh mỹ nhân – và lại khoác áo lên đường, để lại biết bao là luyến thương (cùng sầu muộn) trong lòng người ở lại.
Tôi vốn hay thương vay khóc mướn nên cứ áy náy hoài về mối tình (dang dở) của vị tiểu thư Trung Hoa, và có cảm tình mãi với vùng đất mà cô sinh trưởng. Vì vậy nên ngay sau khi khi cầm được cái visa sang Tầu là tôi mua vé bay ngay đến Côn Minh.
Phi cơ hạ cánh giữa mưa. Nhìn núi đồi nhấp nhô và mờ nhạt xa xa khiến tôi cứ ngỡ như mình vừa đáp xuống phi trường Liên Khương, vào một chiều mưa nào đó (tưởng chừng) như vẫn chưa xa xôi lắm.
Cũng như Đà Lạt, Côn Minh ở độ cao hai ngàn mét nên khí hậu rất dịu dàng. Cây cỏ xanh tươi, đất trời mát rượi. Xa lộ dẫn vào thành phố khá tân kỳ. Đường rộng thênh thang. Hoa lá được chăm sóc kỹ càng, tử tế.
Tôi đã đặt phòng với giá rẻ nhất, chưa tới mười Mỹ Kim, bao luôn ăn sáng. Phòng ngủ chung nhưng nhà trọ vắng khách nên chỉ có mình tôi tui với mấy cái giường đôi, ngó trống trải thấy mà ái ngại.
Sau một giấc ngủ dài, tôi đeo máy ảnh đi loanh quanh khi trời chiều còn sáng. Đường phố rộng rãi, được phân làn rõ ràng và trật tự. Côn Minh không thiếu ô tô, và có nét đặc thù là rất nhiều xe hai bánh điện (e-bike) cùng không ít xe đạp.
Tranh cổ động dán ở khắp nơi. Dù không đọc được tiếng Hoa nhưng tôi cũng đoán được nội dung rất “lành mạnh” qua sắc mầu tươi vui, và những nét vẽ đơn sơ mộc mạc: giữ vệ sinh chung, nhường nhịn người già, chăm sóc cây cảnh …
Tranh cổ động ở Côn Minh. Ảnh chụp tháng 7/2017
Điều đáng nói là Côn Minh không chỉ làm đẹp bằng tranh cổ động. Du khách còn có thể thấy được “thiện chí” của thành phố này qua những con phố không bụi rác, và những nhà vệ sinh công cộng sạch sẽ (miễn phí) dù không dễ tìm.
Tuy nhiên, chỉ cần rời bỏ đại lộ với những cao ốc chọc trời và rẽ ngang vào bất cứ một con đường ngang nào khác là sẽ có ngay một Côn Minh khác. Nhà cửa cũ kỹ, mái ngói rêu phong, cái nghèo có thể nhìn thấy được qua những cánh cửa mở toang (giường tủ, bàn ghế bừa bộn, tuyềnh toàng) và qua những khuôn mặt buồn phiền, cam chịu.
Tua tủa hai bên những con đường nhỏ là những ngõ hẻm sâu, vừa chỉ vừa lọt một chiếc xe đạp hay hai người đi bộ trái chiều. Cái gì chứ cảnh nghèo ở Á Châu thì tôi nhìn thấy hoài mà (ở Miên, ở Miến, ở Lào đều như vậy tuốt) nên không có hứng thú tiếp tục lần dò tiếp vào những ngõ ngách khai khai, tôi tối, và âm ẩm của Côn Minh.
Côn Minh. Ảnh chụp tháng 7/2017
Trở ra đường lớn thì không thiếu hàng quán tấp nập nhưng tôi không có thói quen ăn tiệm mình ên nên mua một phần cơm chỉ hai món (đậu đũa xào và thịt heo kho trứng) hết mười lăm nhân dân tệ, cỡ hai MK, và một chai rượu nhỏ cùng giá. Về lại nhà trọ, tôi ngồi nhai trệu trạo vì bụng không thấy đói và rượu thì quá dở: đã nhạt phèo mà lại còn có vị hơi ngòn ngọt nữa. Thiệt là vô duyên hết biết luôn!
Tôi không vào được gmail, face book, hay youtube. Mấy trang mạng quen thuộc cũng không luôn nên nghĩ rằng có lẽ vì mình thuê chỗ ở quá rẻ tiền nên wifi yếu. Thôi thì đành mua rượu uống nữa, dù là rượu dở, rồi lăn ra ngủ tiếp.
Sáng hôm sau tôi chạy ngay đi nơi khác, vào khách sạn có sao tử tế (Spring City Star Hotel) trên một con lộ lớn: No.636 Beijing Road, Panlong District 650051 China / Yunnan / Kunming.
Pass word của wifi ghi sẵn luôn trong thang máy. Thiệt là văn minh chưa từng thấy. Nhận phòng xong là tôi mở labtop liền.
Tưởng sao?
Cũng y như hôm qua thôi. No Gmail, no face book, no youtube … , dù những hình ảnh quảng cáo khách sạn hay vé máy bay (Agoda, Travelgenio, Jetcost, Expedia, Cheapoair …) vẫn xuất hiện đều đều, và thử bấm chơi thì đều chạy vo vo.
Tới lúc đó tôi mới chợt nhớ ra rằng (thôi chết mẹ rồi) mình đang ở trong đất Tầu. Côn Minh đâu phải là Vientiane, Phnom Penh, Yangon, hay Bangkok. Đây là thủ phủ của một tỉnh thuộc Trung Hoa Lục Địa, và bưng bít thông tin vốn là “chủ trương xuyên suốt” của mọi đảng CS mà. Thảo nào mà những người trẻ, ở nơi này, chả thấy mấy ai chăm chăm cầm cái smart phone như nhiều nơi khác!
Tự nhiên lại chợt nhớ đến Lưu Hiểu Ba, và câu nói lạc quan của ông khi còn tại thế: “Internet là món quà Chúa ban cho Trung Quốc. Nó là công cụ tốt nhất cho nhân dân Trung Quốc đang mơ ước vất đi sự nô lệ và đạt đến tự do.” Có lẽ vì món quà này qúi báu quá nên Đảng CS Trung Hoa phải nhất định “dằng lại” bằng mọi giá, kể cả cái giá là sự ngu dân để Nhà Nước dễ bề cai trị.
Thôi thì tạm quên Lưu Hiểu Ba, quên internet, và lại tiếp tục đi lòng vòng phố xá cho rộng tầm con mắt. Mắt tôi đụng toàn chữ Hán, đủ kích cỡ khác nhau nhưng đều đỏ rực như nhau – ngoại trừ tên mấy cái ngân hàng và khách sạn: China Construction Bank, Fudian Bank, Holiday Inn City Centre, Howard Johnson City of Flower Hotel …
Chinese – English. Ảnh chụp tháng 7/2017
Đi gần muốn rã cẳng luôn tôi mới chợt thấy một cái bảng hiệu tiếng Anh (Travel Agency) mà mừng muốn rơi nước mắt. Ôi Trời, tha hương ngộ cố tri!
Tôi cần một hướng dẫn viên, cần thuê một cái xe hơi, hay ít ra thì cũng phải mướn được một cái e-bike (cùng với bản đồ thành phố) để thăm thú Côn Minh cho biết sự tình. Chớ cứ lết bộ hoài, và xung quanh thì toàn là chữ Tầu không (chả hiểu cái con bà gì ráo trọi) thì chịu đời sao thấu?
Tôi hăm hở mở cửa bước vào văn phòng du lịch, với nụ cười tươi tắn, và một câu tiếng Anh thông dụng. Người đối diện đáp lại bằng tiếng Tầu. Tôi quay sang cô nhân viên ngồi kế, lập lại câu nói vừa rồi. Cô này cũng trả lời bằng tiếng Hoa, nghe từa tựa y như cô trước.
Coi như là hết thuốc!
Bây giờ thì tôi hiểu thế nào là một nhà tù lớn. Tuy không có chấn xong nhưng kẻ ở bên trong cũng hoàn toàn bị cắt đứt mọi liên lạc với thế giới bên ngoài. No English, no face book, no youtube, no Gmail … mà tôi thì chỉ có gmail và không dùng điện thoại – bất kể loại nào.
Theo dự tính thì sau Côn Minh là sẽ đến Bắc Kinh (vài bữa, hoặc mươi ngày) nhưng tôi đổi ý. Tôi sẽ trở lại Phnom Penh hay Bangkok vào chuyến bay sớm nhất – khuya nay – với bất cứ giá nào. Côn Minh hay Bắc Kinh thì có khác gì nhau. Cả xứ sở này chỉ là một cái ngục tù bao la, có tên gọi là Trung Hoa Vỹ Đại!
















