Tổ chức Theo dõi Nhân quyền: “Hun Sen là nhà độc tài quân sự”
Tổ chức Theo dõi Nhân quyền: “Hun Sen là nhà độc tài quân sự”

Thủ tướng Campuchia Hun Sen đã trở thành ‘một nhà độc tài quân sự hoàn toàn’ với sự hỗ trợ đắc lực của các tướng lĩnh quân đội và cảnh sát, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW) cho biết trong một bản phúc trình được công bố hôm thứ Năm ngày 28/6.
Với tựa đề ‘12 người bẩn thỉu của Campuchia: Quá trình vi phạm nhân quyền lâu dài của các tướng lĩnh của Hun Sen’, bản phúc trình dài 213 trang cho thấy mức độ kiểm soát cá nhân của ông Hun Sen đối với lực lượng quân đội và cảnh sát thông qua danh sách 12 quan chức an ninh cấp cao vốn ‘tạo thành xương sống của một chế độ chính trị chuyên chế và đàn áp’.
Bản phúc trình được đưa ra trong bối cảnh Campuchia sắp diễn ra cuộc tổng tuyển cử 5 năm một lần vào tháng Bảy mà nhiều khả năng Đảng Nhân dân Campuchia (CPP) do ông Hun Sen lãnh đạo sẽ tiếp tục chiến thắng để đảm bảo cho ông thêm một nhiệm kỳ Thủ tướng nữa sau khi ông đã có những hành động đàn áp các lãnh đạo đối lập và đỉnh điểm là giải tán Đảng Cứu nguy Dân tộc (CNRP) hồi năm ngoái.
Nhiều người trong số 12 tướng lĩnh này, trong số đó có Tướng Pol Saroeun, tư lệnh tối cao của các lực lượng vũ trang hoàng gia Campuchia và Tướng Neth Savoeun, tư lệnh cảnh sát tối cao của Campuchia, đều từng phục vụ trong quân đội Khmer Đỏ cùng với bản thân Hun Sen.
Mỗi người trong số các tướng lĩnh này có được địa vị cao và chức vụ béo bở như hiện nay là nhờ vào các liên hệ chính trị và cá nhân với Hun Sen trong vòng trên dưới hai thập niên qua, theo thông cáo báo chí của HRW. Theo đó, ông Hun Sen đã tạo dựng được nền cai trị chuyên chế của mình bằng cách cất nhắc các tướng lĩnh dựa trên lòng trung thành của họ đối với ông.
“Thay vì phục vụ dân chúng, những tướng lĩnh này lại đi bảo vệ cho sự cai trị của ông Hun Sen vốn đã cầm quyền được 33 năm,” thông cáo viết và cho biết mỗi người trong số họ đều thể hiện sự sẵn sàng vi phạm nhân quyền cho Hun Sen.
HRW còn cho rằng mặc dù phục vụ trong chính quyền với mức lương chính thức khá khiêm tốn nhưng các tướng lĩnh này ‘đã gom được một lượng tài sản kếch xù không rõ nguồn gốc’.
“Qua nhiều năm, ông Hun sen đã tạo dựng và phát triển thành phần chủ chốt của các tướng lĩnh an ninh vốn thực thi mệnh lệnh của ông ta một cách bạo lực và tàn nhẫn,” ông Brad Adams, giám đốc Á châu của HRW, được dẫn lời nói.
“Tầm quan trọng của các tướng lĩnh này đã trở nên càng rõ ràng hơn trước cuộc bầu cử vào tháng Bảy khi họ tiến hành đàn áp các nhà báo, các đối thủ chính trị và những người phản đối chính phủ và vận động công khai cho Hun Sen,” ông nói thêm.
Bản báo cáo tường trình lại trách nhiệm của 12 tướng lĩnh cao cấp này trong các vi phạm nhân quyền ở Campuchia từ cuối những năm 1970 cho đến nay.
Mặc dù các quan chức này có trách nhiệm pháp lý hành động vì lợi ích của quốc gia thay vì đảng phái và phải thực thi chức trách một cách trung lập và không thiên vị nhưng tất cả họ lại ‘hành động mang tính đảng phái công khai’, theo HRW.
Theo đó, tất cả các tướng lĩnh này đều là thành viên của Ủy ban Trung ương Đảng CPP và do đó họ phải thực thi tất cả các chính sách của Đảng. Điều này, theo HRW, là mâu thuẫn với các chuẩn mực nhân quyền quốc tế vốn đòi hỏi các quan chức không được có thái độ đảng phái khi thực thi chức trách và không được thiên vị đảng này so với đảng kia.
Tổ chức Theo dõi Nhân quyền cho biết từ lâu họ đã theo dõi và ghi lại những vi phạm nhân quyền quá mức của chính quyền Hun Sen. Theo đó, trong hơn ba thập niên, hàng trăm các nhà báo, các nhân vật đối lập, các lãnh đạo công đoàn và những người khác đã bị sát hại. Mặc dù trong nhiều trường hợp những kẻ đứng sau những vụ việc này ‘là các thành viên của lực lượng an ninh’, nhưng ‘không có trường hợp nào mà chính quyền thực hiện điều tra và truy tố một cách đáng tin cậy, nói gì đến kết tội thủ phạm’ và trong một số trường hợp, ‘những kẻ ra tay bị truy tố còn cấp trên ra lệnh cho họ lại không hề hấn gì’.
Ngoài ra lực lượng an ninh Campuchia còn ‘bắt giữ tùy tiện, đánh đập, quấy rối và đe dọa nhiều người chỉ trích chính quyền, trong đó có những nhà hoạt động nhân quyền, các nhà hoạt động công đoàn hay đấu tranh về quyền lợi đất đai, các blogger và những người khác bày tỏ quan điểm trên mạng’.
“Không có nhà độc tài nào vươn tới hay trụ trên đỉnh quyền lực mà không có sự hỗ trợ của những con người tàn bạo khác,” ông Adams nói và nhắc lại việc nhóm tướng lĩnh trụ cột này của Hun Sen cũng không thêm đếm xỉa gì đến nền dân chủ hay tính đa nguyên chính trị cũng giống như Hun Sen trong suốt 33 năm cầm quyền của ông.”
“Cũng như ông chủ của họ, các viên tướng này cần phải được chỉ mặt đặt tên và phải chịu trách nhiệm cho nhiều tội ác của họ.”
Hun Sen làm Thủ tướng Campuchia từ năm 1985. Kể từ năm 2015, ông trở thành chủ tịch của Đảng CPP. Sau khi Tổng thống Zimbabwe, Robert Mugabe, bị lật đổ trong một cuộc đảo chính hồi năm ngoái, giờ đây ông Hun Sen nằm trong số năm nhà lãnh đạo chuyên chế tại vị lâu nhất trên thế giới.
HRW cho biết ông Hun Sen công khai tạo dựng sự sùng bái cá nhân cho ông ấy, trong đó có việc đặt tên ông cho hàng trăm trường học mà nhiều trường trong số này được xây bằng tiền của các nhà tài trợ. Hun Sen tự gọi mình là ‘tướng năm sao vĩnh viễn’ trong khi danh hiệu chính thức của ông là ‘Samdech Akka Moha Sena Padei Techo Hun Sen’ vốn dịch ra nghĩa đen là ‘Tư lệnh tối cao vĩ đại được tán dương huy hoàng của quân đội chiến thắng vinh quang’.
“Hun Sen thật sự đã trở thành một nhà độc tài quân sự hoàn toàn, điều mà ông ấy hy vọng có thể che giấu với màn bầu cử vào tháng Bảy vốn sẽ không hề tự do hay công bằng,” tờ Guardian dẫn lời ông Phil Robertson, phó giám đốc phụ trách châu Á của HRW, nói.
“Điều mà bản phúc trình này cho thấy là cội rễ quân sự vốn định hình chế độ của Hun Sen,” ông Robertson nói. “Ở mỗi bước đi trong những năm nắm quyền, Hun Sen đã tìm cách tập trung sự kiểm soát đối với quân đội và cảnh sát dưới sự chỉ huy trực tiếp của ông ấy và với sự hỗ trợ của 12 tướng lĩnh nguy hiểm này.”
Bên cạnh quân đội và cảnh sát, Hun Sen còn có một lực lượng cảnh vệ – một lực lượng quân sự do cá nhân ông điều khiển vốn chỉ có 60 người vào giữa những năm 1990 phát triển lên thành 23.000 lính vào năm 2015, Guardian dẫn lời ông Lee Morgenbesser, một chuyên gia về các chế độ chuyên chế ở đông nam Á, cho biết.
Sự đàn áp của chính phủ Hun Sen diễn ra khi ông lo sợ phe đối lập dành được quá nhiều sự ủng hộ trong dân chúng trong thời gian sắp đến bầu cử và sự đàn áp này diễn ra thuận lợi với thay đổi của bối cảnh quốc tế.
Trung Quốc đang đầu tư hàng tỷ đô la Mỹ vào Campuchia nằm trong dự án ‘Một vành đai, Một con đường’ của họ và Bắc Kinh sẵn sàng hậu thuẫn cho chế độ chuyên chế của Hun Sen. Bắc Kinh đã tuyên bố rằng cuộc bầu cử vào tháng Bảy tới sẽ diễn ra ‘tự do và công bằng’.
Trong khi đó, chính quyền Hoa Kỳ của Tổng thống Donald Trump không còn quan tâm đến những vi phạm nhân quyền ở những quốc gia như Campuchia hay Việt Nam như dưới thời của Tổng thống Barack Obama, ông Lee Morgenbesser nói thêm.
“Nói một cách đơn giản, chính quyền này của Mỹ không quan tâm đến dân chủ và nhân quyền ở đông nam Á và điều đó là tiền đề để cho Hun Sen gia tăng đàn áp,” Morgenbesser nói. “Cuộc chơi giờ đây đã thay đổi. Ông Hun Sen gần như không cần phải giả vờ chính danh trong cuộc bầu cử sắp tới đối với Mỹ – chẳng ai còn quan tâm nữa.”
Tại sao Sri Lanka nhường Trung Cộng 99 năm?
Tại sao Sri Lanka nhường Trung Cộng 99 năm?
Ngô Nhân Dụng
June 27, 2018
John Adams, người kế vị Tổng Thống George Washington, đã nói: Có hai cách để khuất phục một quốc gia, một là dùng gươm, hai là cho vay nợ. Ở Sri Lanka, Trung Cộng đã dùng nợ để chiếm lấy một hải cảng. Ông tổng thống Mỹ này không biết con cháu Tôn Tử, Khổng Minh còn nhiều cách khác, và họ vẫn còn đang đã thi thố ở Việt Nam.
Khi bênh vực dự luật Đặc Khu nhường quyền cho ngoại quốc 99 năm, một quan chức Cộng Sản nêu thí dụ chính phủ Sri Lanka cũng nhường cho Trung Cộng sử dụng hải cảng Hambantota trong 99 năm; để chứng tỏ việc đây là chuyện bình thường!
Nhưng việc Trung Cộng chiếm được cảng Hambantota rất bất thường! Đồng bào Việt ta nên biết câu chuyện này diễn ra thế nào để khỏi bị hai đảng Cộng Sản đánh lừa!
Câu chuyện bắt đầu với cựu Tổng Thống Mahinda Rajapaksa, được bầu lên năm 2005. Năm 2009, cuộc nội chiến với sắc dân Tamil chấm dứt sau 26 năm đẫm máu. Ông Rajapaksa và ba người em trai chia nhau kiểm soát quyền chi tiêu 80% ngân sách chính phủ. Ông muốn mở mang một hải cảng ở Hambantota, chỉ vì đó là đơn vị của ông, mặc dù hải cảng chính ở thủ đô Colombo gần đó không thiếu chỗ và đang trên đà phát triển mạnh.
Dự án được các chuyên viên kinh tế của chính phủ nghiên cứu, kết luận rằng một hải cảng ở Hambantota không mang ích lợi nào, so với phí tổn. Thêm một chứng cớ, là khi Rajapaksa đi vay tiền các ngân hàng Ấn Độ, họ từ chối. Vì họ tính toán thấy rằng hải cảng đó, trong tương lai sẽ không làm ra đủ tiền để trả nợ.
Nhưng Cộng Sản Trung Quốc sẵn sàng cho vay. Tất nhiên, đối với họ lợi ích kinh tế không quan trọng bằng vị trí chiến lược của địa điểm này. Dùng Hambantota, Trung Cộng có thể khống chế đường giao thương trong Ấn Độ Dương. Đây sẽ là một mắt xích quan trọng trong kế hoạch Một Vòng Đai, Một Con Đường của Tập Cận Bình, về mặt kinh tế cũng như quân sự.
Món nợ đầu tiên, $307 triệu trả lãi suất thay đổi từ 1% đến 2%, trong khi chính phủ Nhật Bản thường cho vay các công trình hạ tầng cơ sở với lãi suất dưới một nửa phần trăm. Món nợ đó kèm theo điều kiện, là Sri Lanka phải để cho một công ty quốc doanh Trung Cộng, China Harbor, lo việc xây dựng, với các công nhân người Tàu. Ông Rajapaksa chấp nhận hết, vì muốn làm gấp để xong trước ngày18 Tháng Mười Một, 2010, là sinh nhật 65 tuổi của ông ta. Ông tới làm lễ khánh thành đúng ngày đó, mặc dù không chiếc tàu lớn nào vô được bến, vì đá ngầm chặn ngoài cửa biển.
Sau khi chi $40 triệu phá đá ngầm, hải cảng Hambantota vẫn vắng khách. Năm 2012, trên con đường hàng hải Ấn Độ Dương với hàng chục ngàn thương thuyền qua lại, chỉ có 34 chiếc tàu ghé Hambantota, trong lúc cảng Colombo có 3,667 chuyến tàu tới bốc dỡ hàng. Hambantota không sinh ra tiền để trả nợ. Ông Rajapaksa lại sang Tàu cầu cứu. Lúc đó các Chú Ba mới đặt điều kiện mới. Món nợ cũ từ nay phải trả lãi suất cố định, 6.3%. Ông Rajapaksa đành chấp nhận vì không một ngân hàng quốc tế nào cho vay, họ biết rằng cái cảng này không có bao nhiêu thương thuyền sử dụng!
Nhưng ông Rajapaksa còn có những kế hoạch khác cho Hambantota, kiểu “xây dựng tượng đài” ở Việt Nam: Làm một sân banh “cricket;” những ngôi nhà chọc trời, một xa lộ, và một phi trường quốc tế. Cho nên, năm 2012, ông Rajapaksa đã xin vay thêm $757 triệu nữa. Hiện nay, cái xa lộ xuyên ngang quận Hambantota rất yên tĩnh; nông dân phơi lúa trên mặt đường, lâu lâu lại có mấy con voi từ trong rừng thủng thẳng băng qua. Còn phi trường chỉ có một hãng máy bay của Dubai thuê dùng hằng ngày, chuyến bay chót chấm dứt hợp đồng trong Tháng Sáu.
Sri Lanka còn phải nhượng bộ thêm, cho phép một công ty China Harbor xây dựng một bến tàu mới tại hải cảng chính của quốc gia, Colombo, với 20,000 mẫu tây đất, mà nước chủ nhà không có quyền can dự việc điều hành trong đó. Năm 2014, khi Thủ Tướng Nhật Bản Shinzo Abe đến thăm thủ đô Colombo, Trung Cộng đã cho một chiếc tàu ngầm tới đậu trên bến cảng, diễu võ dương oai!
Năm 2015, ông Rajapaksa thất cử, sau khi các đảng đối lập tố cáo những phí phạm và nhũng lạm của gia đình ông. Mặc dù trong cuộc tranh cử đó, Rajapaksa đã được Trung Cộng nhiệt liệt ủng hộ. Đại sứ Trung Cộng ở Colombo đi đánh golf còn công khai khuyên mấy người bản xứ hầu hạ nên bỏ phiếu cho Rajapaksa, trái với quy tắc ngoại giao!
Các chứng cớ trong sổ sách ngân hàng cho thấy công ty China Harbor đã góp $7.6 triệu vào quỹ tranh cử chính thức của ông tổng thống. Mười ngày trước khi dân bỏ phiếu, thêm $3.7 triệu đưa cho những người chung quanh ông chi dùng, $678,000 để làm $678,000 áo T-shirts tranh cử, $297,000 mua quà tặng cử tri, như váy saris tặng các bà. Họ còn chi $38,000 cho một nhà sư ủng hộ ông Rajapaksa, chưa kể hai ngân phiếu tổng cộng 1.7 triệu cúng vô chùa của ông sư này.
Hành động này không có gì lạ. Trung Cộng theo kế của John Admas, đã từng bị tố cáo dùng tiền bạc lũng đoạn các nước khác. Bangladesh, chẳng hạn, đã cấm công ty China Harbor bén mảng, sau khi họ bị bắt quả tang hối lộ một quan chức Bộ Giao Thông Vận Tải, với $100,000 tiền mặt, đựng trong một hộp trà. Công ty mẹ của nó, năm 2009, đã bị Ngân Hàng Thế Giới cấm dự thầu trong tám năm vì tội hối lộ ở Philippines.
Chính phủ mới lên thay ông Rajapaksa thừa hưởng những món nợ khổng lồ ông để lại. Họ không thể chui đầu sâu hơn vào trong cái thòng lọng vay nợ mà Trung Cộng móc sẵn trên cổ. Sau hàng năm thương thuyết, Tháng Bảy năm ngoái chính phủ mới phải ký giấy “trừ nợ,” chuyển nhượng hải cảng Hambantota Trung Cộng, biến một tỷ đô la tiền nợ thành 85% cổ phần, Sri Lanka có 15%, để có tiếng vẫn giữ được chút chủ quyền. Công ty Trung Cộng sẽ được làm chủ 6,000 mẫu đất trong 99 năm!
Đó là con số 99 năm mà Cộng Sản Việt Nam đang muốn dành cho các công ty ngoại quốc ở ba đặc khu họ tính tạo ra với dự luật mới.
Sau khi xóa được một tỷ đô la, Sri Lanka vẫn chưa hết nợ Trung Cộng, vì tiền lãi đắp vào chồng chất trên nợ cũ. Trong mười năm cầm quyền, ông Rajapaksa đã tăng gấp ba số nợ nần của quốc gia, lên tới gần $45 tỷ. Rajapaksa phải trả cho Trung Cộng lãi suất cao hơn mức lời các ngân hàng quốc tế khác đòi hỏi. Trong năm 2018, chính phủ Sri Lanka phải trả lãi và vốn đáo hạn $12.3 tỷ trong khi chỉ thu được $14.8 tỷ tiền thuế!
Các nhà quan sát quốc tế đều thấy rằng lý do Trung Cộng lãnh lấy hải cảng Hambantota hoàn toàn là “phi kinh tế;” không thể nào thu lại số tiền trừ nợ một tỷ đô la. Lý do duy nhất là Bắc Kinh muốn chiếm lấy một vị trí chiến lược trong kế hoạch “Nhất Đái Nhất Lộ.” Khi hải cảng được chính thức trao cho Trung Cộng, Tháng Mười Hai năm ngoái, họ đã hoan hô trên mạng Twitter #BeltandRoad, nói rằng đây là một dấu hiệu thành công lớn!
Cựu Ngoại Trưởng Ấn Độ Shivshankar Menon đã nhận xét, lý do duy nhất mà Trung Cộng muốn chiếm hải cảng này là vấn đề an ninh quốc gia. Ngay từ khi cho vay $307 nợ đầu tiên, Trung Cộng đã yêu cầu Sri Lanka phải chia sẻ các tin tức tình báo, về tầu thuyền quốc tế qua lại trong Hambantota. Ông Menon tiên đoán có ngày họ sẽ đem quân tới đóng.
Ông Gotabaya Rajapaksa, người em của cựu tổng thống sẽ ra tranh cử năm 2020. Chắc chắn Trung Cộng sẽ hỗ trợ; với hy vọng sẽ tiếp tục mua bằng tiền. Họ không dùng gươm, súng, và chỉ cho vay nợ cũng cướp đoạt chủ quyền một quốc gia khác.
Chỉ có một hàng rào cản đường xâm lấn của Trung Cộng là những lá phiếu của người dân Sri Lanka. Nếu ý thức được mưu đồ bành trướng của đế quốc Đỏ, dân Sri Lanka sẽ bảo vệ được tổ quốc bằng cách chọn những người lãnh đạo đáng tin cậy hơn.
Dân Việt Nam không có quyền lựa chọn lựa người cầm quyền như vậy! Mà ở nước ta, Trung Cộng cũng không dùng gươm súng hay dùng nợ nần để lũng đoạn.
Từ năm 1959, đảng Cộng Sản Việt Nam đã tự đặt mình trong bàn tay Cộng Sản Trung Quốc, khi tôn xưng tư tưởng Mao Trạch Đông và áp dụng các chính sách tàn khốc của Trung Cộng.
Năm 1990, Việt Cộng lại đầu hàng một lần nữa ở hội nghị Thành Đô. Trung Cộng có những mánh khóe xâm lăng mà Tổng Thống John Adams thế kỷ 18, 19 không tưởng tượng ra được.
(Ngô Nhân Dụng)
Công an Trung Quốc bắt giữ 9 nữ tu, cước bóc tài sản của Giáo Hội
Công an Trung Quốc bắt giữ 9 nữ tu, cước bóc tài sản của Giáo Hội

Bitter Winter, một tạp chí về tự do tôn giáo và nhân quyền tại Hoa Lục, trong số ra ngày 13 tháng Sáu đã cho biết như sau:
Công an của cộng sản Trung Quốc đã đột kích một nhà thờ Công Giáo ở thị trấn Helong, huyện Nong’an, thành phố Trường Xuân, tỉnh Cát Lâm và bắt giữ chín nữ tu. Nhà thờ này là một phần của Giáo Hội Công Giáo “hầm trú” trung thành với Vatican. Từ lâu nay, sau pháp lệnh về tôn giáo có hiệu lực từ tháng Hai vừa qua, nhà thờ bị giám sát chặt chẽ, và không một thánh lễ nào có thể được tổ chức ở đây.
Lúc 10 giờ sáng, các nữ tu lên tầng hai của nhà thờ để đọc thánh thư. Đột nhiên, xuất hiện tám tên công an của thị trấn Helong. Chúng bắt giữ tất cả chín nữ tu và đưa họ đến đồn cảnh sát. Các sách kinh trong nhà thờ cũng bị tịch thu.
Tại đồn công an chúng lấy dấu vân tay của họ và quay phim, chụp hình các nữ tu. Khi các tín hữu địa phương được biết về vụ bắt bớ này, họ tập trung đông người trước đồn công an, đấu tranh để giải cứu các sơ. Lúc 8 giờ đêm đó, các nữ tu được thả ra với những lời dọa nạt.
Theo sơ Lan He, sau khi bắt giữ các nữ tu, bọn công an đập phá nhà tạm, quăng Mình Thánh Chúa xuống đất và cướp bóc những tài sản đáng giá trong nhà thờ.
các bảng đã được sử dụng trong các buổi lễ và Thánh Thể của Giáo Hội bị buộc phải loại bỏ. Các viên chức cảnh sát đến nhà thờ vài lần để đảm bảo rằng nhà thờ không tổ chức thêm bất kỳ dịch vụ nào. Một nữ tu khác, chị Mia cho biết công an hỏi chị về cha Shi Zhongyi, 97 tuổi, người đã xây ngôi nhà thờ này và đã bị bắt ba lần và phải chịu 30 năm tù vì niềm tin của mình.
Hai trong số 9 nữ tu bị bắt đã bị buộc phải rời khỏi tỉnh Cát Lâm để trở về quê hương của mình. Công an Trung Quốc vẫn tiếp tục theo dõi chặt chẽ ngôi nhà thờ..
Việt Nam: Biểu tình bùng nổ tại nhiều tỉnh thành
Việt Nam: Biểu tình bùng nổ tại nhiều tỉnh thành
BBC
Tóm tắt
- Tại nhiều nơi trên khắp Việt Nam, hàng ngàn người xuống đường phản đối dự luật An ninh mạng và dự luật Đặc khu Kinh tế
- Từ khoảng 8 giờ 30 sáng, vài ngàn người tập trung tại khu vực Hồ Hoàn Kiếm ở thủ đô Hà Nội. Khoảng 40 người bị bắt
- Tại Sài Gòn, biểu tình bùng nổ tại khu vực Nhà thờ Đức Bà, công viên Hoàng Văn Thụ, bên ngoài Đại Sứ Quán Mỹ
- Biểu tình cũng diễn ra tại Bình Thuận, Nha Trang, Đà Nẵng, các giáo xứ ở Nghệ An và một số địa phương khác
- Trên thế giới, cũng xảy ra biểu tình của người Việt ở Mỹ, Nhật, Pháp, Thụy Sỹ, Đài Loan và Hàn Quốc.
TRUNG CỘNG ĐÃ LÀM GÌ Ở CÁC ĐẶC KHU CHÂU PHI?

THẮC MẮC NHỎ
TÌM HIỂU 039: TRUNG CỘNG ĐÃ LÀM GÌ Ở CÁC ĐẶC KHU CHÂU PHI?
Tính đến cuối năm 2016, Trung cộng đã đầu tư xây dựng 77 đặc khu kinh tế (SEZ) tại 36 quốc gia trên thế giới với tổng đầu tư ước tính hơn 24,2 tỉ USD và đạt giá trị sản xuất hơn 70,3 tỉ USD. Kinh nghiệm từ các đặc khu do Trung cộng đầu tư tại các nước đang phát triển như châu Phi, Sri Lanka sẽ là những bài học quý giá đối với Việt Nam khi nghiên cứu mô hình này.
I- TRUNG CỘNG HÓA ĐẶC KHU KINH TẾ Ở CHÂU PHI
Kể từ năm 2006, Trung cộng bắt đầu xuất khẩu mô hình đặc khu của mình sang các nước châu Phi khi chính phủ nước này đưa ra mục tiêu xây dựng khoảng 50 đặc khu hợp tác kinh tế và thương mại ở nước ngoài. Những đặc khu này là một phần giúp nước này thực hiện “quyền lực mềm” của mình, tức chúng không chỉ là kinh tế và thương mại mà còn có những mục tiêu chính trị.
Từ đó có 7 đặc khu được mở tại các quốc gia châu Phi là Algeria, Ai Cập, Ethiopia, Mauritius, Nigeria (2 đặc khu) và Zambia.
Năm 2010, có 6 đặc khu được xây dựng trong khi đặc khu ở Algeria bị hủy bỏ do những thay đổi trong chính sách đầu tư nước ngoài của quốc gia này.
Điều đáng lưu ý là các đặc khu ở Ethiopia và Mauritius do 100% người Tàu làm chủ sở hữu. Các đặc khu ở các nước còn lại thì mang hình thức hợp tác với các đối tác của nước sở tại nhưng đối tác của nước sở tại chỉ chiếm tỉ lệ sở hữu ít ỏi. Chẳng hạn, đặc khu Ogon của Nigeria thì đối tác trong nước chỉ sở hữu có 18%, đặc khu Suez của Ai Cập thì người Ai Cập chỉ sở hữu có 20%.
Như vậy, gần như tất cả đặc khu kinh tế ở Châu phi đều do người Tàu nắm giữ, các đối tác trong nước nếu có tham gia thì chỉ với một tỉ lệ nhỏ mà thôi.
Theo báo cáo của McKinsey năm 2015, Trung cộng thống trị các hạng mục thương mại từ FDI, từ giá trị hàng hóa, viện trợ đến phát triển cơ sở hạ tầng. Ngoài yếu tố thị trường, FDI sẵn có của Trung cộng và thặng dư lao động, đây cũng là những quốc gia có sức ảnh hưởng chính trị nhất định, hứa hẹn sẽ không chỉ đa dạng hóa hoạt động cho các công ty Trung cộng mà còn thúc đẩy các mục tiêu của Trung cộng tại châu lục.
Theo thống kê của chính phủ Trung cộng, cuối năm 2011, các đặc khu trên tạo ra 4,52 tỉ USD giá trị sản xuất và đóng góp 143 triệu USD tiền thuế.
II- TÌNH TRẠNG TRÌ TRỆ TẠI CÁC ĐẶC KHU Ở CHÂU PHI
Tuy nhiên, các đặc khu trên vẫn chưa phát triển đúng với tiềm năng và kỳ vọng của các nước sở tại. Sau 12 năm trục trặc đủ đường, đặc khu Jinfei của Mauritius hiện chỉ hoàn thiện hạ tầng cơ bản với 4 công ty hoạt động. Ước tính có 107 người dân đã lâm vào cảnh khốn đốn khi phải nhường đất cho dự án. Đặc khu tại Zambia thì chỉ thu hút được một nửa doanh nghiệp theo kế hoạch, trong khi quan ngại về ô nhiễm môi trường hay mưa acid xuất hiện ngày càng nhiều.
Các đặc khu của Ai Cập và Nigeria tuy thu hút được nhiều sự chú ý và vốn đầu tư nhưng đến năm 2014 cũng chỉ đạt gần 10% – 30% kế hoạch. Đặc khu của Ethiopia thậm chí còn phải thu nhỏ 60% diện tích do chủ đầu tư Trung cộng gặp khó khăn về tài chính, trong khi dự án tại Algeria vẫn còn đang nằm trên giấy.
Theo UNDP, chính sự nhập nhằng của các bên tham gia phát triển mà đa phần đến từ các công ty Trung cộng, vấn đề vốn cho cơ sở hạ tầng và các trở ngại trong việc kết nối với nền kinh tế địa phương đã gây ra tình trạng trên. Bên cạnh đó, các khoản vay ưu đãi từ phía Trung cộng sẽ dễ dàng tăng thêm gánh nặng nợ cho các nước chủ nhà, nhất là trong các trường hợp SEZ dạng liên doanh, dẫn đến khả năng vỡ nợ.
III- SRI LANKA “GÁN” HẢI CẢNG ĐỂ TRẢ NỢ
Vỡ nợ là trường hợp điển hình của Sri Lanka, một quốc gia châu Á.
Nội chiến kết thúc năm 2009 kéo theo nhu cầu kiến thiết đất nước khẩn cấp của Sri Lanka và Bắc Kinh là nhà cung cấp viện trợ hào phóng nhất, lên đến 15 tỉ USD trong giai đoạn 2005-2017. Tính đến cuối năm 2015, Sri Lanka nợ nước ngoài lên đến 94% GDP, trong đó có 8 tỉ USD của Trung cộng.
Tháng 9-2014, dự án thành phố cảng Colombo của Sri Lanka và Trung cộng được khởi công với sự có mặt của lãnh đạo 2 nước là ông Mahinda Rajapaksa và Chủ tịch Tập Cận Bình. Trong vòng 2 năm sau đó, tiến độ xây dựng liên tục bị trì hoãn do xích mích giữa nhà thầu và chính quyền địa phương khiến Hải cảng này vẫn không thu hút được tàu thuyền Quốc tế.
Khu vực cảng Hambantota với vốn đầu tư 1,5 tỉ USD cũng chịu tình trạng thất bại tương tự và đến cuối năm 2017 thì chính phủ Sri Lanka đã bán 80% hải cảng này cho Trung cộng với giá 1,1 tỉ USD để giải quyết áp lực nợ.
Sự hoạt động kém hiệu quả so với vốn đầu tư của hai dự án đã đóng góp không nhỏ vào số nợ nước ngoài của Sri Lanka.
IV- TRƯỜNG HỢP “ĐIỂN CỨU” THÂM QUYẾN CỦA CHÍNH TRUNG CẨU
Là biểu tượng cho mô hình đặc khu không chỉ của Tàu mà là cả thế giới, Thâm Quyến có nhiều đặc điểm cá biệt để có thể thành công vang dội.
1- Đầu tiên là mô hình kinh tế:
Dưới chủ trương đặc khu, nền kinh tế thị trường mang bản sắc chủ nghĩa xã hội Trung cộng đã được cổ vũ phát triển mạnh mẽ tại đây trong giai đoạn Trung cộng còn theo đuổi cơ chế bao cấp và những hệ quả nặng nề của cuộc Cách mạng văn hóa. Đây là điều kiện tối quan trọng đối với đầu tư cả trong và ngoài nước và càng cấp bách trong bối cảnh Mỹ và Trung cộng vừa hoàn tất bình thường hóa quan hệ.
Những cơ hội mới ngày càng nhiều ở đặc khu và nhất là sự cạnh tranh công bằng, minh bạch và không tiêu cực với cả những công ty quốc doanh đã tạo ra sức hấp dẫn đặc biệt. Nhưng gần 40 năm sau, với xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế, những hiệp định thương mại tự do đa phương, những chính sách ưu đãi của đặc khu không còn đủ tiến bộ so với mặt bằng chung của quốc gia này để có thể tạo được động lực thần kỳ như trước.
2- Thứ hai là vị trí chiến lược của Thâm Quyến:
Các ưu đãi về tài chính, nhân công, thuế, cam kết môi trường ổn định và thậm chí là cạnh tranh giữa các chính sách ưu đãi như thời hạn thuê đất có thể lên 99 năm ở các nước Đông Nam Á, 76-80 năm ở châu Phi là chưa đủ. Thâm Quyến có vị trí đắc địa, kết nối đặc biệt với Hong Kong – một trung tâm tài chính thế giới mà bấy giờ vẫn là tô giới của Anh. Các nhà đầu tư Hong Kong cũng chính là những người rót nhiều vốn nhất cho giai đoạn phát triển ban đầu của Thâm Quyến. Chính phủ Trung cộng cũng chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng để tăng cường khả năng nối đặc khu này với thị trường rộng lớn toàn quốc, một điều đã được rất nhiều quốc gia áp dụng.
3- Thứ ba, định hướng phát triển của thành phố luôn được chú trọng và cải tiến:
Từ những ngày đầu chỉ xây dựng nhà máy, gia công, sản xuất hàng tiêu dùng giá trị thấp, nay Thâm Quyến đã là trung tâm công nghệ và đổi mới sáng tạo của Trung cộng (chỉ đứng sau Thượng Hải và Bắc Kinh). Những nhà máy sản xuất mô hình ngày xưa đang dần đóng cửa để nhường chỗ cho các mô hình dịch vụ và tiêu dùng.
4- Nhưng đặc khu Thâm Quyến không chỉ màu hồng:
– Theo điều tra năm 2006, có đến 7 triệu trong 12 triệu dân ở Thâm Quyến là những người lao động nhập cư mà đa số là không được bảo vệ về mặt luật pháp và xã hội.
– Tỉ lệ chết nơi người lao động công nghiệp ở đây cũng cao và có hơn 500.000 lao động trẻ em.
– Theo điều tra năm 2003, có ít nhất phân nửa số công ty ở Thâm Quyến đang nợ lương người lao động và có ít nhất 1/3 công nhân Trung cộng được trả lương thấp hơn mức tối thiểu.
– Tỉ lệ lao động bỏ việc là trên 10%.
– Vào năm 2006, giới công nhân Thâm Quyến tiến hành hơn 10.000 cuộc đình công dù không có công đoàn độc lập nào.
– Tình trạng người lao động bị lạm dụng gắn liền với tình trạng tội phạm. Hiện nay, tỉ lệ tội phạm ở Thâm Quyến cao gấp 9 lần Thượng Hải và đây cũng là nơi nổi tiếng về việc buôn bán phụ nữ và mại dâm.
Theo HOÀNG PHÚ – MINH TIẾN
Hình ảnh người dân Tây Tạng sau khi bị người Trung Quốc chiếm





Hình ảnh người dân Tây Tạng sau khi bị người Trung Quốc chiếm lấy đất nước và người dân, các nhà sư và ngôi chùa phật giáo lớn nhất thế giới của người Tây Tạng bị lũ khốn nạn Trung Cẩu phá hủy, và họ bị lưu lạc ngay trên chính mảnh đất của mình ,ngày hôm nay Đức Đạt Lai Lạt Ma phải sống lưu vong và còn phải đi khắp nơi để kêu gọi cho Tây Tạng được độc lập… Những hình ảnh của Tây Tạng, Tân Cương… Là điềm báo trước cho dân tộc Việt Nam trước họa mất nước hôm nay….
Trước đây khi Tây Tạng, Tân Cương và Nội Mông,còn độc lập, thì dân số có khoảng trên 100 triệu người,nhưng sau khi bị Trung Cộng thôn tính, thì dân số của 3 nước này chỉ còn lại 1/3 dân số lúc đầu còn độc lập …
Trả $3.3 triệu để được ăn trưa với tỷ phủ Warren Buffett
SAN FRANCISCO, California (NV) – Một người ẩn danh đồng ý trả $3,300,100 trong một cuộc đấu giá để được ăn một bữa trưa riêng tư với tỷ phú Warren Buffett, chủ tịch công ty Berkshire Hathaway Inc.
Theo Reuters, cuộc đấu giá kéo dài trong năm ngày trên eBay để gây quỹ giúp Glide Foundation, một tổ chức thiện nguyện ở San Francisco, chuyên giúp người nghèo, người vô gia cư, hoặc ngăn chặn tình trạng nghiện ngập.
Hai lần trước, năm 2012 và năm 2016, giá bữa ăn trưa với ông Buffett đều là $3,456,789, một con số kỷ lục.
Đấu giá năm nay có sáu người tham gia, qua tổng cộng 136 vòng, và chấm dứt vào tối Thứ Sáu tuần trước.
Số tiền thu được năm nay sẽ giúp phần nào ngân sách $20 triệu hàng năm của Glide Foundation.
Ông Buffett, 87 tuổi, giúp gây quỹ cho tổ chức này được gần $30 triệu trong 19 năm qua.
Bà Susan, vợ của ông, qua đời năm 2004, giới thiệu ông với Glide Foundation, sau khi bà tình nguyện giúp tổ chức này.
Bà Karen Hanrahan, chủ tịch Glide Foundation, nói qua điện thoại rằng: “Số tiền $3.3 triệu là một món quà đặc biệt, không phải vì số tiền, mà vì ông Buffett dùng tên tuổi và uy tín của ông để giúp những gì Glide thực hiện. Nhu cầu phục vụ của chúng tôi ngày càng cao, trong thành phố đầy sáng kiến và giàu có này.”
Người thắng đấu giá có quyền mời thêm bảy người bạn nữa đến ăn trưa với tỷ phú Buffett tại nhà hàng Smith & Wollensky ở Manhattan, New York.
Trong bữa ăn, ông Buffett sẽ thảo luận bất cứ chuyện gì, ngoại trừ chuyện ông sẽ đầu tư ở đâu sắp tới.
Công ty Berkshire sở hữu hơn 90 doanh nghiệp trong các lãnh vực bảo hiểm, năng lượng, thực phẩm và bán lẻ, kỹ nghệ, hỏa xa, địa ốc, và các lãnh vực khác.
Ngoài ra, công ty cũng đầu tư vào các công ty khác như Apple, Wells Fargo, và Coca-Cola. (Đ.D.)
Tin nóng: Vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh đã lan rộng đến Ba Lan
Hiếu Bá Linh, tổng hợp
Sau CH Séc và Slovakia, Ba Lan là nước EU thứ ba có dính líu đến vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh. Ba Lan đã cấp giấy phép cho chuyên cơ Slovakia chở Trịnh Xuân Thanh được bay ngang lãnh thổ Ba Lan. Để xin giấy phép này, Slovakia thông báo cho Bộ Ngoại giao Ba Lan, rằng chuyến bay này chở một phái đoàn Slovakia đến Moscow do ông Robert Kalinak, Bộ trưởng Bộ Nội vụ và là Phó Thủ tướng Slovakia hồi đó, dẫn đầu.

Trong những ngày đầu tháng 6 vừa qua, báo chí Ba Lan đã rầm rộ đưa tin về một phát giác mới gây chấn động dư luận quốc tế: Chính phủ Ba Lan có dính líu đến nghi án Trịnh Xuân Thanh bị đưa lậu ra khỏi EU bằng chuyên cơ của Slovakia.
Tờ báo mạng Onet.pl của Ba Lan đã sưu tra ra vụ việc trên và cũng là tờ báo đầu tiên đăng tải tin tức này vào ngày 31.05.2018. Sau đó các trang báo mạng và tờ báo khác đã đồng loạt đưa tin.
Bài báo gây chấn động của tờ Onet mở đầu như sau: “Câu chuyện này giống như một bộ phim giật gân. Có một vụ bắt cóc ngoạn mục, nạn nhân bị đưa lậu qua biên giới của một số quốc gia. Có những dối trá tinh tế và mưu mô. Vấn đề là các cơ quan chức năng của một số nước đã tham gia vào việc vi phạm luật lệ. Có lẽ Ba Lan cũng vậy“.
Phái đoàn Việt Nam từ 4 người đột nhiên tăng lên 12 người
Trước đây 1 tháng, tờ nhật báo Đức TAZ đã đưa tin (xem toàn văn bản dịch ở đây):
Ba ngày sau khi vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh xảy ra, lúc 11:26 giờ sáng ngày 26.07.2017 bốn người Việt Nam đã hạ cánh xuống sân bay Praha thủ đô CH Séc, với chuyến bay của hãng hàng không Czech Airlines đến từ Paris:
– Thượng tướng Tô Lâm, Bộ trưởng Bộ Công an,
– Trung tướng Đường Minh Hưng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh,
– Một quan chức cấp cao của Bộ Công an,
– Và một người hộ tống.
Họ muốn đến Bratislava thủ đô Slovakia để làm việc với Bộ Nội vụ Slovakia, ít nhất đó là nguyên cớ chính thức.
Đúng ra, bốn người này định đến Vienna thủ đô Áo vào buổi sáng và từ đó tới Bratislava. Phía Slovakia đã lo chuẩn bị xe limousine đón họ. Theo trình bày của phía Slovakia: Nhưng một ngày trước cuộc họp, phía Việt Nam đột ngột thay đổi lịch trình, họ nói rằng họ muốn được đón tại Praha và sau đó bay tới Moscow vì có một cuộc hẹn tiếp theo của Bộ trưởng Tô Lâm tại đó.
Vì vậy họ đã được Bộ Nội vụ Slovakia cung cấp một chiếc chuyên cơ Airbus A319 thuộc phi đội thường trực của chính phủ Slovakia.
Ngay sau 12:30 giờ trưa ngày thứ Tư 26.07.2017, bốn người đàn ông nói trên từ Praha đã bay đến Bratislava trên một chiếc chuyên cơ Airbus A 319 của chính phủ Slovakia. Đúng 13:15 giờ chiếc chuyên cơ hạ cánh trên sân bay Bratislava và ở đó 1 tiếng rưỡi đồng hồ.
Lúc 14:52 giờ từ sân bay Bratislava chiếc chuyên cơ lại cất cánh bay đến Moscow thủ đô Nga, chuyến bay này chở một phái đoàn Việt Nam, không phải chỉ có 4 người nêu trên mà từ 4 người đã đột nhiên tăng lên 12 người. Người ta nghi ngờ rằng Trịnh Xuân Thanh đã được đưa “chui” lên chuyên cơ này để ra khỏi EU.

Thời hạn nộp hồ sơ xin cấp giấy phép cho bay ngang lãnh thổ Ba Lan
Về chuyến bay từ Bratislava đến Moscow, các nhà báo Ba Lan của tờ Onet.pl đã bỏ công sưu tra và phát hiện ra Chính phủ Ba Lan có dính líu đến chuyến bay này, sau đây là bản dịch phần quan trọng nhất của bài báo của tờ Onet.pl:
Tuy nhiên, để bay đến Moscow, chuyên cơ của Slovakia phải được phép bay qua lãnh thổ Ba Lan. Để Ba Lan có thể chuẩn thuận, Slovakia phải gửi các hồ sơ giấy tờ cần thiết cho Bộ Ngoại giao Ba Lan trong thời hạn “không muộn hơn 10 ngày trước khi bắt đầu chuyến bay“, mà được quy định theo Điều 148 của Đạo luật Hàng không.
Trên thực tế, về việc nộp đơn xin, Slovakia chỉ có thể thực hiện sớm nhất một vài ngày trước ngày trước chuyến bay. Tờ Onet đã hỏi Bộ Ngoại giao Ba Lan rằng Slovakia đã tuân thủ đúng thời hạn nộp hồ sơ hay không? Bộ Ngoại giao Ba Lan đã không trả lời. Chúng tôi lại hỏi một lần nữa để làm sáng tỏ vấn đề, nhưng cho đến nay chúng tôi đã không nhận được câu trả lời. Do đó chúng tôi không rõ, liệu rằng Bộ Ngoại giao Ba Lan đã vi phạm luật lệ hay không, khi đệ đơn xin Chủ tịch Cơ quan Hàng không Dân dụng cấp giấy phép bay qua lãnh thổ Ba Lan.
Slovakia để tên ông Robert Kalinak, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Slovakia, vào chuyến bay đến Moscow
Bộ Ngoại giao Ba Lan đã trả lời câu hỏi khác của chúng tôi về hành khách được vận chuyển trên chuyên cơ của Slovakia. Theo những gì phía Slovakia đã trình bày cho Bộ Ngoại giao Ba Lan, thì chuyến chuyên cơ này đã vận chuyển một phái đoàn đến Moscow do ông Robert Kalinak, Bộ trưởng Bộ Nội vụ và là Phó Thủ tướng Slovakia hồi đó, dẫn đầu.
Đây là một thông tin rất đáng ngạc nhiên bởi vì trước đây đã có nhiều nguồn tin cho thấy ông Kalinak ở lại Bratislava (thủ đô Slovakia) ngày hôm đó và không có một hành khách nào trên máy bay là người Slovakia (tức là không thể có một Phái đoàn Slovakia trên chuyên cơ). Trong những ngày gần đây danh sách hành khách trên chuyến chuyên cơ này đã bị rò rỉ đến tay các nhà báo Slovakia của tờ Aktuality.sk. Đây là danh sách chính thức, dĩ nhiên nó không có tên của Trịnh Xuân Thanh bị bắt cóc, nhưng tất cả là tên người Việt Nam.
Khi nhà báo Jan Petrovic hỏi về sự khởi hành của phái đoàn Việt Nam, ông Kalinak trả lời, “Tôi không có mặt ở sân bay, tôi không thấy họ đi, tôi đã tiển đưa họ bên ngoài khách sạn Bôrik và đó là tất cả“. Một vài giờ trước khi công bố bài báo này, Bộ Nội vụ Slovakia thừa nhận rằng ông cựu Bộ trưởng Bộ Nội vụ Robert Kalinak không ở trên máy bay.
Như vậy, rõ ràng Bộ Ngoại giao Ba Lan không hề biết những hành khách nào thực sự đã bay trên lãnh thổ của Ba Lan. Chính phủ Slovakia đã gửi hồ sơ giấy tờ giả cho phía Ba Lan.

Tờ Onet hỏi Bộ Ngoại giao Nga, có phải và vì mục đích gì mà ông Robert Kalinak đã dẫn đầu một phái đoàn Slovakia bay tới Moscow vào ngày 26 tháng 7 năm 2017 ? Nhưng chúng tôi không nhận được câu trả lời.
Tại sao Slovakia lại để tên ông Kalinak vào chuyến bay này của chuyên cơ và thậm chí còn cho biết rằng ông Kalinak là người dẫn đầu phái đoàn Slovakia đến Moscow? Theo thông tin của tờ Aktuality.sk, một tờ báo mạng tại Slovakia, thì “tên của ông Robert Kalinak có trong trong danh sách hành khách của chuyến chuyên cơ chỉ nhằm mục đích để dể dàng được cấp giấy phép bay qua lãnh thổ Ba Lan“. Bộ Ngoại giao Ba Lan đã không trả lời câu hỏi, có phải phía Slovakia đã gửi một danh sách hành khách đến Bộ Ngoại giao Ba Lan hay không?
Những tuyên bố mâu thuẫn, trái với sự thật của Slovakiavà Việt Nam
Bài báo của tờ Onet.pl đã kết thúc bằng việc nêu ra những dối trá tinh tế và mưu mô của Slovakia: Vào tháng 5 năm 2018, bà Denisa Sakova, tân Bộ trưởng Nội vụ của Slovakia, giải thích rằng vào tháng giêng năm nay nhà chức trách Slovakia mới nghe biết được về vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh.
Bà Sakova quên mất sự thật. Theo tờ nhật báo Đức TAZ (Die Tageszeitung), ngày 28 tháng 9 năm 2017, Công tố viên Liên bang Đức đã gửi văn bản nhờ Slovakia hỗ trợ trong việc điều tra vụ bắt cóc này. Đến ngày 04 tháng 10 năm 2017 đơn hỗ trợ pháp lý đã được bổ sung bằng một lệnh bắt giam Trung tướng Đường Minh Hưng, người mà đã có mặt trong cuộc họp với chính phủ Slovakia tại khách sạn Bôrik ở Bratislava – thủ đô Slovakia hồi 26.07.2017. Tướng Hưng bị Đức cáo buộc là người chỉ huy vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh.
Ông Peter Pellegrini, Tân thủ tướng Slovakia, phủ nhận việc Slovakia có thể tham gia vào đưa lậu Trịnh Xuân Thanh ra khỏi EU. Ông Minh Trọng Dương, Đại sứ Việt Nam tại Bratislava, tuyên bố rằng ông Thanh chưa bao giờ có mặt trên lãnh thổ Slovakia.
Dưới áp lực của dư luận quốc tế, Bộ Nội vụ Bộ Slovakia đưa ra một tuyên bố: “Nếu những thông tin của nhà chức trách Đức được xác nhận là đúng, thì tình mến khách của chúng tôi đã bị lợi dụng và đó là một sự vi phạm nghiêm trọng của phía Việt Nam, nó sẽ làm tổn hại đến mối quan hệ song phương đang tốt đẹp giữa hai nước“.

Sập ‘bẫy nợ’: Sri Lanka buộc phải cho Trung Quốc thuê cảng trong 99 năm
Sập ‘bẫy nợ’: Sri Lanka buộc phải cho Trung Quốc thuê cảng trong 99 năm
- Thứ Sáu, 01/06/2018
Bắc Kinh đã ký được hợp đồng thuê cảng biển Hambantota của Sri Lanka trong 99 năm. Đây là một điều kiện trong thỏa thuận giảm nợ cho Sri Lanka, khi mà người ta đang nhắc đến Trung Quốc với một khái niệm mới: Chủ nghĩa đế quốc chủ nợ, sau khi Trung Quốc mua dần các cảng biển chiến lược ở Piraeus (Hy Lạp), Darwin (Úc) và Djibouti (châu Phi).
Đối với Bắc Kinh, dự án cảng Hambantota là một bước đệm của sáng kiến ”Vành đai và Con đường”.
Chiến lược ngoại giao bằng “bẫy nợ”
Tháng 12/2017, Sri Lanka không có khả năng chi trả các khoản nợ tích tụ mà họ đã vay từ Trung Quốc, quốc gia này đã buộc phải chính thức bàn giao cảng Hambantota chiến lược của họ cho Trung Quốc tiếp quản.
Đây là bằng chứng về chiến lược ngoại giao bằng “bẫy nợ” cực kỳ lợi hại của Trung Quốc – một nước cờ quan trọng của sáng kiến “Vành đai và Con đường” của Trung Quốc, mà Tập Cận Bình gọi đó là “dự án của thế kỷ” .
Không giống như các khoản cho vay của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB), các khoản cho vay của Trung Quốc được đảm bảo bởi các tài sản tự nhiên có tầm quan trọng chiến lược với giá trị dài hạn cao (ngay cả khi các tài nguyên ấy thiếu giá trị kinh tế hiện thời).
Ví dụ, cảng Hambantota chiến lược của Sri Lanka nằm giữa các tuyến thương mại liên kết Ấn Độ Dương với Châu Âu, Châu Phi, và kết nối Trung Đông đến châu Á. Để đổi lấy tài chính và cơ sở hạ tầng mà các quốc gia nghèo hơn cần, Trung Quốc đòi hỏi sự tiếp cận thuận lợi tới tài nguyên thiên nhiên của những nước này, từ tài nguyên khoáng sản cho đến các cảng biển chiến lược.

Hơn nữa, trường hợp của Sri Lanka đã minh hoạ rõ rệt về khả năng sử dụng “bẫy nợ” để trói buộc các quốc gia “đối tác” của Bắc Kinh. Thay vì tài trợ hoặc cho vay ưu đãi, Trung Quốc cung cấp các khoản vay lớn liên quan đến dự án theo lãi suất thị trường, với các điều khoản thiếu minh bạch, và thường rất ít hoặc không có đánh giá tác động của dự án đến môi trường và xã hội. Như Ngoại trưởng Mỹ Rex Tillerson cho biết gần đây, với sáng kiến Vành đai và Con đường, Trung Quốc đang nhằm hướng đến xác lập “các quy tắc và chuẩn mực riêng của mình.”
Để tăng cường vị thế hơn nữa, Trung Quốc khuyến khích các công ty trong nước đấu thầu mua toàn bộ các cảng biển chiến lược ở bất cứ nơi đâu có thể. Cảng Piraeus là một ví dụ, nằm ở biển Địa Trung Hải, cảng Piraeus của Hy Lạp là cửa ngõ quan trọng của hàng hóa vào châu Âu, năm 2016, nó đã được một công ty Trung Quốc mua lại với giá 436 triệu USD, trở thành một mắt xích “đầu rồng” cho tham vọng vươn vòi đến châu Âu của Bắc Kinh.
Bằng cách sử dụng “mồi câu” tài chính theo cách này, Trung Quốc đã bắn một mũi tên trúng hai đích. Thứ nhất, nó giúp giải quyết tình trạng dư thừa sản xuất trong nước bằng cách đẩy mạnh xuất khẩu ra nước ngoài. Thứ hai, nó gia tăng lợi ích chiến lược quốc gia, bao gồm mở rộng ảnh hưởng ngoại giao, tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên, thúc đẩy việc sử dụng đồng Nhân dân tệ và đạt được lợi thế tương đối so với các cường quốc khác.
Trung Quốc – một đế quốc chủ nợ kiểu mới
Cách tiếp cận “diều hâu” của Trung Quốc – và sự hả hê khi tiếp quản cảng Hambantota – thật là mỉa mai khi nhìn lại lịch sử. Trong các mối quan hệ với các quốc gia nhỏ hơn như Sri Lanka, Trung Quốc đang diễn lại âm mưu đã từng chống lại chính nước này trong giai đoạn thuộc địa của châu Âu, bắt đầu từ cuộc chiến thuốc phiện vào năm 1839-1860 và kết thúc vào năm 1949, một thời Trung Quốc cay đắng khi nhắc đến “thế kỷ của sự nhục nhã.”
Trung Quốc từng miêu tả việc khôi phục lại chủ quyền đối với Hồng Kông vào năm 1997 – sau hơn một thế kỷ dưới thuộc địa của Anh – là làm chính lại một bất công lịch sử. Tuy nhiên, như sự tiếp quản cảng Hambantota cho thấy, Trung Quốc hiện đang thực hiện chủ nghĩa thực dân mới theo kiểu mà họ đã bị mất Hồng Kông trước đây. Rõ ràng lời hứa của ông Tập Cận Bình về “trẻ hóa đất nước Trung Quốc” là không thể tách rời khỏi sự xâm lấn chủ quyền của các quốc gia nhỏ hơn.
>> Khảo sát Pew: Người dân ở châu Á – Thái Bình Dương xem Trung Quốc là một mối đe dọa
Cũng như các cường quốc của đế quốc châu Âu đã sử dụng ngoại giao tàu chiến để mở rộng thị trường mới và các tiền đồn thuộc địa, Trung Quốc sử dụng nợ chính phủ để “uốn cong” các quốc gia khác theo ý muốn của họ, mà không cần súng ống.
Giống như thuốc phiện người Anh từng xuất khẩu sang Trung Quốc, các khoản cho vay dễ dãi của Trung Quốc cũng là chất gây nghiện. Và bởi vì Trung Quốc chọn các dự án theo chiến lược giá trị dài hạn của họ, do đó, các dự án này có thể mang lại lợi nhuận ngắn hạn không đủ để các nước trả nợ. Điều này cho phép Trung Quốc tăng thêm đòn bẫy nợ, điều có thể sử dụng để buộc nước đi vay phải hoán đổi nợ thành vốn chủ sở hữu, qua đó mở rộng dấu vết toàn cầu của Trung Quốc bằng cách nắm thóp một số lượng ngày càng tăng các quốc gia mang nặng nợ.
Thậm chí các điều khoản của hợp đồng thuê cảng Hambantota trong 99 năm cũng lặp lại những điều mà các đế quốc phương Tây đã từng sử dụng để bắt buộc Trung Quốc cho thuê đất. Vào năm 1898, Anh đã thuê khu Tân Giới (New Territories) của Trung Quốc trong 99 năm, khiến cho vùng địa giới Hồng Kông được nới rộng thêm 90%.
Hiện tại, Trung Quốc cũng đang áp dụng khái niệm thuê 99 năm của đế quốc Anh năm xưa. Thỏa thuận cho Trung Quốc thuê cảng Hambantota đã được thông qua vào mùa hè năm nay, trong đó Trung Quốc cam kết sẽ giảm 1,1 tỷ USD nợ cho chính phủ Sri Lanka.
Vắt kiệt tài nguyên của các quốc gia bị sập “bẫy nợ”
Trước đó vào năm 2015, một công ty Trung Quốc đã ký được hợp đồng thuê 99 năm đối với cảng nước sâu Darwin của Úc – nơi đóng quân của hơn 1.000 thủy quân lục chiến Hoa Kỳ – với giá trị 388 triệu USD (506 đô la Úc).
Tương tự, sau khi cho quốc gia châu Phi Djibouti vay hàng tỷ đô đến mức ngập nợ, Trung Quốc đã thiết lập căn cứ quân sự ở nước ngoài đầu tiên của nước này trong năm 2017. Căn cứ này tuy nhỏ nhưng mang tính chiến lược quan trọng, chỉ cách căn cứ hải quân Mỹ vài km – cơ sở quân sự thường trực duy nhất của Mỹ ở Châu Phi. Bị mắc kẹt trong khủng hoảng nợ, Djibouti không có lựa chọn nào khác ngoài việc cho Trung Quốc thuê đất với mức giá 20 triệu USD/năm. Trung Quốc cũng đã sử dụng “bẫy nợ” đối với Turkmenistan (một quốc gia tại Trung Á) để khai thác khí tự nhiên của nước này thông qua một đường ống dẫn khí mà phần lớn dẫn sang Bắc Kinh.
Một số quốc gia khác như Argentina, Namibia hay Lào đều bị rơi vào “bẫy nợ” của Trung Quốc, buộc những nước này phải đối mặt với những quyết định đau đớn để ngăn chặn tình trạng vỡ nợ. Khoản nợ nần của Kenya với Trung Quốc giờ đây đang đe dọa biến cảng Mombasa tấp nập – cửa ngõ vào Đông Phi – thành một Hambantota khác.
Những kinh nghiệm này nên được nghiêm túc coi như một lời cảnh báo rằng sáng kiến Vành đai và Con đường về cơ bản là một dự án đế quốc nhằm mục đích hoàn thành tham vọng bành trướng hoang đường của Trung Quốc. Các quốc gia bị nô lệ nợ cho Trung Quốc có nguy cơ mất cả tài sản thiên nhiên có giá trị nhất lẫn chủ quyền của họ.
Găng tay gai bọc nhung khổng lồ của đế quốc mới này che giấu một nắm đấm sắt – một thứ với sức mạnh vắt kiệt sức sống ra khỏi các quốc gia nhỏ hơn.
Tác giả: Giáo sư Brahma Chellaney, bản quyền thuộc về Project Syndicate, 2017.
Chân Hồ biên dịch
Nga thừa nhận Stalin ra lệnh thảm sát Katyn
Nga thừa nhận Stalin ra lệnh thảm sát Katyn
TT – Quốc hội Liên bang Nga ngày 25-11 đã bỏ phiếu thông qua nghị quyết thừa nhận vụ cảnh sát Nga sát hại 22.000 sĩ quan và công dân Ba Lan ở rừng Katyn, phía tây nước Nga, năm 1940 do nhà lãnh đạo Josef Stalin ra lệnh.
Báo The Moscow News dẫn nguồn từ trang web duma.gov.ru cho biết với tỉ lệ ủng hộ 342/450, Hạ viện Nga đã thông qua nghị quyết dựa trên tài liệu mật thu được từ đầu thập niên 1990.
“Tội ác Katyn đã được thực hiện theo lệnh trực tiếp của Stalin và các lãnh đạo Liên Xô khác” – tuyên bố của Quốc hội Nga cho biết.
Itar-Tass dẫn lời Chủ tịch Duma Nga Konstantin Kosachev khẳng định nghị quyết “lịch sử” này không chỉ quan trọng đối với quan hệ Nga – Ba Lan mà còn với chính người Nga.
Theo Reuters, phía Ba Lan đánh giá rất cao quyết định khó khăn của Quốc hội Nga.
Tuy nhiên, chính quyền Ba Lan khẳng định muốn Nga phải có trách nhiệm hơn nữa về vụ việc trên và tuyên bố đó là tội diệt chủng.
Phe đối lập ở Ba Lan yêu cầu Nga chính thức xin lỗi và bồi thường cho gia đình các nạn nhân.
Trước đây, Nga đổ cho phát xít Đức thực hiện vụ thảm sát.
Tại sao Hàn Quốc phát triển rực rỡ còn Việt Nam thì không?
Năm 2004, Việt Nam cho chiếu bộ phim “Thời đại anh hùng” trong đó có đoạn, Tổng thống Park Chung-hee đã khóc vì thấy dân khổ quá. Ông tuyên bố sau 10 năm nữa sẽ có nhiều nước trên thế giới phải đến làm thuê cho Hàn Quốc.

Thập niên 60, Hàn Quốc là 1 trong những nước nghèo đói nhất châu Á. Năm 1968, người Hàn quyết định thay đổi giáo dục bằng cách bê nguyên sách giáo khoa của người Nhật về dịch sang tiếng Hàn để giảng dạy, ngoại trừ các môn xã hội như địa lý, lịch sử và văn học. Lúc đó cũng có nhiều người chỉ trích rằng, Hàn Quốc lẽ nào lại không tự soạn được một bộ sách giáo khoa, đây cũng bởi tính sĩ diện của họ rất cao.
Đúng 20 năm sau, năm 1988, Hàn Quốc đăng cai Olympic Seoul, cả thế giới không ai tin vào mắt mình khi thấy kỳ tích bên bờ sông Hàn. Ô tô, xe máy, dệt nhuộm, hoá chất, đóng tàu, điện tử, bánh kẹo… bên Nhật có cái gì thì bên này có cái đó mặc dù dù dân số chỉ bằng 1/3. Không ai biết trong 20 năm đó, cả dân tộc Hàn đã nắm chặt tay với quyết tâm thoát nghèo như thế nào, chỉ biết rằng trên tivi lúc đó chỉ có vẻn vẹn 2 chương trình là “dạy làm người” và “dạy làm ăn”; từ cái văn minh nhỏ xíu như nụ cười của một nhân viên bán hàng cho đến cách quản lý chi phí của một quán cà phê, cách tạo dựng một nhà máy.
Từ một dân tộc “xin việc”, tức các doanh nghiệp nước ngoài đến đặt nhà máy tại Hàn và thuê lao động tại đây, Hàn Quốc bắt đầu khan hiếm lao động và trở thành dân tộc đi “cho việc”, mà người xếp hàng “xin việc” lúc bấy giờ lại là người Trung Quốc, Thái Lan, Philippines. Hàn Quốc đã thành công trong việc tiếp nối Nhật Bản thành dân tộc đi “cho việc” người khác.
Năm 1988, pháo hoa thắp sáng 2 bờ sông Hàn, người Hàn Quốc ôm nhau cười trong nước mắt, hơn 100 quốc gia giàu có nhất trên thế giới miễn visa cho họ. Hàn Quốc giờ đây đã bước chân vào nhóm 24 quốc gia thịnh vượng nhất loài người. Nhưng thách thức mới lại xuất hiện, vì bây giờ không phải là Nhật Bản nữa, mà là Hồng Kông và Singapore, 2 cực hút nam châm của cả châu Á về tài chính, thương mại và giải trí.

Bộ phim Ngôi Nhà Hạnh Phúc được phủ sóng khắp Châu Á và chinh phục hàng triệu con tim.
Phim Hồng Kông tràn ngập thị trường và không có đối thủ. Ngay lập tức người Hàn tuyển chọn ra 2.000 sinh viên ưu tú nhất, cử sang Holywood, điên cuồng học hành, từ đạo diễn, diễn viên, phục trang đạo cụ… 4 năm sau tốt nghiệp, (năm 1992), những bộ phim đầu tay như: Cảm xúc, Mối tình đầu, Hoa cúc vàng,…với một thế hệ diễn viên đẹp từng milimet đã chinh phục được hàng triệu con tim.
Vào năm 1988, ngoài 2.000 người đi Holywood để xây dựng công nghiệp điện ảnh thì cũng có ngần ấy người được cử sang Milan và Paris để học thời trang, mỹ phẩm. Các tập đoàn như xe Kia, Samsung, Hyundai còn thuê cả ê-kip thiết kế của các hãng xe Đức như Mercedes, BMW làm việc cho họ, với tham vọng xuất khẩu xe sang Mỹ và châu Âu. Muốn bán cho Tây thì bao bì nhãn mác phải có óc thẩm mỹ của Tây, chứ kiểu “tròn tròn xinh xinh” của dân châu Á, người Tây không thích, không bán được. Có những năm mẫu xe của Hyundai bán chạy nhất ở Bắc Mỹ và châu Âu. Người Mỹ bắt đầu nhìn người Hàn với ánh mắt khác, ngưỡng mộ, ngạc nhiên và thích thú.
Ngoài ra, người Hàn cũng cử những sinh viên giỏi toán nhất nước theo học ngành tài chính ở các trường đại học lớn của Mỹ, với tham vọng Seoul sẽ thành một London, New York. Các quỹ đầu tư ra đời và họ tự tìm kiếm các nhà máy mới khởi nghiệp be bé để rót tiền vào, tham gia vào quản trị. Hộ không hề chỉ trích, chỉ góp sức góp trí để xây dựng. Một người Hàn giàu có là cả dân tộc Hàn giàu có.
Hệ thống bán lẻ Lotte phải có nghĩa vụ mang hàng hoá Hàn đi khắp nơi. Ông lớn Samsung bắt đầu tuyển dụng những sinh viên giỏi nhất châu Á để cho học bổng thạc sĩ miễn phí với điều kiện tốt nghiệp xong phải mấy năm phục vụ cho họ. Họ gom trí tuệ của cả châu Á để chinh phục thị trường điện thoại thông minh và máy tính bảng, cạnh tranh đối đầu với Apple, đối đầu với cả một tập thể trí tuệ thung lũng Silicone, cứ như Airbus của châu Âu cạnh tranh với Boeing vậy.

Người Hàn Quốc, dù dân thường hay sếp lớn, tất tần tật mọi thứ họ dùng phải là “Made in Korea”, dù vào thập niên bảy mươi sản phẩm vô cùng kém cỏi và xấu xí. Nhưng nếu người tiêu dùng không ủng hộ sản phẩm nhem nhuốc của thời khởi nghiệp, thì doanh nghiệp còn tồn tại đâu mà có sản phẩm tinh xảo sau này?
Tony nhớ lần đi Hàn đầu tiên, mùa thu năm 2005, bà chị ở Việt Nam cẩn thận ghi tên mấy nhãn hiệu mỹ phẩm ưa thích của chị ấy rồi nhắn mình mua giùm. Ở cửa hàng mỹ phẩm, cô bán hàng mặc bộ váy veston đen, chạy như bay lấy hết sản phẩm này đến sản phẩm khác cho Tony xem, đều là của Hàn cả. Do tiếng Anh không nói tốt nên cô cứ giải thích bằng tiếng Hàn đến lúc giọng khàn đặc. Đến lúc Tony lấy tay chỉ hộp phấn Lancom, thì cô thất vọng oà khóc. Cô khóc vì cô đã không thành công khi tình yêu nước của cô không thuyết phục được khách hàng. Tony nhìn cô ấy sững sờ, lẽ nào chỉ là 1 cô gái bán hàng bình thường mà có lòng yêu đất nước mãnh liệt thế sao? Tony thôi bèn mua mấy hộp mỹ phẩm của Hàn, dù chẳng biết có tốt không, vì kính phục quá. Lúc Tony bước ra khỏi cửa hàng, ngoái lại vẫn thấy cổ gập đầu cung kính.
Ngoài phố, gió bắt đầu lạnh, từng tốp học sinh chạy tập thể dục rầm rập trên vỉa hè, những chiếc áo khoác thêu cờ quốc gia ở sau lưng. Và Tony biết, sau lưng của mỗi công dân luôn là tổ quốc.
Theo Tony Buổi Sán


