Tâm hồn Nga – Tâm hồn đế quốc – Cơ chế của những đau thương

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Trần Gia Huấn

02/11/2025

Trước giữa thế kỷ XIX, không ai nói tới “Tâm hồn Nga”cả. Khoảng 1842, văn hào Gogol, người Ukraine viết cuốn tiểu thuyết lừng danh “Những Linh Hồn Chết” (Dead Souls) bằng tiếng Nga trong đó ông dùng “Linh hồn” ám chỉ số nông nô đã chết, nhưng các chủ nô dùng danh sách ma để mua bán, trao đổi, thế chấp, trốn thuế kiếm lời. Dần dần, Nga tìm kiếm mọi cách định nghĩa “Tâm hồn Nga” như một bằng chứng khẳng định Nga khác phần còn lại của Âu châu: Nga có linh hồn; Âu châu vô hồn. Nga tự hào; Âu châu tự ty. Nga văn minh; Âu châu man rợ. Nga kiêm tốn; Âu châu hãnh tiến. Nga thánh thiện; Âu châu tội lỗi. Nga cao thượng; Âu châu nhỏ nhen. Nga nhân hậu; Âu châu tàn nhẫn… Trong đó, văn hào Fyodor Mikhailovich Dostoyevsky, và thi hào Alexander Pushkin là những môn đệ toàn tòng cho “Tâm hồn Nga” một cách cuồng nhiệt nhất.

Khoảng 13 tuổi, trên đường tới St Peterburg, Dostoyevsky chứng kiến tại một trạm bưu điện. Một gã đưa thư, mặc đồng phục, nhảy vào cỗ xe ngựa đậu gần đó, không nói không rằng, tung những quả đấm như trời giáng vào mặt vào cổ người đánh xe. Ngay lập tức, người đánh xe, điên cuồng vung roi quất vào mông ngựa. Cỗ xe lao đi trong khói bụi mịt mờ. Dostoyevsky, ngất ngây, tưởng tượng ra cảnh, người đánh xe ngựa trở về làng đêm đó, trong cơn say túy lúy, cũng thụi túi bụi vào mặt vào cổ vợ, như người ta đã thụi mình.

Không ngạc nhiên, Dostoyevsky đã kết hợp những ký ức vào nghệ thuật lãng mạn, với tâm linh, cảm xúc tuyệt vời nuôi dưỡng những hoang tưởng bạo lực và tàn ác của con người trong từng trang viết. Trong tiểu thuyết “Tội ác và Trừng phạt” nhân vật Raskolnikov nằm mơ thấy một nông dân đập chết một con ngựa. Khi tỉnh dậy, gã kết nối giấc mơ với một kế hoạch đập chết người bằng rìu. Gã nhảy ra khỏi giường, thực hiện giấc mơ giết người. Những chuỗi dài bạo lực tiếp nối bạo lực, mà không ai thoát ra khỏi.

Raskolnikov là sinh viên nghèo, giết chủ tiệm cầm đồ, để lấy tiền đi học. Gã bảo Napoleon đã giết hàng ngàn người Ai Cập, cướp kho báu khảo cổ, để thiết lập lên bộ môn Ai Cập học cho nhân loại. Vậy, gã giết người để hoàn thành một lý tưởng, giết người để hiện thực một giấc mơ, giết người để học tập, giết người để tiến bộ, là phi thường, là anh hùng. Lập luận của Raskolnikov là một dạng của “Tâm hồn Nga” tâm hồn đế quốc. Đó là cơn thịnh nộ của độc ác được chắt lọc từ lòng căm thù, đố kị, ganh tị đã dồn nén từ lâu.

Dostoyevsky bị đi đầy ở Siberia chỉ vì đọc cuốn sách cấm. Một người bạn tù gốc Ba Lan đã viết trong hồi ký: Dostoyevsky nguyền rủa đám Estonia, Litvia, Lithuania, và Ba Lan rằng đất đai của chúng mày mãi mãi là đất đai, tài sản của Nga. Nếu không nhờ Nga khai sáng thì bọn mày chỉ biết vùng vẫy trong tối tăm, đói nghèo, cơ cực, mù chữ, và man rợ.

Pushkin, được mệnh danh là “Mặt trời của thi ca Nga” là người đóng góp quan trọng vào ngôi đền thiêng “Tâm hồn Nga”. Khoảng 1820 Pushkin bị đày đi Kavkaz như một kẻ lưu vong chính trị. Ông đã viết bản trường ca “Người tù Kavkaz, trong đó kể lại câu chuyện người con gái miền sơn cước, ở tuổi dậy thì, duyên dáng nồng nàn, ngây thơ đắm đuối, phải lòng một tù nhân chiến tranh Nga. Nàng liều mình giải thoát cho chàng. Rồi, chàng rủ nàng trốn đến nước Nga. Nàng từ chối, giận hờn bảo anh đi đi, đừng bận tâm đến số phận tàn khốc u sầu của em. Lòng nàng vò xé, nước mắt lưng tròng, nàng đưa chàng tới bờ sông, để chàng xuôi dòng về lại quê hương. Rồi, nàng tự tử.

Nhưng khổ cuối của bản trường ca, Pushkin viết “Hỡi Kaskaz, hãy đầu hàng đi. Ermolov đang tới.” Alexei Ermolov là tướng Nga, tư lệnh cuộc chiến giữa Nga và Thượng Kaskaz ở thế kỷ XIX. Ermolov cực kỳ tàn nhẫn, giết 9/10 dân số Thượng Kaskaz. Ermolov tuyên bố: “Ta khao khát những nỗi kinh hoàng mang tên ta.” Chính Pushkin đã ủng hộ những tư tưởng đế quộc tàn bạo này. Những gì xảy ra ở Bucha, Ukraine, 2022, cho ta thấy “Tâm hồn Nga” man rợ tới cỡ nào.

Năm 1837, Pushkin công bố bài thơ “The Bronze Horseman” – Kỵ sỹ Đồng, hết lòng ca ngợi Peter Đại đế, cưỡi ngựa đi thị sát đầm lầy, những túp lều khốn khổ và hèn mọn của lũ Phần Lan lúp xúp dưới vó ngựa của Ngài. Peter Đại đế xây thành St. Petersburg hướng về Tây âu, lối ra biển Baltic. Ngài tuyên bố: Từ nơi này, ta sẽ uy hiếp Thụy Điển và nuốt cả Âu châu. Những ý tưởng này không thể nào không gợi nhớ tới Putin đang đe dọa Âu châu, và tàn phá phương Tây.

Pushkin đã viết những lời hoa mỹ, vô cảm trong cuộc chiến Nga -Thổ: “Người Circassia căm ghét chúng tôi (lính Nga) vì chúng tôi đã buộc họ phải phải rời khỏi những đồng cỏ mênh mông. Nhiều làng mạc bị tàn phá. Cả bộ lạc bị xóa sổ. Người làng phải từ bỏ tất cả để gia nhập Đế chế Nga.”

Ở tuổi 20, Pushkin bị lưu đày khắp nơi từ Kaskaz, tới Crimea, từ Kamianka tới Bessarabia chỉ vì những bài thơ viết ở tuổi 15. Sau năm tháng sống kiếp lưu vong, Pushkin trở về St. Petersburg, không bao giờ dám chỉ trích Sa hoàng nữa. Ngược lại, Pushkin làm thơ ca ngợi, tôn vinh những hành động đế quốc của Nga với các dân tộc láng giềng. Đó là vì sao Đế chế Nga và sau này là Liên Xô cùng cho dựng tượng Pushkin, công viên Pushkin, đường phố Pushkin, quảng trường Pushkin khắp nơi nơi.

Phong trào “Pushkinopad – Пушкинопад”– nghĩa đen là hạ bệ Pushkin tại Ukraine, sau cuộc xâm lược do Putin phát động. Người Ukraine xác định Pushkin và Dostoyevsky là những kẻ cổ xúy cho chủ nghĩa sô vanh (chauvinism) Nga, không xứng đáng được đặt tượng, đặt tên trên quê hương của họ.

Pushkin qua đời năm 37 tuổi sau cuộc đấu súng do ghen tuông ái tình. Dostoyevsky chết năm 59 tuổi, do nhồi máu phổi, động kinh kinh niên không thuốc chữa, đói nghèo, nghiện ngập, cờ bạc, nợ nần chồng chất.
Ukraine không muốn đọc Dostoyevsky nữa, không muốn ngắm tượng Pushkin nữa vì trong từng trang viết chan chứa tư tưởng bành trướng, đế quốc, bạo lực, man rợ, được Putin tuyên truyền biện minh cho hành vi xâm lược hôm nay.

Nỗi mặc cảm tự ti chỉ là một đế chế thứ cấp, bên rìa Âu châu, Putin nhìn phương Tây là lũ suy đồi, trụy lạc, không thể nào đè bẹp được lòng kiêu hãnh Nga – Tâm hồn Nga đã dẫn dắt nước Nga lao vào những cuộc chiến tranh liên miên, không hồi kết, và luôn gây sự với người khác.

Tiến sỹ Henry Kissinger nhấn mạnh: Để hiểu Putin, phải đọc Dostoyevsky. Putin bước ra từ tiểu thuyết viết cách nay đã hai thế kỷ. Tiến sỹ Timothy Snyder nói: Để hiểu được Putin phải đọc 1984: “Chiến tranh là hòa bình. Tự do là nô lệ. Ngu dốt là sức mạnh.” Cựu tổng thống Mỹ George W. Bush bảo nhìn vào mắt Vladimir Putin và “hiểu được tâm hồn Putin”.

Tâm hồn Putin – tâm hồn điệp viên, tâm hồn sát thủ.
Tâm hồn Nga – tâm hồn đế quốc – cơ chế của những đau thương.

Canada

November 2, 2025


 

Đặc phái viên điện Kremlin: “Nga, Mỹ và Ukraina tiến gần đến một giải pháp ngoại giao”

RFI

Đặc phái viên của tổng thống Nga về đầu tư và hợp tác kinh tế, Kirill Dmitriev, hôm 24/10/2025, khẳng định « Nga, Mỹ và Ukraina đang tiến gần đến một giải pháp ngoại giao ». Tuyên bố được đưa ra vào lúc ông Dmitriev đến Mỹ để thúc đẩy các đối thoại Mỹ – Nga trong bối cảnh khoảng 30 đồng minh của Kiev, họp tại Luân Đôn cùng ngày, thống nhất kế hoạch gia tăng áp lực với Nga trên hai mặt trận quân sự và kinh tế. 

Đăng ngày: 25/10/2025

 Ảnh minh họa : Đặc phái viên của tổng thống Nga, ông Kirill Dmitriev (T), gặp đặc sứ Mỹ Steve Witkoff (P), tại Matxcơva, ngày 11/04/2025. AP – Vyacheslav Prokofyev

Trọng Thành

Trả lời đài Mỹ CNN, Kirill Dmitriev cho biết việc các nước châu Âu và Ukraina xác lập một kế hoạch mới về chấm dứt chiến tranh dựa trên các đường chiến tuyến hiện tại là một « bước tiến ». Đặc phái viên Nga nhấn mạnh « đây là một bước tiến lớn về phía tổng thống Zelensky », bởi lập trường trước đây của tổng thống Ukraina là « Nga phải rút hoàn toàn » khỏi lãnh thổ nước này.

Trên mạng X, hôm 24/10, đặc phái viên của tổng thống Nga Putin cũng cho biết chuyến công du của ông, theo lời mời của Mỹ, đã được lên lịch từ lâu, đồng thời khẳng định đối thoại giữa Nga và Mỹ là « thiết yếu đối với thế giới và cần phải được tiếp tục với sự hiểu biết đầy đủ về lập trường của Nga và tôn trọng lợi ích quốc gia của Nga ».

Theo các nguồn tin của CNN, Kirill Dmitriev, người đứng đầu Quỹ đầu tư quốc gia Nga RDIF dự kiến ​​sẽ gặp nhiều quan chức trong chính quyền Trump « để tiếp tục thảo luận về mối quan hệ song phương ».

Một giới chức Nhà Trắng cho biết ông Dmitriev có kế hoạch gặp đặc phái viên của tổng thống Mỹ Steve Witkoff, tại Miami, Florida, hôm nay và gặp dân biểu đảng Cộng Hòa Anna Paulina Luna, người đang vận động cho việc nhanh chóng nối lại quan hệ song phương.

Chuyến công du Mỹ của đặc phái viên Dmitriev diễn ra trong bối cảnh chính quyền Trump ngày càng tỏ ra thất vọng trước việc điện Kremlin từ chối chấm dứt chiến tranh ở Ukraina. Tổng thống Trump hoãn lại cuộc gặp với người đồng cấp Nga, đã được lên kế hoạch. Hôm thứ Tư, 22/10, Wahington ban hành nhiều biện pháp trừng phạt đối với hai công ty dầu mỏ lớn nhất của Nga là Rosneft và Lukoil.

Sinh tại Ukraina thời Liên Xô cũ, và được đào tạo tại đại học Harvard và Stanford ở Mỹ, ông Dmitriev từng làm cố vấn tại công ty tư vấn Mỹ McKinsey và chuyên viên ngân hàng đầu tư Goldman Sachs. Ông Dmitriev là người ủng hộ mạnh mẽ việc bình thường hóa quan hệ kinh tế giữa Nga và Mỹ. Theo CNN, đặc phái viên Nga mới đây đề xuất xây dựng một đường hầm mang tên « Trump-Putin », nối liền vùng Viễn Đông Nga với Alaska, nơi diễn ra cuộc gặp Trump-Putin hồi tháng 8/2025.


 

Bà Maria Corina Machado thắng giải Nobel Hòa bình 2025 và ý nghĩa của sự kiện

Nguyễn Phan

Bà Maria Corina Machado thắng giải Nobel Hòa bình 2025 và ý nghĩa của sự kiện

Khoảng 60 phút trước có tin bà Maria Corina Machado thắng giải giải Nobel Hòa bình năm nay vì những nỗ lực không ngừng nghỉ trong việc thúc đẩy dân chủ và nhân quyền tại Venezuela, bất chấp nguy hiểm cá nhân và áp lực chính trị.

Bà Machado, sinh năm 1967 tại Venezuela, là một kỹ sư và chuyên gia tài chính, đồng thời là một trong những khuôn mặt đối lập nổi bật nhất trên chính trường Venezuela hiện tại. Bà khởi đầu sự nghiệp xã hội vào năm 1992 khi sáng lập Quỹ Atenea, tổ chức hỗ trợ trẻ em đường phố tại thủ đô Caracas. Năm 2002, bà cùng các cộng sự thành lập Súmate, một tổ chức phi chính phủ chuyên giám sát bầu cử và vận động cho các cuộc bầu cử tự do, công bằng. Những hoạt động này đã đặt nền móng cho vai trò chính trị của bà trong những năm sau đó.

Năm 2010, bà Machado được bầu vào Quốc hội Venezuela với số phiếu kỷ lục, thể hiện sự ủng hộ rộng rãi từ công chúng. Tuy nhiên, đến năm 2014, bà bị chính quyền trục xuất khỏi Quốc hội, đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đấu tranh dân chủ của bà. Không chùn bước, bà tiếp tục lãnh đạo đảng đối lập Vente Venezuela và đồng sáng lập liên minh Soy Venezuela vào năm 2017, với mục tiêu thống nhất các lực lượng dân chủ trong nước vốn chia rẽ khá nặng nề.

Năm 2023, bà tuyên bố tranh cử tổng thống cho kỳ bầu cử năm 2024, nhưng bị chính quyền cấm tham gia. Thay vì rút lui, bà ủng hộ ứng viên thay thế Edmundo González Urrutia, giúp phe đối lập duy trì sự đoàn kết và tiếp tục cuộc vận động dân chủ. Dù chính quyền tuyên bố chiến thắng, phe đối lập đã thu thập bằng chứng cho thấy kết quả bị thao túng, và bà Machado vẫn kiên trì ở lại trong nước, bất chấp các mối đe dọa đến tính mạng.

Ủy ban Nobel Na Uy đã vinh danh bà với giải Nobel Hòa bình 2025 vì “những nỗ lực không mệt mỏi trong việc thúc đẩy quyền dân chủ cho người dân Venezuela và cuộc đấu tranh nhằm đạt được một quá trình chuyển đổi công bằng và hòa bình từ chế độ độc tài sang dân chủ”. Chủ tịch Ủy ban, ông Jørgen Watne Frydnes, gọi bà là “nhân vật thống nhất chủ chốt trong một phe đối lập từng chia rẽ sâu sắc”, người đã giúp các lực lượng dân chủ tìm được tiếng nói chung trong yêu cầu về bầu cử tự do và chính quyền đại diện.

Giải thưởng này không chỉ là sự ghi nhận cá nhân mà còn mang tính biểu tượng cho phong trào dân chủ tại Mỹ Latinh. Trong bối cảnh dân chủ toàn cầu đang bị thách thức nghiêm trọng, việc trao giải cho bà Maria Corina Machado là lời khẳng định mạnh mẽ rằng cuộc đấu tranh vì quyền tự do, nhân phẩm và công lý luôn được cộng đồng quốc tế trân trọng và bảo vệ.

Dù có lúc giải Nobel hòa bình được trao không đúng người như trường hợp Kissinger và Lê Đức Thọ vào năm 1973, nhưng giải cho bà Machado thì rất hợp lý cho một người phụ nữ mạnh mẽ, dám hy sinh cho xã hội trong nhiều năm trời.

PS: Thủ tướng Đức Friedrich Merz vừa lên tiếng chúc mừng bà Machado và nói: “Những cá nhân can đảm nuôi sống nền dân chủ” để ngợi khen sự can trường của bà trước bạo lực của chế độ độc tài Venezuela.


 

Nobel Hòa Bình được trao cho lãnh đạo đối lập Venezuela vì nỗ lực đấu tranh dân chủ

Nobel Hòa Bình được trao cho lãnh đạo đối lập Venezuela vì nỗ lực đấu tranh dân chủ

Ba’o Nguoi -Viet

October 10, 2025

OSLO, Na Uy (NV) – Giải Nobel Hòa Bình năm 2025 được trao cho lãnh đạo chính trị đối lập của Venezuela, bà Maria Corina Machado, hôm 10 Tháng Mười “vì nỗ lực không mệt mỏi của bà để thúc đẩy các quyền dân chủ cho người dân Venezuela và công cuộc đấu tranh để thay đổi chế độ độc tài sang nền dân chủ một cách công bằng và hòa bình,” theo CBS.

Ông Jørgen Watne Frydnes, chủ tịch Ủy Ban Nobel Na Uy, khi công bố giải thưởng, đã gọi bà Machado là “người phấn đấu cho hòa bình dũng cảm và tận tụy.”

Bà Maria Corina Machado, trong một cuộc biểu tình chống chính phủ hôm 9 Tháng Một năm 2025 ở thủ đô Caracas. (Hình: Jesus Vargas/Getty Images)

Ông ca ngợi bà Machado là “nhân vật chủ chốt, đoàn kết trong phong trào đối lập của Venezuela vốn từng bị chia rẽ sâu sắc – phe đối lập đã tìm thấy điểm chung với đòi hỏi phải có bầu cử tự do và chính phủ mang tính đại diện.”

“Trong năm qua, bà Machado đã buộc phải sống ẩn náu. Bất chấp những mối đe dọa nghiêm trọng đối với tính mạng, bà ấy vẫn ở lại đất nước, một quyết định đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người, “ ông Frydnes nói trong bài phát biểu công bố giải thưởng.

“Khi những kẻ chuyên chế nắm được quyền lực, việc công nhận những người bảo vệ tự do dũng cảm dám đứng lên phản kháng là điều quan trọng.”

“Tôi sốc,” bà Machado nói sau khi biết tinh mình đã đoạt giải Nobel Hòa Bình hôm 10 Tháng Mười, theo hãng tin AFP.

Hãng tin này cho biết họ đã nhận được một video từ đội ngũ truyền thông của bà, trong đó bà được nghe thấy đang phản ứng trước tin này khi đang nói chuyện qua điện thoại với một đồng minh thân cận.

Trên X, bà Machado viết rằng “sự công nhận to lớn đối với cuộc đấu tranh của tất cả người dân Venezuela là một động lực để đi đến cùng sứ mạng của chúng tôi đó là chinh phục Tự Do.”

“Chúng ta đang ở ngưỡng cửa chiến thắng và giờ đây hơn bao giờ hết chúng ta dựa vào vào Tổng Thống Trump, người dân Hoa Kỳ, người dân các nước Mỹ Latinh và các quốc gia dân chủ trên thế giới là đồng minh chính của chúng ta để giành lấy Tự Do và Dân Chủ,” bà nói thêm. “Venezuela sẽ được tự do!”

Venezuela đã nằm dưới một chế độ độc tài trong hàng chục năm và hiện đang do Tổng Thống Nicolas Maduro nắm quyền. Chiến thắng của ông Maduro trong cuộc bầu cử hồi năm 2024 đã nhiều người chỉ trích là phi dân chủ. Vai trò lãnh đạo đất nước của ông không được Mỹ và nhiều nước khác công nhận.

Bên cạnh đó, ông Maduro đã rơi vào cuộc đối đầu ngày càng căng thẳng với chính quyền Trump, vốn cáo buộc Maduro làm việc với các băng nhóm buôn lậu ma túy tuồn ma túy vào Mỹ.

Thay vào đó, chính quyền Mỹ đã công nhận một chính trị gia đối lập được Machado hậu thuẫn, Thượng Nghị sĩ Edmundo Gonzalez Urrutia, là người chiến thắng hợp pháp trong cuộc bầu cử năm 2024.

Ông Urrutia đã viết trên mạng xã hội ngay sau khi có tin về giải Nobel Hòa Bình: “Maria Corina Machado yêu quý của chúng tôi, đã được trao giải Nobel Hòa bình 2025! Sự công nhận xứng đáng cho cuộc đấu tranh lâu dài của một người phụ nữ và của toàn thể nhân dân vì tự do và dân chủ. Giải Nobel đầu tiên của Venezuela! Xin chúc mừng @mariacorinaya, Venezuela sẽ được tự do!” (NNL) [kn]


 

Những điều có thể bạn chưa biết về Giáo hội Công Giáo ở Triều Tiên

Thao Teresa

Bạn đã bao giờ tự hỏi điều gì đã xảy ra với Kitô giáo, đặc biệt là Công giáo, ở một trong những nơi bí mật và cô lập nhất thế giới – Triều Tiên? Một nơi mà tôn giáo bị đặt ngoài vòng pháp luật, các nhà thờ bị phá hủy, đức tin bị cấm, nhưng ánh sáng của Đấng Kitô vẫn nhấp nháy trong bóng tối.

Rất lâu trước khi Triều Tiên trở thành một chế độ độc tài khép kín, bán đảo Triều Tiên đã có một cộng đồng Kitô giáo đang phát triển mạnh. Công giáo đến bán đảo Triều Tiên không phải qua các nhà truyền giáo nước ngoài, mà do chính các nho sĩ thế kỷ 18. Họ tiếp cận các văn bản Kitô giáo tại Trung Quốc và mang đức tin trở lại quê hương.

Đúng vậy, Công giáo được gieo mầm bởi giáo dân trước khi có linh mục ngoại quốc đặt chân lên đất Triều Tiên. Họ đọc Kinh Thánh, tin vào Kinh Thánh và sẵn sàng mạo hiểm tất cả để bước theo Đức Kitô. Đúng như câu: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.” (Tv 119,105)

Đầu thế kỷ 20, Bình Nhưỡng – thủ đô của Triều Tiên hiện nay – từng được mệnh danh là “Jerusalem của phương Đông” nhờ đời sống Kitô giáo sôi động. Nhưng tất cả thay đổi năm 1948, khi Kim Il-sung lên nắm quyền và thành lập Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Từ đây bắt đầu thời kỳ bách hại, và đức tin trở thành bản án tử hình.

Chế độ vô thần xem tôn giáo là mối đe dọa cho quyền lực của mình. Không chỉ đàn áp, họ tìm cách loại bỏ Kitô giáo tận gốc. Các nhà thờ bị đóng cửa hoặc phá hủy, Kinh Thánh bị cấm. Nhiều linh mục và giáo dân bị bắt, tra tấn hoặc xử tử. Các gia đình bị đưa vào trại lao động chỉ vì sở hữu một cây thánh giá hay thì thầm một lời cầu nguyện.

Một ví dụ đau lòng là Đức Giám mục Phanxicô Hong Yong-ho, Giám mục Bình Nhưỡng, bị bắt năm 1949 và không bao giờ xuất hiện nữa. Năm 2013, Tòa Thánh chính thức công bố ngài đã qua đời, và năm 2014, ngài được tuyên nhận là Tôi tớ Chúa trong tiến trình phong thánh.

Ngày nay, Triều Tiên vẫn đứng đầu bảng xếp hạng World Watch List – nơi nguy hiểm nhất cho các Kitô hữu. Vậy, liệu có nhà thờ Công giáo nào tồn tại ở đó không?

Thật bất ngờ, có một nhà thờ ở Bình Nhưỡng mang tên Nhà thờ Changchung, được chính quyền cho phép hoạt động. Tuy nhiên, nơi này không hiệp thông với Tòa Thánh, không có linh mục thường trú được truyền chức hợp pháp từ Rôma. Các cử hành tôn giáo thường mang tính hình thức chính trị, do Hiệp hội Công giáo Triều Tiên – một cơ quan nhà nước được dùng để giới thiệu “tự do tôn giáo” cho du khách nước ngoài – quản lý.

Giới chuyên gia tin rằng, bên dưới bề mặt, vẫn còn hàng ngàn tín hữu Công giáo ngầm thờ phượng bí mật, giống như Giáo hội sơ khai.

Những nhân chứng đào thoát đã kể lại những ký ức vừa đau thương vừa cảm động. Có người thấy cha mẹ thì thầm cầu nguyện trong đêm tối, để rồi hôm sau bị công an bắt đi. Có tín hữu học thuộc cả cuốn Kinh Thánh vì không dám giữ một bản in. Có người chôn thánh giá nhỏ dưới đất, hoặc khắc câu Lời Chúa lên tường. Họ nhóm họp trong hang động, trong chuồng trại vắng lặng, bất chấp hiểm nguy.

Dù trải qua nhiều thập kỷ đàn áp tàn bạo, hạt giống đức tin vẫn âm thầm bén rễ. Nhiều người Bắc Hàn chỉ khi trốn thoát sang Trung Quốc hoặc Hàn Quốc mới lần đầu nghe Tin Mừng và tin nhận Chúa Kitô.

Giáo lý Hội Thánh Công giáo dạy rằng:“Tử đạo là việc làm chứng cao cả nhất cho chân lý đức tin; đó là sự làm chứng cho đến nỗi phải chết” (GLHTCG, #2473). Hàng ngàn Kitô hữu Bắc Hàn đã ngã xuống vì đức tin, như xưa máu các vị tử đạo là hạt giống nảy sinh Hội Thánh tại Rôma, thì nay cũng thế trên bán đảo Triều Tiên.

Các Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Bênêđictô XVI và Đức Phanxicô đều nhiều lần cầu nguyện cho hòa bình và thống nhất trên bán đảo Triều Tiên. Trong khi đó, các linh mục truyền giáo và các hội đoàn Kitô hữu tiếp tục phục vụ người tị nạn Bắc Hàn ở Trung Quốc và Hàn Quốc. Các đài phát thanh Công giáo như FEBC, TWR hay Voice of the Martyrs thường xuyên phát sóng Kinh Thánh, thánh lễ, bài giảng vào Bắc Triều Tiên – thường vào ban đêm để tránh bị phát hiện. Nhiều tín hữu âm thầm chế tạo radio, chôn dưới đất để nghe Lời Chúa.

Dù Triều Tiên vẫn bao trùm bóng tối, nhưng ánh sáng của Đức Kitô không bao giờ bị dập tắt. Hội Thánh có thể bị săn lùng, bị chôn vùi, nhưng cũng như hạt giống gieo trong lòng đất – một ngày sẽ trổ sinh hoa trái. Trong khi các bức tượng của Kim Nhật Thành ở khắp mọi nơi, thân thể vô hình của Chúa Kitô tiếp tục hiện hữu – “ẩn giấu nhưng còn sống.”

https://phailamgi.com/…/nhung-dieu-co-the-ban-chua…/


 

Ông Trump và ông Tập điện đàm, bàn về TikTok và thương mại, cam kết thúc đẩy quan hệ Mỹ – Trung

Ba’o Dat Viet

September 21, 2025

Tân Hoa xã tối 19-9 đưa tin Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình và Tổng thống Mỹ Donald Trump đã có cuộc điện đàm mang tính “thẳng thắn, tích cực và mang tính xây dựng”, nhằm tìm cách ổn định quan hệ song phương trong bối cảnh căng thẳng thương mại và tranh cãi về hoạt động của TikTok tại Mỹ.iệm trang sức

Hai nhà lãnh đạo đã trao đổi sâu về quan hệ Mỹ – Trung, thảo luận các vấn đề thương mại, an ninh và những quan tâm chung. Ông Tập khẳng định mối quan hệ Mỹ – Trung có vai trò then chốt đối với thế giới và kêu gọi Washington kiềm chế các biện pháp thương mại đơn phương, đồng thời tạo môi trường công bằng cho doanh nghiệp hai nước. Ông nhấn mạnh: “Trung Quốc và Mỹ có thể đạt được thành công chung, mang lại lợi ích cho cả hai quốc gia và thế giới, với điều kiện đôi bên tôn trọng lẫn nhau, cùng tồn tại hòa bình và hợp tác cùng có lợi”.

Về phần mình, Tổng thống Trump đánh giá cao lễ duyệt binh kỷ niệm 80 năm chiến thắng phát xít do Trung Quốc tổ chức, đồng thời gọi quan hệ Mỹ – Trung là “mối quan hệ song phương quan trọng nhất trên thế giới”. Ông cho biết Mỹ mong muốn duy trì quan hệ lâu dài, lành mạnh với Trung Quốc và sẽ ủng hộ các cuộc tham vấn để giải quyết vấn đề TikTok. “Chúng tôi đã đạt tiến triển về nhiều vấn đề quan trọng, bao gồm thương mại, fentanyl, nhu cầu chấm dứt chiến sự Nga – Ukraine và việc phê chuẩn thỏa thuận TikTok”, ông Trump viết trên mạng xã hội.

Hai bên cũng thống nhất gặp trực tiếp bên lề hội nghị thượng đỉnh APEC tại Hàn Quốc vào cuối tháng 10 và cân nhắc các chuyến thăm cấp cao song phương trong năm tới. Theo ông Trump, cuộc gọi diễn ra “rất tốt đẹp”, và cả hai nhà lãnh đạo đều mong muốn duy trì kênh đối thoại.

Trước đó, Tổng thống Trump đã nhiều lần gia hạn thời hạn để ByteDance – công ty mẹ của TikTok – tìm đối tác mua lại mảng hoạt động tại Mỹ, thay vì cấm ứng dụng này hoàn toàn. Động thái mới cho thấy Washington và Bắc Kinh đang nỗ lực giảm căng thẳng và tìm giải pháp dung hòa cho các tranh chấp thương mại, đồng thời giữ vai trò ổn định trong quan hệ song phương quan trọng bậc nhất thế giới.

Elena Goliakova – Từ nữ hoàng sân băng đến người phụ nữ lang thang trên phố

Anh Chi -Tâm Thức Việt 

 Vào những năm 1990, cái tên Elena Goliakova từng sáng rực như một vì sao trên bầu trời thể thao châu Âu.

Cô gái trẻ người Nga với gương mặt dịu dàng đã lướt trên sân băng như cánh bướm, thanh thoát như thiên nga – mê hoặc khán giả bằng những chuyển động kết hợp giữa sức mạnh và sự uyển chuyển. Mỗi lần Elena xuất hiện, cả khán đài như nín thở, bởi cô không chỉ là vận động viên trượt băng nghệ thuật – cô là thơ, là nhạc, là ánh sáng giữa mùa đông giá lạnh.

Nhưng số phận lại dẫn cô đi theo một con đường không ai ngờ tới…

Năm 2000, Elena rời Nga, mang theo tình yêu với người chồng kiêm huấn luyện viên – Nikolaï Svitov – và một giấc mơ lớn hơn: mang trượt băng nghệ thuật đến một nơi hầu như chưa từng biết đến môn thể thao này – Mexico.

Tại thành phố Monterrey, họ mở một học viện nhỏ. Những đứa trẻ Mexico lần đầu chạm chân lên băng, lần đầu nhìn thấy một thế giới kỳ ảo qua từng vòng xoay của Elena. Cô đã thắp lên một tia sáng mới cho một vùng đất chưa từng có mùa đông.

Thế nhưng, giấc mơ dù đẹp đến mấy cũng có thể vỡ vụn.

Học viện đóng cửa sau vài năm. Năm 2006, cuộc hôn nhân tan vỡ. Elena chìm dần trong nỗi buồn, rồi đến năm 2010, bi kịch thật sự ập tới: chẩn đoán tâm thần phân liệt thể hoang tưởng.

Căn bệnh cướp đi sự tỉnh táo, phá vỡ những cân bằng nội tâm mà cô từng giữ được trên sân băng. Cô không còn là nhà vô địch được tung hô nữa, mà là một người phụ nữ yếu đuối, đang vật lộn với những tiếng nói vô hình trong đầu.

Giờ đây, người ta có thể bắt gặp Elena lang thang trên đường phố Tepatitlán, một thị trấn nhỏ ở bang Jalisco – nơi cô đẩy một chiếc xe cũ kỹ chứa vài món đồ lặt vặt và những con vật nhỏ – những người bạn cuối cùng trong hành trình lặng lẽ này.

Người dân ở đó quen mặt cô. Họ thấy cô đi bộ mỗi ngày, tóc rối bời, ánh mắt mơ hồ, thỉnh thoảng nói tiếng Nga hoặc tiếng Anh – mà hầu hết mọi người không hiểu được. Có người từng muốn giúp, nhưng cô từ chối – vì rào cản ngôn ngữ, hoặc vì nỗi sợ hãi đã ăn sâu do căn bệnh kéo dài nhiều năm.

Câu chuyện của Elena – từ một nữ hoàng sân băng đến người phụ nữ vô gia cư – không chỉ là một bi kịch cá nhân. Đó là một hồi chuông cảnh tỉnh:

Ánh hào quang có thể vụt tắt.

Sức khỏe tinh thần là kho báu vô giá.

Và ranh giới giữa đỉnh cao vinh quang và vực sâu đổ vỡ… đôi khi mong manh đến không tưởng.

Một giấc mộng băng giá, nay tan thành sương sớm. Một đời người – từ ánh đèn sân khấu, giờ chỉ còn ánh mắt lạc lõng giữa phố thị xa lạ.

St


 

Bay đến tự do! – Đoàn Xuân Thu

Kimtrong Lam

Đoàn Xuân Thu

 – 16 tháng 9, 2025

Những người thợ khéo léo vượt qua bức tường tử thần dài 1,400 km.

Ngày 16 Tháng Chín năm 1979, trên bầu trời đêm nước Đức, một chiếc khinh khí cầu thô sơ nhưng vĩ đại đã vượt lên khỏi sự kiểm soát của cả một hệ thống chuyên chế của Cộng Sản Đông Đức. Trên đó, tám con người, gồm hai gia đình, đã mang theo niềm hy vọng, sự khéo léo và cả sự tuyệt vọng để bay khỏi Đông Đức, tìm đến tự do ở phương Tây. Đó là một trong những cuộc vượt ngục ngoạn mục nhất của Chiến tranh Lạnh.

Sau Thế Chiến II, nước Đức bị chia đôi. Phía Tây, do Mỹ, Anh, Pháp quản lý, dần trở thành Cộng Hòa Liên Bang Đức (Tây Đức) dân chủ và thịnh vượng. Phía Đông, dưới sự kiểm soát của Liên Xô, trở thành Cộng Hòa Dân Chủ Đức (Đông Đức), nơi chính quyền cộng sản áp đặt sự kiểm soát chặt chẽ lên mọi mặt đời sống.

Từ năm 1961, Bức Tường Berlin mọc lên, chia cắt thành phố và trở thành biểu tượng bi thương của thời đại. Nhưng không chỉ Berlin, toàn bộ đường biên giới dài 1,400 km giữa Đông và Tây Đức đã biến thành một “bức tường tử thần”: hàng rào dây kẽm gai, bãi mìn, tháp canh, súng máy, chó nghiệp vụ, đèn pha quét sáng như ban ngày. Mọi ý định vượt biên đều có thể kết thúc bằng cái chết.

Theo thống kê, hàng trăm người đã bỏ mạng khi tìm cách thoát khỏi Đông Đức. Thế nhưng, càng bị giam hãm, khát vọng tự do càng lớn.

Ý tưởng điên rồ trở thành hiện thực. Trong bối cảnh đó, hai người đàn ông bình thường, Peter Strelzyk, một thợ điện, và Günter Wetzel, thợ nề – nảy ra một kế hoạch táo bạo: chế tạo khinh khí cầu để bay qua biên giới.

Câu chuyện bắt đầu khi một người họ hàng từ phương Tây sang thăm mang theo một tạp chí viết về khinh khí cầu. Từ những trang báo ấy, Strelzyk và Wetzel lóe lên ý tưởng: nếu không thể băng qua bức tường và hàng rào, thì hãy bay bằng khinh khí cầu.

Nghe thì đơn giản, nhưng thực tế lại đầy hiểm nguy. Khinh khí cầu cần vật liệu đặc biệt, kích thước khổng lồ, lại phải chế tạo trong bí mật tuyệt đối. Ở Đông Đức, việc mua sắm bất thường – như hàng trăm mét vải, sắt thép, bình gas – dễ dàng khiến Stasi ( mật vụ) nghi ngờ. Chỉ một sơ hở thôi, cả gia đình họ có thể mất mạng.

Strelzyk, vốn từng là thợ máy trong không quân, tính toán rằng họ cần khoảng 800 mét vuông vải nhẹ, bền và chống thấm để làm phần vỏ khinh khí cầu. Cùng với Wetzel, ông đã lái xe hơn 160 km đến một thành phố lớn để mua vải taffeta tổng hợp, và viện lý do “câu lạc bộ du thuyền cần buồm mới” để che mắt chính quyền.

Khung giỏ treo được làm từ sắt, gỗ và dây phơi quần áo. Hệ thống đốt nóng – trái tim của khinh khí cầu – được chế tạo từ hai bình gas propan, ống dẫn và đầu phun tự chế. Mọi thứ đều thủ công, thậm chí có phần thô sơ, nhưng mỗi chi tiết được cân nhắc kỹ lưỡng.

Trong vòng hai năm, họ bí mật khâu từng tấm vải, hàn từng thanh sắt, thử nghiệm trong đêm tối. Vợ con họ cũng tham gia, nhưng tất cả đều hiểu: đây không phải trò chơi, mà là canh bạc sinh tử.

Ba lần cất cánh, một lần thành công. Hai lần đầu tiên thử bay, khinh khí cầu không đạt đủ độ cao hoặc gặp trục trặc. Mỗi lần thất bại đều kèm theo nguy cơ bị phát hiện. Strelzyk và Wetzel đã cân nhắc bỏ cuộc, nhưng nỗi sợ hãi sống mãi trong nhà tù cộng sản còn lớn hơn cả cái chết.

Rạng sáng ngày 16 Tháng Chín năm 1979, họ quyết định thử lần cuối cùng. Khi lửa bùng lên trong buồng đốt, khinh khí cầu khổng lồ từ từ nhấc bổng tám con người – hai gia đình, gồm cha mẹ và bốn đứa trẻ – bay lên bầu trời đêm.

Ánh đèn pha từ các tháp canh quét qua, lính biên phòng nhìn thấy một vật thể lạ đang lơ lửng. Không ai nghĩ đó là khinh khí cầu, nên không có phát súng nào bắn ra. Chiếc bóng bay lắc lư trong gió, rất nguy hiểm. Sau 28 phút bay, họ vượt qua biên giới, đáp xuống gần một ngôi làng nhỏ ở Bavaria (Tây Đức). Cuộc hạ cánh nặng nề quá làm Günter Wetzel gãy chân, nhưng tất cả tám người đều sống sót.

Khi cảnh sát Tây Đức tìm thấy họ, chính quyền địa phương ban đầu còn ngờ ngợ: làm sao một khinh khí cầu như đồ chơi lại chở được cả gia đình vượt thoát? Nhưng rồi, niềm tin vào tự do đã chiến thắng.

Ý nghĩa và biểu tượng của chuyến bay tự do. Cuộc vượt ngục bằng khinh khí cầu ngay lập tức trở thành tin chấn động thế giới. Báo chí phương Tây ca ngợi đó là minh chứng cho sự khát khao tự do của con người không gì có thể ngăn cản.

Với nhiều người Đông Đức, sự kiện ấy khơi dậy niềm hy vọng: bức tường, dù dày đến đâu, cũng không thể giam hãm mãi. Với chính quyền Đông Đức, đây là một cú bẽ bàng, buộc họ phải gia cố thêm biên giới và truy lùng những “ý tưởng điên rồ.”

Năm 1982, hãng Disney đã dựng bộ phim “Night Crossing” dựa trên câu chuyện này, đưa sự kiện đến với khán giả toàn cầu. Từ đó, khinh khí cầu Strelzyk – Wetzel trở thành biểu tượng của lòng dũng cảm và sáng tạo trong cuộc đấu tranh cho tự do.

Tự do – giá nào cũng phải trả! Nhìn lại, chúng ta thấy rõ: không có bức tường nào vĩnh viễn chặn được bước chân con người đi tìm tự do. Những viên gạch, những bãi mìn, những trạm gác chỉ là biện pháp cưỡng chế tạm thời. Chính quyền độc tài có thể cầm tù thể xác, nhưng không thể cầm tù khát vọng.

Chuyến bay ngày 16 Tháng Chín năm 1979 nhắc ta rằng, trong lịch sử, những cải tiến kỹ thuật vĩ đại đôi khi không nằm trong phòng thí nghiệm, mà đến từ những con người bình thường, buộc phải sáng tạo để sinh tồn. Một thợ điện, một thợ nề, chứ không phải kỹ sư hàng không, đã làm nên kỳ tích. Đối với chúng ta ngày nay, câu chuyện ấy là lời nhắc nhở: hãy trân trọng tự do mình đang có, vì đã từng có những người liều cả tính mạng để giành lấy nó.

Từ 800 mét vuông vải, vài bình gas, và lòng quyết tâm sắt đá, hai gia đình Đông Đức đã viết nên một chương sử hào hùng. 46 năm đã trôi qua, Bức tường Berlin đã sụp đổ, Chiến Tranh Lạnh đã kết thúc, nhưng chuyến bay khinh khí cầu ấy vẫn còn bay mãi trong ký ức nhân loại – như một biểu tượng bất diệt của lòng can đảm, sự sáng tạo và khát vọng tự do.

(Melbourne)

Đoàn Xuân Thu


 

SỰ HỐI HẬN MUỘN MÀNG

Travid Duong

Ông Oh Kil Nam là người Nam Hàn, được cho đi Tây Đức du học và hoàn thành bằng tiến sĩ vào năm 1985.

Nhưng ông này lúc đó ngu ngơ, đọc chủ nghĩa cộng sản của Các Mác lại cho là chân lý, khi quay về Nam Hàn ông tham gia phong trào phản chiến chống Mỹ, lên án chính quyền Nam Hàn là độc tài.

Ông Oh Kil Nam lập tức được đám cộng sản Bắc Hàn nằm vùng liên lạc, móc nối, dụ dỗ ông đưa gia đình tập kết ra Bắc để phục vụ chế độ cộng sản.

Ông được hứa hẹn sẽ được cho chân giảng dạy ở trường đại học kinh tế, vợ ông có bệnh gan sẽ được chữa chạy miễn phí, con cái được đi Nga du học ..v.v…

Sẵn đang mê muội với chủ nghĩa xã hội của Mác, ông Oh Kil Nam đồng ý, mặc dù vợ ông hết sức phản đối.

Ông lý luận với vợ rằng ” Họ cũng là người Hàn Quốc, họ đâu có thể nào đối xử tệ bạc với đồng hương đâu mà bà lo ! “

Sau đó ông được đưa đi Tây Đức, trốn sang Đông Đức và Nga rồi đáp máy bay đến Bình Nhưỡng.

Vừa đặt chân xuống phi trường Bình Nhưỡng, ông Oh Kil Nam đã nhận ra mình lầm lẫn quá lớn.

Tuy nhà nước Bắc Hàn cho thiếu nhi quàng khăn đỏ ôm hoa ra đón ông rất trang trọng, nhưng ông nhìn thấy ngay rằng những đứa trẻ này ốm tong teo, mặt mũi ngơ ngáo và co ro trong những bộ quần áo mỏng manh cũ kỹ dù đang giữa mùa đông lạnh buốt, chân không có vớ và đi dép nhựa chứ không có giày da.

Vài ngày sau, ông Oh Kil Nam sáng mắt ra là mình đã bị lừa. Vợ ông không được chữa trị gì cả, con ông không được đi du học, bản thân ông càng không được dạy dỗ ai.

Ngược lại cả gia đình phải đi học những khóa tuyên truyền nhồi sọ về chủ nghĩa cộng sản, về lãnh tụ Kim Jong Il, học bài không thuộc thì bị trừng phạt !

Sau đó công an đến làm việc với ông Oh Kil Nam, cho biết ông sẽ được đưa đi Copenhagen Đan Mạch, tại đây ông sẽ đóng giả nhân viên lãnh sự quán, nhưng nhiệm vụ của ông là phải tìm cách liên lạc

và dụ dỗ sinh viên ở Đan Mạch theo cách mạng, dụ họ tập kết đi Bắc Hàn.

Công an hù dọa rằng, nếu không dụ được ai thì vợ con ông sẽ phải trả giá !

Tối đó về nhà 2 vợ chồng ông Oh trùm chăn thì thầm bàn bạc với nhau. Ông định làm theo lời công an để cứu vợ con thì vợ ông tát ông 1 cái nảy lửa.

Bà nói ông đã ngu bị lừa thì phải ráng mà chịu, không thể làm hại đến người khác. Bà chấp nhận hy sinh chứ không cho ông hại

người !

Ông bà đồng ý với nhau rằng khi đến Đan Mạch, ông phải tìm cách trốn, rồi sau đó tìm cách cứu vợ con ra sau.

Khi đến phi trường Đan Mạch, ông Oh Kil Nam lén kẹp vào hộ chiếu của mình 1 tờ giấy nhỏ ghi 2 chữ ” Help Me ” ( Giúp Tôi ).

May mắn là nhân viên Đan Mạch có kinh nghiệm với người cầm hộ chiếu Bắc Hàn hay xin tỵ nạn nên đã âm thầm giúp đỡ, đưa ông thoát ra bằng lối khác và liên lạc với tòa đại sứ Đức giúp ông.

Tuy trốn thoát, nhưng từ đó đến nay, mặc dù ông Oh Kil Nam đã cố gắng hết sức và chạy vạy khắp nơi cầu cứu, ông vẫn không thể đưa được vợ con rời khỏi Bắc Hàn.

Người liên lạc bí mật ở Bắc Hàn cho ông biết rằng vợ con ông đã bị trừng phạt vì sự trốn chạy của ông, đã bị đưa vào trại cải tạo lao động khổ sai.

Năm 1991 ông nhận được 6 tấm ảnh của vợ và con gái với 1 cuộn băng cassette ghi âm vợ con ông kêu gọi ông quay lại Bắc Hàn, nhưng ông biết đây là cái bẫy, ông mà quay trở lại thì cả gia đình vẫn chỉ có 1 con đường chết mà thôi.

Cho đến nay, ông Oh Kil Nam vẫn sống 1 mình ở Nam Hàn, ông không biết vợ con mình ở Bắc Hàn còn sống hay đã chết.

Ông sống trong đau khổ, dằn vặt triền miên cả cuộc đời là chỉ vì ngu ngốc tin vào lý thuyết ảo của Các Mác, tin vào những lời hứa hẹn đường mật của cộng sản, mà ông đã hại chết vợ con, tàn hại cả cuộc đời mình !

Ở VN, cũng có không ít trí thức miền Nam và hải ngoại ngu ngốc bị cộng sản miền Bắc lừa gạt như thế , cắm đầu đi theo cộng sản để rồi thân tàn ma dại, gia đình tiêu tán !

Vậy mà đến tận bây giờ, vẫn có hàng chục ngàn trí thức chưa sáng mắt, thật là kinh khủng !!


 

Chuyện hiếm có – Bill Haast- HUYỀN THOẠI TÂY ĐỘC ÂU DƯƠNG PHONG 

HUYỀN THOẠI TÂY ĐỘC ÂU DƯƠNG PHONG có thật ngoài đời này !!

Bill Haast da cong hien cho nhan loai su nghiep vi dai nghien cuu loai huyet thanh (Serum)  tri Ran can

Viec lam cua ong da cuu song bao trieu nguoi tren the gioi sau nay– Ong phai duoc xung dang lanh Nobel ????

HUYỀN THOẠI TÂY ĐỘC ÂU DƯƠNG PHONG của Kim Dung có thật ngoài đời này, có những con người sống một kiếp bình lặng, và cũng có những người sống như truyền thuyết, Bill Haast là một trong số đó. Ông không phải là ngôi sao Hollywood, càng không phải tỷ phú công nghệ. Nhưng trong thế giới của rắn độc , ông là huyền thoại.

Bill Haast (1910–2011) sống hơn 100 năm – và suốt cả thế kỷ ấy, ông đã cầm trên tay hơn 3 triệu con rắn độc. Vâng, ba triệu con rắn độc thật sự – không phải con số phóng đại cho hay.

Ông bị cắn ít nhất 172 lần tính đến năm 2008. Trong đó có đến 20 lần suýt chết. Và có một lần… ông bị rắn Cottonmouth cắn vào đầu ngón tay, đau đớn, nhưng không hoảng loạn. Bill lạnh lùng bảo vợ mình “Lấy cây kéo làm vườn cắt phăng ngón này ngay đi.”

Từ năm 1948, ông tự tiêm nọc độc rắn hổ mang (cobra venom) vào cơ thể – không vì điên rồ, mà vì một mục tiêu duy nhất: xây dựng hệ miễn dịch chủ động.

60 năm sau, Bill có kháng thể chống lại hơn 30 loài rắn độc khác nhau. Trong người ông, máu không chỉ là sự sống, nó là huyết thanh quý hiếm.

Đã có 21 người trên thế giới từng bị rắn độc cắn và không thể chờ đợi huyết thanh điều chế. Họ được cứu sống bằng máu của Bill – truyền trực tiếp.

Trong đó, nổi tiếng nhất là một cậu bé ở Venezuela. Huyết thanh khan hiếm, thời gian không còn. Bill Haast đích thân băng rừng, vượt suối, mang theo chính máu của mình để hiến tặng – và cậu bé sống.

Chính phủ Venezuela sau đó đã trao ông quyền công dân danh dự, như một biểu tượng của sự biết ơn.

Năm 1989, dù đã có kháng thể với hơn 30 loài rắn, Bill Haast vẫn bị đe dọa tính mạng khi bị cắn bởi Pakistani Pit Viper – một loài cực độc, và huyết thanh đặc hiệu chỉ có tại Iran.

Khi thời gian không còn, Toà Bạch Ốc đích thân liên lac  chính phủ Iran, dùng quan hệ ngoại giao để khẩn cấp đưa huyết thanh đó về Mỹ cứu Bill – một con người không thuộc về chính phủ nào, nhưng thuộc về y học và nhân loại.

Bill Haast qua đời năm 2011, hưởng thọ 100 tuổi rưỡi. Không phải vì rắn, không phải vì nọc độc, mà vì tuổi già, mà vì ông đã sống đủ lâu để chứng minh cho thế giới thấy: nọc độc không giết được người hiểu và tôn trọng nó. Ông từng nói :

“Tôi không sợ rắn. Tôi sợ sự ngu dốt và kiêu ngạo khi xem thường nó.”

Di sản của ông không chỉ là máu, mà là kiến thức cho cả ngành y. Nhờ Bill Haast, hàng chục loại huyết thanh kháng nọc độc được phát triển. Nhờ những lần bị cắn, những lần suýt chết, những vết sẹo rải khắp tay, ông để lại hàng thập kỷ dữ liệu thực nghiệm sống, giúp các nhà khoa học rút ngắn hàng chục năm nghiên cứu.

Bill Haast không phải siêu nhân. Ông là một con người bình thường dám bước vào thế giới tử thần, để biến thứ giết người thành thứ cứu người.

Hơn 3 triệu con rắn. Hơn 172 lần bị cắn. Hơn 100 năm sống. 21 người được cứu bằng máu của ông và hàng triệu người sẽ được cứu bởi sự cống hiến của ông. 

Và ông xứng đáng được gọi là The King of Venom.


 

Trump: Mỹ không kích 3 cơ sở nguyên tử ở Iran

Ba’o Nguoi-Viet

June 21, 2025

WASHINGTON, DC (NV) – Mỹ không kích ba cơ sở nguyên tử ở Iran hôm Thứ Bảy, 21 Tháng Sáu, Tổng Thống Donald Trump loan báo trên mạng xã hội Truth Social của ông, theo USA Today.

Vụ không kích này xảy ra giữa lúc cuộc chiến Israel với Iran bước qua tuần thứ nhì.

Tổng Thống Donald Trump phát biểu tại Tòa Bạch Ốc tối 21 Tháng Sáu về cuộc tấn công Iran. (Hình: Carlos Barria – Pool/Getty Images)

“Chúng tôi vừa hoàn tất cuộc tấn công rất thành công vào ba cơ sở nguyên tử ở Iran, gồm Fordo, Natanz, và Esfahan,” ông Trump viết trên Truth Social. “Toàn bộ phi cơ hiện đã ra khỏi không phận Iran. “Phi cơ chở đầy bom thả xuống cơ sở chính, Fordo.”

“Toàn bộ phi cơ đang trên đường trở về an toàn,” ông Trump thêm. “Chúc mừng những chiến binh Hoa Kỳ tài giỏi của chúng ta. Không quân đội nào trên thế giới làm được như vậy. Bây giờ là thời điểm cho hòa bình.”

Phi cơ ném bom B2 được dùng trong chiến dịch này, một nguồn tin biết vụ này cho hay, theo CNN.

Tối Thứ Bảy, tại Tòa Bạch Ốc, Tổng Thống Trump phát biểu về cuộc tấn công ba cơ sở nguyên tử ở Iran: “Tối nay, tôi có thể báo cáo với thế giới rằng các cuộc tấn công này là một thành công quân sự ngoạn mục. Các cơ sở làm giàu uranium nguyên tử quan trọng của Iran đã bị xóa sổ hoàn toàn và triệt để. Iran, kẻ bắt nạt Trung Đông, giờ đây phải tạo dựng hòa bình. Nếu không, các cuộc tấn công trong tương lai sẽ lớn hơn nhiều và dễ dàng hơn,” theo Reuters.

“Hoặc là hòa bình hoặc sẽ có thảm kịch cho Iran, lớn hơn nhiều so với những gì chúng ta đã chứng kiến trong tám ngày qua. Hãy nhớ rằng, vẫn còn nhiều mục tiêu. Đêm nay là mục tiêu khó khăn nhất trong số đó, và có lẽ là mục tiêu nguy hiểm nhất. Nhưng nếu hòa bình không đến nhanh chóng, chúng tôi sẽ nhắm vào những mục tiêu khác với tốc độ, sự chính xác và kỹ năng,” ông Trump tuyên bố.

“Tôi muốn cám ơn và chúc mừng Thủ Tướng Bibi Netanyahu (tên của ông Benjamin Netanyahu, thủ tướng Israel). Chúng tôi đã làm việc như một đội, có lẽ chưa từng có đội nào làm việc như vậy trước đây, và chúng tôi đã đi một chặng đường dài để xóa bỏ mối đe dọa khủng khiếp này đối với Israel,” ông Trump nói.

Khói bốc lên từ những đám cháy ở khu vực bị nghi là nơi phóng hỏa tiễn của Iran bị Israel không kích trên núi Shiraz, Iran, hôm Thứ Bảy, 21 Tháng Sáu, trước khi Tổng Thống Donald Trump tuyên bố Mỹ không kích ba cơ sở nguyên tử Iran. (Hình minh họa: Hiroon/Middle East Images/AFP via Getty Images)

Chiến dịch hôm Thứ Bảy lập tức bị ít nhất một giới chức Cộng Hòa chỉ trích. Đó là Dân Biểu Thomas Massie của Kentucky.

Ông Massie đăng lại thông báo của Tổng Thống Trump lên mạng xã hội cùng với câu: “Vụ này không hợp Hiến Pháp.”

Trước đó, ông Massie đưa ra dự luật ngăn chặn ông Trump tham gia cuộc chiến Israel-Iran nếu Quốc Hội không chuẩn thuận.

Cũng hôm Thứ Bảy, trước khi Tổng Thống Trump công bố chiến dịch ném bom Iran, Bộ Ngoại Giao Mỹ bắt đầu di tản công dân Mỹ ra khỏi Israel và vùng West Bank, ông Mike Huckabee, đại sứ Mỹ ở Israel, cho hay trên mạng xã hội X.

Cuộc chiến bùng nổ hôm Thứ Sáu tuần trước sau khi Israel không kích phủ đầu Iran, chủ yếu nhắm vào cơ sở làm giàu uranium để ngăn chặn Iran chế tạo vũ khí nguyên tử. Kể từ đó, hai bên tấn công qua lại, và mới tuần này, Tổng Thống Trump cho biết đang có “nhiều cơ hội” để Mỹ đàm phán với Iran nên ông muốn chờ thêm hai tuần mới quyết định tấn công nước này hay không. (Th.Long) [qd]