Nước Mỹ sau nội chiến và bài học hòa hợp dân tộc

Nước Mỹ sau nội chiến và bài học hòa hợp dân tộc

Nguyễn Hòa Bình (tổng hợp)

 

Tháng 4 của Hoa Kỳ là một ngày tháng đáng lưu ý của lịch sử. Cuộc nội chiến Nam Bắc Hoa Kỳ bắt đầu vào ngày 12 tháng 4-1861. Bốn năm sau vào ngày 9 tháng 4-1865, tướng Lee của miền Nam đầu hàng tướng Grant của miền Bắc…

Cuộc chiến tranh với hàng trăm trận đánh tại miền Ðông Hoa Kỳ trong trọn vẹn 4 năm đã làm cho quân hai bên chết 620 ngàn và hàng triệu người bị thương tích. Miền Bắc thắng trận, thống nhất đất nước, giải phóng nô lệ và hy sinh thêm vị anh hùng Mỹ quốc. Ðó là Tổng Thống Lincoln.

Trong trận đánh cuối cùng, quân miền Bắc chiếm được Richmond là thủ đô của miền Nam vào ngày 2 tháng 4-1865. Hai ngày sau Tổng Thống Lincoln của Hoa Thịnh Ðốn đến thị sát Richmond, bước vào dinh tổng thống miền Nam đã bỏ chạy. Tiếp theo là Tướng Lee đầu hàng ngày 9 tháng 4 và vào ngày 15 tháng 4-1865, Tổng Thống Lincoln bị ám sát chết.

Vị tổng thống thứ 16 trở thành vĩ nhân thống nhất đất nước và giải phóng nô lệ nhưng chỉ vui với chiến thắng chưa được một tuần lễ.

Sau chiến tranh dành độc lập, mười ba xứ thuộc địa Bắc Mỹ thắng Anh quốc trở thành Hoa Kỳ với tổng thống Washington thì tiếp theo đến trận nội chiến chia đôi Nam Bắc là một vết thương đau đớn nhất.

Vào thời kỳ đó, nước Mỹ gồm các tiểu bang Ðông Bắc có thủ đô Hoa Thịnh Ðốn chủ trương giải phóng nô lệ. Tổng thống Hoa Kỳ là Luật Sư Lincoln tuyên bố quốc gia không thể có hai luật, một nửa có nô lệ, một nửa không.

Quân chính phủ miền Bắc gọi là quân đội Potomac, lấy tên của dòng sông diễm lệ chạy qua thủ đô. Các tiểu bang miền Nam sống về canh nông quyết đòi giữ lại chế độ nô lệ để khai thác cho nông nghiệp. Tổng thống miền Nam là ông Davis. Thủ đô là Richmond và quân đội do tướng Lee chỉ huy được gọi là quân đội Virginia.

Nội chiến xảy ra trong hai nhiệm kỳ của ông Lincoln từ 1861 đến 1865 với hai vị tướng chỉ huy sau cùng là Tướng Ulysses S. Grant của miền Bắc và Tướng Robert E. Lee của miền Nam. Tuy miền Nam với các tiểu bang ly khai bầu ra một Tổng Thống Jefferson Davis nhưng nhân vật anh hùng miền Nam chính là Tướng Lee.

Khi cuộc chiến Nam Bắc bùng nổ, nước Mỹ chia đôi. 11 tiểu bang miền Nam ly khai với 9 triệu dân và thêm 4 triệu dân nô lệ da đen. Chính phủ liên bang Hoa Kỳ còn lại 21 tiểu bang miền Bắc với 20 triệu dân.


Nội chiến Hoa Kỳ

Ông Robert Lee nguyên là tướng lãnh của quân đội liên bang Hoa Kỳ nhưng gốc người miền Nam. Ông đã từng là chỉ huy trưởng trường West Point.

Tháng 4-1861 khởi chiến Nam Bắc, Tướng Lee được đề nghị chỉ huy quân đội miền Bắc nhưng ông không nhận và xin từ nhiệm để về đầu quân miền Nam tại Richmond, tiểu bang Virginia. Ông nói là không thể quay lưng với nơi ông đã sinh ra và trưởng thành.

Trong chiến tranh, ông lập được nhiều chiến công và là vị tư lệnh sau cùng của miền Nam nhưng sau khi thủ đô Richmond của miền Nam bị thất thủ, ông đã quyết định đầu hàng.

Cuộc chiến tranh tương tàn đẫm máu làm tổn hại hàng triệu sinh linh Hoa Kỳ, tan nát các đô thị miền Ðông và vùng Virginia. Tất cả đã thể hiện trong tác phẩm và cuốn phim bất hủ Cuốn Theo Chiều Gió mà chúng ta đã đọc cũng như coi nhiều lần suốt thời niên thiếu.

Ngay cho đến bây giờ, tác phẩm này vẫn còn là tài liệu được đem dạy ở trường học với sự say mê và hãnh diện của nhiều thế hệ Hoa Kỳ.


Lincoln và tướng McClellan (1862)

Trước tiên bắt đầu về câu chuyện đầu hàng. Sau chiến tranh, nước Mỹ sưu tầm và dựng lên khắp miền Ðông hàng trăm viện bảo tàng. Mỗi tiểu bang ít nhất là một viện bảo tàng. Mỗi trận đánh trên chiến trường xưa cũ với các di tích đều có một viện bảo tàng.

Bằng hội họa, nhiếp ảnh, dữ kiện, thêm vào âm thanh ánh sáng người ta dựng lại lịch sử các cuộc thương thuyết, các cuộc điều binh và các trận liệt. Quân đội hai bên Nam Bắc, quân phục màu xanh, quân phục màu xám, các tướng lãnh, sĩ quan, binh sĩ và dân chúng. Những cái chết đau thương và anh hùng của cả hai bên, những mối tình bất hủ, tràn đầy hình ảnh em hậu phương, anh tiền tuyến.


Nội chiến Hoa Kỳ với 2 màu cờ

Không phải hàng trăm mà có đến hàng ngàn tác phẩm điện ảnh về chiến tranh Nam Bắc. Cả những phim vĩ đại mới ra đời trong vài năm gần đây vẫn còn hình ảnh của cuộc nội chiến ngày xưa.

Cuộc nội chiến đau thương xưa cũ đã là niềm cảm hứng cho tinh thần nhân bản xây dựng trên tro tàn của một thời nội chiến Hoa Kỳ.

Bài học phải bắt đầu từ câu chuyện đầu hàng.

Ðúng như vậy, trong hàng trăm bảo tàng viện về Civil War của Hoa Kỳ, thì viện bảo tàng Appomattox Court House ở Virginia là nơi nổi tiếng nhất vì dựng lên ngay tại một ngôi nhà mà Tướng Lee đã đến ký văn bản đầu hàng ngày 9 tháng 4-1865.

Tại đây, câu chuyện về vị tướng phe bại trận miền Nam lại được viết ra và hình ảnh của ông lại được chiêm ngưỡng nhiều hơn cả phe thắng trận.


Tượng vị tướng Robert E Lee

Lịch sử ghi lại rằng vào sáng ngày 9 tháng 4 cách đây 140 năm, thủ đô miền Nam là Richmond thất thủ, kỵ binh của miền Bắc cùng với 3 quân đoàn bộ binh vây hãm quân miền Nam hết đường tháo lui.

Bộ tham mưu của Tướng Lee đề nghị phân tán để giữ lực lượng đánh du kích, nhưng Tướng Lee quyết định đầu hàng. Vị danh tướng của Hoa Kỳ trải qua bao nhiêu chiến thắng nhưng sau cùng vì quân số và tiếp vận bị giới hạn nên đành bất lực chấp nhận thua cuộc. Với lá thư riêng ông gửi cho Tướng Grant của miền Bắc yêu cầu thu xếp buổi họp mặt.

Ông Grant nhận được thư hết sức vui mừng và bỗng nhiên thấy hết ngay cơn bệnh nhức đầu ghê gớm hành hạ ông từ nhiều ngày qua.

Vị tư lệnh miền Bắc ra lệnh nghiêm cấm các sĩ quan và binh sĩ trực thuộc không được tỏ ra bất cứ hành động nào vô lễ với ông tướng tư lệnh miền Nam bại trận.

Trưa ngày lịch sử 9 tháng 4-1865, Tướng Lee và một đại tá tùy tùng cưỡi ngựa vượt qua phòng tuyến đến nơi hẹn ước. Hình ảnh ghi lại hai người đi qua đoàn quân nhạc của lính miền Bắc thổi kèn chào đón. Các sĩ quan miền Bắc đưa vị tư lệnh miền Nam vào phòng họp. Nửa giờ sau Tướng Grant và đoàn tùy tùng miền Bắc đến.

Cả hai vị tư lệnh đã biết nhau trong cuộc chiến tranh với Mễ Tây Cơ. Họ đã nhắc lại một thời bên nhau trong quá khứ. Tướng Grant sau này thú nhận là ông rất ngần ngại và thực sự hổ thẹn khi phải hỏi Tướng Lee nói về quyết định đầu hàng.

Theo quy luật chiến tranh thời đó, quân miền Nam phải giải giới, tước bỏ khí giới và quân dụng. Tự do trở về quê cũ như các dân thường. Tướng Lee đồng ý nhưng chỉ đòi hỏi một điều sau cùng là yêu cầu cho binh sĩ của ông được giữ lại lừa ngựa, vì lính miền Nam đem ngựa từ các nông trại của họ đi chiến đấu. Không phải ngựa của chính phủ cấp như lính miền Bắc.

Tướng Grant thỏa hiệp là sẽ không sửa chữa chính thức trên văn bản nhưng thực tế sẽ cho lệnh để lính miền Nam đem lừa ngựa về nhà mà xây dựng lại nông trại.


Phe bại trận có cờ hình gạch chéo

Sau này khi viết về văn bản đầu hàng, lịch sử ghi rằng đây là thỏa hiệp của những người quân tử (The Gentlemen’s Agreement). Trên các bảo tàng viện và đặc biệt là bảo tàng viện ở Appomattox Virginia có tranh sơn dầu hình Tướng Lee hiên ngang quắc thước trong bộ quân phục xanh dương, tóc và râu bạc, thể hiện hình ảnh người Mỹ anh hùng không bị khuất phục dù thua trận. Toàn thể nước Mỹ hiểu rằng khi một người Mỹ bị nhục, thì dù là Mỹ miền Nam hay Mỹ miền Bắc cũng vẫn là một người Mỹ bị sỉ nhục.

Thực vậy, 140 năm sau, cô Mary quản thủ viện bảo tàng đầu hàng đã nói rằng dù hình ảnh của miền Nam hay miền Bắc, lịch sử không muốn ghi lại các hình ảnh xấu xa của bất cứ phe nào.

Ở đây là nơi lưu giữ hình ảnh của các anh hùng miền Nam lẫn miền Bắc. Ðặc biệt là hình ảnh của phe bại trận lại được lưu ý hơn cả phe chiến thắng. Lá cờ rách của miền Nam thua trận treo tại thủ đô Richmond bây giờ lại là bảo vật hào hùng của bảo tàng viện đầu hàng.

Và hình Tướng Lee cưỡi ngựa đi đến nơi họp mặt với đoàn quân nhạc miền Bắc chào đón. Hình Tướng Lee ký tên xong ra đi được sĩ quan và binh sĩ miền Bắc tiễn đưa và vẫy tay chào.

Bây giờ hình tượng của tướng Lee tràn ngập ở miền Nam Virginia. Câu lạc bộ Lee, bảo tàng viện Lee, Lee High Way, Fort Lee và các đồn trại của quân đội liên bang mang tên vị tướng thua trận như là một biểu tượng anh hùng. Bởi vì người Mỹ đã thấm nhuần bài học rất Hoa Kỳ. Bài học của người lính dũng cảm cả hai phe trong chiến tranh và người quân tử của thời hậu chiến.

Trong cuộc nội chiến tại nước Mỹ vào thế kỷ 19, sau cùng được thua thì cũng vẫn là nước Mỹ và người Mỹ.

Chiến thắng của miền Bắc đặt dấu chấm hết cho Liên minh miền Nam cũng như chế độ nô lệ Hoa Kỳ, và làm tăng cường vai trò của chính phủ liên bang. Các vấn đề xã hội, chính trị, kinh tế và chủng tộc của cuộc Nội chiến đã có vai trò quyết định trong việc định hình Thời kỳ Tái thiết, kéo dài đến năm 1877.

Sau bản tuyên ngôn giải phóng nô lệ của Lincoln, khoảng 190 nghìn dân nô lệ tình nguyện tòng quân, quân số của miền Bắc lên gấp bội. Trong khi đó miền nam không dám cho nô lệ nhập ngũ vì sợ đi ngược lại chính sách nô lệ của mình. Quân da đen miền Bắc chiến đấu anh dũng trong nhiều trận then chốt của cuộc nội chiến. Ngoài ra còn có dân di cư từ châu Âu cũng gia nhập quân miền Bắc. Khoảng 23.4% quân miền Bắc có gốc Đức, với gần 216 nghìn sanh tại Đức.

Bài học nghĩa trang và mộ phần của các liệt sĩ phe chiến bại tại Hoa Kỳ.

Tại nước Mỹ có một nghĩa trang quốc gia nổi tiếng khắp thế giới. Ðó là nghĩa trang Arlington. Ðây là nghĩa trang chính thức của liên bang Hoa Kỳ, của người miền Bắc trong trận chiến Bắc Nam.

Sau cuộc nội chiến, các tiểu bang miền Nam có hàng ngàn nghĩa trang lớn nhỏ chôn cất tử sĩ của phe bại trận và trên đó luôn luôn có lá cờ gạch chéo đã một thời tung hoành trên chiến trường.


Nghĩa trang và mộ phần của các liệt sĩ phe chiến bại tại Hoa Kỳ.

Ngay sau khi chiến tranh chấm dứt, hoàn toàn không có tù binh, ai về nhà đó, cùng xây dựng lại quê hương.

Nghĩa trang bên nào bên đó tự lo lấy, xấu đẹp tùy sức. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là ngay tại nghĩa trang quốc gia của phe miền Bắc ở thủ đô Hoa Thịnh Ðốn có một khu chôn cất tử sĩ miền Nam với tượng đài gọi là Confederate Memorial.

Cũng phải nói rằng, thực sự sau nội chiến, dư vị cay đắng giữa Nam Bắc Hoa Kỳ vẫn còn nhiều. Dễ gì mà trút bỏ hận thù ngay sau khi hai bên chết cả gần một triệu người mà một số lớn đã giết nhau khi giáp mặt bằng gươm dao. Hai phe cùng đốt nhà của nhau và cùng tàn phá đô thị và nông trại, đôi khi có cả những hành động dã man như hãm hiếp phụ nữ và tàn sát trẻ em. Cuộc chiến nào mà không có những lần quá độ.

Năm 1900 tức là gần 40 năm sau cuộc chiến, mở đầu cho giai đoạn hòa giải dân tộc và năm 1991 thì các liệt sĩ miền Nam được cải táng đưa vào một khu đặc biệt trong nghĩa trang Arlington gọi là Confederate Section. Tổng cộng gần 500 mộ phần quây tròn chung quanh một tượng đài do nhà tạc tượng danh tiếng là điêu khắc gia Moses Ezekiel thực hiện.


The Confederate Memorial, Arlington

Trên đỉnh của chân bệ hình vòng cung như nóc Tòa Quốc Hội là hình tượng cao 32 feet của một thiếu phụ tượng trưng cho miền Nam. Ðây là hình ảnh bà mẹ của phe bại trận đã có con trai hy sinh cho cuộc chiến. Phía dưới là bài thơ đại ý như sau:

“Ở đây chẳng có vinh quang hay tưởng lệ.
Ở đây chẳng phải binh đoàn hay cấp bậc.
Ở đây chẳng có tham vọng hay mưu cầu.
Ở đây chỉ đơn thuần là nhiệm vụ.
Những người nằm ở đây đã hiểu rõ
là họ trải qua gian khổ, đã hy sinh
đã liều thân và sau cùng đã chết.”

Ðó là câu chuyện về các tử sĩ của phe thua trận tại Hoa Kỳ.

Bảo tàng viện “Ðầu hàng” và nghĩa trang phe thua trận ở Arlington. Nơi đó thường dạy chúng ta bài học làm người văn minh.

Xem lại lịch sử, chiến cuộc Nam Bắc Hoa Kỳ trong 4 năm rất khốc liệt, máu lửa và ghê gớm vô cùng.

Trong một thời gian ngắn các trận đánh dồn dập, các đô thị bốc cháy lửa cao ngút trời. Cũng tản cư, cũng loạn lạc và chiến tranh để lại các cánh đồng toàn xác chết trong các trận giáp lá cà, đâm chém nhau mặt đối mặt.

Nhưng rồi vết thương nào cũng phải được hàn gắn. Nước Mỹ đã có những bước ngoạn mục đầy màu sắc văn minh ngay từ khi chiến tranh chấm dứt để chấp nhận và tôn trọng người bại trận như những anh hùng.


Tổng thống Obama đến viếng nghĩa trang chung cả thắng và thua

Trong chiến tranh và hậu chiến luôn luôn cần có các nhà lãnh đạo, các tướng lãnh quân tử. Và nhà lãnh đạo quân tử là phải biết xưng tụng các bậc anh hùng trong hàng ngũ kẻ thù, biết nâng người xuống ngựa và biết tôn trọng các tử sĩ của hàng ngũ đối nghịch. Nước Mỹ ngày nay còn hùng mạnh bởi vì biết tôn trọng giá trị của phe đối nghịch.

Trước khi chết, Tổng Thống Lincoln đã nói: “Người ta có thể từ bỏ mọi thứ, nhưng không ai từ bỏ được lịch sử. Trước sau gì, lịch sử của bậc anh hùng sẽ phải được dựng lại ở chính nơi mà những con người vĩ đại đã ngã xuống.”

Ðó là những bài học mà chiến tranh, giết người, đốt nhà, nồi da nấu thịt và sau đó là hành sử của người chiến thắng biết tôn trọng giá trị của kẻ thù đã đem lại cho thế hệ nối tiếp.

Dùng côn đồ trị dân!!!

Dùng côn đồ trị dân!!!

 
Tự do Ngôn luận – Trong số các nhà tranh đấu cho dân chủ nhân quyền hiện nay tại Việt Nam, có lẽ linh mục Nguyễn Duy Tân, quản xứ Thọ Hòa, giáo phận Xuân Lộc là một khuôn mặt độc đáo. Độc đáo ở chỗ ông thường xuyên làm những video clip, nói về nhiều vấn đề xã hội và chế độ một cách bộc trực và thẳng thắn, cung cách có lúc trang nghiêm nhưng đa phần là khôi hài, với giọng lưỡi luôn mềm mỏng. 
 
Chẳng hạn trong 1 bài giảng Mùa Chay năm ngoái (của phụng vụ Công giáo), ông dựa vào cuộc Khổ nạn của Chúa Giêsu: chịu đóng đinh, chịu chết và ngày thứ ba sống lại vinh quang… để suy tưởng về quá trình tất nhiên dẫn tới việc tự giải thể của chế độ cộng sản: khổ đau, tù đày, chết chóc nhưng cuối cùng là một Việt Nam tự do. Dịp các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn ủy lạo hơn 5000 thương binh VNCH nhân lễ Giáng sinh 2016, ông cũng tới để chia sẻ với những thân phận khổ đau, bất hạnh này niềm hy vọng về viễn cảnh lạc quan tương tự (nghĩa là tiên báo CS sắp sụp đổ!). Chính vì thế ông đã bị mời “làm việc” ngày áp Tết Đinh Dậu 2017. Hôm ấy, trước khi tới phòng PA92, vị linh mục xứ Thọ Hòa đã tự mình thực hiện một video clip gởi tới đồng bào và tới cả giới công an. Ông kể câu chuyện tiếu lâm về một cuộc thi tuyển “Ai trung thành với đảng nhất”. Rốt cuộc kẻ chiếm giải là người cầm hình con gà nhưng quả quyết đó là con vịt, chỉ vì đảng, nhà nước và tổng bí thư đã phán như vậy. Nhân tiện ông nói thêm, cũng với giọng lưỡi dịu dàng: “Vừa rồi tôi thấy bác Tô Lâm, rồi bác Trọng chỉ thích bắt đàn bà có con nít. Như Mẹ Nấm có hai con, bé Nấm với thằng Gấu. Chị Thúy Nga có thằng Tài với thằng Phú. Hai chị đều có con mọn… Cứ lựa đàn bà có con mọn bắt đi tù thì tôi cũng không thích. Rồi bắt Mẹ Nấm bỏ tù 7, 8 chục ngày không cho gặp Luật sư và cũng không cho gia đình vào thăm gặp. Như vậy thì tôi cũng không thích đâu nhá”. Ngày 17-04-2017, ông bị Sở Thông tin & truyền thông phạt 20 triệu vì hành vi “thiết lập, sử dụng trang thông tin cá nhân thông qua dịch vụ mạng xã hội Facebook để cung cấp, lưu trữ, truyền đưa những thông tin chống nhà nước”. Ông liền lên mạng xin mỗi người 1000 đồng và tuyên bố sẽ dùng xe tải chở 20 ngàn tờ tiền mệnh giá đó đi nộp. Lần nọ, một an ninh chìm đột nhập vào nhà xứ để theo dõi ông. Phát hiện tên này, ông vội vàng chạy ra nhưng không phải để chất vấn hay đánh đuổi mà là để mời y vào nhà uống bia nói chuyện. Tên này chạy trối chết như bị ma đuổi.
 
Chính vì thế linh mục Tân đã trở thành cái gai trong mắt nhà cầm quyền. Họ cho đám dư luận viên, loại côn đồ vô học và mù quáng tuân lệnh để kiếm sống, viết nhiều bài vở, làm nhiều video clip vu khống thóa mạ ông với những lời lẽ tục tĩu sống sượng. Công an địa phương sách nhiễu ông đủ kiểu, đòi ông lên đồn hạch hỏi cả mấy chục lần. Thậm chí, vào cuối tháng 04-2017, khi ông ra Nghệ An thăm linh mục Đặng Hữu Nam, quản xứ Phú Yên cùng giáo hữu của vị này, nạn nhân thảm họa Formosa, sau đó đi biểu tình với họ, phó chủ tịch UBND Nghệ An đã ngang nhiên ra công văn cấm cản ông vì “trong những buổi giảng lễ, linh mục Nguyễn Duy Tân đã có những lời lẽ xuyên tạc, vu cáo đường lối, chính sách của đảng, cổ vũ các hoạt động tuần hành, biểu tình, gây phức tạp về an ninh trật tự trong thời gian qua”.
 
Nhưng đỉnh điểm của thái độ thù ghét có lẽ là sự kiện sáng ngày 04-09 vừa qua. Hôm ấy, một nhóm nam nữ, đa phần trẻ tuổi, đi trên một chiếc xe 52 chỗ, đã tự tiện xâm nhập nhà xứ Thọ Hòa, mang theo nhiều cờ đỏ như một kiểu biện minh cho tính “chính danh”. Chúng vừa đi vừa truyền thông trực tiếp lên mạng, một kiểu bộc lộ thói ngang nhiên bất cần đời. Và lập tức ai nấy nhận ra ngay chúng thuộc nhóm côn đồ từng đột nhập một khu chung cư tại quận 2 Sài Gòn ngày 02-05-2017 để hành hung tàn bạo chị Lê Mỹ Hạnh, một phụ nữ hoạt động cho nhân quyền cùng hai người bạn, với lý do họ là “bọn phản động cờ vàng”! Lần ấy tên cầm đầu Phan Sơn Hùng cũng đưa lên mạng toàn bộ video clip chúng quay về vụ hành hung, như một thành tích đáng nể. Bọn côn đồ này cũng đã đến trước cổng Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn ngày 17-07-2017, bắt loa phản đối việc nhà Dòng đang khám sức khỏe và chữa bệnh cho các thương binh Việt Nam Cộng Hòa. Chúng tàn nhẫn lăng mạ những chiến binh ngã ngựa đã từ hơn 42 năm trước. Việc làm của chúng -dĩ nhiên không phải tự phát mà là theo lệnh từ trên- cho thấy đến nay, cộng sản vẫn tiếp tục lòng căm hận, coi bên quốc gia là kẻ thù, dù luôn ra rả sự hòa giải. Sau đó công luận đã yêu cầu nhà cầm quyền phải xử lý bọn côn đồ ấy theo pháp luật, thế nhưng chúng vẫn nhởn nhơ, an toàn.
 
Nay chúng đến nhà xứ Thọ Hòa giữa lúc vắng vẻ, mang theo băng-rôn biểu ngữ thật lớn, đòi nghiêm trị linh mục Tân trước luật pháp “vì tội lợi dụng tôn giáo, tuyên truyền xuyên tạc, xúc phạm lãnh tụ, đi ngược lại lợi ích quốc gia dân tộc”, phản đối ông “tuyên truyền kích động đòi lật đổ nhà nước CHXHCNVN”. Dùng loa thùng công suất lớn, chúng đến trước cửa sổ phòng vị quản xứ, dối trá tự xưng là những giáo dân Công giáo, vô lễ xấc xược đòi ông phải ra “đối thoại” với chúng về “chủ tịch Hồ Chí Minh” mà theo chúng là bị ông nói xấu vì đã có lần được ông phong tặng tước hiệu “danh nhân văn hóa thế giới”, vượt quyền UNESCO! Chúng cũng đòi ông trả lời vì sao đã yêu cầu mở cuộc trưng cầu dân ý để nhân dân có dịp lật đổ đảng CS! Chúng còn dọa sẽ có “biện pháp xử lý” nếu ông không chấp hành. Hóa ra chỉ là một âm mưu đấu tố vị linh mục! Trước thái độ vô giáo dục, bất lễ nghĩa này, ông đã chỉ gọi giáo hữu Thọ Hòa đến.
 
Họ đã vây lấy đám quấy rối lộng hành này, yêu cầu chúng cư xử cho phải phép. Họ cũng bất ngờ và kinh hoảng phát hiện vài đứa trong bọn có mang theo vũ khí. Chúng liền bỏ chạy, vất súng vào nhà hàng xóm hay xuống mương, nhưng có mấy tên bị bắt trói lại. Giáo dân tịch thu được một khấu súng ngắn và một roi điện. Cùng lúc, nhà cầm quyền địa phương và công an khu vực cũng đến. An ninh chìm cũng xâm nhập dày đặc và nhiều ngả đường đến Giáo xứ bị chặn lại. Với ý định giải vây đồng bọn, người nhà nước đòi đem đám côn đồ về đồn gọi là để điều tra. Nhưng dưới sự điều khiển của linh mục Tân từ trong căn phòng của mình, các giáo dân, với thái độ bình tĩnh, ôn hòa nhưng cương quyết, buộc mỗi một trong bọn (tất cả 13 tên, chưa kể số đã chạy trốn) phải ngồi xuống viết giấy khai báo tên tuổi, giải thích hành vi rồi mới được giao cho nhà cầm quyền.
 
Toàn bộ những sự việc xảy ra cho linh mục Tân như nói trên một lần nữa cho thấy nhà cầm quyền CS đang sử dụng lại phương thức đấu tố thời Cải cách Ruộng đất. Điển hình là vụ đấu tố khiếm diện 2 linh mục Đặng Hữu Nam và Nguyễn Đình Thục bởihơn 2.000 người dân được thuê mướn và kích động thuộc xã Sơn Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An ngày 06-05-2017. Hôm ấy cũng cờ đỏ rợp trời, cũng tiếng la vang dậy, với những bộ mặt đằng đằng sát khí. Sau đó là những đám tiểu yêu vừa đi vừa hét: “Giết giết bọn linh mục phản động”. Một dạng Hồng Vệ binh kiểu Việt Nam! Việc hành hung vị quản xứ Thọ Hòa cũng chứng tỏ nhà cầm quyền tiếp tục dùng đám lưu manh côn đồ -có sự hỗ trợ của công an đủ loại- để hành xử thô bạo với bất cứ người dân nào dám đòi hỏi công lý, kể cả những nhà tu hành. Điển hình là vụ lực lượng có chức năng đánh đập và nhả đạn vào giáo dân giáo họ Văn Thai (thuộc giáo xứ Song Ngọc của linh mục Nguyễn Đình Thục) khiến hơn 40 người bị thương vào ngày 28-05-2017. Hai hôm sau, lúc 23g tối, côn đồ cảnh sát lại ném đá vào nhà của nhiều giáo dân cũng cùng giáo họ, xâm nhập gia cư lôi tượng thánh và cả bàn thờ ra bên ngoài đập phá. Trắng trợn hơn nữa là vụ 200 công an phối hợp với côn đồ phá hủy Thánh giá và hành hung các tu sĩ đan viện Thiên An (nằm trên địa bàn thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên-Huế) ngày 28-06-2017.
 
Những hành vi côn đồ trên đây đều nằm trong loạt động thái chống lại nhân dân, chống lại các tôn giáo, đặc biệt là Công giáo của nhà cầm quyền Cộng sản kể từ khi có thảm họa tại Vũng Áng, Hà Tĩnh (tháng 4-2016) vốn đã làm dấy lên phong trào phản kháng của cả nước, nhất là của Giáo phận Vinh, nạn nhân chính của thảm họa. Trước những hành vi chính đáng của Giáo phẩm, Giáo sĩ và Giáo dân Công giáo nói riêng và đồng bào nói chung nhằm đòi lại môi trường sống trong lành, đòi truy tố tên tội phạm Formosa lẫn các đồng phạm như Võ Kim Cự, đòi chính phủ công bố toàn thể sự thật đại nạn và cấp tốc hành động cứu biển; song song đó là yêu cầu nhà nước tôn trọng các nhân quyền cơ bản vốn càng lúc càng bị chà đạp, có những hành động thiết thực nhằm bảo vệ lãnh thổ trước mưu đồ xâm lăng của Tàu cộng vốn càng lúc càng lộ liễu, đám lãnh đạo ở Ba Đình đã chỉ đáp trả bằng việc vu khống thóa mạ, trấn áp biểu tình, ngăn cản khiếu kiện, triệt hạ thánh thất, bắt bớ những ai tích cực trong việc đấu tranh cho những vấn đề sinh tử cơ bản đó của Dân tộc.
 
Rõ ràng là Cộng sản đã và đang tuyên chiến với các Giáo hội qua những hành vi bất nhân và vô luật nói trên, nhờ tay lực lượng công an “còn đảng còn mình” đầy tàn nhẫn và lực lượng côn đồ “có đảng có tiền” đầy mù quáng; đã và đang tuyên chiến với phong trào dân chủ qua việc sách nhiễu hành hung đủ kiểu cũng nhờ hai lực lượng kể trên, qua việc bắt bớ hàng loạt và kết án nặng nề những công dân thiện chí và yêu nước. Biết là những hành vi bất nhân và vô luật này chẳng giúp giải quyết mọi vấn đề nhức nhối của Đất nước, nhưng Cộng sản vẫn cứ làm một cách mù quáng và say máu, chỉ vì muốn duy trì được ngày nào hay ngày ấy sự tồn tại của chế độ.
 
Mới đây, hôm 11-9, Bộ Nội vụ CS đã trao quyết định về việc bổ nhiệm đại tá Vũ Chiến Thắng – Cục trưởng An ninh Tây Bắc, Tổng cục An ninh, Bộ Công an, giữ chức vụ trưởng ban Ban Tôn giáo Chính phủ. Ông này từng là Giám đốc Công an tỉnh Quảng Trị và trước đó, là Phó giám đốc Công an Nghệ An, cơ quan đã có vô số hành vi sắt máu với thường dân, nhất là giáo dân suốt hai năm qua, sau khi Formosa gây đại nạn cho hàng triệu con người và đang gây hiểm họa tiềm ẩn cho toàn thể đất nước qua những chất động đã đi vào các loại hải sản.
 
Trước nguy cơ nhà cầm quyền dùng lực lượng côn đồ và cả luật lệ côn đồ (vì được biên soạn bất chấp lợi ích của dân) để trị dân, chỉ còn một cách là toàn dân phải đứng dậy. Đặc biệt là các lãnh đạo tinh thần cần biết dẫn dắt tín hữu, vận dụng sức mạnh của quần chúng tôn giáo để khôi phục công lý trong ôn hòa nhưng quyết liệt. Bởi lẽ từ bi bác ái của Đức Phật, Đức Chúa đều đòi hỏi tín đồ vừa phải cứu vớt những người Cộng sản khỏi ý thức sai lầm và hành động bất công, dù phải gánh chịu những đòn thù của họ; vừa phải đem sức mạnh tinh thần của đạo mà giải thoát Dân tộc khỏi chế độ độc tài toàn trị và chủ nghĩa vô thần duy vật.
 
Xã luận bán nguyệt san Tự do Ngôn luận số 275 (15-09-2017)
 
Ban Biên Tập

BÃO NGẦM…

From facebook:  Lê hồng Song added 4 new photos.
 BÃO NGẦM…

Đọc tới lời khai của Nguyễn Xuân Sơn rằng Doanh nghiệp khổ lắm, được vinh hạnh tặng quà cho lãnh đạo là mừng lắm rồi, quà không tương xứng thì coi không được, tôi hơi rùng mình vì…nó khá là thật.

Từ phiên tòa xử cái ngân hàng nhỏ này đã tênh hênh ra cách “làm ăn” thông thường qua các món quà biết điều, chẳng biết đã tạm được coi là tương xứng chưa, mà công lại tới hàng trăm tỉ: 500 triệu mừng sinh nhật bố của sếp và 300 triệu mua bộ đồ chơi goft tặng sếp. Có những doanh nhân như Sơn, cứ than khổ nhưng với sẵn tiền (chùa) của bá tánh, của cô hồn, cứ “bung lụa” như vứt rác, như tung của “thùm lùm”, múa kiểu nào, bung kiểu nào cũng được, 

Nhưng đời lại có rất nhiều những doanh nhân không có “điều kiện” như vậy, vì tiền là tiền của họ. Rồi họ làm sao? Tôi vừa chứng kiến câu chuyện của họ mà chừng như khó tin. Một doanh nhân trung niên kinh doanh lúa gạo ở một tỉnh cực nam hớt hải chạy đến phòng chờ sân bay mà nét mặt còn phảng phất kinh hoàng rất khó diễn tả, tôi mới gặp chiều muộn thứ sáu vừa rồi. Anh kể. Em phải làm một màn kich để thóat thân đó chị. Rằng, sáng nay sau 4 ngày chầu chực để lấy kết quả kiểm định mẫu hàng ở trung tâm của Bộ Y Tế, em được anh nhân viên thường “giúp” em trả lời, đã trình rồi, chắc ký rồi, chờ đưa ra thôi, mà này, sẵn cuối tuần, tối nay anh em đi thư giãn nhé rồi tôi lo tiếp cho. Anh doanh nghiệp “nạn nhân” tươi cười, hay quá, lâu lâu mới được zui với các anh, hẹn gặp tối nay nhé rồi vui vẻ quay ra, và sau đó một lát, nhờ người bạn nhắn vào máy “con mày cấp cứu, vợ mày khóc quá, mày về ngay”. Xong anh fwd tin nhắn cho người nhân viên vừa hẹn hò và ôm cả máy chạy tới vừa trình cái tin nhắn vừa mếu máo, chết rồi, thế này em phải về. Có chết cũng phải lết về, nhà chỉ có hai mẹ con nó ở nhà, không có ai. Anh nín thở một nhịp, kể tiếp, và nói xong là em “tẩu thoát” ngay, ra Nội Bài ngồi chờ bay chẳng mua vé trước. Vì em có kinh nghiệm rồi chị ơi, tối nay nhậu một chầu, mai 2 trận, ngày mốt đi hầu mấy ổng đánh goft, tổng cộng, lần đó em bị dính rồi, không dưới 100 triệu. Chịu trời không thấu, thôi thà em bay về rồi đầu tuần bay ra.

Chị coi có khổ như con chó không?.

Sáng nay, hai doanh nhân bạn tôi nhắn tin từ gĩã đi định cư. Một đi Canada, một đi Úc. Hôm qua, gặp giám đốc của hai công ty lớn mạnh nổi tiếng, các anh báo tin, tưởng là tin vui nhưng nghe giọng ráo hoảnh, không vui không buồn, tụi tôi vừa nói với nhau chuyện lắp gần xong dàn robot, thay tất cả công nhân. Chứ tình hình này chịu không thấu. Chăm lo đời sống cho công nhân không đủ cũng tội, nhưng tiền bảo hiểm sắp tăng mạnh, thuế tăng, phí tăng, giá cả đầu vào mọi thứ đều vù vù nữa. Tôi bật ra ý nghĩ, cùng tắc biến 4.0?

Tôi tính nhẩm, hơn 2.000 gia đình mất việc. Tính già hóa non, người có quyền muốn thu nhiều, doanh nghiệp cũng phải tính đường sống, hoặc họ “tẩu thoát” tạm thời, hoặc họ thay thế thợ, và tiếp tục xoay sở mọi bề, cả phương án…ra đi.

Bão lớn bên Texas mà sao tôi cứ thấy bão xoáy chung quanh mình, chung quanh bạn bè doanh nghiệp của mình. Có điều bão Texas thì có tin tức tivi báo chí, còn bão nhũng nhiễu và mọi gánh nặng chi phí thì…êm ru, mỗi doanh nhân đang phải tự bơi, tự tìm cách tồn tại. Bạn bè PV ti vi cứ hỏi tôi, theo bà, tình hình này, doanh nghiệp làm gì để tăng sức cạnh tranh khi hội nhập? Trời, còn câu nào khó hơn không, hỏi như cắt cổ, cắt ruột người ta, trả lời sao?

Image may contain: 7 people, text
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
No automatic alt text available.
 
 

ĐỐI THOẠI MÙA THU

 
 
From facebook:  Trần Bang
 

ĐỐI THOẠI MÙA THU 

Hai lá thư, một của ông Hữu Thỉnh, quan chức văn CSVN, một của ông Phan Nhật Nam, lính viết văn VNCH giúp công luận thêm tin tức để nhận định thời cuộc.

THƯ CỦA THỦ ĐÔ HÀ NỘI:
Thư gửi : Nhà văn PHAN NHẬT NAM

Thưa anh,

1/ Để đỡ đường đột, xin giới thiệu. Tôi là Hữu Thỉnh, người từng đọc anh đã lâu, hiện nay đang làm việc tại Hội Nhà văn Việt Nam. Tôi mới gặp Thụy Kha vừa ở bên ấy về, cho biết có gặp anh và hai người đã từng cùng nhau uống bia vui vẻ. Đấy quả là một sự kiện bất ngờ thú vị. Với dư âm của các cuộc gặp ấy, tôi viết thư này thăm anh và bày tỏ nguyện vọng “tái bản” cuộc gặp ấy, và di chuyển nó về quê nhà với quy mô rộng hơn, thời gian dài hơn trong khuôn khổ một cuộc gặp mặt của Hội Nhà văn Việt Nam với các nhà văn Việt Nam đang sống và làm việc tại nước ngoài. Đây là một cuộc hội ngộ mà chúng tôi mong mỏi từ lâu, nay mới có thể thực hiện được. Với ý nghĩa cao cả, góp phần làm giàu các giá trị truyền thống của dân tộc, xứng đáng để chúng ta vượt qua mọi xa cách và trở ngại, cùng ngồi lại với nhau trong tình đồng nghiệp. Tôi chờ đợi được anh chia sẻ điều đó và chân thành mời anh tham gia sự kiện nói trên.

Anh Nam ơi, tôi muốn nói thêm rằng, chúng ta đều không còn trẻ nữa. Tôi hình dung cuộc gặp này là rất có ý nghĩa cho những năm tháng còn lại của mỗi chúng ta. Tôi cũng dự đoán rằng, có thể có những khó khăn. Nhưng từ trong sâu thẳm thiên chức nhà văn, chúng ta cùng chọn Dân Tộc làm mẫu số chung để vượt qua tất cả.

2. Cuộc gặp mặt dự kiến sẽ diễn ra từ 20 đến 25 tháng 10 năm 2017 tại Hà Nội và một số địa phương ở phía Bắc. Trường hợp anh Nam, Ban tổ chức sẽ lo chi phí toàn bộ đi về và thời gian tham gia Cuộc gặp mặt. Vì là lần đầu, còn nhiều bỡ ngỡ, xin anh vui lòng lấy vé giúp và cho biết thời gian chuyến bay để chúng tôi ra đón anh tại sân bay Nội Bài. Quá trình chuẩn bị có gì cần trao đổi, xin anh cho chúng tôi biết sớm.

3. Ngay sau khi được hồi âm của anh, tôi sẽ gửi giấy mời chính thức cùng chương trình của Cuộc gặp mặt. Mùa Thu Hà Nội cùng những giá trị bền vững của tâm hồn Việt đang chờ đón Cuộc gặp mặt của chúng ta.
Chúc anh sức khỏe, may mắn, gia đìnhh hạnh phúc và mong sớm nhận tin tốt lành.
Hà Nội 1/9/2017

Thư gủi Ông Hữu Thỉnh,
Hội Nhà Văn Hà Nội

Qua địa chĩ điện thư Cô Đào Kim Hoa
Phụ Tá Ngoại Vụ Hội Nhà Văn

Tôi, Phan Nhật Nam nguyên là một sĩ quan cấp Đại Úy Hiện Dịch Thực Thụ thuộc Sư Đoàn Nhẩy Dù/Quân Lực VNCH gởi đến Ông Hữu Thỉnh, Chủ Tịch Hội Nhà Văn Hà Nội để trả lời thư đề ngày 1 tháng 9, 2017 qua điện thư của Cô Đào Kim Hoa

#1-Từ vị thế một quân nhân thuộc đơn vị tác chiến của Quân Lực Miền Nam như trên vừa kể ra, với tính khách quan, độc lập của người không liên hệ đối với sinh hoạt của giới văn hóa, học thuật trong nước, ở Hà Nội trước, sau 1975.. Tôi có thư nầy để trả lời mời gọi mà ông Hữu Thỉnh đã trực tiếp gởi đến cá nhân tôi nhằm thực hiện tiến trình gọi là “Hòa Hợp Hòa Giải”. Câu trả lời trước tiên, dứt khoát là: Tôi xin được hoàn toàn từ chối sự mời gọi vì những lẻ…

#2- Là một người sinh trưởng từ thập niên 1940, tiếp sống qua hai cuộc chiến 1945-1954; 1960-1975, thực tế lịch sử, chiến tranh, xã hội Việt Nam trước, sau 1975 đã cho người lính chúng tôi xác chứng: KHÔNG HỀ CÓ CHỦ TRƯƠNG HÒA HỢP HÒA GIẢI từ người/chủ nghĩa/chế độ cộng sản trong lý thuyết cũng như qua sách lược hành động.

#3-Từ thực tiễn của #2 thêm kinh nghiệm mà bản thân cá nhân là một đối tượng thụ nạn của thành phần gọi là “Ngụy Quân-Ngụy Quyền” thuộc chế độ Quốc Gia Việt Nam (1948-1954); Việt Nam Cộng Hòa (1955-1975) đến hôm nay vẫn tiếp tục bị miệt thị, xuyên tạc, và triệt hạ dẫu chiến tranh đã chấm dứt từ 1975.

#4- Trong tình thế chung nhất của #2;#3, chắc chắn rằng không thể nào thực hiện được “Hòa Hợp Hòa Giải” như thư ông Hữu Thỉnh đề nghị! Cũng bởi, giới Nhà Văn chính là đối tượng hàng đầu bị bách hại đối với tất cả chế độ cộng sản Đông-Tây. Lịch sử đẫm máu 100 năm của chế độ cộng sản từ 1917 đến nay như một vũng tối ghê rợn phủ chụp lên lương tri nhân loại.. Hỏi thử buổi gặp mặt Tháng 10 tại Hà Nội (cho dẫu thực lòng đi nữa) sẽ gây được tác dụng gì? Nhà Văn? Nhà Văn Việt Nam đích thực là những ai? Nhưng đây không phải là vấn đề của cá nhân tôi – Trước sau chỉ là một Người Lính-Viết Văn. Cũng bởi, tôi chưa hề nhận Chứng Chỉ Giải Ngũ của Bộ Quốc Phòng/VNCH cho dù đã không mặc quân phục từ 1975

#5- Cuối cùng, với bản chất đơn giản, chân thật của một Người Lính, tôi có một đề nghị như sau: Để thực hiện tinh thần và nội dung “Hòa Hợp, Hòa Giải Dân Tộc” như lá thư mời của ông Hữu Thỉnh đã đề cao.. Hệ thống cầm quyền, cụ thể thành phần cán bộ làm công tác văn hóa, học thuật, truyền thông, báo chí.. dưới chỉ đạo của Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng nơi Hà Nội chấm dứt, điều chỉnh MỘT CÁCH THÀNH THỰC danh xưng miệt thị “Ngụy Quân/Ngụy Quyền” trong tất cả sử liệu, văn khố, tài liệu giáo khoa, văn thư hành chánh, sinh hoạt xã hội.. Cụ thể hơn hãy chấm dứt cách biểu tình với lời hô “Đả đảo Thương Phế Binh VNCH!!” như đã xẩy ra nơi Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn! Hãy nhìn lại.. Thương phế binh VNCH là những lão nhân phế binh, thương trận đã không được sống với dạng Con Người từ 30 Tháng 4, 1975. Hãy để cho Người Lính QLVNCH còn sống sót và gia đình được trở lại Miền Nam sửa sang phần mộ Chiến Hữu nơi Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa là nơi giới cầm quyền Hà Nội chủ trương phá bỏ một cách có hệ thống, dẫu người chết gần nửa thế kỷ qua không thể nào đe dọa đối với Chế độ XHCN! Xin hãy “Hòa Hợp Hòa Giải” với những người đã chết. Với người đang cố sống sau thảm họa Formosa, Nghệ An. Hãy hoà hợp, hòa giải với “Khúc ruột ở trong nước” trước. Khi ấy không cần mời, chúng tôi “Khúc ruột ngàn dặm” sẽ về. Về rất đông. Người Viết Văn – Lương Tri và Chứng Nhân của Thời Đại sẽ VỀ. TẤT CẢ CÙNG VỀ VIỆT NAM .

Kính thư,
Người Lính-Viết Văn,
Công Dân Mỹ gốc Việt,
Phan Nhật Nam
Washington DC, 9 Tháng 9, 2017
( Nguồn FB Lm Lê Ngọc Thanh )

Triều Tiên nhờ thế giới giúp gạo

Triều Tiên nhờ thế giới giúp gạo

Triều Tiên vừa buộc phải cầu xin thế giới trợ giúp giữa lúc lũ lụt hoành hành ở nước này, chỉ vài ngày sau vụ thử hạt nhân gây tranh cãi

Hàng trăm người được cho là thiệt mạng khi thủy thần phá hủy nhiều ngôi làng ở Triều Tiên. Mưa bão đã phá nát hàng nghìn ngôi nhà, với khoảng 140.000 người bị ảnh hưởng.

Việt Nam “Đất nước của những kẻ lười biếng”

 Việt Nam “Đất nước của những kẻ lười biếng”                             

 

nếu bạn chưa sẵn sàng nhìn nhận thực tại bản thân hay thế hệ, có lẽ bạn sẽ thấy một chút khó chịu khi đọc. 

 
 

Nếu bạn muốn thay đổi đất nước, nếu bạn đã 18 hay 20 tuổi hoặc hơn, hẳn là bạn cũng sẽ sớm trở thành những ông bố, bà mẹ. Thế nên, hãy chuẩn bị cho thay đổi, không cần biết trước đây bạn được giáo dục như thế nào, hãy chắc rằng, bạn sẽ trở thành hình mẫu mà bạn muốn con cái mình trở thành trong tương lai.. 

  Bạn có biết lý do chính dẫn tới việc nước Việt :

Người ta cứ đang kéo cố gắng đất nước này đi lên. Hàng loạt bài báo được viết nên. Trong đó chỉ ra rằng đất nước này đang bị ô nhiễm hóa, đang bị bóc lột hóa, đang bị bất công hóa, và đang bị căng thẳng hóa… Nhưng rồi các bạn biết được điều gì là quan trọng? Ừ, CHẲNG AI THÈM ĐỌC NHỮNG BÀI BÁO ĐÓ. Nghĩa là người ta không biết chuyện gì đang xảy ra chung quanh họ, không biết được mức độ căng thẳng leo thang của thế giới xung quanh. Tóm lại là, người viết thì cứ viết, người chơi thì cứ chơi, không ai thèm đọc. Dĩ nhiên là ta đang nói đến số đông thôi. 

Vậy ra, người ta đang cố gắng thay đổi mọi thứ ở phần ngọn. Nghĩa là kêu gọi những con người đã góp sức gây nên hiện trạng này, hãy thôi đừng phá hủy đất nước nữa, hãy thôi xả rác, hãy thôi chém giết. Đó là một ý tưởng điên rồ. Kêu gọi người từng sát hại đất nước này hãy suy nghĩ lại, rũ chút lòng thương, đừng phá hoại nữa. 

Bạn biết vì sao mà đất nước này cứ thụt lùi, thậm chí bây giờ thua cả Lào và Campuchia không? Nếu bạn định trả lời là chính phủ thì hãy tạm gác lại cái ý nghĩ đó. Bởi vì vấn đề là dân chúng ở đây mang một căn bệnh nan y không thể chữa nỗi: LƯỜI! 

LƯỜI VẬN ĐỘNG, TẬP THỂ DỤC 

So với số người tập thể dục, thì số người không tập chiếm gấp nhiều lần, nếu không muốn nói là áp đảo hoàn toàn. Bạn không tin? Sáng thức dậy 4 giờ sáng chạy bộ. Rất nhiều ông cụ, bà già sẽ chạy cùng bạn. Số trung niên cũng rất nhiều.. Còn số thanh niên thì chiếm trên đầu ngón tay thôi nhé. 

Mà không tập thể dục thì chẳng đào đâu ra sức khỏe, không có sức khỏe thì làm cái gì cũng mau mệt, mau mệt thì sẽ nhanh chán, mà nhanh chán thì sẽ sớm bỏ cuộc. Những người có sức khỏe yếu thường làm mọi việc qua loa. Tin tôi đi. Họ không chịu đựng nỗi bất cứ chuyện gì hết. Đó là khi chúng ta nên nói tiếp các kiểu lười khác là hệ lụy của lười vận động. 

LƯỜI HỌC 

Cái này thì khỏi nói rồi. Trừ các học sinh trường chuyên và công lập, đa số những trường khác, học sinh rất chi là lười. Khoan hãy nói đến việc kiến thức có hàn lâm hay không, có khó nuốt hay không, có kém thực tiễn hay không. Mà hãy tự hỏi, tại sao lại như vậy? Không ai chịu đựng nỗi 2 3 tiếng học bài ở nhà. Nói trắng ra là họ quá lười chịu đựng. Alan Phan đã từng nói rằng ông không hiểu tại sao một đất nước dân số vàng như Việt Nam lại có vẻ lù khù như các cụ già đến vậy. 

Bạn hỏi tại sao? Hãy tạm trách Internet, Smartphone, Karaoke, Nhậu nhẹt, Lotte, Starbuck và các loại ăn chơi thời hiện đại nhé. Bạn lại hỏi tại sao nữa à? Bởi vì đó là thách thức của thời đại này. Thú vui hưởng thụ bao vây xung quanh, nhan nhãn đông tây nam bắc hướng nào cũng có.. Tại sao phải chịu đựng học bài khi tụi bạn đi nhậu, đi hẹn hò, đi Lotte? À, quên nữa, đừng ai nói với tôi một câu mà đứa trẻ trâu nào cũng biết: Cái nào cũng có mặt lợi, quan trọng là đừng dùng quá liều lượng. Bởi vì, không có mấy ai biết kiểm soát chính họ ở cái vùng đất này đâu. 

LƯỜI LÀM 

Tất cả những người chủ ở Việt Nam đều khó tính, họ thường đốc thúc công nhân của mình. Bởi vì họ biết, không đốc thúc, bọn công nhân chỉ ngồi chơi, và làm kiểu đối phó, chủ tới thì luôn tay luôn chân, chủ đi thì phì phèo điếu thuốc, thậm chí là lướt facebook chat chit nữa là đằng khác. Nếu cha mẹ bạn là người trả tiền cho công nhân, chắc bạn sẽ rõ điều đó hơn cả. 

Bạn hỏi vì sao họ lười làm, họ bắt đầu lười từ khi nào? Vì sao? Vì họ chẳng có thích thú gì với công việc. Bởi vì họ từ cái giây phút họ lười học, họ chẳng có kiến thức gì để giải quyết vấn đề nên họ chẳng muốn xảy ra thêm vấn đề gì nữa. Mà đấy, cách hay nhất để không có vấn đề gì để giải quyết là ngồi chơi. Làm việc thì tạo nên vấn đề, giải quyết vấn đề chính là một bước thăng tiến. Nhưng họ lại sợ gặp vấn đề biết bao. Không giải quyết được lại bị chửi, lại bị sỉ nhục, lại quê với người khác. Nên họ thà làm người nhàn rỗi tay chân, áo sạch đồ đẹp, không một vết bẩn còn hơn lấm lem mồ hôi, nhếch nhác không ai thèm dòm.. 

LƯỜI SUY NGHĨ 

Lướt dạo hết vòng facebook là điều bạn có thể làm ngay. Nếu facebook bạn không có gì đáng để xem, không có gì để làm bạn cảm động, làm bạn thấy phải nhìn lại bản thân mình thì bạn chính là một ví dụ. Còn nếu có thông tin gì đó hay, viết về thực trạng của đất nước, về ô nhiễm môi trường, về động vật tuyệt chủng, hay các bài viết học thuật, hãy xem nó được bao nhiêu người like? À, thường thì không có bao nhiêu người like đâu. Không tin lướt ngay facebook là biết. 

Chúng ta không có gì để học sao? Hay chúng ta chỉ quan tâm về tự sướng, em nào đẹp, em nào xài camera 360, anh nào GAY, chỗ nào chơi tốt, khu nào ăn ngon, quần áo chỗ nào bán đẹp? Nếu facebook của bạn không có bất cứ cái gì liên quan tới học thuật, kiến thức, thay vào đó là 90% ảnh girl xinh, trai đẹp, hãy yên tâm một cách chắc nịch rằng bạn là một trong những đứa lười suy nghĩ bậc nhất thế giới. 

LƯỜI TRANH ĐẤU 

Cái này thì khỏi phải nói luôn rồi. Cha chung chả ai khóc mà. Đất nước ngày càng đi xuống thì cũng mặc. Nói thật, chả ai quan tâm cả.. Những người có tâm, những người làm báo cứ như những kẻ thui thủi một mình tự kỷ vậy. Bài nào họ viết ra, họ tự đọc, chả mấy ai đọc nói chi đến like và comment. Đi chơi noel xong rác thải đầy đường để phải viết lên báo, cũng chả cần thấy nhục mặt cho bản thân hay cho đất nước này, cứ thế năm nào cũng vậy, cũng lên báo, rồi cũng thôi, vì chẳng ai còn hơi sức để nói nữa. 

Thờ ơ là căn bệnh của người Việt. Nếu không tin, search bài báo: “Người Việt vô cảm thứ 13 thế giới” là biết. Họ chẳng muốn tranh đấu. Họ chẳng muốn gì cả ngoài việc hưởng thụ những gì đang có. Tài nguyên chúng ta bán, cây rừng chúng ta cưa, voi rừng chúng ta giết, thú rừng chúng ta ăn, chả còn gì mà chúng ta “tha” cả. Khai thác triệt để cho thế hệ này tận hưởng, có thể đoán là trong vòng 10 năm tới sẽ cạn sạch. Nhưng mọi người thì cứ thờ ơ để mọi thứ ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Miễn là họ không ở những vùng hiểm trở, thiên tai; miễn là họ không bị gì hết. Càng ngày, người ta càng rút về thành thị, co cụm, bạn thấy không? Cả đám ăn chơi phè phỡn với nhau, rồi chuốc độc nhau trong từng thớ thịt, dĩa cơm… Nhưng không ai muốn tranh đấu! Chẳng ai muốn cả, vì họ bận phải hưởng thụ sự hiện đại này. 

Đấy là những thế hệ đã được đào tạo. Việt Nam thuộc loại khủng của thế giới trong việc chi ngân sách cho giáo dục. Họ đã làm gì, và chúng ta đã tôi luyện bản thân như thế nào? Có khi nào chúng ta thấy nhục nhã, chẳng cần gì cao siêu, mà chỉ bởi vì chúng ta vừa quăng một cục rác xuống đường. Ai đó nhắc nhở, và chúng ta phản bác: TRƯỚC SAU CŨNG CÓ NGƯỜI QUÉT THÔI. Liệu có bao giờ chúng ta thấy nhục mặt vì cái độ lười nó ghê tởm đến nỗi những con chó thông minh, biết đi ị đúng chỗ cũng phải khinh thường? 

Những thế hệ đi qua, và những bài học của các bậc mẹ cha ngày càng thực dụng. Bạn không thấy xã hội này quá co cụm từ khi bạn chuẩn bị cắp đồ lên thành phố học? 99,9% tôi đảm bảo sẽ được nhắc: Giữ tiền cẩn thận nha con, trộm cắp dữ lắm; Ở ký túc xá coi chừng nhà con, trộm cắp phức tạp lắm; ở Sài Gòn cẩn thận nha con, dân tứ xứ chẳng biết ai là ai đâu… 

Bạn đã từng nghe, chắc chắn như vậy, và hãy thừa nhận là lũ người xung quanh bạn thật gớm ghiếc. Và bạn, tôi chỉ đích danh bạn đó, cũng chưa chắc là một trường hợp đặc biệt gì ngoài lũ gớm ghiếc đó đâu. Một lũ tệ hại, cười với nhau những nụ cười giả tạo, đôi tay vịn chắc túi tiền và trôi vào dòng cuộc sống. Chúng ta chắp vá đất nước này, rách chỗ nào vá chỗ đó, nhưng đúng như Lưu Quang Vũ nói: 

“Có những cái sai không thể sửa được. Chắp vá, gượng ép chỉ càng sai thêm. Chỉ có cách là đừng bao giờ sai nữa, hoặc phải bù lại bằng một việc làm đúng khác.” 

Nhưng chúng ta chẳng quan tâm lời dạy này. Chúng ta chắp vá nhiều hơn là đằng khác. Ai đó đút lót, chúng ta đút lót nhiều hơn. Ai đó đối phó để được điểm cao, chúng ta quyết tâm biết được đề thầy sắp ra giờ kiểm tra. Ai đó quăng rác bừa bãi, chúng ta quăng rác một cách tinh vi. Ai đó lừa đảo ta, ta học cách đó để lừa đảo lại người khác. Và chúng ta có một xã hội như ngày hôm nay. Chẳng ra một cái gì cả. 

Một dân tộc ghê tởm nhau, đề phòng nhau đến những chuyện nhỏ nhặt đến như vậy thì làm sao còn đầu óc để đầu tư vào những thứ tiến bộ khác hơn? Một xã hội co cụm, những ánh mắt đầy hoài nghi, ghê tởm thay cho chúng ta! 

Chúng ta lười mọi thứ. Chúng ta lười vận động, rồi thì sức khỏe chúng ta kém, sức chịu đựng không có nên chúng ta nhác học, lười làm, buồn ngủ khi phải nghĩ và chán ngán khi phải chịu đựng. Tất cả những gì chúng ta có là đối phó, từ trong ra ngoài. Không đối phó bằng cách hối lộ tiền, thì đối phó bằng cách mua bằng cấp giả, nếu không được thì học đại cho xong, và trong lúc học cũng đối phó với thầy cô. Vâng, chúng ta đối phó n+1 các loại. Nhưng điều làm tôi ghê tởm hơn cả tật đối phó, chính là không thèm đối phó nữa mà sẵn sàng thải rác ra đường như không giữa ban ngày ban mặt, buông lời tục tĩu, dâm dục giữa thiên hạ. Số đó không hề ít, xin chớ coi thường. 

Chịu đựng! Những người đi ra từ chiến tranh với sức chịu đựng ghê gớm lại nuôi dạy con họ một cách đầy nuông chiều. Quá nhiều người đi ra từ chiến tranh, quá nghèo khổ để nói đến đức hạnh, tất cả những gì họ lo lắng là tiền, là mưu sinh. Đó là lý do chúng ta ở đây. Cả một lũ không được giáo dục tốt. Cả một lũ đang làm đất nước này đi xuống. Đó không phải là lỗi của họ, hãy thông cảm vì điều đó. Họ đã cố phải xây dựng lại mọi thứ từ đống tro tàn. Nhưng còn chúng ta thì sao? Được nuông chiều từ nhỏ tới lớn, chẳng phải chịu đựng bất cứ cái gì, và giờ thì sẵn sàng ngồi quán cafe chém gió suốt ngày. 

Bạn biết bọn nhậu nhẹt và ngồi quán cafe chém gió thường nói gì khi gặp nhau? Tao mới xin làm chỗ kia, lương 4 triệu mà toàn ngồi chơi. Liền lập tức, thằng đối diện sẽ bảo: NGON VẬY! 

Cái tư duy ở xứ này là: Ngồi chơi và “khỏe”! Nhưng yên tâm đi, vũ trụ rất công bằng. Cái chỏm nhỏ ở chỗ này trước sau gì cũng bị trừng phạt nếu tiếp tục tồn tại theo kiểu đó. 

Nếu bạn muốn thay đổi đất nước, nếu bạn đã 18 hay 20 tuổi hoặc hơn, hẳn là bạn cũng sẽ sớm trở thành những ông bố, bà mẹ. Thế nên, hãy chuẩn bị cho thay đổi, không cần biết trước đây bạn được giáo dục như thế nào, hãy chắc rằng, bạn sẽ trở thành hình mẫu mà bạn muốn con cái mình trở thành trong tương lai. 

Đừng uống cạn tài nguyên này, đừng ăn mặn để con cháu khát nước. Đừng để thế hệ nối tiếp thế hệ sống cuộc sống như thế này. Và xin cũng đừng, đừng xấu xa cho đã để rồi sau này bắt con mình trở thành một người tốt. Con nít học qua hình ảnh, nó bắt chước tất cả những gì nó thấy. Đừng bao giờ cho phép bản thân tệ hại, và dạy con bằng cái lối nói rằng bạn dù có xấu xa thế nào cũng là hy sinh cho tương lai của nó. Bởi vì, cách đó nhàm quá rồi, một lời biện hộ không có nghĩa gì hết. 

Tôi biết là Việt Nam vẫn chưa đến lúc có một cuộc cách mạng cải tổ lại tư duy người Việt. Nhưng từ giờ cho tới lúc đó, hy vọng tôi có thể giúp ai đó hiểu rằng, hãy luyện tập, hãy chịu đựng để bước đi những ngày tháng trưởng thành. Bạn không thể lớn thêm nếu không chịu đựng. Nếu bạn muốn đi lên, bạn phải chịu đựng, dù xung quanh không có ai hỗ trợ bạn, dù xung quanh mọi người đang say ngủ… 

NẾU BẠN MUỐN TRƯỞNG THÀNH, HÃY CHỊU ĐỰNG 

Trong nghĩa của từ chịu đựng, không có lười biếng. Trong nghĩa của từ chịu đựng là sức mạnh. Mỗi một cá nhân có sức mạnh, khỏi cần phải bàn tới chuyện đất nước có đi lên hay không, vì đôi tay của họ thậm chí có thể nhấc bổng cả bầu trời… 

(Nếu bạn nào đặt một dấu chấm hỏi vì sao bài trước tôi viết là chẳng có ai lười thì bài này tôi lại đỗ lỗi cho việc người ta lười, thì xin hãy hiểu rõ là trong 2 bài tôi đang đề cập đến 2 chuyện khác nhau. Bài trước là cảm thông với những người chưa tìm ra họ là ai trong cuộc đời. Bài này nói về những con người xung quanh tôi mà đầu óc bị mụ mẫm hóa hết rồi, không còn biết gì ngoài những lạc thú tầm thường nữa.) 

Anh chị Thụ & Mai gởi

Nhân quyền là trọng tâm trong đàm phán thương mại VN-EU

Nhân quyền là trọng tâm trong đàm phán thương mại VN-EU

RFA

 
Thủ tướng Nguyễn Tân Dũng (bên trái), Chủ tịch Ủy ban Châu Âu Jean-Claude Juncker (bên phải), Cao ủy Thương mại EU Cecilia (phải) và Bộ trưởng Thương Mại Vũ Huy Hoàng dự lễ ký kết thúc đàm phán hiệp định tự do thương mại EU - Việt Nam tại Brussels hôm 2/12/2015

Thủ tướng Nguyễn Tân Dũng (bên trái), Chủ tịch Ủy ban Châu Âu Jean-Claude Juncker (bên phải), Cao ủy Thương mại EU Cecilia (phải) và Bộ trưởng Thương Mại Vũ Huy Hoàng dự lễ ký kết thúc đàm phán hiệp định tự do thương mại EU – Việt Nam tại Brussels hôm 2/12/2015

 AFP
 

Nhân quyền là vấn đề trọng tâm trong đàm phán thương mại giữa Việt Nam và Liên Minh Châu Âu- EU. Ông Bernd Lange, Chủ tịch Ủy ban Thương mại quốc tế của Nghị viện châu Âu nói với các nhà báo vào ngày15  tháng Chín, tại Hà Nội.

Thỏa thuận mậu dịch tự do Việt Nam và EU được ký vào năm 2015, và có thể được phê chuẩn vào năm tới.

Tuy nhiên trong thời gian gần đây Việt Nam gây nên nhiều quan ngại cho các tổ chức nhân quyền, về thành tích nhân quyền của mình trong việc bắt bớ những blogger và nhà báo tự do.

Ông Bernd Lang nói tiếp rằng nếu Việt Nam không giải quyết đầy đủ các quan ngại về nhân quyền thì e rằng chuyện thương thảo giữa đôi bên sẽ gặp rắc rối.

Ngoài ra còn một vấn đề nữa đã gây ra rạn nứt trong quan hệ Việt Nam và EU là việc Hà Nội đã bị nước Đức cáo buộc bắt cóc ông Trịnh Xuân Thanh, một cựu quan chức ngành dầu khí đang xin qui chế tị nạn tại Đức. Ông Thanh bị cáo buộc dinh líu tới những vụ bê bối tham nhũng tại Tập Đoàn Dầu Khí Quốc Gia.

Ông Bernd Lang còn cho biết trong chuyến đi Việt Nam ông đã gặp Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, các viên chức thương mại Việt Nam , và cả những nhóm xã hội dân sự.

Báo chí Việt Nam không đề cập gì đến quan ngại về nhân quyền mà người đại diện của EU nêu ra tại Hà Nội, nhưng lại đưa tin về chuyến thăm Thụy sĩ của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ.

Theo thông tin từ trang web của chính phủ Việt Nam, các quan chức Việt Nam và Thụy sĩ đồng ý với nhau rằng sẽ phải nổ lực nhiều hơn để hoàn tất việc ký kết thỏa thuận thương mại tự do giữa Việt Nam và khối bốn quốc gia châu Âu bao gồm Thụy sĩ, Na Uy, Băng Đảo, và Lichteinsten.

Hiện nay EU là một đối tác thương mại rất quan trọng của Việt Nam, việc đạt được thỏa thuận thương mại tự do rất cần thiết cho hàng hóa Việt Nam vào được thị trường EU, nhất là trong hoàn cảnh Thỏa thuận thương mại đối tác xuyên Thái Bình Dương đã bị Mỹ rút ra, không thực hiện được.

Việt Nam trong danh sách tội phạm nhân quyền bị đề nghị trừng phạt bằng Luật Magnitsky


Lời kêu gọi trong bức thư kèm một tập tài liệu chuyển tới Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Tài chính Mỹ phản ánh công trình điều tra, thu thập dữ kiện hàng chục tháng trời của 23 tổ chức NGO bảo vệ nhân quyền và chống tham nhũng quốc tế do Human Rights First điều phối.

Thông tin được cung cấp cho chính phủ Mỹ hôm nay kêu gọi trừng phạt các cá nhân phạm tội ở các nước: Việt Nam, Azerbaijan, Bahrain, Trung Quốc, Cộng hòa Dân chủ Congo, Ai Cập, Ethiopia, Liberia, Mexico, Panama, Nga, Ả Rập Xê Út, Tajikistan, Ukraine, và Uzbekistan.

Luật Magnitsky cho phép chính phủ Mỹ từ chối visa nhập cảnh và áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế như đóng băng tài sản tại Mỹ hoặc đang trung chuyển qua Mỹ của những người ngoại quốc vi phạm nhân quyền và tham nhũng nghiêm trọng, những người mà theo mô tả của Human Rights First “nằm trong số các phạm nhân tệ hại nhất trên hành tinh này.”

Thư gửi cho Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Tài chính Mỹ nói: “Những trường hợp chúng tôi chọn ra xuất phát từ từng khu vực trên thế giới và bao gồm những câu chuyện khủng khiếp về tra tấn, cưỡng chế biệt tích, giết hại, tấn công tình dục, hối lộ và tham nhũng.”

Trong số 23 tổ chức tham gia nỗ lực vận động này có Tổ chức Theo dõi Nhân quyền Human Rights Watch, Phóng viên Không Biên giới, và BPSOS Ủy ban Cứu Người Vượt biển, một tổ chức của người Mỹ gốc Việt chuyên vận động cho nhân quyền Việt Nam có trụ sở tại Mỹ.

Những nạn nhân từ từng nước được nêu tên trong hồ sơ nhân quyền 15 quốc gia là những nhà hoạt động nhân quyền, thành viên các nhóm tôn giáo thiểu số hay các sinh viên biểu tình chống bất công.

Trường hợp bị vi phạm nhân quyền tiêu biểu được nêu lên trong hồ sơ nói về Việt Nam là bà Trần Thị Hồng, vợ của mục sư Nguyễn Công Chính, người mà theo hồ sơ cáo giác là bị tra tấn và khủng bố tinh thần suốt 2 tháng sau khi tiếp xúc với phái đoàn Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ vào cuối tháng 3 năm 2016 để cầu cứu can thiệp về vi phạm nhân quyền tại Việt Nam.

Tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, Tổng Giám Đốc kiêm Chủ Tịch BPSOS, cho biết:

“Chúng tôi chọn hồ sơ này đưa vào danh sách chung là vì nó mới xảy ra, các cơ quan Liên hiệp quốc đều biết và chính Bộ Ngoại giao Mỹ cũng biết rất rõ. Chồng bà Hồng là mục sư Nguyễn Công Chính lúc đó bị án tù 11 năm. Bà Hồng đã gặp phái đoàn Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ để cầu cứu cho chồng bị bệnh nặng và bị tra tấn trong tù. Chỉ vì tiếp xúc với Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ mà bà bị tra tấn, đánh đập, khủng bố. Bà còn là thành viên sáng lập của Hội Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam.”

Cá nhân bị đề nghị chế tài là đại tá Vũ Văn Lâu, Giám Đốc Công An Tỉnh Gia Lai, người có liên quan trực tiếp tới các hành vi vi phạm nhân quyền nêu ra trong hồ sơ của bà Trần Thị Hồng.

Nhà hoạt động Nguyễn Đình Thắng giải thích:

“Chúng tôi có 8 danh sách tổng cộng 180 nhân vật. Chúng tôi chỉ chọn một trường hợp này để đóng góp vào danh sách chung để vận động chung. Song song với cuộc vận động chung với 22 tổ chức khác, chúng tôi có cuộc vận động riêng, nhắm riêng vào Việt Nam và thúc đẩy cả danh sách 180 giới chức chính quyền Việt Nam vi phạm nhân quyền nghiêm trọng. Chúng tôi cũng có một số hồ sơ về tham nhũng lớn tuy không chọn để đưa vào danh sách chung gồm 15 hồ sơ.”

Bước tiếp theo, Tiến sĩ Thắng cho biết, 23 tổ chức hoạt động nhân quyền đồng ký tên trong chiến dịch chung lần này chia nhau gặp các dân biểu, nghị sĩ Mỹ để vận động họ ủng hộ cho danh sách vừa kể, theo dõi xem bên hành pháp chính quyền Trump xử lý thế nào, có thực thi đúng đắn và báo cáo kết quả cho Quốc hội hay không.

Luật Magnitsky Toàn cầu là công cụ trừng phạt sâu rộng nhất trong lịch sử Hoa Kỳ đối với các hành vi vi phạm nhân quyền và tham nhũng trên thế giới.

Được thông qua bởi cả Hạ lẫn Thượng viện Hoa Kỳ, luật này được ký ban hành vào tháng 12 năm ngoái, lấy tên nhà hoạt động Sergei Magnitsky, người bị chính quyền Nga cầm tù và sát hại vào năm 2009 sau khi phanh phui những sai phạm trên quy mô lớn của nhà cầm quyền.

Luật Magnitsky Toàn cầu được mở rộng dựa trên Đạo luật Magnitsky 2012 vốn chỉ áp dụng chế tài các cá nhân và các tổ chức ở Nga.

Sự sụp đổ của các nước Cộng Sản Đông Âu

Sự sụp đổ của các nước Cộng Sản Đông Âu

Phạm Văn Tuấn

Những sự kiện này bắt đầu từ Ba Lan vào năm 1989, và tiếp tục ở Hungary, Đông Đức, Bungary, Tiệp Khắc và România.

Romania là nước Đông Âu duy nhất lật đổ chế độ Cộng sản của mình bằng bạo lực

Nổi tiếng nhất là sự sụp đổ của Bức tường Berlin, biểu tượng của việc thống nhất nước Đức vào năm 1990.

Việc Liên Xô bị giải thể vào cuối năm 1991 dẫn đến kết quả là Nga và 14 quốc gia tuyên bố độc lập của khỏi Liên Xô

1- Ba Lan 

Ba Lan là một lãnh thổ bằng phẳng nằm tại miền trung của châu Âu, rộng bằng nước Mễ Tây Cơ và có dân số là 37 triệu người. Từ 1,000 năm về trước và qua thời Trung Cổ, Ba Lan đã là một vương quốc quan trọng cho tới cuối thế kỷ 18, xứ sở này đã bị xóa tên trên bản đồ, bị chia ba giữa ba cường quốc là Nga, Áo và Phổ. Nhưng rồi người dân Ba Lan đã vùng lên, giành độc lập vào năm 1918.           

Vào tháng 9-1939, đất nước Ba Lan lại bị dẫm nát bởi quân đội nước ngoài: quân đội Quốc Xã Đức tiến vào từ hướng tây và quân đội Xô Viết từ hướng đông. Ba Lan đã là bãi chiến trường, là địa điểm của rất nhiều trại tập trung mà xấu xa nhất là trại Auschwitz, chuyên việc tận diệt các kẻ chống đối, các tù binh, các người Do Thái.           

Sau Thế Chiến Thứ Hai, Ba Lan đã lấy lại được phần đất đã mất trước kia do Quốc Xã Đức chiếm, nhưng từ năm 1948, các người cộng sản đã nắm được chính quyền, tạo nên một thể chế cộng sản theo kiểu mẫu Liên Xô. Tới năm 1956, không lâu sau khi ông Nikita Khrushchev tố cáo các tội ác khủng khiếp của Stalin, do tinh thần quốc gia tiềm ẩn, do lòng bất khuất và do nỗi bất mãn về kinh tế, người dân Ba Lan đã nổi dậy tại tỉnh Poznan. Các bạo loạn trong xứ đã làm cho Bộ Chính Trị phải thay đổi và ông Wladyslaw Gomulka được đưa ra lãnh đạo Đảng. Ông Gomulka liền bỏ chương trình tập thể hóa các nông trại, cho nới lỏng một số luật lệ và cải thiện liên lạc với Nhà Thờ Công Giáo. Nhưng trong cuộc nổi dậy của các công nhân tại Gdansk vào tháng 12-1970, các công nhân này đã bị đàn áp một cách tàn nhẫn, ít nhất có 44 người bị giết. Ông Gomulka sau đó bị thay thế bởi ông Edward Gierek, một người tìm cách hòa hoãn với khối tây phương. Nhưng tình trạng kinh tế tuột dốc đã gây nên nhiều làn sóng phản đối mới vào năm 1976.

            Năm 1978, người dân Ba Lan lại vui mừng vì vị Tổng Giám Mục miền Cracow trở nên Đức Giáo Hoàng John Paul II. Sự kiện này đã đóng một vai trò gián tiếp trong việc khai tử chế độ Cộng Sản tại Đông Âu bởi vì trong các năm dài sống dưới chế độ cộng sản, người dân Ba Lan vẫn duy trì niềm tin Công Giáo Catholic, họ lấy lại can đảm để đương đầu với các kẻ cầm quyền độc ác.

Ngày 14 tháng 8 năm 1980, Công Đoàn Đoàn Kết (Solidarity Trade Union) ra đời và ông Lech Walesa, một người thợ điện, là lãnh tụ của phong trào đòi Dân Chủ cho đất nước Ba Lan. Hoạt động của Công Đoàn kể trên đã chấm dứt sự nghiệp chính trị của ông Edward Gierek và ông Wojciech Jaruzelski thay thế. 15 tháng phát triển của Công Đoàn Đoàn Kết cũng là “điềm báo tử” cho chế độ Cộng Sản tại Ba Lan. Với số đoàn viên lên tới 10 triệu, Công Đoàn Đoàn Kết đã là một tổ chức có thực lực để đòi hỏi các cuộc bầu cử tự do và một chính quyền hợp pháp không cộng sản. Vào ngày 13-12-1981, dưới áp lực của Liên Xô lúc đó do ông Leonid Brezhnev lãnh đạo, Tướng Jaruzelski phải công bố tình trạng quân luật, giải tán Công Đoàn Đoàn Kết, bắt giam các lãnh tụ và các người hoạt động cho Công Đoàn, ra lệnh hủy bỏ mọi hình thức cởi mở mới được ban hành, tuy nhiên những mệnh lệnh này chưa thực sự tiêu diệt được Công Đoàn Đoàn Kết.

            Khi ông Mikhail S. Gorbachev lên nắm quyền tại Liên Xô, khi các áp lực Xô Viết tại Ba Lan giảm đi, Công Đoàn Đoàn Kết đã lấy lại được khí thế cũ. Mùa xuân năm 1989, Công Đoàn đã được chính thức công nhận và đã thắng gần hết các ghế đại biểu trong các cuộc bầu cử.

Tháng 8-1989, Ba Lan là nước đầu tiên có một thủ tướng không cộng sản kể từ năm 1948, đó là ông Tadeusz Mazowiecki, một nhà trí thức Catholic và cũng là một người bạn thân của ông Lech Walesa. Chính phủ mới này tập trung vào việc cải tổ kinh tế nên đã đưa ra nhiều biện pháp khắc khổ để khắc phục nạn lạm phát và đưa đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường. Tới mùa hè năm 1990, sau khi các người cộng sản bị gạt sang một bên rồi, nội bộ của Công Đoàn Đoàn Kết lại bị tách ra làm hai: phe khuynh hữu với ông Lech Walesa và phe khuynh tả với ông Mazowiecki nhưng cuối cùng ông Lech Walesa đã thắng trong cuộc bầu cử Tổng Thống năm 1990.

            Vào tháng 10 năm 1991 là cuộc bầu cử Quốc Hội tự do đầu tiên nhưng trong các năm sau, nước Ba Lan đã có rất nhiều đảng phái, có 5 thủ tướng, gặp nạn lạm phát và cảnh thất nghiệp cao, hàng ngàn nông trại trên bờ phá sản. 

2- Đông Đức

Nước Đức là quốc gia giàu có và đông dân nhất châu Âu, hiện nay gồm 77.5 triệu người. Nước Đức có lịch sử chính trị từ thời Vua Charlemagne, giống như nước Pháp, nhưng các lãnh địa đã bị chia rẽ và chỉ hợp lại thành một quốc gia thống nhất vào năm 1871. Sau đó Thủ Tướng Otto Bismark và các nhà lãnh đạo khác đã cố công theo đuổi các chính sách bành trướng lãnh thổ, dẫn tới Thế Chiến Thứ Nhất vào năm 1914. Sau khi thất trận, nước Đức lại cố gắng vươn lên rồi dân tộc Đức vì bị thất vọng về kinh tế suy kém, đã trông nhờ vào nhà độc tài Adolf Hitler.

Vào năm 1945, nước Đức Quốc Xã thất trận nên lãnh thổ Đức bị phân chia thành bốn khu vực chiếm đóng bởi Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Liên Xô. Ba khu vực phia tây được phối hợp lại năm 1949 thành nước Cộng Hòa Liên Bang Đức hay nước Tây Đức rồi không lâu sau đó, Liên Xô cũng tạo nên nước Cộng Hòa Dân Chủ Đức (the German Democratic Republic) hay còn gọi là nước Đông Đức.

            Trong nửa thời gian đầu, Đông Đức ở dưới quyền cai trị cứng dắn của ông Walter Ulbricht, với đường lối thù nghịch Tây Đức và cao điểm của sự đối đầu là việc xây dựng nên Bức Tường Bá Linh. Vào nửa giai đoạn sau dưới quyền của ông Erich Honecker, Đông Đức đã dịu bớt sự căng thẳng vì chính sách hòa hoãn “Ostpolitik” giữa hai miền nước Đức của ông Willy Brandt.

            Giống như nước Đức bị chia cắt vào năm 1949, thành phố Bá Linh cũng bị phân chia và một khu vực của thành phố này thuộc về Đông Đức. Tuy nhiên, đường ranh giữa hai khu vực Đông và Tây Bá Linh vẫn là khe hở của Tấm Màn Sắt và các người sống dưới chế độ cộng sản Đông Đức thường trốn qua Tây Đức bằng khe hở này. Ngày 13 tháng 8 năm 1961, để chặn đứng những người vượt biên, chính quyền Đông Đức đã cho dựng nên Bức Tường ngăn cách Đông và Tây thành phố Bá Linh. Tại bức tường cao xây bằng bê-tông trên có hàng rào kẽm gai này, binh lính Đông Đức được lệnh bắn bỏ những người tìm cách leo qua tường, tìm tự do. Theo ước lượng vào năm 1992, đã có hơn 200 người dân Đông Đức bị bắn chết.

            Tại Đông Đức về kinh tế, người dân giàu có hơn tất cả các dân tộc theo xã hội chủ nghĩa khác, nhưng họ vẫn bất mãn khi so sánh với mức sống của người dân anh em Tây Đức, bất mãn khi không được phép đi ra nước ngoài. Vào mùa hè năm 1989, hàng ngàn người Đông Đức đã vượt sang nước Hungari và tràn vào các tòa đại sứ của Tây Đức tại hai thành phố Prague và Warsaw. Hàng triệu người trên thế giới đã chứng kiến cảnh tượng này trên màn ảnh vô tuyến truyền hình: đây là cảnh “bỏ phiếu bằng chân” của những người sống trong chế độ cộng sản! Tới tháng 9-1989, số người biểu tình tại các thành phố của Đông Đức đã gia tăng rất cao, họ hát câu “chúng tôi muốn ở lại” và đòi hỏi chính quyền cộng sản phải thay đổi đường lối cai trị. Ông Erich Honecker vì thế phải từ chức, thay thế bằng ông Egon Krenz và các nhà lãnh đạo Đông Đức phải ra lệnh mở Bức Tường Bá Linh. Trong vài ngày, hàng triệu người dân Đông Đức đã vượt qua khu Tây Bá Linh. Một câu chuyện vui kể lại rằng khi ông Erich Honecker tỉnh dậy, thấy khu Đông Bá Linh không còn bóng người nhưng vẫn còn thắp đèn sáng, ông bèn tới Bức Tường Bá Linh và thấy một mẩu giấy ghi rõ câu : “ai đi sau cùng nhớ tắt đèn”.

            Kể từ khi ông Egon Krenz quản trị Đông Đức, xứ sở này trong nhiều tháng vẫn chìm vào trong các rối loạn chính trị. Tháng 3 năm 1990, đã có các cuộc bầu cử tự do đầu tiên và Công Đoàn Dân Chủ Thiên Chúa Giáo (the Christian Democratic Union), một đảng phái mới được thành lập của những người Dân Chủ Thiên Chúa Giáo Tây Đức, đã chiếm được 41% số phiếu. Trong khi đó tại Tây Đức, Thủ Tướng Helmut Kohl không ngừng theo đuổi chương trình thống nhất nước Đức vì vậy vào tháng 3-1990, tại thành phố Bonn đã diễn ra các cuộc thảo luận “Hai cộng Bốn”, gồm 2 nước Đông và Tây Đức với 4 nước chiến thắng trong Thế Chiến Thứ Hai là Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Liên Xô rồi vào ngày 12-9-1990, cả 6 nước kể trên đã ký tên vào “Hiệp Ước ổn định cuối cùng đối với nước Đức” (the Final Settlement with Respect to Germany) và sự kiện này chính thức chấm dứt Thế Chiến Thứ Hai.

            Hiệp ước Ổn Định kể trên đã mở đường cho việc thống nhất nước Đức, và bắt đầu từ nửa đêm ngày 2-10-1990, nước Đông Đức không còn hiện hữu nữa mà trở thành 5 tiểu bang mới của Cộng Hòa Liên Bang Đức.

            Kể từ ngày thành lập 7-10-1949, xứ sở cộng sản Đông Đức với dân số 16 triệu người và diện tích bằng tiểu bang Tennessee, với tên gọi là Cộng Hòa Dân Chủ Đức, đã cáo chung sau khi tồn tại được 40 năm và 360 ngày! 

3- Tiệp Khắc

Tiệp Khắc là quốc gia nằm giữa châu Âu, gồm ba xứ hợp lại là Bohemia, Moravia và Slovakia. Từ nhiều thế kỷ, Tiệp Khắc vẫn theo đuổi nền dân chủ cho tới khi bị Đức Quốc Xã tấn công vào năm 1938. Sau khi nước Đức bị thua trận, một chính quyền Cộng sản theo Stalin được thiết lập tại Tiệp Khắc từ tháng 2-1948 tới đầu thập niên 1960. Vào lúc này và do nền kinh tế suy sụp, các người cầm quyền cộng sản đã tìm cách cải tổ kinh tế và nới lỏng các kiểm soát chính trị. Tiến trình cải cách đã đi tới cao điểm gọi là “Mùa Xuân Praha” (the Prague Spring) của năm 1968 do nhân vật cộng sản cải cách lãnh đạo tên là Alexander Dubcek.

Ông Alexander Dubcek (1921-92) chào đời vài tháng sau khi cha mẹ của ông từ thành phố Chicago, Hoa Kỳ, trở về xứ Slovakia. Ông Dubcek đã trải qua tuổi trẻ tại Liên Xô. Đầu năm 1968, ông Dubcek công bố một chương trình cải tiến gọi là “Xã Hội Chủ Nghĩa với bộ mặt con người” (Socialism with a human face). Trong thời gian 8 tháng dễ thở này, từ tháng 1 tới ngày 20-8-1968, ông Dubcek là hình ảnh của hy vọng cho người dân Tiệp Khắc. Liên Xô, dưới quyền lãnh đạo của ông Leonid Brezhnev, coi các cải tiến tại Tiệp Khắc là “quá nguy hiểm” cho thể chế cộng sản, nên đã đàn áp phong trào “Mùa Xuân Praha” bằng 500,000 quân thuộc Minh Ước Warsaw (the Warsaw Pact).

            Warsaw là liên minh quân sự được thành lập năm 1955 để đối đầu với khối Nato. Các thành phần ban đầu của Minh Ước Warsaw gồm 8 nước: Tiệp Khắc, Đông Đức, Ba Lan, Hungari, Romania, Bulgaria, Albania và Liên Xô. Hành động quân sự duy nhất của liên minh này là cuộc xâm lăng Tiệp Khắc vào tháng 8-1968 trong đó Romania không tham gia. Vào đầu thập niên 1960, nước Albania không tham dự vào liên minh Warsaw rồi chính thức rút lui vào năm 1968. Minh Ước Warsaw bị giải thể vào tháng 7-1991.

            Năm 1987, khi bị hỏi về sự khác biệt giữa “Mùa Xuân Praha” của ông Dubcek và các chương trình “Glasnost” và “Perestroika” của ông Gorbachev, người phát ngôn thuộc Bộ Ngoại Giao Liên Xô đã trả lời rằng: “19 năm”!

            Sau khi ông Alexander Dubcek bị bắt về giam tại Liên Xô và phong trào “Mùa Xuân Praha” bị dẹp tan, một nhân vật cộng sản cứng dắn mới lên nắm quyền tại Tiệp Khắc, đó là ông Gustav Husak. Từ nay, tất cả những người có khuynh hướng cải tiến đều bị thanh trừng, hầu như mọi người dân Tiệp Khắc đều thu mình lại để được an toàn, thế nhưng vẫn còn một số ít người rất can đảm, cả nam lẫn nữ, đã tập hợp lại một cách lỏng lẻo để tạo nên một nhóm chống đối các kẻ đàn áp: “Nhóm Hiến Chương 77” (The Charter 77).

            Vào khoảng đầu tháng 1 năm 1977, một nhóm 242 người bất đồng chính kiến gốc Tiệp và Slovak, đã họp lại và ký tên vào một bản Tuyên Ngôn (manifesto) qua đó họ liệt kê các đòi hỏi căn bản về Nhân Quyền (basic human rights). Mặc dù đã được viết bằng những từ ngữ thận trọng, bản Hiến Chương 77 đã gây nên các hành động giận dữ của chính quyền Cộng Sản Tiệp Khắc: các người ký tên trong đó có ông Vaclav Havel, đều bị bắt, bị lưu đầy, bị xách nhiễu nhưng những nhân vật anh hùng này đã là hạt nhân cho phong trào phản kháng 12 năm về sau tại Tiệp Khắc.

            20 năm sau ngày quân đội của Hiệp Ước Warsaw xâm lăng Tiệp Khắc, đã có vào khoảng 20,000 người biểu tình đòi dân chủ, chống lại chế độ Cộng Sản vào ngày 21-8-1988 trước sự ngỡ ngàng của công an và đảng cộng sản cầm quyền. Đây là cuộc phản đối lớn nhất kể từ năm 1969 và cảnh sát đã phải dùng hơi cay để giải tán, 400 người bị bắt.

Tại thành phố Prague, cuộc biểu tình phản đối đã diễn ra từ ngày 15 tới ngày 20-1-1989 và cảnh sát cộng sản đã phải dùng dùi cui, hơi cay, vòi nước và chó dữ để dẹp biểu tình. Trong số người bị bắt lại có ông Vaclav Havel. Ngày 21-2, ông Havel bị tuyên án 8 tháng tù vì có hành vi “chống nhà nước và xã hội chủ nghĩa”. Nhiều người bất đồng chính kiến khác cũng bị tuyên án tương tự. Rồi 2,000 thanh niên đã tham gia biểu tình đòi dân chủ vào ngày 1-5-89, họ cũng bị đàn áp. Tới ngày 17-5-89, ông Havel được thả khỏi nhà tù vì đã “học tập tốt” theo lời của chính quyền cộng sản, nhưng thực ra là do sự chỉ trích của khối Tây Phương. Rồi 35,000 người bất đồng chính kiến, phản đối chế độ Cộng Sản, đòi hỏi Dân Chủ, đã ký tên vào một thỉnh nguyện thư yêu cầu phải “thay đổi tận gốc không khí xã hội và chính trị”.

            Các biểu tình phản kháng vẫn tiếp tục diễn ra tại Prague vào các ngày 28-8, 17-11, 20-11, 27-11-1989 rồi tới ngày 29-11, chính quyền cộng sản phải công nhận hủy bỏ vai trò lãnh đạo của đảng Cộng Sản. Ngày 10-12-1989, một chính quyền liên bang mới được thành lập và chủ tịch Husak từ chức. Ông Alexander Dubcek được bầu làm chủ tịch của Quốc Hội Liên Bang ngày 28-12 rồi ngày hôm sau, ông Vaclav Havel được bầu làm Tổng Thống của nước cộng hòa.

            Ông Havel đã thăm viếng Moscow vào hai ngày 26, 27-2-1990 và ký với ông Gorbachev một thỏa ước theo đó 73,500 quân Xô Viết phải rút khỏi Tiệp Khắc vào tháng 7 năm 1991. Nước Tiệp Khắc vào giai đoạn này đã gặp rất nhiều vấn đề khó giải quyết, chẳng hạn làm sao loại bỏ “giới cầm quyền cũ Nomenclatura” (nhóm cựu đảng viên C.S.)  ra khỏi các chức vụ cao, làm sao tháo gỡ được hệ thống kinh tế chỉ huy phức tạp và nặng nề và làm sao giải quyết êm đẹp các căng thẳng quốc gia với xứ Slovakia, rồi cuối cùng, nước Tiệp Khắc bị chia làm hai xứ riêng rẽ vào tháng 1-1993: đó là hai nước cộng hòa Tiệp (Czech) và Slovak

4 . Hungari              

Hungari là một quốc gia tại miền trung của châu Âu với diện tích nhỏ hơn tiểu bang Indiana và dân số 10 triệu người. Người Hungari có nguồn gốc từ bộ lạc du mục thiện chiến Magyar, từ châu Á tới châu Âu vào thế kỷ thứ 9 để rồi lập nên một vương quốc quan trọng. Khi đế quốc Áo-Hung bành trướng vào thế kỷ 19, Hungari là một miền đất tự trị, phát triển cho tới cuối Thế Chiến thứ nhất, khi đó hai phần ba diện tích bị cắt xén thành nước Tiệp Khắc, một phần của Nam Tư và một phần của Romania. Ngày nay, những người dân gốc Hungari vẫn còn sinh sống tại các quốc gia kể trên và đông đảo nhất tại vùng Transylvania thuộc nước Romania.              

Vào thập niên 1930, nhà độc tài Adolf Hitler đã hứa sẽ trả lại các miền đất mà Hungari bị mất vì Hiệp Ước Trianon, cho nên vào năm 1941, Hungari đã giúp Hitler tấn công Nam Tư và tham gia vào khối Trục. Tới năm 1943, Hitler không coi Hungari là một nước đồng minh, đã chiếm đóng nước này vào tháng 3-1944 rồi sau đó, nửa triệu người Do Thái sinh sống tại Hungari đã bị chở tới các trại tập trung đặt trên nước Đức và bị giết trong các phòng hơi ngạt.              

Sau khi Đức Quốc Xã thua trận, các người cộng sản Hungari đã chiếm chính quyền với sự giúp đỡ của quân đội Liên Xô. Ông Mathias Rakosi là lãnh tụ đảng Cộng Sản và cũng là người đứng đầu chính quyền Hungari, đã cai trị xứ sở này như một nhà độc tài. Chính sách cai trị khắc nghiệt của ông Rakosi đã khiến cho nền kinh tế Hungari đi dần tới chỗ kiệt quệ và dân chúng đều bất mãn.  

Năm 1953, ông Imre Nagy làm Thủ Tướng, Rakosi làm chủ tịch đảng Cộng Sản. Ông Nagy đã nới lỏng các kiểm soát, cho dân chúng Hungari đôi phần tự do hơn để cải thiện đời sống nhưng các cải tiến này đã bị ông Rakosi và các đảng viên cộng sản khác chống đối. Ông Nagy bị loại khỏi chính quyền và bị khai trừ khỏi đảng vào năm 1955. Các chính sách khắc nghiệt của ông Rakosi một lần nữa lại được áp đặt lên xứ sở Hungari khiến cho các thanh niên, các nhà văn… đều phản đối, nhất là về phạm vi nhân quyền và tự do tư tưởng, vì thế ông Rakosi bị loại khỏi chức vụ chủ tịch đảng Cộng Sản vào giữa năm 1956 nhưng các chính sách khắc nghiệt vẫn còn được duy trì khiến cho đã xẩy ra một cuộc nổi dậy, chống đối, tại thành phố Budapest.  

Cuộc cách mạng này đã lan ra khắp nước Hungari. Nhân dịp này nhiều tù nhân chính trị đã được trả tự do trong đó có cha Joseph Cardinal Mindszenty là người đứng đầu nhà thờ công giáo Catholic tại Hungari, đã bị giam cầm từ năm 1949. Cuộc nổi dậy của người dân Hungari đã khiến cho ông Imre Nagy lại trở nên Thủ Tướng và ông Nagy đã tuyên bố Hungari là một quốc gia trung lập, nhưng chính quyền này chỉ tồn tại được vài ngày, vì vào tháng 11 năm đó, quân đội Liên Xô đã tràn vào nước Hungari, đàn áp cuộc cách mạng. Số người bị giết trong cuộc tàn sát này từ 6,500 tới 32,000 người. Khoảng 250 người tích cực trong cuộc cách mạng kể trên, kể cả ông Imre Nagy, đã bị Liên Xô hành quyết vào năm 1958. 200,000 người Hungari đã bỏ xứ, chạy trốn.              

 Sau cuộc Cách Mạng năm 1956, Liên Xô đã kiểm soát chặt chẽ xứ Hungari và ông Janos Kadar là lãnh tụ đảng Cộng Sản mới, lãnh chức Thủ Tướng từ năm 1956 tới 1958 rồi từ năm 1961 tới 1965. Vào thập niên 1960, ông Kadar đã nới lỏng các kiểm soát về kinh tế, văn hóa và xã hội khiến cho chế độ cộng sản Hungari được coi là tiến bộ nhất. Năm 1987, ông Karoly Grosz được chọn làm Thủ Tướng rồi làm lãnh tụ đảng, thay thế ông Kadar. Vào cuối thập niên 1980 này, quyền lực của đảng Cộng Sản Hungari bị suy giảm, các đảng phái khác bắt đầu hoạt động trở lại. Vào tháng 6-1989, đảng Cộng Sản Hungari phải thảo luận với các đảng phái đối lập. Họ đã xét lại cuộc cách mạng năm 1956 và tuyên bố rằng vụ xét xử ông Imre Nagy và các đồng chí vào năm đó bị coi là bất hợp pháp và cuộc nổi dậy năm 1956 không bị coi là “phản cách mạng”. Ông Nagy và các đồng chí cũ được phục hồi danh dự và chôn cất long trọng vào tháng 6-1989.              

Mùa hè năm 1989, Hungari đã mở cửa biên giới với nước Áo khiến cho hàng ngàn người Đông Đức đã tràn qua các nước tây phương. Ngày 10-3-1990, Hungari đã ký với Liên Xô một thỏa ước về rút toàn bộ 52,000 quân Xô Viết ra khỏi lãnh thổ Hungari vào tháng 7-1991và xứ sở này chuyển sang chính thể dân chủ đa đảng, có Quốc Hội và Tổng Thống. Đảng Cộng Sản Hungari mặc dù đã cải tổ nội bộ, kể từ tháng 4-1990 chỉ chiếm được 11 % số phiếu bầu. Cũng từ năm 1990, Hungari đã theo đuổi các chính sách cải tổ kinh tế, tư hữu các xí nghiệp và trả lại đất đai cho nông dân.   
 

5. Albania             

Albania là quốc gia nghèo nhất của châu Âu, có diện tích vào khoảng tiểu bang Alabama với dân số hơn 3 triệu người. Albania tiếp giáp với các nước Nam Tư, Macedonia, Hy Lạp và biển Adriatic.              

Qua nhiều thế kỷ bị nước ngoài đô hộ, người dân Albania vẫn giữ được bản tính dân tộc nên đã giành được độc lập vào năm 1920 rồi tới Thế Chiến Thứ Hai, quốc gia nhỏ bé này bị Phát Xít Ý xâm lăng vào tháng 4-1939, rồi bị sát nhập vào nước Ý. Trong thời kỳ Thế Chiến Thứ Hai, có ba lực lượng kháng chiến chính trong xứ Albania: a) tổ chức Cộng Sản gọi là Mặt Trận Giải Phóng Quốc Gia NLF (the National Liberation Front) do Enver Hoxha lãnh đạo, b) lực lượng bảo hoàng gọi là Phong Trào Hợp Pháp (Legality) do Abas Kupi điều khiển, c) phong trào quốc gia gọi tên là Balli Kombetar do Midhat Frasheri chủ trương. Cả ba nhóm quân sự này vừa đánh quân đội Đức Quốc Xã chiếm đóng, vừa đánh lẫn nhau.              

Năm 1944, lực lượng Đức Quốc Xã bị đánh bật ra khỏi Albania và các người Cộng Sản kiểm soát được đất nước. Ông Hoxha đã thiết lập nên tại Tirana một chính quyền cộng sản và lãnh đạo đất nước với chức vụ Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản từ năm 1953. Ông Enver Hoxha (1908-1985), đã cai trị xứ Albania cho tới khi chết. Ông ta ủng hộ các chính sách của Joseph Stalin, nhà độc tài của Liên Xô. Từ nay, mọi ruộng đất đều bị tập trung thành các nông trại tập thể, các người chống đối đều bị cầm tù, các tài sản tư nhân bị tịch thu, mọi cơ sở tôn giáo đều bị đóng cửa, các hoạt động văn hóa và trí thức đều phải theo đường lối xã hội chủ nghĩa. Ông Hoxha đã cô lập xứ Albania, không cho giao tiếp với các quốc gia khác. Chính sách giới hạn mọi tự do cá nhân tại Albania đã khiến cho xứ sở này trở thành quốc gia nghèo đói nhất châu Âu, trong khi đó các đảng viên cộng sản vẫn tự hào rằng Albania là quốc gia duy nhất trên thế giới theo đúng các giáo điều Mác Xít Lê Nin Nít!              

Khi Albania giành được độc lập vào năm 1944, đảng Cộng Sản Nam Tư đã giúp đỡ các đảng viên cộng sản Albania tổ chức lại Mặt Trận Giải Phóng NLF nhưng tới năm 1948, sự rạn nứt đã xẩy ra giữa Nam Tư và Liên Xô khiến cho Nam Tư bị trục xuất khỏi Khối Cominform, một tổ chức gồm các đảng cộng sản châu Âu do Liên Xô lãnh đạo. Vào lúc này, Albania theo Liên Xô nên đã tuyệt giao với Nam Tư.              

Vào đầu thập niên 1960, đã xẩy ra một dạn nứt khác giữa Liên xô và Trung Cộng do khác biệt về cách giảng giải các giáo điều Cộng sản. Trung Cộng đả phá Liên Xô vì đã tìm cách sống chung với các quốc gia tây phương và Albania ủng hộ lập trường của Trung Cộng. Vào năm 1961, Albania đoạn giao với Liên Xô. Từ đó Trung Cộng cung cấp mọi trợ giúp cho Albania kể cả trợ giúp kỹ thuật. Tới cuối thập niên 1970, các nhà lãnh đạo cộng sản Albania lại chỉ trích Trung Cộng là đã không theo đúng các giáo điều Cộng Sản, đã liên lạc với Nam Tư và Hoa Kỳ. Trung Cộng bèn phản ứng lại bằng cách cắt hết viện trợ cho Albania.              

Năm 1985, ông Enver Hoxha chết sau khi đã cai trị Albania hơn 40 năm, đã bắt mọi người dân Albania phải thành kính tôn sùng lãnh tụ. Ông Ramiz Alia, nguyên là chủ tịch nước từ năm 1982, đã kế tiếp ông Hoxha làm Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản.              

Từ năm 1989, vì các quốc gia cộng sản Đông Âu bắt đầu tan rã nên xứ Albania cũng bị ảnh hưởng. Các cuộc biểu tình đã xẩy ra tại thủ đô Tirana, một sự việc không hề có trong 46 năm trường, một phần là do sự giảm bớt bóp nghẹt của cơ quan công an mật vụ Sigurimi. Vào mùa xuân năm 1990, chủ tịch Ramiz Alia công bố một chương trình “dân chủ hóa”, cho phép nông dân được quyền canh tác trên các mảnh đất tư hữu, chấp nhận việc du lịch ra nước ngoài và cho phép dân chúng thực hành tôn giáo tại gia đình. Một cải tiến khác của Albania là trả tiền thưởng cho các công nhân làm việc chăm chỉ, để sản xuất ra nhiều mặt hàng hơn. Thế nhưng, những cải cách này chưa thực sự mang lại các kết quả tốt.  

Vào tháng 7-1990, 5,000 người Albania đã xuống đường, phản đối chính quyền Cộng Sản, đập phá các tòa đại sứ để yêu cầu được ra các nước ngoài. Nhiều người liều mạng băng qua biên giới Nam Tư và Hy Lạp mà không có giấy tờ, để tìm tự do và tránh các hiểm nghèo kinh tế. Các xáo trộn vẫn tiếp tục tới cuối năm 1990 khiến cho đảng cộng sản cầm quyền phải đồng ý để các đảng phái chính trị khác tham gia vào các cuộc bầu cử đa đảng, diễn ra vào tháng 3-1991. Sau cuộc bầu cử này, đảng cộng sản thắng nhiều phiếu bởi vì các lực lượng đối lập đã không được tổ chức cẩn thận. Các bạo loạn chống cộng sản vẫn diễn ra tại Albania khiến cho một chính phủ mới được thành lập, bao gồm bên trong 9 nhân vật độc lập.  

Cuộc bầu cử kế tiếp diễn ra vào tháng 3-1992 và lần này, Đảng Dân Chủ Albania đối lập (the Albanian Democratic Party) đã thắng lớn trên toàn quốc. Ông Sali Berisha, một y sĩ giải phẫu tim, 47 tuổi, trở nên Tổng Thống không cộng sản đầu tiên vào tháng 4-1992. Sau khi trở thành nhà lãnh đạo của xứ Albania, ông Sali Berisha đã thực hiện nhiều chuyến công du ra các nước ngoài để xin trợ giúp, ngõ hầu ổn định xứ sở Albania quá nghèo đói.    

6. Bulgaria              

Bulgaria là một quốc gia thuộc vùng Balkan, lãnh thổ nhiều đồi núi này có diện tích vào khoảng tiểu bang Tennessee và dân số 9 triệu người, tiếp giáp với các nước Hy Lạp và Thổ Nhĩ kỳ ở phía nam, Nam Tư và Macedonia ở phía tây, Romania ở phía bắc và Biển Đen (the Black Sea) ở phía đông. Thủ đô của Bulgaria là thành phố Sofia, được người La Mã xây dựng nên vào thế kỷ thứ 2. Người Bulgaria có nguồn gốc pha trộn của các bộ lạc Slavic và Bulgars, và bộ lạc sau này từ Trung Á tới xâm chiếm bán đảo Balkan vào thế kỷ thứ 9. Bulgaria bị cai trị bởi các người nước khác và cuối cùng bị chinh phục bởi đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman. Năm 1878, nước Bulgaria giành được độc lập nhờ sự trợ giúp của người Nga vì thế người Bulgaria thường có thiện cảm với dân Nga.              

Năm 1912, với hy vọng giành lại miền đất đã mất vì Hiệp Ước Berlin, Bulgaria cùng với các nước khác thuộc vùng Balkan tham gia vào trận chiến đánh đuổi quân đội Ottoman ra khỏi châu Âu và đây là Cuộc Chiến Balkan thứ nhất. Sau khi Thổ Nhĩ Kỳ thua trận, các nước chiến thắng lại tranh chấp nhau và vào năm 1913, Bulgaria tấn công Serbia và Hy Lạp trong Cuộc Chiến Balkan thứ hai. Vì bị thua trong cuộc chiến này, Bulgaria bị mất phần đất đã giành được trong cuộc chiến trước.              

Trong Thế Chiến Thứ Nhất, Bulgaria đứng về phe Đức vì hy vọng chiếm lại các phần đất đã mất nhưng đã thất bại. Tới Thế Chiến Thứ Hai, Bulgaria là đồng minh của Đức và Ý. Ngày 8-9-1944, quân đội Liên Xô xâm chiếm Bulgaria và các người cộng sản đã giành được chính quyền. Từ đây, các người dân bị phe cộng sản coi là chống đối đã bị giết, bị gửi đi các trại tù cải tạo, quyền tư hữu của dân chúng bị hủy bỏ, mọi tự do trong xứ bị giới hạn. Năm 1946, lãnh tụ cộng sản Georgi Dimitrov trở nên nhà cai trị xứ Bulgaria. Năm 1947, Bulgaria phê chuẩn Hiến Pháp giống như Hiến Pháp của Liên Xô rồi tới năm sau, 1948, các người cộng sản kiểm soát được hoàn toàn đất nước này. Ông Dimitrov chết vào năm 1949, năm sau ông Vulko Chervenkov lên nắm quyền. Từ năm 1950, nền kỹ nghệ của Bulgaria đã gia tăng nhưng mực sống của người dân xuống thấp dần.              

Năm 1954, ông Todor Zhivkov (1911-   ) trở nên lãnh tụ đảng Cộng Sản và đã cầm quyền từ năm này tới tháng 11-1989. Trong số các lãnh tụ cộng sản Đông Âu, ông Zhivkov là kẻ tham quyền cố vị lâu thứ hai, chỉ đứng sau ông Enver Hoxha của xứ Albania. Ông Zhivkov là lãnh tụ cộng sản đầu tiên bị xét xử công khai vào tháng 9-1992 vì lạm quyền và thâm lạm của công rồi bị kết án 7 năm tù quản thúc. Hai lãnh tụ khác là ông Nicolae Ceausescu bị xử bắn ngay sau một phiên tòa quân sự vào năm 1989 và ông Erich Honecker, cựu chủ tịch Đông Đức, bị kết án vào cuối năm 1992.              

Vào năm 1962, ông Zhivkov trở nên chủ tịch nước Bulgaria, đã theo đường lối thân Liên Xô. Trong thời gian Bulgaria sống dưới chế độ cộng sản, người dân phải chịu đựng mọi thiếu thốn về các nhu yếu phẩm căn bản và các dịch vụ sơ đẳng, khiến cho một số nhân viên chính quyền cộng sản cũng phải căm hờn đường lối bóp nghẹt của Liên Xô. Năm 1965, ông Zhivkov thoát nạn sau một cuộc đảo chính quân sự không thành.              

Tới cuối thập niên 1980, các chính sách cởi mở tại Liên Xô đã ảnh hưởng đến xứ Bulgaria. Vào tháng 10-1989, các nhóm phản đối chính quyền cộng sản đã xuất hiện tại thành phố Sofia nhân một cuộc hội nghị quốc tế về môi trường được tổ chức tại đây, bởi vì sự hiện diện của một số đại biểu ngoại quốc đã khiến cho giới cấm quyền cộng sản phải nhẹ tay trong việc đàn áp. Rồi tới ngày 3-11 năm đó, 4,000 người đã biểu tình trước Quốc Hội, đây là cuộc phản kháng lớn nhất kể từ năm 1947.              

Người dân trong nước Bulgaria đã biểu tình phản đối chính quyền cộng sản Zhivkov, đòi hỏi dân chủ và một số tự do căn bản. Cuộc phản kháng đã bắt đầu từ bên trong nội bộ đảng Cộng Sản, do Bộ Trưởng Ngoại Giao là ông Petar Mladenov. Do áp lực từ Liên Xô, ông Zhivkov phải rút lui khỏi chính quyền vào tháng 11-1989 và ông Mladenov trở nên chủ tịch đảng và chủ tịch nước.  

Từ tháng 1-1990, do các bất mãn từ dân chúng, đảng Cộng Sản bị bớt dần độc quyền và chịu chấp nhận hệ thống chính trị đa đảng. Tháng 4 năm đó, đảng Cộng Sản Bulgaria đổi tên thành Đảng Xã Hội rồi cũng vào tháng 4, Quốc Hội bầu lại ông Mladenov làm chủ tịch nước. Tháng 6-1990, các cuộc bầu cử tự do, đa đảng, được tổ chức lần đầu tiên tại Bulgaria sau 44 năm. Đảng Xã Hội đã chiếm được nhiều phiếu nhất, sau đó là đảng Liên Hiệp Các Lực Lượng Dân Chủ UDF (Union of Democratic Forces). Tới tháng 7, các sinh viên lại biểu tình, phản đối ông Mladenov, họ dựng nên các căn lều trong “Vùng Không Cộng Sản” (a Communist free zone) thuộc thành phố Sofia. Tháng 8-1990, ông Zhelyu Zhelev thuộc lực lượng UDF được Quốc Hội bầu làm Tổng Thống xứ Bulgaria và đây là vị nguyên thủ loại “không cộng sản” đầu tiên, kể từ năm 1944. Từ năm 1991, đảng Cộng Sản Bulgaria tự hủy diệt dần dần.   

Nguồn bài đăng

Bước đường cùng!

Bước đường cùng!

Tạp ghi Huy Phương

August 20, 2017

Một người homeless ở góc đường Bolsa- Brookhurst, Little Saigon. (Hình Huy Phương)

“Đoạn trường ai có qua cầu mới hay!”(Kiều)

Một đài phát thanh địa phương vừa mở ra chương trình hội thoại với gợi ý “hiện nay, vùng Little Saigon nhếch nhác vì có quá nhiều người không nhà mang bảng “homeless” đứng ở các góc đường, như vậy có nên cho tiền những người này không?”

Khoảng 80% thính giả gọi vào đều lên án những người này là chây lười, hút xách, cờ bạc, rượu chè, trộm cắp… và đi đến kết luận là nhất định không cho tiền những người này. Không cho tiền họ thì “tệ nạn” này sẽ chấm dứt, cho tiền là khuyến khích những người này tiếp tục “xuống đường” tạo nên một hình ảnh không đẹp mắt cho thủ đô tị nạn Little Saigon này.

Tôi thật xót xa khi điều này làm tôi liên tưởng đến các bà nội trợ thường căn dặn con cái, thu vén thực phẩm ngoài vườn để tránh chuyện ban đêm chuột ra ăn, thức ăn nhiều thì chuột càng sinh sôi nảy nở kéo nhau đến đây càng nhiều.

Nhiều người nghĩ đến mỹ quan của khu phố Little Saigon, nơi có hàng trăm nghìn người Việt, vì nếu hôm nay chúng ta thấy nhiều người không nhà hiện diện ở đầu đường thì chúng ta cảm thấy “mất mặt” chăng?

Trước hết, sở dĩ vùng Little Saigon càng ngày càng có nhiều người không nhà, đủ sắc dân đến đây đứng ở chỗ đèn xanh đèn đỏ, hay trước những khu chợ Việt Nam, ngửa bàn tay ra xin bố thí, vì họ nghĩ rằng cộng đồng người Việt mình dễ dãi, có lòng trắc ẩn, biết thương người nên họ có thể kiếm được chút tiền hơn là những khu vực khác.

Người Việt lại có tình đồng hương, biết đùm bọc nhau và người nghèo lại thường sĩ diện không dám chường mặt ra đứng đường, thậm chí cũng không dám chen chân đến chỗ Home Depot đợi người thuê mướn để sống tạm qua một ngày. Vậy mà trong một phóng sự mới đây trên trang địa phương báo Người Việt chúng ta lại thấy nhiều người Việt tỏ ra kỳ thị người Việt, nói rằng gặp người Việt đứng đường là họ nhất quyết không cho tiền.

Nước Mỹ cũng chưa phải là một đất nước hoàn hảo, cũng có kẻ sướng, người khổ, có băng đảng trộm cướp, nhưng cảnh sát chưa bao giờ nghĩ đến chuyện bài trừ, bắt bớ, nhốt tù những người không nhà đứng đường cho “đẹp mặt” xã hội của họ, trong khi chính phủ chưa đem lại sự no ấm cho tất cả mọi người. Ngay những người con yêu ưu tú của đất nước là những cựu chiến binh trở về từ những chiến trường xa nước Mỹ, trong đó có Việt Nam của chúng ta, chính phủ cũng bất lực chưa giải quyết nỗi cho đời sống của họ, để họ phải ra nằm đường.

Một sự thật phũ phàng, là theo một thống kê mới nhất, nước Mỹ hiện nay có 49,933 người vô gia cư là cựu chiến binh, chiếm 8.6% tổng người không nhà ở Mỹ.

Nhiều người nói nước Mỹ là một đất nước có chương trình an sinh xã hội tốt để giúp người nghèo có housing, thực phẩm, thuốc men, nên không ai chết đói. Nếu như vậy thì đã không có người xuống đường ăn xin như chúng ta đã thấy. Chúng ta thử hỏi một viên chức xã hội, nếu chúng ta không có một cái địa chỉ nhà, không có điện thoại, không có nổi một thẻ căn cước… chúng ta có đủ tiêu chuẩn để xin trợ cấp xã hội hay không?

Chúng ta sợ khuôn mặt khu phố của chúng ta mất vẻ mỹ quan khi có nhiều người homeless hiện diện trên đường, trong khi chúng ta cũng muốn che dấu đi những tệ nạn trong cộng đồng: gian lận, lường gạt, bội tín, trộm cắp… mà không muốn cho ai biết.

Chúng ta lấy cái đạo đức tốt đẹp, may mắn của cô con gái nhà lành để lên án những thiếu nữ sa chân vào vũng bùn dơ. Những người vô gia cư đã khởi đầu những bước đi như chúng ta, lương thiện, có học hành, có bằng cấp, có một mái ấm gia đình, có người còn được gọi là những anh hùng, nhưng giờ đây bị lâm vào hoàn cảnh rủi ro khắc nghiệt phải cầm tấm bảng homeless ra đứng đầu đường.

Có những người Việt Nam đã đến Mỹ, nuôi giác mộng bình an, hạnh phúc như chúng ta, nhưng rồi bị số phận vật ngã, không gượng đứng dậy được, bị dòng nước định mệnh cuốn trôi, chúng ta lấy tư cách gì để lên án họ.

Có người than phiền bị những người vô gia cư lừa, như chuyện lấy cùng một lý do nào đó để than khổ và sau đó lập lại chuyện đó với một người khác, nhưng nếu chúng ta so sánh một kẻ cùng đường lừa bạn $5, với một bậc khoa bảng, có nhà bạc triệu trên đồi, có xe hơi lộng lẫy, lừa bạn qua một dịch vụ chuyên môn bạc nghìn, thì ai đáng lên án hơn ai?

Cũng có người yêu cầu giao tiền cho các tổ chức cộng đồng, tổ chức tôn giáo chứ không trao cho những người vô gia cư. Nhưng chúng ta nghĩ xem, cả hai cộng đồng người Việt ở đây đã có kế hoạch nào giúp đồng bào chưa? Chúng ta bỏ thùng “công đức” mỗi ngày rằm, mồng một, góp tiền cho nhà thờ, nhưng có nhà thờ hay ngôi chùa nào đêm nay mở cửa cho những người homeless vào ngủ qua đêm chưa? Có những chủ khu phố đổ dầu nhớt hay đóng đinh nhọn trước cửa tiệm mình để tránh những người không nhà đến ngủ. Liệu cái cộng đồng giàu có, xe cộ, phố xá nhộn nhịp, mang ơn nước Mỹ này đã giúp gì cho những kẻ bần cùng của xã hội này chưa? Liệu một vài tháng, mời người không nhà đến ăn một tô phở hay một bữa cơm chay đã đủ gọi là biết “chia cơm, xẻ áo” cho người khác chưa?

Liệu bạn có đồng ý cho một người homeless bẩn thỉu, hôi hám xin dùng phòng vệ sinh cửa tiệm hay nhà bạn, nói gì chuyện tắm rửa. Vậy trách gì họ râu tóc, áo quần hôi hám, bẩn thỉu! Và nếu họ có đủ tiền, muốn ăn một tô phở, là chủ tiệm bạn có vui lòng mời họ vào tiệm như đã tiếp đón những người khách lành lặn, sang trọng hay không?

Đứng trước một người vô gia cư đang cầm cái bảng “I’ll Work For Food,” có lẽ chúng ta cũng chẳng cần biết họ là ai, lý do để họ trở thành homeless, mà ngay lúc đó họ đang cần một đô la. Cho họ một đô la chúng ta không nghèo đi chút nào, mà người bất hạnh kia cũng không giàu có hơn lên, nhưng có điều chắc chắn, là cả hai, lòng người cho và người nhận đều cảm thấy vui.

Một phóng viên báo chí có làm một cuộc điều tra cho biết những người homeless đứng đầu đường kiếm “khá bộn” tiền vì sự hảo tâm của người qua đường. Khá bộn là bao nhiêu sau những giờ chạy lui chạy tới trên những giải phân cách giữa hai con đường xuôi ngược?

Bạn có dịp nào để đến thăm một khu tập trung những người vô gia cư chưa? Họ dựng lều hay kiếm băng đá góc cây, đắp trên mình một tấm bạt nhầu nát, cạnh mỗi người là một chiếc xe đẩy hàng lấy từ các siêu thị, chất đầy “gia tài,” chăn chiếu, áo quần, thức ăn, ve chai lọ.

Hoàng tử William của nước Anh đã có lần “vi hành,” trà trộn sống thử 24 tiếng đồng hồ với những người homeless để hiểu đời sống của họ ra sao. Ông có cái cảm giác sợ hãi, bất an, suốt đêm không ngủ. Có trò chuyện với họ anh mới thấu hiểu được cái khổ của đói lạnh, và sự nguy hiểm rình rập, chưa kể nỗi đau tinh thần, bệnh tật không có thuốc men. Những người khốn khổ này rất dễ dàng đi vào con đường nghiện ngập ma túy hay rượu, những chuyện có thể giúp họ quên đi số phận phiền não của mình.

Lên án người thì dễ, nhưng mở lòng cưu mang giúp đỡ họ mới là khó.

From : Do Tan Hung & Nguyen Kim Bang

23 tổ chức kêu gọi áp dụng Luật Magnitsky lên 15 quốc gia

23 tổ chức kêu gọi áp dụng Luật Magnitsky lên 15 quốc gia

  • Giới chức Việt Nam bị đề nghị trừng phạt: Giám Đốc Công An Tỉnh Gia Lai

Mạch Sống, ngày 13 tháng 9, 2017

http://machsongmedia.com

Hãng thông tấn Reuters hôm nay chạy tin về bức thư chung của 23 tổ chức nhân quyền hàng đầu của Hoa Kỳ, kêu gọi Hành Pháp Trump áp dụng các biện pháp trừng phạt của Luật Magnitsky Toàn Cầu lên 15 quốc gia. Xem: http://af.reuters.com/article/africaTech/idAFL2N1LS11A

“Là những tổ chức tập trung phát huy các quyền con người phổ cập và công cuộc chống tham nhũng, chúng tôi tán thán Quý Ngài về quyết tâm thực thi Luật Magnitsky Toàn Cầu (PL 114-­‐328, Subtitle F); luật này cho phép Tổng Thống áp đặt các biện pháp trừng phạt kinh tế và hạn chế cấp visa cho các người ngoại quốc để đáp trả một số vi phạm nhân quyền nghiêm trọng và hành vi tham nhũng lớn,” lá thư chung trình bày với Bộ Trưởng Ngoại Giao và Bộ Trưởng Ngân Khố Hoa Kỳ.

Tháng 4 vừa qua Tổng Thống Donald Trump đã gửi văn thư cho Quốc Hội, cam kết sẽ chấp hành một cách mạnh mẽ và triệt để Luật Magnitsky Toàn Cầu, được Quốc Hội thông qua vào cuối năm 2016 và Tổng Thống tiền nhiệm Barack Obama ký ban hành ngay trước Giáng Sinh.

Theo luật này, những giới chức chính quyền và kể cả các cộng tác viên ngoài chính quyền có thể bị Hoa Kỳ từ chối visa nhập cảnh, dù là đi công vụ, và đóng băng các tài sản ở hoặc đang trung chuyển qua Hoa Kỳ.

Bà Trần Thị Hồng sau một trận tra tấn, dưới sự chỉ huy của công an Tỉnh Gia Lai, ngày 14/04/2016 

“Các tổ chức đồng ký tên đã phối hợp chặt chẽ với nhau từ đầu năm nay để lọc ra 15 hồ sơ tiêu biểu cho 15 quốc gia và rồi cùng chung sức vận động,” Ts. Nguyễn Đình Thắng, Tổng Giám Đốc kiêm Chủ Tịch BPSOS, nói. “Đây cũng là các tổ chức đã cùng nhau vận động Quốc Hội thông qua Luật Magnitsky Toàn Cầu năm ngoái.”

Trong số 15 hồ sơ thì 10 hồ sơ liên quan đến vi phạm nhân quyền nghiêm trọng ở các quốc gia Azerbaijan, Bahrain, China, Egypt, Ethiopia, Mexico, Saudi Arabia, Tajikistan, Uzbekistan và Việt Nam.

Hồ sơ được chọn cho Việt Nam liên quan vụ tra tấn và khủng bố tinh thần Bà Trần Thị Hồng kéo dài suốt 2 tháng sau khi Bà tiếp xúc với phái đoàn Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ vào cuối tháng 3 năm 2016.

Theo Ts. Thắng, trước khi đưa một người vào hồ sơ, các tổ chức đã cùng nhau nghiên cứu kỹ lưỡng để quy trách nhiệm. Trong trường hợp kể trên, BPSOS đã cùng với Hội Phụ Nữ Nhân Quyền Việt Nam gửi nhiều bản báo cáo liên tục đến các văn phòng đặc trách nhân quyền của Liên Hiệp Quốc và Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Khi chính quyền Việt Nam ở cấp quốc gia trả lời Hoa Kỳ và LHQ, thì có nghĩa là họ đã phải hội ý với cấp tỉnh. Song song, Liên Minh Bài Trừ Tra Tấn ở Việt Nam giúp Bà Hồng thảo đơn tố giác gửi các cấp chính quyền phường, huyện, tỉnh và trung ương với giấy báo phát.

“Với phương pháp quy chiếu tam giác từ nhiều hướng, điểm giao nhau chính là đầu mối trách nhiệm”, Ts. Thắng giải thích.

Số 5 hồ sơ liên quan đến tham nhũng đáng kể bao gồm các quốc gia Congo, Liberia, Panama, Nga và Ukraine.

Liên minh 23 tổ chức nhân quyền Hoa Kỳ này đã chia nhau đi vận động các văn phòng dân biểu và thượng nghị sĩ để đôn đốc Bộ Ngoại Giao và Bộ Ngân Khố Hoa Kỳ thực thi nghiêm chỉnh và rốt ráo Luật Magnitsky Toàn Cầu. Hai Thượng Nghị Sĩ tác giả của Luật Magnitsky Toàn Cầu ở Thượng Viện cũng đã đưa ra một danh sách, phần lớn dựa vào danh sách của 23 tổ chức, để yêu cầu Hành Pháp Trump trừng phạt. Trong thời gian ngắn tới đây, các dân biểu đồng tác giả của Luật Magnitsky Toàn Cầu ở Hạ Viện cũng sẽ danh sách của họ cho Hành Pháp Trump.

“Chúng tôi sẽ tổ chức một buổi họp báo quy mô vào cuối tháng 10,” Ts. Thắng cho biết. “BPSOS đang thu xế để Ms. Nguyễn Công Chính và Bà Trần Thị Hồng hiện diện tại sự kiên quan trọng này.”  

Song song với nỗ lực chung với 22 tổ chức nhân quyền Hoa Kỳ, BPSOS thực hiện cuộc vận động nhắm riêng vào Việt Nam. Trong Ngày Vận Động Cho Việt Nam, ngày 29 tháng 6, vừa qua, hàng trăm người Mỹ gốc Việt đến từ 30 tiểu bang đã trao cho 70 văn phòng Dân Biểu và Thượng Nghị Sĩ danh sách gần 180 quan chức chính quyền Việt Nam với đề nghị trừng phạt.

Trong trường hợp vi phạm nhân quyền mang yếu tố tôn giáo thì biện pháp trừng phạt được bổ sung bởi Luật Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế: vợ, chồng, con của đương sự cũng bị cấm nhập cảnh Hoa Kỳ; nếu đang ở Hoa Kỳ thì bị trục xuất.

Nhiều tờ báo lớn của Hoa Kỳ và quốc tế đã chạy bản tin của Reuters. 

Tài liệu liên quan:

Thư chung của 23 tổ chức nhân quyền Hoa Kỳ và danh sách đề nghị trừng phạt: http://www.humanrightsfirst.org/sites/default/files/Global-Magnitsky-2017.pdf

Đề nghị trừng phạt theo Luật Magnitsky Toàn Cầu: Thêm 1 bước tiến
http://machsongmedia.com/vietnam/danchu/1239-2017-08-12-00-41-24.html

Liệu chế độ độc tài có ngại Luật Magnitsky?
http://machsongmedia.com/vietnam/nhanquyen/1233-2017-07-19-22-48-31.html

Bảo tàng vắng như… chùa Bà Đanh, vẫn ‘đòi’ 11.000 tỉ xây mới

From facebook:   Nguyễn Thúy Hạnh‘s post.

Y tế có tiền thuốc giả, giao thông có BOT, giáo dục có tiền “cải cách”… bộ văn hoá ko xây tượng đài và bảo tàng thì cạp đất mà ăn à, thắc mắc gì?

TTO – Việc Bộ Xây dựng vừa gửi văn bản lên Thủ tướng xin tháo gỡ về vốn để tiếp tục triển khai dự án xây dựng Bảo tàng Lịch sử quốc gia đã vấp phải phản…
TUOITRE.VN