ƯỚC GÌ MẸ CÓ MƯỜI TAY – CA DAO MƯỜNG – HÌNH ẢNH VCH

(CA DAO MƯỜNG – HÌNH ẢNH VCH)

 Nhân Ngày Của Mẹ, mời các bạn đọc lại bài ca dao của người Mường. Lời ru con đầy chất dân ca, chứa đựng cả một trời tâm sự của mẹ…

MƯỜI TAY

Bồng bồng con nín con ơi
Dưới sông cá lội, ở trên trời chim bay
Ước gì mẹ có mười tay
Tay kia bắt cá, còn tay này bắn chim
Một tay chuốt chỉ luồn kim
Một tay đi làm ruộng, một tay tìm hái rau

Một tay ôm ấp con đau
Một tay vay gạo, một tay cầu cúng ma
Một tay khung cửi guồng xa
Một tay lo bếp nước, lo cửa nhà nắng mưa
Một tay đi củi muối dưa
Còn tay để van lạy, để bẩm thưa, đỡ đòn
Tay nào để giữ lấy con
Tay nào lau nước mắt, mẹ vẫn còn thiếu tay
Bồng bồng con ngủ cho say
Dưới sông cá vẫn lội, chim vẫn bay trên trời

(Ca dao dân tộc Mường, Cầm Giang dịch)

From: taberd- & NguyenNThu


 

Sài Gòn có mưa lớn nhất 8 năm, khắp nơi ngập nặng, xe chết máy

Ba’o Nguoi-Viet

May 10, 2025

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Cơn mưa vào sáng 10 Tháng Năm kéo dài một giờ rưỡi với lượng nước đo được gần 230 mm được xác nhận là “lớn nhất từ năm 2018 đến nay” khiến nhiều nơi ở Sài Gòn ngập nặng, các loại xe chết máy nằm la liệt.

Hình ảnh do các báo trong nước đăng tải cho thấy tại những khu vực như phường Tam Bình (thành phố Thủ Đức), quận Bình Thạnh, nước ngập hơn nửa mét, qua thắt lưng người lớn, thậm chí một số nơi nước ngập quá nửa căn nhà, gây thiệt hại nhiều tài sản.

Chỉ còn xe buýt chạy được trên đường trong lúc xe hơi, xe gắn máy chết máy la liệt ở Sài Gòn do mưa lớn hôm 10 Tháng Năm. (Hình: VNExpress)

Phóng viên báo VNExpress mô tả, nước ngập tràn vào nhà, cửa hàng cạnh xa lộ Hà Nội và cả vùng ven như huyện Hóc Môn, Củ Chi, khiến nhiều người phải vất vả tát nước.

Nhiều chủ cửa hàng hoặc tiểu thương bán ở chợ phải căng nylon, dựng tấm ván, đắp đê ngăn nước ngập làm hư hỏng hàng hóa.

Trên nhiều tuyến đường ở Sài Gòn, nước ngập khiến xe hơi, xe gắn máy chết máy, trong lúc chỉ còn xe buýt chạy được.

Còn theo ghi nhận của phóng viên báo Tiền Phong, nhiều ống cống ở Thủ Đức xuống cấp, lại bị rác thải và bùn đất bít kín khiến nhiều khu vực trở thành “rốn ngập,” nước dâng cao đến ngực người lớn, mỗi khi xảy ra mưa to.

Nước ngập hơn thắt lưng người lớn hôm 10 Tháng Năm tại phường Tam Bình, thành phố Thủ Đức, Sài Gòn. (Hình: Tiền Phong)

Ông Nguyễn Ngọc Huy, chuyên gia thời tiết, cho hay những ngày qua tại Sài Gòn có nắng nóng oi bức cùng “hiệu ứng đô thị,” khiến hơi ẩm bốc lên cao tích tụ rất nhiều.

Hiện tượng này kết hợp với “rìa của khối khí lạnh và khô hơn” ở trên tầng khí quyển hội tụ cực mạnh tạo nên “mưa dị thường” như trong hôm 10 Tháng Năm.

Chợ Thủ Đức nằm trong biển nước. (Hình: VNExpress)

Ngoài Sài Gòn, các tỉnh Đông Nam Bộ như Bình Dương, Đồng Nai cũng mưa lớn từ 100 đến 150 mm, gây ngập nặng ở các vườn trái cây, cô lập một số khu dân cư.

Ông Huy cũng đưa dự báo rằng từ nay đến ngày 14 Tháng Năm, tần suất mưa tại Sài Gòn và khu vực Nam Bộ sẽ gia tăng, người dân cần chuẩn bị ứng phó với hiện tượng gió giật mạnh, lốc xoáy, sấm sét hoặc mưa đá. (N.H.K) [qd]


 

KATYN: 70 NĂM DỐI TRÁ VÀ HÀNH TRÌNH HOÀN TRẢ SỰ THẬT LỊCH SỬ

Lê Thọ Bình

Một thảm sát âm thầm, bị quên lãng:

Mùa xuân năm 1940, tại những khu rừng tĩnh lặng Katyn gần Smolensk, Liên Xô đã hành quyết bí mật hơn 22.000 sĩ quan, trí thức và công chức người Ba Lan, những người bị xem là mối đe dọa tiềm tàng đối với quyền lực Xô viết ở phần lãnh thổ miền Đông Ba Lan mà Liên Xô vừa chiếm đóng.

Cuộc thảm sát do chính lãnh tụ Joseph Stalin phê chuẩn và được thực hiện bởi cơ quan mật vụ NKVD trong thời gian chưa đầy hai tháng.

Thế nhưng, suốt gần nửa thế kỷ sau đó, cả thế giới bị dẫn dụ vào một màn kịch tuyên truyền tinh vi khi thủ phạm thực sự, chính quyền Liên Xô, cố tình đổ lỗi cho phát xít Đức, kiểm soát truyền thông, tiêu hủy chứng cứ, và đàn áp bất kỳ tiếng nói nào dám đặt nghi vấn.

Hành trình để khôi phục sự thật về Katyn là một câu chuyện bi tráng của lịch sử, nơi những tài liệu mật chôn vùi trong hòm sắt của Đảng, những hồi ký nghẹn lời của người sống sót, và những cái chết oan khuất giữa ranh giới ý thức hệ, tất cả đã góp phần khắc họa một trong những tội ác chiến tranh bị che đậy lâu nhất trong thế kỷ XX.

Từ hiệp ước Molotov- Ribbentrop đến lệnh hành quyết của Stalin:

Ngày 23/8/1939, chỉ vài ngày trước khi phát xít Đức tấn công Ba Lan, Liên Xô và Đức đã ký Hiệp ước không xâm lược lẫn nhau Molotov–Ribbentrop, kèm theo một nghị định thư bí mật phân chia Đông Âu thành hai vùng ảnh hưởng.

Hệ quả là vào ngày 17/9/1939, Hồng quân Liên Xô tràn vào miền Đông Ba Lan, bắt giữ khoảng 250.000 quân nhân, cảnh sát, trí thức và công chức Ba Lan.

Trong số này, hơn 22.000 người được chuyển về các trại tù như Kozelsk, Starobelsk, Ostashkov. Họ là những thành phần tinh hoa: sĩ quan quân đội, bác sĩ, luật sư, giáo sư đại học, những người, theo mắt nhìn của Stalin và Beria, không thể cải tạo, không thể sử dụng, mà chỉ có thể thủ tiêu.

Ngày 5/3/1940, Lavrenty Beria, người đứng đầu NKVD, gửi lên Bộ Chính trị đề xuất xử tử 25.700 tù nhân Ba Lan. Bản đề xuất ấy được Stalin, Molotov, Voroshilov, Mikoyan và Kalinin đồng loạt ký tên, ghi rõ: “Không xét xử. Không trì hoãn.”

Tài liệu này-,về sau được biết với tên gọi “Biên bản số 13”- là văn bản tử hình tập thể quy mô lớn hiếm hoi có chữ ký trực tiếp của Stalin.

Thảm sát diễn ra tại ba địa điểm chính: rừng Katyn (gần Smolensk), Kalinin (nay là Tver), và Kharkov. Các nạn nhân bị bắn vào sau gáy, thi thể chôn trong các hố tập thể kín đáo giữa rừng sâu.

Màn kịch tuyên truyền: “Đức là thủ phạm”:

Tháng 4 năm 1943, phát xít Đức công bố phát hiện các hố chôn tập thể tại Katyn sau khi chiếm được khu vực này.

Một nhóm điều tra quốc tế do Hội Chữ Thập Đỏ dẫn đầu, bao gồm các chuyên gia từ Thụy Sĩ, Croatia, và Thụy Điển, xác nhận thời điểm tử vong rơi vào năm 1940, khi Liên Xô còn kiểm soát khu vực.

Phản ứng của Liên Xô rất nhanh chóng: phủ nhận toàn bộ, khẳng định Đức mới là thủ phạm, và cắt đứt quan hệ ngoại giao với chính phủ Ba Lan lưu vong vì “theo lời địch”.

Liên Xô lập ra một Ủy ban “điều tra” riêng dưới sự chỉ đạo của học giả Nikolai Burdenko, thực chất là một cơ quan ngụy tạo, bóp méo thời gian, dựng lại chứng cứ giả để kết tội phát xít Đức.

Mọi nỗ lực của các học giả, nhà báo hay cựu chiến binh phương Tây muốn điều tra độc lập đều bị cấm cản hoặc vô hiệu hóa trong bối cảnh chiến tranh.

Sự im lặng kéo dài qua các đời Tổng bí thư:

Sau chiến tranh, vụ Katyn tiếp tục là một “vùng cấm”. Tại Tòa án Nürnberg (1946), Liên Xô cố gắng đưa vụ Katyn ra làm bằng chứng chống lại Đức, nhưng các thẩm phán quốc tế từ chối tiếp nhận vì nghi vấn lớn về tính xác thực.

– Dưới thời Nikita Khrushchev (1953–1964), dù khởi xướng phong trào phi Stalin hóa, ông vẫn không đả động gì đến Katyn.

Theo tài liệu từ hậu trường, Khrushchev đã tiếp cận được hồ sơ mật nhưng nhận thấy vụ việc quá nhạy cảm để công bố, đặc biệt trong bối cảnh Ba Lan là đồng minh thuộc khối XHCN.

– Leonid Brezhnev (1964–1982) tiếp tục chính sách che đậy. Các tài liệu lưu trữ về Katyn được đưa vào “Gói số 1”, hệ thống hồ sơ tuyệt mật chỉ vài người trong Bộ Chính trị được phép tiếp cận. Cơ quan tuyên truyền của Đảng thậm chí còn tổ chức sản xuất phim tài liệu “chứng minh” Đức là thủ phạm.

– Yuri Andropov (nguyên lãnh đạo KGB, Tổng bí thư 1982–1984) tiếp tục bảo vệ hệ thống dối trá này, ra lệnh kiểm soát các nghiên cứu lịch sử độc lập và ngăn chặn những tài liệu nước ngoài đề cập đến Katyn.

Từ Khrushchev đến Chernenko, ba thế hệ lãnh đạo Liên Xô đã đồng thuận trong sự im lặng: sự thật về Katyn không thể xuất hiện.

Gorbachev: Khi lịch sử trở thành cơn ác mộng:

Chỉ đến cuối thập niên 1980, dưới làn sóng cải tổ (Perestroika) và công khai (Glasnost) của Mikhail Gorbachev, hy vọng làm sáng tỏ vụ Katyn mới dần manh nha.

Trước áp lực của sử gia, báo giới và đặc biệt từ chính phủ Ba Lan thời hậu cộng sản, Gorbachev chấp thuận mở lại kho lưu trữ và cho phép kiểm tra “Gói số 1”.

Theo lời kể của Anatoly Chernyaev, cố vấn thân cận của Gorbachev, trong một phiên làm việc tại Kremlin năm 1989, khi Gorbachev lần đầu đọc “Biên bản số 13”, ông “rợn tóc gáy” và “lặng người rất lâu”. Ông nói: “Tôi không thể tin rằng người ta có thể ký cái này như ký một công văn hành chính.”

Năm 1990, Gorbachev chính thức công nhận rằng vụ Katyn do NKVD thực hiện, nhưng tránh nêu đích danh Stalin. Một phần sự thật đã được trả lại, nhưng vẫn thiếu điểm mấu chốt: ai ra lệnh?

Yeltsin và sự công bố muộn màng nhưng cần thiết:

Sau khi Liên Xô tan rã năm 1991, Tổng thống Boris Yeltsin kế nhiệm một di sản đầy dối trá.

Trong một hành động táo bạo và có ý nghĩa biểu tượng, ngày 14/10/1992, Yeltsin trao lại cho Tổng thống Ba Lan Lech Wałęsa bản sao tài liệu “Biên bản số 13”, có chữ ký của Stalin, Molotov và toàn bộ Bộ Chính trị, phê duyệt lệnh xử bắn 21.857 công dân Ba Lan.

Yeltsin phát biểu trong buổi lễ:

“Không có tương lai cho một đất nước che giấu quá khứ. Sự thật dù đau đớn đến đâu cũng phải được đưa ra ánh sáng. Đó là nghĩa vụ đạo đức của chúng tôi.”

Đây là lần đầu tiên chính quyền Nga thừa nhận bằng tài liệu chính thức rằng Stalin và nhà nước Liên Xô chịu trách nhiệm trực tiếp về vụ thảm sát Katyn.

Nghị quyết của Quốc hội Nga: Thừa nhận lịch sử, nhưng không đoạn tuyệt:

Phải đến tận ngày 26/11/2010, Quốc hội Nga (Duma Quốc gia) mới thông qua một nghị quyết chính thức công nhận vụ thảm sát Katyn là tội ác của chính quyền Stalin. Trong nghị quyết, Duma tuyên bố:

“Các tài liệu mật từ kho lưu trữ của Kremlin cho thấy rõ: vụ hành quyết hơn 22.000 công dân Ba Lan tại Katyn là hành động tội phạm có chủ đích, được thực hiện theo lệnh trực tiếp của Stalin và giới lãnh đạo Liên Xô.”

Tuy nhiên, Đảng Cộng sản Nga phản đối dữ dội, cáo buộc rằng “các tài liệu có thể bị làm giả”, cho thấy việc đối diện với sự thật vẫn còn là quá trình đầy đau đớn và chia rẽ trong chính nội bộ nước Nga.

Katyn – dấu vết của sự thật và bóng tối của quyền lực:

Vụ thảm sát Katyn là tấm gương soi chiếu nhiều tầng lớp của lịch sử thế kỷ XX: từ sự tàn bạo của các chế độ toàn trị, sự ngoan cố của dối trá, cho đến sức mạnh không thể đảo ngược của sự thật.

70 năm sau thảm sát, chỉ đến khi hệ thống sụp đổ, sự thật mới được trả về với những người đã chết trong âm thầm.

Không chỉ là một vụ giết người hàng loạt, Katyn còn là một lời nhắc nhở: lịch sử có thể bị che giấu một thời gian, nhưng không thể bị vùi lấp vĩnh viễn. Và mỗi thế hệ đều có trách nhiệm giữ gìn, công bố và học hỏi từ sự thật ấy.

Bản đồ các địa điểm liên quan đến vụ thảm sát Katyn


TRÍCH ĐOẠN NỘI DUNG CHÍNH BIÊN BẢN SỐ 13:

(Dịch sang tiêang Việt)

Tuyệt mật

5 tháng 3 năm 1940

Ủy ban Nhân dân Phụ trách Nội vụ Liên Xô (NKVD)

Gửi đồng chí Stalin

Trong các trại tù binh và nhà tù ở các khu vực phía tây của Ukraine và Belarus hiện đang giam giữ một số lượng lớn cựu sĩ quan quân đội Ba Lan, cảnh sát, nhân viên tình báo, thành viên các đảng phản cách mạng, và những người khác. Tất cả đều là kẻ thù không thể hòa giải của chính quyền Xô viết.

Đề nghị:

1- Xét xử theo thủ tục đặc biệt, không triệu tập bị can, không đưa ra cáo buộc, và không ban hành phán quyết, đối với 14.700 người bị giam giữ trong các trại tù binh và 11.000 người bị giam giữ trong các nhà tù, với hình phạt tử hình bằng cách xử bắn.

2- Giao việc xét xử cho một “Troika” đặc biệt gồm các đồng chí Merkulov, Kobulov và Bashtakov.

Ký tên: L. Beria

Đã phê duyệt:

Stalin – Tán thành

Voroshilov – Tán thành

Molotov – Tán thành

Mikoyan – Tán thành

Ghi chú bên lề:

Kalinin – Tán thành

Kaganovich – Tán thàn

Основные источники:

(Các Tài liệu tham khảo chính)

1- Берия, Лаврентий. Меморандум Сталину, 5 марта 1940 г. Архив Президента Российской Федерации (Пакет №1).

2- Специальный комитет Палаты представителей США. Резня в Катынском лесу, 1952 г.

3- Черняев, Анатолий. Мои шесть лет с Горбачёвым, 1993 г.

4- Наумов В., Яковлев А. Лубянка — Сталин — Катынь: Особые папки, 1995 г.

5- Государственная Дума Российской Федерации. Резолюция о Катынском расстреле, 2010 г.

Tù binh Ba Lan bị Hồng quân bắt giữ trong cuộc tấn công Ba Lan


 

Những ‘người con’ của Trường Xuân sau nửa thế kỷ tha hương

Ba’o Nguoi-Viet

May 10, 2025

Trà Nhiên/Người Việt

MISSION VIEJO, California (NV) – Trường Xuân là tên con tàu cuối cùng rời cảng Sài Gòn ngày 30 Tháng Tư, 1975, chở theo hơn 3,600 người vượt biển đến bến bờ tự do. Trên chuyến hải hành nghìn trùng ấy, một hài nhi đã ra đời. Trên tàu còn có một thiếu niên 16 tuổi.

Trường Xuân và hàng ngàn “người con” dìu dắt nhau đến bến bờ tự do (hình trái) và tàu Trường Xuân chờ tàu Clara Maersk của Đan Mạch giải cứu. (Hình: Chiêu Anh Vũ-Lieberman cung cấp)

Giờ đây, sau hơn nửa thế kỷ tị nạn và thành danh nhưng trong tâm khảm của hai số phận vẫn mãi khắc khoải hai chữ “Trường Xuân.”

Vết lăn trầm

“Khoảng 2 giờ sáng 2 Tháng Năm, 1975, tôi chào đời trên tàu Trường Xuân giữa đại dương mênh mông. Mẹ tôi không có sữa cho con. Đôi mắt và rốn tôi bị nhiễm trùng, xương vai tôi bị gãy, vai cụp vô sau khi chú phi công dùng hai tay ôm chặt tôi để những người cứu hộ kéo chúng tôi từ tàu lên máy bay cứu hộ,” cô Chiêu Anh Vũ-Lieberman, “em bé Trường Xuân” năm nào tường thuật.

Lieberman là họ phu quân. Chữ Vũ được cô Chiêu Anh lấy từ tên bà ngoại khi cô ngoài 30 tuổi.

“Tôi đã có thể chết vô số lần…,” cô Chiêu Anh bồi hồi kể.

Ngày 27 Tháng Tư, 1975, bà Nguyễn Thị Mùi, mẹ cô Chiêu Anh, ôm bụng bầu chín tháng vào bệnh viện chờ lâm bồn, nhưng đến ngày 29 thì chồng bà báo phải di tản. Bác sĩ phân vân giữa hai lựa chọn là chích thuốc cho sinh sớm hoặc cứ để em bé trong bụng. Cuối cùng, gia đình nhất trí cứ để em bé nguyên trong bụng.

“Mẹ tôi ôm bụng bầu đi di tản cùng cha tôi và anh trai 2 tuổi vào ngày định mệnh ấy. Chúng tôi đến Tòa Đại Sứ Mỹ để đợi phi cơ, nhưng phi cơ không đáp được vì Cộng Sản nhắm bắn. Gia đình tôi trốn trong một chiếc tủ. Mẹ tôi nghe tiếng bước chân của Việt Cộng nên phải che miệng anh trai tôi. Cuối cùng, chúng tôi lên chiếc phi cơ khác. Mẹ tôi phải khệ nệ bụng bầu leo cầu thang dây để lên phi cơ,” cô Chiêu Anh thuật lại.

Gia đình bà Mùi bị lỡ chuyến tàu đầu tiên đưa đoàn người đi vượt biển vì họ đến trễ 10 phút, nhờ thế mà gia đình thoát được vì chiếc tàu ấy bị Cộng Sản bắt được.

Bà Mùi ôm cô Chiêu Anh khi mới lọt lòng cùng người con trai 2 tuổi sau khi được cứu từ tàu Trường Xuân. (Hình: Chiêu Anh Vũ-Lieberman cung cấp)

Như định mệnh, gia đình bà Mùi cùng hơn hàng ngàn mảnh đời leo lên tàu Trường Xuân. Sau hai ngày lênh đênh trên biển, bà Mùi trở dạ và “vượt cạn” giữa đại dương. Cô Chiêu Anh ra đời trong sự thiếu thốn trăm bề. Chỉ có một cây kéo để cắt dây rốn và nước biển được dùng để sát trùng.

“Chúng tôi sống được…, tôi sống được là sự nhiệm màu,” cô Chiêu Anh nhìn xa xăm nói. “Tôi tự hỏi vô số lần rằng tại sao lại là tôi?”

Khi trưởng thành, “em bé Trường Xuân” năm nào quyết tâm thu thập những mảnh ghép về sự ra đời của mình cũng như câu chuyện của quê hương. Cô lần dò được người ký giấy khai sinh ở trại tị nạn Hồng Kông là ông David Weeks. Cô cũng dốc lòng tìm đúng tọa độ hải phận để biết chính xác nơi mình chào đời. Nhờ Internet, cô cũng gắn kết được với gia đình vị phi công chở cô và gia đình đến bệnh viện lúc cô mới lọt lòng.

Năm 2010, cô tham dự “Đại Hội Trường Xuân Thế Giới,” buổi kỷ niệm những thuyền nhân của Trường Xuân sau 35 năm, được tổ chức tại Úc. Tại đây ban tổ chức đã tặng kỷ yếu “Hành Trình Tìm Tự Do – Trường Xuân – Journey to Freedom,” bao gồm những câu chuyện về các “người con” của Trường Xuân và gia đình của họ sau hơn ba thập niên tị nạn. Cô Chiêu Anh cũng đến dự sinh nhật mừng thượng thọ 95 tuổi của vị thuyền trưởng tàu Trường Xuân là ông Phạm Ngọc Lũy.

Cô Chiêu Anh Vũ-Lieberman (trái) cùng thuyền trưởng tàu Trường Xuân, ông Phạm Ngọc Lũy lúc sinh thời. (Hình: Chiêu Anh Vũ-Lieberman cung cấp)

Những mảnh ghép dần hình thành nhưng số phận thường trêu ngươi. Biến cố lúc gần sinh đã khiến mẹ cô Chiêu Anh bị tổn thương tâm lý dẫn đến việc cô con gái cũng bị ảnh hưởng. Cả gia đình, ai cũng mang “vết lăn trầm” với nỗi đau mất nước và cố gắng hòa nhập vào cuộc sống mới ở Canada, nơi gia đình cô được bảo lãnh. Duy chỉ có cha cô Chiêu Anh không thoát ra được vết thương tâm lý.

“Lúc tôi 8 tuổi, cha tôi để lại mảnh giấy rằng ông dẫn tôi và anh trai đi cắm trại, nhưng chúng tôi không bao giờ quay lại… Cha đã bắt cóc chúng tôi,” cô điềm tĩnh nhớ lại. Sau một năm, mẹ cô và cơ quan công lực mới tìm ra hai anh em cô.

“Chiến tranh đã qua đi, nhưng trong tâm trí cha tôi thì mọi thứ vẫn đang tiếp diễn,” cô nói. Trải qua “bao cuộc bể dâu,” và bao cơn “thập tử nhất sinh,” cô Chiêu Anh thành danh, trở thành nhà thiết kế thời trang.

Từng du học ở Paris, cô tốt nghiệp trường thiết kế danh giá Parsons School of Design ở New York City. Cô cũng được nhiều giải thưởng cao quý của ngành thời trang. Trước đó, cô nằm trong top 5% sinh viên khi tốt nghiệp trường Marianopolis College ở Quebec, Canada.

Hiện gia đình cô sống tại Mission Viejo, miền Nam California. Cô là một trong những lãnh đạo cấp cao của công ty nhu liệu Nogin. Cô cũng đang cho “ra đời” ứng dụng tư vấn tâm lý để hỗ trợ những người phải ngày đêm vật lộn với cơn khủng hoảng tâm trí.

“Em bé Trường Xuân” Chiêu Anh bên một mẫu thiết kế tâm huyết của mình. (Hình: Trà Nhiên/Người Việt)

Người di tản buồn

Trên chuyến hải hành của nửa thế kỷ trước cũng có một chàng trai 16 tuổi chưa hiểu sự đời nhưng đứng trước phận nước, anh đành thoái thác cho số phận. Đó là câu chuyện của tài tử Long Nguyễn. Tài tử này được biết đến qua các vai diễn trong các phim truyền hình Mỹ, nhưng nổi bật nhất là vai chính trong phim “Vượt Sóng” của đạo diễn Hàm Trần, tái hiện câu chuyện của những thuyền nhân và gia đình có thân nhân đi tù cải tạo.

Ông từng hai lần thắng giải Nam Diễn Viên Xuất Sắc Nhất cho phim “Vượt Sóng” tại Newport Beach Film Festival và cho phim “Vai Diễn Đổi Đời” tại Viet Film Fest – Đại Hội Điện Ảnh Việt Nam Quốc Tế. Dù đã bay cao, bay xa với đam mê nghệ thuật nhưng ông Long vẫn luôn mang nặng nỗi niềm khi nhắc tới cái tên Trường Xuân.

“Có những mốc thời gian làm ta thay đổi, biến cố 1975 là cột mốc thay đổi nhận thức một con người,” tài tử Long nói. Tàu Trường Xuân từng rất nguy kịch khi bị nước tràn vào khoang, hết lương thực, hết nước uống, và cố gắng cầm cự trôi dạt trên Biển Đông cho đến khi được tàu Clara Maersk của Đan Mạch cứu, đưa người tị nạn đến Hồng Kông.

“Không chỉ riêng tôi mà ai phải bỏ quê hương ra đi trước thế sự cũng đều chịu tổn thương. Khi khổ đau quá, con người ta sẽ gồng lại, siết chặt tâm can, để tự vệ. Càng nhạy cảm thì càng bị đau,” ông Long trầm mặc. Như bao người tị nạn, chàng thanh niên năm ấy đè nén cơn đau để hòa nhập vào cuộc sống mới ở Mỹ. Khoảng năm 1980, ông học lấy bằng kỹ sư, nhưng theo ông, ngành này khiến ông bị “bí.”

“Cuối thập niên 1980, tôi loay hoay mãi không biết đời nên làm gì, vì sao mình ở nơi đây. Tôi bị bí từ tinh thần lẫn thể chất. Rồi tôi quyết định cho mình được tự do, thả lỏng cơn đau bị siết chặt ấy,” ông kể. “Tôi vượt qua sự tội lỗi để tâm trí được tự do ‘bay bổng.’”

Tài tử Long Nguyễn. (Hình: Trà Nhiên/Người Việt)

Năm 1985, ông lấy bằng cao học về nghệ thuật, trở thành họa sĩ. Ánh dương lại từ từ xuất hiện vì ông được tự do với đúng đam mê. Lúc đó, ông sống với các họa sĩ trong một khu nhà kho ở Oakland, miền Bắc California, mà ông đùa vui gọi là “khu nghệ sĩ.”

Hiện ông sống ở Huntington Beach, miền Nam California. Ông còn theo đuổi diễn xuất và kịch nghệ vì cảm thấy mình được tự do khi hóa thân vào các nhân vật. Song song với diễn xuất, ông vẫn “giữ lửa” với đam mê cầm cọ. Các tác phẩm nghệ thuật của họa sĩ Long Nguyễn được triển lãm ở các viện bảo tàng ở Oakland và các tiểu bang khác.

“Khi ở Việt Nam, tôi là người rất bảo thủ. Những mốc thời gian đã thay đổi tôi. Tôi giờ đây nhìn mọi việc thoáng hơn, tích cực hơn, không ghét hay trách móc ai cả. Mình phải bình an trước thì mới chia sẻ bình an cho người khác,” ông cười nói.

(Trà Nhiên) [qd]

—–
Liên lạc tác giả: nguyen.nhien@nguoi-viet.com

Con tàu định mệnh

Câu chuyện của cô Chiêu Anh và tài tử Long Nguyễn là hai trong vô số mảnh đời của hàng ngàn “người con” của Trường Xuân, và cũng chỉ là một phần định mệnh của hơn 1.5 triệu mảnh đời vượt biên khỏi cố hương, dắt dìu nhau đến Tự Do. Trường Xuân – con tàu của sự hãi hùng và hy vọng – đã chứng kiến cái chết của ba sinh mạng nhưng cũng là nơi hai sinh linh ra đời. Trường Xuân mãi là một phần lịch sử của người Việt tị nạn sau nửa thế kỷ tha hương nơi xứ người.


 

TT Nga đề nghị đàm phán trực tiếp với Ukraina, Kiev hoan nghênh « dấu hiệu tích cực » từ phía Matxcơva

  RFI

Tổng thống Nga Vladimir Putin không hồi đáp yêu cầu ngừng bắn 30 ngày, mà Ukraina và các đồng minh đưa ra hôm qua, 10/05/2025, nhưng trong cuộc họp báo tối hôm qua, ông Putin đã đề nghị nối lại các đàm phán trực tiếp Nga – Ukraina tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ.

Đăng ngày: 11/05/2025 

Tổng thống Nga Vladimir Putin phát biểu tại điện Kremlin ở Matxcơva, Nga, ngày 11/05/2025.

Tổng thống Nga Vladimir Putin phát biểu tại điện Kremlin ở Matxcơva, Nga, ngày 11/05/2025. © Sergey Bobylev/Host agency RIA Novosti/Handout via REUTERS

Trọng Thành|Chi Phương

Theo Reuters, tổng thống Nga không loại trừ việc hai bên đạt thỏa thuận về « một đợt ngừng bắn » mới với điều kiện đàm phán phải cho phép « loại bỏ các gốc rễ sâu xa của xung đột », để hướng đến « việc thiết lập một nền hòa bình bền vững ». Ông Putin cho biết sẽ trao đổi với tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan hôm nay, 11/05/2025, để chuẩn bị cho các đàm phán.

Về tuyên bố của tổng thống Nga, thông tín viên Jean-Didier Revoin từ Matxcơva cho biết cụ thể :

« Sau khoảng 20 cuộc họp song phương với lãnh đạo các nước tới Matxcơva dự lễ kỷ niệm ngày 09/05, Vladimir Putin đã có bài phát biểu dài 20 phút trước một nhóm các nhà báo Nga và nước ngoài được tuyển chọn. Đây là cơ hội để tổng thống Nga đưa ra đề xuất phản hồi lại đề xuất ngừng bắn 30 ngày do Kiev và các đồng minh phương Tây yêu cầu, nếu không sẽ phải chịu lệnh trừng phạt mới.

Ông Putin nói : ‘‘Chúng tôi đề nghị chính quyền Kiev nối lại không chậm trễ các đàm phán mà chúng tôi đã từng nỗ lực tiến hành với họ, tại Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ, vào ngày 15/05 này, tại chính nơi mà các cuộc đàm phán trước đây đã từng diễn ra và bị gián đoạn.’’

Như vậy là phía Nga đề nghị đàm phán trực tiếp, nhưng không kèm theo ngừng bắn. Để biện minh cho việc từ chối ngừng bắn này, tổng thống Nga đã trích dẫn 5.000 vụ vi phạm lệnh ngừng bắn do Matxcơva đề xuất, về các cơ sở hạ tầng năng lượng, vào dịp lễ Phục sinh hay trong lễ kỷ niệm chiến thắng vừa qua. Điều rõ ràng nhất mà ta có thể thấy là tổng thống Nga đã bỏ ngoài tai các áp lực của phương Tây.

Ông Putin nói : ‘‘Chúng tôi đã đưa ra đề xuất. Câu trả lời bây giờ phụ thuộc vào chính quyền Ukraina và những người giám hộ họ. Tôi nhắc lại : Nga sẵn sàng đàm phán mà không cần các điều kiện tiên quyết’’.

Hiện tại vẫn phải chờ xem Kiev và Matxcơva thực sự sẵn sàng đàm phán về những gì. »

Quan điểm của Nga : Cần dựa vào dự thảo thỏa thuận Istanbul 2022

Reuters dẫn lại tuyên bố hôm nay, 11/05, của cố vấn chính sách đối ngoại điện Kremlin, Yuri Uchakov, theo đó quan điểm của Matxcơva là đàm phán cần tính đến các thay đổi trên thực địa, và dự thảo về thỏa thuận hòa bình Nga và Ukraina đã sơ bộ đạt được hồi 2022. Theo dự thảo mà Reuters tham khảo được, Ukraina phải chấp nhận quy chế trung lập vĩnh viễn để đổi lấy bảo đảm an ninh của năm thành viên thường trực Hội Đồng Bảo An (Mỹ, Nga, Trung Quốc, Pháp và Anh).

Ukraina hy vọng Nga sẽ chấp thuận ngừng bắn 30 ngày

Sáng nay, tổng thống Ukraina Volodymir Zelensky hy vọng rằng Nga sẽ chấp thuận ngừng bắn 30 ngày kể từ thứ Hai, ngày 12/05, và Kiev sẵn sàng đàm phán trực tiếp với Matxcơva theo đề xuất của tổng thống Nga. Nguyên thủ Ukraina cũng cho rằng đây là dấu hiệu tích cực, cho thấy Nga đã bắt đầu xem xét việc chấm dứt chiến tranh.

Từ Kiev, thông tín viên Emmanuelle Chaze cho biết thêm thông tin :

« Trước đề xuất của tổng thống Nga, Ukraina và đồng minh trên thực tế, đã đề xuất với Nga một lệnh ngừng bắn toàn diện, vô điều kiện trong vòng 30 ngày kể từ thứ Hai và các cuộc giao tranh phải được chấm dứt trước bất cứ cuộc đàm phán nào về hòa bình.

Về phần mình, tổng thống Nga Vladimir Putin không đề cập đến lệnh ngừng bắn trong bài phát biểu của mình, mà thay vào đó đề xuất đàm phán trực tiếp với Ukraina, nhưng vẫn tiếp tục oanh kích Ukraina. Trong đêm qua, tại thủ đô Kiev, người dân có thể nghe thấy một số vụ nổ sau cuộc tấn công bằng drone. Tổng thống Pháp Emmanuel Macron coi đề xuất của ông Putin là không thể chấp nhận được đối với Kiev và chỉ ra rằng Matxcơva vẫn luôn cố áp đặt điều kiện của mình, và điều này, về cơ bản trái ngược với đề xuất lệnh ngừng bắn vô điều kiện.

Về phía Hoa Kỳ, Donald Trump hôm nay nhận định rằng đó có thể ‘là một ngày quan trọng đối với Nga và Ukraina’, ngay cả khi Washington là bên đầu tiên đề xuất lệnh ngừng bắn 30 ngày từ tháng Ba vừa qua. Tổng thống Mỹ tin vào một giải pháp nhanh chóng đối với cuộc xâm lược của Nga. Trong khi đó, đại sứ Hoa Kỳ tại Kiev thì cảnh báo về nguy cơ Matxcơva đang chuẩn bị một cuộc không kích quy mô lớn nhắm vào Ukraina, trái ngược hoàn toàn với các mong muốn hòa giải từ Nga. »

Sau khi lệnh ngừng bắn ba ngày mà Matxcơva ban hành hết hạn, trong đêm qua, không quân Ukraina cho biết Nga đã tấn công bằng 109 drone shahed và các loại drone khác và 60 trong số đó đã bị bắn hạ. Còi báo động phòng không vang lên tại nhiều khu vực, đặc biệt là Kiev.


 

CHUYỆN LẠ Ở NƯỚC MỸ

Vũ Trụ Thiên Thanh

Đây là ngôi nhà nổi tiếng của bà Edith Macefield ở Seatle, bang Washington, Hoa Kỳ.

Khi bà Macefield mới mua ngôi nhà này, vào khoảng năm 1950, thì con đường đó chỉ là con đường quê hẻo lánh. Nhưng nửa thế kỷ sau thì nó đã trở thành khu trung tâm phố thị đông đúc và 1 công ty thầu đã mua lại nguyên 1 khúc đường để xây khu đô thị và thương xá cao 5 tầng.

Tất cả những hàng xóm của bà Macefield đều vui lòng bán nhà và dọn đi , nhưng bà thì nhất định không chịu đi. Thậm chí khi chủ đầu tư ra giá 1 triệu đô (căn nhà chỉ đáng giá khoảng $300 000) thì bà vẫn nhất định không chịu bán. Bà nói bà già rồi, sống ở đó cả đời rồi, bà lại không có con cháu nên bà không muốn đi đâu hết .

Sau nhiều tháng ra giá và thuyết phục bà không được. Công ty thầu đành sửa lại dự án của mình, xây vòng quanh nhà bà, như hình bên dưới. Chính quyền địa phương đương nhiên là không làm khó gì bà, càng không bao giờ nhận tiền hối lộ của chủ đầu tư để cho cảnh sát đến cưỡng chế khiêng bà đi như ở 1 số nước .

Thái độ kiên quyết bảo vệ quyền làm chủ của mình của bà Macefield đã khiến cho người dân Mỹ cảm phục . Họ gọi bà là “anh hùng nhân dân” ( folk Hero ) và nói rằng đây chính là bằng chứng hùng hồn nhất cho tinh thần thượng tôn pháp luật, tôn trọng nhân quyền và quyền công dân của nước Mỹ .

Hãng phim Disney đã làm 1 bộ phim dựa trên câu chuyện của bà , mang tên “Up”, có nghĩa là “Lên” nói đến việc các tòa nhà chọc trời mọc lên như nấm xung quanh 1 bà già nhưng bà vẫn không vì đó mà phải chịu áp lực.

Mãi đến khi bà mất ở tuổi 83 vì bệnh ung thư thì căn nhà mới được dỡ đi. Bởi trước khi qua đời, bà Macefield đã viết giấy để hiến tặng lại căn nhà cho ông chủ đầu tư của khu đô thị, để cám ơn ông đã đối xử với bà rất tốt.

Bà đã viết trong di chúc: mặc dù việc bà nhất định không chịu bán nhà dọn đi đã gây cho ông rất nhiều phiền toái và cả thiệt hại về kinh tế, nhưng ông luôn đối xử với bà nhẹ nhàng và tôn trọng . Thậm chí sau khi thương xá đã xây xong, ông vẫn cho người thường xuyên sang giúp bà dọn vườn, quét sân, quét vôi lại mặt tiền nhà, cũng là để giữ cho bộ mặt thẩm mỹ chung của cả khu phố !

Ngọc Nhi Nguyễn


 

Bài phát biểu của Phạm Thanh Nghiên tại Thượng viện Hoa Kỳ nhân ngày Nhân Quyền VN

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Phạm Thanh Nghiên

05/05/2025

Phạm Thanh Nghiên phát biểu tại Thượng Viện

Kính thưa quý vị,

Hai năm trước, vào tháng 4/2023, gia đình tôi đặt chân đến miền đất này nhờ vào chương trình tiếp nhận người tị nạn chính trị của Chính phủ Hoa Kỳ. Hôm nay, chúng tôi vinh dự có mặt ở đây với tư cách là nhân chứng, là nạn nhân của sự đàn áp không ngừng tại Việt Nam.

Tôi và chồng tôi là hai trong số ít những người lên tiếng ở Việt Nam còn sống, và thoát khỏi sự bao vây của nhà nước cộng sản Việt nam để tố cáo tội ác. Nhiều người- trước và sau tôi, đã chết trong tù hoặc trở về với bệnh tật, bao vây kinh tế và luôn luôn bị khủng bố.

Em chồng tôi, Huỳnh Anh Trí, đã bị giam cầm suốt 14 năm và đã qua đời chỉ sáu tháng sau khi ra tù vì bệnh AIDS. Cai tù đã cố ý cùm chân Trí bằng chiếc cùm còn dính máu và thịt của bạn tù nhiễm AIDS trước đó. Đó không phải sự cẩu thả. Đó là một hình thức giết người có chủ đích –tinh vi và tàn nhẫn.

Khi tôi đang nói ở đây, bạn bè tôi vẫn đang ở tù. Có người phải đi tù lần thứ hai, có người chạy đi tỵ nạn ở đâu đó. Tất cả họ đang đối mặt với hiểm nguy và có thể bị Hà Nội truy bắt bất cứ lúc nào.

Thưa quý vị, có thể quý vị đã được nghe về các báo cáo vi phạm nhân quyền và tình trạng ngược đãi tù nhân lương tâm tại Việt Nam suốt nhiều năm qua: Vượt xa những chi tiết được kể lại về sự đáng sợ và tàn bạo mà cả thế giới được biết, vẫn không đủ từ ngữ để diễn đạt hết những câu chuyện đầy máu, nước mắt và cả xác người với sự tàn bạo của Cộng sản Việt Nam.

Có người đã phải tự hủy hoại thân thể của mình để thoát khỏi sự chịu đựng đau đớn trong nhà tù, với sự bỏ mặc không chăm sóc y tế của trại giam. Đó là trường hợp của người tù chính trị Phạm Xuân Thân. Ông ta đã gần 80 tuổi, bị giam cầm hơn 20 năm nay trong nhà tù Xuân Lộc với bản án không có ngày về.

Đã có những người lên tiếng vì công bằng xã hội, bị bắt giam đã chết một cách đáng nghi ngờ trong nhà tù như các ông Đào Quang Thực, Đỗ Công Đương, Huỳnh Hữu Đạt, Đinh Diêm, Phan Văn Thu, Phan Thanh Ý…

Công an CSVN áp dụng việc tra tấn có từ thời Sô Viết, mà nay nâng lên những mức độ cao hơn, như đưa người vào trại tâm thần, cưỡng ép điều trị với những loại thuốc không tên, không bệnh án, và không có cả tên bác sĩ chịu trách nhiệm. Chúng tôi và thế giới có danh sách dài những người như vậy: nhà văn Phạm Thành, nhà báo Lê Anh Hùng, ông Nguyễn Trung Lĩnh, ông Trịnh Bá Phương, bà Nguyễn Thúy Hạnh….

Đáng ghê sợ hơn là còn vô số những tù nhân khác vô danh, đang chịu án bí mật khắp đất nước mà không biết khi nào có thể nhìn thấy ánh sáng tự do.

Để duy trì sự cai trị, chính phủ Việt Nam ngày càng gia tăng việc bắt bớ và sử dụng biện pháp ngược đãi hết sức tinh vi nhằm thực hiện chính sách hủy hoại các nhà bất đồng chính kiến trong tù, lẫn ngoài đời.

Thưa quý vị!

Chiến tranh đã kết thúc tròn nửa thế kỷ, nhưng người Việt vẫn phải đi tìm tự do bằng máu, nước mắt và bằng chính mạng sống của mình. Năm nay, cộng đồng người Việt tại hải ngoại kỷ niệm 50 năm được gọi tên là “Quốc hận”, ngày chế độ Việt Nam cộng hòa bị quân cộng sản xâm lược và hủy diệt. Đã 50 năm, nhưng chế độ hôm nay vẫn giữ sự thù hận, căm ghét với những gì không còn tồn tại.

Tám năm trước, Ngày 2 Tháng Năm 2017, ông Nguyễn Hữu Tấn, một công dân ở Vĩnh Long đã bị vây bắt, chỉ vì công an tìm thấy trong nhà ông có một tấm vải màu vàng mà họ cho là hình ảnh lá cờ của chế độ cũ Việt Nam Cộng hòa. Nhưng thực tế, đó chỉ là vật liệu được nhà sản xuất thiết kế ra để trang trí cho những lon nước giải khát. Hai ngày sau, công an thông báo ông Tấn đã lấy dao tự cắt cổ và chết trong nhà tù không có lý do, và chính công an cũng không giải thích được cái chết này với gia đình nạn nhân.

Việt Nam trên bề mặt là phát triển kinh tế và các mối quan hệ ngoại giao khéo léo, nhưng bên trong, người dân phải sống trong nỗi sợ hãi.

Chúng tôi đặc biệt quan ngại khi, vào dịp kỷ niệm ngày 30 tháng Tư năm nay, nhà cầm quyền Việt Nam đã tổ chức diễu binh trọng thể với sự tham gia của Trung Cộng, như một hành động tri ân sự hỗ trợ của Bắc Kinh trong chiến tranh, và cũng là lời nhắc nhở với cộng đồng quốc tế về sự “đoàn kết” giữa hai đảng cộng sản. Việc chọn kỷ niệm ngày Quốc Hận bằng một màn phô diễn vũ lực chung với Trung Cộng không chỉ là một sự khiêu khích, mà còn cho thấy rõ lập trường của Hà Nội: họ không giấu giếm sự thần phục trước Bắc Kinh, kể cả về mặt biểu tượng và chính trị.

Việt Nam và Hoa Kỳ đã thiết lập quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện, một bước ngoặt được ca ngợi là lịch sử. Thế nhưng, hàng năm, không chỉ dịp Tháng Tư, truyền thông nhà nước vẫn tuyên truyền luận điệu chống Mỹ, tái hiện hình ảnh “kẻ thù xâm lược” và gieo rắc hận thù chiến tranh.

Tôi tin đó không phải cách hành xử của một đối tác đáng tin cậy.

Nhà cầm quyền Hà Nội cần Đô La, nên một mặt kêu gọi người Việt hải ngoại về nước làm ăn, đầu tư, nói về “hòa hợp dân tộc”, nhưng mặt khác lại gọi họ là “thế lực thù địch” và tạo cớ trừng phạt bất kỳ ai thể hiện quan điểm khác biệt với chế độ.

Tôi tin đó không phải cách hành xử của một nhà nước chân chính phục vụ nhân dân.

Việt Nam nói muốn trở thành bạn với Hoa Kỳ, nhưng lại bỏ tù những công dân của mình vì họ chia sẻ các giá trị của Hoa Kỳ: tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền được phản biện chính sách v.v…

Nhưng tôi không đến đây để nói về chiến tranh hay lòng thù hận. Thưa quý vị, tôi đến để nói về khát vọng tự do, về lương tri và phẩm giá con người.

Tôi tin rằng, chừng nào nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam còn coi những quốc gia giữ nguyên tắc Tự do và Quyền con người là kẻ thù, thì những quốc gia đó, dù có đang bang giao với Việt Nam cũng đang bị coi thường, và lừa gạt để trục lợi.

Chúng tôi lên tiếng để đất nước mình có được lộ trình có tự do, nhân quyền như quý vị đã trải qua và tranh đấu vì những nguyên tắc đó cho nước Mỹ. Và vì vậy, chúng tôi mong mỏi được sự ủng hộ của quý vị – của nước Mỹ – trong con đường chung đi đến tương lai.

Xin chân thành cảm ơn.

DC ngày 1/5/2025.


 

 Ở Trung Quốc mỗi năm có khoảng 200 ngàn trẻ em bị mất tích

Chuyện tuổi Xế Chiều – Công Tú Nguyễn

  Ở Trung Quốc mỗi năm có khoảng 200 ngàn trẻ em bị mất tích, nhưng tỷ lệ tìm được chỉ là 0,1%.

Lời khai của một kẻ buôn người ở Trung Quốc sau khi bị bắt sẽ cho thấy tình hình khủng khiếp thế nào, giúp bạn hiểu được sự suy đồi đạo đức đã đến mức “không còn giới hạn”.

Câu chuyện trả lời của kẻ buôn người khiến người nghe phải ớn lạnh.

Hỏi: Tại sao anh phải buôn bán trẻ em?

Đáp: Kiếm tiền vừa nhanh vừa dễ dàng.

Hỏi: Anh có biết thế là phạm tội ?

Đáp: Chẳng phải đó là một đứa trẻ sao ? Họ lại có thể sinh tiếp !

Hỏi: Anh đã bao nhiêu lần tham gia phạm tội? Lần nhiều nhất bắt cóc mấy bé ?

Đáp: Tôi không thể nhớ, mỗi tháng đều bán vài lần. Lần nhiều nhất dường như khoảng 3-4 đứa, tôi không nhớ rõ.

Hỏi: Anh có biết những đứa trẻ bị bắt cóc bán về đâu không?

Đáp: Trên khắp nơi trên đất nước đều có, có người chuyên bán, tôi phụ trách việc bắt cóc. Người ở trên không cho phép tôi biết nơi đứa trẻ đến, họ nói rằng sợ cảnh sát sẽ tìm thấy chúng.

Hỏi: Cách anh gây án thế nào ?

Đáp: Ngoan ngoãn nghe thì lừa, quá lanh lợi thì bắt ép, không nghe lời thì đánh hôn mê mang đi, khi người lớn không chú ý sẽ ra tay hành động.

Hỏi: Anh có lựa chọn đứa trẻ để gây án?

Đáp: Phải chú ý vào sức khỏe, ăn mặc sáng sủa, chất lượng tốt mới có thể bán được giá tốt.

Hỏi: Trong quá trình lừa gạt, anh đã bao giờ giết chết đứa trẻ nào chưa?

Đáp: (im lặng một lúc, gật đầu) Do đứa bé khóc quá lớn, gần như có thể lôi kéo người ta chú ý kéo đến, đồng bọn của tôi sợ có chuyện không hay nên ném đứa bé xuống sông. Đây là người kia làm, không phải tôi!

Những câu trả lời khiến người nghe không khỏi cảm thấy ớn lạnh nổi da gà, trong mắt những kẻ buôn người này thì sinh mạng những đứa trẻ như cỏ dại bên lề đường, nhổ đi sẽ mọc lại…

Hóa trang và cạo đầu trẻ gây khó khăn cho người tìm kiếm.

Truyền thông Đại Lục đưa tin, ngày 25/8 một bé gái 5 tuổi ở Tuyên Uy tỉnh Vân Nam đã bị bắt cóc khi đang chơi bên cầu Tây Hà. May mắn thay, đứa trẻ cuối cùng đã thành công trốn về. Nhưng khi người ta tìm thấy bé thì tóc bé đã bị cạo và quần áo trên người đã bị thay đổi, tội phạm buôn người làm vậy để mọi người khó nhận ra bé.

Người không quen, chẳng hạn cộng đồng mạng chỉ thấy hình dáng bé ban đầu khi chưa bị bắt cóc thì không thể nhận ra được khi bé đã được “cải trang” như vậy, điều đó khiến cho công việc giải cứu đứa trẻ khó khăn hơn.

Gia đình nạn nhân ám ảnh cả đời.

Đối với kẻ buôn người, đứa trẻ chỉ là một món hàng đem lại lợi nhuận, nhưng đối với một gia đình đã mất con thì đó có thể là vết thương ám ảnh suốt đời. Vết thương chỉ nguôi ngoai khi nào đứa trẻ trở lại, dù cha mẹ có sinh thêm bao nhiêu đứa nữa thì cũng không thể bù đắp được nỗi đau mất con. Đó không đơn giản chỉ là đứa trẻ, mà còn là nửa đời còn lại của cha mẹ, làm sao có thể không đau đớn! Tội phạm bắt cóc không quan tâm chuyện sống hay chết của đứa trẻ cũng như nỗi đau khổ của cha mẹ mất đứa trẻ, trong mắt họ chỉ là tiền.

Một số cơ quan truyền thông Đại Lục cho biết, ở Trung Quốc mỗi năm có đến 200 nghìn trường hợp trẻ bị mất tích, còn tỷ lệ tìm được chỉ là 0,1%. Điều này nghĩa là 99,9% các gia đình còn lại đang sống trong nỗi đau đớn. Khi đứa trẻ bị bắt cóc, vấn đề không chỉ là cuộc sống của đứa trẻ, mà còn là cuộc sống của cha mẹ trẻ.

Có câu chuyện đau lòng được truyền thông Đại Lục chia sẻ kể một đứa trẻ bị bắt cóc cuối cùng đã tìm thấy cha mẹ, nhưng thời gian đã qua 30 năm, trong thời gian đó người cha quá đau khổ đã qua đời, còn người mẹ thì hóa điên. Khoảnh khắc người ta đưa người con đến gặp mẹ đã giúp người mẹ hồi tỉnh lại, khỏi hẳn chứng điên dại kéo dài suốt 30 năm, người mẹ kéo tay con dẫn ra ngọn đồi phía sau, bà quỳ trước mộ chồng thốt lên “Con gái đã trở về.”

Gia đình tan vỡ và rơi vào địa ngục trong 30 năm, khó có thể thấu hiểu họ phải chịu đựng bao nhiêu đau khổ. Có thể nói, phía sau mỗi đứa trẻ bị bắt cóc là cuộc sống đảo lộn bất hạnh của một gia đình, không có ngoại lệ. Kiếp nạn đó không chỉ là đối với đứa trẻ, mà còn là đối với một gia đình, hoặc thậm chí là một gia tộc.

Bốn mánh khóe chủ yếu của tội phạm buôn người.

  1. Đạn bọc đường

Từ “kẹo”, “đồ ăn nhẹ” đến “thú cưng” và “đồ chơi điện tử”, tội phạm buôn người sử dụng nhiều vật phẩm mà trẻ em thích để dụ dỗ trẻ em, lợi dụng bản tính đơn giản, tốt bụng và tò mò của trẻ để bắt cóc.

  1. Đồng phục ngụy trang

Tội phạm buôn người có thể giả làm nhân viên giao hàng, nhân viên bảo vệ, bác sĩ, y tá… Những người này luôn quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày, thường khiến cha mẹ bé mất cảnh giác, khi thời cơ thuận lợi những kẻ buôn người sẽ ra tay đối với đứa trẻ!

  1. Cướp bằng bạo lực

Thủ phạm buôn người cũng thường nhắm vào những đứa trẻ chơi một mình, hoặc khi người thân bên cạnh là phụ nữ và người già. Khi đó họ có thể trực tiếp giật đứa trẻ mang đi. Hầu hết họ dùng các phương tiện hỗ trợ như xe máy và ô tô.

  1. Giả người nhiệt tình

Một số thủ phạm buôn người thường túc trực tại những nơi như công viên, khu thắng cảnh, nhà ga…, khi thấy có người mẹ dẫn theo trẻ gặp vấn đề gì đó khó khăn, những đối tượng này có thể đóng vai người tốt bụng để chủ động giúp đỡ quan tâm đứa bé. Trong chớp mắt, đứa trẻ sẽ bị bắt cóc đi!

Tuyết Mai

(st)


 

Các vị hành giả thuộc nhóm Minh Tuệ gặp Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma  (RFA)

RFA

Vị lãnh tụ Phật giáo Tây Tạng cũng đang trong tình cảnh lưu vong, không thể trở về quê nhà.

Trường Sơn 2025.05.09

An Lạc, một trong những người đi theo Minh Tuệ, gặp Đức Đạt Lai Lạt Ma. (RFA)

Vào ngày 9 tháng 5, một nhóm các hành giả người Việt thuộc đoàn của hành giả Minh Tuệ đã gặp Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma, lãnh tụ tinh thần của người Tây Tạng, tại Dharamsala, Ấn Độ.

Nhóm 12 hành giả trước đó đã lên tàu để đến Dharamsala vào ngày 7 tháng 5, trong khi hành giả Minh Tuệ và những người khác ở lại Bodh Gaya.

Dharamsala là nơi Đạt-Lai-Lạt-Ma cùng cộng đồng người Tây Tạng lưu vong sinh sống, nơi này đã trở thành trung tâm hành hương của tín đồ Phật Giáo trên toàn thế giới, tới để diện kiến ‘hóa thân của Quán Thế Âm’, tức Đạt-Lai-Lạt-Ma.

“Lần đầu tiên con được đến đây, được gặp Đức Đạt-Lai-Lạt-Ma, con cảm nhận thấy một niềm vui, có nhân duyên với nơi này. Lần đầu tiên đi cùng với sư phụ Minh Tuệ thì chỉ nghĩ là đi sang thăm bốn thánh tích của Đức Phật, nhưng lần này hữu duyên được đến mảnh đất Dharamsala này.” Hành giả Minh Thiện chia sẻ với RFA.

Rời Việt Nam vào ngày 12 tháng 12 năm 2024 tại cửa khẩu Bờ Y, với chỉ 6 vị hành giả cùng với ước nguyện bộ hành đến Ấn Độ. Đoàn của Minh Tuệ giờ đây đã lên đến 35 người, đặt chân tới 7 quốc gia, và di chuyển liên tục trong 148 ngày.

“Huynh đệ con hay ngay cả sư phụ Minh Tuệ, khi đã đến Ấn Độ rồi sư phụ đã thốt lên một câu: ‘Biết ở đây tốt đẹp thế thì đã bay đến sớm hơn.’ Chấp nhận bay tới sớm hơn. Sư phụ cũng nói về đây rồi giống như về nhà. Con cũng có cảm giác như vậy.” Hành giả An Lạc nói về việc đến Ấn Độ.

Minh Tuệ và tăng đoàn tới Ấn Độ vào ngày 25 tháng 4 bằng đường hàng không, sau khi kế hoạch đi bộ ở Sri Lanka bị bỏ dở giữa chừng vì gặp phải sự cản trở từ chính quyền sở tại, được cho là chịu sự tác động bởi một bức thư do ông Thích Nhật Từ viết.

Ở Ấn Độ, nhóm các tu sĩ người Việt cũng gặp phải sự quấy rối của những người đến từ Việt Nam tự xưng “yêu nước”. Những người này mặc áo cờ đỏ sao vàng thường xuyên khiêu khích những tình nguyện viên đi theo trợ giúp nhóm các hàng giả.

Trong khi đó ở trong nước, chính quyền đã thông báo kỷ luật Đảng đối với ông Lê Anh Tuấn, anh trai của hành giả Minh Tuệ. Và ông Thân Thành Vũ, một tình nguyện viên thường xuyên giúp đỡ Minh Tuệ, cũng đã bị cấm xuất cảnh, không cho rời khỏi Việt Nam.

Theo các vị hành giả, nhóm 12 người sẽ quay trở lại đoàn tụ với Minh Tuệ để tiếp tục hành trình ở Ấn Độ. Họ cũng sẽ tìm cách gia hạn visa để kéo dài thời gian lưu trú tại quốc gia Nam Á này.


 

Hai người Trung Quốc đào trộm mộ vua ở Thanh Hóa

Ba’o Dat Viet

May 8, 2025

Hai người đàn ông Trung Quốc bị bắt khi đang trên đường trốn về nước sau khi mang thiết bị dò kim loại đến khu di tích Lam Kinh để đào bới lăng mộ vua Lê Túc Tông – một phần linh thiêng của lịch sử Việt Nam.

Chiều ngày 6 Tháng Năm, Công an tỉnh Quảng Ninh đã bắt giữ hai nghi can Deng Zhiji (41 tuổi) và Shen Jiangyang (43 tuổi), đều quê ở Quảng Tây, Trung Quốc. Cả hai bị cáo buộc “xâm phạm thi thể, mồ mả, hài cốt” và đã được bàn giao cho công an tỉnh Thanh Hóa để tiếp tục điều tra.

Trước đó, vào tối 3 Tháng Năm, trong lúc tuần tra khu vực lăng mộ vua Lê Túc Tông tại xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc, lực lượng bảo vệ di tích phát hiện dấu hiệu lạ: một khu đất có dấu vết đào bới, kèm theo một điện thoại di động có cài đặt tiếng Trung, giấy tờ tùy thân và một dụng cụ kim loại để xăm dò lòng đất. Tất cả đều nằm gần khu vực nơi từng an táng vị vua thứ bảy của triều Lê sơ – người chỉ trị vì vỏn vẹn bảy tháng trước khi băng hà vào năm 1504.

“Chúng dùng thiết bị dò xuyên đất để tìm đồ tùy táng có giá trị, có thể là vàng bạc, ngọc ngà hoặc cổ vật quý hiếm,” đại diện Trung tâm Nghiên cứu Lịch sử và Bảo tồn Di sản Văn hóa Thanh Hóa xác nhận. Vụ việc đã lập tức được báo cáo lên Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch tỉnh Thanh Hóa.

Nhận tin báo, công an tỉnh Thanh Hóa phối hợp với công an tỉnh Quảng Ninh lập tức mở cuộc truy bắt. Đến khoảng 2 giờ 15 chiều 4 Tháng Năm, cảnh sát giao thông Quảng Ninh kiểm tra một xe taxi ở khu vực Móng Cái – cửa ngõ biên giới Việt – Trung, thì phát hiện và bắt giữ hai nghi can đang chuẩn bị xuất cảnh.

Tại cơ quan điều tra, cả hai khai nhận đã nhập cảnh vào Việt Nam hôm 28 Tháng Tư qua cửa khẩu quốc tế Móng Cái, mang theo thiết bị dò kim loại và bộ dụng cụ chuyên dụng để “săn cổ vật.” Tại Thanh Hóa, họ thuê xe máy để tiếp cận khu di tích Lam Kinh, nghiên cứu địa hình và chuẩn bị dụng cụ như khoan điện, dây thừng, cưa tay, bao bì, cuốc xẻng.

Ngày 3 Tháng Năm, họ thực hiện hành vi đào bới tại lăng mộ nhưng không tìm được gì đáng giá. Khi thấy có người xuất hiện gần đó, cả hai vội bỏ lại dụng cụ, trốn chạy.

Theo báo Dân Trí, lăng mộ vua Lê Túc Tông từng bị tàn phá trong quá khứ, chỉ còn lại một số gạch vồ mỏng. Sau khi khảo sát lại vào năm 1997, khu mộ được phục dựng, xây bằng gạch và trát xi măng bên ngoài.

Hành vi đào trộm mộ không chỉ là hành vi phạm pháp nghiêm trọng, mà còn là sự xúc phạm đến di sản quốc gia và linh hồn tổ tiên người Việt. Trong bối cảnh Việt Nam đang nỗ lực gìn giữ những giá trị văn hóa lịch sử hàng trăm năm tuổi, vụ việc này gióng lên hồi chuông báo động về lỗ hổng trong việc bảo vệ các khu di tích linh thiêng – đặc biệt là trước sự nhòm ngó từ bên ngoài.

Liệu đây chỉ là vụ việc đơn lẻ, hay đằng sau còn một đường dây săn cổ vật xuyên biên giới? Nhà Cầm Quyền CSVN có dám làm rõ đến tận gốc, hay sẽ chỉ dừng lại ở việc xử lý “hai cá nhân xâm phạm”?


 

CHUYỆN VỢ CON ÔNG TỐ HỮU, BÂY GIỜ MỚI KỂ

Việt Nam xưa và nay – Lien Nguyen

Dai Tat Phan NHỮNG BÀI POST HAY.

 Nước mình nghèo đến nỗi như thế này cũng từ những chính sách chế độ thiếu nhất quán.

Vào năm nào đó tôi cũng quên rồi, chỉ biết khi đó nhà ông Tố Hữu ở phố Hồ Xuân Hương được hoá giá rẻ như cho sau khi họ trả nhà công vụ ở Phan Đình Phùng, HN. Báo Tiền phong đã có bài phàn nàn về một cố ủy viên Bộ chính trị , nhà thơ lớn Tỗ Hữu không có chỗ để lập bàn thờ. Mới nghe, ai cũng mủi lòng thương cảm với ông. Nhiều người tỏ ra bất bình với Đảng và nhà nước sao lại đối xử phũ với một bậc lão thành như vây.

Do bị áp lực của dư luận, Ban Tư tưởng Văn hoá buộc phải công bố sự thật của một nhân vật nổi tiếng , đáng trân trọng nhưng người thân của ông thì đã làm hại thanh danh ông tại một buổi giao ban báo chí định kỳ mà tôi có dự và được Trưởng ban Tư tưởng Văn hoá ngày đó là nhà báo Hữu Thọ được phép của cấp trên ” nói lại cho rõ”.

Số là sau khi gia đình ông Tố Hữu chuyển về phố Hồ Xuân Hương, gia đình nhà thơ đã cho một hãng dầu nhờn nước ngoài thuê, lấy mỗi tháng tới 9 ngàn đô la. Vì thế, bà Thanh, nguyên Phó ban Tuyên giáo Trung ương Đảng, vợ cố nhà thơ Tố Hữu phải về nhà con ở tại phường Thành Công ở nhờ để tiếp tục xin thêm chế độ nhà theo tiêu chuẩn ngang thứ trưởng riêng bà . Vì có chật nên bàn thờ không được đàng hoàng như nhà biệt thự nếu ở phố Hồ Xuân Hương mà gia định được mua rẻ. Lỗi này đâu phải do Đảng không chăm sóc chu đáo ? Báo Tiền phong bữa đó bị hớ to.

Từ ngôi biệt thự ở Hồ Xuân Hương, sau này gia đình bán cho ông Phạm Nhật Vũ Cty AVG, nghe đâu cả chục ngàn cây vàng. Điều này thì tôi ko nắm được mà nay đọc bài sau đây mới biết.

Từ chuyện gia đình ông Tố Hữu, tôi thấy buồn cho gia đình các quan chức , họ không hiểu rằng, tiền nhiều bao nhiêu cũng không đổi được thanh danh vốn người thân của họ được cả xã hội một thời trân trọng.

(Bài viết của Nhà báo Quoc Phong kể lại vào 2-12-2018) .

BA VAI TRÒ TRONG CUỘC ĐỜI LÀM CÁCH MẠNG CỦA TỐ HỮU

Bải ở Tố Hữu có ba vai trò trong suốt cuộc đời cách mạng của ông. Vai trò thứ nhất là làm quan, trong nhiều vị trí cao cấp của đảng. Vai trò thứ hai là làm chính trị và vai trò thứ ba là làm…thơ. Cả ba vai trò ấy đều có vấn đề, mà đều là vấn đề lớn liên quan tới nhiều người, nhiều thế hệ và nhiều năm sau đó.

Làm quan, Tố Hữu lợi dụng chức quyền đày đọa cả một thế hệ tinh hoa văn học trong phong trào Nhân văn giai phẩm. Đây là một phong trào đòi tự do nghệ thuật và thể hiện quan điểm chính trị của một số văn nghệ sĩ và trí thức sống ở miền Bắc,  khởi xướng đầu năm 1955 và kết thúc vào tháng 6 năm 1958.

Là Thứ trưởng Bộ Tuyên truyển khi phong trào Nhân Văn giai phẩm nổi lên, Tố Hữu đã thẳng tay ra lệnh đàn áp, bắt bớ các thành viên của phong trào và cho tới nay người trong cuộc đã vạch trần mọi sự trước dư luận quần chúng. Trần Dần, Phùng Quán, Hữu Loan, Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Quang Dũng, Hoàng Cầm, Văn Cao, Phùng Cung…..Ngày nay thành viên Nhân văn giai phẩm được trả lại sự thật và phục hồi danh dự cho họ nhưng Tố Hữu vẫn lặng im như người ngoài cuộc mặc dù nhiều tư liệu cũng như lời chứng của người trong cuộc cho thấy ông ta chủ trì việc bách hại tự do sáng tác của phong trào này.

Làm chính trị, trong vai trò một Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Tố Hữu tham gia thảo luận và ký quyết định “Giá, lương, tiền” vào tháng 9 năm 1985. Quyết định này đã làm Việt Nam rơi vào vòng xoáy của lạm phát có lúc lên đến 770% và người dân oán thán như bị B52 tận diệt. Tố Hữu trở thành trò hề của kinh tế xã hội chủ nghĩa. Một năm sau cơn khủng hoảng, năm 1986, Việt Nam tiến hành đổi mới, Tố Hữu mất uy tín chính trị vì phải chịu trách nhiệm trong những vụ khủng hoảng tiền tệ nên bị miễn nhiệm các chức vụ quản lý, chỉ còn giữ chức danh đại biểu quốc hội.

Làm thơ có lẽ là lĩnh vực tai tiếng nhất của Tố Hữu. Ông được mệnh danh là nhà thơ cách mạng nhưng bỏ xa đồng nghiệp trong lĩnh vực tuyên truyền và nịnh bợ các tay trùm Cộng sản. Nếu những bài thơ đưa Hồ Chí Minh lên tới mây xanh thì người ta còn có thể hiểu được nhưng với Stalin, con ác quỷ của phe Xã hội chủ nghĩa mà Tố Hữu cũng làm những câu thơ tụng ca y ngang hàng với Thượng đế thì người dân không còn khả năng căm phẫn nữa, họ phỉ nhổ và chà đạp lên những từ ngữ trịch thượng mà Tố Hữu đã dày công sáng tác. Những câu thơ như thế này đã và vĩnh viễn là vết nhơ trong dòng thơ hiện đại Việt Nam, kể cả dòng thơ cách mạng:

“Áo Ông trắng giữa mây hồng

Mắt Ông hiền hậu, miệng Ông mỉm cười

Stalin! Stalin!

Yêu biết mấy, nghe con tập nói

Tiếng đầu lòng con gọi Stalin!

….

Thương cha, thương mẹ, thương chồng

Thương mình thương một, thương Ông thương mười”

Bao nhiêu thứ Tố hữu đã làm được lịch sử ghi lại đầy đủ. Chứng nhân trong vụ Nhân văn giai phẩm, gần sáu mươi triệu đồng bào cả nước trong vụ “Giá, lương, tiền” năm 1985 và hàng triệu trẻ con qua nhiều thế hệ học thơ Tố Hữu trong trường chẳng lẽ còn chưa đủ xấu hay sao mà lại bày trò xây dựng khu lưu niệm cho ông ấy?

(Trích : bài viết của Cánh Cò viết ở Đài Á Châu Tự Do RFA )


 

Hài cốt chồng trong trại tù cải tạo – Đoàn Trọng Hiếu

Son H Cao

Dường như đã được sắp xếp, người thiếu phụ lặng lẽ đi theo, tên cán bộ ra lệnh cho chúng tôi đi ra khu nghĩa địa. Đến nơi, hắn bảo chúng tôi đi tìm mộ của Trần Thiên Thọ Hải. Chúng tôi nhớ ra đại úy Hải chết vào đợt những anh em đầu tiên năm 1977, như vậy là nằm ở sâu trong cùng sát chân đồi. Sau gần 15 phút chúng tôi đã tìm được ngôi mộ của anh với tấm bia chỉ nhỏ bằng tờ giấy học trò ghi lờ mờ, còn nắm đất thì chỉ cao hơn mặt đất chừng một tấc. Chúng tôi được lệnh là đào để bốc cốt cho chị mang về trong Nam . Việc đầu tiên là tìm một ít cành khô để đốt một đống lửa sưởi ấm và lấy ánh sáng, chị bắt đầu lấy ra môt bó nhang đốt lên rồi quỳ xuống vái ba lạy. Cầm nguyên bó nhang chị thổn thức khóc và nằm phủ phục lên ngôi mộ. Dưới ánh lửa tôi thấy thiếu phụ còn rất trẻ chỉ khoảng dưới 30, nét mặt xương xương.

Chúng tôi đứng lặng yên tôn trọng nỗi đau của chị, cho đến khi tên cán bộ yêu cầu chúng tôi “khẩn trương” bắt tay vào việc, vì trời đã lâm râm mưa phùn. Chúng tôi dìu chị đứng dậy sang bên cạnh và bắt đầu đào. Chỉ không đầy 20 phút chúng tôi đã đụng lớp ván đã mục, vì khi tù nhân chết thì chỉ được bỏ vào cái quan tài nhỏ vừa khít người được đóng bằng loại gỗ bạch đàn hay bồ đề, một loại cây được trồng để làm giấy, nên rất nhẹ xốp, được xẻ thành từng thanh và đóng hở như cái vạt giường, nên thấy cả xác nằm bên trong và đám tù hình sự khi đi chôn thì chỉ đào sâu khoảng 4 tấc rồi vùi lấp qua loa. Gỡ lớp ván trên mặt, bên trong là bộ quần áo tù đã rữa nát. Tôi đi xách một thùng nước ở dưới ruộng để rửa cho sạch đất, người thiếu phụ cũng đã lấy ra một cái thau nhựa và đổ vào đó một ít rượu. Chúng tôi cẩn thận nhặt từng cái xương rũ cho bớt đất, rửa cho sạch rồi trao cho chị. Chị cầm từng cái rửa trong rượu, rồi bỏ vào cái bịch nylon hai lớp. Chị đưa cho chúng tôi mỗi người một gói thuốc Tam Đảo rồi vừa làm chị vừa tâm sự:

–  Giữa năm 79, em có xin phép ra thăm, nhưng khi đến trại thì họ nói là không có anh Hải ở đây, nhưng ít tháng sau thì em được tin anh Hải đã chết từ năm 77, do một chị bạn ra thăm chồng về cho biết.

Như vậy là họ đã dấu nhẹm không báo cho gia đình, mới đây một người mách bảo cho em ra Bộ Nội Vụ ngoài Hà Nội làm đơn xin bốc cốt, sau mấy lần làm đơn cuối cùng họ đã phải cho. Nhưng khi đến đây thì họ chỉ cho làm vào ban đêm và sau khi xong, họ không cho em ở lại nhà tiếp dân qua đêm với lý do là ô uế.

Sau gần một giờ, thấy có thể đã không còn sót cái xương nào, chúng tôi bảo chị để tránh rắc rối chị không nên mặc bộ đồ tang này. Chúng tôi lấy bộ quần áo tang quấn quanh cái bao nylon đựng cốt bỏ vào cái bị cói lớn rồi lấy sợi dây chuối khô khâu miệng lại để không ai nhìn thấy. Trên đường về trại, lúc đến chỗ rẽ, chị lý nhí vừa thổn thức khóc vừa cám ơn rồi dúi vào tay chúng tôi mấy gói thuốc còn lại. Nhìn người thiếu phụ tay xách cái bị cói đựng cốt chồng, lặng lẽ đi trong đêm, trên con đường rừng cô quạnh, khiến chúng tôi vô cùng thương cảm, ngậm ngùi, đứng trông theo.

Bỗng sự uất ức trào lên rồi không nén lại được, tôi thốt lên trong kẽ răng:

–  Đ.M. Chúng mày rồi sẽ phải trả giá cho hành động này!

Chúng tôi đi vào theo cửa hông của cổng trại, rồi lặng lẽ đi về phòng. Tên thường trực thi đua đã đứng đợi sẵn để mở cửa.

Đã quá nửa đêm, cái lạnh đã thấm sâu vào người, nằm co quắp dưới lớp chăn mỏng, tôi thầm ái ngại cho số phận của người đàn bà bất hạnh. Chị mang cốt chồng đi giữa đêm trời giá lạnh của vùng rừng núi Việt Bắc, như người vợ, người mẹ Việt Nam đang mang nỗi đau, nỗi bất hạnh của cả một dân tộc đi trong đêm tối bão bùng.

Đoàn Trọng Hiếu

(Hình : Hồt cốt chồng trong tù cải tạo)