Sau 42 Năm

 Sau 42 Năm

 Nguyễn Thị Thêm

Tác giả: Nguyễn Thị Thêm
Bài số 5104-18-30784-vb5042717

Tác giả đã nhận giải Danh Dự Viết Về Nước Mỹ 2015. Bà sinh năm 1948 tại Biên Hòa, cựu học sinh Ngô Quyền. Trước 1975, dạy học. Qua Mỹ năm 1991 theo diện HO, hiện là cư dân Nam Ca Li. Bà kể, “Chồng tôi là lính VNCH. Hai con tôi nay là lính của quân đội Hoa Kỳ. Tôi hết làm vợ lính lại làm mẹ lính.” Công việc hàng ngày của tác giả là chăm sóc ông chồng sĩ quan cựu tù bị tâm thần suy nhược. Bài viết mới là chuyện được viết sau một đêm tháng Tư không ngủ, nhận tin Bà Hạnh Nhơn vừa mất.

* * *

Tôi ngồi trước máy, đầu óc mông lung. Bốn giờ sáng, tạo vật còn say ngủ mà tôi cứ quay cuồng những ý nghĩ chợt đến chợt đi. Xoay qua trở lại thao thức không ngủ được. Vậy thì hãy ngồi dậy viết những gì mình nghĩ. Thế nhưng, bây giờ ngồi trước máy, những tư tưởng hổn độn lúc nãy không cánh mà bay. Nó chạy đi không để lại một dấu tích.

Đã bao nhiêu năm rồi tôi đã trải qua những đêm trắng như vậy. những đêm trắng đờ con mắt vì những âm thanh của tiếng rên, tiếng kêu thảng thốt của người chồng thân yêu. Ông đã là người lính, là người tù bị đầy đọa trong những trại tập trung của cộng sản. Đến được nước Mỹ khi sức cùng lực kiệt, ông trở thành người bệnh tâm thần suy nhược. Ngày đêm kề cận những tiếng rên xiết hay kêu la của ông, tôi cảm được những cơn ác mộng mà ông từng trải qua. Tôi vật lộn, đấu tranh với chính mình về những con người không tên, không hiện hữu bao quanh cuộc sống vợ chồng tôi.

Chúng tôi cưới nhau năm tôi 23 tuổi. Cái tuổi đủ chính chắn để làm vợ, làm mẹ vào thời điểm đó. Thế nhưng tôi vẫn còn con nít trong vấn đề tình yêu. Bởi tôi chưa hề có một mối tình đầu để làm hành trang và kinh nghiệm sống cho mình. Gia đình tôi cổ hủ và tôi là đứa con gái duy nhất nên bị ràng buộc trong tầm suy nghĩ của mẹ “Trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết hạnh làm câu trao mình” Cái ông Khổng tử ở tuốt bên Tàu vậy mà uy lực ổng thật to rộng. Một người phụ nữ ít học, quê mùa như má tôi lại thuộc nằm lòng mấy câu giáo điều đó. Thuộc để ép mình vào khuôn khổ cả một đời và truyền lại cho con gái.

Chúng tôi cùng dạy tư cho một trường trung học công giáo do cha đạo mở ra. Khi ấy anh đã là lính mang lon chuẩn úy. Có nghĩa là anh cũng thuộc lính mới tò te. Một sĩ quan mới ra trường còn mang nhiều món nợ áo cơm từ cha mẹ. Nơi anh được bổ nhiệm là một quận lỵ nằm giữa những vùng xôi đậu. Ban ngày là của Quốc Gia, ban đêm là Việt Cộng.

Tại những vùng xôi đậu như vậy, mạng sống người lính trong đường tơ kẻ tóc và người con gái chấp nhận lấy lính là chấp nhận mọi sự rủi may trong đời. Đám cưới đôi khi không dám tổ chức tại địa phương vì gia đình sợ bị theo dõi và trả thù. Thôn làng do chính phủ VNCH làm chủ mà người dân sợ Việt Cộng hơn Quốc Gia.

Xung quanh hàng xóm không biết ai là bạn, ai là Việt Cộng nằm vùng. Cuộc sống bấp bênh trong những trận càn của lính và đêm sục xạo, gỏ cửa rình rập khủng bố từ phía bên kia. Sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị giết, hàng rào Ấp chiến lược đã không còn hiệu lực. Cuộc chiến toàn diện vượt quá tầm hiểu biết và sức chịu đựng của dân chúng.

Khi những người bạn đồng minh lần lượt đổ quân vào thôn xóm thì như giọt nước đã tràn ly. Người dân càng hoảng loạn không biết đâu là chính nghĩa. Những người Mỹ, người Đại Hàn, người Thái Lan súng ống rầm rộ khắp mọi ngõ ngách xóm làng. Người dân quê sợ sệt khi thấy người ngoại quốc lùng sục khắp nơi. Trong khi đó kẻ gian rình mò trong bóng đêm. Những bộ mặt giả nhân nghĩa vừa tỉ tê dụ dỗ, vừa hù dọa khủng bố đã len lỏi vào từng gia đình. Người dân không thương yêu gì CS nhưng sợ bị trả thù, sợ bị theo dõi, sợ bị nghi ngờ và bị giết oan. Hệ quả không chánh khỏi là ở chỗ chính nghĩa bị hiểu lầm và kẻ gian ngoa đã giành được chiến thắng.

Đã trễ quá rồi khi nói đến điều này, nhưng tất cả chúng ta đều là nạn nhân của cuộc chiến tương tàn. Bao nhiêu thanh niên của nước Mỹ giàu đẹp đã bỏ thây một cách oan uổng trên chiến trường VN. Vì sự sai lầm của cả hai phía. Tất cả tang thương đó đã đổ lên vai, lên đầu của thế hệ chúng tôi. Những người lính, những người vợ lính và những trẻ thơ vô tội.

Bốn mươi hai năm qua, nhắc lại thêm ngậm ngùi, đau đớn. Bao nhiêu mạng người đã bỏ thây trong cuộc chiến, trong nhà tù của cộng sản. Bao nhiêu mạng người bị vùi dập trên biển đông bởi giông tố, hải tặc. Bao nhiêu câu hỏi làm nghẹn lòng người Việt trên khắp năm châu.

Bốn mươi hai năm sau, những người tham dự trong cuộc chiến ngày đó đều đã già. Những mái tóc bạc trắng hay hoa râm, những tâm hồn đầy những vết thẹo quá khứ và chiến tranh. Cố gắng xây dựng một thế hệ tiếp nối. Cố gắng sống tốt và làm sống lại một thuở hào hùng. Đôi chân đã yếu, cơ thể hao mòn. Những người cha, người ông đã tận lực mình vì hai chữ tự do. Họ thật đáng kính trọng và tự hào. Nhưng trong họ biết bao nhiêu đêm trăn trở, dằn vặt vì sức tàn, lực kiệt

Sau Tháng Tư 1975, người sĩ quan VNCH bị tù đày nơi rừng thiêng nước độc. Không một bản án, không biết ngày về.

Nếu không có chương trình HO không biết bây giờ cuộc sống của những người tù Cộng sản sẽ ra sao? Không có chương trình HO. Không có những người liều chết vượt biển tìm tự do. Chúng ta sẽ không có những thế hệ thứ hai thứ ba thành công trên đất nước Hoa kỳ hay trên thế giới. Chúng ta sẽ không bao giờ có một Little Saigon trên đất Mỹ. Chúng ta sẽ không thể hãnh diện giơ cao lá cờ vàng và hát Quốc ca. Chúng ta không có xe hoa diễn hành ngày tết Nguyên Đán, Chúng ta cũng không thể có những bảo tàng lịch sử “Quân lực VNCH”. Không có tượng đài chiến sĩ Việt -Mỹ, không có tượng Đức Trần Hưng Đạo và cũng không thể có những nghị quyết “Vinh Danh cờ vàng” tại nhiều thành phố trên nước Mỹ, Úc, Canada.

Cám ơn ông Robert Funseth, Bà Khúc Minh Thư và biết bao vị khác đã tận lực với chương trình HO. Cám ơn những ân nhân trên thế giới đã cứu vớt, đã mở con đường sống cho những người vượt biển liều chết tìm tự do.

Khi tôi chuẩn bị gửi bài này vào Việt Báo thì nhận tin bà Hạnh Nhơn vừa mất.

Nữ Trung Tá Không quân VNCH Hạnh Nhơn là một người lính, một H.O. cựu tù và cũng là một người vợ lính. Sau nhà tù nhỏ nhà tù lớn, khi tới được nước Mỹ, Bà là Chủ Tịch Hội H.O. Cứu Trợ Thương Binh Quả Phụ, một ân nhân của những thương phế binh và quả phụ VNCH còn ở quê nhà. Bà đã dùng cả cuộc đời mình cho lính và vì những người lính. Mái tóc trắng như bông. Giọng nói miền Trung nhẹ nhàng, hiền hòa. Người mẹ 90 tuổi đã làm nên kỳ tích. Mỗi năm đã vận động và quyên góp một số tiền không nhỏ cho những TPB.

Rất cám ơn Bà Hạnh Nhơn với chương trình “Cám Ơn Anh Người Thương Binh VNCH”, một chương trình đầy tình người. Ứớc mong sao những người thương phế binh còn lại ở Việt Nam sẽ được Hoa Kỳ cứu xét và cho đi định cư. Để họ được chăm sóc và gia đình có đời sống tốt đẹp hơn.

Ngậm ngùi tưởng niệm và rất xúc động, ngay khi được tin Bà Hạnh Nhân vừa ra đi, tôi đã viết mấy dòng thơ đơn sơ:

Có một vì sao đã rơi sáng nay
Trong bệnh viện Cali: Fountain Valley
Đôi mắt hiền từ bình yên khép lại
Đẹp tuổi chín mươi tóc trắng như mây.

Thương qúa là thương nụ cười đôn hậu
Cựu Trung Tá không quân Nguyễn Thị Hạnh Nhơn.
Tiếng nói miền Trung dịu dàng nhỏ nhẹ.
Đằm thắm hiền hòa chân thật thiết tha.

Buổi sáng thứ ba người rời dương thế
18 tháng Tư, tháng của chia xa.
Nỗi buồn tháng tư nhân lên gấp bội
Hội cứu trợ TPB và Quả phụ VNCH

“Thành kính Tiếc Thương, lệ hoen mi mắt.
Người đã đi rồi, về với hư không.
Những việc Người làm, ơn trên đều thấy
Rộng cửa thiên cung đón Người vào trong.

42 năm, một thời gian quá nửa đời người. Những chứng nhân lịch sử rất nhiều người đã nằm xuống vì tuổi già, vì bệnh tật. Những văn nhân, thi sĩ, họa sĩ, nhạc sĩ nỗi danh cũng quá nửa đã ra đi. Một thế hệ VNCH lần lần đi vào quá khứ. Thế hệ tiếp nối lớn lên tại Mỹ, sinh ra tại Mỹ và gia nhập vào dòng chính đang trở thành những người Mỹ thực thụ. Con cháu gốc Việt dần dà sẽ không nói tiếng Việt, không nhớ gì tới gốc rễ của chúng?

Không. Chúng ta đã có những lớp dạy tiếng Việt. “Tiếng Việt còn, nước ta còn.” Chúng ta không thể không hòa nhập nhưng không thể để mất nguồn cội. Những thế hệ VNCH thứ hai thứ ba đang học hỏi để hiểu lý do tại sao chúng có mặt nơi này. Các cháu đang làm sống lại dòng sử Việt. Các cháu giương cao lá cờ vàng và các cháu tự hào về nó.

Dù muốn dù không chúng ta cũng đã rời khỏi VN. Mọi việc của quê hương đất nước phải do người trong nước quyết định. Có thay đổi được vận mệnh, có bảo vệ VN khỏi bàn tay xâm lược của Tàu Cộng hay không là do người trong nước thực hiện. Chúng ta chỉ có thể tiếp tay đưa mọi việc ra dư luận quốc tế để làm áp lực.

Các bạn ơi! 42 năm rồi cho một cuộc chiến, cho một đời người. Hai con trai chúng tôi đang là người lính của nước Mỹ. Con gái tôi sinh ra 3 tháng sau ngày mất nước. Bây giờ cháu đã 42 tuổi, là một phụ nữ trung niên, con cái đã vào Trung học. Người lính trẻ nhất của VNCH năm xưa nay cũng đã ngoài 60. Những người lính già bây giờ đều đã đi gần cuối cuộc đời. Sống nơi xứ người tuy đầy đủ vật chất nhưng vẫn là nỗi khắc khoải khôn nguôi cho những giấc mơ về một VN tự do dân chủ.

Tôi yêu quê hương VN tôi lắm. Tôi nhớ gia đình, họ hàng anh em và bạn bè tôi. Tôi nhớ từng con đường, từng góc vườn kỷ niệm của tuổi thơ và tuổi trẻ. Thú thật tôi sợ lắm. Sợ một ngày nào đó tôi trở về không nhận ra đất nước của mình. Tôi sợ Trung Cộng sẽ chiếm trọn Việt Nam. Người Việt sẽ bị làn sóng người Tàu tràn xuống tịch thu nhà cửa, chiếm cứ ruộng vườn. Họ sẽ đày người Việt mình đi vào những nơi rừng núi hay đồng khô cỏ cháy. Họ sẽ xóa một nước VN như chính quyền hiện nay xóa sổ VNCH. Họ sẽ tàn bạo hơn, quyết liệt hơn, dã man hơn như đang thẳng tay đàn áp dân dân chúng ở Tân Cương, Tây Tạng.

Một Sài Gòn xưa đã mất. Một nền văn hóa nhân bản đã mất. Có thể rồi đây nước Việt Nam sẽ bị xóa sổ trên bản đồ thế giới. Chẳng ai còn nhớ đến bà Trưng, bà Triệu, Hưng Đạo Vương, vua Quang Trung….

Không. Sẽ không thể như vậy. Bốn mươi hai năm đã quá đủ cho những thương đau. Đất nước tôi, dân nước tôi, dù từng chịu bao cơn vùi dập, vẫn đủ sức đứng dậy. Xin các đấng tiền nhân, hương linh những anh hùng tử sĩ phò hộ cho nước Việt mình vượt qua cơn bão giông này.

Tháng Tư 2017

Nguyễn Thị Thêm 

Ông Trần Đại Quang qua đời: Kết thúc kiếp người trong đau đớn!

Ông Trần Đại Quang qua đời: Kết thúc kiếp người trong đau đớn!

Bởi    AdminTD

VNTB

Ánh Liên 

21-9-2018

Người đứng đầu nhà nước, ông Trần Đại Quang vừa mất vào sáng ngày 21.09, kết thúc chuỗi bi cực vào cuối đời.

Ông Chủ tịch nước Trần Đại Quang (Chủ tịch nước) mất, khi cuộc chiến đốt lò nhằm vào đơn vị cũ của ông vẫn đang diễn ra,… Và nhiều người tin rằng, sự ra đi lần này sẽ khiến cho nhiều kẻ vui mừng, bao gồm cả những nhóm lợi ích đang tồn tại.

Người từng một thời hét ra lửa ở cương vị Bộ trưởng Bộ Công an, oai phong lẫm liệt ở lễ Tuyên thệ Chủ tịch nước,… đã sớm xuống dốc về mặt thần thái và sức khỏe, và chưa hết nửa nhiệm kỳ, người dân chỉ thấy một Chủ tịch nước héo khô về mọi mặt.

Suy cho cùng, ai cũng sẽ chết, nhưng tựu trung có cái chết vang danh, cảo thơm và có cái chết để làm nhiều tai tiếng và khinh bỉ của người đời. Có lẽ, hơn ai hết, vào những ngày cuối đời, ông Chủ tịch nước đã phải lắng nghe được lương tri và cái bi thảm nhất của con người quan chức XHCN, giờ khắc mà mạng sống như những ngọn nến thắp lên trong đêm bão.

Là một người đứng đầu nhà nước, nhưng cái quyền được chăm sóc sức khỏe bản thân cũng không có. Đó phải là một quan điểm mang tính bịa đặt, xuyên tạc không? Không, vì tính trong nửa tháng trở lại đây, một người hom hem tiều tụy, gầy sọp, viền môi đã đổi sắc, khẩu hình có hiện tượng co dúm lại nhưng phải buộc phải gồng mình để làm ‘nhiệm vụ chính trị’, nói đúng hơn vào những ngày cuối đời, ông Chủ tịch nước buộc trở thành một xác chết biết đi.

‘Tao khỏe, có chi mô’, câu nói đầy bi đát của ông Nguyễn Bá Thanh ngày nào giờ vận đúng ông Trần Đại Quang. Nhưng so với ông Thanh, thì ông Quang còn bi đát hơn nhiều.

Ngày 18.09, ông Chủ tịch nước còn cùng với Bộ Chính trị họp cho ý kiến về các đề án chuẩn bị trình Hội nghị TW 8.

Ngày 19.09, ông Chủ tịch nước hom hem trong bộ comple rộng thùng thình tiếp Chánh án TAND tối cao Trung Quốc.

Ngày 20.09, một lá Thư chúc Tết Trung thu được ký bởi ông Chủ tịch nước.

Nghĩa là trước khi mất 3 ngày, ông Chủ tịch nước buộc phải dùng chút hơi tàn, lực kiệt để đảm nhiệm vai trò ‘Chủ tịch nước’.

Có điều nào phi nhân bản hơn đến thế?

Vấn đề, nếu ông Chủ tịch nước xin nghỉ thì ai sẽ chấp nhận, hoặc bản thân ông có chấp nhận không khi những di sản ông tạo ra trước đó đang bị ‘đốt’, có vẻ ông gắng gượng sống để chống đỡ? Đặc biệt là sự vụ liên quan đến Vũ ‘nhôm’ và những sai phạm bị phanh phui trong nội bộ Bộ Công an?. Hay đây chỉ là cách ‘hành hạ nhau’ bằng việc vắt kiệt sức hơi tàn của ‘địch thủ’ trong những ngày cuối đời? Hay đơn thuần, ông Chủ tịch nước muốn chứng minh bản thân mình là một đảng viên mẫu mực, người sẽ cống hiến đến hơi thở cuối cùng?

Có vô vàn lý do đặt ra, nhưng suy cho cùng, ông Chủ tịch nước phải trả một cái giá rất đắt trên thành cao quyền lực.

Tiếp theo là, ai sẽ thay thế ông Chủ tịch nước? Người đó sẽ như thế nào, có phải là một Bí thư thành ủy phía Nam để làm hài lòng về tính trung lập trong Bộ Chính trị? Hay là Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc hiện thời, người với những câu nói vô thưởng, vô phạt? Hay là Trần Quốc Vượng, Thường trực Ban Bí thư, người có sự quan tâm sâu sắc đến vấn đề áp dụng đặc khu ở Việt Nam? Có lẽ với nhiều người, trong hệ thể chế XHCN, thì bất kỳ ai lên thay, cũng sớm trở thành ‘cột mục ruỗng’. Do đó mà ngay cả chuyện tang lễ là chuyện buồn, Quốc tang là chuyện trọng đại, nhưng sự mất mát của người đứng đầu Nhà nước trong bối cảnh BOT vẫn còn nhiều, biệt phủ vẫn còn tồn tại, và thuế xăng dầu vừa mới tăng,… thì buồn nào đáng hơn?

Nỗi buồn và nghi vấn

Dân buồn về xã hội trì trệ, thuế phí tăng cao hơn việc một ông Chủ tịch nước không có quá nhiều thành tích nổi bật cho xã hội qua đời, nhưng cũng với sự ra đi lần này, hẳn để lại nỗi buồn rất lớn đối với những người nằm trong phe phái của ông, những người đang đối diện với cuộc chiến đốt lò. Bởi từ nay, lá chắn Chủ tịch nước đã không còn tồn tại, và câu chuyện dọn dẹp sạch sẽ củi lò trong Bộ Công an và những vụ việc có liên quan đến Bộ này trong thời gian tới sẽ được tăng tốc hơn.

Ông Chủ tịch nước ra đi lần này, cũng để lại một nghi vấn về nguyên trạng cái chết của ông, mắc phải virus hiếm gặp, hình thành ‘bệnh chưa có thuốc để điều trị khỏi hoàn toàn mà chỉ có thể chặn lại và đẩy lùi một thời gian’, hay những cái chết kỳ cục của giới chức Cộng sản.

Và điều bi đát đọng lại là, ngay cả khi mất đi, cái năm sinh trên bia mộ của ông Chủ tịch nước cũng không được trở về chính xác, gian dối ám vận vào cả khi nằm xuống. Cuộc đời của ông Trần Đại Quang, xét cho cùng, ‘Ham hố tiền bạc (trọng ngân) nhưng không chịu tu nhân tích đức, khiến cho phúc mỏng (bạc phúc) thì của nả, tài sản cũng mất hết. [một câu nói vô danh]’.

Bình Luận từ Facebook

TRUNG QUỐC ÂM MƯU CHẤT ĐỘC HÓA HỌC ĐỐI VỚI DÂN TỘC VIỆT !

Tai Nguyen posted 2 updates.

2,883 Views

Nguyễn Hiếu is with Nguyễn Hiếu.

TRUNG QUỐC ÂM MƯU CHẤT ĐỘC HÓA HỌC ĐỐI VỚI DÂN TỘC VIỆT !

Như chúng ta ,người dân ta đã biết Trung Quốc đã và đang thực thi cuộc chiến chất độc hóa học đối với dân tộc ta ,chúng không từ bỏ bất cứ thủ đoạn nào ,chúng thực hiện dáng tiếp và trực tiếp qua lương thực ,thực phẩm ,thuốc tây ,thuốc lá ,hóa phẩm màu ,hóa chất ,ma túy…v…v…và hiện tại chúng đã thành công chính sách trong mưu lược dùng “NGƯỜI VIỆT ĐẦU ĐỘC NGƯỜI VIỆT”..!

Chúng thực hiện cuộc chiến chất độc hóa học nhằm biến dân tộc ta trở thành một dân tộc “BỆNH HOẠN” làm cho người dân ta mất bản lĩnh chính trị ,mất khả năng phản kháng khi chúng chính thức cai trị dân tộc ta , chúng thực hiện chiến thuật dùng “người Việt đầu độc người Việt”,chúng đánh vào lòng tham và lợi nhuận của người dân ta để thực hiện âm mưu đó ,người dân ta đã trúng kế cùng với sử bỏ ngõ của cơ quan chức năng ,lương thực ,thực phẩm độc tràn lan ,mất kiểm soát và người dân ta không thể có sự lựa chọn được lương thực ,thực phẩm sạch và người giàu cũng như người nghèo thậm chí cả cán bộ quan chức đều cùng chung số phận …!

Mỗi ngày qua đi lại có thêm một vụ thực phẩm bẩn, độc hại xuất hiện. Những “sát thủ giấu mặt” đó vẫn hàng ngày hàng giờ hiện diện trên bàn ăn của mỗi gia đình người dân chúng ta và rổi đây chúng sẽ cho xây dựng những bệnh viện mang tên Trung Quốc và dùng thuốc trị ung thư đang trong quá trình nghiên cứu để biến người dân ta trở thành những con chuộc bạch mặc khác của sự nô lệ về kinh tế người dân ta phải cồng lưng kiếm tiền để nuôi bọn giặc xâm lăng và cai trị người dân ta ..!

“Condition Of Slavery

Đâu là 2 vụ án tham những lớn nhất trong lịch sử Việt Nam?   

Hoa Do shared a post.

Tổng số tiền dân Thủ Thiêm bị “nẫng” mất là một con số vô vô cùng lớn: 279.000.000.000.000 đồng, tương đương 12 tỷ USD, (lớn gấp 3 lần số tiền thiệt hại của vụ án Vinasin).

CHINHTRIVN.NET

Đâu là 2 vụ án tham những lớn nhất trong lịch sử Việt Nam?

Khu đô thị mới Thủ Thiêm, Quận 2, TPHCM là mảnh đất rộng 930ha, nằm ngay bên bờ con sông Sài Gòn, đối diện khu trung tâm sầm uất sang trọng số 1 thành phố. Do có vị trí tuyệt đẹp như vậy nên Thủ Thiêm đã trở thành miếng mồi thơm hấp dẫn các đại gia bất động sản cùng một số quan chức biến chất của TP HCM và Trung ương.

 

Từ 2002, các quan chức tham gia vào âm mưu xẻ thịt Thủ Thiêm đã vội vã ra lệnh thu hồi đất khi chưa thực hiện những quy định bắt buộc của pháp luật. Sự vội vã đó khiến dự án này được gọi một cách mỉa mai là dự án BỐN KHÔNG: “không dự án đầu tư, không quy hoạch chi tiết, không phương án bồi thường, không nhà tái định cư”.

Không dừng lại ở đó, với dã tâm “thu hồi đất với chi phí thấp nhất”, những kẻ cầm đầu chỉ đạo đàn em lấy giá đất từ năm 1995 (theo quyết định 05 ngày 4/1/1995) để bồi thường cho dân từ năm 2002 đến giờ, bất chấp các quy định của Quốc hội và Chính phủ là bồi thường phải sát giá thị trường!

Sự bất hợp lí ở đây là chênh lệch giá bồi thường và giá thị trường vượt quá sức tưởng tượng của mọi người, theo quyết định 135/QĐ-UB ngày 21/11/2002 của UBND TPHCM, giá bồi thường đất đô thị tại khu vực Thủ Thiêm là khoảng 2 triệu đồng một mét vuông, đất nông nghiệp 200.000 đồng một mét vuông, còn giá thị trường thì cao vót: đất ở trong dự án là 70 triệu đồng, đất nông nghiệp bằng 40% khoảng 28 triệu đồng.

Chênh lệch giá bồi thường lên đến hàng chục thậm chí hàng trăm lần đã đem đến những quyền lợi khổng lồ nhưng hoàn toàn phi pháp cho nhóm lợi ích. Tính sơ sơ mỗi mét vuông đất “vênh” ra được 30 triệu đồng thì tổng số tiền dân Thủ Thiêm bị “nẫng” mất là một con số vô vô cùng lớn: 279.000.000.000.000 đồng, tương đương 12 tỷ USD, (lớn gấp 3 lần số tiền thiệt hại của vụ án Vinasin).

Không còn nghi ngờ gì nữa, vụ “cướp đất” ở Thủ Thiêm và vụ Vinasin là 2 vụ án tham những lớn nhất trong lịch sử Việt Nam.

(Theo Facebook)

Phạt tù 2 đối tượng phát tán tài liệu nói xấu, bôi nhọ lãnh đạo Đảng, Nhà nước

Việt nam. Nhà cầm quyền chính thức bắt giam người viết Facebook.

About this website

BAOMOI.COM
Hai đối tượng lợi dụng quyền tự do dân chủ đăng tải các bài viết nói xấu, bội nhọ, xúc phạm lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã bị phạt tù.

Hình ảnh dòng nước thải đen ngòm đang xối xả tuôn thẳng ra biển Nha Trang

Kevin Nguyen shared a post.
Image may contain: ocean, outdoor, nature and water
Võ Hồng Ly is with Võ Hồng Ly.

22.09.2018

Hình ảnh dòng nước thải đen ngòm đang xối xả tuôn thẳng ra biển Nha Trang này đã được một Facebooker người Nga tên là Dari Kurbatova, đăng tải hôm nay.

Đọc những comment trao đổi trong status này của nhiều Facebookers thì khu vực này có thể nằm ở gần đường Đặng Tất. Dòng nước đen ngòm mà chúng ta đang thấy trong hình có vẻ là nước thải sinh hoạt và việc xả thải công khai này đã tồn tại ở đây cả chục năm rồi mà vẫn không có ai xử lý. Trong những người bình luận có cả những người thuộc bên truyền thông và họ đã từng về khu vực này làm phóng sự cách đây 3 năm để phản ánh về thực trạng đáng lo ngại nói trên nhưng cho đến giờ vấn đề này vẫn chưa được các cơ quan chức năng TP. Nha Trang giải quyết.

Nhìn hình ảnh khủng khiếp này từ trên cao mới thấy sự thờ ơ, thiếu ý thức và trách nhiệm của những con người với môi trường sống của chính mình thật là đáng sợ ! Xót xa thật nhiều cho một đất nước xinh đẹp đã từng được Mẹ Thiên Nhiên ưu ái… 
——-
Nguồn : https://www.facebook.com/100000951214747/posts/2238713196170366/

Những cái chết dân vui mừng trong lịch sử nhân loại

Thằng chúa đảng tiêu vong thì các nhà máy bia giàu to !

Lịch sử thế giới từ cổ chí kim đã chứng minh.

Mời đọc:

Những cái chết dân vui mừng trong lịch sử nhân loại

Nguyễn Đình Bổn

1- Trung Hoa: Tin Đổng Trác bị giết truyền ra ngoài thành, mọi người đều reo hò vui mừng, cùng nhau ca hát. Xác Đổng Trác bị bêu ở chợ, thân thể quá to béo nên mỡ chảy đầy đường. Nhân dân lấy bấc cắm vào rốn châm lửa cho cháy làm đèn, cháy mấy ngày mới tắt (Tam quốc chí).

2- Việt Nam thời Lê Trịnh: Anh em quận Huy chết rồi, quân lính vui mừng reo hò như sấm… Những kẻ buôn bán ở các phố phường, chợ búa đều tranh nhau kéo đến xem chúa (mới), sân phủ đông như họp chợ. (Hoàng Lê nhất thống chí).

3- Rumani: Khi vợ chồng Ceaușescu bị một đội hành quyết xử bắn, đã có hàng trăm người tình nguyện tham gia, dân thì đổ ra các quảng trường choàng tay nhau hát vang như thể Rumani vừa vô địch World Cup. Họ hát rằng: “Ole, Ole, Ole, Ole – Ceausescu unde é? – Ole, Ole, Ole, Ole – Ceausescu nu mai é!” (Ồ-lê, Ồ-lê, Ồ-lế, Ô-lề – Ceausescu đâu rồi? – Ồ-lê, Ồ-lê, Ồ-lế, Ô-lề – Ceausescu hết thời!)”…

4- Iraq: Khi Tổng thống Saddam Hussein bị treo cổ, truyền thông Iraq cho hay là dân chúng trong các khu của người Hồi giáo Shia trong thành phố Sadr cũng như tại các vùng khác có đa số dân là người Hồi giáo Shia đã đổ ra đường ăn mừng.

5- Libya: Khi tên độc tài Muammar Gaddafi bị giết, người dân Libya đã vui sướng đổ ra đường phố ăn mừng từ quảng trường Martyrs, Tripoli cho đến tận vùng nông thôn hẻo lánh!

Là nhân vật lịch sử, tất nhiên phải chấp nhận cả vinh quang và điếm nhục. Và phải ghi nhớ: dân luôn đúng!

Nguồn: Nguyễn Đình Bổn

Image may contain: one or more people, people sitting, people eating and food

Tôi và những người như tôi không phải Phản Động.

Image may contain: 1 person, smiling, text

Nguyễn Thủy Tiên

Tôi và những người như tôi không phải Phản Động.

– Chúng tôi không tham nhũng ngân sách quốc gia, chúng tôi không ăn chặn tiền thuế của các bạn 1 đồng nào. Nếu chúng tôi có làm những việc đó chúng tôi mới là phản động.

– Chúng tôi không cướp đất của dân, đẩy người dân ra đường, để cụ già phải ăn xin, em bé phải bán vé số, phụ nữ phải bán dâm. Nếu chúng tôi làm những điều đó chúng tôi mới là phản động.

– Chúng tôi không cấp phép cho những gian thương, cho những doanh nghiệp nước ngoài vào VN kinh doanh nhưng phá hoại môi trường để rừng trơ trọi, để biển không còn gây ảnh hưởng xấu đến cuộc sống người dân. Nếu chúng tôi có làm những việc đó chúng tôi mới là phản động.

– Chúng tôi không ra đường chặn xe bạn vô cớ, không vu khống bạn vi phạm luật, không bắt bạn những lỗi vớ vẩn… rồi tìm cách vòi tiền bạn. Nếu chúng tôi làm việc đó chúng tôi mới là phản động.

– Chúng tôi không có quyền kiểm soát việc nhập khẩu hàng hóa vào VN. Chúng tôi không nhập hàng giả, thức ăn độc hại vào thị trường VN để bạn dùng, vì lợi nhuận hại tất cả mọi con người VN. Nếu chúng tôi làm điều đó, chúng tôi mới là phản động.

– Chúng tôi không đến công ty, tiệm, cửa hàng của bạn để hạch sách, những nhiễu rồi kiếm cớ vòi tiền bạn. Khi nào chúng tôi làm vậy chúng tôi mới là phản động.

– Chúng tôi không tạo ra bất công trong xã hội. Chúng tôi không bao che những người làm sai, không nâng đỡ con cháu vô năng lực vào những vị trí cao. Nếu chúng tôi làm điều đó hãy gọi chúng tôi là phản động.

– Chúng tôi không mượn nợ nước ngoài cho con cháu du học, xây biệt thự, sắm xe, tiêu xài hàng hiệu, uống rượu ngoại, nuôi gái… để mỗi người dân gánh $1200 tiền nợ. Nếu chúng tôi làm thế bạn cứ gọi chúng tôi là phản động.

– Chúng tôi không ăn chặn tiền cứu trợ đồng bào lũ lụt, không bòn rút tiền từ thiện dành cho bệnh nhân tâm thần, người già neo đơn. Nếu có làm việc đó, gọi chúng tôi là phản động còn nhẹ… hãy xử bắn chúng tôi ngay.

Bạn nói khi tôi và những người giống như tôi chưa có quyền thì kêu gào hay lắm… nhưng đến lúc nắm quyền thì cũng hành xử như những gì chúng tôi lên án thôi. Bạn nói đúng nếu như guồng quay xã hội hiện tại cứ mãi mãi tiếp tục còn kéo dài, thì ai lên nắm quyền cũng sẽ bị biến chất. Và những gì chúng tôi làm chính là muốn thay đổi guồng quay xã hội đó.

Chúng tôi muốn tạo ra 1 guồng quay xã hội khác để người nào lên nắm quyền cũng phải tuân thủ luật pháp, làm đúng trách nhiệm cần có… nếu tắc trách, sai phạm, biến chất phải bị đẩy đi cho người có thể tốt hơn thay thế.

Chúng tôi muốn xã hội tốt hơn bằng việc thay đổi cái gốc, thay đổi hệ thống vận hành… và bạn gọi chúng tôi là phản động.

NHỮNG CÁI CHẾT BÍ ẨN CỦA HÀNG NGŨ LÃNH ĐẠO ĐẢNG CSVN

NHỮNG CÁI CHẾT BÍ ẨN CỦA HÀNG NGŨ LÃNH ĐẠO ĐẢNG CSVN

(Đỗ Thông Minh)

“… Cộng Sản là một chủ nghĩa khát máu với chủ trương bao lực cách mạng. Người CS cuồng tín quen thanh toán, giết người, chúng không chỉ tàn ác với người mà chúng cho là kẻ thù, chúng tàn ác ngay với cả chính đồng chí của chúng.”

Stalin đã sát hại 2/3 Ủy Viên Chính Trị Bộ, khoảng 3/4 Ủy Viên Trung Ương thời Lênin và khoảng 20 triệu dân Nga. Mao Trạch Đông cũng đã hãm hại nhân vật thứ 2 như Lâm Bưu, rồi Chủ Tịch Lưu Thiếu Kỳ, Bành Chân, Bành Đức Hoài…, chính Đặng Tiểu Bình cũng 3 lần bị hạ bệ và khoảng 60 triệu dân TQ. CSVN cũng không thoát khỏi những hành vi man rợ thuộc loại này.

Do bưng bít, dư luận ít biết đến các cuộc thanh trừng nội bộ, nhưng việc này như một quy luật phổ biến trong chế độ CS để bảo vệ quyền lợi cá nhân và phe nhóm.

Một loạt những cái chết bí ẩn:

– Lâm Đức Thụ (1890-1947), tên thật là Nguyễn Công Viễn, Thư Ký Thường Trực Tổng Bộ Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, là một trong mấy người sáng lập tổ chức Tâm Tâm Xã (1923), Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội (1925), người cùng Hồ Chí Minh bán cụ Phan Bội Châu. Bị HCM vu cho là chỉ điểm, mật thám, tay sai thực dân đế quốc… để rồi kết thúc cuộc đời trước họng súng của dân quân vào năm 1947 tại quê hương Vũ Trung, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình mà có lẽ vì bép xép chuyện bán cụ Phan và biết quá nhiều về HCM.

– Đại Biểu QH Dương Bạch Mai (1904-1964), từng du học Pháp, Liên Xô, bị đột tử khi uống ly bia giữa 2 phiên họp Quốc Hội trước khi đọc diễn văn phản đối xã hội kiểu trại lính của Trung Quốc.

– Đại Tướng Nguyễn Chí Thanh (1914-1967), Ủy Viên Bộ Chính Trị, Bí Thư Trung Ương Cục Miền Nam, kiêm Chính Ủy Quân Giải Phóng Miền Nam, bút hiệu Hạ Sĩ Trường Sơn (Con trai út là Nguyễn Chí Vịnh, năm 2010 là Trung Tướng, nguyên Tổng Cục Trưởng Tổng Cục 2, Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng, từng bị tố cáo về tư cách và những thủ đoạn chụp mũ phe đối lập. Vợ là Nguyễn Thị Cúc, có 4 con, nhưng khi hoạt động trong Nam có vợ 2 và thêm con trai là Nguyễn Hữu Nghĩa, Nghĩa được đưa về thành phố sinh sống, khi lớn đi sĩ quan VNCH, tỵ nạn CS qua Canada, làm báo Làng Văn…). (*) Ghi chú thêm xem bên dưới.

Nguyễn Chí Thanh bị chết thình lình sau khi dùng cơm chia tay với HCM ở Phủ Chủ Tịch về nhà, thì đêm hôm đó, gần sáng ngày 6/7/1967 bị ói ra máu chết, đúng ngày định trở lại miền Nam lần thứ 2 (nhà cầm quyền nói chết vì bệnh tim). Theo Nguyễn Thanh Hà, con thứ 2, gái trưởng của Nguyễn Chí Thanh, viết bài “Kỷ Niệm Về Cha Tôi” đăng trên báo Thanh Niên, Việt Báo tại VN năm 2007, trong có đoạn:

Khi ba từ miền Nam ra, cả nhà được báo trước đứng chờ ba ở cửa – mệ, mẹ, mấy chị em và tất cả mọi người. Chờ mãi không thấy, sau lâu lắm mới thấy ông về, ba bảo: “Ba phải vào thăm và báo cáo tình hình với Bác trước hết, rồi mới về nhà được”. Mấy tháng sau, vào hôm trước khi ông lên đường vào Nam lần thứ 2, cả nhà chờ cơm rất muộn, hỏi ra mới biết, ba được Bác gọi vào ăn cơm chia tay, cơm xong phải đi gặp một vài người bàn nốt công việc. Sau đó không hiểu sao, ông lại quay vào Phủ Chủ Tịch, ngồi dưới nhà sàn, lưu luyến mãi không muốn về. Ông nói với chú Vũ Kỳ: “Tôi đi lần này chắc sẽ hoàn thành việc Bác giao, chỉ băn khoăn một điều là sức khỏe của Bác…”. Không ngờ sáng sớm hôm sau ba mất, không thực hiện được ước mơ của mình là đưa Bác vào Nam thăm đồng bào chiến sĩ…

Theo cuốn “Giọt Nước Trong Biển Cả”, trang 420, của Hoàng Văn Hoan, thì kẻ nắm rõ âm mưu sám sát này là Trung Tướng Nguyễn Văn Vịnh (hình bên), sau chỉ bị giáng xuống Thiếu Tướng, không đưa ra công khai vì sợ lột trần tội ác của Lê Duẩn và xấu mặt cả đảng.- Cựu Đại Sứ MTGPMN tại Paris, CSVN tại Liên Hợp Quốc Đinh Bá Thi (1921-1978), tên thật là Hồ Đản, sau khi hoạt động tình báo tại Hoa Kỳ bị lộ, bị sát hại qua tai nạn xe hơi tại Phan Thiết.

– Đại Tướng Chu Văn Tấn (1909-1984), nguyên là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng trong Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, bị cho là theo phe Hoàng Văn Hoan.

– Đại Tướng Tham Mưu Trưởng Hoàng Văn Thái (1915-1986), có mặt trong đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân, sui gia với Võ Nguyên Giáp. Khi chuẩn bị lên làm Bộ Trưởng Quốc Phòng thay thế Văn Tiến Dũng thì chết đột ngột chết ngày 2/7/1986. Trước khi chết, chính Hoàng Văn Thái nói với vợ “Người ta giết tôi.”. Có tin là bị Lê Đức Thọ sát hại vì e ngại người khác phe sẽ khui ra nhiều chuyện của Dũng và Thọ… để đưa Đại Tướng Lê Đức Anh lên vào tháng 2/1987.

– Đại Tướng Lê Trọng Tấn, tên thật là Lê Trọng Tố (1914-1986), Viện Trưởng Học Viện Quân Sự Cao Cấp, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Nhân Dân VN, Tổng tham mưu trưởng Quân Đội Nhân dân Việt Nam, Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng, Phó Tư Lệnh Quân Giải Phóng Miền Nam. Chết thình lình ngày 5/12/1986. Có tin cũng bị Lê Đức Thọ sát hại khoảng 5 tháng sau khi sát hại Hoàng Văn Thái.

– Thượng Tướng Đinh Đức Thiện (1913-1987), người hùng đường mòn Hồ Chí Minh, Chủ Nhiệm Tổng Cục Hậu Cần, Phó Tư Lệnh Chiến Dịch Hồ Chí Minh, Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng, Bộ Trưởng Bộ Giao Thông Vận Tải, tên thật là Phan Đình Dinh, em ruột của Lê Đức Thọ (tên thật là Phan Đình Khải, 1911-1990, Bí Thư Thường Trực Ban Bí Thư, phụ trách tổ chức kiêm Trưởng Ban Chính Trị Đặc Biệt) (*), và là anh của Mai Chí Thọ (tên thật là Phan Đình Đống, 1922-2007, Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ, Đại Tướng Công An).

Khi thấy Lê Đức Thọ tác oai, tác quái, tùy tiện bắt giam nhiều đồng chí cao cấp không cần chứng cứ, không cần xét xử, Đinh Đức Thiện đã phải nói với anh mình rằng: “Anh không thể làm những việc thất đức như thế được. Anh đừng có làm nhục dòng họ Phan, anh không lo rồi họ đào mả bố chúng ta lên à?” thì bị “lạc đạn” chết trong lúc đi săn, nhưng nhà cầm quyền nói là tai nạn giao thông. Mộ của Lê Đức Thọ chôn ở nghĩa trang hàng đầu là Mai Dịch ở Hà Nội vẫn bị có người đem phân đến ném nên sau phải đưa về quê ở Nam Định!. Họ Phan Đình với 3 anh em đều lên đến tột đỉnh danh vọng thế mà đều tuyệt tự!?

(*) Lê Đức Thọ cùng Lê Duẩn chủ trương chiếm miền Nam bằng bạo lực, đàn áp đối lập trong đảng. Thọ là người họp bàn với Henry Kissinger về Hiệp Định Paris 1973. người nắm Ban Tổ Chức Trung Ương đảng CSVN sắp xếp mọi việc quan trọng và đưa nhóm thiếu trình độ Lê Đức Anh – Đỗ Mười lên cầm quyền, là nhóm hèn nhát trong đảng CSVN qụy lụy Trung Quốc… Nên Thọ bị nhiều người ghét, thậm chí căm thù.

Theo tác giả Trần Nhu, Ban Tổ Chức Trung Ương gồm:
– Ban Kiểm Tra Trung Ương Đảng thời Lê Đức Thọ do Trần Quyết làm Trưởng ban.
– Ban Nội Chính Trung Ương Đảng do Hoàng Thao làm trưởng ban.
– Ban Bảo Vệ Bộ Chính Trị do xếp Nguyễn Đình Hưởng.
– Ban Chỉ Đạo Trung Ương Đảng do xếp lớn Nguyễn Đức Tâm.
– Ban Bảo Vệ Đảng đứng đầu là Nguyễn Trung Thành.
– Cục Chính Trị Trung Ương Đảng: ông Kim Chi, quan lớn có bóng không có hình.

Nhưng tất cả những kẻ đứng đầu các tổ chức ngầm đan chéo trên cũng chỉ là những chuyên viên của các bộ môn trong ngành mật vụ giúp việc cho Trưởng Ban Tổ Chức Trung Ương Đảng Lê Đức Thọ mà thôi.

Nhiệm vụ của nó là thường xuyên theo dõi, giám sát chặt chẽ các ủy viên trung ương đảng, thẩm tra các ủy viên Bộ Chính Trị, xem xét về mặt chính trị, tư tưởng của các cán bộ dự kiến bầu vào Ban chấp hành trung ương đảng, Bộ Chính Trị, và kiện toàn bộ máy đảng, bộ máy nhà nước, tổ chức chỉ đạo quốc hội, các cơ quan nhà nước, tổ chức chỉ đạo các đoàn thể ngoại vi như Mặt Trận Tổ Quốc, Ban Tôn Giáo; đặc biệt là kiểm soát, giám sát chặt chẽ quân đội từ Bộ Quốc Phòng, Bộ Tổng Tham Mưu đến các Quân Khu, Sư Đoàn, Trung Đoàn đều có Ban Bảo Vệ Cục Chính Trị đặt dưới quyền chỉ đạo của Cục An Ninh Bộ Nội Vụ.

Chính Cục An Ninh Bộ Nội Vụ này theo lệnh của Lê Đức Thọ đã cho mật vụ giết Đại Tướng Hoàng Văn Thái vào khoảng 1986, và năm sau lại giết Đại Tướng Lê Trọng Tấn, đồng thời bắt hàng loạt các sĩ quan cao cấp trong Bộ Quốc Phòng…

Bề ngoài, TBT Lê Duẩn là quyền lực cao nhất, nhưng thực chất bên trong là ông vua không ngai Lê Đức Thọ. Cũng theo Trần Nhu:

Thí dụ như trường hợp Đại Tướng Võ Nguyên Giáp có mấy đứa con học ở nước ngoài đều bị mật vụ của Thọ chiếu cố tận tình, như Võ Điện Biên học ở Đông Đức, Võ Thị Hòa Bình học ở Ba Lan, Võ Thị Hồng Anh học ở Nga. Do những hệ luỵ này mà tướng Giáp phải trả giá quá đắt. Chúng ta cũng biết con gái của Tổng Bí Thư Lê Duẩn là Lê Vũ Anh, học ở Nga, vì lấy viên sĩ hàn lâm học Maslov, mặc dù đã có 3 con với nhau, vẫn bị mật vụ của Thọ giết chết một cách rất thảm chỉ vì cái luật quái gở cấm các sinh viên không được lấy người nước ngoài. Luật này không thành văn, mà chỉ là luật miệng giữa các lãnh tụ với nhau.

– Trung Tướng Phan Bình (1934-1987), Cục Trưởng Cục Quân Báo, sau khi vừa bị Lê Đức Anh tước mất quyền, bị giết bằng cách bắn vào đầu ngày 13/12/1987 tại Sài Gòn, nhưng nhà cầm quyền cho là tự sát, 1 tháng sau con trai cũng trong quân báo, cũng bị hãm hại sau khi ép vào bệnh viện với lý do “tâm thần”.

– Thủ Tướng CSVN Phạm Hùng? (1912-1988), tên thật là Phạm Văn Thiện, tại nhiệm 1987-1988. Chết đột ngột (vì bệnh tim) ngày 10/3/1988 tại Sài Gòn, khi đang tại chức.

– Thượng Tướng Công An Thi Văn Tám (1948-2008), đặc trách tình báo gián điệp đột tử trong lúc khỏe mạnh và đi công tác đó đây liên tục vào ngày 12/12, mà ngày 15/12, các cơ quan truyền thông mới được đồng loạt loan tin là chết sau một thời gian dài lâm bệnh, mà không nói bệnh gì!?… Nhiều tin đồn cho rằng bị đầu độc?

Tháng 12/2008, sau khi thăng chức từ Trung Tướng lên Thượng Tướng thì mươi ngày sau ông bị chết bất đắc kỳ tử. Trước đó, từ năm 2006 đã có thư của Phạm Gia Khánh, tự xưng là cán bộ trong Tổng Cục An Ninh, tố cáo TT Thi Văn Tám tham nhũng, đã đưa dự án về cục A35, trị giá nhiều chục tỷ đồng, rồi ông trực tiếp phụ trách. Người tố cáo, có tin là do tranh giành quyền lực, đã gửi thứ tới đích danh Nông Đức Mạnh, Nguyễn Phú Trọng, Lê Hồng Anh v.v…

Các trường hợp kết án, trù dập khác.

– Ủy Viên Bộ Chính Trị, Phó Chủ Tịch Quốc Hội Hoàng Văn Hoan (1905-1991), Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng kiêm Chính Trị Viên Vệ Quốc Quân Toàn Quốc. Từ năm 1950 đến năm 1957, làm Đại Sứ đầu tiên của CSVN tại Trung Quốc kiêm Đại Sứ tại Triều Tiên và Mông Cổ.

Sau bị trù dập, nên năm 1979, nhân một chuyến đi sang Đông Đức chữa bệnh, ông đã bỏ trốn qua Trung Quốc, bị kết án tử hình khiếm diện về tội phản quốc, sau mất tại TQ, chôn tại nghĩa trang Bát Bảo Sơn, sau này một phần hài cốt được đem về nước. Là tác giả cuốn “Giọt Nước Trong Biển Cả” xuất bản năm 1988, tố giác chế độ độc đoán Lê Duẩn…

– Đại Tướng Võ Nguyên Giáp (1911-2011), Bộ Trưởng Quốc Phòng, bị nhóm Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Trần Quốc Hoàn cho là theo xét lại của Liên Xô và chống đảng, tìm cách hạ bệ qua vụ án “Xét Lại Chống Đảng” năm 1967, có tên chính thức là “Vụ án Tổ chức chống đảng, chống nhà nước ta, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm tình báo cho nước ngoài.”. Võ Nguyễn Giáp bị bắt lỗi từ việc nhận 1 lá thư của TĐS Liên Xô mà không báo cáo theo nội quy đảng…

Năm 1980, Võ Nguyễn Giáp bị thôi chức Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng. Năm 1983, bị hạ nhục khi cho làm Chủ Tịch Ủy Ban Quốc Gia Dân Số và Sinh Đẻ Có Kế Hoạch khi ủy ban này được thành lập, năm 1991, chính thức nghỉ hưu. Có lúc nhóm Lê Duẩn còn định quản chế Giáp ở một nơi biệt lập. Từ khoảng năm 1965, 67, hàng 50 năm sau cùng của đời ông, Giáp thường chỉ ra mặt mang tính hình thức, không có quyền hành gì (Vụ Tổng Công Kích Mậu Thân năm 1968 hay Chiến Dịch Hồ Chí Minh năm 1975 kể như không có Giáp, còn bị nhóm cực đoan giáo điều Lê Duẩn cho là hèn nhát).

Vì vậy mới có thơ:
Ngày xưa Đại Tướng cầm quân,
Ngày nay Đại Tướng cầm quần chị em!

Đùng một cái Võ Nguyễn Giáp theo Sắc Lệnh số 110/SL ngày 28/5/1948, được Hồ Chí Minh đưa lên làm “Đại Tướng”, đùng một cái mất hết! Cho thấy thực ra Giáp cũng chẳng có tài cán và thế lực gì đặc biệt. Phần lớn thành tích đều là tuyên truyền và chiến công đều bằng sự hy sinh xương máu của hàng trăm ngàn bộ đội và dân chúng.

Về “Chủ Nghĩa Xét Lại”:

Vào tháng 9/1953, Nikita Khrushchev (1894-1971) được bầu làm Bí Thư Thứ Nhất Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Liên Xô. Năm 1956, tại Đại Hội Lần Thứ 20 Đảng Cộng Sản Liên Xô, ông đã đọc báo cáo phê phán nặng nề sự tàn ác vô song và sự sùng bái cá nhân của I. V. Stalin (1879-1953). Vì thấy đối đầu với Tư Bản quá mạo hiểm và không dễ gì thắng, Khrushchev chủ trương thay vì tận diệt Tư Bản thì chung sống hòa bình. Các đoàn đại biểu CS các nước khi đi dự thì đều tàn thành, nhưng khi về nước rồi thì một số ngả theo lời kêu gọi Mao Trạch Đông (1893-1976), Trung Quốc, chống lại và gọi đó là “Chủ Nghĩa Xét Lại”. Thế giới CS chính thức chia đôi vì ý thức hệ từ đó.

Đây là một biến cố rất lớn, ảnh hưởng tới đường lối của đảng CSVN vì khi đó tại VN đang sùng bái cá nhân Hồ Chí Minh và diễn ra Cải Cách Ruộng Đất long trời lở đất, giết người rất gay gắt. Nhờ vậy mà vụ giết người dần dần dừng lại, nhận sai lầm…

Nhưng sau khi Lưu Thiếu Kỳ qua VN thì CSVN ngả hẳn theo TQ. Tại Hội Nghị Trung Ương lần thứ IX cuối năm 1963, các ông Lê Duẩn, Lê Đức Thọ và Phạm Hùng đã lên án “Chủ Nghĩa Xét Lại”, đứng về phía Trung Quốc và ra Nghị Quyết 9 (trong bí mật) chủ trương đẩy mạnh công cuộc tiến chiếm miền Nam bằng vũ lực. Những bất đồng trong nội bộ đảng nổ ra năm 1963-64 và tiến tới đợt bắt giữ nhóm thân Liên Xô vào năm 1967.

– Ung Văn Khiêm (1910-1991), khi đó là Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao, bị mất chức vì quy cho là trách nhiệm vụ thảo bản Tuyên Bố Chung năm 1963, với lập trường ủng hộ Liên Xô mà Hồ Chí Minh duyệt rồi ký với lãnh tụ đảng CS Tiệp Khắc Antonín Novotný…

Năm 1967, vụ đàn áp lên cao độ, hàng chục các bộ cấp Chính Trị Bộ, Trung Ương Đảng, Tướng Tá bị bắt không xét xử, hầu hết bị giam cầm đến năm 1973…

Năm 1954, Lê Duẩn lén ở lại trong Nam, năm 1957, Lê Duẩn từ Nam ra Bắc, năm 1960, năm vai trò TBT bên cạnh Chủ Tịch HCM. Duẩn là người đầy uy quyền, xưng tôi với HCM, bài viết đôi khi tỏ ý có cao kiến hơn cả HCM, là điều không thấy ở bất cứ nhân vật cao cấp CS nào khác, mọi người vẫn phải đến xin chỉ thị kể cả khi Duẩn nằm trên giường bệnh và đã tại vị đến chết, sau đó đảng CSVN mới định nhiệm kỳ.

Nhưng từ năm 1972 trở đi, TQ bắt tay với Hoa Kỳ, lạnh nhạt với CSVN nên CSVN quay ra thân mật với Liên Xô. Năm 1979, Lê Duẩn đoạn tuyệt với Trung Quốc, trục xuất khoảng 200.000 người Hoa và đi tới chiến tranh với TQ tại biên giới và trên biển.

– Đại Tướng Văn Tiến Dũng (1917-2002), Ủy Viên Bộ Chính Trị Ban Chấp Hành Trung Ương đảng CSVN, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Nhân Dân, tư lệnh “Chiến Dịch Hồ Chí Minh” chiếm miền Nam năm 1975. Tác giả cuốn “Đại Thắng Mùa Xuân” ra vào tháng 5/1976. Từ tháng 12/1980 đến 1986, ông giữ chức Bộ Trưởng Quốc Phòng. Thuộc phe Lê Duẩn, Lê Đức Thọ.

Vợ là Nguyễn Thị Kỳ (tên thật là Cái Thị Tám), cũng là cán bộ CS. Sau năm 1975, khi nắm quyền tột đỉnh, hai vợ chồng ngang nhiên tham nhũng, dùng cả quân xa của đơn vị H12, H14 thuộc Tổng Cục Hậu Cần cướp tài sản quân đội… miền Nam chở ra Bắc và máy bay vận tải quân sự như Antonov An-24 hay An-26 buôn lậu hàng từ Bắc vào Nam bán cho người Hoa… Năm 1986, trong Đại Hội Đảng Bộ Toàn Quân, Dũng bị chỉ trích là tướng lãnh mà đi buôn lậu gây tai tiếng chưa từng có cho quân đội nên không được bầu làm Đại Biểu Chính Thức đi dự Đại Hội Đảng VI (dù Lê Đức Thọ bênh vực Dũng, đòi bỏ phiếu lại nhưng vẫn không đủ túc số). Ngay sau đó, Dũng mất ghế trong Bộ Chính Trị và mất chức Bộ Trưởng Quốc Phòng. Từ năm đó cho tới khi chết, tuy được coi là một “tướng tài”, không được nắm giữ bất cứ chức vụ nào và hầu như không còn được nhắc nhở tới nữa.

– Thượng Tướng Trần Văn Trà (tên thật là Nguyễn Chấn, 1919-1996), Tư lệnh kiêm Chính ủy Khu Sài Gòn – Chợ Lớn; Tư lệnh Khu 7 (1949-1950); Phó Tư lệnh Nam Bộ, Tư lệnh Phân khu Miền Đông Nam Bộ (1951-1954). Năm 1955, ông tập kết ra Bắc, giữ chức Phó Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Nhân Dân VN (1955-1962), Phó Chủ Nhiệm Tổng Cục Quân Huấn (1958)…

Từ năm 1963, Trần Văn Trà được cử vào Nam làm Tư Lệnh Quân Giải Phóng Miền Nam (1963-1967 và 1973-1975), Phó Tư Lệnh Quân Giải Phóng Miền Nam (1968-1972), Phó Bí Thư Quân Ủy Quân Giải Phóng Miền Nam. Sau Hiệp Định Paris (1973), làm Trưởng Đoàn Đại Biểu Quân Sự Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam tại Ban Liên Hiệp Đình Chiến 4 bên ở Sài Gòn.
Sau 30/4/1975, Trần Văn Trà lảm Chủ Tịch Ủy Ban Quân Quản Sài Gòn. Khi về hưu, tham gia Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ, nhưng sau được đảng phủ dụ nên tách ra. Viết hồi ký “Kết Thúc Cuộc Chiến Tranh 30 Năm” (có ý chê trách trung ương thiếu hiểu biết tình hình thực tế) bị phê bình “qua mặt” trung ương, cấm xuất bản nên chí có ấn bản dở dang.

– Thượng Tướng Nguyễn Nam Khánh (1927-), chính ủy Sư Đoàn 304 Tây Nguyên, Bí Thư Đảng Ủy Sư Đoàn 3, Quân Khu 5, tháng 6/1978, làm Viện Trưởng, Bí Thư Đảng Ủy Học Viện Your browser may not support display of this image.Chính Trị Quân Sự. Từ tháng 4/1979 đến năm 1996, Phó Chủ Nhiệm Tổng Cục Chính Trị Quân Đội Nhân Dân VN, Ủy Viên Quân Ủy Trung Ương…

Đứng tố giác Tổng Cục 2 lợi dụng chức vụ vu oan giá họa các đồng chí cao cấp kể cả Võ Nguyên Giáp… nên bị trù dập.

– Trung Tướng Trần Độ, tên thật là Tạ Ngọc Phách (1923-2002), năm 1946, ở tuổi 23, làm Chính Ủy Mặt Mrận Hà Nội. Năm 1950, làm Chính Ủy Trung đoàn Sông Lô, rồi Chính Ủy Đại Đoàn (SĐ) 312. Năm 1955, Trần Độ lúc 32 tuổi là Chính Ủy Quân khu 3 (Quân Khu Tả Ngạn) và đến năm 1958 được phong hàm Thiếu Tướng, năm 1974, được phong hàm Trung Tướng…

Ông còn làm Phó Chủ Tịch Quốc Hội khóa 7, Chủ Nhiệm Ủy Ban Văn Hóa và Giáo Dục của QH. Ông là Tướng võ kiêm văn, có tư tưởng cải cách, cởi mở. Thời Đổi Mới, “cởi trói” tư tưởng của TBT Nguyễn Văn Linh, ông thuộc Ban Văn Hóa Đảng, là người soạn Nghị Quyết số 5, được Bộ Chính Trị thông qua vào tháng 12/1986, cho phép tự do sáng tạo và sách báo được lưu hành dễ dãi hơn nếu không có nội dung “phản động”… từ đó nhiều tác phẩm bị cấm như của những nhân vật trong Phong Trào Nhân Văn – Giai Phẩm… được tái bản.

Nhưng khi Đông Âu lung lay và phong trào sinh viên xuống đường nổ ra ở Thiên An Môn, đảng CSVN e ngại sụp đổ theo, bắt đầu xiết lại. Tháng 3/1989, trong cuộc họp kỳ 6 của Ban Chấp Hành Trung Ương đảng CSVN, Nguyễn Văn Linh đòi đình chỉ những “cởi trói” trong 3 năm vừa qua. Trần Độ vẫn ủng hộ tiến trình nới lỏng, tạp chí “Phê Bình và Dư Luận” do ông chủ trương, có nội dung đả trích nhà cầm quyền, nên sau khi ra được 1 số thì bị cấm. Trần Độ bị chỉ trích và bị Lê Đức Thọ cách chức, khai trừ năm 1999 (lúc đó 58 tuổi đảng).

Sau viết “Nhật Ký Rồng Rắn” lên án chế độ CS không tiếc lời, bị công an theo tịch thu khi trên đường đi sao ra nhiều bản, nhưng ông còn bản gốc, đã phổ biến khắp nơi, bị cấm xuất bản trong nước. Trong có đoạn: “… Cuộc cách mạng ở Việt Nam đã đập tan và xóa bỏ được một chính quyền thực dân phong kiến, một xã hội nô lệ, mất nước, đói nghèo, nhục nhã. Nhưng lại xây dựng nên một xã hội chưa tốt đẹp, còn nhiều bất công, nhiều tệ nạn, một chính quyền phản dân chủ, chuyên chế, của một chế độ độc đảng và toàn trị, nhiều thói xấu giống như và tệ hơn là trong chế độ cũ…”.

Khi chết tang gia không được đề quân hàm “Trung Tướng”, vòng hoa phúng của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp cũng bị gỡ chữ “Đại Tướng” ra.

– Thiếu Tướng Lê Thiết Hùng, tên thật là Lê Văn Nghiệm, (1908-1986), theo Lê Hồng Phong qua Thái Lan, rồi theo lệnh tổ chức, tham gia quân đội Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch làm tới Đại Tá, 2 lần sang Nhật gặp Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, làm chính trị viên đội vũ trang đầu tiên gồm 12 người, Tư Lệnh Binh Chủng Pháo Binh, Hiệu Trưởng Trường Lục Quân Việt Nam, Cục Trưởng Cục Quân Huấn, Tổng Thanh Tra Quân Đội, là tướng được phong đầu tiên…, bị bắt vì cho là cùng phe Võ Nguyên Giáp.

– Thiếu Tướng Đặng Kim Giang (1910-1983), bị Pháp bắt kết án giam 12 năm tù, Phó Chủ Nhiệm Tổng Cục Hậu Cần Quân Đội NDVN, tham gia trận Điện Biên Phủ 1954, Đại Biểu Quốc Hội, bị bắt giam 6 năm (có lúc cũng tại Hỏa Lò nơi bị Pháp giam) và 7 năm quản chế vì cho là chủ trương chia ruộng đất và khuyến khích tư sản, theo xét lại cùng phe Võ Nguyên Giáp. Năm 1995, tức gần 30 năm sau, bà Nguyễn Thị Mỹ, 77 tuổi, vẫn còn đi khiếu nạn về trường hợp của chồng. Trong thư kêu cứu có đoạn:
Tôi đã có đến ông Lê Đức Thọ và ông Trần Quốc Hoàn. Ông Trần Quốc Hoàn tránh không tiếp. Tôi nói với ông Lê Đức Thọ:

“Anh Giang phạm tội gì mà các anh còng tay, còng chân mang đi? Sao đối xử với nhau tệ thế? Có phải gián điệp của đế quốc không? Nếu phải, đem xử bắn. Mẹ con tôi tán thành”.

Ông Thọ nói:

“Không phải. Đây là cuộc đấu tranh nội bộ, không đem ra xử công khai được. Chị cứ yên tâm. Chúng tôi không bỏ tù nhau đâu. Thuyết phục nó không được, phải dùng biện pháp hành chính. Khi nào nó nghe ra sẽ về thôi. Cửa nhà tôi lúc nào cũng rộng mở. Chị có khó khăn gì cứ đến.”.

Thật ra cánh cửa đó đã vĩnh viễn sập lại sau lưng tôi kể từ ngày đó…

Gần Đại Hội 5, chồng tôi đang bị nhồi máu cơ tim, viết một lá đơn khiếu oan, trình bày khúc chiết vấn đề này, đề nghị Đại Hội cử một tiểu ban kiểm tra lại và có kết luận rõ ràng vì đây là một vụ án lớn nhất từ trước đến nay có liên quan đến nhiều người: có ủy viên Bộ Chính Trị, có ủy viên Trung Ương, có Bộ Thứ Ttrưởng, có Tướng Tá và cán bộ cao cấp…

Lá đơn đó được gửi đến cho các ủy viên Trung Ương Đảng, cho Đại Hội 5, cho Ban Bí Thư, cho Tổng Bí Thư v.v…

Sau đó, tháng 9/1982, chồng tôi lại bị bắt trở lại, “về tội tán phát đơn khiếu nại làm mất uy tín của đảng”. Lần này chồng tôi bị đưa đi giam cầm tại Nam Định 8 tháng…

Chúng tôi có 7 con. Sau khi cha bị buộc tội thì mỗi đứa con một thảm kịch. Đây là một cuộc “tru di tam tộc”…

Từ năm 1980, gia đình Đặng Kim Giang hơn 10 người sống chen chúc trong một túp nhà tranh vách đất rách nát 14 mét vuông… và Giang chết trong khi nước mưa dột rơi vào người.

– Thiếu Tướng Lê Quảng Ba, tên thật là Đàm Văn Mông, dân tộc Tày (1914-1988), nguyên Tư Lệnh đầu tiên Quân Khu Việt Bắc năm 1949, năm 1951, làm Đại Đoàn Trưởng đầu tiên Đại Đoàn 316, bị kết tội cùng phe Hoàng Văn Hoan (?).
– Thiếu Tướng Chánh Thanh Tra Bộ Công An Trần Văn Thanh (1953-, vì tố tham nhũng).

– Ủy Viên Bộ Chính Trị, từng du học Liên Xô 5 năm, Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Văn An (1937-), nhiệm kỳ 2001-2006, phê bình tính mất dân chủ trong đảng, đòi thực thi dân chủ, hình bên.

– Cựu Phó Thủ Tướng CSVN Đoàn Duy Thành (1929-), tác giả cuốn hồi ký “Làm Người Là Khó”, chủ trương làm khoán (bị cho là phạm chính sách, bị Đỗ Mười trù dập). Được coi là thân với Lê Duẩn, khi dự đám tang Lê Duẩn năm 2006, các con của Lê Duẩn đã hỏi ông Đoàn Duy Thành “Họ có giết chúng cháu không!?”.

– Ủy Viên Bộ Chính Trị Trần Xuân Bách, tên thật là Vũ Thiện Tuấn (1924-2006), vì có tư tưởng đổi mới, kêu gọi đa nguyên, đa đảng sau khi đi quan sát sự sụp đổ của Đông Âu, bị khai trừ.

– Hoàng Minh Chính (1920-2008), năm 1947 từng tham gia lãnh đạo trận đánh sân bay Gia Lâm, được đảng CSVN cử làm Tổng Thư Ký đảng Dân Chủ thành lập năm 1944 để tập hợp giới tư sản và trí thức. Năm 1957, được cử sang Liên Xô theo học Trường Đảng Cao Cấp. Năm 1960, về nước, được bổ nhiệm Viện Trưởng Viện Triết Học Mác-Lênin, bị bắt biệt giam 6 năm không xét xử, bị quản chế ở Sơn Tây từ 1973 đến 1976 vì cho là trong nhóm xét lại. Năm 1995, ông Hoàng Minh Chính còn bị kết án 1 năm tù vì tội “lợi dụng quyền tự do dân chủ, xâm phạm lợi ích của nhà nước”. Sau 3 lần bị Thọ bỏ tù mà không khuất phục nổi ý chí của Hoàng Minh Chính, Thọ đã định bí mật thủ tiêu. Ông Chính đã đanh phải thép tuyên bố: “Có bắn thì bắn trước mặt, bắn sau lưng là hèn.”. Tổng cộng ông đã bị 12 năm tù, 9 năm quản chế.

Sau này, khi lên tiếng tranh đấu Dân Chủ và phục hoạt đảng Dân Chủ thì bị trù dập.
Năm 2005, ông qua Hoa Kỳ chữa bệnh, đến phát biểu tại đại học Harvard về đề tài dân chủ cho Việt Nam và điều trần trước Ủy Ban Đối Ngoại Hạ Viện Hoa Kỳ. Tháng 10/2005, trước khi về lại VN, ông có cuộc họp báo tại San Jose, cho hay từng có âm mưu hãm hại HCM, và nhóm ông tìm cách báo tin này cho HCM… Khi về VN, ông bị công an trả thù, cho bọn côn đồ và cựu chiến binh đến nhà chửi rủa và quăng phân…

– Nguyễn Hộ (1916-2009), gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1937. Năm 1940, ông bị nhà cầm quyền Pháp ghép tội kích động đình công ở xưởng đóng tàu Ba Son, bị tuyên án tù 5 năm ở Côn Đảo.
Sau 1975, lãnh đạo Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ, ông nói: Ngày xưa nếu CNCS đã cứu đất nước khỏi ách thực dân, thì bây giờ chính CNTB sẽ cứu đất nước ra khỏi nghèo nàn lạc hậu.

Năm 1989, tổ chức này cũng bị nhà cầm quyền giải tán. Bất bình, ông từ bỏ đảng năm 1991 sau hơn 53 năm trong đảng. Sau đó ông bị bắt và quản thúc tại gia vì tội “chống đảng”.

Ông đưa ra “Giải Pháp Hòa Hợp Hòa Giải” và cuốn sách “Quan Điểm Và Cuộc Sống”. Sách của ông kêu gọi đảng CSVN hãy từ bỏ Chủ Nghĩa Mac-Lênin. Vì vậy ông bị nhà cầm quyền bắt lần thứ 2 năm 1994. Theo ông Việt Nam ở thời điểm năm 2008 chỉ có độc lập chứ không có tự do…

– Nguyễn Văn Trấn (1914-1998), Chính Ủy Bộ Tư Lệnh Khu 9, Năm 1938, ông sáng lập tờ Le Peuple (Dân chúng).

Ngày 25/8/1945, ông lãnh đạo cuộc đảo chính cướp chính quyền ở Sài Gòn. Do có những hành động quyết liệt với các phần tử đối kháng, ông bị gọi là hung thần Chợ Đệm. Có giả thuyết cho rằng Nguyễn Văn Trấn cũng từng là “hung thần”, là một trong 3 người đã thực hiện việc giết Tạ Thu Thâu (1906-1945), 2 người kia là Kiều Đắc Thắng và Nguyễn Văn Tây. Năm 1954, tập kết ra Bắc, trở thành Giảng Viên trường Nguyễn Ái Quốc, rồi Vụ Phó Ban Tuyên Huấn Trung Ương…

Trong những năm cuối đời, ông nghi ngờ về vai trò của đảng CSVN, tham gia Câu Lạc Bộ Những Người Kháng Chiến Cũ và ký vào bản kiến nghị 100 người năm 1988 kêu gọi thay đổi cách thức bầu cử. Ông viết cuốn “Viết Cho Mẹ Và Quốc Hội” nói lên mặt trái của chế độ, bị cấm lưu hành trong nước. Trong cuốn này ông cũng đề cập tới chuyện Lê Đức Thọ muốn thay HCM bằng Tướng Nguyến Chí Thanh…

Năm 1997, ông là một trong 45 nhà văn được Tổ chức Theo dõi nhân quyền (Human Rights Watch) trao giải Hellman/Hammett dành cho các nhà văn bị đàn áp chính trị.

Ngoài ra, bị trù dập còn có Đại Tá Lê Trọng Nghĩa là Cục Trưởng Cục 2, Đại Tá Lê Minh Nghĩa là Chánh Văn Phòng Bộ Quốc Phòng, Đại Tá Đỗ Đức Kiên là Cục Trưởng Cục Tác Chiến, Lê Liêm, Bùi Công Trừng, Hoàng Thế Dũng là Tổng Biên Tập báo Quân Đội Nhân Dân, Minh Tranh là Giám Đốc nhà xuất bản Sự Thật,

Nguyễn Kiến Giang là Phó Giám Đốc nhà xuất bản Sự Thật, Trần Minh Việt là Phó Bí Thư thành ủy Hà Nội, Phạm Viết là Phó Tổng Biên Tập báo Hà Nội Mới, Phạm Kỳ Vân là Phó Tổng Biên Tập tạp chí Học Tập, Trần Thư là Tổng Thư Ký báo Quân Đội Nhân Dân… trong bộ tham mưu của Tướng Giáp. Sau này có Nguyễn Trung Thành, Lê Hồng Hà, Vũ Đình Huỳnh là Bí Thư của HCM (bắt ngày 18/10/1967), Vũ Thư Hiên (con của Vũ Đình Huỳnh), Nguyễn Minh Cần… Rồi Nhóm Nhân Văn – Giai Phầm, thêm nhà văn nhà kiêm biên kịch Hoàng Công Khanh (Vụ Trưởng, Giám Đốc Sở Văn Hóa – Thông Tin Hải Phòng). Và ngay cả Hồ Chí Minh (1890-1969), bị Lê Duẩn và Lê Đức Thọ lấn át, cô lập, cũng chỉ là bù nhìn trong khoảng 10 năm cuối đời…
– – –
Thực ra CSVN không dễ gì giữ thăng bằng khi đi dây giữa hai đàn anh lớn có khuynh hướng trái ngược, nên có lúc ngả hẳn bên này, lúc ngả hẳn bên kia. Hoàng Tùng đã cay đắng phải nói, HCM qua Tàu thì Mao Trạch Đông kéo theo đường lối của Mao, qua Nga thì Stalin kéo theo đưòng lối của Stalin… Viện trợ của hai nước này cho CSVN trong thời chiến vỉ vậy cũng hay gặp trở ngại, nhu lúc thì Trung Quốc hứa mà không viện trợ hay khi viện trợ của Liên Xô đi ngang qua đất Trung Quốc bị chặn lại…
– Thời 1930, theo Đệ Tam Quốc Tế tức Liên Xô.
– Thời 1963, nhóm Lê Duẩn theo Trung Quốc chống chủ nghĩa xét lại.
– Thời 1975, thì theo Liên Xô rồi chống Trung Quốc, năm 1978, cũng chính thời Lê Duẩn đã ký Hiệp Ước An Ninh với Liên Xô, đuổi người Hoa về nước, dẫn đến chiến tranh biên giới 10 năm (1979-1989).
– Thời 1990, khi Liên Xô tan rã, lại quay về với Trung Quốc.
– Thời 2010, bắt đầu căng thẳng với Trung Quốc.

Mỗi lần xoay 180 độ như vậy, trong thượng tầng nội bộ có những bất đồng trầm trọng, phe yếu thế bị trấn áp, dẫn đến chuyện đã có những người tỵ nạn phải tại Liên Xô như Nguyễn Minh Cần, tại Trung Quốc như Hoàng Văn Hoan. Chính trong hàng ngũ CSVN đã phải ta thán, đảng thay đổi đường lối như “phụ nữ thay quần lót”, mỗi lần như vậy, không biết bao nhiêu đảng viên bị trù dập.
– – –
Đối với nhân dân thì đảng CSVN ra tay thực hiện những vụ giết người, cướp của hàng loạt khiến khoảng 3-4 triệu ng ười chết như:
– Phong Trào Sô-viết Nghệ Tĩnh năm 1930.
– Rèn Cán Chỉnh Quân năm 1953.
– Cải Cách Ruộng Đất năm1953-1956.
– Thống Nhất đất nước bằng bạo lực năm 1954-1975.
– Đàn Áp Phong Trào Nhân Văn – Giai Phẩm, năm 1955-1958.
– Cải Tạo Tư Sản – Công Thương Nghiệp Miền Bắc năm 1954.
– Cải Tạo Tư Sản – Công Thương Nghiệp Miền Nam năm 1975

CHÍNH TRỊ LÀ GÌ MÀ TRÔNG SỢ QUÁ!

Binh Dang is with Huong Nguyen.

Ở xứ cộng sản không có chính trị chỉ có TÀ TRỊ

CHÍNH TRỊ LÀ GÌ MÀ TRÔNG SỢ QUÁ!

Bài viết của chị Hồng Lam

Ngay cả chủ tịch nước Trần Đại Quang mà vẫn bị mắc phải căn bệnh hiếm: Vi sút hiếm và độc hại.

Trước đây thì Ông Nguyễn Bá Thanh cũng đã mắc phải căn bệnh độc hại không chữa trị được rồi cũng ra đi.

Và hiện tại thì có Ông Đinh Thế Huynh cũng đang mắc phải căn bệnh độc hại gì đó mà hiện nay không ai biết tin chính xác về Ông.Không biết ông còn sống hay đã ra đi mà chưa công bố.

Tiếp theo con Vi Rút lạ này nó sẽ xâm nhập vào ai đây? Mà sao kỳ lạ quá Vi rút hiếm và độc hại này chỉ xuất hiện tại VN nhỉ?

Image may contain: 2 people
Image may contain: 2 people
Image may contain: 2 people

SINH, LÃO,….LỆNH, TỬ…

Lam Nguyen shared a post.

Cộng sản vô thần coi thường cái chết của con người, và của dân tộc…!!! Hồn thiên sông núi của các dân tộc này lúc nào cũng có chỗ đặc biệt để đón chúng.. Ây dza, không biết bao giờ những kẻ vô thần này mới định thần chứ?!? Không có rau muống ăn vẫn lì như trâu???!!!

Image may contain: 7 people, suit

Amy Truc TranFollow

SINH, LÃO,….LỆNH, TỬ..

Mới hôm 19.09 còn thấy ông khỏe mạnh xuất hiện trên báo chí tiếp các trưởng đoàn tham dự Đại Hội AOSAI 14, vậy mà chỉ 2 ngày sau đã đột ngột “ra đi”. Không khỏi dấy lên câu hỏi: phải chăng ngài chủ tịch nước cs không phải chết theo quy luật của tự nhiên “sinh, lão, bệnh, tử” mà là “sinh, lão….lệnh, tử”. Nghĩa là chết theo “lệnh”??? Đến nay báo chí cộng sản vẫn chưa công khai nguyên nhân cái chết của ông, dân chúng chỉ nghe nói mơ hồ rằng ông nhiễm một loại “virus hiếm”…

Có ai còn lạ gì với kiểu thanh trừng, triệt hạ phe nhóm của đảng cs thực hiện theo lệnh của một thế lực giấu mặt mà thiên hạ đồn rằng là “lệnh của thiên triều”. Không biết sẽ còn bao nhiêu lãnh đạo cs bị chết theo “lệnh”, chết “đúng quy trình”. Âu đó cũng là cái giá phải trả cho cái tội đi theo cộng sản, hãm hại đồng bào.

Nhưng thôi, ông bà mình có câu: “Nghĩa tử là nghĩa tận”, thôi thì cũng mong ông sớm tiêu diêu miền cực lạc.