Xe VinFast lại bị thu hồi ở Mỹ, lộ nguồn gốc linh kiện và kiểu kinh doanh độc hại

Ba’o Nguoi-Viet

December 24, 2024

Sonnie Tran

Cục Quản Lý An Toàn Giao Thông Đường Bộ Quốc Gia Hoa Kỳ (NHTSA) vừa yêu cầu VinFast thu hồi toàn bộ 4,888 xe VF8 đời 2023 đến 2025 nhập khẩu vào Mỹ.

Lệnh triệu hồi này kèm yêu cầu thay thế túi khí trung tâm người lái, do NHTSA phát hiện thiết kế túi khí có khả năng gây nguy hiểm khi xảy ra tai nạn. Cụ thể là nếu xe bị tông vào phía người điều khiển, túi khí có thể bung ra làm bị thương ở tay người lái xe.

Đây không phải là lần đầu xe VinFast bị thu hồi liên quan đến lỗi túi khí. Trước đó vào cuối Tháng Năm 2024, lỗi túi khí được xác định là túi khí trơ dùng cho thử nghiệm, không bảo đảm an toàn cho người sử dụng. Chỉ sau hai năm kinh doanh tại Mỹ, VinFast đã bị thu hồi kỷ lục: ba lần bị thu hồi và 28 báo cáo phàn nàn trên NHTSA.

Báo cáo thu hồi lần này của NHTSA cho thấy túi khí do công ty Ashimori Korea của Bắc Hàn sản xuất. VinFast cũng đã sử dụng nhiều linh kiện và dây chuyền sản xuất từ Trung Quốc để cắt giảm giá thành. Kỹ sư Hazar Denli, cựu kỹ sư của Tata Technologies Limited (TTL), người tham gia thiết kế khung gầm các mẫu xe VinFast VF6 và VF7, đã tố giác rủi ro an toàn của những mẫu xe này lên Ủy Ban Chứng Khoán & Giao Dịch Hoa Kỳ (SEC) và NHTSA, sau khi tiết lộ các vấn đề tương tự trên BBC Anh Quốc.

Ngoài ra, tạp chí The Times của Anh đưa tin một nhân viên khác từng làm việc với Denli xác nhận thông tin VinFast giam lỏng nhân viên qua đêm trong nhà máy để ép họ làm việc thêm giờ, nhằm tăng năng suất. Những thông tin này làm dấy lên nhiều nghi ngờ về nguồn gốc sản xuất, chất lượng sản phẩm và văn hóa doanh nghiệp độc tài của VinFast, dưới sự điều hành bị cho là mang tính độc tài theo phong cách cộng sản.

Những tiết lộ về nguồn gốc sản xuất của xe

VinFast thường xuyên quảng bá mình là hãng xe Việt Nam, với các sản phẩm mang đậm dấu ấn trí tuệ Việt. Tại sự kiện ra mắt mẫu xe VF e34 ở Việt Nam, ông Hoàng Chí Trung, tổng giám đốc VinFast Trading Việt Nam, từng khẳng định “công nghệ thông minh của VinFast dành cho VF e34 là sản phẩm của sự kết nối tinh hoa trí tuệ của gần 2,000 kỹ sư, chuyên gia công nghệ hàng đầu của Việt Nam và thế giới tại các viện nghiên cứu của Vingroup.”

Tuy nhiên, không chỉ sử dụng túi khí từ Bắc Hàn, các linh kiện và dây chuyền sản xuất của xe VinFast cũng có xuất xứ từ Trung Quốc. Theo đó, hồ sơ IPO của công ty LongChuan Design gửi lên Sở Giao Dịch Chứng Khoán Thượng Hải lại tiết lộ một sự thật khác với lời ông Trung. VinFast là khách hàng nước ngoài đầu tiên thuê LongChuan thiết kế và phát triển các dòng xe VF5 và VF e34 theo hình thức chìa khóa trao tay. Điều này có nghĩa LongChuan đảm nhận toàn bộ quá trình thiết kế, phát triển và chuyển giao dây chuyền sản xuất cho VinFast. Hồ sơ IPO còn đề cập đến các công ty TNHH Công nghệ ô tô Yirui Thượng Hải, công ty TNHH Công nghệ mới Yinbaoshan Thâm Quyến, công ty TNHH Khuôn mẫu Huaisheng Thâm Quyến và công ty TNHH Dịch Vụ Kỹ Thuật Ô tô Idida Thượng Hải, những đơn vị cung cấp phụ tùng ô tô, dịch vụ đúc, thử nghiệm và chẩn đoán.

Trang chủ của Longchuan Design thời điểm đó cũng hiển thị logo VinFast, nhưng sau khi sự việc bị tiết lộ, logo này biến mất. Trang hồ sơ IPO ở Ủy Ban Kinh Tế và TM Thượng Hải cũng biến mất sau vài ngày khi có các phát hiện này, bản tin gốc ở Trung Quốc được ai đó yêu cầu xóa, gỡ bỏ. Tuy nhiên, bản lưu trên wikipedia Baidu vẫn còn.

Ngoài ra, dây chuyền sản xuất động cơ của VinFast cũng được chuyển giao bởi Dalian Haosen Hairpin Motor, theo công bố từ chính hãng Trung Quốc trong khi thời gian đầu theo nhiều kênh truyền thông trong nước thì động cơ xe VinFast là từ Bosch. Thông tin từ Volza, ứng dụng tự phục vụ chuyên cung cấp thông tin về thương mại xuất nhập khẩu từ hơn 78 quốc gia, Haosen đã xuất khẩu gần 54% sản phẩm của mình sang Việt Nam, tiếp theo là Ấn Độ và Nga.

Linh kiện radar, một phần trong hệ thống ADAS của VinFast, được Baolong Automotive, Bắc Kinh cung cấp, với số lượng lên tới 200,000 đơn vị, theo công bố trên trang chủ của Baolong, nhiều hơn tổng số xe VinFast đã bán trên toàn cầu.

Hệ thống ADAS được VinFast trang bị cho các dòng xe VF6, VF7, VF8 và VF9. Trước đó, khi mới ra mắt VF8, VinFast giới thiệu hệ thống ADAS của dòng xe này là từ ZF, một nhà cung ứng của Đức.

Theo kỹ sư Hazar Denli chia sẻ trên Reddit, phần lớn các bộ phận của xe VinFast được sản xuất tại Trung Quốc và Ấn Độ. Đáng chú ý, các nhà cung cấp mà VinFast lựa chọn bị đánh giá là có chất lượng kém nhất trong số những nhà cung cấp tệ.

Cụ thể, ống lót (bushes) nối càng chữ A (LCA) với thân xe được sản xuất bởi một nhà cung cấp Trung Quốc chưa từng có kinh nghiệm sản xuất loại linh kiện này, có tuổi thọ chỉ khoảng 10% so với tuổi thọ của xe. Để khắc phục vấn đề độ bền, VinFast tăng độ cứng của ống lót, tuy nhiên điều này lại làm giảm khả năng cách ly rung động và tiếng ồn của xe.

Bộ phận bảo vệ pin cũng chỉ được làm bằng nhôm thông thường, thay vì vật liệu có độ bền cao hơn. Mặc dù điều này có thể không gây vấn đề lớn trong các vụ tai nạn, nhưng lại gây hại nếu xe thường xuyên chạy trên đường có nhiều ổ gà và gờ giảm tốc. Theo Denli, sau khoảng 100 lần va chạm mạnh, pin có thể gặp vấn đề.

Pin của xe cũng bị đánh giá là loại rẻ tiền và kém chất lượng. Rủi ro chính đến từ hệ thống treo khi xe di chuyển qua các địa hình xấu như ổ gà, gờ giảm tốc hoặc khi xe bị bay lên không trung. Hệ thống treo của VF6 và VF7 được thiết kế không tốt do hạn chế về ngân sách và thời gian. Sau khoảng 40,000km, các kết nối giữa giảm xóc và trục bánh xe có thể trở nên lỏng lẻo, gây ra ứng suất mỏi, làm mòn các kết nối pin và tăng nguy cơ cháy nổ. Hiện tại, VinFast sử dụng pin từ ba nhà cung cấp chính là Samsung SDI, Gotion và CATL.

Kỹ sư Denli cũng tiết lộ rằng Chủ tịch VinFast Phạm Nhật Vượng yêu cầu hệ thống treo phải có giá rẻ nhất và thiết kế trong thời gian ngắn kỷ lục. Quá trình thiết kế và mô phỏng hệ thống treo chỉ diễn ra trong vài tháng, mà không có bất kỳ thử nghiệm thực tế nào trước khi đưa vào sản xuất. Trong khi đó, các hãng xe như Jaguar Land Rover hay Mercedes thường mất đến 5 năm để thiết kế, thử nghiệm và khắc phục sự cố. Các hãng này thường có đội ngũ 20-30 kỹ sư chuyên về hệ thống treo, trong khi đội ngũ của VinFast chỉ có 4 người. VinFast đã bỏ qua các bước thử nghiệm cuối cùng để tiết kiệm chi phí và thời gian. Theo hồ sơ IPO của TTL tại Ấn Độ, thời gian hoàn thành chuyển giao chìa khoá trao tay phát triển toàn bộ (turnkey full development service) các dòng xe cho VinFast diễn ra trong thời gian kỷ lục chỉ 22 tháng.

Văn hoá doanh nghiệp độc tài, độc hại kiểu cộng sản

Theo tiết lộ mới nhất của tạp chí The Times (Anh), các kỹ sư làm việc cho công ty TTL,trong đó có kỹ sư Hazar Denli, phải trải qua những ngày tháng “giam lỏng” đầy áp lực trong một nhà máy ở Việt Nam. Họ bị ép buộc phải gấp rút hoàn thành chiếc xe điện được cho là “không an toàn” để kịp tiến độ ra mắt thị trường cho hãng VinFast.

Theo Denli, việc “giam lỏng” này là do VinFast gây áp lực cho nhân viên để đưa xe ra thị trường nhanh chóng. Một nhân viên tố giác khác, yêu cầu The Times giấu tên, cũng cho hay việc giam lỏng thường xuyên xảy ra do quá trình sản xuất quá gấp gáp. Chính Denli cũng chia sẻ cảm nhận về ban lãnh đạo VinFast trên Reddit, mô tả họ “điển hình như kiểu cộng sản… giống như Stalin…”

“Chúng tôi từ Anh sang Việt Nam, đến Hà Nội để giám sát việc chế tạo nguyên mẫu và ông ta nhốt chúng tôi trong tòa nhà, phong tỏa công trường cho đến khi mọi thứ hoàn thành… Ông ta hủy tất cả các chuyến xe buýt, và vì công trường nằm ngoài thành phố, cách ngôi làng gần nhất 2 giờ đi bộ, nên ngay cả khi bạn trốn thoát cũng không có cách nào quay lại… Không ai được về nhà cho đến khi mọi việc xong xuôi… Đó là chế độ nô lệ thời hiện đại… ,” kỹ sư người Anh đã chia sẻ trên Reddit.

Denli cho biết quy trình phát triển xe diễn ra “vội vàng” và các kỹ sư ở Việt Nam thường xuyên bị nhốt trong nhà máy qua đêm để ép họ làm việc liên tục. Một nhân viên khác (không tiết lộ danh tính), cũng xác nhận rằng anh từng bị giam lỏng trong nhà máy vào cuối tuần để tăng năng suất. Tài liệu nội bộ của Tata thừa nhận sự việc này, cho thấy có một nhóm người đã bị nhốt trong nhà máy và ép phải ngủ lại đó.

Tuy nhiên, sau nhiều vụ tai nạn liên tiếp liên quan đến xe VinFast xảy ra, và nhận thấy các lỗi an toàn nghiêm trọng, anh đã quyết định lên tiếng, bày tỏ lo ngại nghiêm trọng về các lỗi an toàn nguy hiểm tiềm ẩn trong những chiếc xe này.

Sau khi lên tiếng, Denli bị JLR, hãng xe Anh Quốc được Tata Group mua lại vào 2008 từ Ford, sa thải. Denli hiện đang tiến hành các thủ tục pháp lý để đòi lại công bằng. Theo luật lao động của Anh, người lao động phần nào được bảo vệ khỏi sự trả đũa của người sử dụng lao động nếu họ tiết lộ thông tin mà họ tin rằng có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe và an toàn của bất kỳ cá nhân nào. Theo đạo luật Tiết Lộ Thông Tin Vì Công Lợi năm 1998, những điều khoản hợp đồng khiến họ phải im lặng đều bị vô hiệu hóa.

Theo BBC Anh Quốc, tài liệu nội bộ có được qua Yêu Cầu Truy Cập Dữ Liệu Cá Nhân (DSAR), sau khi phát hiện các bài đăng trên Reddit của Denli, giám đốc nhân sự của Tata Technologies, ông Patrick Flood, bàn với giám đốc nhân sự và thành viên hội đồng quản trị của JLR, ông Dave Williams, về việc sa thải Denli khỏi JLR.

Ông Flood thông báo với ông Williams rằng khách hàng của Tata Group, là VinFast, tự tiến hành điều tra và xác định Denli là tác giả của các bài đăng trên Reddit. Thậm chí, vào ngày bị sa thải, Denli còn bị đưa vào danh sách đen trên nền tảng tuyển dụng Magnit nên mọi đơn xin việc ông nộp qua hệ thống này tự động bị từ chối. Hành động này cho thấy những lạm quyền trắng trợn, thể hiện bản chất độc tài và sự tàn nhẫn trong cách VinFast đối xử với những người dám đứng lên bảo vệ sự an toàn của người tiêu dùng, sẵn sàng chà đạp lên quyền lợi và sự nghiệp của người khác để bảo vệ lợi ích của mình.

Không chỉ dừng lại ở việc bóc lột sức lao động và trả thù người dám tố cáo, VinFast còn thể hiện rõ bản chất độc tài khi thao túng truyền thông và đàn áp tiếng nói đối lập ngay tại Việt Nam. Một cách trắng trợn, các thông tin bất lợi cho VinFast hoặc Vingroup đều bị kiểm duyệt và gỡ bỏ một cách nhanh chóng trên báo chí Việt Nam, cho thấy rõ sự thao túng và kiểm soát thông tin một cách có hệ thống. Trong khi đó, những bài viết, video ca ngợi xe VinFast lại được lan truyền mạnh mẽ trên các phương tiện truyền thông, tạo ra một bức tranh giả tạo về sự hoàn hảo của sản phẩm và thương hiệu.

Cùng với đó, trên mạng xã hội, các bài viết, bình luận hay video vạch trần sự thật về VinFast cũng thường xuyên bị tấn công và gỡ bỏ. Các trang hội nhóm, cộng đồng Facebook có xuất xứ Việt Nam nếu đăng tải thông tin tiêu cực về VinFast cũng sẽ bị “xóa sổ” chỉ trong vài phút. Như công trình tháp chuông ở nhà ga cáp treo của VinGroup tại cảng Nha Trang bị sập vào sáng ngày 14 tháng Giêng đồng loạt bị gỡ bỏ một cách thần tốc.

Các bài đăng về các vụ tai nạn xe VinFast, hoặc các video xe bị cháy cũng chịu chung số phận. Những hành động này cho thấy sự chuyên chế trong cách VinFast kiểm soát luồng thông tin, không cho phép bất kỳ sự phản biện hay chỉ trích nào. Thậm chí, các tài khoản Facebook thường xuyên cung cấp thông tin bất lợi cho Vingroup và VinFast như Phuong Ngo, Sonnie Tran,… cũng thường xuyên trở thành mục tiêu bị tấn công và vô hiệu hóa.

Tất cả những điều này cho thấy VinFast đã dùng mọi thủ đoạn, từ việc thao túng truyền thông trong nước đến tấn công các tiếng nói phản biện để bưng bít sự thật, vẽ ra một hình ảnh hào nhoáng giả tạo, và trốn tránh trách nhiệm về những sai phạm nghiêm trọng của mình. Đây chính là cách hành xử quen thuộc của các chế độ độc tài, sử dụng quyền lực để chà đạp lên tự do ngôn luận và quyền được tiếp cận thông tin của người dân.

Từ việc sử dụng linh kiện và dây chuyền sản xuất từ các quốc gia cộng sản như Trung Quốc và Bắc Hàn đến việc bắt nhốt nhân viên để ép buộc ra mắt sản phẩm bất chấp an toàn, cùng với việc kiểm duyệt thông tin và đàn áp tiếng nói đối lập, VinFast dưới sự điều hành của ông Phạm Nhật Vượng đang thể hiện một văn hóa kinh doanh độc hại, mang đậm dấu ấn của một chế độ độc tài, bất chấp đạo đức và luật pháp. Những hành vi này không chỉ đe dọa trực tiếp đến tính mạng và sự an toàn của người tiêu dùng, mà còn làm xói mòn niềm tin vào một xã hội công bằng, minh bạch, nơi mà pháp luật được thượng tôn. VinFast đã phơi bày một bộ mặt tăm tối trong cách thức vận hành và quản lý doanh nghiệp, nơi mà lợi nhuận và tiến độ được đặt lên trên tất cả, bất chấp những hậu quả nghiêm trọng đến tính mạng con người và các giá trị đạo đức.

VinFast đang dần trở thành một biểu tượng của sự độc đoán và lạm quyền trong thế giới kinh doanh. Thay vì xây dựng một môi trường làm việc minh bạch và tôn trọng con người, VinFast lại sử dụng các biện pháp chuyên chế, đàn áp để bịt miệng những người dám lên tiếng. Đây không chỉ là một bài học về sự vội vã theo đuổi tham vọng mà còn là một lời cảnh báo nghiêm khắc về sự nguy hiểm của một văn hóa doanh nghiệp độc tài, xem thường các giá trị nhân văn. Thay vì trở thành niềm tự hào của Việt Nam, VinFast đang tự biến mình thành một “chế độ cộng sản thu nhỏ,” nơi mà sự thật và công lý bị bóp nghẹt, chỉ có quyền lực và lợi nhuận được tôn thờ, sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của khách hàng lẫn sự nghiệp của nhân viên để đạt được mục tiêu của mình.

Những tai nạn kinh hoàng gây chết người

Ngày 24 Tháng Mười Hai, một video ghi lại cảnh chiếc VinFast VF9 đang đậu thì tự lùi rất nhanh đến mức cháy bánh và bốc khói nghi ngút trên đường Hậu Giang, quận 6, TP.HCM. Rất may lúc đó trên xe không có người và cửa đã khóa chặt. Theo video được ghi lại, chủ xe phải xử lý bằng cách xịt làm mát vào bánh xe liên tục và phá cửa sổ xe để mở khóa.

Vào giữa Tháng Mười Hai, một sự cố tương tự xảy ra tại tầng hầm tòa nhà Bộ Ngoại Giao, Hà Nội, khi một chiếc VinFast VF9 đang đậu cũng đột ngột lùi và tông vào tường, khi chủ xe – một cán bộ ngoại giao, đã xuống xe. Theo lời kể của chủ xe và biên bản ghi nhận, chiếc xe tự động lùi với tốc độ rất nhanh, bánh xe xoay rít lên đến cháy khói trắng sau khi tông vào tường và phải mất 5-6 tiếng sau mới ngưng. VinFast từ chối đền bù với lý do chủ xe đã thao tác sai khi còn cài dây an toàn, không kéo thắng tay và cài số lùi. Nhưng trong trường hợp này, chủ xe đã ra khỏi xe, và tốc độ xe lùi rất nhanh, chứ không vô tình cài số R như hãng giải thích. Chủ xe đang gửi đơn khởi kiện lên Hiệp Hội Bảo Vệ Người Tiêu Dùng Việt Nam.

Chỉ vài ngày sau vụ trên xảy ra, trên mạng xuất hiện các đoạn clip ghi lại cảnh một chiếc taxi điện GSM VinFast VF5 đang đậu sau khi trả khách đột ngột chạy tới và tông vào chính khách hàng của mình. Theo camera hành trình, tài xế tháo dây an toàn và đang chồm ra hàng ghế sau, không can thiệp vào chân ga. Điều này trái ngược hoàn toàn với lý do VinFast từ chối đền bù cho chủ xe VF9.

Tiếp theo đó, một video khác từ camera nhà dân ghi lại cảnh một chiếc taxi điện VinFast VF5 khác sau khi tài xế dừng xe và xuống mở cửa cho khách, đột ngột lùi rất nhanh và tông vào một người phụ nữ và đứa con nhỏ đang ngồi trên xe máy đậu phía sau.

Tháng Mười Một, tại Đà Lạt, một chiếc taxi điện VinFast VF5 đột ngột tăng tốc và lật nhào, gây ra cái chết cho một bé gái 1 tuổi và làm ba người khác bị thương. Theo lời kể của mẹ bé gái, chiếc xe đang xuống dốc thì đột ngột tăng tốc và lao vào lề đường.

Hồi Tháng Bảy, một vụ tai nạn liên hoàn xảy ra trên cao tốc Hà Nội – Hải Phòng thuộc địa phận tỉnh Hải Dương do chiếc VinFast VF9 gây ra. Nguyên nhân là do một vụ đụng nhẹ trước đó giữa một xe khách và một xe bán tải khiến tài xế và hành khách xuống xe để tranh cãi ngay tại làn đường 120 km/h. Chiếc VF9 lao tới đâm mạnh vào đuôi xe khách, làm hai người chết. Vấn đề đặt ra là liệu các tính năng tránh va chạm và dừng khẩn cấp của hệ thống ADAS trên chiếc VF9 có gặp lỗi gì hay không khi hai xe phía trước đều đang đứng yên.

Cuối Tháng Tư, một vụ tai nạn nghiêm trọng liên quan đến xe VinFast VF8 tại Pleasanton, California đã cướp đi sinh mạng của bốn thành viên trong một gia đình. Chiếc xe đã va chạm với cột điện, sau đó đâm vào một cây sồi lớn, dẫn đến việc xe bốc cháy khiến các nạn nhân không thể thoát ra. NHTSA đang tiến hành điều tra về hệ thống lái của chiếc VF8, sau khi nhận được một số khiếu nại cho rằng tay lái có thể tự động chuyển hướng gây ra tai nạn. Một người bạn của tài xế đã báo cáo rằng chiếc xe trước đó cũng đã gặp sự cố tương tự khi vô lăng tự động di chuyển sang phải.

Những tai nạn liên tiếp này, cùng với các thông tin về nguồn gốc linh kiện từ các quốc gia cộng sản và quá trình phát triển xe, cũng như việc VinFast phớt lờ những cảnh báo về chất lượng và độ an toàn từ đội ngũ kỹ sư như Denli, liệu ai còn dám sử dụng xe VinFast?


 

Xóm đạo Phạm Thế Hiển – Sài Gòn đông nghẹt người đón Giáng sinh

Ba’o Dat – Viet

December 24, 2024

Tối 24/12, không khí Giáng sinh tràn ngập tại xóm đạo Phạm Thế Hiển (Q.8, Sài Gòn), thu hút dòng người từ khắp nơi đổ về. Những con đường vốn yên ắng hàng ngày bỗng chật kín người và xe, tạo nên một bầu không khí rộn ràng, đầy màu sắc của mùa lễ hội.

Vào lúc 19h, tuyến đường Phạm Thế Hiển bắt đầu đông nghịt. Đặc biệt, khu vực giáo xứ Bình Thái ghi nhận tình trạng xe cộ di chuyển chậm, người dân phải nhích từng chút một để tiến lên. Tuy vậy, thời tiết mát mẻ dễ chịu khiến không ai cảm thấy khó chịu, thay vào đó là sự hào hứng hòa mình vào không khí Giáng sinh.

Dọc tuyến đường, các nhà thờ lớn như Bình Thái, Bình An, Bình An Thượng, Bình Thuận, Bình Sơn thu hút đông đảo người dân đến chụp ảnh, tham quan và tận hưởng không khí lễ hội. Những ánh đèn rực rỡ, tiểu cảnh hang đá và cây thông lộng lẫy tạo nên khung cảnh vừa ấm cúng vừa lung linh, mang đến niềm vui cho mọi người.

Để tránh tình trạng ùn tắc, lực lượng chức năng đã có mặt từ sớm để phân luồng và điều tiết giao thông. Sự phối hợp nhịp nhàng của các đội tuần tra giúp đảm bảo người dân di chuyển thuận lợi trong dòng người đông đúc.

Xóm đạo Phạm Thế Hiển – Điểm đến quen thuộc mùa Giáng sinh

Xóm đạo Phạm Thế Hiển từ lâu đã là biểu tượng của mùa Giáng sinh tại Sài Gòn. Với sự đầu tư công phu vào trang trí, từ những dãy đèn đầy sắc màu, cây thông Noel rực rỡ, đến các hang đá mô phỏng sinh động, nơi đây luôn mang lại cảm giác ấm áp và gắn kết.

Sự đông đúc tại xóm đạo vào đêm Giáng sinh không chỉ phản ánh tinh thần lễ hội mà còn khẳng định niềm vui khi mọi người cùng nhau chia sẻ những khoảnh khắc an lành, hạnh phúc trong mùa lễ hội này.


 

Cảm nghiệm của đời mình sau 20 năm bị Stroke vào đúng ngày 24.12.2004-Nguyễn Ngọc Thụ.

Anh Thụ đã gởi gấm cho chúng ta về Lòng yêu thương của Thiên Chúa. Chúa đóng cửa này thì Chúa cũng mở ra cửa khác cho chúng ta sống chứ Chúa không để chúng ta phải quá sức chịu đựng, và dân gian ta thường nói “tái ông mất ngựa”.

Xin cám ơn anh Thụ và mời các bạn đọc tâm tình của anh Nguyễn Ngọc Thụ.

Phung Van Phung

**********

20 năm về trước, vào ngày Giáng sinh 24/12/2004 tại Northern Virginia, con/tôi bị stroke vào nhà thương cấp cứu, ICU/hospital. Hôm đó, con/tôi đi công tác ở Vancouver, Canada và Seattle, WA về đến Washington D.C trời xuống -36 độ lạnh. Lúc con/tôi đi trời ấm như mùa xuân, lúc về buốt lạnh mùa đông. Từ terminal xe bus đưa tôi ra parking lot, không ngờ xe bus đưa tôi ra lộn parking lot. Một tiếng rưỡi lội bộ đi tìm xe dưới nhiệt độ trừ 36 độ âm nhưng tôi không có áo lạnh. Kết quả, tôi bị stroke sau 1-2 với cái shock bất ngờ đó. Một cái stroke rất là nặng tưởng chết, nhưng Chúa và Đức Mẹ đã cứu tôi và cho tôi sống lại một cuộc sống gần gũi với Chúa và Đức Mẹ hơn và được làm nhân chứng cho Chúa.

Biến cố đó, gia đình và người thân và bạn bè đã đến thăm và care cho tôi nhiều lắm. Bố Mẹ và một số người thân, 26 người đã hũy bỏ chuyến đi đến Indonesia/Malaysia/Thailand để chăm sóc cho tôi. Một ngày rưỡi sau, là biến cố Tsunami làm cho 330,000 người đã bỏ mạng ở vùng Indonesia/Malaysia/Thailand, nhưng gia đình tôi đã được Chúa và Đức Mẹ cứu sống, và tôi từ dạo đó tôi chiêm niệm sống gần gũi với Chúa và Đức Mẹ.

Tạ ơn Thiên Chúa đã cứu tôi và gia đình tôi. Tôi bị câm không nói được vài tháng, nhưng rồi trong mội buổi sáng Mai đã cùng tôi cầu nguyện để xin Sáng Danh Chúa, xin Chúa cho tôi được nói lời ca ngợi Chúa. Và Chúa đã nhận lời, cho tôi lần đầu tiên bật lại tiếng là Kinh Lạy Cha và Kính Kính Mừng và tôi đã ca ngợi Chúa và Đức Mẹ đọc hết Chuỗi Mân Côi trong buổi sáng đó, và mỗi ngày từ đó về sau. 40 ngày nằm nhà thương như là mầu nhiệm được vào sa mạc 40 ngày với Chúa.

Ba tháng sau khi bị stroke, tôi đã lập ra một đường dây để thông đạt với các Cha, các Soeurs, các Thầy, các Bác và các Anh Chị thân mến… 20 năm rồi có Ngọc Nga, Kim Hà, Chị Kim Nga, A Roger Phung, A Pham Trung, A Cao Tan Tinh, và các Cha Sáng Lập và Anh Chị Em 

Xin các Đức Giám Mục, các Cha, Thầy, các Soeurs, các Bác và Bố Mẹ, gia đình, người thân và tất cả mọi người cho chúng con/tôi được cám ơn, nhầm ngày kỷ niệm 20 năm tôi bị stroke, tận đáy lòng chúng tôi… một tình yêu mà Thiên Chúa cho kết hiệp.

Xin chúc các Đức Giám Muc, các Cha, các Thầy, các Soeurs, các Bác và Anh Chị đầy Hồng Ân Chúa Cứu Thế và tiếp tục hành trình sống với Chúa.

MERRY CHRISTMAS 2024 AND HAPPY NEW YEAR 2025!

Happy New year to you and your family.

O Holy Night by Andrea Bocelli & Celine Dion

https://youtu.be/Y1oLk54R5Xg

Silent Night – Andre & Rieu

https://youtu.be/RDpWkBi-cr4

Chỉ có một thứ hạnh phúc trên đời này, đó là yêu thương và được yêu thương ~ George Sand


 

Chỉ thị bí mật và các cuộc đàn áp làm tê liệt xã hội dân sự ở Việt Nam

Bài viết của Allegra Mendelson cho chuyên mục Điều tra của RFA
2024.12.21

 (Minh họa bởi Amanda Weisbrod; hình từ Adobe Stock)

Những năm gần đây, Bình đã quen sống trong trạng thái sợ hãi thường trực. Giống như nhiều người làm việc trong lĩnh vực xã hội dân sự ở Việt Nam, người phụ nữ 44 tuổi này luôn ám ảnh rằng: Cô có thể bị bắt giam vào một ngày bất kỳ nào đó, đơn giản chỉ vì đi làm.

“Tất cả mọi người bây giờ đều trở nên cảnh giác” – cô nói với Đài Á Châu Tự Do (RFA) trong một cuộc trao đổi qua điện thoại vào tháng 11 vừa qua. “Những người tôi biết đã bị bắt giữ vì những lý do không rõ ràng”.

Bình, người đã yêu cầu chúng tôi sử dụng tên giả vì lý do an ninh, đã làm việc hơn 20 năm trong lĩnh vực trợ giúp nhân đạo cho một số tổ chức cả trong nước và quốc tế ở Việt Nam. Ở mỗi tổ chức này, cô đều đã tránh được sự dọa nạt và đàn áp của Đảng Cộng sản (ĐCS) cầm quyền ở Việt Nam. Nhưng gần đây, tình hình đã trở nên tồi tệ một cách rõ rệt.

Mặc dù làm việc cho một tổ chức phi chính phủ (NGO) quốc tế, Bình cho hay cứ ba tháng một lần, toàn bộ nhân viên của cơ quan cô thường bị triệu tập lên văn phòng Liên hiệp các Tổ chức Hữu nghị Việt Nam – cơ quan quản lý các tổ chức NGO quốc tế – để được “phỏng vấn”.

“Họ thường hỏi chúng tôi đã đi đâu gần đây và chúng tôi đang làm gì. Điều này rất kỳ cục. Rõ ràng là họ muốn chúng tôi biết là chúng tôi đang bị giám sát” – cô nói.

Bình cho biết, một số lần khác, công an đã theo dõi cô và đồng nghiệp khi họ xuống làm việc tại cơ sở.

Cảnh sát đứng gác bên ngoài các tòa nhà chính phủ ở Hà Nội, ngày 22 tháng 8 năm 2024. (Allegra Mendelson/RFA)

Thậm chí các cơ quan của Liên Hợp Quốc cũng bị “giám sát chặt chẽ” và o ép  – Bình, người có kinh nghiệm cộng tác với một số cơ quan của Liên Hợp Quốc (LHQ), cho biết.

“Có những lúc người ta cắt điện và yêu cầu chủ nhà không cho họ thuê văn phòng nữa” – cô nói.

RFA đã liên lạc với Văn phòng Điều phối viên thường trú của Liên Hợp Quốc tại Việt Nam – nơi quản lý các cơ quan của LHQ  tại Việt Nam – để yêu cầu bình luận về thông tin này nhưng đã không nhận được phản hồi.

Bình đã làm mọi thứ có thể để bảo vệ bản thân và cho đến nay những biện pháp này vẫn tỏ ra có hiệu quả. Tuy nhiên những người khác, trong đó có cả những đồng nghiệp và bạn thân của cô, đã không được may mắn như vậy.

Theo Dự án 88, một tổ chức nhân quyền Việt Nam, trong bốn năm qua, gần một chục nhân viên của các tổ chức NGO đã bị bắt hoặc giam giữ chỉ vì làm công việc của họ. Dự án 88 cũng cho biết ít nhất bốn người trong số này hiện vẫn còn đang bị tù đày cùng với hơn 175 nhà hoạt động khác.

Những cuộc bắt giữ này – nhiều trường hợp được tiến hành với cáo buộc trốn thuế hoặc các cáo buộc khác mà các nhà giám sát luật pháp nói là có động cơ chính trị – là một phần của một cuộc đàn áp rộng lớn hơn do chính phủ tiến hành nhằm hạn chế xã hội dân sự ở Việt Nam.

Hàng loạt các quy định mang tính bóp nghẹt, rất nhiều trong số đó được giấu kín, đã tạo cơ sở cho nỗ lực thắt chặt quyền lực của ĐCS.

Một trong số đó và có thể xem là hà khắc nhất, là Chỉ thị 24 – được ban hành tháng 7/2023. Trong bối cảnh Việt Nam đang gia tăng toàn cầu hóa, văn bản này lại coi tất cả các hoạt động hợp tác với nước ngoài là mối đe dọa đối với an ninh quốc gia.

Chỉ thị bí mật mà Dự án 88 tiếp cận được vào hồi đầu năm 2024 này chưa bao giờ được chính quyền Việt Nam công bố. Văn bản này cung cấp thông tin chi tiết về sự phản đối của nhà cầm quyền Việt Nam với quyền tự do biểu đạt, viện trợ quốc tế, công đoàn và thậm chí với việc đi nước ngoài. Theo giới chuyên gia, tác động của chỉ thị này là việc hình sự hóa một cách hiệu quả các hoạt động vận động chính trị, xã hội.

Tháng 10 vừa qua, chính phủ đã củng cố những biện pháp này bằng Nghị quyết 126 – một văn bản đã bổ sung thêm những hạn chế đối với việc thành lập bất kỳ loại hình hội nhóm nào ở Việt Nam.

Đàn áp được triển khai cùng với chiến dịch chống tham nhũng rộng khắp khiến phần lớn xã hội dân sự rơi vào bế tắc. Bầu không khí sợ hãi gia tăng, vì vậy, các chính trị gia không sẵn sàng thông qua các dự án và kinh phí.

Trong bốn tháng qua, RFA đã trao đổi với hơn một chục nhà hoạt động, nhân viên các tổ chức NGO, các nhà tài trợ quốc tế, các nhà ngoại giao và các chuyên gia để tìm hiểu xem các chỉ thị, mệnh lệnh của chính quyền và các cuộc đàn áp sau đó đã được tăng cường như thế nào và ảnh hưởng của chúng đối với những người làm việc trong lĩnh vực xã hội dân sự ở Việt Nam.

Lo sợ về ảnh hưởng của nước ngoài

Xã hội dân sự không phải lúc nào cũng là mục tiêu đàn áp của chính phủ Việt Nam. Một thập kỷ trước, rất nhiều người đã có cái nhìn lạc quan hơn nhiều.

Nguyễn Tiến Trung, một nhà hoạt động dân chủ hiện sống tại Đức, từng bị bắt vào năm 2009 vì chống đối ĐCS. Ông nói rằng ông được ra tù 5 năm sau đó – vào thời điểm mà sự hỗ trợ đối với xã hội dân sự khác xa so với hiện nay.

“Khi tôi được ra tù vào năm 2014, các tổ chức xã hội dân sự mọc lên như nấm ở Việt Nam. Rất nhiều tổ chức, cả đã đăng ký và không đăng ký [hoạt động] với chính quyền cộng sản Việt Nam, đều hoạt động tự do thoải mái” – ông Trung nói.

Nhà hoạt động Nguyễn Tiến Trung, trong một bức ảnh không ghi ngày tháng. (Trung Nguyen Tien)

Nhưng vào khoảng năm 2016, tình hình bắt đầu thay đổi. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố nghỉ hưu và ông Nguyễn Phú Trọng, người khi đó là Tổng Bí thư ĐCSVN, tái đắc cử cho nhiệm kỳ thứ hai. Ông Trọng đã qua đời vào giữa năm nay.

Không giống như ông Dũng – người tương đối  thiện cảm với xã hội dân sự – ông Trọng có một cách tiếp cận rất khác. Ông không đồng tình với các mối quan hệ nồng ấm, thân thiện mà ông Dũng đã xây dựng với phương Tây và bắt đầu triển khai một loạt các biện pháp để hạn chế ảnh hưởng của nước ngoài.

Việt Nam có mạng lưới các tổ chức hoạt động ở nhiều cấp độ khác nhau, từ các nhóm không chính thức, không đăng ký ở cấp địa phương tới những tổ chức phi chính phủ quốc tế (INGOs) lớn như Save the Children hay Oxfam.

Hầu hết các tổ chức NGO quốc tế đăng ký hoạt động với Bộ Ngoại giao trong khi các tổ chức NGO trong nước lại đăng ký với Bộ Khoa học và Công nghệ. Những biện pháp được đưa ra dưới thời ông Trọng nhắm vào mục tiêu tăng cường sự quản lý giám sát của chính phủ đối với các tổ chức này.

Bắt đầu từ năm 2020, chính phủ Việt Nam đã đưa ra một loạt các nghị định và quyết định để ngăn chặn tiếp cận đối với các nguồn tài trợ nước ngoài và gia tăng việc kiểm soát thông qua cái mà hai báo cáo viên đặc biệt của Liên Hợp Quốc gọi là “những đòi hỏi nặng nề quá đáng” cho các hoạt động.

“Các lãnh đạo ĐCS muốn duy trì sự độc quyền về quyền lực của họ. Họ lo ngại rằng  ảnh hưởng của nước ngoài có thể làm mất ổn định quyền kiểm soát của họ. Các tổ chức NGO quốc tế và các thể nhân/tổ chức nước ngoài thường quảng bá, thúc đẩy các giá trị dân chủ và nhân quyền – điều mà ĐCS xem là những mối đe dọa đối với chế độ độc đảng cầm quyền của mình” –  ông Trung, nhà hoạt động dân chủ nói.

Tuy nhiên, ông cũng lưu ý rằng, các quan ngại đặc biệt tập trung vào những ảnh hưởng của phương Tây trong khi các nước, ví dụ như Trung Quốc và Nga là “những hình mẫu cho Đảng Cộng sản [Việt Nam] noi theo”.

Các  bộ ngành quản lý các tổ chức NGO ở Việt Nam đã không hồi đáp những đề nghị bình luận của RFA cho bài viết này.

Không gian bị bóp nghẹt

Trong môi trường hoạt động này, vô số tổ chức phi chính phủ đã phải đóng cửa trong những năm gần đây.

Trong số đó có Towards Transparencey, một chi nhánh của tổ chức Transparency International toàn cầu, đã phải đóng cửa vào cuối năm 2021 do những quan ngại về an ninh. Không lâu trước đó, chính quyền thành phố Hà Nội đã tước tên miền trang web của tổ chức này – điều mà nhiều người xem là một động thái đe dọa sau khi website này đăng tải một tấm bản đồ thiếu các đảo ở Biển Đông [mà Việt Nam, Trung Quốc và một vài nước trong khu vực] đang tranh chấp chủ quyền.

Hội nghị triển khai Chỉ thị 24, tại Hà Nội ngày 21/12/2023. (Bộ Công an Việt Nam)

Trung tâm Phát triển Cộng đồng LIN – một mạng lưới mang tính đầu mối của 400 tổ chức phi lợi nhuận đã công bố sẽ đóng cửa vào tháng 1/2023 mà không nêu lý do cụ thể và Viện Nghiên cứu và Phát triển Công nghệ (SENA) đã buộc phải giải thể vào tháng 7/2023 – một năm sau khi giám đốc của họ bị bắt và cáo buộc “lợi dụng các quyền tự do dân chủ” vì đã gửi các góp ý xây dựng ĐCS.

Chính quyền cũng nhắm vào các cá nhân, tiêu biểu bằng việc sử dụng luật thuế. Luật lệ xung quanh vấn đề chiếm dụng thuế hiện khá mơ hồ và có thể bị lợi dụng để truy tố bất cứ ai mà chính quyền muốn ngăn chặn – ông Trung nói.

Kết quả là “nỗi sợ hãi bị bắt giữ bởi cáo buộc ‘trốn thuế” đã tạo ra sự cẩn trọng, nếu không muốn nói là sự tê liệt hoàn toàn trong lĩnh vực này” – ông nói.

Một trong những vụ án nổi nổi bật nhất trong những năm gần đây là việc bắt giữ nhà hoạt động môi trường Hoàng Thị Minh Hồng vào tháng 5/2023. Cô đã bị kết án 3 năm tù về tội trốn thuế nhưng đã được thả sớm vào tháng 9 năm nay.

Dự án 88 phát hiện ra rằng “Chính phủ Việt Nam có truyền thống sử dụng cáo buộc trốn thuế để truy tố những người bất đồng chính kiến mà họ không thể buộc tội một cách thuyết phục theo các điều khoản về an ninh quốc gia của Bộ luật Hình sự.”

Ông Nguyễn Quang A – một nhà hoạt động nhân quyền nổi bật ở Việt Nam đồng thời là cựu Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển đã giải thể – nói với RFA rằng ông đã bị bắt về tội trốn thuế “ít nhất bốn hay năm lần” nhưng lý do đó thực ra luôn là cái vỏ bọc cho các vấn đề liên quan đến bất đồng chính kiến.

Ông Nguyễn Văn Bình, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Việt Nam. (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Việt Nam)

Các luật khác cũng đã được vũ khí hóa. Tháng 4 năm nay, ông Nguyễn Văn Bình, khi đó là Vụ trưởng Vụ Pháp chế của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, đã bị bắt và truy tố vì bị cho là đã tiết lộ bí mật nhà nước.

Ông đã nỗ lực hỗ trợ nhằm mang đến cho người lao động quyền được thành lập công đoàn – một loại hình tổ chức vốn bị cấm ở Việt Nam trừ một ngoại lệ là công đoàn trực thuộc nhà nước.

Ông Bình được xem là “đồng minh” của các tổ chức như Stitch – một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan hoạt động trong lĩnh vực về quyền lao động ở Việt Nam. Việc ông bị bắt giữ được xem là “một tín hiệu cho thấy hướng mà ông đã đi không phải hướng để đi” – một nguồn tin cấp cao quen thuộc với tổ chức này nói.

Sau khi ông Bình bị bắt giữ, Stitch đã dừng hoạt động ở Việt Nam.

“Người ta cũng lo sợ về những tác động tiêu cực vì tín hiệu đó là dành cho những người liên quan đến Stitch” – nguồn tin này cho biết.

Chiến dịch Đốt lò

Những sự đàn áp này chỉ là một mảng thách thức mà các tổ chức NGO ở Việt Nam phải đối mặt và vượt qua. Đốt lò – chiến dịch chống tham nhũng gây nhiều tranh cãi đã khiến việc có được sự phê duyệt của chính phủ đối với các tổ chức  xã hội dân sự trở nên khó hơn bao giờ hết, trong tất cả các vấn đề từ đi lại cho đến kinh phí.

Các cảnh sát chờ đợi bên ngoài một đồn cảnh sát ở trung tâm Hà Nội, ngày 17 tháng 8 năm 2024. (Allegra Mendelson/RFA)

Kể từ khi chiến dịch này được phát động vào năm 2013, chính phủ Việt Nam đã nỗ lực kiểm tra, bắt giữ các quan chức ở tất cả các cấp, bao gồm cả các thành viên cấp cao của Bộ Chính trị và các bộ trong chính phủ. Tính đến năm 2023, gần 200.000 đảng viên đã bị kỷ luật trong khuôn khổ chiến dịch này.

Mặc dù chiến dịch này đã đưa Việt Nam từ vị trí 113 lên vị trí 83 về Chỉ số Cảm nhận Tham nhũng nhưng nó cũng làm đóng băng cả những hoạt động hợp pháp – các nhà vận động chính sách cho biết.

“Các quan chức không rõ là những hoạt động nào có thể khiến ai đó gặp rắc rối. Vì thế, tất cả mọi người đều luôn đề cao cảnh giác” – ông Minh, một nhà hoạt động lâu năm phát biểu. Ông cũng đã yêu cầu chúng tôi sử dụng tên giả vì lý do an toàn.

“Tác động lớn nhất của chiến dịch chống tham nhũng là các quan chức chính phủ không muốn làm việc nữa, họ không muốn ủng hộ, tạo điều kiện cho xã hội dân sự. Họ thường giữ im lặng vì nói không thì dễ dàng hơn”.

Điều đó có nghĩa là trong 3 năm gần đây, Việt Nam đã đánh mất khoảng 2,5 tỷ USD viện trợ nước ngoài. Một tỷ USD nữa hiện đang chờ được thông qua.

Phần lớn tài trợ đó đã được dành cho những thứ như các dự án phát triển và cơ sở hạ tầng, trong đó các cơ quan của Liên Hợp Quốc hoặc Liên minh Châu Âu (EU) đôi khi hợp tác với các tổ chức trong nước của Việt Nam.

Một người từng là nhà tài trợ phương Tây cao cấp nói với RFA rằng rất nhiều tổ chức trong nước “không còn muốn nhận tiền [tài trợ của] nước ngoài vì việc này mang đến quá nhiều rủi ro” và do đó, họ buộc phải thu hẹp quy mô hoạt động.

Tìm kiếm những giải pháp thay thế

Để hoạt động, các nhóm xã hội dân sự đã tìm đến một số giải pháp. Một trong những giải pháp này là đăng ký hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp xã hội – một dạng kết hợp giữa tổ chức từ thiện và doanh nghiệp hoạt động vì lợi nhuận – thay vì là một tổ chức phi chính phủ. Cách này đã giúp một số tổ chức hoạt động dễ dàng hơn nhưng điều đó cũng có nghĩa là họ phải trả nhiều thuế hơn.

“Họ không trực tiếp hối lộ chính phủ nhưng dành rất nhiều tiền của, công sức để vun đắp các mối quan hệ đó để tránh các vấn đề [có thể xảy ra]” – ông Bình nói.

Nhưng sự thanh thản, yên bình có được những lựa chọn này không phải là lý tưởng và nhiều khả năng chỉ mang tính tạm thời. Những người làm việc trong khu vực xã hội dân sự ở Việt Nam lo lắng rằng môi trường hoạt động của họ sẽ tiếp tục tồi tệ hơn.

Sau khi ông Trọng qua đời vào tháng 7 năm nay, người kế nhiệm ông là ông Tô Lâm – một cán bộ lâu năm của Đảng đồng thời đã giữ những vị trí cấp cao trong chính phủ trong nhiều thập kỷ.

Ở cương vị Bộ trưởng Bộ Công an, ông đã thực hiện nhiều hoạt động đàn áp đối với các tổ chức xã hội dân sự, trong đó có việc sử dụng tội danh trốn thuế như một cách để bịt miệng người bất đồng chính kiến.

“Ông Tô Lâm đã làm cả đời trong ngành công an. Ông ta coi tất cả các tổ chức không nằm dưới sự kiểm soát của ĐCS là những kẻ thù tiềm năng” – ông Trung, nhà hoạt động dân chủ nói.

“Tôi không nghi ngờ việc ông ấy sẽ tiếp tục đàn áp các phong trào dân chủ và dân sự xã hội” – ông Trung dự đoán.

Biên tập bởi Abby Seiff và Boer Deng.


 

CSVN bước vào kỷ nguyên mới với tư duy rừng xanh?-Đặng Đình Mạnh

Ba’o Nguoi-Viet

December 22, 2024

Chuyện Vỉa Hè

Đặng Đình Mạnh

Sau năm tháng nắm giữ chức vụ tổng bí thư đảng, không ngày nào mà truyền thông trong nước không lên tiếng ca ngợi ông Tô Lâm, mặc cho quá khứ của ông ấy hãi hùng đến như thế nào đi nữa.

Nào là bảo kê cho thương vụ tham nhũng AVG hàng ngàn tỷ đồng, nào là tổ chức bắt cóc quốc tế từ Đức, Thái Lan, nào là huy động 3,000 công an tấn công đẫm máu vào dân làng Đồng Tâm. Nào là đàn áp khốc liệt với mọi người dân yêu cầu về tự do, dân chủ và nhân quyền, nào là sinh hoạt xa hoa ăn bò dát vàng giữa hoàn cảnh đất nước khó khăn vì dịch giã COVID-19 gây tử vong hơn 40 nghìn đồng bào…

Tô Lâm khi còn là bộ trưởng Công An ăn thịt bò dát vàng tại London, Anh Quốc, do chính chủ nhà hàng là đầu bếp Nusr-Et đút tận mồm. (Hình: chụp lại từ Tiktok)

Mà ca ngợi thế kể cũng tài, khi ông Tô Lâm không đưa ra quyết sách gì mới? Ông ấy chỉ nhắc lại những vấn đề mang tính di sản tồi tệ mà các tổng bí thư tiền nhiệm đã từng nhắc đến, nhưng vô trách nhiệm vì nói mà không làm, hoặc bất lực không làm được. Để bây giờ trở thành vấn đề của người đương nhiệm.

Bên cạnh đó, sự ca ngợi ông Tô Lâm về những vấn đề cũ rích đó, chẳng phải là truyền thông Cộng Sản đang mắng xéo các tổng bí thư tiền nhiệm như Nguyễn Phú Trọng, Nông Đức Mạnh, Lê Khả Phiêu, Đỗ Mười… đã vô trách nhiệm, hoặc bất lực hay sao?

Kể cả vấn đề đang nóng bỏng hiện nay về thực hành tiếp kiệm, chống lãng phí thông qua tinh giản bộ máy chính quyền cũng vậy. Điều đáng lưu ý nhất khi đề cập đến vấn đề tinh giản bộ máy chính quyền, ông Tô Lâm lại sử dụng cụm từ “Vừa chạy vừa xếp hàng” trong bài viết với tựa đề “Tinh – Gọn – Mạnh – Hiệu năng – Hiệu lực – Hiệu quả” đã có thể làm nhiều người bối rối.

Khôi hài hơn, khi truyền thông Cộng Sản công khai nịnh bợ ông Tô Lâm khi ca ngợi cụm từ này “không chỉ đơn thuần là một phép ẩn dụ ngôn từ mà còn hàm chứa một tư duy lãnh đạo, điều hành sắc bén, linh hoạt và hiệu quả, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam đang dốc sức đổi mới, hội nhập và phát triển. Hình ảnh ẩn dụ này thể hiện một triết lý hành động, một nghệ thuật lãnh đạo đòi hỏi sự cân bằng tinh tế giữa tốc độ và trật tự, giữa sự năng động đổi mới và nền tảng ổn định vững chắc” [*].

Thật ra, nói ông Tô Lâm là tác giả cụm từ “vừa chạy vừa xếp hàng” là một sự thậm xưng. Vì lẽ, chúng đã có từ rất lâu, trễ nhất cũng phải từ năm 1954, khi ông Tô Lâm còn chưa được quấn tã vào đời.

Vì lẽ, năm 1954, thực hiện theo Hiệp Định Genever, lực lượng Cộng Sản ở miền Nam phải tập kết xuống tàu ra miền Bắc để chờ thống nhất tổng tuyển cử sau hai năm. Thực tế, Cộng Sản đã chủ trương vi phạm Hiệp Định Genever ngay từ đầu bằng cách để lại nhiều cán binh Cộng Sản ở lại miền Nam. Một phần sống công khai tại các đô thị, phần khác thì vào R (mật danh của chiến khu Cộng Sản trong rừng) tiếp tục hoạt động chống phá chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.

Trong hoàn cảnh tại R, hoạt động bí mật, Cộng Sản không thể tuyển dụng nhân sự một cách công khai được. Mà có người nào sử dụng người đó. Công việc được giao phó theo cách áng chừng về khả năng, học lực, quá trình cống hiến… Từ đó mới ra đời cụm từ “vừa chạy vừa xếp hàng,” để ám chỉ cách quản lý, phân công mang tính cách tạm thời trong điều kiện hoạt động bí mật. Đến một thời điểm định kỳ, sẽ tiến hành đánh giá lại khả năng từng người để điều phối, hợp lý hóa dần về nhân sự theo thời gian.

Cho thấy, “vừa chạy vừa xếp hàng” chỉ là cung cách quản lý nhân sự bất đắc dĩ, phải vận dụng trong hoàn cảnh khó khăn của Cộng Sản trong thời chiến mà thôi. Dĩ nhiên, cung cách này mang tính may rủi, vì có thể người được giao phó công việc lại không có chuyên môn, trình độ phù hợp.

Trong hoàn cảnh hiện nay, việc đặt ra chủ trương tinh giản đã phản ảnh tình trạng dư thừa về nhân sự trong bộ máy hành chính. Phải giảm nhân sự để giảm chi phí cho ngân sách quốc gia. Theo đó, lẽ ra tình trạng dư thừa nhân sự như vậy là điều kiện thuận lợi cho việc tuyển chọn nhân sự có tài năng, đức độ, mẫn cán để giữ lại làm việc. Chứ không thể bằng cách thức “vừa chạy vừa xếp hàng” đầy may rủi như thuở còn trong rừng như thế được, khiến cho người có khả năng bị xếp vào đối tượng bị thải loại, còn kẻ bất tài lại được giữ lại làm việc.

Chưa kể, việc ca ngợi, tô hồng ông Tô Lâm như là tác giả của ý tưởng “vừa chạy vừa xếp hàng” là đang đi vào vết xe đổ “cầm nhầm” tri thức của ông Hồ Chí Minh trong câu nói “vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người.”

Thật vậy, nếu bây giờ chúng ta đặt từ khóa “vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người” vào ô tìm kiếm của trang Google, thì chưa đầy một giây sau, cái trang web ấy sẽ cho bạn hàng trăm nghìn kết quả mà đa phần trong số đó cũng đều cho rằng ông Hồ Chí Minh là tác giả.

Trong số ấy, có trang <xaydungdang.org.vn> khẳng định nguồn gốc hai câu ấy được ông Hồ Chí Minh dùng mở đầu bài nói tại lớp học chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc ngày 13 Tháng Chín, 1958. Sau đó, được đăng trên báo Nhân Dân số 1645, ngày 14 Tháng Chín, 1958.

Tương tự, trang <tapchicongsan.org.vn> đăng lá thư của ông Nguyễn Phú Trọng gởi cho Hội Khuyến Học Việt Nam nhân dịp kỷ niệm 15 năm ngày thành lập của hội này, thư có đoạn viết: “…Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh ‘vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người’” (trích).

Thậm chí, hai câu nêu trên đã trở thành đề thi trong các trường học, kể cả các trường trung hay cao cấp về chính trị …

Thật ra, câu nói trên chỉ là dịch nôm từ ý tưởng của Quản Trọng (sinh-725, mất-645), một bậc kỳ tài về chính trị và quân sự của đất nước Trung Hoa vào thời Xuân Thu, nguyên gốc như sau: “Nhứt niên chi kế mạc như thụ cốc; Thập niên chi kế mạc như thụ mộc; Chung thân chi kế mạc như thụ nhân; Nhứt thu nhứt hoạch giả, cốc dã; Nhứt thu thập hoạch giả, mộc dã; Nhứt thu bách hoạch giả, nhơn dã.”

Dịch nôm:

Kế một năm, chi bằng trồng lúa; Kế 10 năm, chi bằng trồng cây; Kế trọn đời, chi bằng trồng người; Trồng một, gặt một, ấy là lúa; Trồng một, gặt mười, ấy là cây; Trồng một, gặt trăm, ấy là người.

Vừa leo lên ghế tổng bí thư được hơn hai tuần lễ, ông Tô Lâm vội vã sang Trung Quốc gặp Chủ Tịch Tập Cận Bình. (Hình: Andres Casares/AFP/Getty Images)

Thậm chí, chính ông Tô Lâm có vẻ cũng không biết và vẫn tiếp tục “cầm nhầm” ý tưởng này, đưa vào bài diễn văn đọc vào sáng ngày 23 Tháng Chín, 2024, tại trường Đại Học Columbia trong chuyến công du Hoa Kỳ, như sau: “Chủ Tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, cũng luôn nhấn mạnh tầm nhìn ‘vì lợi ích trăm năm trồng người.’”

Tóm lại, mang tư duy trong rừng, trong thời chiến, để áp dụng vào chính sách nhân sự trong thời bình, đang dôi thừa nhân sự là một giải pháp không hề chuyên nghiệp. Không xứng đáng với một chính quyền của quốc gia có cả hàng trăm triệu dân. Trong đó, truyền thông thay vì phê phán, giúp chế độ nhìn nhận, đánh giá lại cho đúng vấn đề lại đi ca ngợi, tô hồng như một phát minh vĩ đại, kể cả ý tưởng “cầm nhầm” từ lịch sử?!

Khốn khổ cho dân tộc này, người lãnh đạo mang tư duy từ tận rừng xanh, lại đang sử dụng chúng để đưa dân tộc này “Bước vào kỷ nguyên mới”! Thật là mông muội và hoang đường.


 

Dự thảo Cáo trạng chế độ độc tài-Đặng Đình Mạnh

Ba’o Tieng Dan

Đặng Đình Mạnh

22-12-2024

Đảng có lực lượng công an lớn nhất thế giới, nhưng không giữ được sự bình yên cho cuộc sống nhân dân.

Đảng có hệ thống truyền thông phủ khắp tỉnh thành, nhưng nhân dân không được thông tin về sự thật.

Đảng xây dựng nhà tù liên tục, nhưng không nhốt hết được bọn đảng viên tham nhũng.

Đảng có tòa án, viện kiểm sát đầy đủ, nhưng không thể mang đến công lý cho nhân dân ngoài sự oan khiên, bất công chồng chất.

Đảng nói kinh tế liên tục tăng trưởng, nhưng hàng loạt cửa hàng đóng cửa treo bảng cho thuê, hàng chợ ế ẩm, nhân dân thất nghiệp làn lan.

Đảng rao giảng đạo đức nhiều hơn ai hết, nhưng số đảng viên tha hóa, hủ hóa, tham nhũng, tham ô nhiều gấp bội so với nhân dân.

Đảng nói đảng viên là thành phần ưu tú của nhân dân, nhưng số đảng viên phạm tội ở tù, bị kỷ luật nhiều hơn cả nhân dân.

Đảng nói mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, nhưng đảng viên và người giàu có phạm pháp lại được châm chước hưởng hình phạt nhẹ nhàng so với người dân.

Đảng nói chống tham nhũng không có vùng cấm, nhưng đảng viên cao cấp phạm pháp bị kỷ luật thì đảng lại chỉ thông báo chung chung, mơ hồ.

Đảng nói đất nước phải thực hành tiếp kiệm, chống lãng phí, nhưng đảng lại làm lơ cho đảng viên sinh hoạt xa hoa ăn bò dát vàng.

Đảng nói muốn làm bạn với thế giới, nhưng lại tổ chức bắt cóc quốc tế mang người từ nước ngoài về Việt Nam và tấn công tình dục liên tục vào công dân nước người ta.

Đảng in tiêu đề “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” trên mọi văn bản, nhưng lại đàn áp quyền tự do của nhân dân một cách khốc liệt.

Đảng nói “Mọi quyền lực thuộc về nhân dân”, nhưng đảng giành hết quyền lực để tự tung tự tác.

Đảng nói “Nhân dân làm chủ đất nước”, nhưng đảng không cho nhân dân quyền quyết định bất cứ vấn đề gì.

Đảng chủ trương tinh giản bộ máy chính quyền, nhưng lại không động gì đến Bộ Công an đang có nhân sự cao nhất và xài tiền ngân sách nhiều nhất trong cả nước.

Đảng nói “thế nước đang lên”, nhưng nhân dân khắp nơi phải xuất khẩu lao động, vượt biên đi làm thuê cho khắp thế giới.

Đảng nói “chưa bao giờ cơ đồ đất nước được như thế này”, nhưng lãnh đạo công du ở đâu cũng xin xỏ họ hết cái này đến cái khác.

Đảng nói đồng bào hải ngoại là “khúc ruột nghìn dặm”, nhưng cấm cửa không cho về quê hương nếu có chính kiến khác với đảng.

Đảng kêu gọi hòa giải, hòa hợp dân tộc, nhưng lại bỏ rất nhiều tiền để tổ chức rầm rộ dịp 30/04 hạ nhục đồng bào.

Đảng ca ngợi đồng bào hải ngoại gởi kiều hối về duy trì chế độ độc tài, nhưng lại dung dưỡng cho đám dư luận viên mạt sát đồng bào hải ngoại là “Neo tộc”, “Đu càng”…

Đảng cho rằng mình nắm quyền lãnh đạo là nhờ lịch sử giao phó và nhân dân ủng hộ, nhưng lại kém tự tin đến mức không dám tổ chức bầu cử tự do.

Đảng nói cần đến hàng trăm nghìn tỷ đồng để chấn hưng văn hóa, nhưng lại bỏ tiền ra nuôi hàng vạn Dư luận viên chửi bới, thô tục vô văn hóa khắp nơi trên mạng xã hội.

Đảng nói mình là đại diện trung thành của giai cấp công nhân, nhưng thực chất không có ai trong số lãnh đạo cao cấp xuất thân từ công nhân cả.

Đảng nói “Đảng không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của nhân dân”, nhưng bao nhiêu lợi ích của nhân dân đảng cướp sạch.

Đảng nói cán bộ là đầy tớ của nhân dân, nhưng thực ra nhân dân bị cán bộ hành như con thú.

Đảng nói phải chăm sóc cho thế hệ trẻ vì chúng là tiền đồ đất nước, thực ra đảng chỉ chăm lo cho con em đảng viên cao cấp và xem chúng là hồng phúc dân tộc.

Đảng kêu gọi nhân dân đóng góp ý kiến xây dựng chính quyền, nhưng khi nhân dân có ý kiến thì đảng còng tay nhân dân bỏ tù.

Đảng nói láo nhiều đến mức tôi không thể nhớ hết, đồng bào giúp bổ sung…


 

CSVN Khởi Tố Ông Nguyễn Thanh Huy Theo Điều 331 Vì Đăng Tải Nội Dung Trên Facebook

Ba’o Dat Viet

December 22, 2024

Công an huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận, ngày 20/12 đã ra quyết định khởi tố bị can và cấm đi khỏi nơi cư trú đối với ông Nguyễn Thanh Huy, 58 tuổi, với cáo buộc “lợi dụng quyền tự do dân chủ” theo Điều 331 Bộ luật Hình sự.

Cáo Buộc Và Hành Vi Được Nêu

Theo báo Công an Nhân dân, ông Huy bị cáo buộc sử dụng hai tài khoản Facebook có tên “Huy Nguyenthanh (Ông dở)” và “Nguyen Nguyenhuy (Huy khờ)” để đăng tải, chia sẻ và bình luận các nội dung được cho là “sai sự thật, xuyên tạc, vu khống” và “xúc phạm uy tín của tổ chức Đảng, lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam, cũng như lãnh đạo Đảng và Nhà nước” từ năm 2022 đến nay.

Tuy nhiên, các bài báo thuộc truyền thông Nhà nước không công bố chi tiết nội dung cụ thể của các bài viết bị cho là vi phạm hoặc các cá nhân, tổ chức cụ thể bị xúc phạm. Các bài viết chỉ nói rằng ông Huy đã “thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội.” Hiện cơ quan công an đang tiếp tục củng cố hồ sơ để xử lý vụ án.

Hoạt Động Trên Mạng Xã Hội Của Ông Nguyễn Thanh Huy

Theo tìm hiểu từ các nguồn thông tin, tài khoản Facebook “Nguyen Nguyenhuy (Huy khờ)” có khoảng 1.200 người theo dõi, với nội dung thường xuyên đề cập đến nhiều chủ đề khác nhau. Một số bài viết phê phán các tổ chức, cá nhân như VinFast, các nhà sư Thích Nhật Từ, Thích Chân Quang, và một số nhân vật văn nghệ sĩ. Đồng thời, ông cũng có những bài viết ca ngợi khất sĩ Thích Minh Tuệ và chế độ Việt Nam Cộng Hòa.

Chủ tài khoản tự mô tả mình là “phó thường dân tại thất nghiệp” trong phần thông tin cá nhân. Các bài đăng trên cả hai tài khoản Facebook được cho là của ông Huy đều kết thúc vào đầu tháng 7/2024.

Điều 331 Và Xu Hướng Xử Lý Người Dùng Facebook

Điều 331 Bộ luật Hình sự Việt Nam, với nội dung quy định tội “lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân,” đã trở thành một công cụ pháp lý thường được sử dụng để xử lý những người dùng mạng xã hội có ý kiến chỉ trích chính phủ.

Bên cạnh Điều 117 về “tuyên truyền chống Nhà nước,” Điều 331 thường được viện dẫn trong các vụ án liên quan đến việc sử dụng Facebook để đăng tải hoặc chia sẻ nội dung bị cho là trái với quan điểm của chính quyền. Theo thống kê từ Đài Á Châu Tự Do (RFA), tính từ đầu năm 2024 đến nay, ít nhất 18 người đã bị bắt với cáo buộc “lợi dụng quyền tự do dân chủ,” và ít nhất 12 người đã bị kết án với mức án từ 30 tháng đến 5 năm tù.

Bối Cảnh Và Tác Động

Việc khởi tố ông Nguyễn Thanh Huy diễn ra trong bối cảnh chính quyền Việt Nam ngày càng siết chặt việc quản lý không gian mạng, đặc biệt là các ý kiến trái chiều hoặc chỉ trích chính sách, lãnh đạo Nhà nước trên các nền tảng mạng xã hội như Facebook.

Trong nhiều năm qua, việc sử dụng Điều 331 để xử lý các vụ án tương tự đã dấy lên nhiều chỉ trích từ các tổ chức nhân quyền quốc tế. Các tổ chức này cho rằng Điều 331 mang tính chất mơ hồ, dễ bị lạm dụng để đàn áp tiếng nói bất đồng chính kiến và hạn chế quyền tự do biểu đạt, một quyền đã được ghi nhận trong Hiến pháp Việt Nam cũng như Công ước Quốc tế về Các Quyền Dân sự và Chính trị (ICCPR) mà Việt Nam là thành viên.

Dư luận trong và ngoài nước tiếp tục theo dõi diễn biến vụ việc và cách thức xử lý của chính quyền, trong bối cảnh các quy định về kiểm soát mạng xã hội tại Việt Nam ngày càng chặt chẽ hơn.


 

Thay trời hành đạo và xã hội mất niềm tin-Dương Quốc Chính

Ba’o Tieng Dan

Dương Quốc Chính

21-12-2024

Vấn đề xã hội nhức nhối ở vụ đốt quán [cafe] là ở Việt Nam bây giờ có không ít người không còn tin vào pháp luật, nên sẵn sàng thế thiên hành đạo. Gặp vấn đề, cảm thấy bị ức hiếp, bất công, là tự xử luôn. Ngày xưa thì Đoàn Văn Vươn, rồi tổ đồng thuận ở Đồng Tâm, trước khi có biến cố xảy ra họ đã live stream tuyên bố sẵn sàng cho nổ chỗ nọ, chỗ kia.

Chưa bàn bên nào đúng, bên nào sai, có bị ức hiếp, bất công hay không. Nhưng chỉ thấy rằng rất nhiều người không còn tin vào sự nghiêm minh của pháp luật.

Người giàu, có quyền thế, khi gặp vấn đề với pháp luật thì việc đầu tiên là nghĩ tới chạy chọt, chạy công an, thậm chí chạy án. Hồi xưa, khi anh Năm Cam còn trị vì trong Sài Gòn, “dân oan” có chuyện thì kêu tới anh Năm xử lý! Vì anh nuôi luôn cả công an rồi.

Nhiều người khác, biết chắc mình đúng luật, nhưng có chuyện phải báo công an, thì vẫn phải chạy tiền thêm, để công an làm đúng luật và nhanh hơn! Điển hình như chuyện công an mà tìm thấy xe bị mất cắp, đến nhận xe thì cũng phải cưa tiền. Thường 50/50. Coi như vẫn mất nửa chiếc.

Còn dân đen, không có tiền chạy, thì thôi xác định nhịn nhục cho qua, nếu gặp vấn đề với kẻ mạnh. Không thì chọn cách khủng bố như người vừa rồi. Như ông ta kể là bị đánh, ‘cay’ quá nên đốt nhà người ta.

Tất nhiên bị đánh mà báo thù bằng đốt nhà thì đương nhiên vẫn là sai và rất sai khi hậu quả nghiêm trọng. Nhưng cũng phải nhìn lại, tại sao người ta bị đánh lại không báo công an mà lại chọn cách đốt nhà rửa hận, y chang như trong Thủy Hử và rất hay gặp trong giới giang hồ. Đó là vì một bộ phận không nhỏ trong xã hội mất niềm tin vào pháp luật. Một phần do nhận thức pháp luật của người ta còn hạn chế.

Thành phần như ông nghi phạm kia thì giờ nhiều vô kể, quán nước đầu ngõ nào chả có dăm ông. Bản chất là thất nghiệp, trộm vặt, đa phần là nghiện, có thể kiêm xe ôm (nhưng giờ thất nghiệp vì Grab) và lô đề. Suốt ngày lê la quán nước, tiện đâu sơ hở thì trộm cắp mánh mung.

Một số ông “giác ngộ cách mạng” chút thì đi làm dân quân dẹp chợ, bảo vệ, trông xe, nhưng bản chất vẫn là giang hồ vặt. Thành phần này nói chung đều sẵn sàng có phản ứng như ông nghi phạm kia, không có gì lạ cả. Đều là hung thủ dự khuyết cả nếu gặp chuyện, anh em cứ thử va chạm với họ mà xem, nhẹ nhất là va chạm giao thông, mình gặp nhiều rồi, nếu mình cũng máu chó thì chắc cũng lên báo đôi lần. Có khi còn chưa va quệt đã chửi đm biết bố mày là ai không? Nếu đối phương cũng cùng hệ là án mạng xảy ra rồi.

Cái video ông ta hớn hở chém gió khoe chiến tích đốt nhà với công an phường (?): “Anh đổ xăng từ ngoài vào, cậu hiểu không?”, rồi cười hềnh hệch. Khả năng là do ông ta đốt xong là đi đầu thú luôn chưa kịp biết hậu quả, công an phường cũng chưa biết, nên giọng kể chuyện đúng giọng quán nước đầu ngõ, không lệch tý nào, chưa hề biết sợ đâu.

Kẻ ác và ngu phải trả giá là tất nhiên. Nhưng về mặt xã hội cũng cần nhìn lại tại sao lại có chuyện đó? Liệu điều đó còn tiếp tục xảy ra? Trước đây đã có vụ lên báo là có nhà hát karaoke to quá, hàng xóm bảo không được nên quăng chai xăng vào đốt.

Nhà mình đối diện dãy quán nhậu, bên kia sông, anh em nhậu đến 12h đêm xong rồi hát karaoke ông ổng, rồi 1-2-3 dô, 1-2-3 uống, có hôm thì thấy công an đi gọi loa nhắc nhở, có hôm không thấy, nó cũng kệ. Lúc đó mà có can xăng, có khi mình cũng đốt quán kia, vì không ngủ được! Mình vốn kỳ thị đồng bào đã hát không hay lại còn hay hát to, lại còn nửa đêm! Công an có dẹp được bọn nó đâu, chắc vì cũng làm luật cả rồi.

Chung quy cũng là vì pháp luật cả.


 

Williams bổ sung đơn kiện dày 338 trang, chính thức đòi Đàm Vĩnh Hưng ‘xin lỗi’

Ba’o Nguoi-Viet

December 20, 2024

SANTA ANA, California (NV) – Ông Gerard Richard Williams III, một đại gia công nghệ ở Newport Coast, California, vừa bổ sung đơn kiện ngược ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng, dài tổng cộng 338 trang, hôm 9 Tháng Mười Hai, chính thức đòi ca sĩ này “một lời xin lỗi, được ghi vào hồ sơ tòa.”

Trước đó, ông Williams nộp đơn dài 35 trang, kiện ngược ông Đàm Vĩnh Hưng (tên trong đơn kiện là Hưng Huỳnh), cư dân Huntington Beach, tội bất cẩn, và đòi bồi thẩm đoàn xử như sau:

Số 3 là phần bổ sung của ông Gerard Richard Williams III trong đơn kiện ngược ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng: “Một lời xin lỗi từ bị đơn, được ghi vào hồ sơ tòa, để đền bù cho thiệt hại mà bị đơn gây ra đối với danh dự của nguyên đơn và những người thân gần xa trong gia đình.” (Hình: Chụp từ đơn kiện của nguyên đơn Williams)

1-Ông Gerard Williams phải được ông Đàm Vĩnh Hưng bồi thường $1 vì làm cho ông phải chịu đựng những thiệt hại.

2-Với sự công bằng và theo luật pháp, ông Gerard Williams phải được bồi thường các chi phí một cách hợp lý, bao gồm những thứ khác, với giá trị giảm xuống còn $1.

3-Những biện pháp trợ giúp khác mà tòa án có thể cho là công bằng và thích hợp.

Đơn kiện bổ sung dài 338 của nguyên đơn đòi bồi thẩm đoàn xử bị đơn như sau (có thêm đoạn in chữ đậm):

1-Ông Gerard Williams phải được ông Đàm Vĩnh Hưng bồi thường $1 vì làm cho ông phải chịu đựng những thiệt hại.

2-Với sự công bằng và theo luật pháp, ông Gerard Williams phải được bồi thường các chi phí một cách hợp lý, bao gồm những thứ khác, với giá trị giảm xuống còn $1.

3-Một lời xin lỗi từ bị đơn, được ghi vào hồ sơ tòa, để đền bù cho thiệt hại mà bị đơn gây ra đối với danh dự của nguyên đơn và những người thân gần xa trong gia đình.

4-Những biện pháp trợ giúp khác mà tòa án có thể cho là công bằng và thích hợp.

Ngoài những gì được ghi trong đơn kiện lúc chưa bổ sung, trong 303 trang còn lại của đơn kiện mới bổ sung, nguyên đơn Williams trưng bày nhiều hình ảnh các show diễn của ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng, poster của các show diễn, những gì ca sĩ viết trên Facebook, sân khấu ca nhạc ở nhà ông hôm 19 Tháng Hai (ngày xảy ra tai nạn làm ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng bị cắt mấy ngón chân), mâm vòi nước mà ca sĩ này nhảy lên ngồi nên bị sập, tình trạng hôn nhân của ca sĩ, và các hình ảnh chi tiết khác liên quan đến sự việc…

Theo dự trù, vụ kiện mà ông Williams là nguyên đơn và ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng là bị đơn sẽ được tòa xử vào ngày 24 Tháng Mười Một, 2025, theo hồ sơ.

Hôm 31 Tháng Mười, ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng nộp đơn ở Tòa Thượng Thẩm California ở Orange County, kiện ông Williams “vì trong lúc biểu diễn ở nhà ông này (hôm 19 Tháng Hai), mâm vòi nước bị sập, ca sĩ này bị thương, bị cắt vài ngón chân.”

Ông Hưng đòi ông Williams bồi thường thiệt hại vì “bất cẩn và vì trách nhiệm pháp lý của chủ nhà” và đòi bồi thường “tất cả chi phí y tế trong quá khứ cũng như tương lai và các chi phí phát sinh, tất cả thiệt hại thu nhập và khả năng tạo ra thu nhập trong quá khứ và tương lai, tất cả thiệt hại không mang tính kinh tế trong quá khứ và tương lai, thiệt hại hoặc mất mát tài sản cá nhân do vụ này gây ra, và trả tiền luật sư phí vụ kiện.”

Theo dự trù, vụ kiện sẽ được đưa ra xử ngày 16 Tháng Sáu, 2025. Tuy nhiên, đến ngày 2 Tháng Mười Hai, ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng viết trên trang Facebook cá nhân cho biết là vừa “rút đơn kiện và khẳng định không tái kiện một lần nào nữa” đối với ông Gerard Richard Williams.

Cũng ngày hôm đó, ông Williams nộp đơn kiện ngược ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng, nhưng sau ông Hưng khoảng 3 giờ, hồ sơ tòa cho thấy như vậy.

Tuy vậy, sự việc sau đó xoay chuyển vô cùng rắc rối, vì ngày 16 Tháng Mười Hai, Tòa Thượng Thẩm California để cho đơn kiện của ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng “sống lại,” sau khi đồng ý yêu cầu của ca sĩ này xin hủy việc rút đơn kiện ông Williams trước đó, hồ sơ tòa án cho thấy như vậy.

Như vậy, tính đến nay, có hai đơn kiện song song ở tòa án, một của ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng nộp ngày 31 Tháng Mười (dài tám trang), và một của ông Williams nộp ngày 2 Tháng Mười Hai (dài 35 trang) và được bổ sung lần thứ nhất vào ngày 9 Tháng Mười Hai (dài tổng cộng 338 trang).

Mâm bồn nước bị sập sau khi tai nạn xảy ra tại nhà ông Gerard Richard Williams III. (Hình: Chụp từ đơn kiện của nguyên đơn Williams)

Ông Williams hiện là phó giám đốc cao cấp phụ trách kỹ thuật của Qualcomm từ Tháng Ba, 2021. Trước đó, ông là đồng sáng lập, chủ tịch, và tổng giám đốc công ty NUVIA, trước khi Qualcomm mua công ty với giá $1.4 tỷ.

Ngày 7 Tháng Tám, 2019, công ty Apple kiện ông Williams vi phạm hợp đồng khi âm mưu thành lập NUVIA và lôi kéo các đồng nghiệp làm việc ở Apple để thành lập công ty mới của ông.

Apple tố cáo ông Williams làm những việc này trong lúc đang làm cho công ty ở Cupertino.

Lúc đó, ông Williams là người quản trị thiết kế bộ phận xử lý thông tin điện thoại di động của Apple trong hơn một thập niên.

Ông Williams cho rằng những giới hạn này không thể thực hiện được theo luật California.

Tuy nhiên, trong khi ông Williams không thể thuyết phục tòa án bỏ vụ kiện này, Apple lại không thấy có lợi gì nếu tiếp tục kiện ông.

Ngày 26 Tháng Tư, 2023, các luật sư của Apple nộp đơn xin hủy vụ kiện.

Trong đơn, Apple không lý giải vì sao muốn hủy vụ kiện, và cũng không ai biết vì sao đại công ty sản xuất điện thoại lại làm vậy.

Về Đàm Vĩnh Hưng, hồi năm 2010, khi đang hát ở San Jose, ca sĩ này bị ông Lý Tống, một nhà đấu tranh trong cộng đồng Việt Nam, xịt hơi cay. Sau đó, ông Lý Tống bị tòa xử tù sáu tháng. (Đ.D.)


 

VÔ LƯƠNG TÂM…-HUUPHUBTN

8 SÀI GÒN

Tôi đã từng đọc rất nhiều lời khen ngợi trên mạng xã hội khi hình ảnh một cháu bé qua đường quay lại cúi chào người lạ lúc nhận được sự hỗ trợ; Những lời có cánh cho một hành vi lan tỏa sự yêu thương như cho đi một bó rau của một người cùng khổ… Tại sao vậy?!

Vì xã hội chúng ta đang sống quá thiếu vắng tình thương, lòng nhân ái, sự lương thiện… cái mà chúng ta vẫn thường gọi là LƯƠNG TÂM! Vậy nên những hành vi nhỏ nhặt, tưởng chừng như bình thường ấy đột nhiên trở nên cao cả, vĩ đại, vượt khỏi sự bình thường mà mọi người thường thấy.

Những hành vi mà chúng ta vẫn thường gặp trong xã hội hiện nay trong mối quan hệ giữa người với người là: Sự chà đạp, trấn áp, lừa đảo để trục lợi bằng bất cứ giá nào; Đi đường va chạm nhau thì sẵn sàng hành hung bất chấp hậu quả; Mâu thuẫn trong hành xử, giao thiệp thì sẵn sàng giết nhau chẳng vì lý do gì nghiêm trọng và xem điều đó là bình thường…

Còn nhớ, hồi chúng tôi học tiểu học tại Sài Gòn trước năm 1975, chúng tôi luôn được dạy phải lễ phép, khiêm nhường, kính trên nhường dưới, đi dạ về thưa, ra đường gặp rác thì phải nhặt bỏ vô thùng rác, gặp người cao tuổi qua đường thì phải đến giúp đỡ, đi ngang đám ma thì phải ngã mũ cúi chào, nghe tiếng Quốc ca thì phải đứng nghiêm chào cờ xong mới được đi…

Trong chương trình học tiểu học của chúng tôi có hẳn những tiết học về những hành vi cao thượng để làm gương, noi theo, mà giáo trình chính thức là những câu chuyện trong tác phẩm “Những tấm lòng cao thượng” của dịch giả Hà Mai Anh, trong đó có đầy đủ các thể loại của tình yêu, tính nhân văn, nhân bản…

Trước năm 1975, tại Sài Gòn, những hành vi bộc lộ sự nhân ái, nhân văn, nhân bản trong xã hội không hiếm, không làm ai kinh ngạc vì nó quá bình thường. Có lần, tôi cùng bố tôi đi bộ trên vỉa hè đại lộ Chi Lăng, tỉnh Gia Định (đoạn ngay trường vẽ) , thấy một bà cụ xách giỏ chuẩn bị qua đường, tôi vội chạy đến sốt sắng giúp dắt bà cụ qua… Xong, tôi đứng luôn bên kia đường, vẫy tay kêu bố tôi sang dắt tôi quay lại vì tôi… chưa biết đi qua đường, thực chất lần qua đường trước đó là bà cụ dắt tôi qua.

Chẳng ai khen ngợi tôi bởi tôi đã dũng cảm thực hiện một hành vi tốt ngay trên đường phố, trừ bố tôi!

Sau năm 1975, chúng tôi không còn được học về những tấm lòng, những hành vi cao thượng nữa, thay vào đó là những bài học, câu chuyện về chiến tranh, giết chóc, khủng bố, lòng căm thù… và được trui rèn lòng hiếu chiến, sự hung hăng, tính quyết liệt, triệt để trong những “chiến dịch”, những lần “ra quân” của những phong trào giành cho lứa tuổi của chúng tôi…

Dần dần, tôi quen với với việc người ta hành xử với nhau ưu tiên bằng bạo lực trong bối cảnh xã hội chung lúc bấy giờ. Đến nỗi, khi mâu thuẫn với nhau trong xóm ở tuổi tiệm cận thanh niên (16 tuổi), tôi từng cầm dao chặt đá rượt một đối thủ của tôi để chém với quyết tâm chém cho nó chết, để “thị uy”, “dằn mặt”, để “chứng tỏ”… May mà tôi rượt không kịp thằng đó. Nếu không, thì…

Lớn lên, tốt nghiệp đại học, đi làm báo, tôi vẫn không hề biết sợ ai, sẵn sàng “máu đổi bằng máu” khi đối đầu… cho đến khi tôi gặp một sự vụ tác động mạnh đến tôi: Hôm đó, tôi nhận được tin báo từ Công an phường Bến Thành cho biết chợ Bến Thành vừa xảy ra một vụ án mạng, nạn nhân là người nước ngoài. Đến nơi, tôi mới biết nạn nhân là một cô gái trẻ người Tây da trắng, con của vợ chồng một Tổng lãnh sự sứ quán tại TP.HCM vừa mới qua Việt Nam chơi thăm cha mẹ, đi chợ Bến Thành mua sắm thì gặp sự cố chết người. Cô gái bị một tên giựt đồ giựt túi xách trong lúc đang dạo chợ, đôi bên giằng co nhau và tên cướp quay lại dùng dao đâm một nhát chết luôn cô gái. Nhìn tên cướp mặt lạnh tanh, vô nhân tính, không hề hối hận ngồi bệt dưới đất bị còng vô ghế của công an phường, rồi nhìn cảnh bà mẹ phu nhân Tổng lãnh sự quán khóc nấc đầy oan ức trước thi thể con mình… Tôi chợt hiểu ra lẽ được -mất trong cuộc đời, cái giá của sự vô lương tâm, của một xã hội thiếu vắng lòng nhân ái, tính nhân văn. Bắt và trừng phạt kịch khung gã giết người máu lạnh đó có làm cho xã hội tốt hơn lên, có trả lại được sinh mạng của cô gái trẻ, đền bù sự mất mát không thể cứu vãn của cha mẹ nạn nhân?

Từ đó trở đi, tôi không bao giờ hành xử bằng bạo lực nữa, dù có những lúc phải kềm chế tới mức đắng ngắt cả lòng!

Thật may, là tôi đã được học “Những tấm lòng cao thượng” hồi tiểu học và được lớn lên trong một gia đình trí thức.

Lúc chúng tôi được học những bài học về tính chiến đấu, sự căm thù… trong trường học, thì chắc gã thủ ác trong vụ đổ xăng đốt chết 11 người trong quán cà phê ở Hà Nội đang làm chấn động dư luận, rúng động xã hội hôm nay chỉ mới vừa qua lớp vỡ lòng, vì y kém tôi đến 7 tuổi!

Nhìn gã giết người ngồi kể lại nguyên nhân, quá trình thủ ác của mình một cách hết sức hồn nhiên, bình thản trong trụ sở công an phường… một lần nữa tôi lại sợ hãi và cay đắng khi nghĩ về tương lai. Xã hội nào đã tạo ra những con người như thế?!

19.12.2024

HUUPHUBTN

#8saigon


 

Việc thi cử của các triều vua Việt Nam-Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Tieng Dan

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

19/12/2024

Khung cảnh trường thi ngày xưa

Nước ta có 20 thế kỷ chữ Hán từ thời Bắc thuộc. Có 10 thế kỷ chữ Nôm đánh dấu thời kỳ tự chủ bắt đầu từ thế kỷ 10 và khi bước sang thế kỷ 18-19 là thời kỳ toàn thịnh của chữ Nôm, lấn át chữ Hán với Hịch Tây Sơn, sau đó đến Truyện Kìều. Việc thi cử vì thế cũng dựa trên cái đà phát triển của chữ Nôm và chữ Hán.

Việc thi cử ở nước ta mới có từ gần ngàn năm nay. Trước đó, khoa cử còn thiếu, các đời Đinh Lê về trước, trong việc kén hiền tài tuyển chọn người chỉ là tuỳ tiện không câu nệ cũng không theo phép tắc gì cả. Kể từ năm 1072, đời Lý mới mở khoa thi để tuyển chọn người có tài ra giúp nước. Con đường tìm người tài giỏi, trước hết là khoa mục, phàm muốn thu hút người tài năng, thì người làm vua một nước không thể nào không có khoa cử. (1)

Khoa cử chẳng những cung cấp nhân tài, người giúp vua trị nước mà còn là vốn quý cho văn học có cơ phát triển. Dẫn chứng cụ thể là vào những thế kỷ 10-12 chúng ta có được 50 tác giả làm thơ văn thì đa số là các nhà sư như Viên chiêu thiền sư (998-1090) Diệu nhân ni sư, Mãn giác thiền sư (1051-1096). Pháp Bảo, Không lộ thiền sư, Quảng nghiêm thiền sư vv… Nhưng khi mà thi cử đã phát triển với nhiều nhân tài, nhiều tiến sĩ thì chính các nho sĩ này sẽ là những nhà văn, nhà thơ. Vì vậy, ở thế kỷ 13-14 đã có trên 60 tác giả mà hầu hết là giới nho sĩ. Sang đến thế kỷ 15 thì đã có trên 80 tác giả mà đa số là các nho sĩ đã thi đỗ, vượt xa tất cả các thế kỷ từ trước tới nay. Đồng thời văn học vừa có tính cách đa dạng, với đủ mọi loại đề tài, đủ các thể loại khác nhau. Xem như thế thì, có sự phát triển đồng bộ giữa văn học và thi cử. (2)

Trong bài này chúng tôi tìm hiểu việc thi cử dựa trên những số liệu mà chúng tôi có được theo khảo hướng thống kê để từ đó rút ra được những ý nghĩa, những giải thích xét ra phần nào giúp chúng ta có được một số ý tưởng nòng cốt của việc thi cử ở Việt Nam.

Nói chung thì con đường cử nghiệp không phải là con đường bằng phẳng. Nhiều sĩ tử vướng mắc vào vòng thi cử đã lao đao lận đận cả đời. Ông nội Ngô Tất Tố chỉ đỗ tú tài sau khi đã lận đận 7 lần khoa thi hương. Đến ông thân sinh ra ông Tố thì đã trải qua 6 lần lều chõng. Đến lượt ông Tố thì 2 lần thi hương không đậu. Đến kỳ thi sát hạch ở Bắc Ninh, ông đỗ đầu nên người ta mới gọi ông là Đầu xứ Tố. Lúc đó ông mới 22 tuổi. Việc thi cử thật trần ai, vạn người thi, không lấy được trăm người đỗ nên đã để lại nỗi chán chường, tủi nhục và nước mắt thể hiện qua thi ca.

Không phải là thưà khi nhắc lại trường hợp Trần Kế Xương than thở trong bài phú Hỏng thi của ông:

Đau quá đòn hằn rát hơn lửa bỏng.
Tủi bút, tủi nghiên, hổ lều, hổ chõng.

Hoặc của một sĩ tử vô danh thị:

Than ôi, ai biết chăng ai, hỏng ôi là hỏng

Việc khoa cử khen ai khéo đặt, lừa anh hùng đến đầu bạc chưa thôi, áng công danh là số phận không lường, trêu sĩ tử dẫu gan vàng cũng núng.

Và mỗi lần thi rớt, còn mặt mũi nào nhìn vợ, nhìn con, bị người đời coi là hạng vô danh hạ sĩ.

Cũng vì vậy mà trong suốt gần ngàn năm, khi có thi cử, kể từ đời Lý nhân Tông (1072-1076), chúng ta chỉ lược kê ra được một vài nhân tài, mà tài năng xuất chúng không đợi tuổi.

Năm 1247, đỗ trạng nguyên có Nguyễn Hiền, người thuộc huyện Thượng Hiền, thuộc phủ Xuân Trường, tỉnh Hànam Ninh ngày nay. Ông Hiền lúc đó mới có 13 tuổi. Điều này cũng chứng tỏ triều đình đã tuyển chọn người tài mà không cần xét đến tuổi tác, già trẻ. Đó là một ưu diểm.

Ông Nguyễn Trãi đã đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ), khoa Canh Thìn, lúc 20 tuổi và sau đó được bổ làm quan giữ chức ngự sử. Hoặc trường hợp Hội nguyên, Đình nguyên Hoàng giáp Ngô thì Sĩ vào năm Cảnh Hưng thứ 27 (1766), ông này kể từ khi thi tam trưòng đến thi hội rồi thi Đình cũng đều đỗ đầu. Và đó cũng là trường hợp cụ Nguyễn Khuyến, mà ta thường gọi cụ là Tam nguyên Yên Đổ. Hoặc trường hợp đặc biệt có cha, em và hai con cùng thi đậu trong đó cha là Ngô Thúc Định, đậu lúc 19 tuổi và con là Ngô Quán. Em là Ngô Trọng Nhạ đậu lúc 16 tuổi. Ngô Trọng Nhạ, Ngô Thúc Định, Ngô Mạnh Nghinh đậu cùng một khoa Duy Tân 1915. (3)

Nhìn chung về kết quả các cuộc thi

Ngoại trừ một vài trường hợp đặc biệt vừa nêu trên, việc thi cử thật ra là cực kỳ khó khăn mà dựa trên những con số chúng tôi nêu ra đây làm chúng ta bất nhẫn, nghĩ tới số phận của không biết bao nhiêu sĩ tữ đã để ra cả đời học hành mà số phận long đong với cử nghiệp.

Theo Quốc triều hương khoa lục của Cụ Cao Xuân Dục thì trưòng Thi Hương ở Huế trong suốt 105 năm có 42 khoa thi hương, có được 1263 cử nhân. Sở dĩ dưới triều Nguyễn, số khoa thi Hội và Đình ít hơn, vì Gia Long đã không cho tổ chức kỳ thi này, Khoa thi hương đầu tiên tại Huế là năm 1813. Cho mãi đến năm 1822 (Nhâm Ngọ) dưới thời Minh Mạng mới có khoa thi hội. Về điểm này,chúng tôi thắc mắc tại sao Gia long lại không tổ chức thi hội. Ngay năm 1803, vừa lên ngôi một năm, Gia Long đã lập nhà Quốc học ở Huế, thiết lập các chức đốc học ở tỉnh, giáo thọ, huấn đạo ở các phủ huyện.                                   4) Rõ ràng là muốn mở mang, phát triển việc học để đào tạo nhân tài. Vậy tại sao không mở các kỳ thi hội. Có thể suy đóan, ông ngại hay nghi ngờ những tài năng xuất chúng. Một điều rõ ràng, dưới triều Nguyễn đã bãi bỏ chức trạng nguyên.

Căn cứ vào sách Lịch triều hiến chương loại chí thì dưới đời Lý, Lê, nhất là đời Hồng Đức, số người đỗ tiến sĩ rất cao, có những năm như Hồng đức thứ 9 (1478), lấy đỗ tiến sĩ 62 người, Hồng đức thứ 15, lấy đỗ 60 người, Hồng Đức thứ 21 (1490) 54 người.

Nhận xét về điểm này Đỗ Nhuận viết vào năm 1484: Việc lớn trong chính trị của Đế Vương, chẳng gì gấp bằng NHÂN TÀI. Chế độ của nhà nước muốn được kỹ càng, tất phải đợi ở Hậu Thánh (Các vua nối nghiệp về sau). (5)

Trước kia 6 năm một khoa thi, nay theo chế độ nhà Chu, định lệ 3 năm một khoa. Trước kia lấy đỗ chẳng qua vài ba chục người, nay lấy rộng người thực tài, không lo bội số. Với một tinh thần như thế, chúng ta sẽ cắt nghĩa làm sao những con số những người đỗ tiến sĩ dưới triều Nguyễn. Chẳng nhẽ sau cả gần 300 năm mà tinh thần thi cử dưới triều Nguyễn lại tỏ ra lạc hậu hơn các vua đời nhà Lê ? Vì vậy thi cử thịnh hành nhất là thời Hồng Đức.

Cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người Công Bằng đời sau càng không thể theo kịp.

Chọn người cốt lấy rộng học thực tài, Không hạn định ở khuôn khổ mực thước. Trong nước, không để sót nhân tài, triều đình không dùng lầm người kém (LTHCLC).

Cho nên, để tưởng thưởng xứng đáng những người tài giỏi, kể từ năm 1442, bắt đầu dựng bia tiến sĩ. Và ra luật lệ cấm 2 loại người sau đây không được phép ứng thi:

-Người bất hiếu, bất mục, lọan luân, điêu toa, dẫu có học vấn văn chương cũng không được vào thi.

-Những người làm nghề hát xướng, nghịch đảng, và có tiếng xấu thì bản thân và con cháu không được thi.

Nghĩa là một người ra làm quan thì phải vừa có tài, vừa có đức. Nhưng đức là điều kiện tiên quyết cho việc ra làm quan.

Trong việc thi cử mà nếu gian lận thì suốt đời không được đi thi. Đến thi hội mà gian lận thì phải xử tội đồ, và suốt đời không được đi thi và không được bổ dụng. Nhà vua phán: Phép cấm không nghiêm thì không trừ được thói gian dối, chọn lọc không tinh thì không lấy đựợc người thực tài.

Trường hợp ông Đào Duy Từ (1572-1634), vì là con một nhà hát bội nên đi thi hương đã bị đánh hỏng, ông phẫn chí bèn rời bỏ quê hương ở đằng ngoài, thuộc chúa Trịnh đi vào đằng Trong thuộc chúa Nguyễn để tìm đường tiến thân. (6)

Tính cách Chính trị của Khoa Cử.

Cũng dựa vào các con số, chúng tôi thấy các khoa thi không tiến hành đúng theo quy định 3 năm một lần như trong thời Minh Mạng đã quy định. Thi Hương thường được tổ chức vào mùa thu trong năm, rơi vào các năm tý, ngọ, mão, dậu. Thi hội vào mùa xuân trong các năm sửu, mùi, thìn, tuất… Nhưng lại có khá nhiều ân khoa. Như tại Huế, trong suốt 105 năm, có tổ chức 42 khoa thi, thì có đến 9 ân khoa rồi. Có nhiều lý do để cắt nghiã về các ân khoa này, có thể để ăn mừng lễ vạn thọ khánh tiết, hoặc để ăn mừng lễ đăng quang vua mới, hoặc nhằm kêu gọi sự hợp tác của nhà nho ở vào những thời điểm mà uy tín cửa triều đình đang xuống dốc, chẳng hạn sau cuộc rút quân dưới thời Thiệu Trị ra khỏi Cao Mên. Ý nghĩa của các ân khoa như vậy rõ ràng đi xa khỏi mục tiêu tuyển chọn nhân tài để cho thấy rõ khiá cạnh chính trị chen vào. Chẳng khác gì, nhân ngày lễ thả tù nhân thì đâu còn màng tới vấn đề công lý, vấn đề xã hội nữa. Chẳng hạn, năm 1848 (Tự Đức thứ 1), nhân dịp vừa lên ngôi ra lệnh tổ chức kỳ thi hương đặc biệt ân khoa. Trong dịp này có trường hợp hy hữu trong thi cử, xin kể ra đây. Số là có 2 anh em bài vở có nhiều điểm giống nhau về ý tưởng cũng như văn phong. Chủ khảo Hoàng tế Mỹ dán giấy mỏng che đậy tên 2 người trình vua Tự đức. Vua truyền cho tổ chức thi 2 người, ngồi riêng 2 phòng, trong 3 ngày, chính tay Tự Đức duyệt bài và ngự phê: Văn chương là lẽ công bằng, 2 anh em văn chương đều kiệt tác. Quý đặng chân tài. Anh em đồng khoa là việc tốt 2 anh em đó là Hoàng kim Giám và Hoàng kim Tịch, tức Hoàng Diệu sau này.

Tính cách chính trị còn thấy rõ rệt trong các kỳ thi Hội, nhất là thi Đình. Chúng tôi vẫn tự đặt nghi vấn là đã có kỳ thi hội rồi, rại sao còn tổ chức kỳ thi Đình làm gì. Phải chăng chỉ nhằm mục đích xếp hạng cao thấp. Không hẳn như vậy. Ít có nước nào mà kỳ thi lại do chính tay vua xếp đặt, ra đề thi, nhất là phần văn sách… Chẳng hạn, năm 1493, Chính vua xem quyển, định thứ bực cao thấp. Rồi vua ngự chính điện, truyền loa xưóng danh tiến sĩ, sau đó ban mũ đai và áo cho các tiến sĩ, cuối cùng thì ban yến… Rồi năm 1496 chính vua ra đề thi hỏi về văn sách, hỏi về đạo trị nước. Sau đó, dẫn các cử nhân vào sân điện Kim Loan, Vua xem dung mạo định lấy đỗ 30. Qua đọan trên cho thấy việc thi cử, nhất là trong các kỳ tiến sĩ có tác năng chính trị, nhằm bảo đảm sự trung thành, phục vụ cho vua. Vì thế mà chính vua can thiệp vào trong tiến trình thi cử, để loại trừ những thành phần mà xét ra không thích hợp. Việc xem dung mạo quyết định lấy 30 người đỗ không thể nói gì khác hơn tại sao lại tổ chức thi Đình. (7)

Tính cách chính trị còn có thể thấy rõ trong việc các làng công giáo không có người thi đậu đưọc trình bày ở phần sau. Trong những bài thi văn sách, nhà vua tự ra đề tài về chính sách cấm đạo để từ đó yêu cầu sĩ tử bàn luận và hưởng ứng chính sách của triều đình. Một đề tài thi cử như vậy đã hẳn có tác dụng lớn trên những chọn lựa của mỗi sĩ tử về vấn đề tôn giáo, đồng thời cũng tuyên truyền và ủng hộ đường lối của Triều đình trong phạm vi này.

Như trên đã trình bày, đường lối tuyển chọn nhân tài thật kỹ càng như vậy, nhưng vẫn không tránh được có trường hợp một số cống sĩ có thể bất phục và chống lại triều đình. Nhất là ở giai đọan khi mà sự có mặt của người Pháp là một thực thể khó có thể chối cãi được, đưa tới những thái độ nghi ngờ về sự bất lực của triều đình trong việc chống đối lại người Pháp. Đó là trường hợp Cụ Phan Chu Trinh, khi vua Khải Định sang Pháp để dự đấu xảo ở Marseille. Ông đã hài ra bảy tội của Khải Định là tôn bậy quân quyền, lạm hành thưởng phạt, thích chuộng sự quỳ lạy, xa xỉ quá độ, ăn bận không phải lối, tội chơi bời, chuyến đi Tây có sự ám muội. Thư thất điều đã được báo chí ở Pháp phổ biến, gây một tiếng vang bất lợi cho triều đình bấy giờ. Qua lá thư của Phan chu Trinh, người ta cũng thấy được, giới sĩ phu ít còn tin tưởng vào chế độ quân chủ mà họ cho là nguyên nhân tình trạng đưa đến mất độc lập, mất chủ quyền và trở thành nô lệ cho thực dân Pháp. Sự oán hận nhà vua chứng tỏ vai trò của một ông vua bù nhìn đưa đến sự chấm dứt chế độ quân chủ phong kiến như là giải pháp cần thiết đi trước cả giải pháp dành lại độc lập.

Về Tỉ Lệ Con Số người thi đậu

Sau đây, chúng tôi đưa ra con số những người đỗ đạt tỉ lệ với số người ứng thi đã là then chốt của vấn đề thi cử ở nước ta. Xin dẫn chứng năm 1463, có 4400 người ứng thi, lấy đỗ hơn 40 người, tỉ lệ 1%. Năm 1502, tháng 2, có 5000 người thi cử nhân, lấy đỗ 61 người, tỉ lệ hơn 1%. Năm 1514, có 5700 người, lấy đỗ 43 người. Tỉ lệ chưa được 1%. Cũng nên nhớ rằng cái tỉ lệ này đã không tính tất cả những người đã dự thi ở quận huyện. — quận huyện, người ta đã sàng lọc tất cả những người kém cỏi không đủ tư cách để dự kỳ thi Hương rồi. Nếu tính tất cả những người dự thi ở quận huyện thì tỉ lệ sẽ là 1 phần vạn.

Có 3594 người thi đỗ trong 32 khóa thi từ 1807 đến năm 1858 chỉ là một phần tinh hoa quá nhỏ, quá ít, vô cùng vô nghiã trong một đất nước có từ 600.000 đến 1 triệu người đăng ký thi, tuổi từ 18 đến 60. Chia đều thì có khoảng 116 người thi đỗ trong mỗi khoá, và tính bình quân mỗi năm thì có khoảng 44 người. (Khoa mục chí)

Có người 16 tuổi đã đỗ như ông Ngô Trọng Nhạ. Có người như cụ Đòan tử Quang mãi tới 82 tuổi mới thi đỗ hội nguyên. Trong thư mục của cụ Hoàng Xuân Hãn do Tạ trọng Hiệp soạn (8) có đưa ra trường hợp cụ Đoàn Tử Quang đã để cả đời để học và thi và cho mãi đến năm 1900 cụ mới đậu cùng với Phan Bội Châu. Giả dụ cứ 3 năm thi một lần, không kể đến các ân khoa, thì trước sau cụ có thể đã dự 21 kỳ thi hương. Trong 21 khoa thi đó, không có gì làm bằng cớ cụ dốt nên đã rớt, nhất là sau này cụ đã đậu thi hội. (Bị giáng xuống cử nhân chót vì phạm trường quy). Cụ rớt, cụ đỗ, chỉ vì tỉ lệ xác suất, độ may rủi, về lề lối tổ chức chấm bài. Bài thi do các ông sơ khảo chấm. Rồi phúc khảo, cuối cùng đến giám khảo duyệt lại. Có biết bao nhiêu hệ số chủ quan của các ông giám khảo này. Có một kẽ hở rất lớn trong tổ chức thi cử thời xưa là mặc dù luật lệ rất nghiêm nhặt từ trường thi, quyển thi đến chấm thi, nhưng lại không có luật lệ rõ ràng về cách cho điểm.

Trong khoa thi này cụ Phan bội Châu đỗ Giải nguyên và cụ Đoàn tử Quang đỗ Á nguyên, nhưng vì phạm trường quy, theo lệ phải dánh hỏng. May nhờ chủ khảo là Khiếu Năng Tĩnh có lòng nhân từ thấy ông tuổi tác cao mà bị trượt nên họp bàn với các quan trường, đệ quyển thi về kinh, và dâng sớ xin cho ông đỗ cử nhân. Vua Thành Thái ban chỉ đặc cách cho Đoàn Tử Quang đỗ cử nhân thứ 21.

Chủ khảo Khiếu Năng Tĩnh và phó chủ khảo Mai Khắc Đôn viết bài: Nhai sự Ký kể lại việc này như sau: Khoa Canh Tý năm Thành Thái thứ 12, trường thi Hương Nghệ An, sĩ nhân Đoàn tử Quang 82 tuổi, quê làng Phụng Công, phủ Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh, đã đỗ 2 khóa tú tài, nay đỗ cử nhân thứ 21… Từ khi quốc triều mở khoa thi đến nay, chưa từng thấy có chuyện lạ như thế.

Hôm xướng danh, người đi xem đông hơn đám hội. Xướng đến tên Đoàn tử Quang đỗ cử nhân thứ 21, một ông già dạ lên, chen đám đông bước vào, râu tóc trắng xóa, phong thái như người tiên. Các quan Tây, quan tỉnh đến cầm tay ông khen ngợi… Thật cảm động. Vào dự yến, không quên lấy phần về cho mẹ già 98 tuổi. (9)

Chúng tôi nhận thấy không biết bao nhiêu là điều luật về tổ chức, về trưòng thi, về các giám thị, về các giám khảo, nhưng lại không có những hướng dẫn minh bạch về cách chấm thi. người ta tin tưởng hòan tòan vào khả năng của người chấm. Cùng lắm thì chỉ có những bài mẫu văn thơ phú để làm tiêu chuẩn. (10) Cho nên, tổ chức thi cử như vậy là kéo lê một cái máy chém từ thế hệ này đến thế hệ khác mà nội dung thi cử hầu như không có gì thay đổi. Đấy là tôi chưa nói tới nội dung các bài thơ phú mẫu căn cứ vào đó để các giám khảo chấm bài mà nội dung cho ta có cảm tưởng nó rỗng tuếch, nó kêu. Đọc một đọan phú, cả trang giấy chỉ thấy những chữ lổm ngổm, kêu rổn rảng, có vẻ khó hiểu, kỳ bí mà thật sự nghèo nàn và nông cạn về nội dung,. Hình như triều đình nếu có thay đổi gì thì chỉ bận tâm tới những thay đổi về tổ chức mà không bao giờ có ý tưởng cho thấy muốn thay đổi về nội dung thi cử, cho thích hợp, cho đáp ứng kịp thời. Nội dung thi cử, người chấm, người thi khi mà cả 3 cái đó trùng hợp vào nhau thì có thể đỗ, khác đi thì rớt. Vì thế, xét thực tế, có đỗ, có rớt, nếu có điểm lợi gì, thì đó là cái lợi cho cá nhân ứng thi, còn nói về đại cuộc, có ích gì cho đời thì thật chẳng là bao.

Chúng tôi cũng nhận thấy không hiếm trường hợp anh em, bố con cùng đậu một khoa. Điều đó chỉ cho thấy có sự hên xui, may rủi, không cắt nghĩa được nên mới có câu Học tài Thi phận.

Trong bia đề tên các tiến sĩ khoa Mậu Tuất, Thành Thái thứ 10, chúng tôi liệt kê ra được số tuổi khá chênh lệch của họ: Có 2 người 26 tuổi, 1 người 27, 1 người 35, 1 người 39, 1 người 40, và người già nhất 47 tuổi. (Khoa mục Chí).. Không thể nói càn là vì ông 47 tuổi mới đỗ là vì dốt được. Đã gọi là dốt thì không thể đỗ được, nhất là đỗ tiến sĩ. Vậy làm sao cắt nghiã được sự chênh lệch về tuổi của họ. Chỉ có một cách giải thích tóan học là vì có quá nhiều người đi thi, và số đỗ lấy quá ít, nên đỗ hay không chỉ là vì vấn đề xác suất, may rủi như chơi vé xố thôi. Đó là vấn đề rút thăm, giữa nhiều người giỏi để chọn lấy một vài người.

Dưới triều Tự Dức trong Đại Nam thực lục có 17713 thí sinh được chấp nhận năm 1870, chỉ có 8 người đỗ tiến sĩ. Như vậy, cứ 1000 người đăng ký dự thi, có 20 được chấp nhận và không tới một người đỗ. Tỉ lệ gần 1 phần ngàn. Con số tỉ lệ 1 phần ngàn, nếu cứ tích lũy số người thi rớt mỗi năm, sẽ đạt tới con số triệu dễ dàng. Dĩ nhiên, triệu người thi rớt này cũng sẽ là thành phần những ứng sinh của khoá tới, có khi kéo dài hằng 9-10 khoa. Nhưng điều đó cũng chứng tỏ rằng rớt hay đỗ không còn là vấn đề giỏi kém, mà là một thứ sổ số mà thôi. Hằng triệu người đi thi, lấy đỗ chưa tới số trăm cử nhân thì dưới dạng thống kê là một con số vô nghiã.

Thi Cử ở Vùng Đất Mới

Đi vào từng địa phương, từng miền, những con số trình bày sau đây cũng cho chúng ta một sự ngạc nhiên không ít. Chẳng hạn, tại Nam kỳ với các di dân do người Việt từ phía Bắc tới hoặc người Trung Hoa tị nạn, vì vậy dân số gia tăng nhiều, tỉ lệ dân số gia tăng là 20%, trong khi đó tỉ lệ đỗ đạt lại giảm đi gần 2% so với tỉ lệ của cả nước. (11) Những di thần người Trung Hoa bài Mãn phục Minh đã đến xứ Đồng Nai, Gia Định và Hà tiên đáng xem xét kỹ hơn. Trần thắng Tài và Dương Ngạn Địch đem binh lính và quyến thuộc hơn 3 ngàn người và 50 chiến thuyền đến Cù lao Phố (Biên Hòa) và Mỹ tho để khai thác. Gia Định thành thông chí ghi rằng nhóm Trần thắng Tài yểm trợ việc lập chợ, buôn bán giao thông với người Tàu, người Nhật, tụ tập đông đảo ở Cù lao Phố. (12)

Điều này có thể cắt nghiã được là lý do đời sống ở miền Nam tương đối dễ dàng, lại xa mặt trời, xa các thủ đô văn hóa như Thăng Long và sau này là Huế. Dại gì đi học vẫn có đủ ăn ngày hai bữa, so với Bắc và Trung phần thì Nam phần là nơi dễ sinh sống, đất rộng người thưa. Người dân thảnh thơi vừa làm vừa chơi cũng đủ ăn…

Thiên nhiên ưu đãi, thực phẩm có thừa, công việc nhàn rỗi, áo quần nhà cửa, chữ nghiã còn thiếu, nhưng so sánh với một số địa phương khác thì đồng bằng sông Cửu Long quả là nơi lạc thổ. Nhiều đìa cá, cá nổi đầu lên như mù u chín rụng, nhưng chẳng ai khai thác, gặp năm cá sụt giá. Đìa ấy để cho người vùng trên đến mót lượm, cá chia 2 với chủ, Vịt nuôi không cần cho ăn, mùa hạn, dưới rạch đầy cá nhỏ, vịt thả rong, chiều tối về chuồng. Những người khẩn hoang thường là những người CHỮ NGHĨA KHÔNG ĐẦY LÁ ME, không rành cách ngôn thánh hiền. (13) — trong Nam, người ta nói tới ông Điền chủ, ông Bá Hộ nhiều hơn là quan phủ quan huyện. hai câu thơ sau đây cho thấy sự giầu có của Điền chủ:

Đất năm dây cò bay thẳng cánh (1 Dây khoảng 10 mẫu ta)

Anh dám hỏi nàng quê quán ở đâu.

Một điền chủ chết để lại một gia tài khoảng 75 mẫu ruộng, nhà cửa vàng bạc châu báu và một số tiền là 15000 quan tiền (Vào thời Minh mạng, một mẫu ruộng trị giá khoảng 180 quan tiền. (14) Điều đó cho thấy điền chủ trong Nam giầu tới mức nào.

Điều này chứng tỏ rằng việc thi cử ngoài lý do xã hội, danh tiếng, truyền thống,, còn có vấn đề hoàn cảnh kinh tế nữa… Trong số 6 tỉnh, Gia Định có số người thi đỗ cao nhất. Vì đây là một tỉnh có nếp sống văn hóa cao hơn các tỉnh khác, nếp sống đô thị rõ nét hơn với nhiều cơ cấu truyền thông, báo chí, tin tức được phổ cập, dễ có xu hướng trọng văn hóa bằng cấp địa vị xã hội.

Vì vậy mà trong biên niên sử đời Gia Long đã tỏ ra bận tâm về sự suy thoái về kết quả thi cử ở miền Nam và cũng nhận thức rằng có nhiều con đường khác đi đến thành công về mặt tài chánh mà không cần phải qua con đường thi cử.

Tỉ Lệ Thi Đậu ở Miền Trung.

— các tỉnh miền Trung, có sự gia tăng khá mạnh, trội vượt hẳn các tỉnh phía Nam về số thí sinh thi đậu. Tất cả là 1115. Điều đó cũng dễ hiểu, vì nay vùng đất miền Trung nằm trực tiếp trong vùng ảnh hưởng của triều đình Huế.

Nhưng đặc biệt rất khó giải thích tại sao con cái dòng họ, các dòng Tôn Thất xa gần với vua lại có rất ít người thi đậu làm quan. Sĩ số thành phần này thi đậu có thể đếm trên đầu ngón tay, nhất là các năm đầu của các vua triều Nguyễn. Kể từ Thành Thái trở đi, người thi đậu có vào khoảng hơn chục người mà thành phần đều là những người kể từ đời thứ ba trở đi đến đời thứ 7. Điều đó đưa ta đến kết luận càng xa nguồn cuội, thì nhu cầu học hỏi càng tỏ ra cần thiết.

Mặt khác, cũng có thể tìm ra câu trả lời cho vấn nạn tại sao, dòng tộc vua chúa lại không mấy người thi đỗ. Một lối trả lời không mấy thỏa đáng, vì thực sự hiện nay, chúng ta không đủ chứng từ để minh chứng rõ ràng. Nhưng, chúng ta biết rằng truyền thống thi cử nước ta có cho phép các quan tiến cử những hiền tài xét ra có công trạng, hoặc nổi tiếng về văn chưong để vua xét bổ nhiệm vào các chức vụ giảng dạy, hay chờ đợi để dự các kỳ thi tiến sĩ, mà không cần có cử nhân.

Từ đó, ân duệ đó được áp dụng cho các con trai các công thần có uy tín trong triều đình, và cũng có thể áp dụng điều đó cho các gia đình trong hoàng tộc.

Và theo Langlet: Từ năm 1822 đến năm 1860, ông phát hiện ra 20 người thi đỗ cấp cao mà chưa bao giờ có thi đỗ ở các địa phương. (15)

Vì vậy, Thành phần thi đậu đều là người dân giả thôi. Người dân giả thì đa số lại không mấy khấm khá, vì thiên nhiên thời tiết có khắc nghiệt. Con đường tiến thân hợp lý hơn cả vẫn là cử nghiệp. Điều này còn đúng và kéo dài mãi cho đến thời Đệ nhị Cộng hòa mà không ở bất cứ tỉnh nào có mức độ ham học, ham mảnh bằng cho bằng xứ Huế.

— Mỗi mùa thi, học trò mang sách ngồi dưới cột đèn để học cho thấy họ nhìn tương lai họ ở chỗ nào. Cái hãnh tiến về xứ sở, cũng như hãnh tiến về truyền thống văn hóa cũng làm cho việc thi cử trở thành niềm trăn trở thao thức, niềm khát vọng cho mọi người. Mùa thi cử là mùa của hy vọng, của khát vọng vươn lên, vừa nuối tiếc, vừa muốn thoát ly ra khỏi khung trời dù là tình nồng, ấm áp, nhưng lại quá chật hẹp, không dung chứa nỗi những hoài bão của mình.

Cũng vì vậy, không biết bao nhiêu nhân tài, bao nhiêu chất xám mà cả nước không nơi nào có thể so đo với miền Trung đã lần lượt đội nón ra đi. Họ đi rồi vẫn ngoảnh mặt lại nuối tiếc về Huế, về cái gíó Lào, về những ruộng rau sống khô cằn đắng ngắt vì thiếu nước, giống như người dân ở đó. Huế đúng là để đi và rồi để nhớ. Ngay những người từ phương xa tới khi nghĩ tới, lúc rời khỏi Huế khó có thể quên được. Trong khi đi về các tỉnh phía Nam ăn uống, vui nhậu nhẹt, thoải mái cười đùa, ngày mai ra bến xe đò là quên hết.

Nhưng cũng cần phân biệt ở miền Trung giữa các tỉnh phía Bắc và phía Nam. Các tỉnh phía Bắc ti lệ thi đỗ cao nhất trong vùng. — các tỉnh Bình Thuận đến Quản Nam, số người đỗ đạt tổng cộng là 252 người… (16) Quảng Ngãi và Bình định số người thi đỗ từ đời Gia Long đến Tự Dức tăng từ 4 lên đến 85 người. Nhất là trong tỉnh Quảng Nam, dân giàu vì có mỏ vàng, tỉ lệ cao so với các tinh khác… — các tinh Bình Thuận đến Quảng Nam, số người đỗ đạt tổng cộng là 252 người. từ 7 lên 62, rồi 87. Đã hẳn, triều đình Huế có đủ các lý do về chính trị, kinh tế, văn hóa để lo ngại về dấu vết ảnh hưởng của văn minh Chàm, cũng như những ám ảnh về một quá khứ của Tây sơn đã hẳn còn in đặm trong lòng một số người, mà thời gian chưa đủ để xóa nhòa. Vả lại nếu đặt để bên cạnh nhau về một hình ảnh Tây sơn mới đây và hình ảnh Gia Long hiện nay, cái tâm lý thông thường cho thấy người dân sẽ ngả về phía nào.. Nhưng dù thế nào đi nữa, thì cái công xây dựng thủ đô, cái hệ thống triều đình, quan lại mỗi ngày một vững bền, với thời gian, lòng người cũng sẽ lóng lại, thì từ nay, mảnh đất này cũng sẽ trở thành một thủ đô văn hóa như đất Thăng Long vậy.

Nhưng chúng tôi cũng xin đưa ra ở đây một nhận xét là, không hiểu vì lý do gì, tất cả 3 trung tâm lớn là Hànội, Huế, Saìgòn lại có tỷ lệ thi đỗ thấp hơn những vùng biên trấn. Chẳng hạn như trong Nam thì tỉnh Gia Định và Biên hoà có tỉ lệ những người đỗ đạt cao nhất vùng.. Riêng tỉnh Gia Định, tổng số người đỗ đạt nhiều hơn 5 tỉnh kia cộng lại. — Huế, chúng ta nhận thấy số người đỗ đạt giảm sút kể từ sau giai đọan 1819, nhất là vào khoảng giữa thời Minh Mạng và cứ như thế, ổn định ở mức thấp cho đến 1852.

Tỉ Lệ Thi Đỗ Tại Bắc Kỳ.

— ngoài Bắc, thì số người đỗ đạt tập trung nhiều nhất ở 14 biên trấn quanh Hànội mà cái trục chính là Sơn Tây, Hải Dương và đặc biệt là Nam Định. — tỉnh Nam định thì đặc biệt là vùng Hành Thiện đã phá kỷ lục về số người đỗ với 73 người từ năm Gia Long 1813 cho đến lúc chấm dứt thi cử 1918. Nghiã là tròn 100 năm.

Xã Hành Thiện, tỉnh Nam Định.

Trong bài này, chúng tôi thấy phải dành riêng một phần để nói về xã Hành Thiện. Xã Hành Thiện thuộc huyện Xuân Thủy, tỉnh Nam Định. Xã có 18 (Giông). Giông là tiếng địa phương để chỉ những con đường, hai bên có nhà cửa. Đó cũng là lối tổ chức nhà cửa xây cất có thứ tự của làng Hành Thiện. Trong QTHKL tôi thấy mãi đến năm Gia Long 1813 (Gia Long lên ngôi 1802), mới có Nguyễn trọng Trù là người đầu tiên thi đậu. Sau đến năm 1821 có 2 người em của Nguyễn Trọng Trù đậu cùng khoa. Và cũng kể từ đó liên tiếp các khoa thi đều có người của làng Hành Thiện thi đậu.

Trong số những người thi đậu này, có nhiều trường hợp đáng nêu ra ở đây. Thứ nhất là dòng họ Đặng có 39 người thi đậu. Có người đỗ Phó Bảng như Đặng Đức Địch sau làm đến Thượng thư Bộ Lễ. Có người đỗ Tiến sĩ như Đặng xuân Bảng (Tự Đức 1850. hay Đặng hữu Dương (Thành Thái 1891). Có trưòng hợp cả dòng họ, ông, cha con cháu, anh em đều thi đậu. Tỉ dụ Gia đình Đặng hữu Dương (Ông cháu, anh em cùng thi đậu,) Gia đình Đặng văn Độ, cả 3 anh em đều thi đỗ., Gia đình Đặng vũ Mẫn cũng 3 anh em cùng thi đậu. Đặc biệt gia đình Đặng vũ Phong Cha con cùng thi đậu, anh em đậu cùng khoa. Con là Đặng văn Tường, anh Đặng vũ Oánh, cháu Đặng vũ Uyển, em họ Đặng vũ Thực, Đặng cao Chi, Đặng vũ Hoan. Thật là vinh hạnh hết chỗ nói.Thật khó mà hiểu tại sao có một dòng họ đỗ đạt nhiều như vậy. (17)

Huyện Xuân Thủy (sau đổi là Giao Thuỷ) gồm nhiều xã, xã nào giỏi lắm thì có độ 3, 4 người thi đỗ như Trà Lũ, Kiên lao. Hoặc chỉ có một người thi đỗ trong suốt 100 năm như các xã Hội Kê, Hộ Xã, Lạc Nam vv… Tôi cũng nhận thấy một số làng, khá nổi tiếng về mặt này, mặt kia như làng Ngọc Cục, đối diện với Hành Thiện hay làng Trung Lao, Sở Kiện, Hoàng Nguyên hay làng Cự Đà, vậy mà trong suốt hơn 100 năm triều Nguyễn, không có một người nào trong các làng này có người thi đỗ.. (Xứ Trung Lao sau này có cụ Thượng Nhạ, nhưng tìm lại danh sách các người thi đậu thì không có tên cụ. Tôi giả đóan là cụ thuộc lớp nho học, bắt đầu có học Tây học, rồi được người Pháp nâng đỡ cho chức Thượng mà không phải thi cử gì cả, cũng giống như trường hợp các cụ Thượng Oánh, Thượng Bùi. Cái câu trong nhân gian nói về cụ là; Lý trưỏng bất túc, Tổng đốc hữu dư có thể giải thích được phần nào cái chức Thượng của cụ.

Do sự tò mò mà chúng tôi khám phá ra một đìều hết sức lý thú và quan trọng là suốt hơn trăm năm thi cử dưới triều Nguyễn, Hơn 50 chục làng công giáo mà chúng tôi biết được thì hầu như trong tất cả các làng đó đều không có người nào thi đỗ làm quan. Thoạt đầu, chúng tôi xem xét các làng chung quanh làng Hành Thiện để xem có người thi đỗ không, từ đó suy diễn ra cái tầm ảnh hưởng của Hành Thiện trên các làng lân cận. Về địa lý, làng Ngọc Cục chỉ cách một con sông với Hành Thiện, vậy mà không có lấy một người thi đậu suốt dọc dài hơn 100 năm. Một điều thật khó hiểu. Từ đó suy ra các làng công giáo khác. Kết quả thật ngạc nhiên: Hầu như không có làng công giáo nào cả. Những làng công giáo nổi tiếng như Phát Diệm, Sở Kiện, Trung Lao, Phúc Nhạc, Thạch Bích, Trung đồng,An Lộc, Bói kênh, Bình Cách, Lưu Phương Mưỡu Giáp vv Và rất nhiều xứ khác không cần kể ra đều không có ai thi đỗ và ra làm quan.

Từ những dữ kiện thu lượm đụợc ở trên, tôi suy diễn ra là có một chính sách ngăn cấm, hay tối thiểu thì cũng có giới hạn không cho phép người công giáo có cơ hội để đi thi. Cơ hội học thì có, nhưng không có cơ hội để thi.. mà không thi thì việc học sẽ rất hạn chế.

Cho mãi đến Thành Thái 1894 mới thấy có ông Vũ Luyện, người làng Quần Phương, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định là một làng thuần công giáo có người thi đậu. Và đến năm1900, lại có người ở làng Quần Phương thi đậu. Nhưng năm 1900 là những năm cuối trào về thi cử và niên hiệu Thành Thái cũng cho thấy đó là giai đọan cởi mở hơn về chính sách cấm đạo.

Có những liên hệ gì cho phép chúng ta đi đến một kết luận là chính sách cấm đạo đã là nguyên do, trong dó gần 100 năm, người công giáo và các làng công giáo trở thành một loại công dân hạng nhì, vì không có cơ hội tiến thân về con đường học vấn, đóng góp nhân tài cho xứ sở. Nhưng cho đến nay, tôi không tìm thấy bất cứ văn bản chính thức nào giúp chúng ta có thể khẳng định dứt khoát là có một chính sách ngăn cản người công giáo thi cử. Trong sách vở về phía công giáo, tôi cũng chưa có cơ hội đọc hoặc nghe những cơ quan thẩm quyền xác định về điều này. Vậy thì, tất cả chỉ là những suy đoán mà thôi. Nhưng cái vấn đề các làng công giáo không có người thi đậu vẫn là một thực thể không chối cãi được và tự nó đòi hỏi có câu giải đáp.

Trở lại trường hợp làng Hành Thiện, làm sao cắt nghĩa được vào năm Thành Thái thứ 6 (1894), Trường Hà Nam có 9700 dự thi, lấy 60 ngùời đỗ, làng Hành Thiện chiếm 6 chỗ, 54 chỗ còn lại dành cho khoảng hơn 400 xã khác. Làm sao giải thích được sự kiện có làng thi đỗ có làng không Một giải thích dễ dãi, thiếu cơ sở khoa học là nói đến đất, đến có mả, hoặc văn hoa hơn gọi là đất ngàn năm văn vật. Cần tìm một lối giải chứng có cơ sở và khả tín hơn.

Có những giai thoại nghe ra có vẻ khinh bạc, nhưng cũng chứng tỏ một phần sự thật về vùng này, Người Hà nội có thói quen khá kiêu sa là thay vị gọi tên một người, họ lại gọi chức vị xã hội của người đó. Chẳng hạn cụ Tham Bảng, ông Đốc Ninh, Ông Phủ Dõan vvv. Xem Hồi Ký của Vũ Ngọc Phan, cuốn Những năm tháng ấy. (18)

Và nếu có một người khách nào đó về làng Hành Thiện, theo thói quen, hỏi thăm nhà cụ tham, cụ phó vv. Người dân làng sẽ trả lời là ở đây cụ tham, cụ cử nhiều như lợn con, hỏi thế biết đường nào mà lần.

Giải thích về con số đỗ đạt ở vùng này vì dù sao đất Bắc từ xưa tới nay, vẫn là cái nôi, của văn hoá và trí tuệ của cả nước. Nó có truyền thống lâu đời về việc học. Số trường học, cũng như trung tâm thì cũng nhiều hơn các nơi khác Một trường cho 6000 người ứng thi. — các vùng như Sơn Tây Hải Dương, Bắc Ninh thì khoảng 3000 người ứng thi cho một trường. Cái nọ nó kéo cái kia; truyền thống, tổ chức trường ốc, truyền thống địa phương, gia đình, họ hàng, sự giao tiếp cách này cách khác, trực tiếp hay gián tiếp, hoặc được nghe nói về đã là những cơ hội giúp những kẻ hậu sinh cố gắng vươn lên theo những mô hình lý tưởng khuôn mẫu là các bậc đàn anh.

Cách giải thích đúng lý nhất là TINH THÂN GIA TỘC, giáo dục gia đình bằng gương sáng cha anh đỗ đạt, mô hình lý tưởng là cha anh được mọi người kính trọng, được hưởng lợi lộc quan tước của trều đình. Lấy trường hợp họ Đặng sẽ giúp giải thích được yếu tố gia đình có tác dụng quan trọng thế nào cho việc thi đỗ của một người. Chúng tôi nhận thấy trong thời kỳ Gia Long đến năm 1825, tỉ lệ dòng họ Đặng thi đỗ so với các họ khác tại Hành Thiện 2 trên 6 sau đó 1850 là 8 trên 9, 1906 thì trội vượt là 36 trên 32 và cuối cùng là 39 trên 34, Riêng đời Thành Thái 1897, dòng họ Đặng có 6 người đỗ trong một khoa, kết quả đó cũng lặp lại một lần nữa vào năm 1903. Biểu đồ giúp ta hiểu chính xác truyền thống gia đình, cha truyền con nối, trong cùng gia đình, cùng dòng họ, có nhiều người thi đỗ. Sự trội vượt của họ Đặng cắt nghĩa bởi họ cùng huyết thống. Các họ Nguyễn, Trần, Phạm trong làng Hành Thiện chưa chắc đã cùng chung huyết thống nên đường dài sẽ thua sút họ Đặng. Điều đó xét ra cũng đúng một phần nào cho trường hợp người Việt Nam ở hải ngoại, đặc biệt là Montréal, mà một số đông con cái các gia đình đã thành công trong việc học.

Tỉ Lệ Thi Đỗ — Các Vùng Cao.

Cũng dựa trên những con số để nhìn về những vùng cao mà đa số là thanh phần các dân tộc thiểu số cho thấy tỉ lệ những người thi đỗ thật là ít ỏi. 6 tỉnh vùng này chỉ cống hiến được có 3 người thi đỗ, và đều thuộc những tỉnh huyện như Quảng Yên và Hưng Hóa rất gần với các tỉnh vùng đồng bằng. Điều đó cho thấy, thiếu một chính sách nâng đỡ cũng như tổ chức trường học giúp cho các tỉnh vùng cao có cơ hội nhập vào đời sống của miền dưới. Cho nên đồng bào các dân tộc thiểu số sau nhiều thế kỷ vẫn là những tỉnh bên lề như người nước ngoài ngay trên mảnh đất mà không biết tự bao đời họ vẫn tồn tại, mặc dầu có những đổi thay lớn nhỏ có tầm vóc lịch sử có liên quan đến sự sống còn của người dân ở các vùng dưới. Phần họ, họ vẫn là họ, Muôn đời.

Cũng qua những con số về những người thi đậu qua các triều vua, cũng như một cái nhìn lướt qua về các vùng có người thi đậu… Chúng tôi thấy rằng cái vấn đề lớn và quan trọng nhất không hẳn ở chỗ xem ai đậu, đậu ở đâu mà là nhìn ý nghĩa việc thi cử thời xưa qua những người không may mắn, khác đi là những người thi rớt.

Về những Người Không Đậu.

Trong tất cả những cuốn sách về thi cử mà chúng tôi đọc, không có một chỗ nào cho người không đậu (Tôi không dùng từ thi rớt) hay chỉ đậu tú tài. Đối với việc thi cử thời xưa, tú tài không có nghĩa là bằng cấp, và không được triều đình sử dụng. Người đỗ tú tài chỉ là những người không đỗ cử nhân, nghĩa là không đậu đủ 4 trưòng, mà chỉ đỗ có ba trường mà thôi.

Sách Quốc triều hương khoa lục của cụ Cao xuân Dục chỉ nói tới những người đỗ cử nhân thôi, LTHCLC của Phan huy Chú lại chỉ có danh sách các người đậu tiến sĩ từ khi bắt đầu các khoa thi.

Vậy mà cái thành phần chủ yếu của giai cấp nho sĩ lại là các nhà nho không đỗ đạt gì, hoặc chỉ là tú tài. Họ làm đủ thứ nghề như thầy lang, thày địa lý, cho đến cả bói toán cũng như gia sư cho các nhà giầu có. Nhưng cái thành phần đông đảo của họ vẫn là các ông đồ nho mà trong làng, huyện tỉnh nào cũng cần sự có mặt của họ.. Đã thế, trong mỗi làng đều cần đến những người có học, nên họ giúp một phần đắc lực cho các ông lý trưỏng, chánh tổng vv.. Sự có mặt của họ đôi khi còn là biểu tượng cho giềng mối luân lý, phong tục, nề nếp trong làng. Có thể nói không có nho học, nếu không có những người đại diện là các cụ đồ nho. Họ là biểu tượng cho lề luật, nếp sống, nếp suy nghĩ của dân làng. Không có luật lệ thành văn, nhưng qua giới nhà nho mà nề nếp, phong tục, đời sống xa hội được tôn trọng, được duy trì. Đời sống của họ là tấm gương từ đó phát huy những giá trị đạo đức.

Lấy trường hợp nhà nho Nguyễn Đức Đạt, 50 tuổi về hưu, mở trường dạy học, học trò có cả ngàn. Những môn sinh của ông có người đỗ đạt như Hoàng Cao Khải làm quan đến kinh lược Bắc Kỳ, hay cụ Cao xuân Dục, làm đến Lễ Bộ thương thư, thi sĩ Nguyễn Khuyến làm đến Tổng Đốc Sơn, Hưng Tuyên mà khi đến hầu thầy vẫn giữ lễ thầy trò. Khi ông ra thăm Thăng Long, Hoàng Cao Khải ra lệnh cho tuần phủ Ninh Bình vào tận Đồng Giao đón ông. Khi võng ông đến Thường Tín. HCK và CXD ra nghênh tiếp, đi bộ theo sau, có đủ mặt các quan đầu tỉnh Bắc Kỳ đến bái kiến. (19)

Điều đó chỉ ra rằng, vai trò nhà nho là yếu tố quyết định hình thành nếp sống, nếp suy nghĩ của người dân.

Họ phần đông sống nhẫn nhục, đạm bạc và túng thiếu, cố gìn giữ cái danh phận, dù cơ cực, nghèo túng và sống bất đắc chí đứng ở giữa giai cấp nông dân nghèo đói, ít học mà họ là đại diện và giới quan lại, nhà vua. Họ dễ có cái khả năng nhạy cảm để thấy được những sai trái, những những áp bức của giới cầm quyền. Nhưng họ cũng cảm nhận được sự bất lực của mình trước chính bản thân họ, và trưóc hoàn cảnh đất nước. Bi kịch của họ là bi kịch của những người có học, nhưng lại không đảm đương bất cứ một vai trò gì để có thể giải hoá những khó khăn của đất nước mà họ cảm thức được sự bất lực và sự vô hiệu của triều đình.

Họ là cái thành phần đông đảo, bất đắc chí là các ông đồ nho. Họ có bao nhiêu. Vào đời Gia Long (Theo ĐNNTC), họ có 643.706. Thời Minh Mạng, có 770.798. Thời Thiệu Trị 974.786. Thời Tự Đức chỉ còn 885.517 người. Với một số đông đảo như thế mà chẳng có mấy người có được chức vị cao trong triều đình. Sang đến thời Tự Đức bắt đầu có sự suy thoái dần, ảnh hưởng sang Tây học.

Ngày nay, nhìn lại cái lối tuyển chọn quá khắc nghiệt làm hao tổn không biết bao nhân tài, không biết dùng và sử dụng người, bóp nghẹt các sĩ phu. Tỉ như dưới triều Nguyễn chỉ có tối đa là 7 trường thi, không hơn gì số trường thi ở miền Bắc trước đó dưới thời các Chúa Trịnh nắm quyền. Chẳng hạn khi Nguyễn Trường Tộ dâng bản điều trần, nhà vua không lý đến những đề nghị của ông, chỉ phán: Cho y một chức quan nhỏ để thưởng cho y. Thật là khinh miệt kẻ sĩ, vì Nguyễn Trưòng Tộ, khi dâng bản điều trần thì đã hẳn đâu có cầu cạnh quan tước gì.

Về việc thi cử thì trước thế nào sau như vậy. Vì thế cuốn Lều Chõng là Một bản án, phê bình cái học cổ hủ, giáo điều. Vân Hạc là hình ảnh một người trí thức có tài, nhưng thi cử lận đận, thông minh và có lương tri, nhưng không ai dùng. Đó không phải là số phận. Đó là thân phận người trí thức   mà đại diện là tầng lớp nho sĩ. Tất cả là một sự xa hoa, xài phí chất xám vô ích. Cái bi kịch người trí thức này chấm dứt với hai cái chết tuẫn tiết của Phan Thanh Giản, (Cụ PTG là người đỗ đạt đại khoa đầu tiên của xứ Nam kỳ, đậu tiến sĩ năm 1826.) trong Nam và Hoàng Diệu, ngoài Bắc. Hai cái chết đó tiêu biểu cho sự cáo chung, sự bất lực của tầng lớp nho sĩ. Cái chết đó nêu gương khí tiết, nhưng nó cũng chỉ ra rằng thời của nho gia không còn lý do tồn tại nữa.

Về Việc Tổ Chức Thi Cử

Về tổ chức thi cử nói chung thì phải nói là thập phần chặt chẽ, tỉ mỉ, chi ly từng chi tiết, không thiếu xót một chi tiết nào, nhằm bảo đảm sự công bằng, tránh gian lận, cho thấy nhà vua coi việc thi cử như một QUỐC SÁCH của cả nước. Chỉ xin viện dẫn một vài chi tiết sẽ cho thấy rõ điều đó. Các quan đề điệu, giám thi, thừa sứ, tham nghị, giám khảo, phúc khảo đều có tiêu chuẩn về nhà cửa ăn uống riêng… Lấy trường hợp quan đề điệu mỗi ngày được gạo 7 bát và nưóc mắm, rưọu, trứng, muối, chè, gừng, củi, cộng chung giá tiền là 42 đồng. Nhưng đến quan đồng khảo thì gạo chỉ còn có ba bát thôi. Cái này thì kể ra khá bất công. Quan nào thì cũng cần ăn cho no mới làm việc đưọc. Sự khác biệt giữa 7 bát và 3 bát là sự khác biệt căn cứ trên chức vị hơn là trên nhu cầu.. Nói chi đến bọn binh lính và người theo hầu của các quan.

Lấy trường hợp quan giám thị thì đưọc cung cấp giường, phên nứa, cây đèn, dao quai, dao to, rổ rá, mâm và chậu gỗ sơn vẽ đều mỗi thứ mỗi cái, chiếu tốt một đôi, chiếu thường một đôi (quá thừa thãi, lãng phí của công), dầu 2 chĩnh, bấc đèn một bó, nồi đất 3 cái, chum lớn, chum nhỏ mỗi thứ 2 cái, bát dĩa mỗi thứ 15 cái. Cứ như thế, tuỳ theo chức vị mà có sự gia giảm số lượng. Chẳng hạn quan đồng giám khảo chỉ còn được hưởng 10 bát đĩã, chum lớm chum nhỏ chỉ còn mỗi thứ 2 cái. (20)

Đọc phần này của Khoa mục chí, cái nhận xét của chúng tôi là cảm phục cái người đứng ra tổ chức, phân phối đồ vật chi dùng của các quan, Từng chi tiết phải được tôn trọng, không được thiếu xót vì có trong điều lệ. Thiếu một chút cũng không được sẽ có so bì hơn kém. Đã vậy, lấy đâu ra tiền bạc, vật liệu để chi dùng. Các ty thừa hiến lại gõ đầu các quan huyện, châu trong hạt. Lại từng chi tiết rất chi ly. Xã phường lớn 2 quan 75 bát gạo. Xã phường trung 1 quan 5 tiền quý, 50 bát gạo, xã phường nhỏ 1 quan tiền quý, 35 bát gạo. Riêng các xã biên trấn thì xã lớn 1 quan tiền gián, 20 bát gạo, rồi đến 15 bát gạo và 10 bát gạo cho xã trung và xã nhỏ. Tiếp đến những thể lệ cho ĐÂU THẦU XÂY CẤT trường thi cũng rắc rối hành chánh sự vụ để tránh lạm dụng, lãng phí, tham ô. Tất cả những điều vừa trình bày trên cho thấy một tổ chức hành chánh quy mô, phức tạp mà người điều hành, như quan niệm ngày nay thì ít ra cũng phải tốt nghiệp trường Quốc gia hành chánh hay Chính trị kinh doanh Đà lạt mới đảm đương nổi. Nó còn chỉ cho thấy, để tránh LẠM QUYỀN, Các ty sở liên hệ không được đấu thầu như hai ty thừa hiến, bọn tai mắt, bọn quyền quý, bọn cường hào không được ủy thác đứng ra thu tiền, gây tình trạng lạm thu quá lệ, làm phí của dân. Rồi xã phường nào không đóng góp đủ thì cho phép các quan huyện châu trình lên Phủ Doãn và Hiến ty, XÉT RA LÀ THỰC thì xử phạt phải trả lại Bội Sổ, để trừng phạt. Nhưng học trò xã đó vẫn cho thi. (21)

Trở lại việc thi cử của các triều vua cũ tuy là chu đáo, nhưng cũng có 2 thời kỳ cho thấy việc thi cử đi đến chỗ suy đồi, không còn là nơi kén chọn hiền tài nữa. Đó là từ năm 1750 cho phép đóng tiền thì có quyền đi thi vì thế ai cũng có quyền dự thi, không kể dốt giỏi, nhiều người dốt, nhưng cũng đóng tiền để thi cho có tiếng.

Vì thế người làm ruộng, người đi buôn, cho chí người hàng thịt, người bán vặt cũng đều nộp đơn xin thi cả. Ngày vào thi đông đến nỗi giày xéo lẫn nhau, có người CHẾT ở cửa trường. Trong trường thi, nào mang sách, nào hỏi chữ, nào mượn người thi thay, công nhiên làm bậy, không còn biết phép thi là gì. Những người thực tài, mười phần không đậu một.

Việc thi cử như vậy nên mới có việc bọn sinh đồ 3 quan đầy thiên hạ, người trên lấy tiền mà không ngại, kẻ dưới nộp tiền để đỗ mà không thẹn, làm ra trường thi thành chỗ BUÔN BÁN. (22)

Dưới thời Pháp, việc thi cử thật lem nhem, chỉ còn là việc mua bán, hối lộ mà nguyên do là ở những khoa thi chót, có thêm bài thi Pháp văn, khi lễ xướng danh thì có chức quyền người Pháp tham dự. Nhiều quan chức người Pháp có nhúng tay vào việc thi cử lem nhem này. Việc hối lộ quan chức Pháp thể hiện qua 2 câu thơ sau đây:

Con nên khoa mục cha mòn trán

Em được công danh chị nát đồ.

Đọc hai câu thơ trên, nếu tinh ý một chút thì thấy rằng, đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử thi cử nước ta, việc cậy cục chạy chọt thi cử có thể bằng một con đường khác con đường chạy chọt bằng tiền… Chữ nghĩa trước đây có thể mua bằng tiền thì nay bằng THÂN XÁC người Phụ Nữ cũng như việc thăng quan tiến chức sau này cũng không tránh khỏi thông lệ này. (23)

Trong cuốn Hơn nửa đời hư của cụ Vương Hồng Sển cho thấy các quan chức lớn bé đều có thể mua chuộc bằng sắc đẹp phụ nữ cả. Và chính tác giả vì không chịu đút lót thi cử nên mới không đỗ. Và vì vậy mới có cơ hội để ông viết cuốn Hơn nửa đời hư. Ông kết luận: Cám ơn đã được thi rớt.

Sách đọc:

Phan Huy Chú, Lịch triều Hiến Chương lọai chí. Phần Khoa mục chí.

Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ. Tập 7. Biên soạn : Nội các triều Nguyễn.

Cao Xuân Dục. Quốc triều Hương khoa Lục

Trần Gia Phụng. Những câu chuyện Việt sử

Đinh Gia Khánh. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam. Thế kỷ X đến XV11

90 năm nghiên cứu về văn hoá và lịch sử Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học xã hội

Ngô tất Tố, Lều chõng.

Sơn Nam : Đồng bằng sông Cửu Long, Đất Gia Định xưa, Bến Nghé xưa

Vương Hồng Sển. Nửa đời hư.

Trần văn Giáp. Nhà sử học.

Vũ Ngọc Phan. Những năm tháng ấy.

Hợp Lưu. Số đặc biệt về Giáo sư Hoàng Xuân Hãn.

Hợp Lưu. số đặc biệt về Phan Khôi.

Đỗ Bằng Đoàn. Đỗ trọng Huề, Khoa cử Việt Nam.

(1) Phan huy Chú, Lịch Triều hiến chương, phần Khoa mục Chí tr149.

(2) Đinh Gia Khánh, Hợp tuyển thi văn Việt Nam tr 15..

(3) Phan Huy chú LTHCLC. Phần khoa mục chí

(4) Trần Gia Phụng. Những câu truyện Việt sử

(5) Phan huy Chú. Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí (LTHCLC), tr 169

(6) Phan Huy chú LTHCLC. Phàn khoa mục chí. Tr. 160

(7) Phan Huy chú LTHCLC. Phàn khoa mục chí. Tr. 161

(8) Hợp Lưu. Só đặc biệt về học giả Hoàng xuân Hãn.

(9) Đỗ bằng Đoàn và Ông Đỗ trọng Huề: Khoa cử Việt Nam. tr 197.

(10) Sách KĐ, quyển 7, tr. 416

(11) 90 năm nghiên cứi về văn hoá và lịch sử Vietnam. Baì của Langlet. tr. 221

(12) Sơn Nam, Bến nghé xưa. tr. 11-15

(13) Sơn Nam. Đồng Bằng sông Cử u Long. tr 38,40

(14) Sơn Nam, Đất Gia định xưa tr. 71

(15) 90 năm nghiên cứu về văn hoá và lịch Việt Nam. Tr 290.

(16) 90 năm nghiên cứu về văn hoá và lịch sử Việt Nam. Bài của Langlet. tr. 223

(17) Cao xuân Dục, Quốc Triều Hương Khoa Lục.

(18) Theo G.S Tạ Trọng Hiệp, trong cuốn hồi ký cuối đời của ông Vũ ngọc Phan, mà chúng tôi đã đọc, nhưng không thấy được những kẽ hở quan trọng về nhân cách nhà văn như G.S đã nhận ra (G.S. Hiệp đã quá cố). Thời Nhân văn giai phẩm, theo tôi cũng giúp chúng ta có cơ hội thấy đưọc một số trí thức tiểu tư sản hèn như thế nào. Nổi tiếng thì như Thế Lữ. Riêng Thế Lữ thì tôi đã nhận ra ông ngay từ thời T.L.V.Đ. Khi cuốn phóng sự Làm Đĩ ra mắt Ông diễu : Có một người khách vào tiệm sách hỏi cô bán sách : Cô có LÀM ĐĨ không.. Cô bán hàng không vừa Đốp lại. Thưa không, ông lấy một CÁI TÁT nhé! Ông đã vùi dập những người không phải phe nhóm như khi ông phê bình, diễu cuốn Thần Hổ của Tchya. Sau này ông theo C.S, ông đập Phan Khôi cùng với Nguyễn công Hoan.

Riêng Vũ ngọc Phan thì khôn ngoan hơn, ông để gần 100 trang để nói về mối tình với cô Hằng Phương, Hằng Phương là ai. Là con gái Sở Cuồng Lê Dư, người cộng tác làm báo N.P với Phạm Quỳnh. Ông Lê Dư có 3 người con gái đẹp, 1 lấy Vũ Ngọc Phan, 1 lấy tướng Nguyễn Sơn, nổi tiếng ở Thanh Hoá một thời (Xin đọc hồi ký của Phạm Duy), và gái cuối cùng lấy Hoàng văn Chí. Ông Lê Dư lại lấy em gái cụ Phan Khôi. Rắc rối rồi.

Vì vậy, trong hồi ký không nhắc gì đến TÊN bố vợ.., đến ngày tháng năm sinh, người ta cũng cố tình quên khi cần phải viết về tiểu sử Lê Dư.. Tên ông ngoại của bố vợ là cụ Phan Trân thì lại cố tình viết trẹo ra là cụ Phan Trần. Kỹ quá. Mà cũng tội nghiệp cho họ.

(19) Đỗ Bằng Đoàn, Đỗ Trọng Huề: Khoa cử Việt Nam tr.27.

(20) Phan Huy chú LTHCLC. Phần khoa mục chí. Tr. 181

(21) Phan Huy chú LTHCLC. Phần khoa mục chí. Tr. 177

(22) Phan Huy chú LTHCLC. Phần khoa mục chí. Tr. 174

(23) Vương Hồng Sển. Hơn nữa đời hư. Tr. 299