2 vợ chồng sản xuất thuốc chữa bệnh bằng nguyên liệu thức ăn chăn nuôi

Ba’o Nguoi-Viet

January 14, 2025

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Hôm 14 Tháng Giêng, Công An TP.HCM đã khởi tố, bắt giữ hai vợ chồng bị can Ngô Kim Diệu, giám đốc công ty Kingpharm, và Nguyễn Thị Ngọc Hương, giám đốc công ty Kiến Lâm, cùng 20 người khác về tội “sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh.”

Báo Thanh Niên dẫn điều tra ban đầu cho biết từ năm 2018 đến nay, hai bị can Diệu, Hương sử dụng tên hai doanh nghiệp là công ty Kingpharm ở quận Bình Tân và công ty Kiến Lâm ở quận 8 để làm bình phong kinh doanh dược phẩm, nhưng thực tế là âm thầm lập kho, xưởng, máy móc để sản xuất các loại Đông y, tân dược giả điều trị các bệnh đau xương khớp, viêm mũi, trĩ, phong ngứa, dạ dày, tim mạch, thần kinh…

Bị can Ngô Kim Diệu (trái) và vợ Nguyễn Thị Ngọc Hương lúc bị bắt. (Hình: VNExpress)

Dù không có chuyên môn về y dược, nhưng hai bị can đã tìm hiểu, mua nguyên liệu Đông y, hoạt chất tân dược có cùng công dụng chữa một số bệnh đem về trộn lẫn, nghiền thành bột rồi dùng máy móc đóng thành viên nang, ép vỉ, đóng lọ thành phẩm.

Cá biệt, có các hoạt chất được nhập cảng, phân phối phục vụ sản xuất thức ăn chăn nuôi, nhưng được bán trôi nổi ra thị trường được bị can Diệu mua về để sản xuất thuốc uống cho con người.

Để giữ bí mật, vợ chồng bị can Diệu thuê các xưởng in ấn bao bì, tem, nhãn; tuyển 16 nhân viên là người thân, họ hàng để sản xuất, quản lý kho nguyên liệu, thành phẩm và tách ra riêng biệt.

Đáng nói, vợ chồng bị can Diệu, Hương không làm giả thương hiệu thuốc nào đang lưu hành trên thị trường Việt Nam mà tự vẽ ra các thương hiệu như Xương Khớp Khắc Tinh, Tỷ Thống An Khang, Xạ Hương Linh Chi Đơn, Ngứa An Khang, An Trĩ Khang, Khang Vị An, Tọa Cốt Thần Kinh Thống… của một công ty “ma” nào đó ở Malaysia, Singapore… để in trên bao bì, nhãn mác nhằm dễ dàng bán ra thị trường cho người bệnh.

Hồi cuối năm ngoái, Phòng Cảnh Sát Điều Tra Tội Phạm Về Kinh Tế, Tham Nhũng, Buôn Lậu và Môi Trường Công An TP.HCM phát hiện có đường dây sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc Đông y kết hợp tân dược.

Vào cuộc điều tra, công an xác định, vợ chồng Diệu, Hương có vai trò cầm đầu.

Sau khi có đủ chứng cứ, Công An TP.HCM lập nhiều tổ công tác đồng loạt ập vào bốn địa điểm là nơi chứa nguyên liệu, hàng giả thành phẩm, bắt vợ chồng Diệu, Hương và những người liên quan.

Một phần tang vật là thuốc giả bị công an thu giữ. (Hình: VNExpress)

Tại hiện trường, công an thu giữ gần 1,200 thùng thuốc thành phẩm và nguyên liệu các loại, trong đó có hơn 56,000 sản phẩm giả (còn lại là hàng chưa thành phẩm); năm hệ thống máy móc để đóng viên nang, ép vỉ, đóng lọ, cán nóng ép miệng túi bao bì… và 1.6 tấn bột để sản xuất viên nén, bao bì, tem mác, các loại…

Nhà chức trách phải dùng 11 xe vận tải mới chở hết số thuốc giả và các tang vật khác.

Công an xác định chỉ trong năm 2024, vợ chồng bị can Diệu, Hương đã sản xuất thuốc Tây giả trị giá hơn 45 tỷ đồng ($1.7 triệu). Trong đó, riêng ba bị can Đỗ Thành Mỹ, 44 tuổi, ở quận 12; Đỗ Thanh Hải, 52 tuổi, ở huyện Bình Chánh; và Nguyễn Mộng Điền, 37 tuổi, quê Trà Vinh, tiêu thụ số thuốc giả trị giá gần 35 tỷ đồng ($1.3 triệu)

Hiện cơ quan hữu trách đang tiếp tục mở rộng vụ án. (Tr.N) [qd]


 

Ảo tưởng giải phóng miền Nam-Tác Giả: Nguyễn Tường Tâm

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Tường Tâm

15/01/2025

 Anh bộ đội trở về nhà ở miền Bắc với món quà búp bê cho con và bóp đầm cho vợ. Ảnh Flickr

Sau khi đất nước thống nhất (năm 1975), có dịp tìm hiểu tinh thần chiến đấu của bộ đội miền Bắc, người ta dễ dàng nhận thấy, mặc dù không phải người bộ đội nào cũng có tin thần hăng say khi được/bị gửi vào chiến trường miền Nam đầy hiểm nguy, nhưng cũng rõ ràng đại đa số những bộ đội đi Nam chiến đấu đều tin tưởng rằng nhân dân miền Nam đói khổ vì bị Mỹ Ngụy kềm kẹp; và họ có tinh thần cao đẹp của những người chiến sĩ đi giải phóng quê hương thực sự. Nhà văn Dương Thu Hương, trong lần trả lời phỏng vấn của Đinh Quang Anh Thái, đã cho biết “khi tham dự cuộc chiến chống Mỹ, tôi nghĩ rằng đây là cuộc chiến chống xâm lược, tôi đã từ bỏ cuộc sống ở hậu phương mà tôi cho là hèn hạ, hoặc đi ra nước ngoài là hèn hạ, để rồi tôi dấn thân vào chốn chông gai như thế.”

Nhưng ngay sau khi chiếm được miền Nam, không hiếm người “chiến sĩ giải phóng” đã thất vọng, và cảm thấy họ bị đảng lừa gạt khi nhìn thấy đường xá to rộng, nhà cao cửa rộng, đời sống sung túc, phong phú và thoải mái của người dân miền Nam. Chỉ vài tuần sau chiến thắng miền Nam, nhà văn Dương Thu Hương khi vào Nam đã nhận định, “Theo tôi, cái mô hình xã hội của cái miền đất bại trận mới chính là mô hình của nền văn minh, và chúng tôi là người trong đội ngũ chiến thắng thì thực ra chúng tôi đã chiến đấu cho một mô hình xã hội man rợ. Và điều đó khiến tôi hết sức cay đắng.” DTH kể tiếp, “xã hội chủ nghĩa hồi đó mỗi năm họ bán cho 5 mét vải. Khi tôi còn thiếu nữ thì cái tuổi thiếu nữ của tôi chỉ được diện toàn cái đồ rách của mẹ tôi. Tại vì có 5 mét vải thì làm sao mà đủ cho một người được. Nhất là trẻ con thì lại chỉ được 4 mét thôi cơ. Mẹ tôi mới được 5 mét. Thì tôi nhớ lúc đó 16, 17 tuổi tôi vẫn còn mặc quần vá bởi vì những cái quần nào mà, mẹ tôi đi dậy học thì phải mặc tử tế rồi, thì tất nhiên chúng tôi thì quần áo chữa đi chữa lại. Tôi cũng không nhớ hình dung là giải phóng tôi vào nhà bác tôi tôi mặc gì. Tôi chỉ biết là mọi người, chắc chắn trước mắt mọi người tôi là một con nhà quê, đen đủi, gầy gò, đại loại là không ra người; đại loại là, nhiều năm đói khổ, nhiều năm ở trong rừng ăn những thứ, nói thật là thức ăn của súc vật. Bởi vì lúc đó chính phủ Việt Nam có bán một thứ sữa mà sau này tất cả mọi người ăn đều bị kiết lỵ; sữa đấy là sữa cho trâu của Ấn độ; trước khi trâu đẻ người ta cho ăn. Thì sau này cả thế hệ của tôi đã bị rất nhiều bệnh là vì ăn những thứ đồ ăn của súc vật. Mà lúc đấy nó là quí lắm vì ít ra nó còn là thực phẩm. Còn bình thường thì rau là rau dại. Còn gạo trong chiến trường thì là gạo chuyển ra gạo tốt. Còn gạo bán cho cán bộ là gạo để lâu rồi. Tóm lại, đó là một thời rất khổ… Nhưng điều mà tôi thấy một cái sự mà không thể nào chấp nhận được là ở miền Nam lúc đó sách bán tứ tung, tất cả mọi nhà đều có television (truyền hình), và có radio, người ta có thể tự do để mà tiếp xúc với tất cả mọi nền văn minh khác. Người ta có thể tự do nghe tất cả các đài báo khác. Và do đó mà trí óc con người, ít nhất, dù là người Việt Nam, tức là cái nền rất thấp, là cái nền xuất phát từ chế độ phong kiến nô lệ, vẫn có thể có điều kiện tiếp xúc với ánh sáng, là các nền văn minh, kiến thức. Trong khi đó thì ở miền Bắc chỉ có một thứ đài được phát ong ỏng trên cái loa công cộng thôi, là được nghe. Còn dân chúng như chúng tôi thì không bao giờ được phép nghe đài nước ngoài.” DTH kể tiếp, “Sách báo cũng vậy. Khi tôi vào miền Nam, tôi mua đến hàng bao nhiêu tạ sách…và tôi đọc như điên và tôi hiểu rằng đây chính là nền văn minh, nơi con người có tự do tiếp xúc với ánh sáng, tiếp xúc mọi thứ thông tin; đó là nền văn minh. Còn xã hội miền Bắc là sao? Là cấm tiệt tất cả những nền văn minh, những nền thông tin khác, để dìm dân chúng trong sự tối tăm và ngu dốt; đó là địa ngục, và đó là một chế độ man rợ… Trong khi đó thì ở miền Bắc, với cái chế độ cộng sản trại lính, người ta phân phối cho mỗi người, ví dụ như học sinh như tôi ấy, một tháng được 1 lạng đường, 1 lạng thịt; mẹ tôi thì 250 gram, hay 2 lạng rưỡi thịt. Tôi nhớ là với cái chế độ ấy con người biến thành súc vật; vì sao? Tất cả tuổi thơ của tôi, ngày nào tôi cũng phải ra đồng. Bởi vì nếu tôi không ra đồng kiếm tôm, kiếm cá, mò cua bắt ốc thì bản thân tôi cũng còi xương. Còn những đứa em tôi và bà ngoại cũng không có gì ăn cả. Bởi vì là một lần mua thịt trong một tháng thôi. Mẹ tôi được 2 lạng rưỡi, trong nhà mỗi người 1 lạng nữa thì tôi phải dậy xếp hàng từ 3 giờ sáng. Rồi số thịt ấy bố tôi bảo mẹ tôi yếu cho nên là phải để mẹ tôi ăn. Thế còn tất cả các bà cháu chỉ trông vào rỏ cua rỏ cá ngoài đồng thôi. Cho nên là khi mà người ta bị đánh vật với miếng ăn thì người ta biến thành con vật. Cho nên nhà nước điều khiển con người bằng sự tối tăm, ngu dốt và sự đói khổ. Và đó là cái vòng luẩn quẩn… Và lúc đó tôi đã bảo rằng chế độ này cần phải bị lật đổ; đấy là ý nghĩ khởi đầu của tôi. Tôi bảo là đây là chế độ lừa đảo, gian manh và cần phải bị lật đổ.”

Trong cuốn hồi ký “Để Gió Cuốn Đi”, nữ ca sĩ xinh đẹp Ái Vân, một người được sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, vào Sài Gòn lần đầu tiên vào đúng dịp 30/04/1975. Thời điểm 1975, Ái Vân mới 19 tuổi, đang là sinh viên năm 2 khoa Thanh Nhạc của Nhạc Viện Hà Nội. Cô kể lại: “Được vào Nam, lại được làm xướng ngôn viên (Miền Bắc gọi là phát thanh viên) cho Đài Truyền Hình Sài Gòn những ngày đầu tiên của hòa bình, còn vinh dự nào hơn. Trước đây cứ nghe nói đồng bào Miền Nam “bị Mỹ ngụy kìm kẹp” khổ lắm, rất cần sự giúp đỡ từ Miền Bắc, cứ hình dung dân Sài Gòn đói khổ lắm. Mới vào Sài Gòn tôi rất ngỡ ngàng. Chỉ cần nhìn cách ăn mặc, trang điểm, đi lại, ăn nói nhẹ nhàng; chỉ cần ra chợ mua gì cũng có câu cảm ơn và túi ni lông đựng đồ đủ biết mình không cùng đẳng cấp văn minh với người ta rồi. Biết mình bị ngộ nhận với thông tin lệch lạc. Theo địa chỉ ba cho từ ngoài Bắc, tôi tìm đến nhà cô Hà Thị Tuyết, ở nhà gọi là cô Cả, là chị lớn của ba. Khi đến thăm cô Cả, cô sinh viên nghèo Ái Vân cũng mang biếu gia đình chút quà từ tiêu chuẩn ăn của mình. Con dâu trưởng của cô Cả hỏi: “Cô mang cho chúng tôi quà gì thế?”  Tôi trịnh trọng vừa mở bọc ni lông vừa nói: “Em biếu gia đình 2 cân gạo ạ, chắc nhà mình cũng đang cần.” Ối giời, cả nhà cười nghiêng ngả: “Giời ạ. Lại mang gạo cứu trợ cho chúng tôi nữa cơ đấy. Khổ thân em.” Rồi chị dắt tôi tới mở thùng gạo to tướng bằng nhựa, bên trong đầy ắp gạo, thứ gạo trắng muốt và thơm phức, nõn nà. Bây giờ tôi mới để ý trong nhà ngoài ti vi, tủ lạnh, còn có máy giặt và nhiều thứ lạ lẫm khác cho thấy một cuộc sống rất tiện nghi, không thể có bất kỳ nhà nào ở Miền Bắc tại thời điểm đấy, dù là nhà ông Thủ Tướng.”

Ở trên là nhận xét, so sánh giữa hai miền Nam-Bắc trong thời chiến của hai nữ nghệ sĩ nổi tiếng nhất miền Bắc thời đó. Nhà văn Nguyễn Quang Lập thì kể, sau 30-4, gia đình ông vào Nam thăm ông bác, được ông bác cho bố ông 20 cây vàng, “hai chục cây vàng đem ra Bắc trả hết nợ nần còn xây được ngôi nhà ngói ba gian hai chái. Sự đổi đời diệu kì.”

Tác giả Trần Hiếu, trong bài “Cảm Ơn Từ Đáy Lòng” viết, “Nhờ có Giải Phóng mới biết được gói bột gặt VISO hòa vào nước để ngâm cho dễ giặt chứ không phải luộc quả bồ hòn để lấy nước giặt hay dùng bánh xà phòng 72% của Liên Xô thâm-xì cứng-ngắc đáp chết chó mèo. Mới biết được dân miền Nam đi xe máy và ô tô nhiều hơn xe đạp. Mới có được những đồ chơi bằng nhựa như búp bê nhắm mở mắt, ô tô, máy bay, chú ếch xanh chạy cót tinh xảo cho trẻ em. Và đặc biệt hơn là mới biết được có cái nhà xí rất hay có thể làm chung cùng nhà tắm và chỉ cần xả nước một cái là sạch sẽ không mùi, chứ không như cái nhà xí lộ thiên đầy ruồi nhặng mà mỗi lần đi đại tiện xong lại phải ra đầu gió đứng 15 phút để gió thổi bớt mùi đi rồi mới dám vào nhà, không thì mọi người lại tưởng mình vừa đi ăn lẩu thập cẩm đó là chưa nói tới cái khoản phải có kỹ năng vò nát tờ giấy vở để nó tơi và mềm ra thì mới có cái mà chùi các bác ạ ! Vì làm chó gì có giấy chuyên dùng cho vấn đề này. Trước 30/4 /1975 ngồi nhà đèn dầu nghe loa phát thanh tuyên truyền các bác miền Nam khổ lắm bị chính quyền dồn vào ấp chiến lược khống chế quyền tự do đi lại rồi bị áp bức đói khổ mà chúng tôi đau lòng và cứ thương các bác miền Nam quá! Té ra chúng tôi ăn khoai sắn nằm ổ rơm hút thuốc lào nghe loa công cộng tối ngủ nóng hết cả bụng lẫn cổ họng lại đi thương các bác ăn cơm thịt bò, cá kho tộ, nằm đệm mút, máy lạnh, xem ti vi, nghe nhạc trữ tình.”
Người ta không thể giải phóng một thành phần dân chúng giầu có sung túc gấp trăm lần mình. Người ta cũng không thể giải phóng thành phần dân chúng có trình độ văn hóa cao gấp chục lần minh. Nhiều thành phần dân chúng sinh sau 1975, nhìn hình ảnh thành phố hiện nay đã tưởng rằng trước 1975, miền Bắc cũng có hình ảnh gần tương tự như vậy và việc giải phóng miền Nam là chính đáng. Không phải đâu, miền Bắc trong chiến tranh chỉ là những căn nhà ổ chuột, sống chen chúc chục hộ gia đình, mỗi người được chỉ tiêu 4 mét vuông, không bếp, không cầu tiêu, nhà tắm riêng. Hai hình ảnh dưới đây do nhà báo quốc tế chụp hình hai anh bộ đội mang về miền Bắc sau chiến tranh những chiến lợi phẩm không giá trị của miền Nam thời đó nhưng đối với miền Bắc là những món quà quí giá chứng tỏ sự chênh lệch giầu nghèo giữa hai miền Nam Bắc, chứng tỏ lý tưởng “chiến tranh giải phóng miền Nam” là điều đảng bịa đặt để thúc đẩy người dân miền Bắc đi vào cuộc chiến vô nghĩa, nếu không muốn nói là phi nghĩa, làm thiệt mạng mấy triệu người dân hai miền trong 20 năm huynh đệ tương tàn, nồi da xáo thịt.

Nguồn: Soldier on the road, back from Saigon, 1976 – Photo by Marc Riboud by manhhai, on Flickr) Anh bộ đội miền Bắc từ Saigon trở về nhà sau chiến tranh, 1976 mang theo các chiến lợi phẩm chứa trong hòm và con búp bê cầm ở tay.


 

Ở Mỹ chỉ cần làm 2 ngày rưởi, còn ở Việt nam phải làm 3 tháng để trả tiền phạt vì vượt đèn đỏ

Ở Mỹ chỉ cần làm 2 ngày rưởi, còn ở Việt nam phải làm 3 tháng để trả tiền phạt vì vượt đèn đỏ

Trong quý đầu tiên của năm 2024, mức lương trung bình hàng tuần của người lao động tại Mỹ là 1.139 USD, theo Cục thống kê lao động Mỹ (BLS).  Điều đó tương đương với thu nhập hàng tháng là 4.935 USD hoặc 59.228 USD mỗi năm.  https://ditruglobal.com/muc-luong-trung-binh-o-my/

Thu nhập bình quân của người lao động là 8,4 triệu đồng …

Aug 25, 2024 — Theo Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, trong 6 tháng đầu năm 2024, thu nhập bình quân của người lao động là 8,4 triệu đồng/tháng, …

Lỗi vượt đèn đỏ ở Mỹ. (từng tiểu bang có mức phạt khác nhau). Cao nhất California, mức phạt cho lỗi này có thể lên đến $490.- trung bình dao động từ 8-12 triệu. Xe máy ôtô như nhau, Mức lương Mỹ trung bình 5.000 đô 1 tháng, tương đương với 110 triệu, Thì người lao động cần làm 2,5 ngày để đóng phạt vì lỗi này

Trong khi ở Việt Nam, sau ngày 1-1-2025 lỗi vượt đèn đỏ của VIỆT NAM là 18-20 triệu (luơng 7 triệu 1 tháng), thì nếu bác nào vi phạm thì phải mất gần 3 tháng lương cho lỗi vượt đèn đỏ


 

Kế hoạch 419A tối mật tấn công vào dân Đồng Tâm?

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Đàn Chim Việt

14/01/2025

Cụ Lê Đình Kình- người bị sát hại trong chiến dịch Đồng Tâm

Trong 3 lần họp báo với giới truyền thông trong nước sau sự kiện hơn 3 nghìn công an đủ các lực lượng tấn công đẫm máu vào Đồng Tâm, thì ông Tô Ân Xô và Lương Tam Quang là 2 quan chức cao cấp của Bộ Công An đã lên tiếng để giải thích điều gì đã xảy ra vào giấc rạng sáng ngày 9 Tháng Một 2020 tại Đồng Tâm.

Ban đầu, một cách đầy chủ quan, họ định một tay che mặt trời khi cho rằng việc tấn công xảy ra tại khu vực Miếu Môn, nơi đang tranh chấp, cách thôn Hoành, Đồng Tâm hơn 2km. Với lý do dân làng đã kéo đến đấy để ngăn cản lực lượng quân đội xây dựng tường rào Miếu Môn.

Sau sự vạch trần của nhiều Facebooker, thì họ đã phải điều chỉnh dần sự gian dối và trong lần họp báo sau cùng, họ đã phải thừa nhận việc tấn công xảy ra tại nhà của gia đình cụ Lê Đình Kinh tại thôn Hoành, Đồng Tâm.

Tuy vậy, họ vẫn cho rằng khi đơn vị chức năng đi băng ngang cổng thôn Hoành, thì dân làng Đồng Tâm đã chủ động tiến ra, dùng hung khí tấn công vào lực lượng công an?!

Với cách thông tin như vậy, họ muốn công chúng tin rằng lực lượng chức năng chỉ thực hiện việc tự vệ và sau đó là truy bắt nhóm dân làng đã vi phạm pháp luật vì chống người thi hành công vụ và gây rối trật tự công cộng mà thôi.

Thông tin này hoàn toàn trái ngược lại với các nhân chứng tại làng Đồng Tâm, kể cả những dân làng bị bắt giữ, rằng dân làng bị lực lượng công an chủ động tấn công khi đang ngủ trong phạm vi nhà cụ Lê Đình Kình.

Vậy thực tế, ai đã chủ động tấn công?

Nếu dân làng chủ động tấn công lực lượng công an, đó là hành vi vi phạm pháp luật một cách hiển nhiên và dĩ nhiên, dân làng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi của mình. Nhưng nếu lực lượng công an tấn công cấp tập vào nhà dân bằng súng đạn, pháo sáng, drone không người lái, chó nghiệp vụ? Thì cơ sở pháp lý nào cho phép họ làm việc đó?

Cho đến khi nhóm luật sư tiếp cận với hàng chục nghìn trang hồ sơ vụ án, trong đó, vô tình có 2 lời khai nhắc đến bản kế hoạch tối mật 419A của cơ quan công an, mà có vẻ như đó là bản kế hoạch tấn công vào dân làng Đồng Tâm. Thế nhưng, trong hồ sơ vụ án lại không có lưu bản kế hoạch mật 419A đó.

Thế nên, trước phiên tòa và nhắc lại rất nhiều lần trong phiên tòa, với tư cách người bào chữa, chúng tôi đã yêu cầu tòa án thu thập bản kế hoạch 419A này để xem xét.

Vì lẽ, nếu đây là bản kế hoạch có nội dung tấn công vào dân làng Đồng Tâm, thì rõ ràng, chính lực lượng công an đã thực hiện theo bản kế hoạch để chủ động tấn công vào dân làng Đồng Tâm vào giấc rạng sáng ngày 9 Tháng Một 2020.

.Nhưng nếu bản kế hoạch 419A chỉ có nội dung cho phép lực lượng công an đi tuần tra để bảo đảm trật tự trị an trong tại địa phương và bảo vệ cho việc quân đội xây dựng tường rào Miếu Môn. Thì theo đó, sẽ giúp loại bỏ khả năng lực lượng công an chủ động tấn công và dân làng Đồng Tâm.

.Không chỉ thế, nếu bản kế hoạch được bạch hóa, sẽ còn giúp cho công chúng thấy rõ việc chính quyền điều động lực lượng công an đi vào thôn Hoành có phải là công vụ hay không. Nếu có, phạm vi công vụ là gì, và liệu có bao gồm việc cho phép tiến hành các biện pháp có thể dẫn đến chết đến 4 người hay không?

.Khi làm rõ về những điều nêu trên cũng sẽ làm sáng tỏ là những bị cáo là dân làng Đồng Tâm có chống người thi hành công vụ?

.Trong phiên tòa, hội đồng xét xử đã bác yêu cầu của luật sư đòi thu thập bản kế hoạch 419A này vì 2 lý do: Không cần thiết và đây là văn bản tối mật của ngành công an.

Thật ra, đối với bản kế hoạch 419A này, chỉ có thể đọc nội dung kế hoạch thì mới có thể đánh giá được rằng nó cần thiết phải thu thập hay không? Song song đó, với quy định tố tụng hình sự, thì văn bản tối mật cũng không phải là lý do để từ chối thu thập, làm mất cơ hội xem xét, làm sáng tỏ sự thật của một vụ án tày trời.

.Cuối cùng, cho dù vụ án đã tuyên đến 2 hình phạt tử hình đầy bất công cho các con của ông cụ Lê Đình Kình để khép lại các thủ tục tố tụng. Đồng thời, bản kế hoạch tối mật 419A chưa từng được hé lộ. Thế nhưng, việc tòa án kiên quyết từ chối thu thập và bạch hóa về bản kế hoạch này cũng đã giúp công chúng đoán được nội dung của bản kế hoạch đó. Tất nhiên là bản kế hoạch tấn công vào dân làng Đồng Tâm. Nếu không, sao phải giấu diếm?

Có lẽ, lập kế hoạch với hàng nghìn công an để tấn công vào nhà dân, trên thế giới chắc chỉ có mỗi công an Việt Nam. Đổi lại, với người dân chỉ có vài con dao, gậy gộc và lựu đạp lép để tự vệ, thì lực lượng hùng hậu kia phải bỏ xác đến 3 mạng người…

.DC, ngày 10 Tháng Một 2025

Luật sư Đặng Đình Mạnh


 

‘Một tay cầm khẩu AK, một tay viết luật chết cha đồng bào’-Trần Thế Kỷ 

Ba’o Nguoi-Viet

January 13, 2025

Trần Thế Kỷ 

Nghị định 168, có hiệu lực kể từ ngày 1 Tháng Giêng năm 2025, bị nhiều người dân cho là chỉ làm giàu cho Cảnh Sát Giao Thông (CSGT).

Theo nghị định này, một số lỗi vi phạm bị tăng nhiều lần so với qui định cũ, trong đó có lỗi vượt đèn đỏ và đi ngược chiều. Cụ thể là xe hơi vi phạm hai lỗi này bị phạt từ 18 tới 20 triệu đồng thay vì 4 tới 6 triệu đồng theo qui định cũ. Còn xe gắn máy bị phạt từ 4 tới 6 triệu đồng thay vì vài trăm ngàn như trước đây.

Ghi hình người vi phạm giao thông. (Hình: Báo Thanh Niên)

Nhiều người dân cho rằng với nghị định 168, CSGT phen này trúng mánh, ăn Tết to. Phạt nặng như vầy nên không cho dân quay phim giám sát là hiểu rồi. Chắc Đảng nghĩ tiền, vàng trong dân còn nhiều nên cứ thẳng tay vét. Người nghèo mà lỡ vi phạm thì mệt lắm đây. Đồng lương còm của dân thì không tăng, phạt thì tăng. Chắc phạt nặng để nhà nước ăn bò dát vàng, còn thằng dân ăn cám.

Người dân trách nhà nước không lo nâng cấp đường sá mà chỉ lo phạt cho sướng tay, dân khóc kệ dân. Dân nghèo lo đi làm bằng xe đạp hoặc xe buýt cho chắc cái túi tiền còm. Mà cũng chưa chắc, xe đạp vi phạm vẫn bị phạt như thường. Chỉ ngồi nhà uống nước thay cơm là không lo bị phạt. Mức lương trung bình của người dân Việt Nam chỉ khoảng 7 triệu đồng một tháng, nhưng một lỗi vượt đèn đỏ có thể bị phạt tới 6 triệu đồng. Điều này khiến nhiều người lâm cảnh khốn đốn, trong đó có những người không cố tình vi phạm.

Mặt khác, dù ông Đại Tá Nguyễn Quang Nhật của Cục CSGT khẳng định Luật Trật Tự Và An Toàn Giao Thông không có qui định CSGT được trích lại 85% tiền xử phạt vi phạm giao thông, nhưng thực tế cho thấy điều ngược lại. Đó là Quốc Hội hàng năm đều thông qua nghị quyết về phân bổ ngân sách, qua đó Bộ Công An được sử dụng 85% số tiền từ xử phạt vi phạm giao thông để chi cho các hoạt động đảm bảo an toàn giao thông, trong đó có việc bồi dưỡng cho lực lượng CSGT. Điều này được cho là sẽ khuyến khích CSGT tìm cách xử phạt thật nhiều để tăng thu nhập.

Mà sao nhà nước nổi hứng phạt nặng vậy? Chắc để tăng nguồn thu cho ngân sách vốn bị bọn tham ô làm thất thoát. Nhưng đã thế thì nên giảm biên chế đám công an để khỏi trả lương. Không đâu nhiều công an như ở Việt Nam, ăn lương vô cùng nhiều, mà lương vốn từ tiền dân đóng thuế cho nhà nước. Có báo Đảng nói dân ủng hộ nghị định này. Thật vớ vẩn vì dựa vào đâu mà nói như thế. Dân đâu có điên mà ủng hộ cái nghị định chỉ chăm bẵm túi tiền của dân mà móc. Theo báo Đảng, nghị định 168 ra đời từ việc lấy ý kiến của dân. Nhưng chẳng người dân nào biết gì về cái gọi là “lấy ý kiến” này. Nhà báo nói láo ăn…

Chưa hết, Cục CSGT còn hăm he rằng nếu người vi phạm bỏ xe thì sẽ không được cấp hoặc đổi giấy phép lái xe. Ngoài ra, nếu không có giấy phép lái xe, người vi phạm sẽ bị phạt rất nặng. Dân cho rằng cục này hăm thế là rất bất nhân. Bởi bỏ xe chỉ là chuyện chẳng đặng đừng của dân khi mức phạt cao hơn giá trị xe. Người dân cho rằng mức phạt phải tương ứng với thu nhập bình quân của dân. Và rằng dân không có tiền nộp phạt thì đành bỏ xe cho nhà nước sung công thanh lý. Nhà nước không nên triệt luôn quyền tham gia giao thông của dân. Mặc kệ dân ra sao thì ra, sống sao thì sống thì có đáng là chính quyền “của dân, do dân, vì dân” không?

Đề nghị rằng đã có nghị định 168 thì cũng nên có nghị định 169 qui định bắn bỏ thằng cán bộ nào tham ô từ 1 tỷ đồng trở lên làm ngân sách thâm hụt, khiến nhà nước đẻ ra cái nghị định chó chết này để bù cho sự thâm hụt đó. Tự dưng lại nhớ mầy vần thơ của Bùi Giáng:

Một tay cầm khẩu AK

Một tay viết luật, chết cha đồng bào!


 

Cổ Tích Đời Thường: Cô Gái Xinh Đẹp bỏ thanh xuân cho người đàn ông nằm một chỗ

Phong Bụi 

Cổ Tích Đời Thường: Cô Gái Xinh Đẹp bỏ thanh xuân cho người đàn ông nằm một chỗ

Có những câu chuyện tưởng như chỉ xuất hiện trong cổ tích, nhưng lại xảy ra quanh ta, giản dị và thiêng liêng.

Câu chuyện về chị Thoa, một cô gái trẻ đẹp, đã quyết định gác lại thanh xuân của mình để chăm sóc một chàng trai xa lạ – anh Tuấn – là một câu chuyện như thế.

Chị Thoa, quê ở Đồng Nai, vô tình xem được đoạn video về anh Tuấn, một chàng trai bại liệt nằm bất động ở Tây Ninh. Trong video, anh cất giọng hát yếu ớt nhưng đầy cảm xúc, khiến lòng chị trào dâng một niềm thương xót khó tả. Không chần chừ, chị vượt hơn 100 cây số tìm đến nhà anh.

Khi tận mắt chứng kiến hoàn cảnh của anh – sống lặng lẽ bên người cha già bị tai biến, không người chăm sóc – chị càng không thể quay lưng. Dẫu biết con đường phía trước đầy khó khăn, chị vẫn quyết định gác lại tuổi trẻ của mình, gác lại những dự định cá nhân, để ở bên cạnh anh, làm đôi tay, đôi chân và cả niềm hy vọng cho anh.

Thời điểm ấy, giữa họ chỉ là tình bạn thanh khiết. Nhưng những gì chị làm không phải ai cũng đủ dũng cảm để thực hiện: hy sinh cả thanh xuân, cả tương lai rực rỡ của mình để chăm lo cho một người xa lạ.

Chị đã chứng minh rằng, không phải tất cả tình yêu đều bắt nguồn từ sự lãng mạn, mà có những tình yêu xuất phát từ lòng trắc ẩn, từ ánh sáng trong tâm hồn. Đó là tình yêu không cần đáp lại, chỉ cần biết rằng mình đã làm điều đúng.

Chuyện đời của chị Thoa và anh Tuấn là lời nhắc nhở về sức mạnh của lòng nhân ái, về việc đôi khi, phép màu không đến từ thần thánh, mà đến từ chính trái tim của con người.

Thanh xuân gửi lại

Tuổi xuân chị bỏ sau lưng,

Đổi lấy nụ cười, niềm tin một người.

Dẫu rằng đời lắm chơi vơi,

Tay chị nâng đỡ, giữa trời giông mưa.

Người đời ngợi chị nhân từ,

Mà đâu ai hiểu, nỗi nhọc lòng riêng.

Một đời chăm sóc, dịu hiền,

Chỉ mong người ấy trọn niềm bình an.

Thanh xuân gửi lại thời gian,

Chị mang ánh sáng dịu dàng cho anh.

Một đời, dù ngắn hay dài,

Chỉ cần trọn nghĩa, chẳng hoài tiếc chi.

Phong Bụi


 

Trở lại quê nhà (Bài 5): Thay đổi hay là chết-Nguyễn Thọ

Ba’o Tieng Dan

13/01/2025

Nguyễn Thọ

Tiếp theo bài 1 — bài 2 — bài 3 và bài 4

Phản hồi bài trước của tôi, có bạn lạc quan cho rằng: “Việt Nam cứ vững bước tiến lên, ai than thở cứ than thở”. Hoặc ngược lại: “Cải cách gì cũng chằng hóa rồng được”.

Lịch sử không đơn giản chỉ có trắng-đen.

Tình hình thế giới hiện nay đang đặt Việt nam trước những lựa chọn khác hẳn. Cuộc xâm lăng của Nga vào Ukraina nhằm vẽ lại đường biên giới là một cú sốc. Không chỉ lo ngại một hành động tương tự từ Trung Quốc, mà thái độ đối với Nga, nhà cung cấp vũ khí hàng đầu của Việt Nam cũng thay đổi. Một nhà báo trẻ ở Hà Nội nói: “Việc báo chí thiên vị cho Nga, chỉ đưa tin từ nguồn thân Nga không phải vì họ không biết là ai xâm lăng, mà vì những định kiến xấu với phương Tây ăn sâu lâu nay trong đầu. Nhưng vũ khí phương Tây sẽ dần thay thế hàng Nga và nguyên thủ ta đã bắt tay Zelensky rồi đó”.

Số phận bi thảm của Ukraina là bài học đắt giá cho những nước cùng chung số phận sống bên một đế quốc hung hãn. So với Việt Nam, Ukraina có tiềm lực mạnh hơn nhiều, nhất là công nghiệp quốc phòng, lực lượng trí thức và đội ngũ kỹ sư tin học. Ukraina có một hậu phương nông nghiệp bao la và quan trọng nhất là được cả một liên minh phương tây hậu thuẫn (Nhóm Ramstein hội tụ 50 nước ủng hộ Kiev).

Bất chấp tất cả những thuận lợi đó, Ukraina vẫn bị tàn phá tan hoang, 1/5 lãnh thổ bị mất, hàng trăm ngàn người chết, hàng triệu người tha hương.

Tổn thất này là do đất nước mạnh thứ hai trong liên bang Xô Viết đã ngủ quên hơn 20 năm, không cải cách kinh tế, xã hội, chỉ sống bám vào quan hệ kinh tế với ông bạn láng giềng. Sau khi tách ra khỏi Liên Xô, Ukraina vẫn copy Nga trong mọi việc, từ nền kinh tế đến cách tổ chức quân đội, công an, hậm chí đã trao vũ khí hạt nhân cho Nga. Còn gián điệp Nga thì nằm ở mọi ngõ ngách.

Có người coi những lỗi lầm đó do các chế độ thân Nga trước năm 2014 gây ra. Nhưng dù là ai thì họ cũng là người Ukraina. Lịch sử sẽ chỉ nói là Ukraina bị mất Crimea và một phần Donbas năm 2014, chứ không nói là Ukraina nào. Trung Quốc cũng đã cướp Hoàng Sa 1974 và Gạc Ma 1988 của Việt Nam, không kể Việt Nam nào.

Nếu không mau chóng có một nền công nghiệp mạnh, một thiết chế xã hội hiệu quả, nếu không có đủ đồng minh tin cậy, nếu không mau chóng thoát khỏi vòng cương tỏa của Nga và Trung thì cơ hội sống sót của Việt Nam khi Bắc Kinh gây hấn là bao nhiêu?

Nước Mỹ sau Trump 1 và trước Trump 2 đang đẩy thế giới vào trật tự “Cùi chỏ’, “Mạnh nuốt yếu”. Ý đồ nuốt chửng Canada, Panama và Groenland khuyến khích cho Putin khôi phục lại Liên Xô cũ, giúp Tập quyết tâm chiếm Đài Loan và các đảo Biển Đông. Thương mại xuất siêu sang Mỹ, bao năm qua đã góp phần đáng kể cho Việt Nam tăng trưởng, liệu có giữ được trước một tổng thống chỉ thích chơi “Áp thuế”? Đối với MAGA, đồng minh kiểu gì cũng chỉ là gánh nặng.

Cách duy nhất để không bị mạnh nuốt yếu là mình phải mạnh, phải thành một thế lực mà ai nhìn vào cũng phải nể.

Vậy thì không thể cứ rung đùi ca ngợi tốc độ tăng trưởng 5%-6%/năm được mãi nữa. Đã đến lúc phải thoát nhanh khỏi cái cái bẫy “Thu nhập trung bình” mà mãi mới đạt được. Mục tiêu tăng trưởng hai con số đã chính thức được đặt ra. Việc Singapore trước kia nghèo hơn Sài Gòn, nay chạy xa tít mù tắp đã trở thành lời than thở chính thức. Thể chế chính trị tắc nghẽn xưa nay thường được gọi chệch là “cơ chế vận hành”, nay đã được thẳng thắn gọi đích danh để cải cách. Cỗ xe cồng kềnh, không hiệu quả, chỉ dựa vào cán bộ chuyên môn “đủ giỏi” để tiến từ từ nay trở thành bước cản. Kế hoạch tinh giảm bộ máy nhà nước, cắt bỏ nhiều cơ quan, tổ chức ký sinh, với hàng chục ngàn biên chế đã bắt đầu được thực hiện. Triển lãm “Quốc phòng Việt Nam” tổ chức ở sân bay Gia Lâm tháng trước là một nỗ lực rõ ràng để quốc tế hóa và nội hóa vũ khí cho quân đội, thoát khỏi sự phụ thuộc vào Nga.

Những biểu hiện của nhận thức “Cải tổ hay là chết” này là chính đáng và tạo hy vọng cho rất nhiều bạn bè mà tôi gặp. Nhưng điều đó không dễ. Sau gần 40 năm “đổi mới” trong hòa bình, cải cách lần này thực chất là phá bỏ các rào cản do chính mình tạo ra. Vượt qua mình mới khó.

Ai cũng biết giao thông đô thị ở Việt Nam là sự hỗn loạn có một không hai. Bao nhiêu tiền đổ vào các hệ thống đường cao tốc, hầm chui, cầu vượt đều không có kết quả. Vậy mà kỳ diệu thay, chỉ một đêm sau khi ban bố mức phạt sáu triệu đồng cho xe máy vượt đèn đỏ, trật tự đã được thiết lập. Nhưng bi kịch mới xuất hiện, nạn ùn tắc! Ùn tắc đến mức kinh hoàng (nguyên văn), nhiều hoạt động đình trệ. Người đi xe bỗng nuối tiếc tình trạng vô luật trước đây.

Thì ra xưa nay ta đi lại được, tuy chậm, là nhờ cái mà du khách nước ngoài gọi là “Sự hỗn loạn hợp lý”. Hợp lý vì trong nền giao thông đó, hỗn loạn như vậy mới được việc. Nay cố gắng lập lại trật tự giao thông mong giảm thời gian chết trên đường, bớt khí thải v.v. mới té ra là hệ thống giao thông hiện hành phù hợp hơn với sự hỗn loạn, vô luật pháp.

Tương tự, người ta chưa tưởng tượng được điều gì sẽ xảy ra trong ngành giáo dục, nếu việc dạy ngoài giờ và lạm thu các loại “Tiền bóng đèn” bị cấm tiệt. Nhà nước chỉ nuôi giáo viên một phần, kiếm đâu ra phần còn lại từ dân?

Tương tự, đầu tư nhà nước sẽ đình trệ, nếu qui định đấu thầu hiện tại bị xóa bỏ. Dù thất thoát, nhưng luôn có một bên B nào đó đã được A ngầm cam kết cho thắng và dự án vẫn được giải ngân, công trình vẫn hoàn thành.

Các ví dụ trên cho thấy: Lĩnh vực nào cũng vậy, sự “hỗn loạn hợp lý” đã giúp cỗ máy không hiệu quả này hoạt động.

Giờ đây phải tiến nhanh, phải hiệu quả để khỏi bị tụt hậu, nhưng không đơn giản bỏ cỗ máy đó, mua cỗ máy khác. Đã đến lúc cần những người “rất giỏi” điều hành, để tháo gỡ những gì các bạn “ít giỏi hơn” để lại.

Điều này không dễ, vì đầu tiên nó sẽ mâu thuẫn với chính sách cán bộ xưa, vì phải tát cạn cái hố trũng đạo đức mà tôi nêu trong phần trước.

Điều quyết định là xã hội phải sản sinh và đào tạo con người mới. Phạm Thanh Vân, sáng lập viên của “Dự án Đại Sự Ký Biển Đông” nói với tôi trong một tiệm cà phê nhỏ. “Có nhiều con đường để canh tân đất nước. Nhưng không con đường nào thoát khỏi việc phải tạo ra một tầng lớp trí thức có trình độ sâu sắc, có phương pháp làm việc chuyên nghiệp”.

Tâm đắc vô cùng với Vân. Nhưng tôi băn khoăn một điều. Thanh niên Việt Nam hiện nay có nhiều không gian hơn để hoạt động, có nhiều nguồn thông tin hơn để tìm hiếu hơn chúng tôi. Vậy mà xã hội vẫn thiếu nhân tài. Năm 2010 tôi được vào thăm nhà máy Intel ở Khu công nghệ cao TP.HCM cùng một số trí thức Việt kiều khác. Nhà máy này chủ yếu đóng vỏ chíp, kiểm tra và đóng gói chip Intel. Cho đến nay, đầu tư 1,5 tỷ USD này của Itel vẫn không tạo ra kích thích nào khác cho công nghiệp bán dẫn nước nhà. Việt Nam thiếu những trí tuệ đủ sức xây dựng ngành này. Trong các ngành khoa học xã hội sự thiếu hụt này còn trầm trọng hơn

Trí tuệ cao cấp chỉ có được trong một nền giáo dục có đẳng cấp, được bảo vệ bằng tự do học thuật. Có bạn tiết lộ rằng: vụ tấn công đại học Fulbright là do tình báo Hoa-Nam giật dây [1]. Tôi không dám khẳng định điều đó, nhưng tin rằng dù do ai xui thì trong nước vẫn có rất nhiều kẻ sợ cách mạng mầu, sợ dù vàng nên mới có những bài báo cố tình nhầm lẫn “Tự do học thuật” với “Diễn biến hòa bình”.

Trở ngại lớn nhất cho những cố gắng cải cách chính là lực lượng âm binh đông như quân Nguyên.

Nhìn tấm hình ông Jensen Huang chủ tịch Nvidia nhậu với Thủ tướng, tôi thầm mong hai ông tranh thủ lúc bù khú đã giải thích rõ sự nhầm lẫn tai hại nọ.

(Còn tiếp)

[1] https://fulbright.edu.vn/…/thu-ngo-tu-truong-dai-hoc…/


 

Nhà Văn Phạm Tín An Ninh & tình chiến hữu-Vương Trùng Dương 

Ba’o Nguoi-Viet

January 12, 2025

Vương Trùng Dương 

“Con người sống không có tình yêu thương cũng giống như vườn hoa không có ánh mặt trời, không có gì đẹp đẽ và hữu ích có thể nảy nở trong đó được”

(Nhà văn Victor Hugo)

Nếu bạn có thể kể chuyện, tạo nhân vật, nghĩ ra các sự cố xảy ra và có sự chân thành và đam mê thì việc bạn viết như thế nào cũng không thành vấn đề.”

(Nhà văn Somerset Maugham)

Tác phẩm Drei Kameraden (Three Comrades) năm 1936 của văn hào Đức, Erich Maria Remarque (1898-1970) Tâm Nguyễn dịch với tựa đề Chiến Hữu, nhà xuất bản Kinh Thi ấn hành năm 1972, gồm 28 chương dày bảy trăm trang.

Đệ Nhất Thế Chiến, Remarque ở tuổi 19, bị động viên vào Quân Đội Hoàng Gia Đức, thuyên chuyển về Mặt Trận Miền Tây (The Western Front), bị thương vì các mảnh đạn bắn vào chân trái, tay phải và vào cổ, nên được tản thương về bệnh viện, điều trị cho đến khi chiến tranh kết thúc rồi được giải ngũ khỏi Quân Đội Đức. Sau khi chiến tranh chấm dứt Remarque bị ám ảnh bởi các cảnh tàn phá của chiến tranh, thân phận con người, người lính trong và sau giai đoạn bi thương của lịch sử. Đó cũng là chất liệu và đề tài qua các tác phẩm nổi tiếng của ông như Shadows in Paradise (Các Bóng Tối Của Thiên Đường), Arch of Triumph (Khải Hoàn Môn), All Quiet on the Western Front, (Phạm Trọng Khôi khi phục vụ ở Trường Đại Học CTCT Đà Lạt dịch tựa sách: Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh)… Vì vậy văn hào Remarque được nhiều độc giả ở miền Nam Việt Nam biết đến.

Với tác phẩm Chiến Hữu, kể về cuộc sống nước Đức thời kỳ hậu chiến. Phác họa nhiều khía cạnh cuộc sống cơ cực của tầng lớp nghèo hèn nhất trong xã hội, những con người bị coi là hạng cặn bã phải chịu hậu quả ghê gớm của chiến tranh, trong khi đó kẻ cầm quyền tha hồ trục lợi. Hình ảnh ba cựu chiến binh giữa bên thắng và bên thua, bạn bè đã mất, lại lâm vào nghịch cảnh như nhau trong cảnh lầm than đó đã sống bên nhau, chia sẻ từng miếng ăn. Họ sửa chữa xe cũ, sống lay lắt qua ngày. Những lúc buồn chán bù khú rượu chè an ủi cho nhau, giống như đang trong hầm trú ẩn của chiến tranh, và bên ngoài đối với họ vẫn là chiến trường ác liệt. Họ phải chịu tất cả nỗi đau, mặc cảm mà xã hội không ai hiểu và thông cảm cho họ, trừ những người cũng ở đáy của tầng lớp nghèo hèn như họ. Họ cô độc và phải sống với cái cô độc đó.

Truyện của nhà văn Phạm Tín An Ninh cũng đã đề cập nhiều đến hình ảnh chiến hữu trải dài qua những giai đoạn thăng trầm của lịch sử mà chính tác giả là nạn nhân và cũng là nhân chứng.

Phạm Tín An Ninh, hiền thê, các con chụp lần cuối cùng với thân phụ vào đầu năm 1974. Đây là tấm ảnh lưu niệm cuối cùng trân quý nhất vì sau đó anh không bao giờ còn được gặp lại thân phụ của mình. (Hình: tác giả cung cấp)

Nhà văn Phạm Tín An Ninh, sinh năm 1943 tại Khánh Hòa, theo học tại Trường Trung Học Võ Tánh Nha Trang. Nhập ngũ Khóa 18 SQ Trừ Bị Thủ Đức. Tháng 3/1965 ra trường, phục vụ tại Sư Đoàn 23 Bộ Binh, từ cấp trung đội đến trung đoàn. Tháng 3/1975 đảm trách một phần hành ở Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 44/SĐ 23 BB. Sau biến cố tang thương năm 1975, bị 8 năm tù cho đến tháng 9/1983. Năm 1984 vượt biển, tị nạn ở Na Uy. Cuộc vượt biên của anh:

“Chiếc thuyền nhỏ chở theo 52 người, gần một nửa là đàn bà và con nít, ra khơi hai ngày thì gặp bão. Cả bầu trời phủ kín mây đen. Những ngọn sóng bạc đầu từ trên cao phủ xuống, như muốn nuốt chửng con thuyền nhỏ mong manh. Mệnh số 52 con người chỉ còn biết phó thác cho trời nước mênh mông. Bóng tối tử thần bủa vây khắp phía. Con thuyền bây giờ như cánh bướm nhỏ rơi giữa dòng thác lũ, chìm xuống ngoi lên tả tơi, thoi thóp. Chưa khi nào con người lại quá nhỏ bé và bất lực trước thiên nhiên như lúc này đây…” May mắn gặp chiếc tàu thuộc Vương Quốc Na-Uy (Kingdom of Norway) đang trên hải trình công tác chở dầu từ Nhật sang Singapore cứu vớt trước một cơn bão bắt đầu ập đến. 

Hai ngày đêm trên tàu với chúng tôi là cả một thiên đường. Mặc dù bên ngoài, cơn bão cấp sáu nhiều lúc làm con tàu lắc lư, nhưng trên tàu chúng tôi cảm thấy thật yên ả hạnh phúc… Nếu không có chiếc tàu Na-Uy này cứu vớt, chắc chắn 52 người chúng tôi đã bỏ mình trên biển khơi, cũng giống như hàng trăm ngàn người bất hạnh khác, không một ai hay biết…

Chúng tôi được gởi vào trại tị nạn Hawkins Road, một doanh trại cũ của quân đội Anh tại Singapore, một thời gian được chuyển sang trại chuyển tiếp Bataan, Phi Luật Tân,… Sau tám tháng, chúng tôi lần lượt được đưa sang định cư chính thức tại Na-Uy, một đất nước thanh bình, xinh đẹp và giàu lòng nhân đạo… Gia đình tôi lúc ấy có 10 người, gồm vợ chồng tôi, 6 đứa con và 2 đứa cháu, đến phi trường Fornebu Oslo vào buổi chiều cuối hè.”

Vì muốn trốn thoát khỏi “Quần đảo ngục tù” (Quần đảo GULAG, tựa đề tác phẩm của nhà văn Nga Aleksandr Solzhenitsyn) anh chấp nhận hiểm nguy không những cho bản thân mà cả gia đình!

“Được theo học một khóa Thông Dich Viên và sau đó là Ngân Hàng Bưu Điện. Hơn 30 năm làm việc, may mắn được sắp xếp làm ở những chi nhánh rất gần nhà…”

Sau khi ổn định cuộc sống nơi xứ lạnh, anh bắt đầu sáng tác. Cuộc đời anh quá bất hạnh:

“Mẹ mất hồi tôi mới lên ba, cha tôi chết cuối năm 1976 trong trại tù cải tạo Đá Bàn, khi tôi đang ở một trại tù khác tận núi rừng Việt Bắc và mãi năm năm sau tôi mới nhận được tin buồn.”

Nhưng trong cuộc vượt biên, may mắn được sống còn để chia sẻ với nhau nỗi đau nầy! Trong gần hai thập niên qua, Phạm Tín An Ninh – là một trong những nhà văn gốc lính – sáng tác đều đặn và nhiều nhất đã ấn hành các tác phẩm Ở Cuối Hai Con Đường, Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân, Sau Cuộc Biển Dâu, Những Nén Hương Thắp Muộn, Vệt Nắng Cuối Chiều, Vẫn Còn Vương Tơ (viết chung với GS Võ Doãn Nhẫn)…

Sự xuất hiện của nhà văn đã được nhiều cây bút đề cập khá nhiều vì anh đã viết lại quãng đời từ cố hương thuở học trò, trong quân ngũ, trong lao tù, mảnh đời tị nạn với nhiều góc cạnh của cuộc sống, tình chiến hữu, tình người, tình quê hương, đất nước…

Trích dẫn vài nhận xét: “Những câu chuyện được viết bằng một giọng văn hòa ái, giản dị nhưng không kém phần trau chuốt, cốt chuyện thì rất mạch lạc, với kết thúc bất ngờ, trọn vẹn và nhiều ý nghĩa, gợi lên trong lòng độc giả một niềm thương cảm sâu xa” (GS Nguyễn Thanh Liêm).

“Phạm Tín An Ninh nhận định về việc ông được mến mộ một cách rất khiêm nhượng. Theo ông, ở thế hệ chúng ta, ai cũng phải trải qua nhiều mất mát, thăng trầm. Vì thế khi đọc ông, hầu hết độc giả đều thấy sự đồng cảm, và do đó, đã dành cảm mến cho tác giả. Ông được coi như đã “viết hộ”, “nói ra hộ” nhiều người không có cơ hội cầm bút, hoặc năng khiếu vận dụng ngòi bút”…

“Trên một khía cạnh khác, dù có nhiều từng trải, nhưng nếu người trải qua cảnh ngộ không có một cái “tâm” đồng cảm thì câu chuyện chưa chắc được lưu ý đúng mức để có thể viết ra”. (GS Trần Huy Bích).

“Tác giả Phạm Tín An Ninh đã trở thành một nhà văn ngoài dự liệu của bản thân ông. Ông viết truyện để giải tỏa những trăn trở và gửi gắm đến độc giả một thông điệp. Thông điệp đó là chỉ có cái tình con người với nhau mới thực sự quý giá và tồn tại với thời gian… Đọc Phạm Tín An Ninh, ai cũng có thể tìm thấy mình trong đó để mà tiếc nuối, hờn tủi, trách cứ, phẫn nộ và thương xót cho đất nước, cho dân tộc, cho bạn bè, cho vợ con và cho chính bản thân mình” (Nhà báo Nguyễn Linh Giang).

“Phạm Tín An Ninh, chỉ kể chuyện thôi, những chuyện thật, liên quan đến ông, dính dáng đến ông, ông đã trải qua, hay nhìn thấy. Nhưng ông đã làm sáng lên được cái Đạo gồm các sự hy sinh, tận tâm, chí khí, tròn trách nhiệm, giữ danh dự, không vị kỷ, tận tình tận nghĩa, của những con người sống theo cung cách và phong thái của hơn 4000 Văn Hiến đã tồn tại cho đến ngày mất nước…

Những chuyện Phạm Tín An Ninh kể, là những thí dụ điển hình. Nếu không muốn nhớ tiêu đề của mỗi truyện, ta có thể hiểu tất cả chỉ là những chương trong một truyện dài: “Miền Nam Trường Hận”… (Bảo Anh Trần Tường Vi)

Nhà văn Đỗ Trường sinh ra và lớn lên ở Hà Nội. Sau thời gian theo học tại đại học ngoại ngữ, nghỉ học đi buôn và rồi theo lao động xuất khẩu sang CHDC Đức. Sau khi bức tường Bá Linh sụp đổ, ở lại và định cư tại thành phố Leipzig, CHLB Đức. Là người không liên quan đến thời Việt Nam Cộng Hòa đã nhận định:

“Nhà văn Phạm Tín An Ninh đi lên từ một sĩ quan trẻ chỉ huy cấp trung đội. Mười một năm dài đằng đẵng lăn lộn khắp các chiến trường miền Trung, Cao Nguyên và ông trở thành một vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm chiến trường. Những ngày tháng gian khổ, bi thương ấy, như nhát dao đâm nát hồn người. Bởi, hằng ngày, hằng giờ ông phải chứng kiến cái chết, không chỉ của những người lính (trẻ cùng một dòng máu) ở bên kia chiến tuyến, mà còn phải vuốt mắt cho đồng đội, người thân của mình. Nỗi ám ảnh ấy, thường trực đeo bám ông. Và chỉ khi ngồi đối diện với ngòi bút và trang sách, thì dường như gánh nặng tâm hồn ông mới trút bỏ. Do vậy, ta có thể thấy, tính hiện thực xuyên suốt những tác phẩm của Phạm Tín An Ninh…

Có thể nói, đọc Phạm Tín An Ninh mở ra cho tôi nhiều kiến thức, cái nhìn (đa chiều) về cuộc chiến tàn khốc nhất của dân tộc mà ông, thế hệ ông đã đi qua. Tôi nghĩ, với lăng kính, cái nhìn khách quan như vậy, trang viết của ông không chỉ giá trị về mặt văn học, mà còn có giá trị về lịch sử. Đây là một trong những yếu tố quan trọng làm nên chân dung nhà văn Phạm Tín An Ninh”.

Đỗ Trường đã sống thời gian trong nước có lẽ đã đọc sách vở trong nước và khi ờ trời Âu đã viết nhiều bài về các nhà văn, nhà thơ thời VNCH, nhưng đặc biệt “đọc Phạm Tín An Ninh mở ra cho tôi nhiều kiến thức” nói lên giá trị và ảnh hương của tác giả Phạm Tín An Ninh.

“Truyện” của PTAN hầu hết là “hồi ký” với nhân vật tôi (tác giả) lồng vào đó những dòng hư cấu xoay quanh câu chuyện cho sống động. Vì vậy, với tôi, đây là truyện ký, tự truyện trong ký ức của anh được xây dựng từng mẩu chuyện nhỏ góp nhặt lại thật tài tình.

Vào thời tiền chiến, vài nhà văn đã thành công trong những tác phẩm truyện ký… Tiêu biểu như Đêm Sông Hương (Tam Lang), Nhà Nghèo, Cỏ Dại (Tô Hoài), Vang Bóng Một Thời (Nguyễn Tuân), Ba Người Bạn, Những Trẻ Khốn Nạn (Nam Cao), Tắt Đèn (Ngô Tất Tố), Gió Đầu Mùa, Sợi Tóc (Thạch Lam)… Với bối cảnh trong xã hội thực tại qua từng nhân vật trong cuộc sống được cảm nhận, chứng kiến để sáng tác trong hoàn cảnh “Lò cừ nung nấu sự đời. Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương” (Cung Oán Ngâm Khúc). Và “bức tranh vân cẩu” đó đã bàng bạc trong truyện ký của PTAN.

Từ những mẩu chuyện năm 2008 như Ba Dòng Nước Mắt, Trên Chiến Trường Xưa, Những Đàn Chim Thiên Di,  Ở Cuối Hai Con Đường… Năm 2009 với Lá Rụng Không Về Cội, Vĩnh Biệt Một Con Đò, Tiếng Sáo … Rừng Khóc Giữa Mùa Xuân (2010)… đến những truyện gần đây như Người Góa Phụ Giờ Thứ 25, Tuy Hòa Một Thời Gió Cát, Người Nữ Tu Trong Cô Nhi Viện Pleiku, Nỗi Buồn Cuối Đời Của Một Người Lính Già Lưu Lạc… Theo tôi biết khoảng tám mươi bài viết nhưng anh với tính tình điềm đạm, khiêm nhường, tế nhị trong những lần phát biểu ra mắt tác phẩm, trong những cuộc phỏng vấn.

Theo Quỳnh Đào, Úc Châu: “Trong những cuộc phỏng vấn, Phạm Tín An Ninh nói rằng anh không hề muốn là một nhà văn, mà chỉ muốn viết để vơi bớt những đớn đau dằn vặt trong lòng mình, đặc biệt là để chia sẻ những nỗi đau thương mất mát với đồng đội của mình. Thế nhưng anh đã đạt được những thành công vượt ra ngoài dự tính trong những buổi ra mắt sách tại Hoa Kỳ cũng như tại Úc Châu.

Các truyện ngắn của anh đã tạo nên tiếng vang tại nhiều nơi trên thế giới, và được sự đón nhận và cảm thông đến từ mọi thành phần độc giả, kể cả thế hệ trẻ, bao gồm thế hệ một rưỡi ở nước ngoài như cá nhân người soạn bài viết này, và ngay cả nhiều độc giả rất trẻ ở trong nước. Điều này cho thấy ngòi bút của Phạm Tín An Ninh có sức rung động vượt ra khỏi giới hạn của những hồi tưởng dành riêng cho những người lính, vì`nó đã phản ảnh được những gì rộng lớn hơn, đó là số phận bi thảm của cả một đất nước và một dân tộc từ sau ngày miền Nam thất thủ, và những long đong của thân phận con người”.

Ngoài tình chiến hữu huynh đệ sống chết một thời, PTAN cũng luôn nặng lòng với thầy cũ, bạn xưa của thời cắp sách. Tập truyện Vẫn Còn Vương Tơ anh đã viết chung với cựu GS Võ Doãn Nhẫn, vị thầy dạy Triết lớp Đệ Nhất C của anh thời trung học ở trường Võ Tánh Nha Trang, trong một trường hợp đặc biệt rất cảm động, như  “Lời Thưa” anh đã viết ở trang đầu tập truyện:

“Thầy Võ Doãn Nhẫn là giáo sư dạy môn Triết khi tôi đang học lớp Đệ Nhất C  trường trung học Võ Tánh – Nha Trang. Khi ấy thầy còn rất trẻ, có lẽ cũng vừa tốt nghiệp sư phạm từ Viện Đại Học Đà Lạt. Còn tôi là một đứa học trò không có gì đặc biệt. Học lực trung bình, kể cả môn Triết của thầy, và cũng không nghịch ngợm phá phách lắm. Vì vậy mà sau này thầy không còn nhớ.

Rời trường một vài năm, tôi vào lính. Cuộc chiến càng lúc càng khốc liệt, cuốn tôi theo như cơn lốc xoáy.

Mùa Hè năm 2008, từ Bắc Âu sang Cali ra mắt tập truyện Ở Cuối Hai Con Đường, tôi bất ngờ gặp một cô bạn học cũ, cho biết thầy đang sống ở thành phố San Diego. Tôi gởi biếu thầy tập truyện với lòng biết ơn của một đứa học trò xưa, mà những bài viết hôm nay ít nhiều đã được thừa hưởng từ sự chỉ dạy của Thầy.

Tôi nhận được lá thư với nét chữ run run, không thẳng hàng, lời lẽ thật cảm động, ngợi khen và khích lệ. Thầy cho biết trước đó cũng đã có đọc qua một số truyện ngắn của tôi, nhưng không biết tác giả là học trò của mình ngày trước.

Điều làm tôi cảm động hơn khi biết sức khỏe của thầy không mấy tốt. Thầy bị tai biến mạch máu não cách đây gần mười năm. Bây giờ liệt nửa người, chỉ quanh quẩn trong nhà với chiếc xe lăn. Bao dự tính, ước mơ có lẽ vĩnh viễn không còn thực hiện được.

Chúng tôi, một nhóm bạn cùng lớp rủ nhau xuống thăm thầy. Một buổi trưa hè cháy nắng, thầy ra ngồi trước hiên nhà hơn một tiếng đồng hồ để đợi đón đám học trò xưa. Lòng tôi thật cảm động. Nói năng hơi khó khăn, nhưng thầy rất thích bàn luận về triết học, văn chương.  Những lúc như thế, tôi thấy đôi mắt của thầy sáng lên rồi bỗng dưng trở nên u uẩn. Tôi nghĩ là thầy đang tiếc nuối những chữ nghĩa, những tình tự văn chương vẫn còn lãng đãng ở đâu đó trong ký ức của thầy. Thầy đang sống những tháng ngày buồn bã. Trường lớp, đồng nghiệp, học trò cùng phấn trắng bảng đen đã là một quá khứ mịt mờ xa – một quá khứ mơ hồ như thuộc về ai đó chứ không phải của thầy.

Tôi năn nỉ xin thầy viết lại. Dù thầy chỉ còn một bàn tay hoạt động được, và tất nhiên trí óc thầy cũng khá nặng nề, mệt mỏi, nhưng tôi tin là ký ức của thầy sẽ trỗi dậy mãnh liệt, trái tim của thầy sẽ rung động hơn khi thầy viết ra những gì đang còn đè nặng trong lòng. Và dù thầy có viết được như ngày xưa, khi thầy còn mạnh khỏe hay không, tôi hình dung những lúc ngồi trước máy vi tính, đưa một ngón tay chậm chạp gõ từng mẫu tự trên bàn phím sẽ là những giây phút hạnh phúc nhất của thầy.

Để có người đồng hành trên con đường có nhiều bông hoa nhưng cũng khá gập ghềnh ấy, tôi xin hứa sẽ cùng đi theo thầy, viết với thầy, và in chung thành một một tác phẩm kỷ niệm.  Và đó là lý do để tập truyện ra đời, mang ý nghĩa Vẫn Còn Vương Tơ, như cái tựa mà chính thầy đã chọn.

Bên cạnh những bài viết mang ít nhiều tính triết học sâu sắc của một vị thầy là những câu chuyện kể bình dị, với văn phong non nớt của một đứa học trò. Ước mong được độc giả đón nhận với sự cảm thông và lòng độ lượng.”

(Hình: tác giả cung cấp)

Nhà thơ Quan Dương khi viết về nhà văn đồng hương PTAN cho biết: “Bà xã anh Phạm Tín An Ninh tên Trương Gia Thức và tôi là bạn học cùng lớp cùng trường thời trung học tại trường Trần Bình Trọng Ninh Hòa”… Hai anh em tôi vốn đã thân lại càng thân nhau hơn. Từ sự thân thiết này nên cũng chính tôi là người xúi giục anh cho ra đời tác phẩm đầu tay Ở Cuối Hai Con Đường mà hiện nay đã từng lấy nhiều nước mắt của người đọc. Có một điều hơi tiếu lâm là mặc dù tôi và bà xã anh Ninh đã lên chức nội ngoại hết rồi nhưng nói chuyện với nhau tôi vẫn gọi bạn tôi bằng bà xưng tui giống như 50 năm về trước khi còn đi học… Bà xã anh Ninh tiến bộ hơn không gọi tôi bằng mày xưng tao như lúc xưa nữa mà cũng đã gọi tôi bằng ông xưng tui cho đúng phép lịch sự… Truyện nào của anh cũng đầy tính nhân bản không chứa hận thù nhưng không quỵ luỵ và nhất là không có sự thoả hiệp với cái ác mà đám cộng sản trong nước đang nhân danh để khủng bố người dân. Bên cạnh trong những tác phẩm của anh viết về đời lính, tình chiến binh, tình đồng đội sẵn sàng hy sinh cho nhau mà chúng ta thường bắt gặp vẫn còn có những câu chuyện anh kể về một nửa kia của đời mình”.

Một điều đặc biệt khác, là tất cả các tác phẩm ra mắt tại Hoa Kỳ và Úc Châu, anh Phạm Tín An Ninh đều ủy quyền cho Ban Tổ Chức gây quỹ yểm trợ anh em Thương Binh đang còn khốn khổ ở trong nước, và anh cũng không nhận lại bất cứ một chi phí nào.

Với riêng tôi, sau khi ra trường, thời gian phục vụ ở Tiểu Đoàn 20 CTCT (Pleiku), cuối năm 1970 thuyên chuyển về Nha Trang và lập gia đình ở nơi chốn nầy. Bà xã di cư từ Hà Nội vào Nha Trang năm 1954, niên khóa 1965-1966 theo học lớp Đệ Nhất A tại Trường Trung Học Võ Tánh (học Triết với thầy Võ Doãn Nhẫn), coi anh Phạm Tín An Ninh như lớp đàn anh, Khóa Nguyễn Trãi I Trường ĐH.CTCT, tốt nghiệp vào tháng 5/1969, có 12 tân sĩ quan (Thiếu Úy hiện dịch) về phục vụ tại Trung Đoàn 44 ở Sông Mao, cùng đơn vị với anh, tuy chỉ trong 2 năm (sau đó đa số đã chuyển ngành) nhưng tình “huynh đệ chi binh”, tình chiến hữu  vẫn có biết bao hình ảnh đẹp từ đó đến hôm nay.

Trong bài viết của anh PTAN: “Trung Đoàn 44 BB đồn trú tại trại Lý Thường Kiệt, Sông Mao. Bản doanh của Sư Đoàn 5 BB, từ thời Đại Tá Tư Lệnh Voòng A Sáng, bàn giao lại để di chuyển vào Vùng 3 Chiến Thuật. Sông Mao là một thị trấn nhỏ nằm phía Bắc Phan Thiết khoảng 70 cây số, cách Quốc Lộ 1 về hướng Tây gần 2 cây số. Hầu hết dân chúng ở đây là người Nùng, đã từng theo chân Đại Tá Voòng A Sáng và Sư Đoàn 3 Dã Chiến từ vùng Mống Cái vào đây sau Hiệp Định Genève năm 1954, để sau đó biến cải thành SĐ5 BB, một trong những sư đoàn đầu tiên và thiện chiến của thời Đệ Nhất Cộng Hòa.

Phía dưới, về hướng Đông, nằm dọc theo Quốc Lộ 1 là quận Phan Lý Chàm (Chợ Lầu). Dân chúng đa số là người Chàm. Có cả dinh cơ của bà công chúa cuối cùng của vương quốc Chiêm Thành, với đền thờ vua, cờ xí, long bào, và ấn tín. Cách đó không xa là mật khu Lê Hồng Phong rộng lớn nổi danh của VC. Phía trên là dãy Trường Sơn với mật khu Bá Ghe, nơi trú ẩn của một số đơn vị VC địa phương, đặc biệt có cả một đại đội nữ…

Đây là một vùng khô cằn sỏi đá. Mùa hè, nắng cháy, thỉnh thoảng có vài ngọn gió Nam thổi đến, xoáy theo những đám bụi mù trời… Nhưng một hôm bỗng dưng như có những cơn gió mát làm dịu bớt cái không gian rất “lính” này. Không phải gió từ biển thổi lên, mà từ cao nguyên Lâm Viên và từ tận thủ đô Sài Gòn mang tới. Cùng lúc với mười hai chàng trai tuấn tú từ trường Đại Học CTCT Đà Lạt khăn gói về đây trình diện, là một bông hoa tài sắc từ trường Xã Hội Quân Đội: Thiếu Úy Đinh Thiên Kim (mẩu chuyện nầy được kể tiếp rất thú vị). Trung Đoàn đón tiếp những chàng “Nguyễn Trãi 1” và vị nữ lưu này với niềm vui đặc biệt: hy vọng sẽ có những luồng gió mới trong sinh hoạt của đơn vị hầu mang lại những thành quả, chiến công, trước nhất là thực thi hoàn hảo Kế Hoạch Chân Trời Mới được Quân Lực tin tưởng giao phó”.

Anh đánh giặc cũng thuộc loại “cừ”, dạn dày trong lửa đạn từ khi ra trường với cấp bậc Chuẩn Úy (3/1965) Trung Đội Trưởng đến khi sĩ quan Khóa NT I gặp anh đã mang cấp bậc Đại Úy, trong Ban Tham Mưu Trung Đoàn (tháng 6/1969).

Từ trước đến nay, chỉ có nhà văn PTAN nhắc đến Kế Hoạch Chân Trời Mới với các sĩ quan CTCT ra trường được áp dụng tại đơn vị nầy. Năm 1971, trong cuộc hội thảo của Khóa NT I  tại Tổng Cục CTCT, có sự phê bình, phản đối vì sau 28 tháng quân trường, được đào tạo rất công phu, chu đáo trong ngành nhưng không được sử dụng đúng mức ở các đơn vị tác chiến, nên sau đó đa phần được đặc biệt thuyên chuyển về phục vụ trong ngành CTCT ở các Quân chủng Hải Quân và Không Quân. (Khóa NT I về 4 Sư Đoàn BB: SĐ 2 có 13 sĩ quan, SĐ có 13 sĩ quan, SĐ 23 có 13 sĩ quan và SĐ 5 với 39 sĩ quan trong tổng số 168 sĩ quan tốt nghiệp).

Có dip gặp anh tôi hỏi “Sao anh không viết về những chiến công đã từng tham dự?”. Anh tế nhị trả lời “Là người lính xông pha ngoài trận mạc phải làm tròn bổn phận và có những chiến hữu đã dũng cảm hy sinh cho Tổ Quốc đáng trân trọng và vinh danh hơn bản thân mình”. Trong bài Một Thoáng Pleiku, anh viết: “Ba năm hành quân ở Kontum và Pleiku, nhiều đồng đội, bạn bè tôi đã nằm lại nơi này. Võ Anh Tài, Đặng Trung Đức, Trần Công Lâm, Dương Đình Chính, Đỗ Bê… những tiểu đoàn trưởng nổi danh, những người anh, người bạn thân thiết như tình huynh đệ cùng một đơn vị từ ngày tôi vừa mới ra trường, đã vĩnh viễn ở lại với Kontum, với Pleiku… Ngày ấy, tôi là thằng lính bộ binh, một thứ lính “hạng bét”, chỉ có khốn khổ gian truân và chết chóc. Tháng năm lặn lội trong núi rừng, chỉ còn biết có súng đạn và mục tiêu trước mặt”.

Không phải chỉ với những người bạn chỉ huy, mà anh cũng luôn nhắc nhớ đến chiến công hào hùng của những người lính.

Trong bài Chuyện Một Người Lính Trinh Sát, anh viết: “Trong số này có một anh rất trẻ, đã lập khá nhiều chiến công lẫm liệt, luôn được vị đại đội trưởng đề nghị cấp trên khen thưởng sau mỗi cuộc hành quân. Thành tích xuất sắc nhất là khi anh tình nguyện một mình ôm lựu đạn bò vào tiêu diệt cái chốt của địch gồm nhiều ổ súng phòng không, nằm trong một hốc đá kiên cố trên đỉnh núi Chư Pao. Chính cái chốt quỷ quái này đã gây cho các đơn vị ta nhiều thiệt hại và đe dọa không nhỏ đối với các phi cơ bao vùng, đổ quân và chiến đấu”.

Anh đúng là một cấp chỉ huy luôn gần gũi yêu thương đồng đội dưới quyền, nên luôn nhận được sự kính mến, ngay cả lúc đã tan đàn rẽ nghé. Mở đầu tác phẩm “ Những Nén Hương Thắp Muộn” anh đã có những lời bộc bạch:

“Ra trường, được bổ nhậm về một đơn vị tác chiến lưu động. Trải qua nhiều chức vụ, tôi cũng chẳng phải là một cấp chỉ huy đảm lược, những chiến công hầu hết là nhờ vào máu xương của anh em binh sĩ. Không nhớ tôi đã hướng dẫn họ được những gì, nhưng chắc chắn tôi đã học được ở họ sự trung thành, lòng can đảm và nhiều kinh nghiệm chiến trường. Trong hơn mười năm chiến trận, tôi từng được thăng cấp đặc cách ngoài mặt trận và nhận một số huy chuơng tưởng thưởng. Nhiều lúc trầm tư, tôi phân vân không hiểu đó có phải thực sự là công trạng của mình, khi hình dung đến khá nhiều khuôn mặt đồng đội dưới quyền đã hy sinh, trong lúc mình vẫn đang còn sống? Tôi không bao giờ quên được những ánh mắt của họ đã nhìn tôi trước khi trút hơi thở cuối cùng. Không biết họ muốn trăng trối, gửi gắm hay oán trách điều gì. Tôi thường dành phần để được vuốt mắt họ khi tình hình có thể, như muốn thay một lời tạ lỗi, ít nhất là đã không bảo vệ được họ. Lời người xưa bao giờ cũng đúng “Nhất tướng công thành vạn cốt khô”. Tôi không hề dám mơ tưởng đến chuyện làm tướng bao giờ, nhưng dù chỉ là một sĩ quan cấp nhỏ, tôi cũng đã mắc nợ khá nhiều xương máu của đồng đội anh em, mà chắc chắn sẽ không bao giờ còn trả được.”

Năm 2008, khi đảm trách nguyệt san Chiến Sĩ Cộng Hòa, đọc bài viết của PTAN tôi rất thích. Khi họp khóa, Nguyễn Mạnh Vỹ cho biết về anh và từ đó những bài viết của anh đều đăng trên trang báo nầy. Và những tác giả viết về nhà văn PTAN đều được đăng trong mục Văn Nghệ của tờ báo. Với Nha Trang, trước đó là nhà văn Điệp Mỹ Linh (tự nhận người lính không có số quân), kế tiếp là nhà văn PTAN, gây được nhiều thiện cảm của độc giả qua nhiều sáng tác.

Nhà văn PTAN có trí nhớ rất tốt từ tuổi thơ ở quê nhà, bạn học, bạn cùng đơn vị, những vị thầy khả kính, bạn tù, những hiền thê của người lính, cấp chỉ huy… cả những mẩu đối thoại với nhau cho đến nơi chốn, địa danh được ghi lại rất tường tận. Nhà văn PTAN với cái tâm, nhân bản và đạo lý của người cầm bút nên nhiều sáng tác của anh khi đọc xong cảm thấy xúc động.

Với tình chiến hữu không những ở đơn vị mà sau khi ra tù tìm đường vượt biên. Trong bài viết Bạn Tôi – Những Người Lính Biệt Động Quân: “Nói về bạn bè Mũ Nâu, thì tôi có khá nhiều, từ quan tới lính. Ngay anh em trong gia tộc tôi cũng có hơn một trung đội (đầy đủ theo bản cấp số), đa số đã nằm lại ở các chiến trường. Bạn cùng khóa thì cũng trên bảy mươi chàng chọn Biệt Động….

Một anh bạn gốc BĐQ, trước 75 là một Hạ sĩ 1, tài xế, nhưng về sau này mới bất ngờ gặp và quen nhau lúc tôi vừa ở tù ra với cuộc đời vô cùng khốn khó, còn anh là tài xế của một chiếc xe đò nhỏ chạy đường Nha Trang – Ban Mê Thuột . Biết tôi cũng từng là một cấp chỉ huy nên anh luôn gọi tôi là ông thầy, và hết lòng giúp tôi những gì có thể. Anh đã để lại trong tôi nhiều cảm xúc và một niềm ân hận khôn nguôi, vì nghĩ mình đã không xứng đáng với tấm lòng của anh, không giữ được lời hứa với anh trước khi anh mất…

Gia đình anh gồm vợ và 2 đứa con nhỏ sống ở Ban Mê Thuột. Biết tôi có ý định vượt biên, anh ngỏ ý tha thiết cùng đi với vợ con.Tôi tổ chức chuyến vượt biên cùng với một nhóm bạn cùng tù. Chuyến đi khó khăn sắp thực hiện, tôi ra bến xe mấy lần tìm anh, không gặp. Tôi lên Ban Mê Thuột, và rất bất ngờ được biết xe anh vừa bị tai nạn trên đèo M’Drak, anh bị thương nặng đang nằm trong bệnh viện. Tôi đến thăm, mình mẩy còn quấn đầy băng trắng, cả hai chân bị gãy, vừa mới được giải phẫu, còn treo lên thành giường. Nước mắt tôi ứa ra, chỉ ôm nhẹ vai anh mà không nói được lời nào…

Khi đưa vợ con và bạn bè xuống tàu vượt biển, lòng tôi rất buồn vì thiếu gia đình anh, người bạn BĐQ rất có lòng và chí tình với tôi”.

Bài viết Về Cái Chết Oan Khuất Của Nhạc Sĩ Minh Kỳ với tình người bạn tù đã in sâu vào tâm khảm: “Người viết bài này, có cái cơ duyên được ở chung cùng một trại tù với ông, và cũng đã được tâm sự cùng ông một vài ngày trước khi ông chết…

Trại tù An Dưỡng Biên Hòa, cũng chính là nơi tôi đã gặp nhạc sĩ Minh Kỳ, và đã tâm tình cùng ông một ngày trước khi ông chết…

Một đêm, cuối tháng 8/75… Khi ấy chúng tôi mới biết tiếng nổ tối hôm ấy đã xảy ra tại Nhà 3, làm chết và bị thương khá nhiều. Mọi dấu tích đã được thu dọn sạch sẽ, như chưa hề có việc gì xảy ra…

Lòng tôi nhói lên đau đớn như vừa bị một nhát chém hư vô nào đó. Trong tôi vừa mới mất thêm một điều gì, mà với tôi nó trở thành thiêng liêng hơn là kỷ niệm. Nhiều đêm sau đó tôi trằn trọc cả đêm không ngủ. Dư âm những bài hát Nha Trang của anh lúc nào cũng văng vẳng bên tai tôi. Tâm tư lúc nào cũng mơ màng đến thành phố Nha Trang, đến ngôi trường Võ Tánh, nhớ da diết những kỷ niệm ấu thơ, của những ngày đi học, và hình dung đến từng khuôn mặt bè bạn thân quen…”

Ngoài ra với tình gia đình, anh thiếu tình mẹ từ nhỏ nên rất trân trọng tình mẹ của người vợ lính, người vợ tù, góa phụ nên khi đọc cảm thấy bùi ngùi, xúc động

Không thể nào trích hết những đoạn văn trong các bài viết của anh PTAN. Các bài viết đã lưu trữ trên blog cá nhân của anh, nhiều websites và trong các tác phẩm của anh đã được ấn hành. Đất nước trải qua thời kỳ đen tối của lịch sử ảnh hưởng đến những hệ lụy của thế hệ chúng tôi “sinh bất phùng thời” từ khi sinh ra, lớn lên và cả tuổi già!

Bài thơ Ba Kiếp Lang Thang của thi bá Vũ Hoàng Chương với hai câu cuối: “Ba kiếp lang thang, ngồi chụm lại. Chúng ta mất hết, chỉ còn nhau”. Nay sống trên xứ người, nhờ những sáng tác của các văn thi hữu coi như “chứng tích” của một thời, một đời người nổi trôi theo vận nước cho thế hệ hiện tại và tương lai, trong đó có nhà văn Phạm Tín An Ninh.

(Little Saigon, January 2025)


 

TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG và TỔNG HỢP ở SÀIGÒN-CHỢ LỚN và GIA ĐỊNH trước năm 1975

TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG và TỔNG HỢP ở SÀIGÒN-CHỢ LỚN và GIA ĐỊNH trước năm 1975 :

Lời mở đầu (cập nhật 03/05/2023)

Posted on October 27, 2020 by Lê Thy

(TM tổng hợp và bổ túc)

LỜI MỞ ĐẦU
(xem thêm phần bổ túc LỜI MỞ ĐẦU ngày 3/5/2023 tại đây)

Đây là một tổng hợp và bổ túc lược sử các trường trung học ở Sàigòn, Chợ Lớn và Gia Định trước năm 1975.

Những lý do thúc đẩy thực hiện bài này là như sau :

  1. Thứ nhứt : Tình cảm riêng tư. Người viết và các bằng hữu đã may mắn được theo học bậc trung học tại vài trường tọa lạc trong địa bàn Sàigòn và Gia Định . Nay muốn ghi lại để bảo tồn kỷ niệm về những ngôi trường này và tri ân các thầy cô đã dầy công đào tạo chúng tôi nên người ;
  2. Thứ hai : Khoảng thời gian ở bậc trung học, một cách tổng quát, là khoảng thời gian đẹp nhất trong đời học trò. Thật vậy ,trong bảy năm trung học, đặc biệt bậc đệ nhất cấp, học trò nam cũng như nữ ở vào cái tuổi ‘’Ăn không no, lo chưa tới’’ , gần như hoàn toàn vô tư vì chuyện thi cử và chuyện lính tráng còn mờ mờ xa xa, chuyện ăn mặc sinh sống đã có cha mẹ lo, chuyện chiến tranh bảo vệ an ninh hậu phương và bờ cõi đã có các chiến sĩ can trường ngày đêm giết giặc , bắt đầu mơ mộng biết vui, biết buồn, biết nhớ tới cô bạn (hay anh bạn) học ngồi cùng lớp, cùng trường hay trường lân cận hay cô láng giềng bên nhà. Đây cũng là khoảng thời gian gặp gỡ , kết bạn để cùng nhau chia sẻ những mối bận tâm của lứa tuổi niên thiếu , từ đấy nảy nở những mối lương duyên hay tình bằng hữu chân thật , thân thiết , bền bỉ tới lúc bạc đầu ;
  3. Thứ ba : Những trường trung học lớn, lâu đời và danh tiếng của miền Nam Việt Nam thành lập từ cả trăm năm trước , đều tọa lạc ở Sàigòn và Chợ Lớn.

Bậc trung học của hệ thống giáo dục miền Nam trước 1975 có thể được coi là quan trọng nhất trong ba bậc học : tiểu học, trung học và đại học, bởi vì theo tài liệu [1] : ‘’ Ở bậc trung học ,sự xã hội hóa nhắm vào việc thích nghi con người vào tình trạng văn hóa mà người ta muốn có. Thường khi người ta (các nhà làm chính trị, những nhà lãnh đạo) muốn có xã hội thế nào thì người ta nhắm vào lớp người vào trung học để đào luyện họ trở thành những công dân kiểu mẫu cho xã hội người ta muốn có. Những người này sẽ được xã hội hóa để bảo tồn những gì đã có. Các trường trung học của Việt Nam Cộng Hòa cũng đóng vai trò xã hội hóa học sinh giống như bao nhiêu trường trung học khác trên thế giới. Việc xã hội hóa ở đây là thích nghi con người vào trong xã hội Miền Nam nước Việt vào giữa thế kỷ XX’’.

Theo tài liệu [2,3] :

Thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, năm học 1960 miền Nam có 112.129 học sinh trung học.

Tính đến đầu những năm 1970, Việt Nam Cộng Hòa có hơn 550.000 học sinh trung học, tức hơn 20% tổng số thanh thiếu niên ở lứa tuổi từ 12 đến 18 và có 534 trường trung học.

Năm học 1973-1974, Việt Nam Cộng Hòa có 1.091.779 học sinh trung học.

Đến năm 1975, có khoảng 900.000 học sinh ở các trường trung học công lập.

Mặc dù chỉ tồn tại trong 20 năm (từ 1955 đến 1975), bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh và những bất ổn chính trị thường xảy ra, phần thì ngân sách eo hẹp do phần lớn ngân sách quốc gia phải dành cho quốc phòng và nội vụ (trên 40% ngân sách quốc gia dành cho quốc phòng, khoảng 13% cho nội vụ, chỉ khoảng 7-7,5% cho giáo dục), nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa đã phát triển vượt bậc, đáp ứng được nhu cầu gia tăng nhanh chóng của người dân, đào tạo được một lớp người có học vấn và có khả năng chuyên môn đóng góp vào việc xây dựng quốc gia và tạo được sự nghiệp vững chắc ngay cả ở các quốc gia phát triển.

Theo tài liệu [4] : Nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa đã đạt được những thành công quan trọng nhất và rõ rệt nhất, đồng thời cũng là một nét vàng son đáng trân quý trong nếp sống và sinh hoạt ở Miền Nam thời trước năm 1975.

Các tài liệu [1,2,3,4,5,] là những tài liệu căn bản và tổng quát viết về nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa với các chủ đề chính yếu : Lịch sử nền giáo dục ở Việt Nam từ thời Pháp thuộc đến thời Đệ Nhị Cộng Hòa, triết lý giáo dục Việt Nam Cộng Hòa , hệ thống tổ chức giáo dục của ba cấp bậc tiểu học, trung học và đại học, nhân sự giáo chức sư phạm, chương trình giảng dạy , tài liệu và dụng cụ giáo khoa, hệ thống thi cử và bằng cấp, và những lý đó đưa đến những thành công to tác của nền giáo dục này. Vì vậy, các chi tiết về các trường trung học ngay cả các trường lâu đời nổi tiếng ở Miền Nam và đặc biệt ở Đô Thành Sàigòn và vùng phụ cận không được đề cập nhiều .

Những dữ kiện về lịch sử của các trường trung học ở Sàigòn, Chợ Lớn và Gia Định trước năm 1975 trên mạng Internet rất ít ỏi , hiếm hoi hoặc không có sẵn. Gần như chỉ có những trường trung học lớn nổi tiếng , nhất là các trường công lập hay trường công giáo có các hội ái hữu cựu học sinh thành lập ở hải ngoại, là có phổ biến lược sử của trường. Các trường trung học nhỏ hoặc là trường tư thục không có hội cựu học sinh gần như không có tin tức , và nếu có thì lại nằm rải rác trong nhiều bài vở với nhiều chủ đề khác nhau của nhiều cá nhân. Những ai còn lưu tâm đến các tin tức này có thể mất rất nhiều thời giờ tìm kiếm trên mạng.

Các trường trung học ở Sàigòn, Chợ Lớn và Gia Định trước năm 1975 , được tổng hợp, bổ túc và trình bày trong bài này rất đa dạng :

  • Trường trung học được thành lập từ thời Pháp mới vào miền Nam cho tới thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa;
  • Trường trung học đệ nhất cấp với lớp đệ thất đến lớp đệ tứ , trường đệ nhị cấp bao gồm các lớp từ đệ thất tới đệ nhứt, trường đệ nhị cấp nhưng chỉ có từ đệ tam tới đệ nhứt và trường đệ nhị cấp nhưng chỉ có lớp đệ nhứt thôi. Nhiều trường trung học còn có các lớp tiểu học trong khuôn viên trường ;
  • Trường trung học giảng dạy chương trình Việt , chương trình Pháp và chương trình dành riêng cho học sinh người Việt gốc Hoa ;
  • Trường trung học công lập và trường trung học cộng đồng ;
  • Trường trung học tư thục thành lập và quản trị bởi giáo hội Công giáo, hay Phật giáo hay tư nhân ;
  • Trường trung học phổ thông, kỹ thuật , mỹ thuật ,kiểu mẫu và tổng hợp.

Bài này là một tổng hợp thực hiện với những dữ kiện trích từ các nguồn sau đây :

  1. Một số tài liệu nghiên cứu lịch sử, địa lý và văn hóa vùng Sàigòn, Chợ Lớn và Gia Định từ thế giữa thế kỷ thứ 18 cho tới những năm 1970, được ấn hành vào thời chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ;
  2. Những tin tức, tài liệu và hình ảnh về một số trường học được viết hay kể lại theo trí nhớ hay được cung cấp bởi các cựu học sinh ;
  3. Ký ức của người viết bài này;
  4. Các tài liệu sưu tầm trên mạng Internet đặc biệt là các địa chỉ mạng của các hội ái hữu cựu học sinh ở hải ngoại.

Các dữ kiện từ những tài liệu tham khảo trên Internet đã được kiểm soát chéo (cross check) lẫn nhau trước khi được xử dụng để tổng hợp.

Tuy vậy, dù đã cố gắng tối đa nhưng chắc chắn bài viết vẫn còn thiếu sót.Tác giả rất vui đón nhận những phê bình, chỉ dẫn để có thể hoàn thiện bài này.

Tổng cộng chín mươi bảy (97) trường trung học riêng rẻ ở Sàigòn, Chợ Lớn và Gia Định và một (1) tập hợp các trường trung học công lập không chi tiết ở Gia Định, đã được tổng hợp và bổ túc.

Ngoài ra, bài này còn thêm vào ba (3) cơ sở không hoàn toàn thuần túy là trường trung học vì những lý do sau :

– Chủng viện (Séminaire) Sàigòn : Chủng viện là gốc nguồn xuất phát của vài trường trung học trong bài này. Chủng viện cũng được xử dụng như trường học tạm thời trong một thời gian ngắn cho học sinh của vài trường trung học khác;

– École Normale d’Instituteurs (École Normale) : Chuyên đào tạo thầy cô giáo bậc sơ học và tiểu học khởi đầu cho nền giáo dục ở miền Nam. Cơ sở của École Normale đã được xử dụng làm 2 trường trung học trong bài này;

– Trường Sư Phạm Nam Việt : Trường này đã được ghi dẫn trong lược sử một vài trường trung học .

Và sau cùng là một Phụ trang về các trường chuyên dạy Sinh Ngữ.

Để dễ dàng cho việc tìm kiếm và tham khảo, người viết đã sắp xếp và phân loại các ngôi trường liệt kê trong danh sách dưới đây theo thứ tự như sau :

  1. a) Trường phổ thông, kiểu mẫu và tổng hợp theo địa bàn : Sàigòn – Chợ Lớn và sau đó là Gia Định ;
  2. b) Trường kỹ thuật và mỹ thuật trong chung địa bàn Sàigòn – Chợ Lớn và Gia Định;
  3. c) Trong mỗi thể loại trên, các ngôi trường được sắp theo năm thành lập và tiếp theo đó là thứ tự mẫu tự tên trường . Những ngôi trường mà năm thành lập không xác định sẽ được xắp sau cùng theo thứ tự mẫu tự tên trường .

Danh sách các ngôi trường trình bày trong bài gồm có :

Trường trung học phổ thông & tổng hợp ở Sàigòn-Chợ Lớn :

  1. 1850- Chủng viện (Séminaire) Sàigòn – Quận 1
    (xem thêm phần bổ túc ngày 3/5/2023tại đây)
  2. 1861- Collège d’Adran – Quận 1
    (xem thêm phần bổ túc ngày 3/5/2023tại đây)
  3. 1864- Trường Saint Paul Sàigòn – Quận 1
  4. 1874- Trường Chasseloup Laubat-JJ Rousseau- Lê Quý Đôn – Quận 3
  5. 1874- Trường La San Taberd – Quận 1
    (xem thêm phần bổ túc ngày 3/5/2023tại đây)
  6. 1877- Trường Thiên Phước – Quận 3
  7. 1908- Trường Bác Ái – Quận 5
  8. 1910- Institution municipale des jeunes filles à Saigon – Quận 1
  9. 1915- Trường Gia Long – Quận 3
  10. 1918- Trường Marie Curie Sàigòn – Quận 3
  11. 1922- École Normale d’Instituteurs – Quận 1
    (xem thêm phần bổ túc ngày 3/5/2023tại đây)
  12. 1922- Trường Huỳnh Khương Ninh – Quận 1
    (xem thêm phần bổ túc ngày 3/5/2023tại đây)
  13. 1923- Trường Lasan Đức Minh – Quận 3
  14. 1927- Trường Petrus Ký
  15. 1933- Trường Hồng Bàng – Quận 5
  16. 1940- Trường Bồ Đề – Quận 2
  17. 1945- Centre scolaire Saint Exupéry
  18. 1947- Trường Huỳnh Thị Ngà – Quận 1
  19. 1947- Trường Thánh Linh – Quận 5
  20. 1948- Trường Colette – Quận 3
  21. 1948- Trường Lamartine – Quận 1
  22. 1950- Trường Couvent des Oiseaux – Quận 1
  23. 1950- Trường Les Lauriers – Quận 1
  24. 1950- Trường Sư Phạm Nam Việt – Quận 1
  25. 1950- Trường Vương Gia Cần – Quận 1
  26. 1953- Trường Charles de Gaulle – Quận 3
  27. 1953- Trường Đức Trí – Quận 2
  28. 1954- Trường Chu Văn An – Quận 5
  29. 1954- Trường Nguyễn Trãi – Quận 4
  30. 1954- Trường Trần Lục – Quận 3 (1971 trở thành Nguyễn Du- Quận 10)
  31. 1954- Trường Trưng Vương – Quận 1
  32. 1955- Trường Võ Trường Toản – Quận 1
  33. 1956- Trường La San Hiền Vương – Quận 3
  34. 1956-Trường Nguyễn Bá Tòng (Sàigòn) – Quận 2
  35. 1956- Trường Văn Lang – Quận 1
    (xem thêm phần bổ túc ngày 3/5/2023tại đây)
  36. 1957- Trường Mạc Đĩnh Chi – Quận 6
  37. 1957- Trường Trung Thu – Quận 5
  38. 1958- Trường Văn Hóa Quân Đội – Sàigòn và Gia Định
  39. 1959- Trường Hưng Đạo – Quận 2
    (xem thêm phần bổ túc ngày 3/5/2023tại đây)
  40. 1960- Trường Regina Pacis – Quận 3
  41. 1962- Trường La San Chánh Hưng – Quận 8
  42. 1963- Trường Nữ Thánh Anna – Quận 9
  43. 1963- Trường Phan Sào Nam – Quận 3
  44. 1966- Trường Trung học Cộng đồng Quận 8 – Quận 8
  45. 1967- Trường Saint Martin – Quận 1
  46. 1968- Trường Trung học Cộng đồng Quận 6 – Quận 6
  47. 1970- Trường Đồng Tiến – Quận 10
  48. 1971- Trường tổng hợp Nguyễn An Ninh – Quận 10
  49. 1971- Trường tổng hợp Sương Nguyệt Anh – Quận 10
  50. 1972- Trường Phục Hưng – Quận 3
  51. Khoảng thập niên 1950 hay trước – Trường Kiến Thiết – Quận 3
  52. Khoảng thập niên 1950 hay trước – Trường Thánh Têrêxa – Quận 5
  53. Khoảng thập niên 1950 – Trường Trường Sơn – Quận 3
    (xem thêm phần bổ túc ngày 3/5/2023tại đây)
  54. Khoảng thập niên 1950 – Trường Việt Nam Học Đường – Quận 1
  55. Khoảng thập niên 1960 hay trước – Institution Phan Van Hue – Quận 2
  56. Khoảng thập niên 1960 hay trước – Trường Nguyễn Khuyến – Quận 3
  57. Khoảng thập niên 1960 – Lycée Cửu Long – Quận 3
  58. Khoảng thập niên 1960 – Trường Đông Tây Học Đường – Quận 1
  59. Khoảng thập niên 1960 – Trường Nguyễn Công Trứ – Quận 1
  60. Khoảng thập niên 1960 – Trường Tân Thạnh – Quận 1
  61. Khoảng thập niên 1960 – Trường Văn Hiến – Quận 1
  62. Khoảng thập niên 1960 – Trường Văn Học – Quận 3
  63. Khoảng trước năm 1964 – Trường Thánh Tâm – Quận 10
  64. Năm không xác định – Trường Tân Văn – Quận 3

Trường trung học phổ thông & kiểu mẫu ở Gia Định

  1. 1939- Trường Lasan Mossard Thủ Đức
  2. 1954- Trường Hồ Ngọc Cẩn
  3. 1955- Trường Chu Mạnh Trinh
  4. 1956- Trường Lê Bảo Tịnh
  5. 1956- Trường Nguyễn Duy Khang
    (xem thêm phần bổ túc ngày 3/5/2023tại đây)
  6. 1957- Trường An Lạc
  7. 1957- Trường Lê Văn Duyệt
  8. 1957- Trường Lý Thường Kiệt
  9. 1959- Trường Đạt Đức
    (xem thêm phần bổ túc ngày 3/5/2023tại đây)
  10. 1959- Trường Hoàng Gia Huệ
  11. 1959- Trường Thánh Thomas
  12. 1960- Trường Notre Dame des Missions
  13. 1960- Trường Thánh Liêm
  14. 1961- Trường Chân Phước Liêm
  15. 1963- Trường Quốc Gia Nghĩa Tử
  16. 1965- Trường Kiểu Mẫu Thủ Đức
  17. 1966- Trường Bình Chánh
    (xem thêm phần bổ túc ngày 3/5/2023tại đây)
  18. 1966- Trường Nhà Bè
  19. 1966- Trường Phụng Sự Thánh Minh
  20. 1968- Trường Vinh Sơn Liêm
  21. 1969- Trường Tân Bình (1973 trở thành Nguyễn Thượng Hiền)
  22. 1970- Trường Lasan Thạnh Mỹ
  23. 1970- Trường Nguyễn Bá Tòng (Gia Định)
  24. Khoảng trước năm 1960 – Trường Trung Mỹ Tây
  25. Khoảng trước năm 1968 – Trường Quang Trung
  26. Năm không xác định – Trường Phước An
  27. Khoảng thập niên 1960-1970 – Tập hợp các trường công lập không chi tiết ở Gia Định

Trường trung học kỹ thuật & Mỹ Thuật ở Sàigòn & Gia Định

  1. 1898- Trường kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ – Sàigòn
  2. 1906- Trường kỹ thuật Cao Thắng – Sàigòn
    (xem thêm phần bổ túc ngày 3/5/2023tại đây)
  3. 1913- Trường Quốc Gia Trang Trí Mỹ Thuật Gia Định – Gia Định
  4. 1956- Trường kỹ thuật Don Bosco – Gia Định
  5. 1959- Trường kỹ thuật Régina Pacis – Sàigòn
  6. 1960- Trường kỹ thuật Việt Đức – Thủ Đức – Gia Định
  7. 1965- Trường kỹ thuật Quốc Gia Nghĩa Tử – Gia Định
  8. 1968- Trường kỹ thuật Gia Định – Gia Định
  9. Năm không xác định – Trường kỹ thuật Cao Đạt – Sàigòn
  10. Năm không xác định – Trường kỹ thuật Dương Châu Minh- Sàigòn

Phụ trang

  1. Các trường chuyên dạy Sinh Ngữ27/5/2021

103-Danh sách bổ túc các trường trung học27/5/2021

104-Bổ túc Lời Mở Đầu và chi tiết các trường Trung Học

Để dễ dàng việc định vị các ngôi trường trên, bản đồ Đô Thành Sàigòn và vùng phụ cận , và bản đồ tỉnh Gia Định ấn hành trước năm 1975, được đính kèm dưới đây.

Vì lý do rất hiển nhiên là tất cả các trường trung học trình bày trong tài liệu này đều được xây lên và hoạt động từ trước năm 1975, bài này chỉ dùng các danh từ, ngữ vựng, thành ngữ và các tên đường và địa chỉ đã được đặt ra và xử dụng trước năm 1975 của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa.

Từ những kết quả cụ thể đạt được ,những điểm nổi bậc đáng chú ý được ghi nhận như sau :

  • Các trường trung học công lập thành lập bởi người Pháp vào đầu thế kỷ 20 như Chasseloup-Laubat (Jean Jacques Rousseau), Gia Long , Petrus Ký và Chu Văn An… có thể được coi là những nôi đầu tiên đào tạo nhân tài trí thức ưu tú cho xã hội miền Nam Việt Nam;
  • Sau hiệp định Genève năm 1954 , bên cạnh những việc tái định cư và ổn định đời sống cho hơn một triệu người Bắc di cư vào Nam, chính phủ Đệ Nhất Cộng Hòa đã nhanh chóng thiết lập lại các trường trung học di cư để cho việc học của các học sinh không bị gián đoạn;
  • Sau khi người Pháp về xứ, chính phủ Việt Nam đã chuyển tiếp một cách êm thấm chương trình Pháp sang chương trình Việt trong hai trường Gia Long , Petrus Ký. Đến thập niên 1960, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã thêm môn Việt Văn vào trong chương trình giảng dạy của các trường Pháp ở Sàigòn, quản trị và điều hành bởi chính phủ Pháp hay các tổ chức tư nhân;
  • Vào năm 1958 và nhiều năm kế tiếp sau đó,chính phủ Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa đã thành lập trên 4 vùng chiến thuật toàn cõi miền Nam Việt Nam, một hệ thống trường trung học Văn Hóa Quân Đội để giúp đỡ các con em quân nhân tại ngũ, có nơi chốn học hành ở hậu phương;
  • Năm 1963 và nhiều năm kế tiếp sau đó, để tỏ lòng tri ân của quốc gia đối với những người đã cống hiến xương máu hoặc hy sinh cho tổ quốc, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã mở một hệ thống trường Quốc Gia Nghĩa Tử trên toàn quốc cho các cô nhi, con cái của tử sĩ và thương phế binh. Các trường này có các lớp đến đệ nhị cấp, giảng dạy theo ba chương trình giáo dục phổ thông, kỹ thuật và tổng hợp;
  • Nền giáo dục thành lập và để lại bởi người Pháp đã có một ảnh hưởng to lớn và sâu đậm trong nền giáo dục Việt Nam Cộng Hòa. Các trường trung học phổ thông và cả kỹ thuật miền Nam vẫn theo mô hình giáo dục trung học phổ thông Pháp.Tuy nhiên vào đầu thập niên 1960, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã thử nghiệm một hệ thống giáo dục Tổng Hợp theo mô hình giáo dục Hoa Kỳ. Thành công của cuộc thử nghiệm này đã dẫn tới việc thành lập một hệ thống trường Trung Học Tổng Hợp (còn được gọi là trường Trung Học Dẫn Đạo) trên khắp toàn quốc Việt Nam Cộng Hòa;
  • Giáo dục kỹ thuật cũng có những bước tiến đáng kể. Trước năm 1960, Sàigòn chỉ có 2 trường kỹ thuật công lập Nguyễn Trường Tộ và Cao Thắng, xây vào đầu thế kỷ 20 bởi người Pháp. Đến năm 1970, số trường đã tăng lên tới 9 với 7 trường kỹ thuật công lập và tư thục. Nhiều bộ môn chuyên nghiệp mới như Thương Mại, Kế Toán, Doanh Thương, Nữ Công Gia Chánh, Kinh tế gia đình, Dinh Dưỡng… đã được thêm vào trong học trình kỹ thuật để đáp ứng nhu cầu nhân lực do sự phát triển của kinh tế , thương mại và kỹ nghệ. Vì vậy, trường Nguyễn Trường Tộ ,truyền thống chỉ nhận nam sinh, vào năm 1973 đã mở cửa đón nhận nữ sinh.Vào năm 1971, trường mỹ thuật Gia Định và năm 1973 trường Nguyễn Trường Tộ đã được nâng lên thành trường trung học đệ nhị cấp;
  • Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, mặc dầu phải để dành gần như hết tài lực và nhân lực để đối phó với chiến tranh xâm lược liên tục bởi cộng sản miền Bắc, đã thành công gầy dựng được rất nhiều trường trung học công lập mới. Chính phủ đã đặc biệt chú ý tới các quận nghčo của đô thành Sàigòn và các vùng nông thôn xa xôi hẻo lánh của tỉnh Gia Định.Nhiều ngôi trường mới đã được khởi đầu từ các trường tiểu học có sẵn. Một số trường mới khác , gian nan hơn ,đã bắt đầu từ con số không và được xây dựng trên những khu đất không được dự trù để xây cất hay trú ngụ.

Trước năm 1954, Sàigòn- Chợ Lớn và Gia Định chỉ có 5 trường công lập: Hai trường phổ thông Gia Long, Petrus Ký, hai trường kỹ thuật Nguyễn Trường Tộ , Cao Thẳng và một trường mỹ thuật Gia Định để lại bởi người Pháp. Chỉ trong một thời gian ngắn 18 năm từ năm 1954 đến năm 1972, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã thành lập được bảy mươi bốn (74) trường trung học công lập;

  • Sau năm 1954 và vào đầu thập niên 1960, một hệ thống trường trung học tư thục hình thành và phát triển rất nhanh tại Sàigòn- Chợ Lớn và Gia Định để bổ khuyết cho khả năng giới hạn của các trường công lập không đáp ứng được hết nhu cầu gia tăng khối lượng học sinh quá nhanh chóng.Tài liệu [4,6,7]đã có ghi nhận điều này. Đô thành Sàigòn, Chợ Lớn và tỉnh Gia Định có 63 trường trung học tư thục Việt, Pháp và Hoa .

Các trường tư thục được thành lập bởi giáo hội Công Giáo , Phật Giáo và tư nhân. Tuy nhiên chương trình đào tạo học sinh trung học phổ thông của các trường công giáo như trường La San , Nguyễn Bá Tòng ,Chân Phước Liêm, Don Bosco … có thể được coi là hoàn hảo nhất bởi vì ngoài phần văn hóa còn có thêm các sinh hoạt hiệu đoàn ,hướng đạo , văn nghệ, thể thao,công tác xã hội từ thiện.

Nhiều trường tư thục tư nhân như Văn Lang,Trường Sơn, Hưng Đạo, Văn Học, Phục Hưng… đã mời được những giáo sư đầy kinh nghiệm tới từ các trường công lập. Vì vậy phẩm chất giảng dạy của các trường này rất tốt và số học sinh đậu tú tài 2 rất cao chẳng kém trường công lập;

  • Các trường trung học Việt ở Sàigòn, Chợ Lớn và Gia Định trước năm 1975 liệt kê trong danh sách trên , đều được đặt bằng tên :

– Của các anh hùng dân tộc thời trước hay danh nhân, được mọi người từ lâu công nhận như: Trưng Vương, Lý Thường Kiệt ,Hưng Đạo, Gia Long ,Nguyễn Trãi , Lê Văn Duyệt , Mạc Đỉnh Chi, Lê Quý Đôn, Chu Văn An, Võ Trường Toản, Cao Thắng, Nguyễn Trường Tộ, Petrus Ký, Phan Sào Nam v.v … ;

– hoặc những tên có ý nghĩa tôn giáo như tên các Thánh Công giáo, Thiên Phước, Phước An, Bồ Đề… ;

– hoặc các danh xưng văn hóa ,văn học xứ sở như Hồng Bàng, Văn Lang, Văn Hiến, Văn Học, Tân Văn, Tân Thạnh, Bác Ái ,Kiến Thiết, Phục Hưng…

Tuyệt nhiên không hề có một trường trung học công lập nào mang tên của các lãnh tụ đương thời dù đó là Bảo Đại, Ngô Đình Diệm hay Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, kể cả Trần Văn Hương gốc nhà giáo, như đã ghi trong tài liệu [4,5].

Từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, các trường trung học kể trên bị bọn ngụy quyền cộng sản tịch thu. Một số trường bị phá hủy để xây cao ốc thương mại, condos, một vài trường trở thành trường dành riêng cho bọn cán bộ đảng, phần còn lại bị đổi quy chế và trách nhiệm giáo dục và bị đổi tên trường với những tên hoàn toàn xa lạ như Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai hay tên của những kẻ khủng bố như Lê Thị Hồng Gấm và cả những khủng bố vị thành niên như Võ Thị Sáu, Lý Tự Trọng …hay tệ hơn nữa, là ngụy tạo Lê Văn Tám, không có thật, đối với quảng đại quần chúng miền Nam là “ngoài giáo dục” (kiêm luôn vô giáo dục ) hay vài cái tên vọng âm hưởng cải tạo ruộng đất đấu tố tràn đầy máu và nước mắt ngoài Bắc ngày xưa như Bổ Túc Công Nông, Đuốc Sống hay cái tên Đồng Khởi dính liền với đặt bẫy, gài mìn , ném lựu đạn khủng bố , đào đường, đắp mô, phá cầu, đòi tiền mãi lộ, ám sát, chặt đầu, trấn nước thả sông, đốt nhà, phá ấp, pháo kích bừa bãi vào trường tiểu học và nhà dân … chính vì nó mà biết bao người dân vô tội vùng thôn quê miền Nam đã mất mạng sống và sau năm 1975, toàn dân Việt Nam mất luôn Tự Do.

Tài liệu tham khảo :
1. Nguyễn Thanh Liêm – Nền giáo dục miền Nam trước 1975 (trích lược) – 01/07/2019.
2. Nam Sơn Trần Văn Chi – Đạo và Đời Qui Nguyên- Viện Nghiên Cứu Đạo Cao Đài – Giáo dục thời Việt Nam Cộng Hòa.
3. Nguyễn Võ Phương Nam – Tiếc nuối nền giáo dục Việt Nam Cộng Hoà (2) – 06/09/2018.
4. Phạm Cao Dương – Sau 44 năm : Nhìn lại thời vàng son của giáo dục VNCH trước năm 1975 – 06/05/2019.
5. Phạm Cao Dương – Những đặc tính truyền thống cơ bản của nền giáo dục miền Nam trước 75.
6. Huỳnh Minh– Gia Ðịnh xưa và nay – Nhà xuất bản Khai Trí -1973.
7. Lê Nguyễn -Ký ức vụn về chuyện học ở miền Nam thời Đệ Nhất Cộng Hòa..


 

Nghị định 168: Tính toán sai lầm của ông Tô Lâm (RFA)

RFA

Trung Khang
2025.01.11

Tổng Bí thư Tô Lâm

 REUTERS

Nghị định 168 (ban hành vào ngày 26 tháng 12) và Nghị định 176 (ban hành vào ngày 30 tháng 12) cùng có hiệu lực ngày 1/1/2025, với mục tiêu giảm thiểu tai nạn giao thông và nâng cao ý thức chấp hành luật pháp… đến nay đã có tác dụng ngược, khi tạo ra ùn tắc kéo dài, và gây phẫn nộ trong dân chúng vì hàng loạt bất cập.

Vai trò của ông Tô Lâm trong việc ra Nghị định 168 

“Vai trò của Tổng Bí thư lớn nhất nước, nếu không có sự đồng ý của ông Tô Lâm thì không thể có nghị định 168 đó. Còn về mặt thời gian, ra một quy định gấp rút áp dụng như vậy, điều đó thể hiện vai trò đảng lãnh đạo tuyệt đối và đó là sự lãnh đạo độc tài toàn trị.” – Cựu đại úy công an Nguyễn Doãn Tú bình luận với RFA.

Trong hệ thống bộ máy chính quyền Việt Nam hiện nay, Quốc hội, tuy là cơ quan lập pháp, nhưng lại không thực hiện vai trò chính của mình là soạn thảo luật. Thay vào đó, các quyết sách quan trọng đều do Bộ Chính trị chỉ đạo, sau đó việc soạn thảo luật pháp do các bộ-ngành đảm nhiệm, rồi Quốc hội hay Chính phủ sẽ thông qua theo chỉ đạo của Bộ Chính trị.

Một ví dụ dễ thấy nhất là vào năm 2018, khi Quốc hội Việt Nam thảo luận về Luật đặc khu, Chủ tịch Quốc hội khi đó là bà Nguyễn Thị Kim Ngân đã nhấn mạnh “Bộ Chính trị đã kết luận rồi, phải ra luật chứ không không thể không ra luật.”

Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay gồm 14 người, do Tổng Bí thư Tô Lâm đứng đầu sau khi ông được bầu nắm giữ vai trò người đứng đầu Đảng vào ngày 3 tháng 8 năm 2024.

Chắc chắn ông Tô Lâm ít nhất phải được tham vấn, nếu không muốn nói là người đưa ra quyết định cho nghị định 168 này.
-Tiến sĩ Nguyễn Huy Vũ

Nghị định 168, vốn được đề nghị và chắp bút bởi Bộ Công an, sau đó trình Chính phủ và Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà thay mặt Thủ tướng Chính phủ ký phê chuẩn vào ngày 26/12/2024, và được áp dụng chỉ vỏn vẹn vài ngày sau đó.

Với tác động to lớn về mặt kinh tế, chính trị, và xã hội, Nghị định 168 rất có khả năng đã được Bộ Chính trị, và người đứng đầu là ông Tô Lâm, phê duyệt.

“Có thể các vị cấp cao can thiệp, hay Bộ chính trị, Trung ương đảng… thì tôi nghĩ đó là nằm ngoài quy trình thông thường. Nếu thấy sai trái hay chưa phù hợp thì có lẽ trong trường hợp này, tiếng nói của một người được coi là cấp cao nhất trong hệ thống chính trị sẽ rất quan trọng. Ông Tô Lâm mà không đồng ý, thì có lẽ các cơ quan hay các cá nhân khác không thể nào mà bỏ qua chỉ đạo và khuyến cáo của ông Tô Lâm được.” Cựu trung tá công an Vũ Minh Trí giải thích với RFA về vai trò của vị Tổng Bí thư xung quanh việc ra Nghị định 168.

Đồng tình với hai vị cựu sĩ quan công an, Tiến sĩ Nguyễn Huy Vũ, cũng cho rằng với tư cách là người đứng đầu, nên “chắc chắn ông Tô Lâm ít nhất phải được tham vấn, nếu không muốn nói là người đưa ra quyết định cho nghị định 168 này.”

******

Ông Tô Lâm lợi gì khi cho Bộ Công an ban bố Nghị định 168?

Bộ Công an là cơ quan trình Chính phủ Nghị định 168. Người chịu trách nhiệm đứng đầu Bộ này là Bộ trưởng Lương Tam Quang, là người cùng quê Hưng Yên, và được cho là thân tín của ông Tô Lâm.

Cũng chính ông Tô Lâm vào ngày 20/10/2024 đã thăng cấp đại tướng cho Bộ trưởng Công an Lương Tam Quang.

Bộ Công an cũng chính là công cụ được ông Tô Lâm sử dụng để hạ bệ nhiều đối thủ chính trị, mở đường lên nắm giữ chức vụ Tổng Bí thư.

Nghị định 168 với mức phạt cao gấp hàng chục lần so với trước, cộng với việc phần lớn tiền phạt sẽ được phân bổ cho ngành công an, đây rõ ràng sẽ đem đến nguồn lợi khổng lồ cho Bộ Công an.

“Ai cũng thấy là một nghị định như vậy nó sẽ giúp gia tăng thu nhập cho những cá nhân của Bộ Công an. Sự gia tăng thu nhập sẽ đến từ hai nguồn. Nếu người dân đóng tiền phạt, đa số tiền phạt này sẽ ở lại Bộ Công an. Ngược lại, nếu người dân chịu chung chi cho công an thì mức chung chi cũng phải tăng lên.”– Tiến sĩ Nguyễn Huy Vũ nhận định.

Thông qua một hành động như vậy, ông Tô Lâm muốn lấy lòng Bộ Công an và muốn dùng Bộ Công an như một đồng minh chính trị của mình. Trong kỷ nguyên của Tô Lâm, công an lúc này là cánh tay quyền lực nhằm duy trì trật tự xã hội.
-Tiến sĩ Nguyễn Huy Vũ

Theo Tiến sĩ Vũ, khi đồng ý cho Bộ Công an ban bố điều này, ông Tô Lâm thực hiện một hành động như thể ông đang giúp tăng thêm thu nhập cho các cá nhân trong Bộ Công an.

“Thông qua một hành động như vậy, ông Tô Lâm muốn lấy lòng Bộ Công an và muốn dùng Bộ Công an như một đồng minh chính trị của mình. Trong kỷ nguyên của Tô Lâm, công an lúc này là cánh tay quyền lực nhằm duy trì trật tự xã hội.”– Ông Vũ nói thêm.

Chỉ tính riêng Hà Nội, sau một tuần áp dụng Nghị định 168, địa phương này đã phạt 14 tỷ đồng vi phạm giao thông. Nếu tính chung cả nước, số tiền Bộ Công an thu về là không hề nhỏ, chưa kể những khoản chung chi mà cảnh sát giao thông bỏ túi riêng.

Điều này, theo Tiến sĩ Nguyễn Huy Vũ, sẽ củng cố lòng trung thành của Bộ Công an đối với ông Tô Lâm.

Trong bối cảnh Đại hội 14 của đảng Cộng sản Việt Nam chỉ còn một năm nữa sẽ diễn ra, và ông Tô Lâm được cho là đang nuôi tham vọng tiếp tục ở lại ngôi vị Tổng Bí thư. Rõ ràng, việc nắm chắc Bộ Công an trong tay, sẽ giúp tham vọng của chính trị gia quê Hưng Yên dễ thực hiện hơn rất nhiều.

Các phương tiện dừng đèn đỏ tại một ngã tư ở Hà Nội vào ngày 8 tháng 1 năm 2025. Nhac NGUYEN / AFP.

Nghị định 168 ảnh hưởng thế nào đến uy tín chính trị của ông Tô Lâm?

Chỉ sau 10 ngày Nghị định 168 có hiệu lực, làn sóng phẫn nộ đã xuất hiện tràn lan trên các nền tảng mạng xã hội. Nhiều người đã bày tỏ sự phẫn nộ vì những bất cập do nghị định này mang lại.

Việc ban hành và thực thi Nghị định 168 một cách vội vã cho thấy sự thiếu phán đoán trên nhiều mặt.

Giáo sư Carl Thayer ở Đại học UNSW Canberra khi trả lời RFA cho rằng, chính phủ nên tiến hành một chiến dịch thông tin rộng rãi cho cả các cấp có thẩm quyền được giao nhiệm vụ thực thi Nghị định và công chúng nói chung.

“Rõ ràng là một số điều khoản của Nghị định 168 yêu cầu phải cải thiện cơ sở hạ tầng an toàn giao thông trước, chẳng hạn như đèn đỏ hoạt động bình thường.” – Giáo sư Carl Thayer cho biết đã không có sự chuẩn bị tốt trước khi ban hành Nghị định 168.

Tổng Bí thư Tô Lâm, theo cách diễn đạt của người Mỹ, là “where the buck stops”, có nghĩa ông phải chịu trách nhiệm hoàn toàn vì ông là người có thẩm quyền tối cao.
– Giáo sư Carl Thayer

Các khoản tiền phạt được quy định trong Nghị định 168 rất nghiêm khắc. Nhiều người vi phạm sẽ không thể trả các khoản tiền phạt này. Phúc lợi xã hội của toàn bộ gia đình sẽ bị ảnh hưởng trầm trọng, nếu một người làm chủ kinh tế gia đình bị phạt.

“Tổng Bí thư Tô Lâm, theo cách diễn đạt của người Mỹ, là “where the buck stops”, có nghĩa ông phải chịu trách nhiệm hoàn toàn vì ông là người có thẩm quyền tối cao.”– Giáo sư Carl Thayer nhấn mạnh.

Theo Ông Carl Thayer, nếu sự hỗn loạn hàng loạt xảy ra trong những tuần tới và nếu công chúng phẫn nộ, ông Tô Lâm sẽ phải vào cuộc và ra lệnh đình chỉ Nghị định.

Tổng Bí thư Tô Lâm mới lên nắm quyền và còn đang tìm cách xóa bỏ hình ảnh Nguyễn Phú Trọng. Vậy mà đã khiến dân chúng phẫn nộ vì Nghị định 168. Nếu mọi việc diễn ra như Giáo sư Carl Thayer dự đoán, trong khi Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 14 chỉ còn 1 năm nữa sẽ diễn ra, sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến ông Tô Lâm.

“Việc này nó cho thấy một điều mà nhiều người, trong đó có tôi, đã nhận định từ rất lâu đó là Tô Lâm, với kinh nghiệm của một công an chuyên bắt bớ và đàn áp, không thể dẫn dắt quốc gia và xã hội.” – Tiến sĩ Nguyễn Huy Vũ nói.

Theo Tiến sĩ Vũ, Tổng Bí thư Tô Lâm không những không có kinh nghiệm mà hơn nữa còn không có kiến thức cần thiết để quản trị quốc gia.

“Những hô hào kỉ nguyên mới sẽ sớm tắt lịm vì người dân sẽ từ từ nhận ra những chính sách do Tô Lâm đưa ra cuối cùng sẽ gây hại cho đất nước nhiều hơn là đem lại bất cứ lợi ích gì.” – Ông Vũ cho biết thêm.

Ông Vũ cho rằng, cuối cùng thì những người trong đảng Cộng sản cũng sẽ nhận ra Tô Lâm không có khả năng dẫn dắt quốc gia và cần phải thay thế. Vấn đề theo ông Vũ, là thay thế ai vì đảng Cộng sản không còn người lãnh đạo có khả năng nữa.


 

Công an tấn công đẫm máu làng Đồng Tâm, 5 năm sau nhìn lại

Ba’o Nguoi-Viet

January 11, 2025

*Chuyên Vỉa Hè

*Đặng Đình Mạnh

5 năm trước, vào những ngày đầu năm 2020 là thời điểm râm ran về cơn dịch Covid 19 mà sau đó, trở thành cơn đại họa kinh hoàng cho cả thế giới, khiến cho cả hàng mấy chục triệu gia đình từ nhiều quốc gia trở nên tang tóc vì mất người thân.

Cũng vào thời điểm này, khi đất nước vẫn đang trong thời bình, khi cơn dịch vẫn còn ở bên kia biên giới, thì dân làng Đồng Tâm đã đối diện với tang tóc trước cả thế giới.

Released policemen (wearing dark uniforms) walk out from the communal house at Dong Tam commune, My Duc district in Hanoi on April 22, 2017.
More than a dozen police and officials held hostage by Vietnamese villagers over a land dispute were released on April 22, state media reported, ending a week-long standoff that had gripped the country. / AFP PHOTO / STR (Photo credit should read STR/AFP via Getty Images)

Tác giả câu chuyện tang tóc ấy là Bộ Công An.

Rạng sáng ngày 09 Tháng Giêng 2020, một đội quân với hơn 3 ngàn Công an từ đủ các lực lượng: Cảnh sát Chống Bạo động, Cảnh sát Cơ động, Cảnh sát Hình sự, Cảnh sát Điều tra, Cảnh sát Phòng Cháy Chữa cháy, công an địa phương các loại… tất cả đều được trang bị vũ khí tận răng, kể cả cả drone không người lái, chó nghiệp vụ đã được tổ chức tấn công vào dân làng Đồng Tâm.

Những ngày sau trận tấn công đẫm máu gây 4 người chết tại chỗ. Để giải thích điều gì đã xảy ra tại Đồng Tâm, 3 lần gồm cả ông Lương Tam Quang, người bây giờ là Bộ Trưởng Bộ Công An đã thông tin cho truyền thông trong nước về sự việc với 3 kịch bản hoàn toàn khác nhau. Cho dù, vụ tấn công chỉ là một.

Ban đầu, ông Lương Tam Quang thông tin rằng vụ tấn công xảy ra tại khu vực Miếu Môn, nơi cách Đồng Tâm hơn 2km. Những lần thông tin sau, ông thay đổi dần và lần cuối cùng ông Lương Tam Quang đã phải thừa nhận khu vực tấn công là vào tư gia gia đình cụ Lê Đình Kình tại thôn Hoành, xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, Hà Nội.

Vụ tấn công Đồng Tâm đã thể hiện rõ nhất là chính sách công an trị hết sức dã man vốn đã chi phối toàn bộ đất nước trong một thời gian rất dài, thậm chí, nó càng khốc liệt cho đến tận ngày nay.

Để trả đũa cho việc bị mất mặt năm 2017 khi dân làng Đồng Tâm tạm giữ 38 cảnh sát cơ động vì bắt người vô pháp, cho nên, từ một việc tranh chấp đất đai thông thường, chế độ đã biến chúng thành một vụ đàn áp đẫm máu dẫn đến cái chết của 4 sinh mạng và tuyên án tử hình 2 sinh mạng khác. Trong đó, người chết tại chỗ gồm cả một cụ già hơn 80 tuổi bị Thượng Tá Đặng Việt Quảng, Phó Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát Điều tra – Công an thành phố Hà Nội dùng súng bắn thẳng ngực trong cự ly gần.

Bằng cách đó, chế độ công an trị đạt được nhiều mục đích. Một mặt trả đũa được vụ mất mặt, mặt khác, dập tắt được vụ tranh chấp đất đai dai dẵng mà xét về lý, chẳng khác nào một vụ cướp đất đai của người dân. Ngoài ra, vụ trấn áp cũng để làm gương cho nhiều vụ tranh chấp đất đai đông người khác đang xảy ra trên nhiều địa phương.

Nhưng theo đó, mọi thiết chế pháp lý căn bản của một quốc gia, tiền đề cho một nhà nước pháp quyền đều đã bị lực lượng công an vô hiệu hóa hoàn toàn. Thay thế vào đó, sự việc được giải quyết bằng bạo lực, bằng súng đạn, bằng lực lượng công an khát máu được tạo dựng hoàn toàn bằng chính tiền thuế của người dân.

Vì lẽ, không có luật pháp nào cho phép hoặc dung thứ cho một cuộc tấn công như vậy của lực lượng công an vào nhân dân cả, nhất là trong những ngày giáp tết, ngày truyền thống đoàn viên gia đình.

Sau cuộc tấn công, công an đã phong tỏa hiện trường, tự tạo dựng chứng cứ giả mạo để đổ thừa, làm cơ sở kết án nhiều người dân Đồng Tâm và chạy tội giết người. Kể cả sử dụng hệ thống truyền thông trong nước để tường thuật lại diễn biến một cách sai lạc nhiều lần, lúc thế này, lúc thế khác một cách giả dối.

Sau vụ tấn công ngày 9 Tháng Giêng 2020, có 29 bị dân làng xã Đồng Tâm bị lôi ra tòa 9 tháng sau. Hai người bị kết án tử hình đều là các con cụ Lê Đình Kình, người bị bắn chết ngay khi xảy ra vụ tấn công. (Hình: Tuổi Trẻ)Song song đó, với những chứng cứ còn sót lại tại hiện trường mà nhóm luật sư đã trực tiếp xem xét tại chỗ, cùng sự phản biện đầy khoa học của cả xã hội đã cho thấy bản án của chế độ đối với người dân Đồng Tâm chỉ là một vở kịch tàn ác, nhưng vụng về.

Chính chế độ Cộng Sản trong nước mới là tổ chức tội phạm trong vụ án Đồng Tâm.

Thế nên, vụ tấn công Đồng Tâm năm 2020 sẽ vĩnh viễn là câu chuyện tội ác mà chế độ Cộng Sản gây ra đối với người dân. Trong đó, trách nhiệm cao nhất là ông Nguyễn Phú Trọng với tư cách là Tổng Bí Thư, người đứng đầu chế độ và ông Tô Lâm, nguyên Bộ Trưởng Bộ Công an đã trực tiếp tổ chức cuộc tấn công khi ấy.

Sau 5 năm, có thể chế độ đã thành công trong việc trấn áp, dẹp yên được cuộc tranh chấp đất đai với người dân ở Đồng Tâm và cho rằng vụ án đã kết thúc.

Thế nhưng, với người dân Đồng Tâm và với dân tộc này, món nợ công lý nhuốm máu dân lành vẫn còn nguyên đó. 2 bản án tử hình đầy oan khuất vẫn còn tồn tại… Vụ án Đồng Tâm chưa bao giờ kết thúc để có thể đóng lại.

DC, ngày 8 Tháng Một 2025

Đặng Đình Mạnh


 

Bão lửa hoành hành ở Los Angeles, thiêu rụi hàng ngàn ngôi nhà (VOA)

VOA

10/01/2025

Ngọn lửa hoành hành ở gần Đại lộ Hollywood ở Los Angeles, California, hôm 8/1

Ngọn lửa hoành hành ở gần Đại lộ Hollywood ở Los Angeles, California, hôm 8/1

Hai đám cháy rừng lớn đe dọa Los Angeles từ phía đông và phía tây vẫn đang cháy không được kiểm soát vào sáng sớm ngày 9/1, hai ngày sau khi nó bùng phát, nhưng các đội cứu hỏa đã có bước tiến trong đêm khi họ đã kiểm soát được đám cháy nhỏ trên những ngọn đồi nhìn ra Đại lộ Hollywood.

Đám cháy Palisades giữa Santa Monica và Malibu ở sườn phía tây của thành phố và đám cháy Eaton ở phía đông gần Pasadena đã trở thành trận hỏa hoạn tàn phá nhất trong lịch sử Los Angeles khi nó thiêu rụi gần 28.000 mẫu Anh. Ít nhất năm người đã thiệt mạng và hàng ngàn công trình đã bị thiêu rụi.

Đám cháy kép – một phần của gọng kìm lửa xung quanh thành phố vốn trải rộng đến mức nó có thể nhìn thấy từ không gian – vẫn hoàn toàn không được khống chế vào lúc 6:30 sáng giờ địa phương, theo Sở Cứu hỏa California.

“Cơn bão lửa này rất lớn,” Thị trưởng Los Angeles Karen Bass nói trong một cuộc họp báo sau khi vội vã trở lại thành phố và phải cắt ngắn chuyến công du Ghana.

Lính cứu hỏa, được sự hỗ trợ từ máy bay trực thăng phun nước và chất chống cháy, đã cố gắng có bước tiến khi chữa Đám cháy Hoàng hôn, đã buộc người dân phải thi hành lệnh sơ tán bắt buộc ở Hollywood và Hollywood Hills – bao gồm các địa danh nổi tiếng trong giới showbiz như Nhà hát Trung Quốc TCL và Đại lộ Danh vọng Hollywood – vào cuối ngày 8/1.

Đám cháy đang giảm dần và thu hẹp từ 60 mẫu xuống còn khoảng 43 mẫu, theo giới chức. Không có ngôi nhà nào bị thiêu trụi trong khu vực, nữ phát ngôn nhân của sở cứu hỏa thành phố cho biết, và hầu hết lệnh sơ tán đã được dỡ bỏ.

Nhìn chung, hơn 100.000 người đã được lệnh rời bỏ nhà cửa khi gió mạnh ngang cấp bão làm ngọn lửa lan nhanh trên vùng đất nứt nẻ vốn đã không có mưa trong nhiều tháng. Ít nhất năm đám cháy rừng riêng rẽ đã bùng phát ở Hạt Los Angeles vào sáng ngày 9/1.

Tư gia của các ngôi sao điện ảnh và người nổi tiếng nằm trong số những ngôi nhà bị ngọn lửa bao trùm. Ngọn lửa đã cắt qua những căn nhà thuộc dạng xa hoa nhất thế giới.

Sở Thời tiết Quốc gia đã gia hạn cảnh báo – vốn được ban hành khi có nguy cơ hỏa hoạn cao do độ ẩm thấp, gió lớn và nhiệt độ ấm áp – cho các hạt Los Angeles và Ventura cho đến 6 giờ chiều ngày 9/1.

Các quan chức cho biết tình trạng thiếu nước đã khiến một số vòi nước cạn kiệt ở khu sang trọng Pacific Palisades, vốn nằm giữa Malibu và Santa Monica.

“Chúng tôi đã vắt kiệt hệ thống đến cùng cực. Chúng tôi đang chữa cháy rừng với hệ thống nước đô thị,” Janisse Quinones, giám đốc điều hành của Sở Nước và Điện Los Angeles, nói với các phóng viên hôm 8/1.

Lính cứu hỏa đã làm những gì có thể để cứu mạng người dân và sau đó tập trung vào những gì họ có thể làm để cứu các công trình nhà cửa, dù có nước sẵn trong vòi hay phải đưa nước từ nơi khác tới, phát ngôn nhân Sở Cứu hỏa Los Angeles Adam VanGerpen nói với kênh CBS vào sáng ngày 9/1.

Đám cháy Palisades đã thiêu rụi 17.234 mẫu và hàng trăm công trình trên đồi, lan nhanh xuống Hẻm núi Topanga cho đến khi lan đến bờ biển Thái Bình Dương hôm 7/1.

Tổng thống Joe Biden đã được thông báo vào sáng ngày 9/1 về tác động của các đám cháy rừng đang diễn ra và sẽ gặp các quan chức hàng đầu của chính quyền vào buổi chiều để thảo luận về phản ứng của liên bang, Nhà Trắng nói với các phóng viên.