Bão Bualoi tàn phá nhiều tỉnh miền Trung, hàng chục người chết, mất tích

Ba’o Nguoi-Viet

September 29, 2025

HÀ TĨNH, Việt Nam (NV) – Hôm 29 Tháng Chín, bão Bualoi (bão số 10) đánh vào các tỉnh phía Bắc Miền Trung Việt Nam như Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị,… làm hàng chục người chết, mất tích, bị thương, hàng trăm ngàn nhà cửa bị tốc mái, cột điện, cây xanh gãy đổ…

Theo báo Người Lao Động, đêm 28 rạng sáng 29 Tháng Chín, cơn bão Bualoi mang theo lượng mưa rất lớn từ 250 mm-300 mm và gió rít từng hồi.

Nhiều mái tôn, ngói đỏ bị hất tung, cột điện dọc đường gãy đổ do bão Bualoi. (Hình: Việt Hoàng/VNExpress)

Sáng 29 Tháng Chín, tại các tuyến đường khu vực trung tâm tỉnh Hà Tĩnh, nhiều cây xanh bị gãy đổ, nhiều bảng quảng cáo bị hư hỏng, trong đó kho than của nhà máy Nhiệt Điện Vũng Áng 2 đã bị bão quật đổ sập.

Tại xã Thiên Cầm, sau một đêm bị bão Bualoi quần thảo, khu du lịch biển Thiên Cầm chịu thiệt hại nặng nề, nhiều công trình bị tàn phá, ngổn ngang với mái tôn nằm chắn la liệt, cây xanh, cột điện gãy đổ. Hàng loạt nhà hàng, quán ăn làm bằng khung thép đổ sập, mái tôn bị gió bão cuốn bay…

Theo phúc trình của Sở Nông Nghiệp và Môi Trường Tỉnh Hà Tĩnh, ngoài việc làm một người chết, chín người bị thương, bão Bualoi khiến hơn 42,900 ngôi nhà tốc mái, hư hỏng, ngập sâu. Gần 1,000 hécta hoa màu đổ ngã, 158 hécta ao nuôi ngập nước, hơn 20 tấn cá lồng chết…

Trong khi đó, cùng lúc tại miền núi tỉnh Nghệ An nước lũ dâng cao.

Cột điện gãy đổ ở tỉnh Quảng Trị. (Hình: Hải Sâm/VietNamNet)

Di tản tới các điểm trú bão Bualoi, nhiều người dân ở tỉnh Nghệ An không chợp mắt ngủ được khi bên ngoài gió rít gầm gào.

Bà Trinh Thị Mừng ở thành phố Vinh, bật khóc khi căn nhà cấp bốn lợp ngói bị tốc mái, nước mưa tràn vào làm hư hỏng toàn bộ tài sản.

“Bão đổ bộ tôi sang nhà con ở, sáng nay trở về thấy mái nhà bị cuốn mất, đồ đạc ướt hết,” bà Trình nói.

Tương tự, bão Bualoi vào đất liền đã gây mưa to và gió lớn kéo dài ở tỉnh Thanh Hóa khiến rất nhiều xã, phường xảy ra ngập lụt, nhiều nhà dân bị đổ sập, nhiều tuyến đường giao thông ngập sâu biến thành sông, xe cộ không thể qua lại.

Trong khi đó, bờ biển xã Hoằng Tiến bị sóng đánh tan hoang. Nước biển ngập bờ kè tràn vào khu dân cư ở Hải Tiến…

Chiếc xe hơi Toyota 7 chỗ ở xã Hoằng Giang, tỉnh Thanh Hóa, bị gió thổi bay hơn 100 mét, nằm dưới ruộng. (Hình: Lê Hoàng/VNExpress)

Đáng lưu ý, nước lũ dâng cao khiến 13 công nhân tại một trang trại nuôi heo ở xã Ngọc Lặc mắc kẹt, phải nhờ lực lượng cứu hộ đến giải cứu.

Tại Quảng Trị, khoảng 11 giờ 30 phút khuya 28 Tháng Chín, hai tàu cá đang neo đậu ở tổ dân phố Xuân Lộc, phường Bắc Gianh, bị đứt dây neo, trôi tự do. Trên hai tàu có 13 ngư dân, trong đó bốn người bơi được vào bờ, chín người mất tích.

Theo phúc trình của Ban Chỉ Huy Phòng Thủ Dân Sự Tỉnh Quảng Trị, bão đã khiến hệ thống thủy lợi, đê điều chịu ảnh hưởng lớn. Nhiều đoạn sông như Kiến Giang ở xã Lệ Thủy; Vĩnh Định, Long Đại ở xã Trường Sơn, bị sạt lở nghiêm trọng hàng trăm mét, có nơi ăn sâu vào đường nhựa. Một số tuyến đê biển ở xã Vĩnh Hoàng, Triệu Cơ, Cửa Tùng bị xói lở, sạt lở vào thân đê, trong đó đoạn đê sông tại xã Hoàn Lão bị vỡ 2 mét…

Bão cũng tạo ra tám lốc xoáy chỉ trong một ngày ở tám tỉnh thành khác nhau gồm Nam Định, Ninh Bình, Hải Phòng, Hải Dương, Thanh Hóa, Thái Bình, Quảng Ninh và Hà Nội. Trận nào cũng lớn.

Người phụ nữ làng chài ở xã Thiên Cầm, tỉnh Hà Tĩnh, chỉ còn biết òa khóc giữa gian nhà tan hoang. (Hình: Nguyễn Khánh/Tuổi Trẻ)

Trong đó, trận dông lốc quét qua các xã Quỹ Nhất, Thịnh Long, Hải Thịnh, Hồng Phong, Gia Hưng, Chất Bình và Hải Anh, tỉnh Ninh Bình, làm nhiều ngôi nhà bị đổ sập, gãy 30 cột điện, khiến chín người thiệt mạng, 18 người bị thương.

Sau 13 giờ quần thảo từ Quảng Trị ngược ra Bắc tới Nghệ An, bão Bualoi đã làm 13 người chết, 17 người mất tích, 41 người bị thương. Nhiều nhà cửa, cơ sở sản xuất bị tốc mái, thiệt hại nặng, song chưa thống kê được thiệt hại do mất điện, gián đoạn thông tin liên lạc.

Đến 2 giờ chiều cùng ngày, bão di chuyển sang khu vực Thượng Lào, suy yếu dần thành áp thấp nhiệt đới.

Tuy nhiên, do ảnh hưởng của mưa bão, Trung Tâm Dự Báo Khí Tượng Thủy Văn Quốc Gia cảnh báo nhiều xã, phường tại 10 tỉnh, thành gồm: Lai Châu, Sơn La, Phú Thọ, Lào Cai, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng có nguy cơ cao xảy ra lũ quét, sạt lở đất. (Tr.N) [kn]


 

Bị công an triệu tập, cựu chủ tịch thị trấn ở Cà Mau treo cổ chết

Ba’o Nguoi-Viet

September 28, 2025

CÀ MAU, Việt Nam (NV) – Nhà chức trách xác nhận ông Đặng Văn My, cựu chủ tịch thị trấn Cái Nước, huyện Cái Nước trước đây, tỉnh Cà Mau, treo cổ chết tại tư gia.

Theo tờ Thanh Niên hôm 28 Tháng Chín, thi thể ông My được con trai ông này phát giác phía sau căn nhà tọa lạc tại xã Cái Nước.

Cựu chủ tịch thị trấn Cái Nước, tỉnh Cà Mau, bị tố cáo biển thủ tại chợ Cái Nước. (Hình: Dân Việt)

Khi còn tại vị ghế chủ tịch Cái Nước, ông My bị nhiều tiểu thương chợ Cái Nước làm đơn tố cáo.

Hồi Tháng Tám năm ngoái, Công An Cà Mau khởi tố vụ án vi phạm về quy định đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng, xảy ra tại Ủy Ban Nhân Dân Cái Nước trước đây, trong việc thực hiện xây dựng chợ Cái Nước.

Trước khi treo cổ, ông My từng bị triệu tập nhiều lần và có khả năng bị khởi tố.

Liên quan vụ này, báo Dân Việt hồi Tháng Chín năm ngoái cho hay, ông Đặng Văn My bị tố cáo thu 9.6 tỷ đồng ($363,498) tiền “dịch vụ sử dụng diện tích bán hàng tại chợ” của các tiểu thương nhưng không ra biên lai. Ngoài ra, ông ta còn được xác định có nhiều sai phạm khác trong việc xây chợ.

Do vụ này mà hồi Tháng Bảy, 2020, ông Đặng Văn My bị lột hết các chức vụ trong đảng và chính quyền.

Trước cái chết của ông My, nhiều quan chức các địa phương được ghi nhận tự sát hay tại cơ quan do đối mặt việc bị bắt hoặc bị mất ghế.

Theo báo Thanh Niên hồi năm ngoái, ông Lê Viết Thống, chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Xã Lộc Nga, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng, treo cổ chết ngay tại cơ quan vào hôm 14 Tháng Hai, tức Mùng Năm Tết Giáp Thìn 2024. Sự việc được một số công chức phát giác khi họ đến cơ quan trực Tết.

Trụ sở Ủy Ban Nhân Dân thị trấn Cái Nước. (Hình: Thanh Niên)

Bản tin cũng dẫn lời một cán bộ xã Lộc Nga rằng ông Thống “không có biểu hiện gì bất thường.”

Trước đó, theo báo Lao Động hồi trung tuần Tháng Mười Hai, 2023, ông Lê Văn Đây, 40 tuổi, phó trưởng Phòng Nội Chính, Văn Phòng Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh Cà Mau, treo cổ chết ngay tại tầng bốn của cơ quan này.

Bản tin dẫn lời người nhà của ông Đây cho biết, trước khi sự việc xảy ra, ông này “có biểu hiện thường xuyên mất ngủ” nhưng không rõ liệu ông có bị trầm cảm hay không.

Người nhà đã tìm kiếm ông Lê Văn Đây từ ngày hôm trước cho đến khi được cơ quan gọi thông báo tin buồn. (N.H.K) [kn]


 

 Bác sĩ – bệnh nhân, mối quan hệ này chắc sắp hết thuốc chữa!

Chân Trời Mới Media

 Bác sĩ – bệnh nhân, mối quan hệ này chắc sắp hết thuốc chữa!

Không nói tới những bịnh nhân (hay người nhà) hung hăng, những bác sĩ dùng bạo lực, mình chỉ xét chung những người bình thường không quá khích, nóng nảy hoặc xấu tính.

Bác sĩ là người cung cấp dịch vụ, bịnh nhân là khách hàng, nhưng đây là dịch vụ đặc biệt liên quan đến sức khỏe, tính mạng nên nên đặc biệt hơn những dịch vụ khác, cả hai bên đều có mối quan tâm rất nhiều đến y đức, lương tâm nghề nghiệp, ơn nghĩa cứu mạng, “thiên chức” v.v…

Trong mối quan hệ này thì người bịnh là người bị động. Người bịnh không có chuyên môn, không có hiểu biết nên mọi việc đều phó thác cho bác sĩ: chẩn đoán, điều trị và kết quả.

Ngày xưa, nửa thế kỷ trước, thuở chưa quá độ lên XHCN thì ở miền Nam này bịnh nhân gần như tin tưởng tuyệt đối vào bác sĩ, cũng chính là tin vào tay nghề, vào lương tâm của bác sĩ. Bác sĩ tận nhân lực thì bịnh nhân tri thiên mạng, hiếm khi trách móc hay nghi ngờ bác sĩ.

Ngày nay sau nửa thế kỷ độc lập thống nhứt tiến lên XHCN thì mối quan hệ bác sĩ và bịnh nhân ngày càng tệ. Bịnh nhân  ngày càng mất lòng tin nơi bác sĩ và bác sĩ thì coi bịnh nhân là chỗ để kiếm tiền! (Dĩ nhiên bác sĩ và bịnh nhân đều có this có that)

Nói có sách mách có chứng. Năm ngoái, cách nay đúng một năm ba tui ngã bịnh. Gia đình đưa vô bv tư gần nhà thì bs KHÔNG chẩn đoán ra manh mối gì. Ông cụ tiểu ra máu mà bs cứ hỏi dồn là ông đi cầu ra máu phải không? Ông nhớ lại coi! Ông cụ lớn tuổi, lúc quên lúc nhớ nên bị dồn thì liền ừ theo bs. Thế là bs ghi bịnh án viêm tắc ruột.

Khi tui từ xa về tới nơi liền chuyển cụ vào bịnh viện tỉnh. Vô đó xét nghiệm, siêu âm, chụp CT suốt một buổi chiều thì bs chẩn đoán là có khối u ruột, phải mổ (bs có dựa vào chẩn đoán của bv tư khi chuyển viện). Tui không tin vì cụ không hề có triệu chứng gì về tiêu hóa trước đó, vẫn ăn ngon tiêu hóa tốt.

Cụ phát bịnh buổi sáng, cả ngày xét nghiệm chụp chiếu thì chiều tối có kết luận như trên. Tối tui lại thấy cụ tiểu ra máu và bàn tay chỗ ghim truyền dịch bị bầm đen nên báo bs, khi đó bs mới làm thêm xét nghiệm, hội chẩn và báo là cụ bị rối loạn đông máu (RLĐM). Thế nhưng bv vẫn đưa cụ lên khoa ung bướu để chữa RLĐM xong rồi mổ. Tui bèn xin chuyển viện lên Chợ Rẫy.

Lên bv CR, vô khoa cấp cứu. Các bs ở đây chỉ dựa vào các kết quả cận lâm sàng ở bv tỉnh đưa lên là chẩn đoán ngay bịnh RLĐM, hoàn toàn KHÔNG có u iếc gì ở ruột!

Điều trị ở khoa huyết học BVCR được đúng một tuần là ba tui hoàn toàn hết bịnh và hết luôn tới bây giờ. Từ ngày ra viện bs dặn không cần tái khám. Tui tâm phục khẩu phục bs phòng cấp cứu ở CR quá giỏi quá kinh nghiệm, chẩn đoán đúng cái “bụp” từ những dữ liệu mà bv tỉnh đã chẩn đoán không ra. Khi điều trị ở khoa huyết học thì bs cũng thường xuyên xét nghiệm để đánh giá kết quả điều trị.

Nhìn ngoài xã hội thì vừa rồi có vụ ở bv đa khoa Tây Nguyên, máy tán sỏi hư mà bv vẫn tán cho vài trăm bịnh nhân suốt hai năm. Vụ này rõ là bác sĩ nói trời bịnh nhân hay trời, nói đất bịnh nhân hay đất. Không có sỏi mà bác sĩ phán có để tán thì cũng đành phải chịu thôi!

Chuyện cũ thì có vụ bịnh viện Bạch Mai lấy một kết quả xét nghiệm rồi sao y ra cho hàng hà sa số bịnh nhân. Mày bịnh gì kệ mày, tao đưa kết quả ma vậy đó, mày đâu có trình độ về y khoa đâu mà biết, sống chết có số nghe con!

Và còn bao nhiêu vụ chưa bị khui? Dù khui hay chưa tui cũng không dám tin cái ngành y của xứ mình mà cứ phải tin khả tin phòng khả phòng!

Nằm bịnh ở bịnh viện Chợ Rẫy là một cơn ác mộng thật sự, có dịp tui kể sau. Thật thương cho bác sĩ và bịnh nhân ở CR, ai cũng khổ quá khổ. Muốn hiểu đời là bể khổ nghĩa là gì thì vô Chợ Rẫy!

Hình: may quá, tui mần thú y, đỡ nhức đầu hơn bác sĩ trong thời buổi nhiễu nhương này!

BS Hồ Phương Trinh

Hình: admin

May be an image of ‎one or more people and ‎text that says '‎ا" #chan l0 moi media THIẾU Y ĐỨC, BỆNH NHÂN NGHÈO LÀ NẠN NHÂN CHỊU KHỔ NHIỀU NHẤT‎'‎‎


 

NÔNG DÂN CAN TRƯỜNG- Huynh Ngoc Chenh

Huynh Ngoc Chenh

Hôm nay tòa án Đà Nẵng đưa người nông dân can trường hiếm có Trịnh Bá Phương ra xét xử vì đã viết mảnh giấy nhỏ “đả đảo cộng sản” cất trong phòng giam.

Án chắc đã có sẵn, án chồng lên án 10 năm tù giam và 5 năm quản chế mà người thanh niên nông dân can trường này đã lãnh trước đó vì dũng cảm đứng lên giữ đất cùng gia đình.

Hồi đảng nổi dậy chống Pháp rồi đánh Mỹ rất cần những người nông dân can trường như thế, chính họ đã không biết sợ gì, sẵn sàng lao vào lửa đạn, vượt qua tra tấn, chịu dựng đau đớn và hy sinh cả tính mạng để giúp đảng cộng sản đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Không có những người nông dân tinh hoa can trường này, đảng sẽ chẳng làm được gì nên chuyện để có như ngày hôm nay.

Hồi đó nông dân can trường nhiều lắm, bây giờ sau 80 năm, chẳng còn nhiều, có thể kể hết ra đây được vài dòng.

Đó là gia đình chị Cấn Thị Thêu với hai con trai Trịnh Bá Phương và Trịnh Bá Tư cùng với chị Nguyễn Thị Tâm ở Dương Nội. Đó là anh em Đoàn Văn Vươn ở Hải Phòng, đó là tập thể dân làng Đồng Tâm đứng dầu là gia đình cụ Kình …

Những người đó là tinh hoa của đất nước, là gen trội của dân tộc, lẽ ra phải được nuôi dưỡng để phát huy và nhân rộng. Nhưng không, cụ Kình đã bị bắn chết, con cháu cụ bị xử tử hình hoặc bị tù đày đến chung thân, anh em Đoàn Văn Vươn cũng phải đi tù vài năm suýt tiêu tan gia đình và của cải, còn gia đình chị Cấn Thị Thêu và chị Nguyễn Thị Tâm vẫn còn chịu án tù lâu dài.

Đảng bây giờ đã có được giang sơn rồi nên đảng không cần những người nông dân can trường dũng cảm nữa, đảng cần những người nông dân sợ hãi và tuân phục luôn chấp hành mọi mệnh lệnh của đảng dù đúng hay sai. Quân xử thần tử thần bất tử bất trung.

Ngày xưa phải chống lại Tây Sơn để phục hồi ngai vàng của dòng họ, Nguyễn Ánh đã ra sức xúi giục, chiêu dụ, tập hợp những người nông dân can trường, bỏ vợ con, ruộng vườn để đi theo ông. Không có những người nông dân can trường phản kháng chế độ Tây Sơn thì Nguyễn Ánh không thành vua Gia Long.

Sau khi cướp được chính quyền khôi phục được ngôi vàng của tổ tiên, vua Gia Long và con cháu ông không cần những người nông dân phản kháng và can trường nữa, triều đình chỉ cần những người nông dân tuân phục để dễ cai trị và quan trọng là để bảo vệ muôn năm ngai vàng dòng họ Nguyễn.

Những hình phạt nặng nề du nhập từ các triều đại phong kiến phương Bắc được áp dụng để đe nẹt, trấn áp, dập tắt, tiêu diệt mọi mầm mống phản kháng của người nông dân. Những người nông dân can trường nào xuất hiện là bị bắt ngay, bị xử lăng trì (là xẻo từng miếng thịt cho đến chết), bị tru di tam tộc để tiêu diệt sạch gen trội can trường.

Nhờ vậy mọi cuộc nổi dậy của nông dân trong suốt 80 năm độc tài toàn trị của nhà Nguyễn đều bị dập tắt trong biển máu.

Sau 80 năm, đất nước chỉ còn tồn tại những nông dân sợ hãi tuân phục.

Từ tuân phục chuyển qua hèn nhát u mê chỉ một bước chân. Một thế hệ nông dân hèn nhát ngu muội ra đời. Ngai vàng nhà Nguyễn được bảo vệ nhưng nước mất.

Quá sức nhục nhã và đau đớn, chỉ vài phát súng đùng đoàng của lính Pháp, quân dân ta mà nòng cốt là những người nông dân hèn nhát và u mê đã bỏ chạy sạch. Pháp thôn tính Nam Kỳ dễ như trở bàn tay.

Tệ hơn nữa, hai lần Pháp ra Bắc Kỳ với vài trăm quân chỉ nổ vài phát súng, những người nông dân hèn nhát và ngu muội làm nên đội quân chính quy đông đúc của chiến tướng Nguyễn Tri Phương và của tổng dốc Hoàng Diệu buông vũ khí chạy sạch, bỏ lại thành Hà Nội trống không với chủ tướng đơn độc.

Trong suốt 100 năm Pháp đóng chiếm, rất nhiều cuộc nổi dậy của nông dân nhưng hầu hết đều bị thất bại do thiếu lực lượng, thiếu những người nông dân can trường. Cuộc khởi nghĩa nào cũng chỉ quy tụ chừng vài chục nông dân can trường thì làm sao chống lại giặc Pháp hùng mạnh.

Bây giờ, đảng CSVN, tổ chức độc quyền toàn trị đất nước, đang dẫm vào những bước chân lầm lỗi của Triều đình nhà Nguyễn. Đảng cũng chỉ cần những người nông dân tuân phục.

Chính vì lẽ đó mà thanh niên nông dân can trường Trịnh Bá Phương đã bị 10 năm tù nay lại phải ra tòa để nhận thêm nhiều nằm tù giam nữa. Chính vì lẽ đó mà Cấn Thị Thêu, Trịnh Bá Tư, Nguyễn Thị Tâm, anh em Đoàn Văn Vươn phải đi tù. Chính vì lẽ đó mà cụ Kình và một số con cháu phải bị tử hình, số còn lại và những người nông dân Đồng Tâm can trường khác phải ngồi tù lâu dài.

Với cách làm này sẽ thành công cho đảng, đất nước chỉ còn lại các thế hệ nông dân tuân phục cùng với các tầng lớp người dân khác cũng tuyệt đối tuân phục.

Mà “tuân phục” chỉ cách “hèn nhát” một sợi tóc.

Đảng sẽ được tồn tại khá lâu, nhưng…


 

Vụ án Hồ Duy Hải, chứng cứ vô tội đã có ở trong hồ sơ

Ba’o Đàn Chim Việt

Tác Giả: Đàn Chim Việt

25/09/2025

Hồ Duy Hải trong một phiên tòa. Ảnh: CTV.

 Trại tạm giam công an tỉnh Long An được đặt ở xã Mỹ Phú, huyện Thủ Thừa, tỉnh Long An, cách không xa sông Vàm Cỏ Tây, quanh năm uốn lượn ôm ấp vỗ về.

 Tháng tư năm 2023 tôi đã đến đây với mong muốn được vào gặp tử tù Hồ Duy Hải. Sau khi liên hệ thủ tục ở cổng trại và xuất trình giấy tờ, nhân viên trực ban gọi điện thoại đi đâu đó rồi quay ra trả lời từ chối luật sư.

 Mặc dù đã dự liệu về việc bị từ chối nhưng tôi không khỏi ngậm ngùi xót xa khi nghĩ về người tử tội đang bị giam cầm nơi này. Không có việc gì khác để làm tôi đứng ngồi loanh quanh một lúc rồi ra về.

Chứng cứ bỏ sót

 Khi nhận lời bà Nguyễn Thị Loan nhờ kêu oan, bản thân tôi nhiều lần đã tự hỏi liệu mình có thể làm được gì khi mà vụ án đã được đông đảo dư luận xã hội biết đến.

 Vụ án đã quá nổi tiếng với những tình tiết chứng cứ trong hồ sơ đều đã được các luật sư, nhà báo, và những người am hiểu trên mạng xã hội, đưa ra phân tích công khai với những nhận định đánh giá rất có sức thuyết phục.

 Bối cảnh của vụ án là như vậy khi mà cũng đã xảy ra được 15 năm, bản thân tôi nghĩ rằng mình sẽ khó thể tìm ra được chứng cứ nào mới, điều có thể làm là đưa ra những nhận định phân tích từ góc độ kinh nghiệm kiến thức bản thân, để làm rõ thêm bản chất của vụ án.

 Sau quá trình nghiên cứu về vụ án tới thời điểm này tôi cho rằng cơ sở chứng cứ chứng minh Hồ Duy Hải bị oan đã có ngay trong hồ sơ vụ án. Nhưng để mọi người hiểu ra được vấn đề thì trước tiên xin dẫn lại câu chuyện về một vụ án xảy ra ở nước Anh.

 Tôi biết đến vụ án này qua một bộ phim có tựa đề Nhân danh Cha (In the Name of the Father), nội dung phim dựa theo một vụ án oan có thật ở nước Anh, một số người bị bắt với cáo buộc đã tiến hành một vụ đánh bom một quán rượu ở Luân Đôn khiến nhiều người chết.

 Trong số những người bị bắt có hai người đàn ông là cha con, dù đã bị kết án có tội họ vẫn không ngừng kêu oan. Sau nhiều năm sự vụ của họ được một nữ luật sư chú ý đến, bà đã nhận lời theo đuổi vụ việc của họ.

 Nữ luật sư đã đi tìm kiếm lại những manh mối chứng cứ, cô tìm đến nơi lưu trữ hồ sơ vụ án, đó là một khu lưu giữ tài liệu rộng lớn được quản lý chặt chẽ, sau khi làm thủ tục theo quy định, nhân viên cơ sở lưu giữ đưa cho cô tập tài liệu vụ án.

 Một lần khi xem nữ luật sư đã phát hiện ra một tập tài liệu đã không được trưng ra trước tòa tại những phiên xét xử trước đó, trong đó có lời khai nhân chứng có thể cho thấy sự ngoại phạm của các bị cáo.

Từ cơ sở này, nữ luật sư đã đấu tranh để yêu cầu tòa án xét xử lại vụ án, vì những chứng cứ mới chưa được thẩm tra khi xét xử trước đó. Với cơ sở bằng chứng hợp lý mới, cộng với việc bấy lâu bị cáo kêu oan, tòa án Anh đã cho rằng cảnh sát trước đó đã cố tình giấu đi những thông tin có lợi cho nghi phạm, làm sai lệch sự thật khiến cho bồi thẩm đoàn khi ấy kết tội oan.

 Bởi vậy phán quyết mới được đưa ra bởi một bồi thẩm đoàn mới, tuyên án tha bổng cho nhóm người bị kết án, nhưng lúc này người cha đã chết vì bạo bệnh trong chốn lao tù.

 Vụ Hàn Đức Long

 Việc cảnh sát điều tra bỏ ra ngoài hồ sơ vụ án những chứng cứ có lợi cho bị cáo là điều đã từng xảy ra ở Việt Nam, cụ thể là trong vụ án của tử tù Hàn Đức Long tôi đã minh oan trước kia.

 Mặc cho bị cáo kêu oan đến khi ra tòa xét xử, cả hai phiên sơ thẩm và phúc thẩm, tòa án vẫn tuyên là có tội với án tử hình. Sau đó Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao đã ra quyết định giám đốc thẩm hủy bỏ các bản án để điều tra lại từ đầu.

 Quá trình điều tra lại xảy ra sự việc là một điều tra viên thụ lý chính của vụ án bị chết, khi mở tủ hồ sơ của người này thì phát hiện ra một số tài liệu liên quan đến vụ án Hàn Đức Long nhưng bị bỏ ra ngoài hồ sơ vụ án, khi ấy liên ngành tư pháp đã ngồi họp lại với nhau và thống nhất đưa lại các tài liệu này vào hồ sơ khi đó đang được giải quyết.

 Trong tập tài liệu được đánh số từ 1 đến 49 này có một số tài liệu cho thấy giữa ông Hàn Đức Long và hai mẹ con bà cụ hàng xóm là những người đã tố cáo ông Long hiếp dâm đã xảy ra mâu thuẫn đánh nhau.

Do tranh chấp lối đi chung liền kề giữa hai nhà, ông Long đã có hành vi bạo lực tấn công hai mẹ con bà cụ, vụ việc đã được công an xã giải quyết buộc ông Long phải bồi thường cho mẹ con nhà kia.

Thời điểm khi ấy vụ án giết người hiếp dâm cháu bé 5 tuổi mới xảy ra trước đó chừng đôi ba tháng, cảnh sát đang truy tìm thủ phạm, sau thời điểm xảy ra mâu thuẫn đánh nhau chừng một tháng thì hai mẹ con bà cụ có đơn gửi cơ quan điều tra tố cáo từng bị ông Long hiếp dâm.

 Từ lời tố cáo ấy ông Long bị triệu tập điều tra bắt giam đã khai nhận hành vi hiếp dâm hai mẹ con bà cụ, ngoài ra còn thừa nhận là thủ phạm giết hại cháu bé 5 tuổi.

 Những tài liệu này đã được thu thập ngay từ quá trình điều tra ban đầu nhưng lại không được đưa vào hồ sơ phục vụ quá trình xét xử sơ thẩm và phúc thẩm trước đó.

 Dựa trên cơ sở bằng chứng mới khi ấy tôi đã trình bày ý kiến bào chữa cho rằng việc tố cáo hiếp dâm do mâu thuẫn hằn thù gia đình là không đáng tin cậy, nhưng phiên tòa xét xử lại vụ án vẫn bỏ qua, vẫn tuyên bị cáo có tội với án tử.

 Sau đấy việc kêu oan vẫn tiếp tục cho tới khi Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao có quyết định giám đốc thẩm lần thứ hai tuyên bố hủy bỏ các bản án để điều tra lại từ đầu.

 Quá trình sau đó tôi vẫn kiên trì ý kiến kêu oan cho rằng với chứng cứ mới được đưa lại vào hồ sơ cho thấy lời tố cáo không đáng tin, cộng với việc bị cáo kêu oan trong khi căn cứ buộc tội không có được nhân chứng vật chứng rõ ràng nào ngoài những lời khai báo nhận tội.

 Cuối cùng các cơ quan tư pháp đã có nhận định đánh giá lại, cho rằng không đủ cơ sở căn cứ kết tội nên đã đình chỉ điều tra, trả tự do và minh oan cho tử tù.

 Lời khai đầu tiên của Hồ Duy Hải

 Trở lại với vụ án Bưu điện Cầu Voi, hồ sơ vụ án khi đưa ra xét xử thể hiện lời khai đầu tiên của Hồ Duy Hải là vào 21 tháng 3 năm 2008, biên bản ghi lời khai đó và các lời khai về sau đều có nội dung bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình.

 Chỉ cho đến khi có Quyết định Kháng nghị Giám đốc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, nội dung kháng nghị mới giúp nhiều người biết được là lời khai đầu tiên của Hải là vào ngày 20 tháng 3 năm 2008.

Tại bản khai này Hồ Duy Hải đã khai về diễn biến việc làm vào tối hôm xảy ra vụ án Bưu điện Cầu Voi, Hải khai tối ngày 13 tháng 1 năm 2008 đã đến đám tang nhà ông Tư Lan gần nhà, trong lời khai đã nhắc đến gần chục người đã tiếp xúc tại đám tang để có thể xác nhận về sự có mặt của Hải.

 Lý giải về chứng cứ này, Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao đã lý giải cho biết, lời khai đầu tiên của Hồ Duy Hải trình bày về việc sử dụng thời gian tối hôm xảy ra vụ án, kết quả xác minh Hải khai không đúng sự thật nên cơ quan điều tra không đưa vào hồ sơ xét xử vụ án nhưng được lưu trong hồ sơ nghiệp vụ của cơ quan công an.

 Như thế là suốt mười mấy năm kêu oan nhưng gia đình và luật sư đã không biết tới bản khai ban đầu này, rất nhiều người, trong đó bao gồm cả các cán bộ tư pháp đã tham gia công tác xét xử sơ thẩm, phúc thẩm trước đó, đều đã lầm tưởng rằng mọi lời khai của Hải từ đầu đến cuối chỉ là khai nhận tội.

Về sau mới biết lời khai đầu tiên của Hải không những không nhận tội mà còn khai ra những nội dung mà nếu làm rõ có thể chứng minh được sự ngoại phạm của Hải.

 Quyết định giám đốc thẩm cho biết cơ quan điều tra đã thẩm tra xác minh cho kết quả Hải khai không đúng sự thật nhưng không cho biết là cơ quan điều tra đã thẩm tra xác minh như thế nào.

Sau khi có quyết định giám đốc thẩm, khi thông tin về lời khai đầu tiên được nêu ra, luật sư Trần Hồng Phong là người giúp kêu oan cho tử tù khi ấy đã tìm về địa phương, tìm gặp và lấy lời khai của bảy người tham dự đám tang.

 Mọi người đã xác nhận rằng đúng là Hải đã có mặt tại đám tang nhà ông Tư Lan trong buổi tối hôm xảy ra vụ án.

 Nhưng nội dung xác nhận của các nhân chứng này chỉ có được sau khi quyết định giám đốc thẩm đã ban hành và giá trị pháp lý chưa rõ liệu sẽ được đánh giá ra sao.

 Đến bây giờ sau khi nghiên cứu về vụ án, tôi cho rằng chứng cứ biên bản lời khai đầu tiên không nhận tội đã giúp củng cố niềm tin nhận định về việc oan sai.

 Cộng với việc bằng chứng dấu vân tay của Hải không trùng khớp với dấu vân tay của nghi phạm thu giữ được ở hiện trường vụ án, tổng hợp lại chính là những bằng chứng cho thấy Hồ Duy Hải vô tội.

 Luật sư Ngô Ngọc Trai

 Nguồn Facebook


 

Những điều có thể bạn chưa biết về Giáo hội Công Giáo ở Triều Tiên

Thao Teresa

Bạn đã bao giờ tự hỏi điều gì đã xảy ra với Kitô giáo, đặc biệt là Công giáo, ở một trong những nơi bí mật và cô lập nhất thế giới – Triều Tiên? Một nơi mà tôn giáo bị đặt ngoài vòng pháp luật, các nhà thờ bị phá hủy, đức tin bị cấm, nhưng ánh sáng của Đấng Kitô vẫn nhấp nháy trong bóng tối.

Rất lâu trước khi Triều Tiên trở thành một chế độ độc tài khép kín, bán đảo Triều Tiên đã có một cộng đồng Kitô giáo đang phát triển mạnh. Công giáo đến bán đảo Triều Tiên không phải qua các nhà truyền giáo nước ngoài, mà do chính các nho sĩ thế kỷ 18. Họ tiếp cận các văn bản Kitô giáo tại Trung Quốc và mang đức tin trở lại quê hương.

Đúng vậy, Công giáo được gieo mầm bởi giáo dân trước khi có linh mục ngoại quốc đặt chân lên đất Triều Tiên. Họ đọc Kinh Thánh, tin vào Kinh Thánh và sẵn sàng mạo hiểm tất cả để bước theo Đức Kitô. Đúng như câu: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.” (Tv 119,105)

Đầu thế kỷ 20, Bình Nhưỡng – thủ đô của Triều Tiên hiện nay – từng được mệnh danh là “Jerusalem của phương Đông” nhờ đời sống Kitô giáo sôi động. Nhưng tất cả thay đổi năm 1948, khi Kim Il-sung lên nắm quyền và thành lập Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Từ đây bắt đầu thời kỳ bách hại, và đức tin trở thành bản án tử hình.

Chế độ vô thần xem tôn giáo là mối đe dọa cho quyền lực của mình. Không chỉ đàn áp, họ tìm cách loại bỏ Kitô giáo tận gốc. Các nhà thờ bị đóng cửa hoặc phá hủy, Kinh Thánh bị cấm. Nhiều linh mục và giáo dân bị bắt, tra tấn hoặc xử tử. Các gia đình bị đưa vào trại lao động chỉ vì sở hữu một cây thánh giá hay thì thầm một lời cầu nguyện.

Một ví dụ đau lòng là Đức Giám mục Phanxicô Hong Yong-ho, Giám mục Bình Nhưỡng, bị bắt năm 1949 và không bao giờ xuất hiện nữa. Năm 2013, Tòa Thánh chính thức công bố ngài đã qua đời, và năm 2014, ngài được tuyên nhận là Tôi tớ Chúa trong tiến trình phong thánh.

Ngày nay, Triều Tiên vẫn đứng đầu bảng xếp hạng World Watch List – nơi nguy hiểm nhất cho các Kitô hữu. Vậy, liệu có nhà thờ Công giáo nào tồn tại ở đó không?

Thật bất ngờ, có một nhà thờ ở Bình Nhưỡng mang tên Nhà thờ Changchung, được chính quyền cho phép hoạt động. Tuy nhiên, nơi này không hiệp thông với Tòa Thánh, không có linh mục thường trú được truyền chức hợp pháp từ Rôma. Các cử hành tôn giáo thường mang tính hình thức chính trị, do Hiệp hội Công giáo Triều Tiên – một cơ quan nhà nước được dùng để giới thiệu “tự do tôn giáo” cho du khách nước ngoài – quản lý.

Giới chuyên gia tin rằng, bên dưới bề mặt, vẫn còn hàng ngàn tín hữu Công giáo ngầm thờ phượng bí mật, giống như Giáo hội sơ khai.

Những nhân chứng đào thoát đã kể lại những ký ức vừa đau thương vừa cảm động. Có người thấy cha mẹ thì thầm cầu nguyện trong đêm tối, để rồi hôm sau bị công an bắt đi. Có tín hữu học thuộc cả cuốn Kinh Thánh vì không dám giữ một bản in. Có người chôn thánh giá nhỏ dưới đất, hoặc khắc câu Lời Chúa lên tường. Họ nhóm họp trong hang động, trong chuồng trại vắng lặng, bất chấp hiểm nguy.

Dù trải qua nhiều thập kỷ đàn áp tàn bạo, hạt giống đức tin vẫn âm thầm bén rễ. Nhiều người Bắc Hàn chỉ khi trốn thoát sang Trung Quốc hoặc Hàn Quốc mới lần đầu nghe Tin Mừng và tin nhận Chúa Kitô.

Giáo lý Hội Thánh Công giáo dạy rằng:“Tử đạo là việc làm chứng cao cả nhất cho chân lý đức tin; đó là sự làm chứng cho đến nỗi phải chết” (GLHTCG, #2473). Hàng ngàn Kitô hữu Bắc Hàn đã ngã xuống vì đức tin, như xưa máu các vị tử đạo là hạt giống nảy sinh Hội Thánh tại Rôma, thì nay cũng thế trên bán đảo Triều Tiên.

Các Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Bênêđictô XVI và Đức Phanxicô đều nhiều lần cầu nguyện cho hòa bình và thống nhất trên bán đảo Triều Tiên. Trong khi đó, các linh mục truyền giáo và các hội đoàn Kitô hữu tiếp tục phục vụ người tị nạn Bắc Hàn ở Trung Quốc và Hàn Quốc. Các đài phát thanh Công giáo như FEBC, TWR hay Voice of the Martyrs thường xuyên phát sóng Kinh Thánh, thánh lễ, bài giảng vào Bắc Triều Tiên – thường vào ban đêm để tránh bị phát hiện. Nhiều tín hữu âm thầm chế tạo radio, chôn dưới đất để nghe Lời Chúa.

Dù Triều Tiên vẫn bao trùm bóng tối, nhưng ánh sáng của Đức Kitô không bao giờ bị dập tắt. Hội Thánh có thể bị săn lùng, bị chôn vùi, nhưng cũng như hạt giống gieo trong lòng đất – một ngày sẽ trổ sinh hoa trái. Trong khi các bức tượng của Kim Nhật Thành ở khắp mọi nơi, thân thể vô hình của Chúa Kitô tiếp tục hiện hữu – “ẩn giấu nhưng còn sống.”

https://phailamgi.com/…/nhung-dieu-co-the-ban-chua…/


 

 BÁN TÔI 20 NGÀN NIỀM VUI…

Những Câu chuyện đời ý nghĩa – Lệ Thúy Hoàng

3 ngày nay mệt và ho nhiều nên giờ trưa, tôi dạo bộ ra tiệm thuốc tây gần bệnh viện để mua thuốc ho ngậm cho đỡ rát họng.

Khi đang soạn tiền chuẩn bị trả cho 2 hộp tyrotab, tôi nghe giọng 1 người phụ nữ “Chị ơi, con em nó sốt quá, chị bán cho em 2 ngày thuốc sốt”. Tôi giật mình và hy vọng chị bán thuốc sẽ từ chối bán thuốc mà khuyên vào BV để khám. Nhưng …

“Có ho không?” – “Dạ có”

“Có sổ mũi không?” – “Dạ có”

“Có tiêu chảy không?” – “Hôm nay đi ra bọt 4 lần rồi”

“Còn gì nữa không?” – “Dạ bé mệt nhiều nên chị cho thuốc gì mạnh mạnh chút nha chị”.

Cứ mỗi câu trả lời của người mẹ bán vé số là một loại thuốc được lấy ra bỏ vào bịch. Tôi ngó sang toàn là kháng sinh, kháng viêm và có cả Smecta cầm tiêu chảy… Thực sự tôi kinh hãi quá. Không một động tác khám, cũng không vạch khăn ra xem đứa bé thế nào. Chỉ hỏi, hỏi và lấy thuốc. Mấy chuyện này nó làm mình khó chịu, ráng đứng lại vờ như đang nhắn tin điện thoại, tôi thấy đứa bé đừ nhiều, vẻ mặt mệt mỏi lắm.

Tổng cộng gói thuốc cho bé là 117 ngàn đồng. Tôi đợi chị xách bịch thuốc ra 1 góc vỉa hè đang ngồi soạn thuốc cho bé uống. Mình lại gần. Chị thấy mình, dơ cọc vé số lên “Mua giúp chị tờ vé số đi em trai”. Tôi cười và nói “Em sẽ mua cho chị. Em có ông anh là bác sĩ ở bên kia. Giờ chị qua đó đi, em nói anh em chụp cho bé 1 tấm phim phổi rồi chị trả em 1 tờ vé số chịu không?”. Chị thoáng lúng túng. Tôi biết rõ chị lúng túng không phải vì tôi xa lạ, từ sâu trong mắt chị, tôi thấy chị lúng túng như kiểu lần đầu tiên gặp việc như vậy.

“Ở đâu em?”

“Bên kia đường, chị thấy chữ Khu Khám Bệnh không? Qua đó chụp 1 phát cho chắc chứ em sợ bé chị nó bệnh đó. Đừng cho uống gói thuốc này vội. Lát anh em xem phim rồi kê toa cho”

Quay lại, tôi vốn quen thân với ông anh cử nhân chụp phim phổi, 2 anh em hay cà phê sáng nên anh rất cởi mở giúp tôi chụp cho bé 3 phim ngực thẳng – ngực nghiêng và cột sống. Sau đó nhờ anh điều dưỡng lấy 1 ống máu xét nghiệm dịch vụ trả kết quả ngay.

Xong tôi dẫn chị qua nơi tôi khám. Khi tôi mặc áo blouse vào, tôi thấy chị lúng túng thật sự, trưng trưng mắt nhìn tôi, còn cô bé cứ ngủ ngon trên đôi vai chị. Tôi chẳng biết vì sao mình lại nói dối chị, nhưng lúc đó, tôi nói tôi là bác sĩ sợ chị không tin. Bác sĩ gì lại đi mua thuốc tây?

Khám hết toàn diện cho bé. Kết hợp với xét nghiệm máu, phim XQ, bé hoàn toàn bình thường. May mắn chỉ là sốt + tiêu chảy do siêu vi. Tôi giải thích và đề nghị chị đổi bịch thuốc chị đang giữ cho bé bằng thuốc của tôi. Và chị đồng ý. Tất cả kháng sinh tôi bỏ ra vì tôi nghĩ nó chưa cần thiết. Thêm 1 ít thuốc bổ dạng siro cho con.

Xong xuôi. Chị đứng dậy cảm ơn tôi rối rít mà mặt thì chăm chăm xuống sàn nhà, không ngẩng lên. Tôi nói “Giờ trả tôi 1 tờ vé số tiền công”

Chị nói “Em đưa bác 2 tờ luôn”. Chưa kịp từ chối chị đã bỏ đi. Để lại 2 tờ vé số trên bàn.

Anh cử nhân X quang nhìn tôi cười

Anh điều dưỡng cũng nhìn tôi cười

Còn tôi nhìn 2 mẹ con chị đi tất tả mà tôi cười

Cảm ơn chị đã bán tôi 20 ngàn niềm vui…

NGUYỄN THANH SANG


 

ÔNG SCHWEITZER VÀ NGƯỜI NGHÈO – Lm Mark Link, S.J.

Lm Mark Link, S.J.

Vào năm 1950, một ủy ban gồm đại diện của 17 quốc gia đã chọn ông Albert Schweitzer là “người của thế kỷ.”  Hai năm sau, 1952, ông được giải thưởng Nobel Hòa Bình.

Ông Schweitzer được cả thế giới ca tụng là một thiên tài đa dạng.  Ông là một triết gia lỗi lạc, một thần học gia sáng giá, một sử gia đáng kính nể, một nhạc sĩ độc tấu, và là một bác sĩ truyền giáo.

Nhưng điều đáng kể là đức tin Kitô Giáo thật sâu đậm của ông.  Chính đức tin này đã ảnh hưởng đến từng góc cạnh của đời ông.

Khi 21 tuổi, Schweitzer tự nhủ là ông sẽ vui hưởng nghệ thuật và khoa học cho đến năm 30 tuổi.  Sau đó ông sẽ dành cuộc đời còn lại để làm việc cho những người nghèo dưới hình thức phục vụ trực tiếp nào đó.  Và vì thế vào ngày sinh nhật thứ 30, ngày 13-10-1905, ông bỏ vào thùng thư ở Ba Lê một vài lá thư.  Đó là thư gửi cho cha mẹ và các bạn thân, ông báo cho họ biết là ông sẽ theo học về y khoa.  Sau đó ông sẽ sang Phi Châu để làm việc cho các người nghèo với công việc của một bác sĩ.

Ngay lập tức các lá thư ấy đã tạo nên một chấn động.  Ông kể lại trong cuốn Out of My Life and Thought:  “Thân nhân và bạn hữu của tôi tất cả đều thành khẩn đưa ra các nhận định của họ về quyết định điên rồ của tôi.  Họ nói, tôi đang chôn vùi các tài năng thiên phú…  Một bà thật hăng say thuyết phục rằng tôi có thể đạt được nhiều kết quả cho việc giúp đỡ người nghèo qua các bài diễn giảng hơn là hành động trực tiếp mà tôi đang ấp ủ.”

Tuy nhiên, ông Schweitzer không thay đổi ý định.

Vào năm 38 tuổi, ông là một bác sĩ đầy đủ bản lĩnh.  Vào năm 43 tuổi, ông sang Phi Châu để mở một bệnh xá ở cạnh bìa rừng mà sau này được gọi là Equatorial Africa.  Ông từ trần ở đây năm 1965 khi được 90 tuổi.

Động lực nào đã khiến ông Schweitzer dám gạt bỏ danh vọng và tiền tài để làm việc cho người nghèo ở Phi Châu?

Ông cho biết, một trong những ảnh hưởng là khi ông suy niệm về đoạn phúc âm mà chúng ta vừa nghe hôm nay về người giầu và ông Lagiarô.  Ông nói:

“Thật không thể hiểu nổi khi tôi tự cho phép mình sống một cuộc đời sung sướng, trong khi quá nhiều người chung quanh tôi đang vật lộn với sự đau khổ.” 

Và đó là điều đưa chúng ta đến câu chuyện phúc âm hôm nay.

Tội của người nhà giầu trong bài phúc âm hôm nay không phải là ông đã ra lệnh tống cổ Lagiarô ra khỏi khu vực của ông.  Cũng không phải là người nhà giầu đã đánh đập hay chửi rủa ông Lagiarô mỗi khi đi ngang qua.

Tội của người nhà giầu là ông không bao giờ để ý đến Lagiarô.  Ông coi Lagiarô như một phần đương nhiên của khung cảnh cuộc đời.  Tội của người nhà giầu là ông chấp nhận mà không bao giờ thắc mắc về sự kiện, Lagiarô thì nghèo và chính ông thì giầu.  Tội của người nhà giầu không phải là tội về một hành động, là thi hành một điều gì đó mà lẽ ra không nên làm.  Tội của người nhà giầu là một tội quên sót, đó là, không thi hành điều phải làm.  Tội của người nhà giầu là đắm mình trong của cải mà không động đến ngón tay để giúp ông Lagiarô khi cùng cực.  Tội của người nhà giầu cũng chính là tội đang được tái diễn ngày hôm nay.  Và chính tội này khiến chúng ta phải thực sự lưu tâm đến những gì cần phải thi hành không chỉ cho người nghèo nhưng còn cho xã hội.

Ông John F.Kennedy đã đề cập đến mối ưu tư này khi ông nói, “Nếu một xã hội tự do không thể giúp gì cho người nghèo thì nó cũng không thể cứu được một thiểu số giầu có.”  Nói cách khác, sự thiếu lưu tâm đến người nghèo không chỉ tiêu diệt người nghèo mà còn tiêu diệt luân lý của xã hội chúng ta. 

Bài phúc âm hôm nay là một lời mời gọi để thi hành điều mà ông Albert Schweitzer đã làm.

Nó là lời mời để suy tư về câu chuyện của người nhà giầu và ông Lagiarô, và tự vấn lương tâm chúng ta câu hỏi mà chính ông Schweitzer đã thắc mắc: Làm thế nào chúng ta có thể sống sung sướng trong khi có quá nhiều người đau khổ? 

Nó là lời mời chúng ta hãy suy tư lời của Tướng Dwight D. Eisenhower: 

“Mỗi một khẩu súng được chế tạo, mỗi một tầu chiến được hạ thủy, mỗi một tên lửa được phóng đi, trong một ý nghĩa nào đó chúng là sự trộm cắp của người đói không có gì ăn, của người lạnh không có gì mặc.”

Nó là lời mời chúng ta hãy quý trọng lời của Chúa Giêsu trong bài phúc âm hôm nay.

Hãy kết thúc bài giảng bằng những lời của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong chuyến tông du Hoa Kỳ năm 1979, khi người giảng ở vận động trường Yankee Nữu Ước. Đức Giáo Hoàng nói: 

“Chúng ta không thể ngồi đó bất động, vui hưởng sự giầu sang và tự do, nếu ở chỗ nào đó vẫn còn một Lagiarô của thế kỷ 20 đứng trước cửa nhà chúng ta.

“Dưới ánh sáng của bài dụ ngôn của Đức Kitô, giầu sang và tự do có nghĩa một trách nhiệm đặc biệt.  Giầu sang và tự do tạo nên một nhiệm vụ đặc biệt.

“Và vì vậy, nhân danh tình liên đới đã trói buộc chúng ta trong một bản tính nhân loại, tôi muốn nói lên phẩm giá của mỗi một con người.

“Người giầu và Lagiarô đều là con người, cả hai được dựng nên cách bình đẳng trong hình ảnh và giống như Thiên Chúa, cả hai đều được cứu độ bởi Đức Kitô với một giá đắt, là giá máu châu báu của Đức Kitô…

“Người nghèo của Hoa Kỳ và của thế giới là anh chị em của các bạn trong Đức Kitô.  Các bạn không thể lấy làm mãn nguyện khi để họ hưởng các mẩu vụn của bàn tiệc.

“Các bạn phải nhìn đến thực chất của mình chứ không chỉ sự dư dật của các bạn và giúp đỡ họ.  Và các bạn phải đối xử với họ như khách được mời đến dự tiệc trong nhà của mình.”

Lm Mark Link, S.J.

From: Langthangchieutim

Nhạc sĩ Nguyễn Vũ, tác giả ‘Bài Thánh Ca Buồn,’ qua đời ở Sài Gòn

Ba’o Nguoi-Viet

September 24, 2025

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Nhạc sĩ Nguyễn Vũ, tác giả ca khúc nổi tiếng ‘Bài Thánh Ca Buồn,’ vừa qua đời tại nhà riêng ở Sài Gòn vào chiều 24 Tháng Chín, thọ 81 tuổi.

Nhạc sĩ Nguyễn Vũ, tên thật là Nguyễn Tuấn Khanh, sinh năm 1944, tại Hà Nội, di cư vào Nam năm 1954 và sinh sống tại Đà Lạt, sau đó là Sài Gòn cho đến cuối đời.

Nhạc sĩ Nguyễn Vũ. (Hình: Báo Tuổi Trẻ)

Theo báo Tuổi Trẻ, nhạc sĩ Nguyễn Vũ qua đời lúc 5 giờ 20 chiều 24 Tháng Chín vì đột quỵ tại nhà riêng trên đường Nghĩa Hưng, phường Tân Hòa, TP.HCM (trước đây là Phường 6, Quận Tân Bình).

“Bài Thánh Ca Buồn” là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, được sáng tác vào năm 1972. Hơn 50 năm qua, ca khúc này được hàng triệu người hát, mỗi khi dịp Giáng Sinh về.

Ngoài “Bài Thánh Ca Buồn,” nhạc sĩ Nguyễn Vũ còn có nhiều nhạc phẩm nổi tiếng khác được nhiều người biết đến như “Nhìn Nhau Lần Cuối,” “Ga Chiều Phố Nhỏ,” “Lời Cuối Cho Em,” “Bài Cuối Cho Người Tình,” “Huyền Thoại Chiều Mưa,” “Đêm Kỷ Niệm…”

Theo cáo phó của gia đình, được báo Tuổi Trẻ trích đăng, cho biết: “Nghi thức tẩm liệm và phát tang vào lúc 11 giờ tối 24 Tháng Chín. Ngày 25 Tháng Chín là thời gian thân bằng quyến thuộc cầu nguyện. Đến 5 giờ sáng 26 Tháng Chín là nghi thức động quan và di quan. Sau đó, linh cữu nhạc sĩ được hỏa táng tại Trung Tâm Bình Hưng Hòa. Gia đình thông báo miễn phúng điếu kể cả hoa, trái cây và nhang đèn.”

Hàng triệu người Việt Nam, có thể ai đó không nhớ tên nhạc sĩ Nguyễn Vũ, nhưng không ai không biết nhạc phẩm nổi tiếng của ông khi vang lên: “Bài thánh ca đó còn nhớ không em?….” Và, “… Rồi những đêm thế trần đón Noel – Lang thang qua miền giáo đường dấu yêu – Tiếng thánh ca ngày xưa vang đêm tối – Nhớ quá đi thôi giọng hát ai buồn…” [kn]


 

Một chút để suy gẫm – Nhà báo Hoàng Nguyên Vũ

Nhà báo Hoàng Nguyên Vũ

Tôi từng ngồi ở hành lang bệnh viện vào một chiều oi ả, khi nghe thấy một câu nói mà đến giờ, mỗi lần nhớ lại, lòng tôi vẫn thắt lại một nhịp.

Một cô hộ lý trẻ nói với giọng bực dọc:

– Bác ơi, bác lại tè ra giường nữa rồi đó nha!

Cụ ông nằm trên giường, ánh mắt ngơ ngác như đứa trẻ bị bắt quả tang làm điều sai.

Ông quay mặt vào tường. Không nói. Chỉ lặng lẽ.

Ở giường bên, một người nuôi bệnh khẽ nói với con gái:

– Con nít tè dầm thì người ta thương. Người già tè dầm… lại bị mắng.

Cô gái gật đầu, rồi hỏi nhỏ:

– Sao lại vậy má?

Bà đáp, chậm rãi, như thể chạm vào một nỗi niềm mà chỉ ai từng già đi, từng lặng lẽ một mình, mới hiểu hết:

– Vì người già… không còn mẹ để thương nữa.

Người ta hay nói: “Già như con nít.” Nhưng không.

Trẻ con có mẹ.

Người già thì không.

Trẻ con lấm lem thì có người lau mặt, dỗ dành, xoa đầu mà bảo:

 “Không sao, mẹ đây rồi.”

 Người già lấm lem thì bị nhíu mày, bị nhắc nhở, bị những cái thở dài kéo dài đến rã rời.

Trẻ con được nâng niu vì còn cả một đời phía trước.

Người già bị bỏ mặc… vì chẳng còn bao nhiêu đời để mà mong chờ.

Tôi nhớ cha mình – một người thợ mộc từng thẳng lưng suốt đời, từng không biết cúi đầu trước ai – đứng run rẩy ở cửa phòng tôi, chỉ để thốt lên một câu:

“Con ơi, giúp ba thay áo với.”

Ông đứng đó, như thể xin một đặc ân.

Tôi bước ra, thấy bàn tay ông đã không còn vững, cúc áo cài lệch, vạt áo lộn trong ra ngoài.

Lòng tôi thắt lại.

Người từng dạy tôi cài khuy áo… giờ không cài nổi áo cho mình.

Ông xấu hổ. Không phải vì chiếc áo.

Mà vì lần đầu trong đời, ông cần con trai… như ngày xưa tôi từng cần ông.

Người già không đáng thương vì họ yếu.

Họ đáng thương… vì họ đã từng mạnh.

Từng đội mưa đạp xe mấy chục cây số chỉ để con kịp đến lớp.

Từng nhường miếng cá cuối cùng trong nồi canh chua cho đứa con thích ăn đầu.

Từng thức cả đêm chỉ để mở cửa khi ta đi chơi về muộn mà không một lời càm ràm.

Giờ đây, họ chỉ mong một bàn tay đủ dịu dàng để không gạt đi, đủ kiên nhẫn để không gắt gỏng.

Họ chỉ mong… một người chịu nắm tay họ đi qua đoạn đời cuối cùng – như chính họ đã từng nắm tay ta qua những tháng năm đầu tiên.

Chúng ta thương con bằng bản năng.

Nhưng lại thương cha mẹ già… bằng sự kiên nhẫn giới hạn.

Vì sao?

Vì ta đã quen thấy họ gồng gánh, mạnh mẽ.

Nên khi họ yếu mềm, ta bối rối.

Khi họ lẩm cẩm, ta khó chịu.

Khi họ phụ thuộc, ta lảng tránh.

Ta quên mất rằng…

Người từng là chỗ dựa, cũng cần được dựa lại.

Người từng thay ta tã, giờ chỉ cần ta lau cho họ một giọt nước tiểu mà không rít lên vì mệt.

Đừng đợi đến khi họ không còn… rồi mới thốt hai chữ “giá như”.

Giá như mình nhẹ giọng hơn một chút.

Giá như mình không gắt lên hôm đó.

Giá như mình chịu dắt mẹ ra ngồi nắng chiều trước cổng, chỉ vài phút thôi…

Người già không còn mẹ.

Và chúng ta – những đứa con – chính là phần dịu dàng cuối cùng họ còn.

Thương một người già, đôi khi không cần phải làm điều gì lớn lao.

Chỉ cần đủ kiên nhẫn để đừng khó chịu.

Đủ mềm lòng để không nhẫn tâm.

Và đủ tử tế… để không rời tay họ, khi họ bắt đầu run rẩy.

 Nhà báo Hoàng Nguyên Vũ

From: taberd & NguyenNThu

ÔNG SƯ NHÀ QUÊ – VŨ VĂN QUÝ

VŨ VĂN QUÝ

( Một tấm gương tốt lành rất đáng tôn vinh.)         

ÔNG SƯ NHÀ QUÊ

   “Tưởng niệm cố Hòa Thượng THÍCH THANH LONG –
một cựu Tù Nhân Chính Trị – nhân giỗ mãn phần 28 năm ( 29/11/1991 – 2019).”

BÀI CA KINH HÒA BÌNH
VŨ VĂN QUÝ

Tôn giáo nào cũng có những vị chân tu – những bậc lành thánh – suốt đời hiến thân cho lý tưởng thiêng liêng cao cả của mình đã chọn. Nhiều vị đã cùng sống chết với tha nhân và chết cho đạo pháp và trở nên hiển thánh được đời sùng bái tôn thờ chẳng hạn như thánh Maximilian Kolbe… (*). Tấm lòng vị tha chan chứa tình người của họ tỏa ra vô biên không vị kỷ, không đóng khung hạn hẹp ở lằn ranh tôn giáo. Biết bao công đức của họ được truyền tụng từ thế hệ này qua thế hệ khác được kể lại bằng những câu chuyện đầy cảm kích. 

Cách nay gần 3 thập niên trên tờ Đất Mẹ số 38 (Đất Mẹ là tờ báo nguyệt san Công Giáo) chúng tôi đã viết dưới đề tựa ” Nén Hương Cho Hòa Thượng THÍCH THANH LONG” ngay sau khi ngài viên tịch tại Sài Gòn. Từ sau ngày ấy đến nay, nhiều báo Việt ngữ tại Hoa Kỳ cũng có những bài viết về ngài, điểm đáng chú ý là những tác giả này đa số là những tù nhân chính trị người Công Giáo trong đó có một số các vị linh mục đang có mặt tại Hoa Kỳ, những người đã một thời sống cùng với cố hòa thượng ở các trại tù từ Nam chí Bắc, tất cả đều tỏ lòng tôn kính, ngưỡng phục. 

Tang lễ cố Hòa Thượng THÍCH THANH LONG  được mô tả như một đám rước hết sức trọng thể. Đoàn người tham dự đã phủ kín con đường dài 5 cây số từ cổng Chùa Giác Ngạn đường Trương Minh Giảng Sài Gòn tới Nghĩa Trang Bà Quẹo không chỉ gồm các đoàn thể Phật tử, các thiện nam tín nữ mà có mặt đủ mọi thành phần tôn giáo cũng như rất đông đảo các cựu Tù nhân Chính trị. 

Trước năm 1973, Hòa Thượng mang cấp bậc Trung Tá làm Phó Giám Đốc Nha Tuyên Úy Phật Giáo cho đến khi thượng tọa Thích Tâm Giác đi Nhật bản trị bệnh thì Hòa Thượng mới lên làm Giám Đốc và cũng được thăng cấp Đại Tá tuyên úy từ dạo đó. 

Ngày 13/6/1975 bị việt cộng bắt đi cải tạo và đem ra Bắc. Đến ngày 12/9/1987 được tha trở về lại Chùa Giác Ngạn Sài gòn và mãn phần tại đây. 

Ngược dòng thời gian gần 3 thập kỷ, năm ấy cũng vào mùa thu (1982), trại cải tạo Hà Tây tiếp nhận thêm khoảng 80 tù nhân chính trị (TNCT) từ trại tù Thanh Phong chuyển đến. Đa số thành phần thuộc Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị gồm các ngành Tâm Lý Chiến, An Ninh Quân Đội và Tuyên Úy của Quân Lực VNCH. 

Trại Hà Tây có tất cả 12 buồng giam. Số TNCT mới đến bị nhốt trong buồng số 7. Buồng này rất kín cổng cao tường bao quanh chằng chịt kẽm gai vì trước đó được dùng để nhốt các tù hình sự có trọng án nên được canh gác cẩn mật. Việt cộng coi những TNCT này là những đối tượng cực kỳ nguy hiểm. Khoảng một tháng sau khi được thanh lọc kỹ càng  thì việt cộng mới mở cửa cho đội Tuyên Úy ra ngoài lao động; tuy vậy buồng 7 vẫn chưa được ra sân lớn tập họp điểm số như các buồng khác. Đội Tuyên Úy lúc này do linh mục Nguyễn Quốc Túy – cha Túy là cựu Thiếu Tá Biệt Động Quân, một mẫu người trẻ năng nổ, ứng phó thần kỳ đã được các vị tu sĩ cử ra đứng mũi chịu sào để điều động đội này xử trí với những thủ đoạn thâm độc của việt cộng. Công việc chính của đội tuyên úy lúc đó là đào đất đắp đường và kéo xe thay thế trâu bò.

Lần đầu tiên tôi được cha Túy mời dự bữa cơm trưa thân mật tại sân buồng 7. Có khoảng chục người trong đó có linh mục Khổng Tiến Giám bào đệ của linh mục Khổng Tiến Giác tuyên úy Bộ Tổng Tham Mưu, linh mục Nguyễn Văn Thịnh cựu giám đốc nha tuyên úy Công giáo, các mục sư Xuân, Điểu Huynh và các đại đức Tâm, Khuê, Tùng và hòa thượng Long. Ngoài đội tuyên úy chỉ có 2 khách mời là tôi và Đại tá Trần Mộng Chu nha Quân Pháp. Hầu như không phân biệt tôn giáo và cấp bậc, tất cả các vị tuyên úy đều xem hòa thượng Thích Thanh Long như một người anh cả và xưng hô một cách chung chung là thầy Long. Mỗi khi nhắc đến thầy Long thì mọi người đều nói về thầy với niềm kính ái trọng vọng. 

Thoạt đầu khi chưa giới thiệu từng người trong bữa tiệc, tôi ghé vào tai cha Túy hỏi có phải người ngồi trước mặt cha là Thầy Long không thì cha lắc đầu. Cung cách bề ngoài và bộ quần áo mới màu đà còn tươi của vị này làm cho tôi lầm ông với hòa thượng Long. Rồi cha chỉ cho tôi người ngồi đối diện với tôi. 

Vóc gầy gò, dong dỏng cao, da ngăm ngăm, hàm răng nhỏ và đen huyền, tóc cạo đúng tiêu chuẩn sư tăng nhà Phật, mặc bộ đồ cũ đơn sơ, khuôn mặt hiền hậu nhưng khắc khổ, toát ra vẻ chân tu như thánh Găng Đi nhất là cặp mắt sáng, sâu, đen láy, rất ít nói nhưng quan tâm lắng nghe mọi người xung quanh. Đó là người ngồi đối diện với tôi. Người đó chính là Thầy Long. Tôi nhìn ông khẽ cúi đầu và ông nhìn tôi với đôi mắt hiền từ trìu mến. Ông đã trao cho tôi một nụ cười thật kín đáo.

Tháng 3/1983, trại Hà Tây sắp giải thể và chuyển hết các TNCT về Nam Hà. Các vị Tin Lành và Phật Giáo được phân tán về các đội lao động. Riêng các tuyên úy Công Giáo chờ phương tiện chuyển ngược về trại tù Thanh Phong. 

Năm 1985, tôi và thầy Long bị giam chung  tại Nam Hà và chính thời gian này tôi được biết thầy nhiều hơn. Có những người đã biết và nói rằng trước ngày di cư từ Bắc vào Nam năm 1954, thầy đã trụ trì tại một ngôi chùa ở một làng tại tỉnh Nam Định và được đông đảo tín hữu mến mộ. Nhiều đêm tâm sự với thầy trong buồng giam, tôi cố gợi chuyện để biết thêm nhưng thầy là người điềm đạm khiêm tốn chỉ kể với tôi là thầy xuất gia đầu Phật từ lúc 12 tuổi. Quyết tâm tu hành, không muốn vương vấn nợ trần, thầy đổi tên là Nguyễn Văn Long và hầu như hoàn toàn không ai biết được tên thật và quê quán của thầy. Thầy thuộc nhiều địa danh ở Nam Định, khi tôi kể chuyện liên quan đến những vùng Cổ Lễ, Cổ Ra, Văn Tràng, Trực Ninh, Nam Trực, Quần Phương, Lạc Quần v.v. thì bỗng nhiên đôi mắt thầy rực sáng lên và có vẻ thích thú. Tôi đoán có lẽ thầy đã trải qua thời thơ ấu tại một trong những địa danh này chăng? 

Thầy nói năm 16 tuổi, thầy chỉ lén về nhà nhìn mặt thân phụ của mình từ trần rồi lại lặng lẽ ra đi. Lý tưởng của thầy là Phật pháp, tình yêu của thầy là tha nhân, thân bằng quyến thuộc của thầy là Phật tử. Thầy có một cuộc sống vô cùng mộc mạc, đơn sơ, đức độ, lúc đi tu cũng như lúc ở tù. Thầy thường nói với tôi : “Tù cũng là tu”. Vốn có một tâm hồn thanh tịnh như đóa sen nở trên mặt hồ không gợn sóng lúc nào cũng toát vẻ chân tu khiến người bàng quan thấy thầy là cõi phúc. Lúc nào thầy cũng tự nhận mình là một “Ông Sư Nhà Quê”.  Đúng như vậy. 

Trong thời kỳ đói khát, tù nhân chưa được gia đình tiếp tế thăm nuôi đã có kẻ lấy chiếc lon ghi gô đựng nước uống của thầy nhét đầy thịt heo đánh cắp của trại, lúc bị phát giác không ai dám nhận. Cuối cùng để tránh phiền lụy cho một số người, thầy không ngần ngại đứng ra nhận chiếc lon đó là của thầy mặc dù ai cũng biết thầy ăn chay trường và kẻ nào là tên ăn trộm lúc bấy giờ. Khi nào trại cho tù nhân chút ít thịt để “bồi dưỡng”, thầy thường nhường cho các anh em đau ốm bệnh hoạn.

Đến khi được thăm nuôi tiếp tế, Phật tử khắp nơi đến thăm thầy hầu như hàng tuần. Những quà tiếp tế, thầy đem chia cho các bạn tù. Quần áo chỉ giữ 2 bộ. còn bao nhiêu cũng đem cho hết. Thầy thường xuống bệnh xá thăm viếng những người đau ốm và đem quà bánh thuốc men  xuống cho họ. Thầy rất quan tâm đến những “con bà phước” (**) bị bỏ quên trong trại. 

 Một vài trường hợp điển hình:

– Anh Khương, Phó Quản Đốc Trung Tâm Cải Huấn Côn Sơn – một người Công Giáo – bị địch bắt ngay trong lúc còn đang mặc sắc phục và bị việt cộng đánh nhừ tử. Hậu quả của những trận đòn thù khiến anh Khương trở thành bại liệt, á khẩu, tay chân co rút. Anh bị mất liên lạc với gia đình từ ngày bị bắt. Gần 13 năm, anh mới bập bẹ nói được một tiếng “dôi, dôi” như đứa trẻ mới tập nói. Thầy Long đã đích thân chăm sóc đút cơm, tắm rửa cho anh Khương như một người thân, đặc biệt là khi trại đọc lệnh tha nhưng anh không biết về đâu và không thể đi được một mình. Chính thầy Long đã giúp anh một số tiền và nhờ đại đức Tâm được tha cùng một lượt với anh Khương về trước tìm kiếm thân nhân của anh ở tận miền Tây để ra đón anh. 

– Anh Nguyễn viết Tân, Đại tá hải quân QLVNCH bị bán thân bất toại và bệnh nặng trong lúc mọi người ai nấy đều lo cho bản thân mình và tình thương giữa con người đã trở nên mệt mỏi thì thầy Long cũng chính là người tình nguyện chăm sóc anh Tân cho đến khi anh được người nhà ra đón kịp  về rồi chết. 

Một trường hợp khôi hài khác là ở trong trại có một anh tên Nguyễn Huệ, “vô tông tích” tự xưng là trung tướng Tư Lệnh Sư Đoàn 23B (?). Có một thời gian anh ta bị giam chung với các tướng lãnh QLVNCH nhưng sau việt cộng phát giác “tướng Nguyễn Huệ”  chỉ là một tên điên khùng  và bị loại ra khỏi đội. Thấy thầy thương người và dễ dãi, “tướng Nguyễn Huệ” thường hay chạy theo quấy quả xin xỏ cơm và thuốc lào. Hễ trông thấy anh ta là thầy tủm tỉm cười, thầy không hề tỏ vẻ khó chịu và còn đi kiếm thuốc lào cho anh ta, tuy thầy chẳng bao giờ hút thuốc. 

Tù nhân được tha dần nhưng vẫn còn tồn đọng một số khá lớn trong đó có các đại đức Tâm, Khuê, Xuân, Tùng, Trí, Bình, Ngự, Học, Diệu v.v. Mỗi lần thầy Long được thông báo có thăm nuôi thì các vị này đã sắm sẵn bao bị và tận tình giúp đỡ thầy. Thầy thường nói : ” Hôm nay tôi lại có thánh Veronica đến thăm nuôi “. Đây cũng là dịp thầy tập họp các tu sĩ Phật giáo ở trong trại tù để phân công đi thăm viếng bệnh nhân hoặc cắt cử họ đến tụng kinh và cầu siêu mỗi khi có người tạ thế.

Vào các dịp lễ Noel hay Tết âm lịch, thầy cũng dành dụm chút gạo, đậu xanh, đường tán và khởi xướng việc nấu chè ăn chung cả buồng mang niềm vui nhỏ bé đến cho mọi người và còn dốc hết “hầu bao” giúp các anh em nghèo đói nhất trong trại. 

Thầy rất thích nghe tôi đánh đàn và kể chuyện cuộc đời thánh Phanxicô Khó Khăn (Francis 0f Assisi) nhất là những câu hát ý nghĩa thâm thúy trong Kinh Hòa Bình. Cứ vào mỗi sáng sớm Chủ Nhật được nghỉ lao động, trong khi tất cả mọi người còn nằm trong mùng thì thầy đã đánh thức tôi và khẽ nói : “Ông Quý ơi ! Dậy cho anh em nghe đàn đi !” Thế rồi âm thanh của chiếc đàn gỗ tự tạo ở trong tù của tôi nhè nhẹ vẳng ra tiếng thay lời trong âm giai cung Mi buồn ” Lạy Chúa từ nhân, xin cho con…..” hầu như không làm cho ai khó chịu cả. 

Tấm lòng cao quý của thầy sáng như ngọn đuốc trong trại tù tăm tối, không những đối với các bạn tù chính trị mà còn lan tỏa  đến cả những tù hình sự giam chung cùng trại. 

Như một tấm huy chương vô giá mà trên cõi đời này không thể đem ra so sánh được, thầy đã đối diện với bọn cai tù khát máu, trước họng súng AKA mà không hề nao núng và không sợ chết. Thầy đã được các vị tuyên úy Công Giáo ca ngợi vì đức bác ái và lòng hỷ xả, quên mình và chấp nhận những gì bất hạnh xảy đến. Trong cuốn AKA và Thập Giá của linh mục Phan Phát Huồn, Dòng Chúa Cứu Thế trang 107-108 kể chuyện đám tang của Cha Nguyễn Văn Bản, Dòng Đa Minh, tuyên úy Tổng Y Viện Cộng Hòa chết tại trại giam Yên Bái. Sau khi chôn cất, việt cộng bắt các tù nhân cải tạo lên lớp hội thảo để lên án và làm nhục người đã chết. Chúng vu cáo cho Cha Bản là một tên ác ôn côn đồ, chạy theo Mỹ Ngụy giết hại đồng bào, một tên có nợ máu đối với nhân dân, một tên lường gạt vv.. Nghe tên Nha, công an việt cộng lải nhải nhục mạ một người đã khuất mà người đó vốn là một người đạo đức gương mẫu, không dằn nổi sự bất bình, thầy Long đã đứng lên bênh vực bằng một giọng ôn tồn nhưng cương quyết : 

” Tôi được biết Linh Mục Bản ngoài xã hội cũng như ở trong trại cải tạo là một con người đạo đức, được mọi người kính nể…” Tên việt cộng hống hách nạt nộ:

” Anh im mồm ngay. Anh Bản đã bị nhà nước cách chức linh mục của anh ta từ ngày anh bước chân vào trại cải tạo, còn anh, anh đừng có hòng đem cái bọn cha cố vào đây mà hù dọa cách mạng…”  nhưng thầy Long đâu có chịu im. Đợi cho tên việt cộng vừa dứt lời thì thầy nói tiếp:

” Nếu linh mục đều như cán bộ nói thì làm sao dân chúng tin tưởng và kính mến họ. Mặc dù  cán bộ đã cấm các trại viên gọi các linh mục là Cha và tự xưng mình là con, trại viên nào không tuân thì sẽ phải xử lý, nhưng thưa cán bộ, có ai chấp hành lệnh đó không? Trái lại, đối với công chức nhà nước, trước mặt họ gọi là cán bộ nhưng sau lưng họ gọi bằng thằng việt cộng thì cán bộ nghĩ sao?” 

Như một con hổ bị trúng đạn, hai mắt hắn đỏ ngầu giận dữ, nhảy chồm tới nhìn trừng trừng vào thầy Long, quát thật lớn văng cả nước miếng vào mặt người đối diện và hắn ra lệnh:

“À anh này hỗn thật, yêu cầu các đồng chí đem cùm tên này cho tôi, biên bản sẽ làm sau.” 

Thầy Long vẫn tiếp tục nói một cách hùng hồn cho đến lúc lính cảnh vệ việt cộng mang AK xông tới còng hai tay ông, ông không tự bênh vực cho mình, ông vẫn bình thản đưa hai tay cho chúng còng để chúng đem đi. Đây thật là hình ảnh một con chiên hiền lành đứng trước kẻ xắn lông mình mà không nói lời than trách như đã được diễn tả trong Kinh Thánh. (Cv.8.32-33). 

Cuối năm 1987, thầy Long được tha về. Cởi bỏ chiếc áo chàm cải tạo, thầy lại khoác chiếc áo màu đà. Từ khi trở về Chùa Giác Ngạn, thầy không giữ chức trụ trì như trước, thầy sống trên căn gác xép tại góc vườn nhưng hàng ngày rất đông người đến thăm viếng và ngôi chùa được trùng tu lại, trở nên đẹp đẽ khang trang hơn cũng nhờ uy tín và sự quan tâm của thầy. Hầu như ai cũng cảm mến gương hy sinh, lòng can đảm, tánh cương trực của thầy Long. Có những vị Linh Mục không đi cải tạo mà chỉ nghe tiếng thôi cũng muốn đến thăm thầy Long tại Chùa Giác Ngạn. Tôi hỏi Cha Vũ Ngọc Trân, Chánh Xứ Chu Hải tỉnh Phước Tuy, cha nghĩ thế nào khi đến thăm Hòa Thượng Thích Thanh Long tại Chùa Giác Ngạn? Cha đã trả lời một cách không dè dặt: ” Tôi nghĩ Chúa sẽ thưởng công cho bất cứ ai biết khao khát trọn lành, thương người và giúp đỡ bênh vực người. Chúa nói kẻ nào giúp đỡ người đều có công trước mặt Ta. Tôi nghe các cha tuyên úy đi cải tạo về có nói nhiều về ông. Tôi cũng mến mộ ông và việc tôi đến thăm cơ sở một tôn giáo khác đâu có gì làm suy giảm đi lòng kính mến Chúa nơi tôi đâu. Nếu nói đó là một hình thức trao đổi văn hóa thì cũng chẳng sao!” (Cha Đa Minh Vũ Ngọc Trân cũng đã qua đời tại Xứ Chu Hải Bà Rịa ngày 24/2/1992). 

Trong thời gian chưa mắc bệnh ung thư nơi xương tọa, phương tiện chính của thầy trong thành phố là “xe đạp ôm”. Thầy thường ngồi trên “poóc ba ga” phía sau để cho một chú tiểu chở đi. Người ta thấy thầy xuất hiện ở nhiều nơi và tình thương của thầy dường như vẫn đặc biệt dành cho bạn tù cải tạo còn trong trại giam hoặc đã được tha về. Khi biết có ai đi xuống trại Z30D thì thầy cũng nhắn lời thăm hỏi, có đôi lúc  thầy gửi một cần xé chôm chôm hoặc vài thùng mì gói xuống phân phát cho anh em chưa may mắn được về sum họp với gia đình. Khi nghe tin có người vừa mất, bất luận ở đâu, không phân biệt tôn giáo, nơi cầu siêu hay chốn làm phép xác, tại chùa hay nhà thờ thánh thất, thầy cũng đều có mặt để phân ưu với gia đình người quá cố, thầy không ngần ngại đến vì “nghĩa tử là nghĩa tận”. Tôi đã gặp thầy và cùng đứng chung với thầy dưới gốc cây xoài trước tượng đài Đức Mẹ trong khuôn viên Nhà Thờ Ba Chuông để chờ tiễn đưa linh cữu của cố Trung Tá Nguyễn Thủy Chung và cố Trung Tá Nguyễn Anh Ly mất vào những năm 1989-1990. 

Rất nhiều cựu TNCT nay đang có mặt tại Hoa Kỳ hoặc định cư rải rác trên khắp thế giới vẫn nhắc đến thầy Long. Ký giả Lô Răng tức cố Trung Tá Phan Lạc Phúc và Trung Tá nhà văn Hoàng Ngọc Liên, Ký giả Vũ Ánh… cũng có những bài viết rất sâu sắc về thầy.                                                                    

                                                    *    *     *

Tôi chẳng có tư cách gì và cũng chẳng dám đưa ra nhận xét nào để “phong thánh” cho một con người mà tôi quen biết trong một thời gian hạn hẹp. Dưới nhãn quan của một tín đồ Công Giáo, dù sao tôi cũng chỉ là một chứng nhân với biểu kiến riêng, tôi xem Hòa Thượng Thích Thanh Long là một tấm gương rất tốt lành, đáng kính và đáng tôn vinh mà thời đại ngày nay thắp đuốc giữa ban ngày đi tìm cũng khó kiếm. Một người đã hy sinh tất cả để trọn đời đi theo con đường giống như của thánh Phanxicô Khó Khăn tác giả bài ca KINH HÒA BÌNH đã đi. 

Thầy Long luôn đề cập KINH LỤC HÒA trong Diệu Pháp Liên Hoa cho các đệ tử. Chính vì thế mà thầy rất thích KINH HÒA BÌNH của thánh Phanxicô lúc ở trong tù thì sau này tôi mới nghiệm ra vì nó ẩn chứa những điều uyên thâm sâu xa nói về đức bác ái và lòng từ bi cũng giống như KINH LỤC HÒA. Tôi không ngờ thầy Long lại là một người bạn tri âm của tôi và ngày nay mỗi khi dạo nhạc hát lên bài ca KINH HÒA BÌNH tôi lại nhớ đến thầy. 

Từ cõi bên kia, tôi tin rằng thầy đang mỉm cười và chăm chú lắng nghe tôi hát:

“Lạy Chúa từ nhân! Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người. Lạy Chúa xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hòa vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm…”  

Tôi sẽ nhớ thầy mãi mãi cùng với bài ca KINH HÒA BÌNH trong tiếng tơ đồng của cung Mi buồn. 

VŨ VĂN QUÝ

(*) Cha Nguyễn Quốc Túy hiện nay làm cha xứ Tân Thái Sơn tại Sài Gòn.

(*) Con bà phước: tù nhân mồ côi, không người thăm viếngthiếu thốn.


 

Hồi xưa chợ Thủ Đức không có ngập…

Nguyễn Gia Việt

 Chợ Thủ Đức là một khu chợ cổ gắn liền với sự hình thành và phát triển của vùng đất Thủ Đức từ thuở lập ấp, lập làng đến hôm nay.

Hồi xưa chợ Thủ Đức không có ngập, ngập lút là của hôm nay khi quy hoạch chung quanh đã bít đường nước, hướng dòng nước mưa tập trung vào chợ Thủ Đức như cái ao.