Thư Viết Từ Chân Núi – Vĩnh Chánh

Kimtrong Lam

 Vĩnh Chánh

Hầu như sau những trận đánh lớn, đơn vị thường được di chuyển về sau chiến tuyến, dưỡng quân, bổ túc quân số, tân trang quân dụng, chỉnh đốn chiến thuật, chờ đến phiên tái lâm chiến, trong nay mai. Để tưởng nhớ đến cuộc chiến đã chấm dứt 50 năm, Lá Thư Viết Từ Chân Núi xin ghi lại những nỗi niềm của người lính cùng niềm tin, hy vọng và tình yêu qua chiều dài của cuộc chiến tại Miền Nam Việt Nam.

Các anh đi, ngày ấy đã lâu rồi

Các anh đi, đến bao giờ trở lại

Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ trông (Các Anh Đi – Nhạc sĩ Văn Phụng)

Bạn thân mến!

Tất cả chúng ta đã trải qua những giai đoạn khác nghiệt trong chiến tranh và hậu chiến, khi Miền Nam Việt Nam phải chống trả sự xâm lăng khát máu của CS Miền Bắc. Hình ảnh của những xuôi ngược hiểm nguy trong bước đường chinh chiến, những hy sinh hào hùng của người lính chiến – những mất mát chết chóc, những đau thương tủi nhục, những thảm cảnh do pháo kích bừa bãi của Việt Cọng vào các thành phố, những lần chạy giặc, Biến Cố Mậu Thân, Đồi 31 Hạ Lào, Đại Lộ Kinh Hoàng, Trận Đánh Đồi Charlie, Tử Thủ An Lộc, Hải Chiến Hoàng Sa, những di tản triệt thoái không lối thoát, những kinh hãi trong vượt biên vượt biển, những đọa đày trong ngục tù CS, và những bôn ba, những cố gắng phi thường khi làm lại cuộc đời trên xứ người.

Một số không nhỏ anh em chúng ta đã bỏ mình cho Tổ Quốc, một số lớn khác đã mang những thương tật trên thân thể và những vết sẹo trong tâm hồn, và hầu như tất cả chúng ta còn lại cùng gia đình và bao người thân quen đều cùng phải gánh chịu những hư hao  gãy đổ phi lý, những điêu tàn cơ cực trong khói lửa binh đao. Sau ngày gãy súng trong trại tù tủi nhục. Khi lênh đênh trên biển. Khi làm lại cuộc đời trên xứ người. Hay đành tiếp cuộc sống bạc đãi trong nhà tù lớn tại quê hương …      

Bạn ơi!

Có cuộc chiến nào mà không có đau thương tàn phá, mà không có tao loạn phong trần. Có cuộc chiến nào mà không có chết chóc chia phôi, mà không có máu lửa và nước mắt. Tuy nhiên, bên cạnh nguy hiểm thường trực của chiến tranh, phải chăng chúng ta vẫn luôn mang một hy vọng sống còn về lại với người thân, hay một tình yêu trong lòng, một hạnh phúc thầm kín và một giấc mơ hiền hòa khi thanh bình. Vì vậy, trong gian truân nguy hiểm, trong địa ngục trần gian, trong sóng gió cuộc đời, phải chăng chúng ta đã luôn cầu nguyện xin Ơn Trên cứu giúp chúng ta vượt thoát và đưa chúng ta về chốn bình an. Và phải chăng lồng vào giữa đời người lính luôn có sự hiện diện của tình yêu. Vì tình yêu mới có thể giúp đỡ, cưu mang và nuôi dưỡng người cầm súng quên đi bao gian khó, bất chấp bao nguy hiểm thường trực, để vươn lên trong thử thách bão lửa, và sống sót. Cho dù đó là tình yêu quê hương xóm làng, tình đồng đội sống chết bên nhau, tình nghĩa vợ chồng của đôi chinh phu chinh phụ, là cuộc tình thơ mộng hay tình sầu giữa chàng lính chiến và em gái hậu phương, hoặc một chuyện tình đắm đuối trong lần về phép rồi dở dang oan trái vì hai phương trời cách biệt.

        Tình yêu đó như thể một cánh hoa mọc giữa sườn đá. Một hơi ấm giữa cơn mưa rừng. Một cứu cánh bên bờ vực chết. Một vị ngọt giữa cái đắng, thần dược của nỗi đau trong đời chiến chinh. Một cái dù bao la che chở khi ta bị thương tật. Và một ánh sáng chớp vào tim trước khi nhắm mắt trút hơi thở cuối cùng

        Ôi! Người lính, tình yêu và nỗi chết. Thử hỏi người trai nào sống trong thời chiến mà chưa một lần biết đến những nỗi niềm trên! Có người lính nào mà không một lần nghĩ đến thân phận khi dấn thân vào sương gió?! Và còn gì tuyệt đẹp hơn khi tình yêu đến trong địa ngục biển lửa, nơi mà sự nguy hiểm, thử thách kề cận bên cái chết càng thôi thúc lòng tin yêu, nỗi nhung nhớ đến tuyệt hảo. Vì trong tiếng thì thầm của tình yêu thời chiến đã có sẵn chữ hy sinh. Vì khi tình yêu vừa len nhẹ vào đời người lính nó đã mang theo mầm mống của lo sợ tan vỡ, của mất mát chia ly và chết chóc. Trong thử thách, gần với nỗi chết, tình yêu nơi người lính càng sáng ngời hoa mộng, mang đầy từ tâm. Là nơi bám víu giữa những lằn chớp của bom đạn. Là nhung nhớ lơ lửng giữa nguy hiểm. Là bao nhiêu lần mơ đến em là bấy nhiêu lần nguyện cầu khi không biết phải làm gì hơn. Là cảm nhận hạnh phúc tuyệt vời dù chỉ với lá thư tình dấu kín trong ba lô, hay một tin nhắn của người yêu từ phương xa. Hoặc đơn giản là những bộc lộ thiết thực khi cảm nhận thiếu vắng em, những ao ước được dạo phố bên em, những cơn mê thèm ôm em. Ngay giữa những tiếng nổ. Giữa những đêm khuya trắng mắt. Trong những cơn say chưa đủ say. Khi không biết ngày mai sẽ ra sao:

“Mấy tháng rồi tao chưa thấy Sài Gòn

Mấy tháng rồi tao không được ôm em

Tao thèm làm tình như tao thèm sống

Tao thèm hôn em, hôn liên miên…” 

(Mưa và Nỗi Chết ở An Lộc/ Tác giả Nguyễn Tiến Cung}

        Song song với cuộc chiến là những câu chuyện về những người lính xông pha nơi chiến trường có những người yêu để lại đằng sau. Là những tình cảnh dạt dào thắm thiết của chàng nơi sương gió thương nhớ em ở làng xa, “chiều chiều ngoài biên cương, nhìn ra khơi ngàn sóng biếc mơ đến em bên bến sông buồn trông chờ” Là những thơ tình trang tải nổi nhớ nhung của nhau. Những hẹn hò quý báu trong những ngày nghỉ phép ngắn ngủi. Những thầm kín, những mơ mộng, những tâm sự, những dự tính, những ôm choàng, những nụ hôn hay những gắn bó thể xác, những hiến dâng tự nguyện. Để nhiều khi, những cuộc tình ấy đơm hoa kết nụ theo tháng ngày chinh chiến, cho dù về sau chàng là “bại tướng cụt chân”; hay cuộc tình vụt tan khi tin em sang ngang đến giữa tiếng bom đạn. Và đôi khi cuộc tình bị chém ngang tim với tin dữ chàng vừa gục ngã nơi một tiền đồn không tên, rơi nhẹ vào chốn miên viễn không hận thù, bỏ lại cuộc đời trai trẻ và “người tình còn đó anh nhớ không anh”.

        Bạn thân mến, trong thời gian chờ ra đơn vị, tại BV Đỗ Vinh, tôi tình cờ đọc lại cuốn truyện dịch “Một Thời Để Yêu, Một Thời Để Chết”. Một câu truyện về người lính, tình yêu và sự chết xẩy ra như bao câu chuyện tương tự trong cuộc chiến hiện tại, nhưng không hiểu vì lý do gì cuốn truyện này đã để lại bấy giờ cho tôi một ấn tượng sâu đậm. Có thể vì đó là thời gian tôi đang chơi vơi đeo đuổi mối tình đầu đời ở tuổi hai mươi sáu. Giữa những giường bệnh, giữa những tiếng rên đau, chưởi thề, nghiến răng của thương binh, trong mùi ẩm ướt của sàn nhà, mùi bông băng thấm máu và của thuốc men, tôi chứng kiến bao nụ cười hạnh phúc của các đồng đội thương binh kề cận, do những người mẹ, người chị hay em, hoặc người tình đem đến. Là những thức ăn quen thuộc do nhà nấu, trái cây tươi mát đưa tận miệng. Là những e ấp nắm tay, những an ủi trìu mến. Là những ánh mắt thương cảm, ưu buồn lo lắng khi nhìn thấy vết thương nặng của người thân. Là những thăm hỏi, hay đôi khi chỉ là những câu nói bâng khua, dù ngồi hằng giờ bên cạnh giường. Là những gói thuốc lá, ly cà phê đá, những chiếc khăn tay, những cuốn truyện từ tay các em gái hậu phương…

        Câu truyện “Một Thời Để Yêu, Một Thời Để Chết” của tác giả Erich M. Remarque chọn bối cảnh nước Đức trong thời Đệ Nhị Thế Chiến. Anh lính Đức Erust Graeber về thăm nhà lần đầu tiên sau 2 năm ở chiến trường Miền Đông. Dưới khung cảnh đổ nát của thị trấn mình liên tục bị Đồng Minh oanh kích, anh tìm thấy được tình yêu với nàng Elizabeth Kruse, một người quen xưa của gia đình. Một tình yêu mãnh liệt giữa 2 con người không còn gì để phải sợ mất mát thêm đã nảy mầm giữa tiếng bom đạn và chết chóc rồi mãnh liệt vươn lên, trong âu lo mơ mộng, ngọt ngào khắc khoải, nồng nàn ân ái, hy vọng mơ mộng, bàng bạc mong manh trong nỗi buồn miên man vô định của có nhau hôm nay, xa nhau ngày mai, rồi mất nhau. Thay vì đào ngũ, Erust quyết định trở lại đơn vị để rồi gục ngã bởi hòn đạn từ chính những tên du kích Nga anh vừa thả ra, khi tay anh đang cầm lá thư của vợ báo tin có thai con mình. Truyện được kết thúc bằng một câu ngắn gọn “Đôi mắt chàng khép lại”, thế nhưng tôi lại liên tưởng đến một khép kín của cả một khung trời, của nguyên cả một giấc mơ nhẹ nhàng bình dị vụt biến khi cái chết đến quá nhanh và phi lý. Một cái chết quá dửng dưng. Không một dấu than. Không một dấu hỏi. Mà chỉ một dấu chấm hết. Như tiếng hát Soprano đang vút cao bỗng chợt ngưng. Mong manh thay cho một cuộc tình tuyệt đẹp của thời chiến, đến nhanh và tan nhanh, mà trong đó bao hình ảnh của thủa tình tự bên nhau, bao lời yêu thương, bao cảnh âu yếm tuần tự quay diễn nhanh trước khi đôi mắt khép kín rồi tất cả tan biến vào hư vô.

        Đọc truyện người để nhìn lại thực tế cuộc chiến tranh chống CS xâm lăng của ta, cảm thương người lính của ta, trân quý tình yêu của họ. Người lính chiến vẫn làm bổn phận người trai khi đất nước cần, tình yêu vẫn giống nhau trên danh nghĩa, và cái chết vẫn là cái chết dưới mọi hình thức, bình đẳng cho cả quan lẫn quân, bình thản như trong một giấc ngủ, hay hung bạo với thân thể nổ tung, xác người bầm dập không toàn thây, hoặc một cái chết từ từ trong đau đớn mang đầy thương tích loang máu đào.

        Bạn ơi! Vậy người lính của chúng ta là những ai? Phải chăng đó là những người trai trẻ theo tiếng gọi non sông, kẻ động viên hay đôn quân, người tình nguyện nhập ngũ; là những người con của thế hệ, kẻ trước người sau, xa rời mái trường, quê nhà và người thân lên đường tòng quân bảo vệ đất nước. Họ thuộc mọi thành phần của xã hội tự do Miền Nam, đến từ mọi nẻo đường, từ những chốn xa xôi hẻo lánh hay đô thị đông người, suốt từ Đông Hà Quảng Trị khô cằn tuyến đầu ngang qua Cố Đô Huế rồi đến Duyên Hải nắng đẹp Miền Trung, lên tận Cao Nguyên rừng xanh âm u, quanh quẩn Thủ Đô Sàigòn-Gia Định mến yêu, xuyên qua những mảnh đất phì nhiêu màu mở của Đồng Bằng Cửu Long đến tận cùng Cà Mâu, bao gồm mọi tôn giáo, với đầy đủ giọng nói ba miền Nam Bắc Trung, đồng một lòng sát cánh chiến đấu bên nhau. Họ xuất thân từ các trường Đại Học Quân Sự Hải Lục Không Quân, từ trường Thiếu Sinh Quân hay các Trung Tâm Huấn Luyện quốc gia Thủ Đức, Quang Trung Đồng Đế, Dục Mỹ, TT Huấn Luyện Nhảy Dù… và của các địa phương. Họ là những:

“Người lính trẻ đã một thời giong ruổi

Đem tình người tình lính trấn biên cương

Vẫn một lòng chung thủy với quê hương

Dù oan nghiệt rẽ đời qua trăm hướng” (Huy Văn)

        Những người lính ấy đồng thời cũng là anh em trong cùng một gia đình, là con chú con dì trong dòng họ, cùng làng xóm phố phường, là bạn học cùng trường, từng quen biết nhau hay xa lạ nhưng cùng một lý tưởng, tình nguyện gia nhập quân đội VNCH để chống kẻ thù xâm lăng. Họ là những người con ưu tú của đất nước trong mọi binh chủng mà tổ quốc luôn ghi ơn khi họ đền nợ nước.

“Xin tạ lỗi với đời trai khói lửa

Những địa danh ngang dọc bước quân hành

Đoàn tráng sĩ qua sông lần vĩnh biệt

Tưởng đang còn cuộc rượu lúc tàn canh

(Xin Một LầnTạ Lỗi – Trần Ngọc Nguyên Vũ)

        Còn những người yêu của lính hoặc những cô gái mà người lính đeo đuổi si tình là ai? Phải chăng là em gái của thằng bạn nối khố, là người con gái lớn lên trong cùng xóm, trong một thị trấn, ở làng bên cạnh, cùng một quận lỵ, một trường tiểu trung học, trên thềm đại học, cùng chung nhóm bạn. Là người quen biết trong gia đình. Là em thím Tư, là cháu mợ Ba, là bạn thân của nhỏ em, con gái ông Thượng Sĩ trong trại gia binh. Là những o thôn nữ mộc mạc đơn sơ trong các áo bà ba trắng xanh đỏ tím vàng gặp trên đường chinh chiến khi ta dừng chân uống nước ở ven đường; Đó cũng là những nữ sinh môi đỏ má hồng vùng Cao Nguyên hay các nữ sinh trong đồng phục áo trắng hay đầm hồng, jupe xanh với áo sơmi trắng tung tăng trên các đường phố …

“Thấy em xỏa tóc ngả nghiêng bên trời

Ta cầm một sợi lên chơi

Ai dè suốt cả một đời lao đao”   (Nguyên Miên Thảo)

           Em là người con gái ta chưa quen biết nhưngchợt thấy giữa nhóm bạn cùng trang lứa trong quán chè, quán kem, quán phở quán hủ tiếu, đang ăn vụng bò bía, phá lấu nước mía ở góc đường, hoặc là những thiếu nữ dung dăng dạo phố Nguyễn Huệ, Thương Xá Tax mà ta muốn tìm quen theo về tận nhà. Họ cũng là người em hậu phương đến choàng vòng hoa chiến thắng “trong ánh vinh quang rộn ràng, anh bước hiên ngang về làng”, là người mà ta tình cờ bắt gặp có một đôi mắt long lanh thơ ngây, đôi má hây hây và một nụ cười hồn nhiên khiến ta bỗng vương vấn trong một chiều rực nắng. Đó là một mái tóc mây hồng ngiêng sau vành nón trên cầu Trường Tiền khiến ta mê mẩn dù lời nói khó hiểu” mô tê răng rứa – anh đừng đi gần tui mà tui ốt dột. Mạ tui thấy la tui đó!” Hay là một cô bé tóc ngắn có dáng nghịch ngợm chạy xe honda với câu nói thật ngộ “Tui hổng chịu đâu – Dzậy sao?!” Là một tà áo tím nên thơ với giọng nói nhẹ như gió thoảng của “cô em Bắc Kỳ nho nhỏ”…Là bao nỗi nhớ. Bao chờ mong. Bao vấn vương. Bao mộng ảo. Bao diệu kỳ không nên lời…Là con suối nhẹ nhàng đi qua tim ta. Là cơn đau nhức nhối trong nỗi thương nhớ

“Nếu một mai bé nhìn hoa dù nở

Lời tỏ tình anh gởi đó nghe cưng

Hoa dù tròn như nguyện ước yêu thương

Anh lơ lửng giữ dòng đời vạn biến…”

        Chuyện tình của họ như thế nào? Cũng ngập ngừng, cũng lo sợ, lãng mạn và say đắm. Cũng liều lĩnh, bất chấp, đột ngột lâng lâng đến, để rồi nhanh chóng đi vào thương đau. Cuộc tình lính chiến như một cơn “gió thoảng xa xôi, gió nào rung động tim tôi, hay là dư âm suốt đời!” Hay nhẹ nhàng buông thả trữ tình, ngay sau lần đầu gặp nhau “chưa nắm tay em mà lòng đã yêu, chưa uống môi em mà tình đã say!” Với người lính, cuộc tình thường long đong ray rứt, yêu trong vô vọng, yêu trong cuồng si, yêu trong chớp nhoáng, dù chỉ để đổi lấy một phút bên em rồi cả đời vĩnh viễn mất nhau. Đó cũng là một cuộc tình chớp nhoáng, đam mê mạo hiểm, bất chấp ngày mai, thuộc loại tình lính là “tính liền” với đám cưới trong ba ngày phép trước khi ra lại đơn vị.

 “Hôn em mà đất trời say, Môi không ướp rượu mà ngây ngất buồn”.

Tuy chai sạn trong phong sương, nhưng người lính rất mềm yếu, ngây ngô, dễ rung động và non nớt trong tình trường “Đôi khi muốn nói yêu em nhưng ngại ngùng đành lãng phai!” Người lính thường xin chịu phần thua thiệt, lo sợ cho sự xa mặt cách lòng, cạm bẫy và cám dỗ của đèn màu đô thị, nhưng tình yêu đã nuôi dưỡng họ, cho phép họ thơ thẩn giữa những thực tế khắc nghiệt của chiến tranh. Tình yêu cho họ thêm ý chí và tinh thần chiến đấu. Vì vậy tình yêu của lính cao thượng, biết chấp nhận sầu ly, biết thông cảm cho tình cảnh của người hậu phương, “đường vào ngày mai sỏi đá, thôi, em về, quên hết đi ngày xưa!” Nhận thư Má viết ngắn gọn “con Tú qua thăm Má và khóc, nói nó không thể đợi con được. Tuần sau nó sẽ lấy chồng, là thầy giáo gần nhà”, người lính hoa mắt, đông đá, sau một vài câu chửi thề, xách súng bắn một tràng chỉ thiên. Nổ nghe như pháo ngày cưới. Ông Thầy cũng đành lắc đầu. Thế là xong! Còn với ông Thầy “tử thương” vì tình thì sao? Thầy và đám đệ tử tụm lại làm vài chầu ngất ngư để quên sầu hay tưởng như quên sầu, rồi lầm lì để sau đó tình nguyện lãnh nhiệm vụ nguy hiểm nhất cho đơn vị trong lần đánh tới. Càng yêu và khi được yêu, người lính càng lúc càng nghiệm rõ tình yêu mang đến sức sống, niềm hy vọng, giúp họ tự tin và quyết chí xông xáo, xong nhiệm vụ để được sớm đi phép thăm em. Tình yêu là nắng ấm giữa giông tố đời lính. Nuôi nấng ta khi ta bị thương tật. Nâng ta dậy khi ta bị chà đạp. Là nơi bám víu khi ta sa cơ thất thế. Là ân tình của hạnh  phúc cuối  đời.

Bạn thân mến!

Phải chăng em yêu anh vì yêu dáng phong trần hiên ngang của anh, yêu luôn cả mũ đỏ thiên thần và bộ đồ hoa dù. Yêu cái nhìn nồng nàn, đôi mắt rực lửa, nụ cười rạng rỡ với tiếng cười sảng khoái của anh. Yêu sự chìu chuộng săn đón của anh, yêu con đường mình cùng chung lối, yêu vòng tay siết chặt, nụ hôn nóng bỏng mang theo mây trời và giông bão vào đời em. Là mong đợi những thư tình đơn sơ gởi từ KBC xa lạ. Là thích nghe anh kể chuyện đời quân ngũ, chuyện xông pha ngoài trận tuyến. Thương anh, em đành thương luôn cả đầu tóc húi cao carré, làn da đen thui khét nắng và luôn cả mùi ẩm mốc của bộ lính trận. Và từ khi em là người yêu của lính, em biết yêu nhạc lính, yêu màu tím hoa sim, biết lo sợ thấp thỏm đợi chờ tin anh, biết cầu nguyện Ơn Trên gìn giữ anh và theo dõi bước chân anh qua những đêm trằn trọc khó ngủ. Yêu anh là chấp nhận những ngày cô đơn xa anh, những chiều dạo phố một mình, ráng làm quen với tên xa lạ của những nơi anh bước qua, là đến thăm anh trong quân y viện. Làm vợ anh là chấp nhận thương đau thua thiệt, chắt chiu với tiền lính nuôi đàn con dại, là đếm những ngày xa anh, là tạm ở tại hậu cứ trong căn phòng nhỏ lợp tôn, hay nay đây mai đó theo đơn vị anh và đành phó mặc tương lai cho số phận. Là lỡ làng đời em. Ai trong chúng ta đã không một lần ngậm ngùi trước hình ảnh chẳng thể quên của người cô phụ trẻ tuổi phủ phục bên cạnh quan tài chồng, tay xoa xoa lá cờ che kín nắp hòm, thì thầm những lời yêu đương giữa những nức nở.

Xin tạ lỗi với ai người chinh phụ

Đã hóa thân nàng Tô Thị trông chờ

Đứng sừng sững giữa hai vầng nhật nguyệt

Nhỏ xuống dòng lệ máu bốc thành thơ

Xin tạ lỗi cùng em người hiền phụ

Đã vì ta lận đận suốt một thời

Cùng ngụp lặn trôi theo dòng sinh mệnh

Tấm gương đời cuối thế kỷ hai mươi (Trần Ngọc Nguyên Vũ)

           Bạn thân mến!

Có tình yêu hay chưa có tình yêu, người lính vẫn dũng cảm xông pha trận tuyến, làm tròn bổn phận giao phó. Thương tật hay chết chóc là chuyện không ai mong muốn nhưng vẫn chấp nhận khi trời gọi ai nấy dạ. Cái chết đôi khi đơn độc trong tiểu đội khinh binh, đôi lúc vài ba mống cùng một lúc khi trung đội tiến chiếm mục tiêu. Có khi đi đong luôn gần cả nửa đại đội vì bom bạn thả lầm,hay nhiều hơn nữa khi tiểu đoàn bị tràn ngập…Có cái chết đến nhanh sau một tiếng nổ lớn, có cái đến từ từ, quằn quại trong đau đớn. Có cái chết thật tức tưởi oan nghiệt, có cái vì can đảm đỡ đạn cho đồng đội bên cạnh. Người lính chết trong từng hố cá nhân, hay chung với nhau trong các đợt xung phong với xác quan và quân sát bên nhau, rải rác đây đó trên các nẻo đường đất nước. Chết toàn thây hay thân xác nổ tung? Chết mất tích trong bụi bờ, trên đường di tản, hay được chở về tận nhà trong hòm nhôm? Trong giây phút tử thương, “nằm chết như mơ” ấy, người lính trận trẻ tuổi có kịp chăng kêu lên Mẹ ơi, như anh đã từng làm khi đau ốm hay trong rủi ro? Có đủ chăng anh thì giờ nhớ đến người vợ bé bỏng luôn trông ngóng chờ đợi anh nơi hậu cứ? Hay có kịp thấy chăng anh nụ cười ánh mắt của người em nhỏ anh thầm yêu mà anh đành giã từ nơi ngôi làng xa trên bước đường chinh chiến?!

Mày nghĩ, tụi mình như cánh gió

Ai đi nhốt gió được bao giờ  (Lá thư Pleime – Lê Anh Tuyến)

         Người chết trận chính thức giã từ vũ khí. Họ thật sự là những anh hùng đã đi vào huyết sử của dân tộc, là hồn thiêng của sông núi. Họ là những cứu tinh của đơn vị, là huyền thoại của đất nước. Chết trận là chết không một than vãn. Không một ai oán. Không có lấy một lời trăn trối cho người yêu, không kịp một lời xin lỗi với vợ dại con thơ ở nhà.

Những ai đã chết vì sông núi

Sẽ sống muôn đời với núi sông. (Trần Trung Đạo)

Khi người lính nhắm mắt buông xuôi, tình yêu vẫn luôn hiện hữu trong ánh sáng vĩnh cửu của tin yêu, trong tình thương nhớ vô vàn của đồng đội và gia đình

“Anh đi mãi, không bao giờ trở lại! Tôi viết vần thơ của thời hoang dại. Những vần thơ hoài niệm nhớ thương anh. Và đêm nay, trong khóe mắt long lanh giọt lệ buồn…Tôi khóc anh vĩnh biệt!”  (Hồ Sĩ Duy)

            Khi một người buông tay. Một người ngã. Một thoáng yêu nhau, Một thoáng ngậm ngùi, thì các bạn thân mến ơi, là những người sống sót qua cuộc chiến nay tạm dừng bước nghỉ ngơi dưới chân núi, chúng ta cần phải ngồi gần bên nhau, xích sát vào nhau hơn nữa. Xin đừng hững hờ. Chớ xa lánh nhau. Và xin đừng quên nhau. Hãy nhớ: những người sống sót, bại trận như chúng ta đây vẫn còn nợ những người tử trận. Mãi mãi không quên!!

Bạn ơi!

Xin hãy cùng nhau thắp nén nhang lòng, cầu xin cho anh linh các tử sĩ được vinh hiển chốn ngàn thu.  Xin cho tình đồng đội chúng ta vẫn trung tín. Cho khí thế vẫn dũng mạnh. Để tiếp tục đồng hành với nhau và chung sức giữ đời cho nhau. Trong tinh thần anh em đoàn kết một nhà. Cùng tham gia sinh hoạt cộng đồng chống CS, làm nghĩa vụ giúp đỡ anh em thương phế binh của ta ở quê nhà, đồng thời góp thêm bão lửa và sức sống cho các tù nhân lương tâm, xem đó như một trách nhiệm chung. Mong các thế hệ hậu sinh thấu hiểu về tinh thần chiến đấu bất khuất cùng lịch sử của VNCH và tiếp tục dương cao ngọn cờ tự do.

Chúng ta học hỏi từ quá khứ đau thương để rút kinh nghiệm sống được thực tế hơn. Nhưng đồng thời chúng ta phải nhìn thẳng vào tương lai với tất cả sự nhiệt tình và lòng trung kiên còn lại, để tiếp tục nuôi nấng ý chí trong hoài bão rằng, một ngày không quá xa, quê hương sẽ sớm thoát xiềng xích của CS, và dân lành sẽ được sống trong một chính thể mới, thật sự có tự do, bình đẳng và bác ái.

Viết cho tháng 4, 2025

Vĩnh Chánh


 

Giáo sư Vũ Quốc Thúc gia nhập đạo Công Giáo ngày 8 Tháng 4/2012

Luật Khoa Saigon 67-75Chanh Le

  Uyên Vũ

Nov 23 – 2021

Giáo sư Jean Paul Vũ Quốc Thúc – Cựu Thống Đốc ngân hàng Quốc Gia Việt Nam, nhà kinh tế học và chính khách VNCH, người góp phần quan trọng trong việc đào tạo môn kinh tế học tại trường Đại học Luật khoa và Trường Hành chính Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa – vừa qua đời tại Paris ngày 22 Tháng 11/2021, hưởng thọ 102 tuổi.

Theo thông báo của gia đình, thánh lễ cầu nguyện cho giáo sư Vũ Quốc Thúc sẽ được cử hành ngày 25 Tháng 11/2021 tại Giáo xứ Việt Nam ở Paris; lễ hỏa táng được cử hành ngày 1 Tháng 12/2021.

Gia đình Giáo sư Vũ Quốc Thúc vốn không phải là Kitô hữu, ông đã đón nhận đức tin vào Chúa, gia nhập đạo Công Giáo ngày 8 Tháng 4/2012. Theo trang vncatholic thì:

“Về phần Giáo sư Vũ Quốc Thúc, trong bữa tiệc tiếp tân chúc mừng, do Hội Ái Hữu Đại Học Đà Lạt tại Âu Châu, quy tụ các cựu Giáo Sư và Sinh Viên Viện Đại Học Đà Lạt, tổ chức sau lễ rửa tội, ông đã đặc biệt nhắc đến ba điều ông đã thấy và đã tin.

Ông đã thấy ơn Đức Mẹ. Ông kể rằng “Tôi còn nhớ vào năm 1976, trong lúc tinh thần hoang mang, chờ người ta đến bắt mình đi “cải tạo”, chưa biết tương lai sẽ ra sao, một lòng chỉ muốn ra khỏi nước. Lúc đó tôi đã lên cầu xin Đức Mẹ ở Bình Triệu. Nhà tôi ở Saigon, gần nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, đường Kỳ Đồng, có tượng Đức Mẹ Lộ Đức. Trong lúc hoang mang, tôi đến cầu Đức Mẹ. Hôm đó tôi đã lên Bình Triệu và đã có sự linh ứng. Tôi có lời nguyện, tôi xin Đức Mẹ cứu cho vợ chồng tôi và bốn con còn nhỏ ra được ngoại quốc, thì tôi sẽ xin nguyện đem tất cả những năm còn lại trong đời tôi, trước hết để tranh đấu cho dân tộc, và tranh đấu cho tôn giáo. Sau khi tôi vừa cầu nguyện xong, thì tượng Đức Mẹ sáng rực lên và trong lòng tôi thấy bồi hồi vô cùng, và sau lần đó tôi đã vận động và sang được bên Pháp này. Còn nhiều chuyện tôi không muốn nói ra đây, nhưng quả thật là linh ứng”.

Từ khi sang Pháp, ông thường xuyên hay gặp một người cựu học trò ở Trường Chính Trị Kinh Doanh Đại Học Đà Lạt khi xưa, khóa I, 1964-1968. Ông đã thấy gương đức tin của anh. Ông quyết định xin học giáo lý, vào đạo công giáo, giữ lời hứa với Đức Mẹ Fatima Bình Triệu. Ông xin anh làm bõ đỡ đầu. Đó là anh Lê Đình Thông. Ông nói : « Trong việc đi tìm Chúa, người mà tôi phải cảm tạ vô cùng, cảm tạ rất đặc biệt là GS Lê Đình Thông. Anh LĐT quả thực đã giúp đỡ tôi rất nhiều, có lẽ đến cả chục năm nay, tôi đã tâm sự với anh về bao nhiêu những vấn đề đã khiến cho tôi phải trăn trở. Và khi tôi nói đến chuyện trăn trở của tôi về cõi thiêng liêng thì chính anh đã có những lời tâm tình làm tôi cảm động, và chính anh đã giúp tôi làm các thủ tục và luôn luôn dìu dắt tôi để cho tôi khỏi mệt nhọc. Và hôm nay, anh Thông đã đối xử với tôi, quả thật không khác chi là một người anh em ruột thịt, xin cám ơn anh, cám ơn anh».

Ông muốn xin được rửa tội công khai và trang trọng theo đủ các nghi thức của Giáo hội, như mọi tân tòng khác, như một biểu lộ và dấu chứng làm chứng nhân, công khai công bố đức tin của mình.

Xin Chúa đón nhận linh hồn Giáo sư Jean Paul Vũ Quốc Thúc sớm hưởng nhan thánh Chúa.


 

Thăm trại Tị Nạn Mã Lai và Nam Dương sau 50 năm viễn xứ – Nguyễn Ngọc Duy Hân

 Nguyễn Ngọc Duy Hân

Tôi đã về lại Toronto – Canada bình an sau 3 tuần lang thang ở Mã Lai và Nam Dương, chủ yếu là đi thăm các hòn đảo từng là nơi tạm trú của thuyền nhân Việt Nam. Tạ ơn Chúa, cảm ơn mọi người, tôi đã  được học hỏi thêm về tình người, về quê hương và tin rằng nhờ thế có thể sống tốt hơn.

Âm vang câu hát “Tự do ơi tự do! tôi trả bằng nước mắt. Tự do hỡi tự do! anh trao bằng máu xương, Tự do ôi tự do! Em đổi bằng thân xác. Vì hai chữ tự do! Ta mang đời lưu vong” vẫn còn vang vọng trong lòng. Số là mỗi khi thắp hương cầu nguyện trước mộ phần các thuyền nhân xong, chúng tôi đều hát và thấm thía hơn bao giờ hết nỗi đau qua những nốt nhạc này.

Lịch trình thăm viếng của nhóm chính thức bắt đầu vào thứ Hai 28 tháng 4, 2025, nhưng 3 anh em Toronto chúng tôi đã ra phi trường từ 24 tháng 4. Đi sớm mấy ngày để ghé thăm thành phố Kuala Lumpur và nghỉ ngơi. Chuyến bay dài gần 21 tiếng, cộng thêm giờ phải tới sớm, giờ chờ chuyển tiếp máy bay nên tổng cộng lượt đi và về hết khoảng 60 tiếng đồng hồ. Ôi chuỗi thời gian dài ớn quá là ớn. Mà khi tới nơi rồi cũng có yên đâu, suốt ngày thường xuyên chúng tôi phải ở trên xe bus, xe van, trên tàu lớn, tàu nhỏ hoặc máy bay nhỏ… “Thôi rồi còn chi đôi mông tôi!” Ba tuần lúc nào cũng bồng bềnh chênh vênh, nên mỗi khi được đặt 2 chân xuống mặt đất thì thấy thật là hạnh phúc! Giá mà Elon Musk chế xong được cái ống chui tọt vào là tới nơi thì hay biết mấy.

Nhớ lại cách đây gần 10 năm, khi đó ông xã còn sống, chúng tôi có đi hành hương châu Âu với nhóm nhà thờ, mà tôi là một trong những người tỉnh táo để giúp các bác lớn tuổi hơn kéo hành lý, trả lời họ hôm nay thứ mấy, mình đang đi đâu, ngày mai sẽ làm gì. Thế mà bây giờ tôi lại chính là một trong những “bác” lớn tuổi đó, tức là cần người giúp di chuyển vali, cần người trả lời hôm nay thứ mấy, mình đang đi đâu hoặc ngày mai sẽ làm gì. Rõ chán!

Bây giờ xin được xuống câu vọng cổ chia sẻ lý do tôi tham dự chuyến đi này. Trong nhóm có các anh chị không biết vượt biên là gì nhưng vẫn hăng hái tìm về nguồn, cũng có các anh chị dù không phải trong ban tổ chức, mà vẫn tham dự nhiều lần chỉ để thắp hương cầu nguyện ở các mộ phần – thật là cao cả, cũng có một số em trẻ đi theo cha mẹ. Riêng tôi thì thú thật xem qua chương trình chẳng lấy gì làm hào hứng. Gì đâu mà ngày nào cũng đi thăm nghĩa trang, mà tôi biết thời tiết ở các nơi này rất nóng, lại phải trèo đèo lội suối ở các nơi đầy muỗi mòng, khỉ ho cò gáy theo đúng nghĩa đen. Hơn nữa, thời gian cuối tháng Tư 2025, tôi muốn ở nhà để giúp tổ chức 50 năm Quốc Hận tại tòa thị sảnh Toronto và quốc hội Ottawa – đây là truyền thống chúng tôi chưa vắng mặt năm nào. Tôi lại đã đóng tiền cọc để đi du thuyền qua Âu Châu chơi với nhóm bạn, rồi công ty tôi đang làm cũng khó cho phép vắng mặt liên tục 3 tuần…. Đủ thứ lý do tại, bị, thế mà cuối cùng tôi cũng được đi với nhóm, thật là một điều quá vui mừng. Nghĩ lại nếu không đi, tôi sẽ hối tiếc nhiều lắm.

Tôi đã thực hiện dùm ý nguyện của ông xã. Khi đi qua các hòn đảo kỷ niệm nơi anh từng đặt chân đến, tôi đã thở phào thầm nghĩ “Mission Completed”. Rất buồn là ông xã – anh Nguyễn Ngọc Duy – mới qua đời cách đây 7 tháng vì bệnh phổi lúc 65 tuổi. Từ nhiều năm nay, lúc nào anh cũng ước ao về thăm lại đảo Air Raya rồi trại tị nạn Galang, nơi tôi và anh đã gặp nhau, nhưng lần nào cũng có trở ngại. Những ngày cuối đời anh lại nhắc tới trại tị nạn nhiều hơn, nên tôi rán đi dùm anh dù biết đi một mình sẽ rất buồn.

Bây giờ xin kể sơ về chuyến hành trình. Nhóm có 233 người ghi danh đi thăm các đảo ở 3 nước Mã Lai, Nam Dương và Phi Luật Tân. Có người chỉ đi một quốc gia rồi về, tôi và một số đông thì đi 2 nước, còn lại khoảng 50 người thì đi cả 3 nơi. Số người tập trung đông nhất ở một thời điểm là trên 100 người. Thật là khẩu phục tâm phục ban tổ chức, nào là đón tiếp hướng dẫn ở từng chặng đường, lo xe, lo khách sạn, giúp vé máy bay, rồi đặt thức ăn, sắp xếp chương trình khoa học và ý nghĩa. Sau chuyến đi chắc hẳn họ già hơn nhiều vì căng thẳng lo lắng.

Riêng cái chuyện sắp hàng đi vệ sinh cũng là vấn đề lớn. Tôi đã nói đùa khi người thứ 100 “xả nước cứu thân” xong, là đã đến lúc người số 1 cần đi nữa rồi! Các vùng hẻo lánh này nhà vệ sinh rất ít, có nơi còn là loại cầu tiêu xưa, nghĩ lại còn rét dù trời nóng hừng hực! Thế nhưng chúng tôi luôn tận dụng thời gian sắp hàng mà trò chuyện rôm rả, mang bánh trái ra mời mọc nhau nên cũng thấy bớt chán. Nhớ quá những cây cà-rem do thầy Tấn Phước đãi. Nhóm thường đi bằng 2 xe bus lớn và một xe van nhỏ, hôm đó thầy mua kem cho mọi người, nhưng 1 xe bị lạc nên xe của chúng tôi phải ăn dùm hai phần. Trời nóng mà ăn kem vừa mát vừa ngọt vừa thơm mùi sầu riêng thì không gì thích thú bằng. May mắn hơn xe chúng tôi lại có cha Phạm Quang Hồng ở Úc đi cùng, nên lúc nào cũng tràn đầy tiếng cười, mà cũng hại não lắm vì cha hay đố những câu khó quá!

Nhóm lại có Youtuber Trương Minh Quân với channel TmQ nổi tiếng, lúc nào chương trình cũng được livestream với 40 ngàn người xem. Tôi ở trại mà bạn bè Toronto thường xuyên gởi video thâu từ TmQ cho xem, nhắc là đã thấy Hân ở phút số mấy trong youtube. Vấn đề xài tiền cũng khá rắc rối, tới Mã Lai phải xài tiền Mã, tới Nam Dương phải xài tiền Indo, nhưng nhóm thì có người tới từ Mỹ, có người tới từ Canada, Phần Lan, Úc…. nên chả chục thứ tiền đủ màu đủ loại, đổi qua đổi lại cũng khá nhức đầu!

Ngoài ban tổ chức là nhóm anh em bên Úc như anh chị Sơn-Anh, anh chị Minh-Thanh và bác sĩ Ken, còn có cô Heidi (Hay Đi!), cô Ngọc Ân, anh Long, bố con anh Chính và vài nhân vật rất đặc biệt. Từ khi ghi danh thì chúng tôi đã thường xuyên nhận được bản tin với nhiều chi tiết hữu ích từ anh Sơn. Cháu Ken ở Cali là một nam bác sĩ cao ráo giỏi giang, tấm lòng hy sinh yêu người không biết dùng chữ gì để diễn tả. Một cậu trẻ khác là Jammy sinh ra ngay tại Bi Đông, đi với nhóm lần này là lần thứ 2. Được biết lần đầu Jam đi thì hiểu tiếng Việt rất ít cần thông dịch, nhưng lần này tiếng Việt của cháu đã rất khá. Jam đẹp trai vui vẻ, ai cũng muốn làm mai gả con gái, cháu gái cho. Vào đúng sinh nhật của Jam trong tháng 5, cháu đã tìm cách để được về đứng ngay bệnh viện xưa – nơi Jam sanh ra để chụp hình và “thu thập năng lượng”. Vài cháu khác đi với cha mẹ, nhưng cũng rất hòa mình không tỏ vẻ khó chịu hay bị ép uổng gì cả. Chúng tôi mừng lắm vì có giới trẻ tham gia. Trong nhóm có ít nhất 4 anh, chị không biết trại tị nạn là gì, vì không phải là thuyền nhân, chân nhân hay phi nhân. Họ rời Việt Nam từ 30 tháng 4, 1975 nhưng vẫn muốn tìm về nguồn cội, lịch sử. Một vài anh chị cũng đã tham dự các chuyến này nhiều lần, còn nhớ được đường đi trèo đèo lội suối để đi thăm đầy đủ các khu bia mộ. Ai nấy đều quá chân thành, dễ thương, chăm sóc an ủi nhau… thật là cảm động và quý giá. Tôi vốn bi quan, thường cho rằng người tốt trên đời này không còn bao nhiêu, nhưng qua hành trình này tôi mới cảm nghiệm được “bông hoa còn đẹp, lòng chưa thấm mệt” (thơ Phạm Thiên Thư).

Bây giờ tôi xin sơ lược về lộ trình. Mọi người đã tập trung tại địa điểm đầu tiên là phi trường số 2 Kuala Lumpur – Mã Lai để cùng đi xe bus thăm nghĩa trang đầu tiên tại Terengganu. Sau đó ngày nào cũng thăm viếng nhiều khu mộ tập thể hoặc mộ cá nhân không bỏ sót khu vực chôn cất nào như Kuantan, Dungun, Kota Baru, Besut, Cherang Ruku, Panji, sau đó thăm Romping, Endau, Mersing… Đặc biệt nhóm đã thắp hương trước ngôi mộ tập thể chôn xác nhiều người, trong đó có vợ và con của MC & nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn.

Ban tổ chức cũng sắp xếp để mọi người được viếng mộ các vị đại ân nhân như ông Alcoh Wong, ông Heng… Quý ông này là một trong những người Trung Hoa ở Mã Lai đã bỏ công sức và tình yêu nhân loại để tìm vớt xác, chôn cất rất nhiều thi thể thuyền nhân Việt trôi dạt vào bờ biển Mã Lai hơn 40 năm trước. Ông Wong và thân hữu cũng đã in một cuốn sách tài liệu với chi tiết lịch sử, bản đồ, tên họ của các thi thể mà họ chôn cất. Ban tổ chức đã liên lạc trước với thân nhân của ông Wong, ông Heng và mời họ đi ăn chung với nhóm để tỏ lòng biết ơn. Bà Wong vẫn còn sống và đã giúp rất nhiều trong việc đặt khách sạn, nhà hàng… Bà từng là chủ tịch hội phụ nữ Trung Hoa ở Mã Lai, tuy sức khoẻ kém nhưng luôn có mặt với nhóm. Một người em trai trong gia đình ông Wong khi phải vớt xác người chết chìm trên biển, đã chịu sốc tâm lý nên phải phát nguyện cạo đầu, cầu nguyện. Tôi không biết dùng từ ngữ nào để nói hết lòng khâm phục và biết ơn những đại ân nhân này, được bắt tay họ tôi rưng rưng nước mắt.

Sinh hoạt chính tại Mã Lai là cuộc hội ngộ tại đảo Bi Đông, nơi từng có hằng trăm ngàn người Việt Nam tạm trú trong khi chờ đi định cư ở quốc gia thứ ba như Mỹ, Úc, Canada, Pháp… Đúng ngày Quốc Hận lần thứ 50 là 30 tháng 4, 2025, nhóm đã có một buổi lễ thật ý nghĩa ngay tại bờ biển Bi Đông, cùng Chào Cờ hát quốc ca Việt Nam Cộng Hòa và tôi được hân hạnh đọc phút Mặc Niệm trong buổi lễ. Sau đó nhóm đi vòng quanh biển với lời cầu nguyện của thầy Tấn Phước và cha Quang Hồng, cùng đốt nến, giấy vàng mã, hương trầm cầu nguyện cho người đã khuất và cho quê hương Việt Nam. Tối hôm đó và nhiều đêm sau, nhóm luôn có các buổi hội ngộ tâm sự, ca hát, đốt lửa trại thật cảm động. Đây cũng là cơ hội cho mọi người thi thố tài năng – nào là ngâm thơ, đơn ca, hợp ca với tiếng đàn guitar và kèn harmonica sống động, cũng như dàn Karaoke khá tốt.

Điều mắc cười là tôi vốn khó ngủ, nên xin trả thêm tiền để có phòng riêng tại các khách sạn, thế mà khi ở Bi Đông, không có khách sạn phải ngủ ngoài lều, có lều tới 20 người, thì tôi lại ngủ ngon hơn hết. Có người gọi Bi Đông là Bi Đát, thật không sai với bao câu chuyện bi thương đáng nhớ, chẳng hạn câu nói luôn được lưu truyền “Tình Bi Đông có list thì dông”, tức là tình cảm yêu thương chỉ là tạm bợ, khi được lên list đi định cư thì mọi hứa hẹn liền chấm dứt.

Ngôi chùa tên là Từ Bi còn sót lại vừa có nghĩa là từ bi bác ái, vừa cũng có nghĩa là từ Bi-Đông mà có. Các người đi trước đã kể lại vài câu chuyện tâm linh khá hi hữu, như chuyện ngay sau khi phái đoàn thăm viếng khu mộ tập thể, thì hoa vàng bỗng rộ nở rất nhiều, hoặc một đàn bướm vàng mấy trăm con bỗng xuất hiện bay lượn ngay trên các ngôi mộ, mà theo dân địa phương thì khu này rất ít khi thấy bướm. Một ông người Hoa giúp việc trùng tu các ngôi mộ đã mua vé số với số tàu của người tị nạn, thì đã trúng độc đắc. Ông đã trích ra một phần tiền trúng để bỏ vào quỹ trùng tu. Cũng có nhiều chuyện ly kỳ khi người chết báo mộng để gia đình tìm ra thi hài, hoặc cho biết mộ bị nứt hay tên họ trên tấm bia đã bị khắc sai…

Nhóm cũng đã được tận mắt nhìn bức tượng “ông già Bi Đông” mà thương xót cho những mảnh đời kém may mắn, phải tìm sự sống trong cái chết.

Chúng tôi cũng được đi thăm một quán cà-phê sang trọng nằm dọc theo bờ biển, thuộc khách sạn 5 sao làm từ chiếc thuyền tị nạn mà họ đã mua của Liên Hiệp Quốc. Bảng khắc ghi chú các chi tiết về Boat People rất rõ ràng cảm động.

Vào 2 tháng 5, 2025 nhóm đã rời Mã Lai để cùng đi tới Nam Dương bằng phà qua đảo Batam, mà chúng tôi gọi là Bà Tám cho dễ nhớ. Indonesia là mục tiêu chính mà tôi muốn thăm viếng, vì tôi và ông xã đã từng ở đó. Chúng tôi thăm viếng nghĩa trang thuyền nhân Việt Nam, nhà bảo tàng, nhà thờ Công Giáo, chùa Quan Âm, miếu Ba Cô, bãi biển Galang…Tiếc là rất nhiều di tích ở khu Galang 1 đã bị xóa mất sau gần 50 năm, chẳng hạn các địa điểm như văn phòng Cao ủy, Ban điều hành trại, Trung tâm huấn nghệ, Youth Center, tòa soạn báo Tự Do, đạo quán Hướng Đạo, đồi Nhà thờ, bệnh viện ICM …. đã không còn nữa.

May mắn là ở Galang 2, chính quyền Indo đã cho trùng tu, làm museum với nhiều ảnh chụp, mô hình, đền thờ Mẹ Maria và bản đồ Việt Nam rất lớn. Đặc biệt có 14 chặng đàng Thánh Giá của Chúa Giesu làm trên 14 con tàu tị nạn vừa to vừa đẹp để thu hút du khách. Chúng tôi đi xe bus hoặc thuyền qua các đảo nhỏ như Letung (gọi theo tiếng Việt là Lê Tùng), Air Raya, Keramut, Tarempa, biển Padang Melang, khu phố shopping Nagoya… Chúng tôi được ban tổ chức sắp xếp đến tận nơi thăm viếng, tặng quà cho các cô nhi viện, trường học, nhà dưỡng lão… thật là cảm động. Các em học sinh tiểu học tại 4 trường mà chúng tôi ghé thăm đều mặc đồng phục thật đẹp để chào đón khách, ca hát rất dễ thương. Các em và dân địa phương đều rất hiền lành, khuôn mặt lộ ra nét chân thành đáng mến, không thấy trộm cắp lừa lọc, không ai phải đề phòng kẻ gian, đời sống thật là an bình.

Tại Galang chúng tôi được đi ngang cầu tàu, nơi từng có bảng để chữ “Cửa ngõ của Tự Do và Tình Người”. Người ta cũng có câu “Galang tình xù”, nhưng tình cảm của tôi và anh Duy thì may mắn thay không bị xù! Chúng tôi quen nhau ở Galang, thề hứa và đám cưới ở Cali sau 3 năm rời khỏi trại tị nạn. Tôi đi Cali mang quốc tịch Mỹ, còn anh đi Toronto mang quốc tịch Canada. Một người họ Nguyễn, một người họ Trịnh, tuy có phân tranh nhưng sống với nhau 40 năm ở Toronto tạm ổn cho tới khi anh mất vì bệnh phổi. Cầu tàu này là nơi đưa tiễn của biết bao người. Nhớ làm sao những lon coca cola, những ly milo sữa đá, những chai bia, những bao thuốc lá hiếm hoi … Chúng tôi cũng rất xúc động khi đi ngang khu vực được gọi là “Con đường Máu” – nơi các thuyền nhân Galang đã từng phải xuống đường biểu tình. Gần 20 người đã phải tự sát khi bị cưỡng bức hồi hương vì không đủ tiêu chuẩn tị nạn. Quân đội Indonesia đã từng phải vùng vũ lực để can thiệp. Chúng tôi cũng được thăm 2 ngôi mộ của “Romeo và Juliet”, là đôi nam nữ trẻ đã phải tự vẫn vì gia đình hận thù không cho cưới nhau sau khi đã vượt biên thành công. Cũng có một số ngôi mộ của những người ăn cháo rắn bị trúng độc chết, hoặc uống rượu pha cồn nên cháy ruột mà qua đời, thật là buồn và đáng tiếc vì đã thoát được Việt Nam nhưng vẫn không đến được đất định cư.

Nhóm cũng dành thời gian viếng Miếu Ba Cô dưới tàng cây bồ đề to lớn tại Galang 2. Câu chuyện được kể lại là có hai cô gái bị hải tặc xâm hại nên rất mặc cảm, đau khổ. Người Việt lúc đó lại không ý tứ, hay xầm xì chỉ trỏ, 2 cô lại không đủ bằng chứng pháp lý để được nhận đi định cư. Giọt nước làm tràn ly khiến hai chị em cùng quyết định treo cổ trên cây là khi họ bị vu oan ăn cắp chiếc bóp của nhân viên Cao ủy. Nghe nói có 1 cô gái khác vì ghen tức với sắc đẹp của cô em, mà cô em này lại được con trai người chủ tàu yêu thương, nên chính cô gái này đã lấy cái bóp bỏ vào phòng đổ oan cho 2 chị em. Ngày 2 chị em quyên sinh trước lúc họ được chấp nhận đi định cư chỉ một ngày.

Chúng tôi cũng nghe nhắc lại câu chuyện thương tâm của 12 cô gái Việt bị cướp biển hãm hại, bọn quỉ dữ trói 12 cô khỏa thân lại thành một chùm rồi thả trôi trên biển. Người ta chỉ thấy 11 xác, nhưng vì có nút thòng lọng thứ 12, nên tin là đã có 12 nạn nhân xấu số. Tôi vốn mít ướt nên khóc sướt mướt khi nghe chuyện, và thắc mắc bọn ác độc bắt các cô cưỡng hiếp đã đành, nhưng sao lại phải bỏ công cột xác lại thả trôi? Câu trả lời là bọn này có lẽ mắc bệnh bạo dâm, muốn cảm giác mạnh, muốn chơi trò ma quỉ! Ôi lòng dạ con người, ôi đau khổ và hệ lụy sinh ra từ cộng sản, làm sao tả hết những đau thương nhục nhã, làm sao để xóa bỏ nỗi đoạn trường từ những câu chuyện vượt biên.

Xin lỗi nãy giờ kể toàn chuyện buồn, tôi xin thay đổi kể vài chuyện nho nhỏ vui hơn. Ngoài đi thăm bia mộ, chúng tôi cũng được đi tắm biển vài lần. Có một khu vực gọi là “Water of God” là nơi biển rất vắng, thuộc loại đặc biệt được bảo tồn với nước trong xanh và san hô thật đẹp. Một vài anh chị hơi ngần ngại vì con thuyền đưa nhóm đi tới khu này hơi nhỏ, áo phao cấp cứu lại cũ kỹ nên quyết định về lại khách sạn. Tôi thì thầm nhủ cứ liều, chết thì về với anh Duy lo gì! Nhưng số tôi cũng lớn nên đã trở về toàn mạng, mang theo một bụng nào là nước dừa tươi, nào là cá biển mực nướng thơm ngon được dân địa phương phục vụ ngay tại bãi biển. Cũng được biết trái thanh long và rau muống trên các vùng đất Nam Dương là do người tị nạn Việt Nam mang tới, và dân địa phương rất trân trọng loại giống mới này.

Tôi cũng đi thăm viếng các ngôi chùa, đền thờ Hồi giáo lớn, 2 lần được đi xe ôm dạo phố. Một lần do cô Indo làm bếp tại Homestay cho quá giang đi chợ chung. Lần khác 4 chị em chúng tôi trả tiền đi vòng quanh đảo Tarempa chung với nhau bằng xe hai bánh, xem thác 7 tầng. Cảnh chiều trên đảo vắng thật đẹp với sương mờ bảng lảng, nhưng có một đoạn dài ông tài xế bị lạc, trời lại tối nên tôi khá lo sợ. Không rõ bác tài lạc đường hay ông ta cố ý đem tôi đi bán! Nhưng nghĩ lại nếu cần bán, chắc họ đã chọn các cô gái trẻ đẹp, loại ốm yếu sắp về hưu như tôi thì đâu có ai mua. Nghĩ vậy nên tôi yên tâm, và may mắn thay chúng tôi đã trở về không suy xuyển gì!

Tôi lại được một thời gian dài không phải đi làm, ngày 3 bữa thịnh soạn không phải nấu ăn thật là sung sướng, nhưng báo hại bị lên mấy ký, lại thêm bị muỗi và rệp cắn nên rất “mập mình”. Tôi tên Hân, nếu nặng thêm tức là thêm vào dấu nặng, thì từ “Hân” hoan sẽ trở thành “Hận” thù, thật không nên nặng thêm tí nào!

Điều thú vị trong chuyến đi hầu như ai cũng khóc, cũng mít ướt kể cả các anh to con, râu ria tướng tá nhìn rất “ngầu”. Ừ nhỉ, nhắc tới kỷ niệm, mất mát và biệt ly ai mà cầm lòng cho được. Trên các con tàu và các nơi dừng chân, chúng tôi đều có những lá cờ Vàng Việt Nam Cộng Hòa bay phất phới. Nhóm lại treo thêm 4 lá cờ lớn là cờ Indo, cờ Mã Lai, cờ Phi Luật Tân và Việt Nam ở các sinh hoạt chính nên nhìn rất trang trọng và ấm cúng.

Chúng tôi cũng nhắc tới những đêm Noel ở nhà thờ Galang, người ta đốt hai hàng đuốc dọc theo đường đồi, tạo ra hình ảnh rất đẹp. Chúng tôi nhớ tới Linh Mục Dominici và Mục Sư Flemming, cả hai đều giỏi tiếng Việt và giúp người tị nạn rất nhiều. Ngày mới tới Galang được nhóm Tin Lành phát cho mỗi người một túi bánh kẹo và sách vở chúng tôi rất quý. Riêng cha Dominici thì khá thân với chúng tôi. Hồi đó bạn bè nói anh Duy là con cưng của cha Dominici. Quả vậy, anh Duy từng là đoàn trưởng Đoàn Thanh Niên Công Giáo, suốt ngày lo làm chuyện xã hội như sửa đường đi, giúp xây phòng tắm kín đáo hơn, giúp tổ chức picnic, văn nghệ… Các bác già thuộc Hội đồng Giáo xứ xin tiền làm công tác có khi bị từ chối, nhưng nếu anh Duy gặp cha Dominici trình bày kế hoạch sinh hoạt cho giới trẻ, thì cha đồng ý ngay. Riêng tôi cũng có duyên may được nhận làm việc cho báo quán Tự Do ở Galang với lương tháng khá cao. Tôi cũng được may mắn trúng giải thi thơ năm 1981, với bài thơ “Nước Mắt Yêu Thương” mà chị Ánh Linh đã diễn ngâm lại trong buổi đốt lửa trại.

Cha Dominici giúp chuyển thư của trại viên cho thân nhân, bênh vực người tị nạn bị hà hiếp, sáng lập báo Tự Do, viết cuốn “Việt Nam Quê Hương Tôi” và nhiều bài báo rất ý nghĩa. Bài này dài quá rồi tôi xin được nói về cuốn sách của cha trong một dịp khác. Ngày cha mất vì ung thư ruột già, chúng tôi ở Toronto có tổ chức lễ cầu nguyện và tri ân tại 2 nhà thờ ở Toronto, người không Công Giáo cũng tham dự khá đông và rất cảm động. Chúng tôi cũng từng được cơ hội đi “Tĩnh Tâm” với cha ở tại Toronto, hiểu rằng chính bản thân Chúa Giêsu cũng từng phải đi sang Ai Cập tỵ nạn. Cha đang được đề cử để phong chức Chân Phước trong đạo Công Giáo.

Chúng tôi về lại Toronto an toàn vào khuya ngày 14 tháng 5, 2025, trong khi nhóm vẫn tiếp tục đi thăm Phi Luật Tân. Cho tới bây giờ trong Whatsapp Group, chúng tôi vẫn luôn thường xuyên nhận được hình ảnh, video, sáng tác nhạc, chia sẻ tâm tình để ân tình còn mãi, và đặt hy vọng vào những lần gặp gỡ khác trong tương lai.

Khép lại chuyến trở về quá khứ để hiểu rõ thêm thân phận thuyền nhân và hoàn cảnh người tị nạn, sống lại một lần nữa với kỷ niệm, tôi thấy mình quá may mắn và thật lòng trân trọng khoảng thời gian này. Tôi nhủ lòng đừng quên những hy sinh mà thế hệ người tỵ nạn Việt Nam trước đó đã gánh chịu – để mang lại đời sống tự do và dân chủ cho các thế hệ sau. Xin đặc biệt tri ân ban tổ chức và từng người trong nhóm, nhất là hai anh Nhỏ và Kiệt trong nhóm Toronto đã giúp tôi trong suốt đoạn đường. Tôi lại càng hiểu rõ hơn giá trị của Tự Do, càng biết mình phải cố gắng hơn nữa để góp phần trao ra, học gương hy sinh dù chỉ với những việc và tâm tình đơn sơ nhất. Vài người bạn rủ tôi vận động xin thêm ít tiền để nhóm gia đình Bi Đông có thêm chi phí mà tu sửa mồ mả, làm thêm các di tích của thuyền nhân. Tôi chưa biết mình sẽ làm gì, nhưng chắc chắn sẽ góp tay dù những việc bé nhỏ nhất. Xin tri ân tận đáy lòng, và cũng không quên cảm ơn ông xã đã phù hộ cho tôi có một chuyến đi thật ý nghĩa và bình an.

Nguyễn Ngọc Duy Hân


 

Hòa hợp dân tộc: 100 tiếng nói đồng bào – Bài 9: Hòa giải với nỗi đau – di sản tâm thức

BBC

Người dân chạy nạn từ Quy Nhơn vào Nha Trang hồi cuối tháng 4/1975

Tác giả, Tiến sĩ Nguyễn Phương Mai

Gửi cho BBC News Tiếng Việt từ Sydney, Úc

7 tháng 6 2025

Ghi chú của tác giả: Loạt bài viết này chia sẻ những kết quả sơ bộ của một nghiên cứu độc lập, tập trung vào chủ đề hòa hợp dân tộc trong ba khía cạnh: hiện trạng, nguyên nhân và giải pháp. Con số 100 tượng trưng cho trăm trứng từ bào thai của mẹ Âu Cơ. Một trăm người Việt tuổi từ 25 đến 99, từ đủ mọi nẻo đường của cuộc sống đã góp tiếng nói vào dòng chảy của những câu chuyện này. Những phần trong ngoặc kép là lời của nhân vật. Tất cả đều ẩn danh. Mọi liên tưởng chỉ là trùng lặp tình cờ và không chính xác.

Trong những bài viết trước, các ý kiến cho rằng hàn gắn dân tộc bị ảnh hưởng bởi ý thức hệ (bài 3, bài 4, bài 5, bài 6), bối cảnh lịch sử (bài 7) và đứt gãy văn hóa (bài 8).

Bài viết kỳ này tập trung vào giả thiết cho rằng quá trình hàn gắn khó khăn vì mất mát của hai bên quá lớn.

Trong dự án này, có nhiều cuộc nói chuyện mà 90% thời gian được dùng để kể lại nỗi đau, đến mức sau đó chính tác giả cũng phải tìm trợ giúp tâm lý. Từ khóa quay lại nhiều nhất là “bị hiếp” và “bị giết.” Sự tàn phá ấy quá lớn khiến ai cũng bị dày vò để tìm lý do biện minh cho hận thù. Quá khứ mất mát trở thành một phần cơ bản của cuộc đời. Thậm chí nếu được chữa lành thì hy sinh bỗng trở thành “vô nghĩa.”

Ta đã mất mát quá nhiều, hận thù là chính đáng

Nhà văn Đỗ Kh. từng miêu tả cuộc sống của những cộng đồng người Việt tị nạn ở hải ngoại như những “ốc đảo của quá khứ. Cách hai thế kỷ và 10.000 cây số, người Việt vẫn tin rằng số phận long đong trốn chạy của Kiều chính là số phận của họ.”

 Thoạt tiên, họ “bỏ chạy vào Nam sau cải cách ruộng đất.”

“Lần thứ hai là khi họ sợ sẽ bị “tắm máu sau ngày thống nhất.”

Không có “tắm máu,” nhưng “người đàn ông duy nhất trong nhà phải đi cải tạo.” “Một lần má gom hết tiền ra Bắc thăm ba. Về Sài Gòn, má khóc rụng cả tóc. Ba bị cùm một chân. Nhưng ba nói nhiều người không muốn cai tù đổi sang chân kia. Họ hy vọng cái chân bị cùm sẽ dần dần teo lại, cùm sẽ đỡ đau hơn.”

“Cuộc sống bế tắc.” “Gia sản bị nhà nước lấy sạch. Đi học thì không được đi học, đi làm không được đi làm. Không biết sống bằng cái gì. Trí thức mà phải quét rác kiếm ăn.”

“Tôi sẽ không bao giờ quên hình ảnh anh trai mình đứng giữa sân, tay nắm chặt chai thuốc chuột, bên cạnh đống sách định đốt. Anh khóc gào tuyệt vọng vì không được vào đại học, dù điểm thi rất cao: ‘Má ơi, sống còn có ý nghĩa gì nếu họ không cho con một cơ hội?’ Có một lần ông hiệu phó gọi tôi vào mắng mỏ. Ông gọi tôi là ‘con ngụy’, rồi dùng điếu thuốc đang cháy dí vô bắp chân. Giờ vẫn còn sẹo. Rồi ông nhốt tôi vào một cái tủ tối và bỏ đi.”

Thế nên “gia đình tôi liều mình trốn chạy.” Khi ấy “vượt biên là tội phản quốc. Nếu bị bắt có tiền cũng 2-3 năm, không tiền 10 năm tù.” “Vụ tàu Việt Nam Thương tín là kinh khủng nhất. Những người trên đó tự nguyện hồi hương vì tin là chính phủ khoan hồng. Nhưng về tới Nha Trang là bị dồn lên xe bít bùng. Ai cũng vào tù. Nhỏ nhất là một đứa bé 7 tuổi. Tù ít nhất 9 tháng. Trung tá Trần Đình Trụ ở tù tới 13 năm.”

Nhưng người ta vẫn trốn. “Ở Vũng Tàu sáng nào cũng thấy xác người vượt biên trôi.” Ngày ấy dân miền Nam bảo nhau: “Một là con nuôi mẹ. Hai là mẹ nuôi con. Ba là con nuôi cá.”

Bởi trên những chuyến tàu ấy là địa ngục trần gian. “Có người phải ăn chay cả đời, phải đi tu, phải vào trại tâm thần vì đã chứng kiến, hoặc phải tự mình ăn xác chết để cầm hơi.”

Trẻ em miền Nam trong một trại tị nạn ở Vũng Tàu vào cuối tháng 4/1975

Gặp hải tặc Thái Lan, “đàn ông thì nó bẻ răng lấy vàng. Còn phụ nữ nó hiếp.” “Có bé bị hiếp mới mười hai tuổi.” “Có cô bị hiếp nhiều lần trong khi bị bắt phải chứng kiến anh trai mình bị chặt làm ba khúc.”

“Có cô bị xâm hại nhiều đến mức vết thương hôi thối lựng một góc lán. Lại còn dính thai đôi. Mà thai lại bị dị tật. Khi người vợ bị hiếp, bọn hải tặc cầm mã tấu bắt chồng và bốn đứa con đứng xem. Người chồng là một nông dân chất phác. Anh nói mấy cái bào thai không có tội. Thôi để chúng ở lại với vợ chồng tôi.”

Ở trại tị nạn Songkhla, “ai cũng nhớ ngày xác của 11 cô gái trẻ bị trói cổ vào nhau, không mảnh vải che thân, trôi dạt vào bãi biển Tha Sala. Đến giờ ở đó vẫn còn cái am, thờ một cái thuyền đã mục. Một bà già mộ đạo đã hương khói cho nó suốt 17 năm.”

Trên khắp các trại tị nạn, “hàng trăm nấm mồ tập thể đã được dân địa phương chôn cất.” “Riêng đảo Koh Kra có 3.000 xác người nằm lại.”

Rồi “mỗi trại lại là một thế giới đau thương thu nhỏ.” “Thoát chết rồi nhưng khắp trại là những người rách rưới lang thang, miệng lẩm bẩm, thỉnh thoảng cười rú lên hay khóc lóc thảm thiết.” “Có những cô gái mỗi lần nhìn thấy biển là lăn đùng ra, mắt trợn ngược”. Có những đôi vợ chồng “không thể nhìn mặt nhau khi chăn gối,” “phải tắt đèn.” Nhiều cặp “chia tay nhau,” “rồi người vợ treo cổ vào hôm kỷ niệm ngày cưới vì không thể vượt qua được ký ức bị hãm hiếp.”

“Biển trở thành một tấm lưới, bủa vây cả quá khứ, hiện tại lẫn tương lai.”

Khi tôi chết hãy mang tôi ra biển/ Đừng ngập ngừng vì ái ngại cho tôi/ Những năm trước bao người ngon miệng cá/ Thì sá gì thêm một xác cong queo” – (Du Tử Lê).

“Sau chấn thương bao giờ người ra cũng cần thời gian phục hồi. Nhưng điều đó không xảy ra với người Việt tị nạn. Chưa qua cái này thì cái kia đã đến. Khi vừa đặt chân đến quê hương mới, nhu cầu sống sót lập tức chiếm vị trí ưu tiên. Mai con mình có cơm ăn không?” Quần quật cho đến khi ngẩng đầu lên thì những “nỗi đau đã kịp kết tinh thành tính cách.”

“Hôm ấy tôi tới đám tang một thuyền nhân. Mọi người đau buồn khóc lóc. Rồi bỗng có một ông đứng lên. Nói hùng hồn quá trời. Ông chửi chính quyền, chửi cộng sản. Ông nói văng cả nước miếng. Người già gật gù nhưng đám trẻ thì có đứa bỏ về. Lúc đó tôi sốc, nhưng giờ nghĩ lại thấy thương đứt ruột.”

Càng đau càng không muốn tha thứ. Hận thù phải tiếp tục để “nỗi đau không bị vô nghĩa,” để ta không “phản bội lại chính mình.” “Mình đã mất mát quá nhiều, mình phải hận thù.” “Ngày ‘quốc hận’ là ngày mà nỗi đau trở thành danh tính.”

“Nhưng cứ hận thù thế này thì sống tiếp sao đây?”

Hòa giải với nỗi đau trở thành một mâu thuẫn tâm lý khiến “người ta kiệt sức.”

Một em bé miền Nam Việt Nam trong trại tị nạn Pendleton ở California vào năm 1975

Ta đã mất mát quá nhiều. Cái giá phải trả hẳn là chính đáng

Với bên “thắng cuộc,” mất mát là bằng chứng để khẳng định nó đã được đánh đổi cho một điều thiêng liêng. Đó là sự “thống nhất Bắc Nam,” là “Mỹ đã cút và ngụy đã nhào.”

Vậy nên với nhiều người, nhắc lại nỗi đau là để khẳng định tính chính danh của những gì mình từng làm, khẳng định rằng quá khứ của mình vẫn còn giá trị. “Hòa giải đồng nghĩa với việc chấp nhận mình sai, mất mát đó không còn cao cả nữa mà bỗng thành ra vô ích.”

Tuy nhiên, điều cao cả ấy ở mức độ cộng đồng, còn sự hy sinh thì lại ở tầng cá thể. Để dung hòa được khoảng cách đó không dễ dàng.

“Ở hải ngoại, người ta gắn kết bởi nỗi đau trong quá khứ. Ở trong nước, người ta gắn kết bởi vinh quang trong dĩ vãng.”

Nhưng “người chiến thắng cũng đau chứ, chỉ có điều đó là nỗi đau của những anh hùng.” “Nó phải được gói ghém trong màu vinh quang,” bởi chiến tranh không phải là những câu chuyện buồn. Nó là “sử thi và tráng ca.”

Có rất ít không gian cho những chấn thương hậu chiến, nơi kẻ chiến thắng được “quyền đau đớn,” được quyền “hoang mang,” được quyền “tự chất vấn,” được quyền “nhận ra mình sai đúng ở đâu,” và quan trọng nhất là được quyền “trợ giúp để chữa lành.”

“Mẹ hay kể chuyện đang ăn cơm thì bị đánh bom. Cô bạn của mẹ mới vừa cầm bát ngồi đây. Bom nổ đùng một cái. Thân đã ở trên cây. Đầu vướng cành trên cao. Chân vương cành dưới thấp. Mẹ thường chửi bới cậu (em trai mẹ) một cách tàn nhẫn. Rằng mày không đi chiến đấu. Cả nhà này chỉ mình tao hy sinh. Chúng mày ở hậu phương ăn sung mặc sướng… Cái sai nhất của cậu là mày dám sướng. Tôi chưa bao giờ thấy mẹ cười thành tiếng. Cả đời cho đến khi chết, nỗi đau của mẹ không có câu trả lời thỏa đáng.”

“Gia đình tôi chia đôi theo cuộc chiến quốc-cộng. Sau 75, bác vượt biên đi nước ngoài. Bố ở lại. Khi bác về thăm, bố bảo: ‘Việt Kiều nhưng cũng mất nước’. Bố lúc nào cũng uẩn ức, giận dỗi, mâu thuẫn rất khó hiểu. Rồi tôi nhận ra là bố luôn muốn đi. Hóa ra bố ghen tị. Bố không có sự tự hào của người ở lại. Bố bị mắc kẹt trong việc cố gắng lý giải nỗi đau của mình.”

“Cô (chỉ tác giả) nói ba cô lúc sắp chết mới sám hối khi nhìn thấy ma quỷ đúng không? Ba tôi lúc còn sống đã sám hối rồi. Đó là khi ông biết về tù cải tạo, về đánh tư sản, về thuyền nhân. Tuyền là những thứ mà ông cho rằng mình phần nào có lỗi.”

“Bố tôi 5 lần là dũng sĩ diệt Mỹ. Khi bố mất, tôi tìm thấy những huy chương ấy gói kín, để sâu trong tủ. Bố chỉ ghét Mỹ thôi. Bố không bao giờ nhắc tới những huy chương này, vì bố phải giết cả đồng bào mình. Nên ông giấu đi. Các cựu chiến binh đi hội nghị đeo đầy ngực, nhưng bố không bao giờ. Bố bảo người ta cũng yêu nước giống mình, chỉ có điều lý tưởng của người ta giống Mỹ.”

“Bố tôi rất ghét bọn trẻ trâu khi chúng nó tự hào ầm ĩ trên mạng. Kể lại chuyện thắng Mỹ thắng Pháp, Đại Việt thần thánh nọ kia với sự kiêu hãnh như thể chính chúng nó lập công. Trong khi chúng không hề biết mùi máu là gì.

Tự hào về chiến tranh bây giờ toàn bọn trẻ con quen chơi game bắn nhau. Người thực sự cầm súng họ không kiêu hãnh kiểu như thế. Bố bảo lũ oắt con có giỏi thì tự mình thành công đi. Rồi tha hồ mà tự hào. Đừng có yêu nước bằng máu của bọn tao.

Bọn trẻ ranh ấy không hiểu rằng, những ai đã giết người, dù chính nghĩa đến đâu, thì rất khó nhắc lại mà trong lòng không tý gợn. Viết ra được những câu kiểu như ‘Dưới kia chúng nó đang cười. Cười đi nhé, chúng bay ơi, rồi chết!‘ thì chỉ có mấy ông nhà thơ. Ra chiến trường đi, không bao giờ còn viết được thế.”

“Những người thực sự đi qua chiến tranh mà chưa hóa đá với nỗi đau, họ viết như Bảo Ninh cơ. Họ cũng sống như Bảo Ninh luôn.

Cái hôm sống sót trở về nhà, Bảo Ninh đã đi lên cầu thang rất khẽ để không đánh động đến hàng xóm. Cả nhà cũng ôm nhau rất khẽ. Bởi vì ngay phòng bên cạnh là một gia đình có con trai không trở về.”

Thế nên “bố không muốn chết cùng với những tấm huy chương. Bố không muốn chết rồi vẫn thành đồ trang sức. Cả đời bố là chiến binh, nhưng ảnh đám ma của bố không mặc áo lính. Trên bàn thờ, bố mặc áo trắng.”

Cụ Nguyễn Thị Phải, người được phong Mẹ Việt Nam anh hùng ở Sóc Trăng, có 4 người con trai đối đầu nhau ở hai chiến tuyến

“Có lần tôi xem triển lãm thấy bức ảnh mẹ Thứ ngồi bên cái mẹt có bày bát hương và 9 cái bát không. Mẹ có 9 người con là liệt sĩ.

Tôi không hiểu nếu gặp nhau, mẹ Thứ sẽ nói gì với mẹ Phải?”

Mẹ Nguyễn Thị Phải có ba người con chết trận. Trong một cuộc tấn công, anh Năm và anh Bảy ném lựu đạn vào đồn địch nơi anh Tư cố thủ. Khói súng tan, hai em trai soi đèn đi tìm xác anh trai.

Anh Năm và anh Bảy được phong liệt sĩ. Anh Tư chết không danh hiệu. Mẹ Phải được phong “Mẹ Việt Nam anh hùng.”

“Bao năm qua, mẹ đã sống như thế nào với nỗi đau ấy? Mẹ có cảm thấy mình là anh hùng không?”

Một ngàn năm nô lệ giặc Tàu/ Một trăm năm đô hộ giặc Tâу/ Hai mươi năm nội chiến từng ngàу.

Gia tài của mẹ, một rừng xương khô/ Gia tài của mẹ, một núi đầу mồ” – (Trịnh Công Sơn).

Play video, “Biến cố 30/4: Vết thương khó chữa lành nhưng còn hi vọng”, Thời lượng 6,45

06:45

Biến cố 30/4: Vết thương khó chữa lành nhưng còn hi vọng

Bài 1: Cuộc chiến ký ức

Bài 2: Hòa giải đã lỡ, hòa hợp đang chờ

Bài 3: Cây tre Việt Nam – di sản chọn phe

Bài 4: Đồng phục tư tưởng – di sản ý thức hệ

Bài 5: ‘Sống mãi với hệ điều hành 1975’ – di sản phân cực chính trị

Bài 6: Khúc ruột ngàn dặm – di sản hải ngoại

Bài 7: Con Lạc cháu Hồng – di sản lịch sử

Bài 8: Gánh gánh gồng gồng – di sản văn hóa

Chấn thương xuyên thế hệ

Sau 1975, Việt Nam không thực sự có một chương trình hòa giải. Thậm chí hận thù còn được “tạo mới” bởi các “chính sách sai lầm.” Điều này khiến người Việt thiếu một không gian chung “để cùng nhìn lại, cùng nhận lỗi và cùng tha thứ. Những vết thương vẫn rỉ máu trong im lặng. Nó truyền đời từ này sang đời khác, từ cá nhân sang cộng đồng.”

“Có lần tôi thấy một em bé 8 tuổi trên ti vi khóc vì ‘con thương Bác Hồ quá’.

Tại sao một đứa nhóc chưa từng gặp Bác, thậm chí ông bà nó cũng không đủ già để có thể gặp Bác, mà nó vẫn có thể khóc một cách rất chân thành vì nhớ Bác?”

Có lẽ chúng ta ai cũng như em bé ấy, “kế thừa cả một đại dương của kiêu hãnh và sợ hãi, của yêu mến và căm thù.” Chúng ta lớn lên với một gánh non sông nặng đầy quá khứ.

Cho nên “chiến tranh không chỉ diễn ra hai lần, trên chiến trường và trong ký ức như nhà văn Nguyễn Thanh Việt nói. Nó sẽ còn tiếp diễn mãi.” Mỗi người, mỗi gia đình, mỗi thầy cô, mỗi nhà lãnh đạo, mỗi thế hệ lại “thêm vào những ý nghĩa mới.”

Như “một bức tường liên tục được vẽ bồi lên những hình graffiti mới.”

Dù “bức tường quá khứ” không thể thay đổi, nhưng “tương lai chính là những hình vẽ mới” ấy. Hòa giải là cho phép bức tường được (1) đa nguyên sự thật với những mảng màu đối lập nhau; (2) dựa trên một nền tảng nhân văn, không sỉ nhục nhau trên tường, không trừng phạt người vẽ; (3) không đổ lỗi cho cả một cộng đồng.

Bức tường quá khứ sẽ tồn tại mãi. Nhưng ý nghĩa của nó có thể thay đổi để trợ giúp cho một tương lai cộng sinh, hòa hợp.

Hình vẽ trên tường của bạn có hiệu ứng gì? Nó khiến người ta “dừng lại để ăn năn và chiêm nghiệm”? Hay nó khiến họ sùng kính đến mức muốn “đóng lên đó một cái bàn thờ,” hoặc giận dữ muốn “…đái vào chân tường cho bõ ghét”?

Di truyền biểu sinh xuyên thế hệ

Chúng ta không chỉ kế thừa tổn thương qua ký ức mà còn qua con đường sinh học (transgenerational epigenetics).

Sau sang chấn, các gien (DNA) thay đổi cách hoạt động. Sự biến đổi đó có thể di truyền lại và biểu hiện ra bệnh tật, hành vi, cảm xúc cho vài thế hệ về sau. Các nghiên cứu nổi tiếng trong lĩnh vực này được thực hiện với thế hệ thứ 2 và thứ 3 của nạn nhân diệt chủng và nạn đói gây ra bởi Đức Quốc xã.

Khi còn trong bụng, bào thai nhận tín hiệu từ cơ thể mẹ để “hiểu” về thế giới bên ngoài. Nếu đó là trải nghiệm đau buồn, tín hiệu ấy sẽ nói với bào thai rằng: “Thế giới ngoài kia đầy cạm bẫy. Con hãy chuẩn bị tinh thần”.

Bào thai tiếp nhận thông tin, các gien lập tức thay đổi cách làm việc. Một số gien ngừng hoạt động. Một số gien kích hoạt hết cỡ. Cơ chế sinh học chuẩn bị sẵn sàng cho một thế giới bất ổn. Như một căn nhà mà các ô cửa được đóng mở một cách chiến lược để tồn tại như một pháo đài. Bào thai phát triển theo hướng lấy “phản vệ” làm phương châm sống.

Khi sinh ra, thế giới có thể không còn tệ như trí nhớ sinh học lưu giữ. Tuy nhiên, cơ thể đã hoàn thiện, pháo đài đã khởi động.

Bé lớn lên có thể dễ bị rối loạn tâm lý, căng thẳng, tăng cân, béo phì, tim mạch, tiểu đường… Kể cả khi chất lượng cuộc sống tốt lên thì cuộc đời của một người như thế vẫn tiếp tục gửi tín hiệu sinh học tới cho bào thai thế hệ tiếp theo. Hiệu ứng này chỉ giảm dần qua vài thế hệ chứ không mất hẳn.

Và tất nhiên, tín hiệu sinh học sẽ tệ hơn nếu sinh ra cơ thể đã phản xạ như một pháo đài, mà cuộc sống xung quanh vẫn đầy hận thù. Sinh học cộng hưởng với môi trường sẽ tạo thành vô thức cộng đồng, tác động đến lối sống, tư duy và căn tính dân tộc.

Ở Việt Nam, các thế hệ sau 75 “không trực tiếp bắn giết, không bị tù cải tạo, bị đói, bị mất mát,” bị “phản bội,” bị “bội tín,” bị “trả thù.” Họ có lẽ còn không hề biết điều đó từng xảy ra với gia đình mình.

Nhưng họ vẫn có thể kế thừa “cảm giác sợ hãi, nghi kị, lo âu, u uất, rối loạn cảm xúc, phản xạ cực đoan.” Họ có thể dễ mắc bệnh mà không ý thức được tại sao, hoặc sẽ gán cho nó những lý do nhất thời.

Rất có thể đây là một phần “trầm tích sinh học” của bao thương đau mà người Việt đã trải qua, khiến cái “cơ thể còi cọc của chúng ta luôn xù lông lên với cả thế giới.”

Nếu ta không thực sự hàn gắn dân tộc, chặn lại cỗ xe di truyền ấy, hậu quả sẽ là một vòng xoáy với nhiều thế hệ mang trong mình “khuyết tật,” là “hàng núi tiền đổ vào chữa bệnh,” là sự “suy giảm năng suất sáng tạo,” là sự tụt hậu sinh học của cả dân tộc khi phải chạy đua với một “cơ thể bạo bệnh.”

Nạn đói Hà Lan (Dutch famine) di truyền lại cơ chế sinh học cho vài đời kế tiếp, khiến con cháu họ dễ mắc bệnh béo phì, tim mạch, tiểu đường, và thần kinh

Cùng gọi tên nỗi đau

Ở nhiều xã hội hậu chiến, hòa giải được hiểu là “khép lại quá khứ,” “đừng nói nữa.”

Nhưng nếu “khép lại” mà không “ghi nhận” thì chỉ là đóng băng xung đột. Nỗi đau không được gọi tên sẽ biến thành nghi ngờ, oán giận. Nỗi đau cần được thừa nhận trước khi có thể chuyển hóa. Đó là nguyên tắc cốt lõi. “Ta không thể chữa lành những gì ta không thể gọi tên” (James Baldwin).

Tuy nhiên, chữa lành nỗi đau cá nhân khác với những sang chấn cộng đồng. Rất khó có thể “dùng trị liệu, gặp bác sĩ tâm lý, đi thiền, đi tu để tự chữa lành trong không gian riêng tư.”

“Một người lính có thể được trị liệu tâm lý, sống hạnh phúc trong gia đình. Nhưng nếu xã hội xung quanh vẫn phủ nhận nỗi đau của họ thì cuộc chiến ấy không bao giờ kết thúc.”

Chấn thương cộng đồng thì phải được chữa lành trong cộng đồng. Người ta phải cùng nhau làm điều đó. Họ phải được chứng kiến. Họ phải không đơn độc. Chỉ như thế thì ký ức mới được ‘rã băng’.”

Hòa giải không cần công lý?

Một số nhân vật nhắc tới chương trình “Như chưa từng có cuộc chia ly” như một ví dụ hiếm hoi từ truyền thông chính thống.

“Cứ nghe thấy giọng Thu Uyên là tôi khóc.” “Thật kỳ diệu khi nỗi đau có thể hàn gắn đến vậy. Bởi nó không phán xét. Người ta đau, nhưng không đổ lỗi cho nhau.”

Ở Như chưa từng có cuộc chia ly, những người “bị chính sử gạt ra ngoài được phục hồi phẩm giá trong tư cách người cha, người mẹ, người con chứ không còn bị rút gọn thành kẻ địch.” Ở chiều ngược lại, “những anh hùng được phép trở thành người thường, với tất cả sự yếu đuối, tổn thương và sai lầm của họ.”

“Nó dùng nỗi đau chung để tái tạo ký ức (reconstructed memory), khiến đau thương sau khi được ghi nhận có thể mang một ý nghĩa khác.”

“Nó cũng bám vào một kết cấu vững chắc của văn hóa Việt Nam. Đó là gia đình. Người Việt vốn nặng gánh máu mủ, chỉ cần một tý tình nghĩa chân thành là có thể bỏ qua cho nhau.”

Tuy nhiên, Như chưa từng có cuộc chia ly cũng nhận được nhiều góp ý.

“Tôi muốn thấy những câu chuyện đa dạng hơn, liên quan nhiều hơn đến phía bên kia, đến tù cải tạo, đến thuyền nhân. Ví dụ, trên mạng có rất nhiều diễn đàn nhỏ lẻ tìm người thân thất lạc sau khi vượt biển và ở trại tị nạn.”

“Cái lỡ cỡ của Như chưa từng có cuộc chia ly là nó chuyển hóa chấn thương tập thể thành những chuyện riêng tư, chữa lành theo logic tân tự do (neoliberalism), bắt cá nhân phải tự chịu trách nhiệm thay vì hệ thống phải sửa sai.” “Nó từ chối đối thoại chính trị, từ chối chạm vào gốc rễ của lịch sử. Và cũng tức là từ chối mở đường cho công lý.”

(Nhân vật minh họa bằng nghiên cứu Collective wound, private healing của Nguyen-Thu Giang).

“Người ta có thể kết nối bởi nỗi đau và không đổ lỗi cho nhau. Nhưng cái hệ thống đã gây ra nỗi đau thì không thể bị tảng lờ đi.”

“Có điều trong bối cảnh bây giờ, những cuộc đối thoại như thế cũng đã là tốt lắm rồi.”

Trong bộ phim tài liệu Hành trình thống nhất của VTV, một gia đình có nhiều anh em ở cả hai chiến tuyến được chia sẻ câu chuyện riêng của họ; phía sau lưng họ là di ảnh của những người thân, không đứng cùng chiến hào nhưng ngồi chung một bàn thờ

Vai trò của lãnh đạo trong ‘công lý ghi nhận’

Trong quá trình hàn gắn, ghi nhận sai lầm là một bước công lý căn bản, có sức mạnh khôi phục niềm tin lớn hơn bất kỳ hành động bồi thường vật chất nào.

“Ở Việt Nam, sự ghi nhận ấy phải đến từ người lãnh đạo.”

Thứ nhất là yếu tố “tập quyền chính trị và tôn sùng cá nhân” khiến cho “tiếng nói của lãnh đạo trở thành cái thẻ bài,” thành “tín hiệu an toàn” để người dân “được bảo vệ khi bước vào không gian và quỹ đạo của sự thật.”

Thứ hai là tại Việt Nam, đối tượng cần hòa giải là giữa chính quyền với nạn nhân của những “chính sách sai lầm sau 75.” Tiếng nói của lãnh đạo đặc biệt quan trọng vì nó đại diện cho chính quyền.

“Sau cải cách ruộng đất, tất cả nồi, niêu, xoong, chảo, lúa, gạo, quần áo đều bị cướp sạch. Đến cái cánh cửa cũng bị tháo.” “Nhà có 15 người thì 11 người chết. Hai đứa trẻ con bị làng đuổi ra gò. Ăn trộm sắn vì đói. Nuốt sống ngộ độc. Rồi cũng chết.”

“Nhưng mà họ cũng chỉ kể lại thôi. Không có sự căm thù ngùn ngụt trong giọng nói. Không đầy uất hận như kể về những gì diễn ra ở miền Nam sau ‘giải phóng’.”

“Tại sao ư? Tại Bác Hồ xin lỗi.”

“Hàng nghìn người chết thảm trong những tòa án nông dân man rợ. Người bị bắn đầu tiên là một phụ nữ đã nuôi giấu lãnh đạo Việt Minh như con cái trong nhà, đã hiến hàng trăm lượng vàng cho cách mạng (địa chủ Cát Hanh Long). Thương đau ngút ngàn. Oan thấu trời xanh. Thế mà sau khi Cụ Hồ xin lỗi, bao nhiêu người lại tiếp tục gửi con đi bộ đội.”

“Sau này có ông Kiệt. Ông nói một câu trong dịp 30/4/2005 là sự kiện này triệu người vui, triệu người buồn. Tổ chức rình rang ít thôi. Vậy mà người ta nhớ mãi, thương yêu ông mãi. Giá có thêm nhiều ông Kiệt.”

“Giờ có ông Tô Lâm cũng mạnh. Ông chỉ nói một câu Sài Gòn từng là ‘hòn ngọc viễn đông’ là người miền Nam trút được nhiêu bao uất ức.” “Phải ghi nhận miền Nam thực lòng như thế thì dân Nam mới khôi phục lại lòng tin.”

“Cái sức mạnh của người lãnh đạo trong một cơ chế tập quyền nó khủng khiếp lắm. Chưa cần đến chính sách. Chỉ cần một câu của lãnh đạo là đủ tạo bước ngoặt, tiết kiệm hàng thập kỷ nỗ lực của dân đen.” “Như một đàn số 0, lãnh đạo tốt là con số 1 đứng trước dãy số 0 đó.”

“Lãnh đạo dở thì chắc là… dấu phẩy.”

Bà Nguyễn Thị Năm (tức Cát Hanh Long), người có công với cách mạng nhưng đã bị đem ra đấu tố và bị xử bắn đầu tiên trong Cải cách Ruộng đất; Bên phải là hình ông Hồ Chí Minh khóc tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa 1 (29/12/1956-25/1/1957) khi nói về sai lầm trong Cải cách Ruộng đất

Mỗi nỗi đau là một nhịp cầu

Một điều thú vị là trong nghiên cứu này, khá nhiều bạn trẻ cảm nhận được nỗi đau cộng đồng thông qua những tổn thương cá nhân.

“Hồi cấp 2, tôi từng bị bắt nạt. Cô giáo bảo nếu nhận lỗi thì cô sẽ tha. Nhưng cô không giữ lời. Tôi cứ thế lớn trong sự bạo hành của bạn học và người lớn.

Khi vào Nam sinh sống và nghe câu chuyện của người nơi đây, tôi thấy họ cũng có những tổn thương y như mình. Tôi và những cựu binh đều là nạn nhân của bạo lực tinh thần. Nếu như không có những tổn thương trong quá khứ, chưa chắc tôi đã nhìn ra nỗi đau của họ. Chưa chắc tôi đã có thể nối những đau thương của mình với trải nghiệm của cả dân tộc.”

“Hồi năm nhất tôi đi học ở Mỹ. Trong trường có treo cờ vàng. Tôi viết thư đòi hạ cờ.

Khi ấy, tôi có ý tốt. Tôi muốn họ thôi hận thù. Tôi muốn họ phải đồng ý với tôi. Rằng, thôi đi, đau nó vừa thôi. 18 tuổi tôi chỉ nghĩ được đến thế.

Sau này, mắt tôi cứ kém dần đi. Mơ ước làm tiến sĩ của tôi tan tành. Tôi sống nhiều năm với nỗi đau của một người tật nguyền và trầm cảm.

Lúc đấy bỗng nhiên tôi tìm thấy kinh Địa Tạng. Đọc xong tôi cứ khóc mãi. Tôi bắt đầu hiểu rằng ai cũng có nỗi đau riêng. Mình không phải họ, sao bắt họ hết đau?

Thế nên tôi bắt đầu biết thương. Không yêu, mà thương. Yêu hơi ích kỷ. Nhưng trong cái thương thì có cái đau. Khi mình thương, mình chấp nhận nỗi đau là một phần để vỗ về, an ủi.”

Play video, “Stephen B. Young: Lời kể về quá trình Mỹ tiếp nhận thuyền nhân Việt Nam”, Thời lượng 18,04

18:04

Stephen B. Young: Lời kể về quá trình Mỹ tiếp nhận thuyền nhân Việt Nam

Mỗi người giữ một chút tử tế

Dù chính quyền được xác định là chịu trách nhiệm chủ yếu trong tiến trình hòa giải, nhiều nhân vật vẫn cho rằng “hàn gắn dân tộc cũng là nghĩa vụ của một người tử tế.”

“Trước khi chết, ba của cô (tác giả) đã sám hối, vì ông nhận ra mình giết nhiều người quá.

Nhưng làm sao để khoảnh khắc ấy xảy ra sớm hơn mà không cần phải viện đến sức mạnh của cái chết?”

“Tôi chọn trở thành người tốt khi có thể. Tôi chấp nhận là một kẻ xám xịt, trắng không ra trắng, đen không ra đen. Nhưng tôi ý thức được rằng mình không muốn bị đen tuyền, bị tha hóa. Khi nào tốt mà không hại đến bản thân thì phải tốt.”

“Tôi dặn mình phải giữ chút liêm sỉ nghề nghiệp. Tôi không bao giờ dùng từ ‘ngụy’, ‘giải phóng’, ‘lưu vong’, ‘phản động’. Nếu lỡ mồm thì xin lỗi ngay. Hàng chục năm làm biên tập, không bài báo nào qua tay tôi mà có dính những từ đó.”

“Bố tôi tự hòa giải bằng sử ký và văn học chấn thương. Bố đọc Chuyện ba người, Nỗi buồn chiến tranh, Bên thắng cuộc, Gia đình, Tôi là con gái của cha tôi, Hai bên chiến tuyến, Tổ quốc ăn năn, Đèn cù, Đêm giữa ban ngày, Giải khăn sô cho Huế, Mùa hè đỏ lửa… Bố chia sẻ cho bạn bè. Bố kể cho tôi nghe.”

“Tôi xem ti vi cùng con.” “Thỉnh thoảng tôi kể cho con một câu chuyện ngược lại để thách thức đầu óc phản biện của con.”

“Hồi trẻ tôi nghĩ mình phải đi khỏi Việt Nam để không bị chết chìm trong sự ngu si của thiên hạ. Nhưng giờ tôi kệ. Nếu chết ngộp thì chết ở đây. Kỳ lạ thế. Máu hỏng thịt hỏng, nhưng là máu thịt mình. Mình có phần mình, nên xã hội này mới thế.

Hiểu được vậy thì sẽ không thù hận nữa. Hiểu được vậy thì sẽ thương cả những kẻ ngu si. Hiểu được vậy thì mới thấy trách nhiệm của mình.

Hiểu được vậy thì sẽ không còn hỏi ‘Chuông nguyện hồn ai?’

Bởi chuông nguyện chính hồn nhà ngươi đấy. Biết không?

Mời quý vị đón đọc phần tiếp theo

Bài 10: Có thực mới vực được đạo – di sản kinh tế

  • Tiến sĩ Nguyễn Phương Mai là chuyên gia đào tạo trong lĩnh vực ứng dụng Khoa học Não bộ vào Giao tiếp-Quản trị đa văn hóa và Phát triển năng lực cá nhân. Đây là một phần trong loạt bài viết về nghiên cứu hòa hợp dân tộc của tác giả.

200 người họp kêu gọi ICE thả bà chủ tiệm nail gốc Việt ở Maryland

Ba’o Nguoi – Viet

June 7, 2025

HAGERSTOWN, Maryland (NV) – Khoảng 200 người họp bên ngoài tiệm Nail Palace and Spa ở Hagerstown, Maryland, hôm Thứ Tư vừa qua để bày tỏ ủng hộ bà Mộng “Melissa” Tuyền Thị Trần, bà chủ tiệm bị Cảnh Sát Di Trú (ICE) bắt giữ tháng trước, theo báo The Herald-Mail hôm Thứ Sáu, 6 Tháng Sáu.

Trong buổi họp cộng đồng, ban tổ chức kể với người tham dự về nỗi khổ của bà Tuyền trong lúc bị ICE giam giữ. Hôm đó, bà cũng bất ngờ xuất hiện thông qua điện thoại video từ nơi bà bị giam ở tiểu bang Washington.

Gia đình bà Mộng “Melissa” Tuyền Thị Trần. (Hình: Facebook Bring Melissa home)

Người tham dự vỗ tay, reo hò ủng hộ bà Tuyền, cảm động nhất là cảnh con trai 19 tuổi của bà vừa khóc vừa cầm máy điện toán có hình ảnh bà đang nói chuyện để mọi người có thể nhìn thấy và nghe giọng bà.

Sau đó, mọi người bắt đầu cùng nhau hô vang “Đưa bà Melissa về.”

Trước đó ba ngày, bà Tuyền lần đầu tiên gọi điện thoại cho con kể từ khi bị ICE bắt giữ hôm 12 Tháng Năm, theo thông tin được cung cấp tại buổi họp cộng đồng bên ngoài Nail Palace hôm Thứ Tư.

Bà Tina Nash, bạn của gia đình bà Tuyền, giúp thành lập nhóm #BringMelissaHome (Đưa Bà Melissa Về), nhóm tổ chức buổi họp cộng đồng đó và có trương mục trên Facebook.

Nhóm này mở chiến dịch viết thư hối thúc giới chức liên bang xem xét trường hợp của bà Tuyền và cho phép bà trở về Hagerstown. Họ còn mở trang GoFundMe để hỗ trợ chi phí pháp lý và bù thiệt hại tài chính mà gia đình bà có thể gặp phải. Họ cũng bán áo thun và vòng đeo tay để lấy tiền giúp đỡ gia đình bà.

Từ tị nạn tới làm chủ cơ sở thương mại

Bà Tuyền, 43 tuổi, và chồng, ông Dũng “Danny” Hoàng, mở tiệm Nail Palace trong thương xá Long Meadow gần 22 năm nay. Trong thời gian đó, họ quen biết nhiều bạn bè và có nhiều khách hàng trung thành.

Bà Nash và chồng, ông Bernie Semler, luật sư địa phương, tự nhận họ là bạn của gia đình bà Tuyền.

Trong buổi họp hôm Thứ Tư, ông Semler cho hay ông thích tiệm của bà Tuyền vì họ “tử tế.”

Bà Tuyền, cùng với cha mẹ và ba người anh, trở thành người tị nạn vào năm 1993, ông Semler kể. Ban đầu, họ tới Philippines tị nạn khoảng chín tháng. Sau đó, họ qua Mỹ hợp pháp và được cấp thẻ xanh, theo thông tin mà ông Semler và bà Nash chia sẻ hôm Thứ Tư cũng như ban tổ chức công bố trên Facebook.

Bà Tuyền bị bắt khi ra trình diện ICE ở Baltimore, Maryland, hôm 12 Tháng Năm, ông Semler cho biết.

Kể từ đó, bà bị giam ở Louisiana, Arizona, và mấy tuần qua, ở vùng Tacoma, tiểu bang Washington, theo bà Laura Kelsey Rhodes, luật sư của bà Tuyền ở Rockville, Maryland.

Thông qua máy điện toán con trai bà đang ôm, bà Tuyền nói: “Tôi chỉ muốn cám ơn quý vị ủng hộ và mọi thứ.”

Bà cho hay bà cảm thấy có phước vì được cộng đồng ủng hộ “và cầu nguyện cho tôi và gia đình.”

Con trai bà Tuyền cầm máy điện toán có hình ảnh bà nói chuyện qua video. (Hình: Facebook Bring Melissa home)

Vụ án hình sự năm 19 tuổi dẫn tới trường hợp bà Tuyền bị trục xuất

Mấy tuần qua, bà Nash đăng chuyện bà Tuyền bị bắt lên Facebook và ông Semler tuyên bố họ cố gắng minh bạch trong vụ này. Bà Tuyền từng nhận tội đại hình ăn cắp ở Virginia năm 19 tuổi.

Trong cuộc phỏng vấn hôm 5 Tháng Sáu, Luật Sư Rhodes giải thích bản án dành cho bà Tuyền chủ yếu là “án treo” và bà được phép ra ngoài đi làm trong thời gian thụ án. Bà cũng nộp tiền bồi thường.

Theo bà Rhodes và người ủng hộ bà Tuyền, bà Tuyền ăn cắp tiền của chủ. Bà Rhodes nói, theo bà biết, bạn trai bà Tuyền lúc đó là chủ mưu vụ ăn cắp và gây áp lực cho bà.

Nhưng kể từ khi bà Tuyền ra trình diện ICE mỗi năm tới nay, không có “vấn đề” nào, ông Semler cho hay trong buổi họp hôm Thứ Tư. Bản “post” của #BringMelissaHome trên Facebook cho biết bà Tuyền không thanh minh gì cho hành vi của bà.

Không lâu sau khi gặp ông Dũng năm 2003, bà Tuyền bị ICE bắt giữ do vụ ăn cắp đó và bị giam sáu tháng, theo bà Rhodes và người ủng hộ bà Tuyền. Vì bà từng bị kết tội hình sự, ICE xin được lệnh trục xuất bà, nhưng thời đó, Việt Nam không nhận người bỏ nước ra đi trước năm 1995. Do đó, bà Tuyền được thả ra, với điều kiện mỗi năm phải trình diện ICE.

Bà Tuyền lập gia đình với ông Dũng. Họ có bốn đứa con. Họ mua nhà và sinh sống ở Hagerstown, theo ông Semler và bà Nash.

Ông Semler không phải luật sư di trú nhưng ông cho hay ông từng giải quyết hàng ngàn vụ án hình sự suốt sự nghiệp của ông.

“Ai cũng nói luật là luật” cho tới khi họ hoặc con cái họ gặp chuyện, ông Semler cho biết.

“Không phải chúng tôi thanh minh. Bà ấy đã ngồi tù,” ông Semler nói.

Khoảng 200 người họp bên ngoài tiệm Nail Palace and Spa của bà Tuyền ở Hagerstown, Maryland, hôm 4 Tháng Sáu để bày tỏ ủng hộ bà. (Hình: Facebook Bring Melissa home)

Ông Semler nói với báo The Herald-Mail rằng ông có xem hồ sơ vụ ăn cắp nghiêm trọng của bà Tuyền, vụ án mà bà nhận tội năm 2001. Ông cho hay ông không thấy câu chữ nào thông báo cho bà biết rằng nhận tội sẽ ảnh hưởng tới tình trạng di trú của bà.

Hiện nay ở Maryland, mỗi khi nhận tội, bị cáo được thông báo có thể tình trạng di trú của họ bị ảnh hưởng.

Ông Semler tuyên bố họ sẽ đấu tranh để bà Tuyền được xét xử đúng thủ tục.

Trường hợp bà Tuyền bị trục xuất có thể mất nhiều tháng mới giải quyết xong

Trường hợp của bà Tuyền có thể mất nhiều tháng, theo Luật Sư Rhodes. Một trong những kết quả có thể xảy ra là giữ nguyên hiện trạng, tức là bà Tuyền phải trình diện ICE mỗi năm.

Bà Tuyền không được nhập quốc tịch Mỹ do bị kết tội ăn cắp “nghiêm trọng,” bà Rhodes giải thích. Điều đó cũng khiến bà bị ICE theo dõi, mặc dù ICE chưa bắt giữ người nào bị kết tội như vậy.

Bà Rhodes cho hay bà đang theo đuổi nhiều con đường trong trường hợp bà Tuyền.

Ông Dũng cũng bắt đầu làm đơn xin thẻ xanh mới cho bà Tuyền vì họ là vợ chồng mà ông là công dân Mỹ, theo bà Rhodes. Con đường đó có thể sẽ không ngăn cản bà Tuyền nhập quốc tịch vì bà bị kết tội đã hơn 15 năm.

Luật Sư Rhodes cho hay bà lạc quan dè dặt, nhưng vụ này sẽ mất thời gian. (Th.Long) [qd]


 

Mỹ truy tố 2 người Việt Nam hối lộ Andrew Đỗ để được $12 triệu tiền COVID-19

Ba’o nguoi-Viet

June 6, 2025

SANTA ANA, California (NV) – Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ vừa chính thức truy tố hai người Việt Nam bị tố cáo hối lộ ông Andrew Đỗ, cựu giám sát viên Orange County, để có các hợp đồng trị giá khoảng $12 triệu tiền COVID-19, rồi lấy số tiền này làm một số việc cá nhân khác, trong đó có mua một số bất động sản.

Thông cáo báo chí của cơ quan nêu trên đưa ra hôm Thứ Sáu, 6 Tháng Sáu, cho biết hai người bị truy tố là ông Peter Phạm, 65 tuổi, cư dân Garden Grove, và là sáng lập viên tổ chức Viet America Society (VAS), và bà Nguyễn Thanh Hương, 61 tuổi, cư dân Santa Ana, và là tổng giám đốc tổ chức Hand to Hand Relief Organization (H2H).

Ông Peter Phạm, sáng lập viên Viet America Society, người đang tại đào và bị Bộ Tư Pháp Mỹ truy tố hối lộ cựu Giám Sát Viên Andrew Đỗ. (Hình: Cắt từ YouTube Supervisor Andrew Do)

Ông Peter Phạm hiện bị coi là tại đào.

Còn bà Hương sẽ trình diện tòa án liên bang ở Santa Ana vào ngày Thứ Hai, 9 Tháng Sáu, cùng ngày và cùng tòa nhà mà ông Andrew Đỗ sẽ bị tuyên án vì tội nhận hối lộ.

Ông Andrew Đỗ nhận tội hồi Tháng Mười, 2024, và Thứ Hai tới có thể bị tối đa năm năm tù.

Theo Bộ Tư Pháp, ông Peter Phạm bị truy tố một tội rửa tiền, một tội âm mưu rửa tiền, sáu tội rửa tiền bất hợp pháp, sáu tội giấu tiền để rửa tiền, và một tội hối lộ.

Bà Nguyễn Thanh Hương bị truy tố một tội âm mưu rửa tiền, một tội rửa tiền, và một tội giấu tiền để rửa tiền.

“Hai người này bị truy tố tội âm mưu hối lộ một chính trị gia tham nhũng để bỏ tiền vào túi riêng trong khi đất nước đang bị đại dịch COVID-19 hoành hành,” công tố viên Bill Essayli của Bộ Tư Pháp Mỹ nói. “Văn phòng tôi và các cơ quan công lực đối tác sẽ tiếp tục truy tố các cá nhân ăn cắp tiền trợ cấp của chính phủ dự định sử dụng giúp những người bị cơn đại dịch lớn nhất trong thế kỷ ảnh hưởng.”

Ông Peter Phạm (trái) và ông Andrew Đỗ. (Hình: Cắt từ YouTube Supervisor Andrew Do)

Ông Todd Spitzer, chánh biện lý Orange County, được trích lời nói: “Âm mưu này được thực hiện qua một loạt những dối trá, phản bội, và lòng tham không đáy. Truy tố của Bộ Tư Pháp hôm nay là một bước quan trọng để quy trách nhiệm – và trừng phạt – đối với những người sử dụng quỹ COVID-19 của Orange County như là máy rút tiền của cá nhân họ – và lấy lại số tiền này cho những người đáng lẽ được hưởng – đó là cộng đồng, nơi mà số tiền này được cung cấp ban đầu.”

Theo hồ sơ truy tố, ông Peter Phạm là bạn và cộng sự của ông Andrew Đỗ, 62 tuổi, cư dân Santa Ana, người từng làm giám sát viên Orange County từ năm 2015 đến khi từ chức vào Tháng Mười, 2024. Trong vai trò giám sát viên, ông Andrew Đỗ là một trong năm thành viên Hội Đồng Giám Sát Orange County quản trị một ngân sách hơn $9 tỷ.

Từ Tháng Sáu, 2020 đến Tháng Mười, 2024, ông Andrew Đỗ sử dụng lá phiếu của mình trong Hội Đồng Giám Sát để có hàng triệu đô la tiền được chia cho Địa Hạt 1 mà ông đại diện và được tùy tiện quyết định. Tuy nhiên, ông “rót” số tiền này cho ông Peter Phạm và bà Nguyễn Thanh Hương, theo hồ sơ truy tố.

Ví dụ, vào Tháng Sáu, 2020, ông Andrew Đỗ bỏ phiếu chuẩn thuận một ngân sách, trong đó có $5 triệu tiền COVID-19 sử dụng cho chương trình cung cấp thức ăn cho người cao niên và người nghèo. Ông Andrew Đỗ trích ra $1 triệu cho chương trình cung cấp thức ăn trong Địa Hạt 1. Tám ngày sau cuộc bỏ phiếu đó, ông Peter Phạm sáng lập VAS, có văn phòng ở Huntington Beach.

Một cơ sở của tổ chức Hand to Hand Relief Organization ở vùng Little Saigon. (Hình minh họa: Facebook Hand to Hand Relief Organization)

Ông Peter Phạm, qua VAS, và bà Hương, qua H2H, có văn phòng ở Garden Grove, ký nhiều hợp đồng với Orange County. Trong các hợp đồng này, VAS và H2H nói dối rằng họ sẽ trả các khoản tiền còn lại cho quận hạt nếu không chi tiêu đúng theo hợp đồng. Trong mỗi hợp đồng, VAS và H2H đều nói dối rằng tất cả tiền sẽ được chi đúng mục đích.

Đề bù cho sự hối lộ của ông Peter Phạm, qua hình thức đưa tiền cho hai cô con gái của mình là Ilene Đỗ và Rhiannon Đỗ, ông Andrew Đỗ vận dụng chức vụ giám sát viên của mình “bơm” VAS và H2H lên, để nhân viên quận hạt chuẩn thuận các hợp đồng với hai tổ chức này.

Ông Andrew Đỗ và nhân viên của ông – bao gồm cả chánh văn phòng của ông – điều chỉnh các điều khoản trong hợp đồng để có lợi cho ông Peter Phạm và bà Nguyễn Thanh Hương. Nhờ ảnh hưởng của ông Andrew Đỗ và nhân viên của ông, mà quận hạt chuyển tiền cho ông Peter Phạm và bà Nguyễn Thanh Hương.

Sau khi có số tiền do quận hạt đưa, ông Peter Phạm và bà Nguyễn Thanh Hương chuyển gần như toàn bộ vào các công ty mà họ kiểm soát. Sau đó, họ dùng tiền này trả các chi phí cá nhân như tiền nhà, tiền nợ của các doanh nghiệp khác của họ, và đầu tư, bằng cách mua bất động sản. Hai người này sử dụng tiền của quận hạt hối lộ ông Andrew Đỗ bằng cách chuyển qua hai cô con gái.

Cô Rhiannon Đỗ (bìa trái) và cô Ilene Đỗ (bìa phải) hai người con gái “nhận tiền hối lộ” giùm ông Andrew Đỗ (thứ hai từ phải). Người còn lại trong hình là Chánh Án Cheri Phạm, vợ ông Andrew Đỗ. (Hình: Facebook Supervisor Andrew Do)

Ông Peter Phạm còn chi một cách trá hình cho người vợ tương lai của chánh văn phòng của ông Andrew Đỗ bằng cách trả tiền tư vấn cho VAS.

Khi bị yêu cầu nộp các hóa đơn cho quận hạt, để biết số tiền đã được chi tiêu như thế nào, ông Peter Phạm và bà Nguyễn Thanh Hương nộp hóa đơn giả mạo, nói rằng đã chi tiêu hết số tiền đúng theo quy định của hợp đồng.

Để che giấu nguồn tiền này, ông Peter Phạm và một cộng sự nói quận hạt viết chi phiếu cho công ty tên là D Air Conditioning Co. LLC ở Westminster. Sau đó, công ty này viết chi phiếu cho ông Peter Phạm, cộng sự của ông Peter Phạm, và một trong hai cô con gái của ông Andrew Đỗ.

Tổng cộng, ông Peter Phạm và bà Nguyễn Thanh Hương thu gom một cách bất hợp pháp khoảng $12 triệu tiền của Orange County qua âm mưu này.

Hồ sơ truy tố bao gồm các tố cáo một bị cáo phạm tội hình sự.

Theo Bộ Tư Pháp, cho tới nay, tất cả bị cáo đều bị coi là vô tội cho tới khi được chứng minh có tội mà không có một hoài nghi nào.

Nếu bị kết tội, hai người Việt Nam này có thể bị tù tối đa 20 năm trong nhà tù liên bang. Riêng ông Peter Phạm có thể bị 10 năm tù vì tội hối lộ. (Đ.D.)


 

Thủ tục hành chính của chúng ta thật là vi diệu.

Thang Hoang Nghia 

Bé gái tên Hồng 14 tuổi ở P. Nghĩa Chánh, TP Quảng Ngãi khi sinh ra giấy chứng sinh bị ghi nhầm là nam, khai sinh theo đó cũng tiếp tục là nam dù bản sao mười mấy năm trước phường đã ghi là nữ. Mãi đến ngày đi làm CCCD mới phát hiện nhầm lẫn tai hại này!

Đến phường, phường chỉ vào BV Đa Khoa QN sửa lại, BV bảo hơn 10 năm hồ sơ hủy rồi chẳng còn gì để làm căn cứ nhất quyết k làm! Mẹ con dắt díu nhau về phường, phường kêu lên Sở Tư pháp, Sở chỉ lại xuống phòng tư pháp TP QN!

Lòng vòng luẩn quẩn như thế rốt cuộc chẳng có nơi nào trả lại giới tính cho con. Thiếu nữ khai sinh nam nên con k thể nào làm CCCD được, mà k có CCCD thì vô vàn các quyền công dân khác chẳng có theo. Năm sau thi vào lớp 10 rồi lỡ có qua được tốt nghiêp PTTH hay làm đủ thứ giấy tờ nữa con sẽ làm sao? Con có thế nào thì họ cũng mặc, đẩy sang cơ quan khác hay viện đủ lý do là xong, kệ cho đứa bé chưa biết bao giờ được trả lại giới tính thật!

Bà Lê Hải Yến, phó trưởng phòng hành chính tư pháp và hỗ trợ pháp lý (Sở Tư pháp Quảng Ngãi), cho rằng “Nói thật, trường hợp của cháu Hồng, có gửi lên Cục Hộ tịch, Quốc tịch, Chứng thực cũng không giải quyết được. Vụ việc quá hy hữu, chưa từng có tiền lệ. Nhầm lẫn giới tính như cháu Hồng lần đầu tiên tôi tiếp nhận. Vụ này còn khó hơn nhầm lẫn họ tên, năm sinh, quê quán”.

Bí lối ra, thiếu tá Phương (phó công an phường) hỏi đồng nghiệp của mình ở nhiều nơi và tìm được phương án là vào Bệnh viện Nhi đồng 2 để xác định giới tính cho cháu Hồng. Ngày 31/7/2024, hai mẹ con bà Phương đùm túm vào TP.HCM. Sau khi làm việc với mẹ con bà Phượng, Bệnh viện Nhi đồng 2 từ chối thành lập hội đồng xác định giới tính! Bó tay!

Cái việc cỏn con mà cơ quan hành chính cả tỉnh xuống phường không xử lý được.

Fb Nguyễn Kim Chi


 

THẦY GIÁO GỌI TÔI LÀ ‘CON NGỤY’- BBC

BBC News Tiếng Việt

Tiếp tục với loạt bài Hòa giải – Hòa hợp của Tiến sĩ Nguyễn Phương Mai.

Trích:

Không có “tắm máu,” nhưng “người đàn ông duy nhất trong nhà phải đi cải tạo.” “Một lần má gom hết tiền ra Bắc thăm ba. Về Sài Gòn, má khóc rụng cả tóc. Ba bị cùm một chân. Nhưng ba nói nhiều người không muốn cai tù đổi sang chân kia. Họ hy vọng cái chân bị cùm sẽ dần dần teo lại, cùm sẽ đỡ đau hơn.”

“Cuộc sống bế tắc.” “Gia sản bị nhà nước lấy sạch. Đi học thì không được đi học, đi làm không được đi làm. Không biết sống bằng cái gì. Trí thức mà phải quét rác kiếm ăn.”

“Tôi sẽ không bao giờ quên hình ảnh anh trai mình đứng giữa sân, tay nắm chặt chai thuốc chuột, bên cạnh đống sách định đốt. Anh khóc gào tuyệt vọng vì không được vào đại học, dù điểm thi rất cao: ‘Má ơi, sống còn có ý nghĩa gì nếu họ không cho con một cơ hội?’ Có một lần ông hiệu phó gọi tôi vào mắng mỏ. Ông gọi tôi là ‘con ngụy’, rồi dùng điếu thuốc đang cháy dí vô bắp chân. Giờ vẫn còn sẹo. Rồi ông nhốt tôi vào một cái tủ tối và bỏ đi.”

#BBCTiengViet

#ChientranhVietNam

#Hoagiai_Hoahop


 

MỘT NGƯỜI KHUYẾT TẬT TRỞ THÀNH TỔNG THỐNG HÀN QUỐC

Nguyễn Xuân Diện

 Nguyễn Thị Bích Hậu:

Ông Lee Jae Myung, ứng viên của đảng DC tại Hàn quốc vừa thắng cử Tổng thống. Ông chính là người thua ông cựu TT vừa mất chức trong lần bỏ phiếu trước với tỷ lệ sít sao.

Ông Lee sinh năm 1963, vốn sinh ra trong một gia đình nghèo khổ. Cha ông chỉ là công nhân vệ sinh và mẹ làm nội trợ. Nhà ông có tới 7 anh em mà ông là con thứ 5. Thời thơ ấu và tuổi thanh niên của ông đầy nỗi buồn vì đói nghèo, và vì người cha cờ bạc, gia đình phải chuyển từ chỗ ở cũ đi nơi khác mưu sinh. Với học lực trung bình, nhà nghèo, lên trung học, Lee phải bỏ học đi làm với mức lương chết đói chỉ vẹn vẻn 0,15 usd ngày. Trong thời gian này, ông 2 lần bị tai nạn lao động khiến bị thương ở ngón tay và khớp cổ tay, do đó ông trở thành người khuyết tật dạng nhẹ.

Trong lúc làm việc nhọc nhằn, ông Lee thấy rằng phải học thì mới có thể đổi đời. Vì vậy ông vừa làm vừa học. Năm 1978, ông mới thi đậu bằng PTCS. Tới 1981, ông học xong PTTH, có bằng TN và thi đậu đại học. Ông học Luật và trở thành một luật sư dân quyền.

Năm 2005, ông bắt đầu tham gia chính trị, sau nhiều chức vụ, tới 2010, ông trúng cử thị trường tp Seongnam, nơi gia đình ông sinh sống. 8 năm sau, ông trở thành Thống đốc tỉnh Gyeonggi- tỉnh này bao gồm phần lớn Khu vực thủ đô Seoul và có dân số hơn 13 triệu người, trong cuộc bầu cử địa phương năm 2018. Ông làm nghị viên QH Hàn từ 2022 và lãnh đạo đảng DC của Hàn.

Trong cuộc đời của Lee, ông phải chịu nhiều tang tóc. Cha của ông, người trước đây làm công nhân vệ sinh cho Chợ Sangwon ở Seongnam, đã mất năm 1986 ở tuổi 55. Người anh cả Jae-yong qua đời vào tháng 11 năm 2017 vì ung thư, và người em trai thứ sáu Jae-ok qua đời vào tháng 8 năm 2014. Người anh cả này trước đó từng bị tai nạn lao động khiến anh mất một chân khi đang làm công nhân xây dựng. Người em trai thứ sáu, Jae-ok, là công nhân vệ sinh ở thành phố Anyang, đã qua đời vì làm việc quá sức khi đang vệ sinh vào sáng sớm năm 2014.

Bản thân ông Lee cũng từng thoát khỏi ám sát vì một kẻ lạ mặt tấn công vào năm 2024.

Tuy nhiên vượt qua tất cả, ông đã dẫn đầu phong trào chống lại Thiết quân luật năm 2024 của TT đương nhiệm khi đó và là 1 tiếng nói có tính quốc tế. Sau rất nhiều kiên trì, ông đã thắng cử TT Hàn với 48,83% số phiếu bầu, vượt qua đối thủ Kim Moon Soo của Đảng Quyền lực nhân dân (PPP), người chỉ đạt 42,03%.

Vợ ông, bà Kim Hye-kyung là một pianist tốt nghiệp Đại học Nữ sinh Sookmyung. Họ gặp nhau khi ông là luật sư còn bà chuẩn bị du học Áo. Tình yêu sét đánh khiến ông chỉ sau khi gặp bà 4 ngày đã cầu hôn và được chấp thuận. Thay vì một chiếc nhẫn kim cương, ông đã cầu hôn bằng cách trao cho bà một cuốn nhật ký mà ông đã viết từ năm 13 tuổi.

Họ có hai con trai là Dong-ho (sinh năm 1992) và Yun Ho (sinh năm 1993). Gia đình họ có rất nhiều sách và cha mẹ thường thảo luận với các con về sách và các vấn đề xã hội. Cả hai người con trai của ông bà đều rất giỏi. Họ đã tốt nghiệp Đại học Hàn Quốc là đại học hàng đầu của xứ họ sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự, và người con trai cả Dong-ho được cho là đang có kế hoạch kết hôn vào tháng này.

Vợ ông là người trầm lặng, bà thích làm các việc từ thiện. Họ là một gia đình hạnh phúc.

Ông Lee nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của công chúng, theo Korea Times, đặc biệt là trong số những cử tri trẻ tuổi và tầng lớp lao động, những người đồng cảm với xuất thân và chương trình cải cách của ông. Sự trỗi dậy của ông gây được tiếng vang với những người dân Hàn Quốc bình thường, những người coi ông là biểu tượng của sự kiên cường và hy vọng.

**********************

Hình ông TT đắc nhiệm cùng phu nhân; hình ông bà và con trai cả khi còn nhỏ; hình bà bên cạnh một nữ tu, hình ông chụp với những người dân ủng hộ ông; hình ông TT khi còn là thiếu niên đang đi làm kiếm tiền nuôi thân và phụ giúp cha mẹ; hình ông bà và mẹ của ông khi trở lại thăm nhà máy nơi ông từng đi làm khi còn trẻ vào năm 2017, khi ông tranh cử TT lần đầu. Nguồn trên các báo Hàn quốc và các hãng tin lớn trên thế giới.


 

Trump, Musk công khai chỉ trích nhau vì ‘dự luật lớn, đẹp’

Ba’o Nguoi- Viet

June 5, 2025

WASHINGTON, DC (NV) – Mối quan hệ đang ngấm ngầm căng thẳng giữa Tổng Thống Donald Trump với tỷ phú Elon Musk bùng nổ công khai hôm Thứ Năm, 5 Tháng Sáu, khi ông Trump cực lực chỉ trích vụ ông Musk công kích dự luật thuế và chi tiêu của đảng Cộng Hòa, còn ông Musk tuyên bố nếu ông không giúp đỡ thì ông Trump thất cử, theo NBC News.

“Tôi rất thất vọng vì Elon biết những vấn đề bên trong dự luật này,” ông Trump nói với phóng viên trong Oval Office tại Tòa Bạch Ốc khi đón tiếp ông Friedrich Merz, thủ tướng Đức. “Tôi rất thất vọng với Elon. Tôi giúp Elon rất nhiều.”

Ông Elon Musk đứng nghe trong lúc Tổng Thống Donald Trump phát biểu trước báo giới trong Oval Office tại Tòa Bạch Ốc ở Washington, DC, hôm 30 Tháng Năm. (Hình: Kevin Dietsch/Getty Images)

Hôm Thứ Ba, ông Musk, đồng minh thân cận của Tổng Thống Trump, tuyên bố ông “chịu hết nổi” và chỉ trích Đạo Luật Dự Luật Lớn, Đẹp là “đáng ghê tởm.”

Hôm Thứ Năm, Tổng Thống Trump cho rằng ông Musk, tổng giám đốc hãng xe hơi điện Tesla, bực bội vì dự luật này loại bỏ chương trình ưu đãi thuế khuyến khích người Mỹ mua xe hơi điện.

“Elon bực bội vì chúng tôi bỏ chương trình hỗ trợ xe hơi điện, vốn tốn rất nhiều tiền cho xe hơi điện, mà họ đang gặp khó khăn với xe hơi điện và họ muốn chúng tôi trợ cấp hàng tỷ đô la,” ông Trump cho hay. “Elon biết chuyện này ngay từ đầu.”

Tesla là hãng xe hơi điện lớn nhất nước Mỹ. Mấy tháng gần đây, doanh số Tesla giảm, phản ảnh mức độ cạnh tranh ngày càng tăng trên thế giới cũng như tình trạng bất lợi mà công ty này gặp phải do hoạt động chính trị của ông Musk.

Kể từ khi chính thức thôi làm việc cho chính quyền Tổng Thống Trump tuần trước tới nay, ông Musk cho biết ông trở lại làm việc “24/7” cho công ty của ông, gồm Tesla và SpaceX. Tuy nhiên, giá cổ phần Tesla tụt giảm khi ông gia tăng công kích dự luật mà ông Trump hậu thuẫn và đang thúc giục Thượng Viện thông qua. Từ đầu năm 2025 tới nay, giá cổ phần Tesla giảm hơn 20%.

Lời chỉ trích của Tổng Thống Trump Hôm Thứ Năm là nặng nhất từ trước tới nay đối với ông Musk, người từng là nhà tài trợ vận động tranh cử hàng đầu và một trong những cố vấn thân cận nhất của ông Trump và được ông Trump giao phụ trách Cơ Quan Cải Tổ Chính Phủ (DOGE). Ông Musk cũng từng tự xưng là “đệ nhất bạn hữu” của ông Trump.

Tuy nhiên, Thứ Sáu tuần trước, ông Musk chia tay chính quyền Tổng Thống Trump một cách không mấy thân hữu.

“Thực tình, tôi thất vọng với dự luật thuế lớn này vì nó làm tăng thâm thủng ngân sách, chứ không giảm, và nó phá hoại công việc đội ngũ DOGE đang làm,” ông Musk nói trong cuộc phỏng vấn với CBS News vào những ngày cuối cùng ông còn lãnh đạo DOGE.

Phản ứng với lời chỉ trích của Tổng Thống Trump hôm Thứ Năm, ban đầu, ông Musk tỏ ra không quan tâm, nói, “sao cũng được,” nhưng không lâu sau, ông tuyên bố nếu không có ông giúp đỡ, ông Trump thất bại trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2024.

“Nếu không có tôi, ông Trump sẽ thất cử, đảng Dân Chủ sẽ kiểm soát Hạ Viện và đảng Cộng Hòa chỉ được thế đa số 51-49 ở Thượng Viện,” ông Musk cho hay.

Ông Musk từng chi hơn $250 triệu giúp ông Trump tranh cử tổng thống năm ngoái. Tháng trước, ông Musk tuyên bố sẽ “giảm rất nhiều” chi tiêu cho chính trị trong tương lai. “Tôi nghĩ tôi làm đủ rồi,” ông nói với báo Bloomberg.

Việc ông Musk phản đối dự luật thuế và chi tiêu của Hạ Viện dường như cũng làm xấu đi mối quan hệ giữa ông với Dân Biểu Mike Johnson (Cộng Hòa-Louisiana), chủ tịch Hạ Viện. Hôm Thứ Tư, ông Johnson cho biết ông Musk quay “180” đối với dự luật này và không nghe điện thoại khi ông gọi. Sáng Thứ Năm, ông Johnson nói với phóng viên ở Quốc Hội rằng ông dự định gọi lại cho ông Musk trong ngày.

“Đạo Luật Dự Luật Lớn Đẹp,” đặt theo tên mà Tổng Thống Trump gọi dự luật này, được Hạ Viện thông qua bằng tỉ số phiếu sát sao 215-214 hôm 22 Tháng Năm, và hiện vẫn cần Thượng Viện chuẩn thuận. Dự luật này sẽ gia hạn chính sách giảm thuế của ông Trump được thông qua năm 2017 nhưng sắp hết hạn, và sẽ chi thêm tiền mở rộng quân đội, tăng cường an ninh biên giới và thực hiện kế hoạch trục xuất hàng loạt của ông. Dự luật này cũng sẽ thực hiện hai lời hứa của ông Trump lúc vận động tranh cử: Không đánh thuế “tiền tip” và tiền làm thêm ngoài giờ.

Dự luật này sẽ cắt giảm chi tiêu ở nhiều lĩnh vực khác, bao gồm cắt giảm hàng trăm tỷ đô la cho Medicaid, chương trình trợ cấp bảo hiểm y tế chủ yếu cho người nghèo, và Supplemental Nutrition Assistance Program (SNAP), thường gọi là “food stamp” (phiếu trợ cấp mua thực phẩm).

Dự luật này sẽ hủy bỏ một loạt chương trình ưu đãi thuế cho cá nhân hoặc doanh nghiệp sử dụng năng lượng sạch được phía Dân Chủ thông qua năm 2022.

Đáng chú ý, tới năm 2034, dự luật này sẽ làm ngân sách chính phủ Mỹ thâm thủng thêm $2,400 tỷ, theo Văn Phòng Ngân Sách Quốc Hội. (Th.Long)


 

3 công an phường ở Hà Nội chở thanh niên ‘hút cỏ’ đi rút tiền ‘lót tay’

Ba’o Nguoi-Viet

June 5, 2025

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Ba cán bộ Công An Phường Điện Biên, quận Ba Đình, Hà Nội, sắp sửa hầu tòa với cáo buộc chở một thanh niên tàng trữ cần sa đến ngân hàng để nh này rút tiền “lót tay” để được tha tội.

Theo báo Dân Việt hôm 5 Tháng Sáu, ba bị can Chu Hải Nam (32 tuổi), Ngô Việt Đức (36 tuổi) và Trần Văn Công (36 tuổi) là cán bộ Tổ Cảnh Sát Hình Sự, Công An Phường Điện Biên.

Công An Phường Điện Biên, quận Ba Đình, Hà Nội, lập chốt kiểm tra nồng độ cồn trên đường. (Hình: Doanh Nghiệp và Tiếp Thị)

Cáo trạng vụ án cho hay, hồi giữa Tháng Mười hai năm ngoái, trong lúc đi tuần tra tại công viên Lenin, bị can Nam phát giác một thanh niên được nêu tên tắt là anh Minh (26 tuổi) có hành vi tàng trữ chất ma túy, nên gọi điện báo cho Đức.

Vừa đến hiện trường, bị can Đức hỏi Minh: “Em vừa hút gì đấy?” và được trả lời: “Em vừa ‘hút cỏ’ [cần sa]”.

Bị can Đức kiểm tra hành chính và phát giác trên người Minh có hộp đựng 0.68 gram cần sa.

Hai công an viên đưa Minh về đồn nhưng anh này xin “bỏ qua,” đề nghị hai công an viên chở đến ngân hàng rút 60 triệu đồng ($2,301) để “cảm ơn.”

Bị can Nam gọi điện cho bị can Công đến chở anh Minh đi rút tiền.

Bị can Công chở anh Minh trên xe gắn máy còn Nam chạy xe chở Đức đi theo “áp giải.”

Tại một phòng giao dịch ngân hàng ở phố Cát Linh, quận Đống Đa, Hà Nội, bị can Công đưa anh Minh vào rút tiền tại trụ ATM, còn Nam và Đức đứng chờ.

Thời điểm đó, anh Minh chỉ rút được 50 triệu đồng ($1,917) thì hết hạn mức. Bị can Công bèn chở Minh ra một ngân hàng khác để rút thêm tiền tại quầy.

Khi vào bên trong phòng giao dịch, anh Minh giả bộ nói mình đi vệ sinh, gọi điện tố giác sự việc cho Công An Quận Đống Đa.

Tang vật trong một vụ bắt nghi can tàng trữ cần sa. (Hình minh họa: Thanh Niên)

Trong lúc hai bị can Nam và Công định đưa anh Minh ra ngoài đường thì Công An Quận Đống Đa xuất hiện, đưa tất cả về đồn.

Hiện chưa rõ thời điểm phiên tòa xử ba công an viên diễn ra.

Bản tin của báo Dân Việt dẫn bình luận của ông Đặng Văn Cường, tiến sĩ luật: “Cơ quan tiến hành tố tụng cho rằng các bị can là những người có chức vụ quyền hạn, đã lợi dụng tình thế bị hại vi phạm pháp luật để gây áp lực, ép buộc người này phải đưa tiền. Các bị can bị xử lý về tội ‘lạm dụng chức vụ quyền hạn, chiếm đoạt tài sản.’”

Theo ông Cường, với hành vi “xâm phạm đến tính đúng đắn của hoạt động công vụ” và “làm giảm sút niềm tin của người dân đối với chính quyền,” ba công an viên đối mặt với bản án từ một đến sáu năm tù. (N.H.K)


 

Bạn có biết?:Khi cần vận chuyển một con voi bằng máy bay

Khi cần vận chuyển một con voi bằng máy bay – chẳng hạn từ Ấn Độ sang Hoa Kỳ – người ta đặt vào lồng cùng với nó… những chú gà con!

 Vâng, những chú gà con bé xíu, đáng yêu! Tại sao ư? Bởi vì, dù mang thân hình to lớn khổng lồ, voi lại rất sợ làm tổn thương những sinh vật bé nhỏ. Nó không dám cử động suốt chuyến bay ✈️, vì sợ đè trúng những chú gà con. Và chính điều đó giúp giữ sự cân bằng cho máy bay. Đó là một minh chứng đầu tiên về sự cao quý trong tâm hồn của loài voi ❤️. Các nhà khoa học, say mê trước hành vi của voi, đã tiến hành nghiên cứu và phân tích não bộ của chúng. Họ phát hiện rằng não voi chứa một loại tế bào thần kinh cực kỳ hiếm – gọi là tế bào hình thoi . Đây cũng chính là loại tế bào có ở con người, và chúng chịu trách nhiệm cho ý thức về bản thân, sự đồng cảm và nhận thức xã hội . Nói cách khác… voi không chỉ lớn về thân xác, mà còn vĩ đại về cảm xúc và phẩm cách . 

  Leonardo da Vinci – thiên tài đam mê động vật – từng nói về loài voi: “Con voi có sự ngay thẳng, khôn ngoan và tiết độ trong bản tính của nó.” ‍ 

 Ông còn mô tả rất đẹp về chúng: – Khi xuống sông tắm, voi bước đi đầy trang nghiêm, như thể đang thanh tẩy bản thân khỏi mọi điều xấu xa . – Nếu thấy con người bị lạc, nó sẽ nhẹ nhàng đưa họ trở lại đúng đường . – Voi luôn di chuyển theo đàn, có trật tự, được dẫn dắt bởi một con đầu đàn . – Voi sống kín đáo… chỉ giao phối vào ban đêm, ở nơi riêng tư, sau đó lại tắm rửa trước khi quay về với đàn . – Nếu trên đường gặp đàn thú khác, voi sẽ dùng vòi nhẹ nhàng đẩy chúng sang bên để tránh gây tổn thương . ♥️ Và điều xúc động nhất… Khi biết mình sắp chết, con voi lặng lẽ rời khỏi đàn, đi một mình đến nơi xa để lìa đời… Tại sao? Vì nó không muốn bất kỳ ai – nhất là những con non – nhìn thấy mình chết và mang nỗi buồn ấy trong tim.

  Thật là một loài sinh vật mang trong mình phẩm giá, lòng từ bi, và sự cao thượng… Những phẩm chất mà đôi khi… loài người cũng không có được.

From: Phi Phuong Nguyen