Sự thật chuyện Lê Văn Tám-Tác Giả: Trần Gia Phụng

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Trần Gia Phụng

24/10/2024

Sử sách cộng sản Việt Nam, kể cả sử sách giáo khoa học đường xã hội chủ nghĩa, đều viết và ca tụng thiếu niên Lê Văn Tám, 13 tuổi là một chiến sĩ anh hùng, đã tấn công kho đạn của trại quân người Pháp tại Thị Nghè, Sài Gòn vào đêm 17-10-1945. Chuyện được nhiều tác giả cộng sản kể đi kể lại nhiều lần, thêm thắt tùy hứng, thành nhiều dị bản khác nhau. Có chỗ viết là kho xăng, có chỗ viết là kho đạn. Nội dung cũng được vẽ rắn, thêm rồng rất hấp dẫn.

Lúc đầu, các tác giả cộng sản viết Lê Văn Tám tự tẩm xăng vào người, tự thiêu làm đuốc sống, rồi chạy vào kho xăng làm cháy kho nầy. Chuyện một em bé 13 tuổi tự thiêu mà còn chạy được để đốt kho xăng, mà không bị phát hiện, bị phê bình là không thực tế, không thể xảy ra, nên cộng sản lại đổi cách viết.

Lần nầy, cộng sản cho Lê Văn Tám đem xăng vào tưới lên kho đạn, rồi mới đốt. Chuyện như thế xem ra cũng phi lý, vì làm sao Lê Văn Tám qua mặt được lính gác Pháp, mà đem xăng vào kho đạn để đốt. Dù sửa đổi nhiều lần, câu chuyện cũng không hợp lý và khó tin.

Vào cuối tháng 2-2005 tại Hà Nội, trong cuộc họp của Hãng Phim Truyền Hình Việt Nam để hãng phim thông báo chương trình sản xuất 100 tập phim hoạt hình, nội dung lịch sử Việt Nam, giáo sư Phan Huy Lê, chủ tịch Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam của nhà nước cộng sản, đã tiết lộ rằng:

“… Nhân vật lịch sử anh hùng Lê Văn Tám” hoàn toàn không có thật. Tôi còn một món nợ với anh Trần Huy Liêu mà đến nay chưa trả được. Đó là lúc anh Liệu làm bộ trưởng bộ tuyên truyền, anh Trần Huy Liệu tự viết về nhân vật Lê Văn Tám, một thiếu nhi tự tẩm xăng vào người và chạy vào đốt kho xăng giặc Pháp ở Thị Nghè… Lúc sáng tác câu chuyện Lê Văn Tám, anh Liệu có nói với tôi rằng: “Bây giờ vì nhiệm vụ tuyên truyến nên tôi viết tài liệu nầy, sau nầy, khi đất nước yên ổn, các anh là nhà sử học, các anh nên nói giúp tôi, lỡ khi đó tôi không còn nữa…”

Được tin trên, nhật báo Người Việt ở California, điện thoại về Việt Nam, phỏng vấn giáo sư Phan Huy Lê ngày 18-3-2005. Giáo sư Phan Huy Lê xác nhận với báo Người Việt là ông đã công bố sự thật về nhân vật Lê Văn Tám trong cuộc họp cuối tháng 2 vừa qua.

Lê Văn Tám "còn sống" - Dân Làm Báo

Nhật báo Người Việt California, số ngày chủ nhật 20-3-2005 ghi lại như sau:

“Ông [Phan Huy Lê] cho biết: “Lúc ấy, ông Trần Huy Liệu đang là Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam. Ông nói câu chuyện nầy với tôi rất nhiều lần vào những năm của thập kỷ 1960, vài năm trước khi ông Liệu mất. Không chỉ nói với mình tôi, ông Liệu còn nói cả với những đồng nghiệp của tôi là hai nhà sử học Nguyễn Đình Thanh và Nguyễn Công Bình, hiện nay cả hai người nầy vẫn còn sống…”

Sau khi nhật báo Người Việt California đăng tin trên, giáo sư Phan Huy Lê và hai nhà sử học đồng nghiệp của giáo sư Lê được bài báo nhắc đến là các ông Nguyễn Đình Thanh và Nguyễn Công Bình, đều hoàn toàn im lặng, không cải chính, nghĩa là các ông mặc nhiên xác nhận những điều báo Người Việt đăng là đúng như lời giáo sư Lê phát biểu, nghĩa là chuyện thiếu niên anh hùng Lê Văn Tám “hoàn toàn không có thật”.

Thế mà hiện nay, cộng sản Việt Nam vẫn còn ca tụng “đuốc sống” Lê Văn Tám, và quan trọng nhứt là đưa chuyện Lê Văn Tám vào sách giáo khoa, giảng dạy cho học sinh trong trường học, dùng tên Lê Văn Tám đặt tên trường học, tên đường, tên công viên … Sài Gòn có công viên Lê Văn Tám trên đường Hai Bà Trung, quận I, đoạn giữa đường Hai Bà Trưng và Yên Đỗ (cũ). Dưới đây là hình ảnh ở các nơi khác trên Internet.

Bịa chuyện láo để phỉnh gạt dư luận. Dạy chuyện láo cho học sinh nhằm phục vụ chính trị, phục vụ chế độ và phục vụ đảng cộng sản, đúng là đường lối và mục tiêu của nền giáo dục Hồ Chí Minh.

Điều đáng nói là nhà nước cộng sản, đảng cộng sản, nhà trường xã hội chủ nghĩa trắng trợn dạy chuyện láo, huấn luyện thanh thiếu niên thành những con người có thói quen nói láo chuyên nghiệp, thì kết quả là đất nước nầy sẽ đi về đâu?

TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto – CANADA)


 

Bắt giữ người mẹ ở Sài Gòn bạo hành con gái đến chết

Ba’o Nguoi-Viet

October 23, 2024

SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Chiều tối 22 Tháng Mười, Cơ Quan Cảnh Sát Điều Tra Công An Quận 4, Sài Gòn, đã bắt giữ nghi can Trần Thị Kim Giàu, 33 tuổi, ở phường 9, quận 4, để điều tra về tội “hành hạ con.”

Báo Tiền Phong dẫn điều tra ban đầu cho biết khoảng 5 giờ sáng 13 Tháng Mười, bà Giàu đến Công An Phường 9, quận 4, trình báo con gái bà là cháu HTA, 5 tuổi, quê huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre, đã chết khi đưa đi cấp cứu tại bệnh viện Đa Khoa Quận 4 lúc rạng sáng cùng ngày.

Thông tin về sự việc được lan truyền trên mạng xã hội. (Hình: Chụp từ màn hình)

Nhận được tin, Công An Quận 4 đã đến khám nghiệm hiện trường, ghi lời khai của những người liên quan, đồng thời yêu cầu Trung Tâm Pháp Y ở Sài Gòn giám định tử thi để xác định nguyên nhân cái chết.

Qua khai báo, bà Giàu cho biết khuya cùng ngày, bà đang ngủ với con gái lớn là TNKH, 7 tuổi, thì cháu H. nói đói bụng nên bà xuống dưới nhà để lấy sữa cho H. uống. Khi đi ra cầu thang thì bà thấy con gái TA đang nằm ở bậc chờ cầu thang.

Bà Giàu lay gọi nhưng không thấy con trả lời. Sờ vào người thì thấy chân tay cháu TA. lạnh nên ẵm xuống tầng trệt, lấy dầu xoa và nhờ người đưa cháu đi cấp cứu.

Tuy nhiên, sau khi đến bệnh viện cấp cứu thì bác sĩ thông báo cháu TA. đã mất.

Kết quả giảo nghiệm tử thi cho thấy cháu HTA “sặc đường thở, trên người có nhiều vết bầm tụ máu rải rác ở vùng trán, mặt và tứ chi.”

Sau chứng cứ không thể chối cải, bà Giàu thừa nhận thường xuyên dùng tay, muỗng múc canh, đũa gỗ… đánh vào các vùng mặt, chân, tay, hông, lưng và đổ nước nóng vào chân, đánh cháu TA. gây thương tích.

Khu vực cháu TA. (ảnh nhỏ) sinh sống cùng với mẹ ruột trước khi bị hành hạ đến chết. (Hình: H.T/Tiền Phong)

Trước đó, mạng xã hội “dậy sóng” khi danh khoản Facebook của người tên Huỳnh Trung Hiếu đăng tải bài viết cho thấy anh và vợ [Trần Thị Kim Giàu] ly hôn.

Khoảng một năm nay, con gái anh là cháu TA. sống cùng mẹ, dù nhiều lần muốn gặp con nhưng anh Hiếu không được gặp. Thời gian này, con gái anh bị mẹ đối xử tệ bạc, hành hạ cho đến lúc chết.

“Ba đâu biết một năm qua con phải sống trong một cuộc sống địa ngục, cô đơn, lạnh lẽo, con phải ngủ ngoài cầu thang, không ai cho ăn, đói thì quơ được cái gì ăn cái nấy…. Ba đâu có ngờ, đâu có biết, đâu có nghĩ trên đời này làm gì có một người mẹ ruột nào mà nỡ hành hạ con mình đến chết như vậy đâu con,” người cha đau xót viết. (Tr.N)


 

Nga và Iran có thể chực chờ gây bạo loạn sau kết quả bầu cử 2024

Ba’o Nguoi-Viet

October 23, 2024

WASHINGTON, DC (NV) – Nga và Iran có thể hợp lực kích động bạo lực hoặc biểu tình gây rối sau khi chấm dứt cuộc tổng tuyển cử tại Hoa Kỳ, các viên chức tình báo Hoa Kỳ cho biết.

Một bản đánh giá không niêm được công bố hôm Thứ Ba, 22 Tháng Mười, cho biết cộng đồng tình báo Hoa Kỳ “ngày càng tin tưởng rằng các thực thể Nga đang suy tính – và trong một số trường hợp còn đích thân thực hiện – hàng loạt các nỗ lực gây xáo trộn suốt thời gian diễn ra cuộc bầu cử. Vài hành động trong số đó nhằm khơi mào cho tình trạng bạo lực và làm người dân hoài nghi rằng liệu nền dân chủ Hoa Kỳ có minh bạch hay không, bất kể ai là người thắng cử đi chăng nữa.”

Hồ sơ tình báo cũng cho biết các viên chức tin rằng Iran cũng có thể châm ngòi cho bạo lực bằng các hoạt động đánh lạc huớng trên mạng xã hội. Văn Phòng Giám Đốc Tình Báo Quốc Gia ODNI, nơi điều phối phản ứng của các cơ quan tình báo nhằm kiểm soát các chiến dịch gây ảnh hưởng từ ngoại quốc, nhiều lần tuyên bố trong những tháng gần đây rằng Iran đang tìm cách làm dân Mỹ nghi kỵ lẫn nhau. Năm 2020, Hoa Kỳ tố cáo Iran tạo ra một trang mạng và một chiến dịch truyền thông xã hội, giả mạo làm những người Mỹ cánh hữu, kêu gọi sát hại nhiều nhân vật công chúng liên quan tới cuộc bầu cử năm đó.

Bầu cử là một phần quan trọng trong tiến trình dân chủ ở Hoa Kỳ (Hình minh họa: Element5 Digital/Pexels)

“Có thể Iran đang rắp tâm châm ngòi cho bạo lực như những gì họ từng làm sau cuộc bầu cử tổng thống 2020. Tháng Mười Hai 2020, Iran gần như không thể chạy đi đâu khỏi trong việc chịu trách nhiệm cho việc tạo ra một trang mạng có các lời dọa dẫm giết chết các viên chức bầu cử của Hoa Kỳ,” hồ sơ tình báo cho biết.

ODNI không ngừng cảnh cáo rằng ba cường địch của Hoa Kỳ liên tục tiến hành các hoạt động tuyên truyền chống lại dân Mỹ, mặc dù chưa rõ các hoạt động chia rẽ đó hiệu quả tới mức nào. Cả ba đều nhắm vào việc hạ thấp tiến trình dân chủ, mặc dù các quốc gia đó ưa thích các ứng cử viên tổng thống khác nhau: Nga ủng hộ cựu Tổng Thống Donald Trump thắng cử, Iran ủng hộ Phó Tổng Thống Kamala Harris và không rõ Trung Quốc ủng hộ ai.

Nhìn chung, Iran và Trung Quốc chối bỏ hành vi sai trái. RT, một hãng tin do Điện Kremlin dẫn đầu bị Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ trừng phạt và truy tố, từng đưa ra các tuyên bố mỉa mai thừa nhận rằng họ hoạt động như một cánh tay phải của chính phủ Nga. Phát ngôn viên đại sứ Iran tại Liên Hiệp Quốc, Tòa Đại Sứ Trung Quốc tại Washington và Bộ Ngoại Giao Nga không trả lời các yêu cầu bình luận.

Trong một bản ghi nhớ được giải mã và biên tập một đoạn ghi ngày 8 Tháng Mười, cũng được công bố hôm Thứ Ba, ODNI phát giác ra rằng cả ba quốc gia đều “chuẩn bị kỹ càng hơn trong việc tận dụng các thời cơ hội gây ảnh hưởng trong cuộc tổng tuyển cử Hoa Kỳ sau khi các địa điểm bỏ phiếu đóng cửa vào Ngày Bầu Cử do những bài học rút ra từ chu kỳ bầu cử 2020. Chúng tôi cho rằng ít nhất là những kẻ quấy rối này sẽ tiến hành các hoạt động truyền bá nhằm hạ thấp uy tín nền dân chủ Hoa Kỳ cho tới tận Ngày Nhậm Chức.”

“Theo đánh giá của chúng tôi, Iran đang muốn làm xã hội Hoa Kỳ xào xáo cho bằng được, xúi giục bạo lực và làm người dân mất lòng tin vào tiến trình dân chủ, bất kể người thắng cử là ai,” bản ghi nhớ cho biết thêm.

Trong một cuộc điện đàm cho giới truyền thông xem trước bản ghi nhớ, một viên chức tình báo nói với các phóng viên rằng Hoa Kỳ đặc biệt lo ngại về việc Nga quyết tâm khơi dậy tình trạng bạo lực trong các cuộc biểu tình tại Hoa Kỳ sau cuộc bầu cử.

“Các thực thể ngoại quốc có thể rình rập, chờ cho nội bộ Hoa Kỳ rối rắm thì liền tuồn tin tức gây chia rẽ hoặc kích động hoặc châm ngòi cho các cuộc biểu tình và đưa ra lời lẽ hù dọa giữa lúc Quốc Hội thực hiện các lần chứng nhận tại phiên họp chung vào ngày 6 Tháng Giêng,” viên chức tình báo ẩn danh nói.

“Chúng tôi ngày càng tin rằng Nga đang mưu toan cho rất nhiều hành động chia rẽ trên bình diện rộng, và bạo lực không phải là ngoại lệ,” viên chức tình báo cho biết, đặc biệt là nếu Harris đắc cử.

“Nhiều khả năng Nga sẽ hung hăng hơn trong bối cảnh hậu bầu cử khi Harris thành công. Như chúng tôi từng nói trong các tin tức cập nhật trước đây, Nga muốn Trump thắng cử và họ sẽ tìm cách phá hoại tổng thống chính thức đắc cử theo cách hung hăng hơn,” viên chức tình báo cho biết.

Viên chức này cũng cho biết Nga từng “nhào nặn và hô hào” những tuyên bố sai sự thật rằng người đồng hành tranh cử của Harris, Thống Đốc Minnesota Tim Walz, từng tham gia vào hoạt động bất chính trong khoảng thời gian đầu tiên của sự nghiệp. (TTHN)


 

50 năm nhìn lại những ngày mất Sài Gòn (II) – Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

22/10/2024

23 April 1975 – người tị nạn Việt Nam trên tàu SS Pioneer Contender trong giai đoạn kết thúc Chiến tranh Việt Nam; 50 năm trước, vào ngày 30 Tháng 4 năm 1975, miền Nam Việt Nam thất thủ. Nguồn: Bộ Quốc phòng Mỹ / AP

Tiếp theo phần I

Vậy mà tại Sài Gòn, tướng Tham mưu trưởng Frederick Weyand khi viếng thăm Việt Nam đã bảo đảm với các nhà lãnh đạo đương quyền ở Việt Nam là Tổng thống Ford vẫn ủng hộ mạnh mẽ chính phủ Nam Việt Nam. Chữ dùng là ‘strong support’ trong khi tình trạng miền Nam đang rơi vào sự tuyệt vọng.

Chúng tôi muốn Thiệu phải từ chức

Bản đồ VNCH ngày 21 tháng Ba, 1975. Nguồn: AP

“Ông ta đã bán miền Nam cho cộng sản. Thiệu đã không cho biết trước có cuộc rút quân này. Chúng tôi đã bốn lần thoát chết.” Một người phụ nữ khác đã nói như thế. Một vị sĩ quan cho biết trong ba ngày đầu, những nạn nhân bị cộng quân phục kích còn được chôn cất hẳn hoi, nhưng sau đó thì những người bị giết hoặc bị thương bị đẩy sang lề đường và cứ thế đôi khi xe cộ cán qua người họ. Khi mà đoàn người bị ứ đọng bởi xe cộ, kẹt cứng trên một đoạn đường dài hơn 10 dặm, bị pháo kích của cộng quân, bị mìn, bị xô đẩy, chen chúc đến không nhúc nhích được thì bùng phát ra các vụ cướp bóc, hôi của của những người lính.

Xe cộ, tủ lạnh, tivi, quạt máy, giường ngủ, dàn máy hát và đồ đạc tùy thân lúc này trở thành miếng mồi ngon cho sự cướp bóc? Anh hùng hay hèn nhát? Nào ai có thể nói được trong hoàn cảnh những người chạy loạn khốn khổ và cay đắng ấy?

Cầu cống chưa sửa kịp tạo ra sự dồn cục, tắc nghẽn như thể chui vào trong một cái rọ cho cộng quân đuổi theo, pháo kích.

Nó còn khốn khổ, tồi tệ hơn hoàn cảnh của liên quân Anh Pháp ở Dunkerque. Cái cảnh ấy không bao giờ có thể quên được. Và cứ thế các tỉnh Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột rơi vào tay cộng quân.

Miền Nam đã để mất vào tay cộng sản 11.000 dặm vuông và con số hơn một triệu dân.

Mặc dầu vậy, hàng ngàn xe cộ, xe gắn máy cũng đã tới được Tuy Hòa. Đến Tuy Hòa, phần lớn đàn bà, trẻ con như lạc mất thần. Họ lặng lẽ lau nước mắt.

Tổng thống Park Chung Hee của Nam Hàn

Trong khi đó, cũng theo tin AP, nơi xứ người, Tổng thống Park Chung Hee của Nam Hàn quyết tâm xiết chặt các thành phần đối lập. Trước đó đã có cuộc trưng cầu dân ý đưa đến kết quả dễ dàng one-man rule vào tháng hai vừa qua. Hoàn cảnh Việt Nam và Hàn Quốc có nhiều điểm giống nhau. Nhưng số phận hai nước lại rẽ theo những hướng khác nhau, một nước mỗi ngày một phát triển, một nước thì lận đận với chiến tranh và rồi mỗi ngày một thêm tụt hậu.

Câu hỏi thắc mắc của tôi là ta và Nam Hàn cùng một hoàn cảnh, vậy mà ông Thiệu không sang Đại Hàn một chuyến học hỏi người ta nhỉ?

Ngày Đà Nẵng mất cũng là ngày Lon Nol của Cao Mên chuồn mất.

Vào đúng ngày Đà Nẵng mất. Thủ tướng Lon Nol dẫn đầu một phái đoàn viếng thăm thiện chí Indonesia và Hoa Kỳ. Trước khi đến Indonesia, Lon Nol quá cảnh ở phi trường Thái Lan Utapao, nhưng bốn ngày sau, ông biến mất. Và kể từ ngày đó, ông không bao giờ quay trở vể nữa. Ông Lon Nol xem ra cũng quá khôn ngoan, giống lãnh đạo của ta không kém gì!

Việc ra đi của tướng Lon Nol cũng báo hiệu cho biết con bài tẩy của Kissinger cách đây hơn 4 năm cũng chấm dứt theo. Kissinger là người đầu tư vào lá bài Lon nol. Vậy mà sau đó Kissinger phủi tay.

Ngày 25 tháng Ba. Âm mưu ám sát Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu

Nguồn tin của hãng Reuters trích lại một bài báo đăng trên báo ở Nhật, tờ Mainichi cho hay Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vừa thoát một cách an lành vụ ám sát ông vào ngày chủ nhật vừa qua.

Trong ngày thứ hai, người ta cũng nghe được dư luận về vụ ám sát ông Thiệu là do âm mưu của một sĩ quan cao cấp tìm cách tấn công ông Thiệu. Nhưng các cận vệ của ông Thiệu đã phòng ngừa và ngăn cản được vụ tấn công. Và ngay lập tức, viên sĩ quan ấy bị bắt giữ.

Nguyên do của vụ mưu sát ông Thiệu liên quan đến việc ông quyết định cho rút khỏi Tây Nguyên vừa qua.

Có thể nói, trong thời gian này, ông Nguyễn Văn Thiệu là một người cô độc. Nhiều tin đồn đảo chánh đòi lật đổ. Ông Nguyễn Cao Kỳ được coi là mối nguy hiểm nhất, vốn là một địch thủ, tìm cách móc nối với tướng Lê Minh Đảo, tướng Cao Văn Viên để có thể có thêm vây cánh.

Nhưng kết quả là cả tướng Lê Minh Đảo cũng như Cao Văn Viên đều không muốn tham dự.

South Viet generals, Plots are all in vain

The Ottawa Journal, April 14, 1975, trang 13.

Phóng viên Mark Gayn có viết một bài diễn tả đủ cái tình trạng miền Nam lúc bấy giờ nhan đề: South Viet generals, Plots are all in vain.

Theo Mark Gayn, ít lắm cũng có hai nhóm tính lật đổ ông Nguyễn Văn Thiệu.

Thứ nhất, nhóm cựu tướng Dương Văn Minh mà dưới mắt người Mỹ được coi như hết thời. Ngoài thú chơi lan còn đánh Tennis mà người Mỹ đánh giá ông rất thấp. Một thứ Hamlet của chính trị Viêt Nam, tính tình không dứt khoát đi đến chỗ bất lực chẳng giải quyết được gì. Lúc nào cũng là thứ bung xung. Bề ngoài đóng vai trò trung lập. Chỉ không ngờ con bài tẩy ấy nay lại có chỗ để dùng như một con chiên tế thần mà người Mỹ gọi là a Bluff professionnal soldier, nửa mùa theo Tây. Ra vào nhà Dương Văn Minh, có một số đối lập, bất mãn với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu được Minh che chở như trường hợp cựu dân biểu đối lập Dương Văn Ba. Ông này ăn ở ngay trong dinh Hoa Lan và trốn lính. Cộng thêm vào đó là một vài tướng lãnh còn mong muốn Minh trở lại nắm chính quyền và có cơ may thương thảo hòa bình với cộng sản. Nhưng Minh là người rất ngại Nguyễn Văn Thiệu. Minh có mời Trần Thiện Khiêm lại nhà nói chuyện và thú nhận có liên lạc với phía Mặt trận. Minh cũng khoe là qua tướng Đôn vừa về từ Paris, có liên lạc với Jacques Chirac và Pháp đã công khai cho rằng Minh là người có thể có vai trò hòa giải. Đại sứ Pháp Jean-Marie Merrillon đã đến gặp Minh để tiếp xúc.

Người thứ hai là thủ tướng Trần Thiện Khiêm, một người khá nhất trong đám tướng lãnh, một tay chuyên nghiệp trong những âm mưu và khuynh đảo và cũng có thể là người có khả năng nhất để điều hành chính phủ. Vừa qua, nhân danh ông Thiệu, ông Khiêm là người thay đổi ba tướng quân đoàn, 20 đại tá và 200 cấp tá. Ông biết dùng người, ngay cả loại trừ người này, người kia, rồi cài đặt vào vị trí khác khiền ai cũng mắc một món nợ với ông. Tuy nhiên, tình hình quá khẩn trương và thay đổi gấp rút nên việc sắp đặt các chức vụ chỉ huy chưa đem lại kết quả gì khi cộng quân sắp sửa vào đến cửa ngõ trong nhà. Mọi cố gắng thay đổi đề trở nên vô ích. (Xem phần di tản của ông Thiệu để thấy Ông Thiệu và Khiêm là cặp bài trùng)

Lần đầu tiên, Đà Nẵng bị pháo kích. Ở phía Nam Đà Nẵng, Quảng Ngãi và Chu Lai thất thủ giúp cho cộng quân rảnh tay. Nói thất thủ là không đúng, cộng quân chưa tới nơi thì quân dân cán chính đã tự rút lui có chiến thuật, mạnh ai người nấy bỏ chạy.

Hết Quảng Ngãi, Chu Lai đến Nha Trang và cứ thế tháo chạy. Cảnh tượng đó bắt nguồn từ cuộc rút quân ngày 16 tháng 3 tại Pleiku, Kontum và như vết dầu loang. Chưa đánh đã bỏ chạy.

Thực sự sau trận tấn công dễ dàng vào Ban Mê Thuột ngày 10-3 mở đầu cho chiến dịch, cộng quân chưa hề có trận đụng độ chính thức nào với quân đội miền Nam Việt Nam.

Đó là nỗi nhục chung cho quân đội miền Nam.

Ngày 27 tháng ba. Mất Bình Định

Bản đồ VNCH ngày 27 tháng Ba, 1975. Nguồn: AP

Tỉnh Bình Định đã rơi vào tay cộng quân. Trong khi đó ở Sài Gòn, Tổng thống Thiệu đã ra lệnh bắt một số khoảng hơn 10 người được coi là có âm mưu lật đổ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Danh sách 10 người này là những ai hiện nay chưa được biết chính xác. Nguyên thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ họp báo phủ nhận ông không có dính dáng trong những âm mưu tính lật đổ này. Ông cũng kêu gọi thành lập một chính phủ mới ‘được dân chúng và quân đội tin tưởng’. Tuy nhiên ông nói với các thông tín viên báo chí là ông mong muốn có sự thay đổi bằng những phương tiện hòa bình.

Ngày 27 tháng 3. Quảng Trị mất

Người ta còn nhớ trước đây, cộng quân đã chiếm Quảng Trị vào năm 1972. Trận đánh kéo dài đến tám tháng. Và quân đội VNCH phải mất 2 tháng để chiếm lại Cổ Thành với trợ giúp của gần 5000 chuyến bay B-52 và và gần một triệu viên đạn pháo. Cuộc chiến đấu tái chiếm Quảng Trị là một quyết tâm của quân đội VNCH, đổ ra nhiều xương máu.

Trong cuộc tái chiếm của Quảng Trị, người ta cho là trận đánh kinh hoàng nhất. Số thương vong cả hai bên, nhất là phía cộng quân thiệt hại không đếm xuể. Xác người không kịp chôn. Họ đã vùi thây ở đây như một thứ mồ chôn tập thể mà Hà Nội đã đẩy họ vào. B-52 là hung thần của họ.

Vậy mà nay đến lượt quân đội miền Nam phải bỏ chạy.

Nay thì nhiều đoàn người dân chúng hốt hoảng bỏ chạy. Thừa Thiên có mật độ dân số là 750.000 ngàn người, trong đó thành phố Huế với 200.000. Huế với những cảnh sôi nổi, biểu tình xuống đường trước đây, nay Huế chỉ còn là cảnh vườn không nhà trống. Thông tín viên AP đã phải gọi Huế là vùng no-man’s land. Thành phố Huế vắng hoe. Người ra đi thì đã đi rồi. Người ở lại thì đành chấp nhận cho số phận buông xuôi. Người ta ước lượng con số hơn nửa triệu người đã bỏ chạy.

10 giờ đêm 28 tháng ba

Có lệnh bỏ Đà Nẵng. Tướng Truởng đã họp các sĩ quan tham mưu và thông báo cho họ tin triệt thoái khỏi Đà Nẵng. Triệt thoái như thế nào, phương cách làm sao? Từ tướng Trưởng trở xuống, không một ai có lòng dạ nào lo cho cuộc triệt thoái có trật tự, có lớp lang. Ai đi trước, ai đi sau ngăn chặn cộng sản. Kinh nghiệm triệt thoái Cao Nguyên đáng lẽ là một kinh nghiệm đắt giá.

Vậy mà bài học Tây nguyên đã không rút tỉa được kinh nghiệm gì cho cuộc triệt thoái này. Cuối cuối cùng đây là cuộc bỏ chạy thê thảm thứ hai sau Ban Mê Thuột.

Trách nhiệm này chắc hẳn tướng Trưởng phải chịu một phần!

Cách đây 2 tuần lễ, tại đường số 7, đó là một Dunkerque Việt Nam.

Ngày hôm nay, cuộc triệt thoái khỏi Đà Nẵng là một nỗi kinh hoàng mà trách nhiệm phần lớn nằm trong tay quân đội, tướng lãnh, sĩ quan cao cấp.

Ngày 29 tháng Ba. Đà Nẵng những ngày hấp hối. Miracle Flight from Hell

Đà Nẵng sau này trở thành tiêu biểu cho cuộc tháo chạy của quân đội và dân chúng miền Nam lánh nạn cộng sản. Một sự tháo chạy trong hoảng loạng, chà đạp, xô đẩy ngay cả giết chóc để kiếm một chỗ trên máy bay hay trên các tàu thủy.

Thảm cảnh ấy chỉ sau này ở hải ngoại Cao Xuân Huy mới viết “Tháng ba gẫy súng”. Đó là một địa ngục trần gian mà những chuyến bay rời khỏi Đà Nẵng những ngày cuối cùng được phóng viên Paul Vogle là nhân chứng diễn tả lại.

Câu chuyện về ông Edward Daly

Người tị nạn cộng sản, kể cả trẻ mồ côi Việt Nam đến Mỹ bằng phi cơ của World Airways. Nguồn:oaklandaviationmuseum.org

Cũng trong cái tinh thần hy sinh và trách nhiệm mà Edward Daly đã nhất quyết cho chiếc máy bay phản lực 727s cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất quay trở lại Đà Nẵng thêm 17 lần để cứu vớt những người tỵ nạn mặc sự ngăn cản và chấm dứt hợp đồng của tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn sau 3 chuyến di tản.

Tất cả chi phí chuyến bay cũng như trách nhiệm là do tự ý Daly quyết định với hy vọng vớt thêm người tỵ nạn. Ông là chủ công ty World Airways từ năm 1950.

Cái gương can đảm của Daly thật đáng để kể lại.

Phóng viên của hãng UPI, Paul Vogle là một trong những người đi chuyến bay chót từ Đà Nẵng vào Sài Gòn. Ông cho là một phép lạ chuyến bay có thể cất cánh và an toàn ra khỏi không phận Đà Nẵng vào ngày thứ bẩy. Nhiều người đã giành giật lên máy bay và sẵn sàng giết người khác để giành một chỗ trên chuyến bay.

Trang nhất tờ The Hour – Mar 21, 1975.

Ông Daly đã bắn một loạt đạn lên trời nhằm cảnh cáo. Nhưng xem ra tất cả đều vô hiệu. Theo Paul Vogle, những người lính VNCH đã xả hàng tràng đạn M16 để ngăn cản những người dân tỵ nạn đổ xô lên máy bay. Trong khi đó cộng quân tiếp tục pháo kích vào phi trường càng làm cho dân chúng hoảng sợ. Paul Vogle đã trông thấy một người lính của quân đội miền Nam đã đạp vào mặt một người đàn bà lớn tuổi để dành chỗ lên máy bay. Người đàn bà lộn nhào xuống ở phi đạo và một tay vẫn cố bám vào phi cơ đã sắp sửa lăn bánh. Một binh sĩ dùng súng đã bắn một tràng súng liên thanh. Trên máy bay, chỉ có các binh sĩ trong quân phục của họ. Phần đông họ thuộc Đại đội Hắc Báo, Sư đoàn 1 Bộ binh (1st Division’s Black Panther Unit). Sàn máy bay đầy những vết máu. Có hai thường dân duy nhất là đàn bà và một đứa trẻ trong chuyến bay phản lực 727. Có vài người bám vào khoang bánh phi cơ và may mắn như một phép lạ nếu họ còn sống sót. Một số người khác không có may mắn như thế khi phi cơ đã lượn ra xa và họ rớt xuống biển. Khi đến phi trường Tân Sơn Nhất, người ta còn thấy thây một người lính với khẩu M16 còn dính vào vai, thây người còn dính lủng lẳng vào bộ bánh hạ cánh của chiếc phi cơ.

Theo Frank Snepp sau này cho biết, khi chiếc máy bay World Airways 727 vừa đáp xuống phi đạo thì xe chở quân đội cộng hòa tiến lại gần máy bay và binh lính ào xuống. Khoảng 5000 dân chúng đứng sau một hàng rào nôn nóng chờ đợi đã chạy ào về phía máy bay.

Viên phi công vội cho rồ máy và vội vã cất cánh kéo theo một số người còn đang bám dính vào máy bay.(7)

Theo Nhiếp ảnh gia Liên Hương của hãng UPI đã có mặt trong chuyến bay thứ nhì từ Đà Nẵng vào Sài Gòn, nhiếp ảnh gia đã nhìn thấy một số người bám vào chiếc phản lực thứ nhất khi nó cất cánh và một người đã bị rớt xuống biển.

Chân một ngươi lính VNCH còn trong bộ phận hạ cánh của chiếc World Airways 727 và cánh trái của phi cơ hư hại vì lựu đạn của lính VNCH nhưng vẫn rời Đà Nẵng. Nguồn: UPI

Vậy mà tại Sài Gòn, tướng Tham mưu trưởng Frederick Weyand khi viếng thăm Việt Nam đã bảo đảm với các nhà lãnh đạo đương quyền ở Việt Nam là Tổng thống Ford vẫn ủng hộ mạnh mẽ chính phủ Nam Việt Nam. Chữ dùng là ‘strong support’ trong khi tình trạng miền Nam đang rơi vào sự tuyệt vọng.

Còn hàng trăm ngàn binh sĩ và thường dân kẹt lại ở Đà Nẵng trong tình trạng rối loạn và vô trật tự. Mất Đà Nẵng, coi như một thiệt hại lớn lao nhất kể từ năm 1946. Một triệu rưởi ngưởi bị vây hãm ba phía. Và trông ra biển là một lối thoát tuyệt vọng. Có 8 chuyến bay định hạ cánh xuống Đà Nẵng để cứu vớt một số dân tỵ nạn. Nhưng đành bỏ cuộc. Cũng chỉ còn chút may mắn là khoảng từ 35 ngàn đến 50.000 ngàn người đã chạy thoát bằng đường biển,

Đà Nẵng ngày 31-3. Babies fall overboard in scramble for ships

Vào ngày 29, tướng Trưởng còn ở Đà Nẵng. Nhưng thay vì ở trên bờ thì ông đã leo lên một chiếc canoe tuần tra để ra tầu lớn. Nơi đây, ông còn nán lại thêm hai ngày nữa để chứng kiến cảnh hấp hối của Đà Nẵng, thành phố lớn thứ hai sau Sài Gòn.

Sau này, nhiều sĩ quan đã phê bình ông vì ông đã không ở lại Đà Nẵng cho đến ngày chót để giữ tinh thần binh đội của mình.Thảm cảnh giành giật lên máy bay chỉ là một sự thu nhỏ thảm kịch tháo chạy. Tại bãi biễn Đà Nẵng, hàng ngàn con người chờ đợi, lội bì bõm với hy vọng ra được tàu thủy bị sóng vùi lấp, hoặc chen chúc nhau trên các sà lan cả mấy ngày nhịn đó, nhịn khát.

1 tháng Tư, 1975 | Tàu nhỏ kéo xà lan chở người tị nạn lên tầu SS Pioneer Contender. Nguồn: AP Radiophoto

Trên chiếc tàu buôn dân sự chở hàng khô SS Pionner Contender(7a), theo lời một nhân chứng thuật lại, một số binh sĩ đã nhốt các chỉ huy chiến hạm này vào một cabin, rồi thay nhau hãm hiếp các phụ nữ, sát hại cũng như trấn lột nữ trang, tiền bạc gây hoảng sợ trong số dân chúng ở trên tầu.

Đây là tình trạng phẫn nộ của một số binh sĩ về sự sụp đổ cay đắng đang diễn ra. Anh hùng hay hèn nhát?

Những thủy thủ người Mỹ trên tầu cho hay có ít nhất 25 người đã bị giết chết khi tranh giành lên tầu. Những người lính thủy quân lục chiến này cho rằng, họ đã giết những người đó vì tình nghi họ là Việt Cộng. SS Pioneer Contender là chiếc tầu cuối cùng rời bến cảng Đà Nẵng. Riêng phóng viên Peter O’Loughlin đã nhìn thấy khoảng 15 xác chết và hàng trăm xác chết khác trên những chiếc xà lan khác.

Theo một nguồn tin khác của AP, trên những chiếc xà lan chất đống hàng mấy ngàn người vừa binh sĩ, vừa thường dân với trẻ con sống chen chúc nhau từ 4 ngày nay không có nước uống. Họ trở thành như điên loạn và đôi khi nhảy xuống biển tự vận. Lính thủy người Mỹ trên tầu SS Pioneer Contender làm thành hành rào người để đỡ những đàn bà trẻ em lên tàu. Phải mất tám giờ đồng hồ để đưa họ lên tàu.

1 April 1975 – Lưới chuyển hàng đưa người tị nạn lên tầu SS Pioneer Contender ở bờ biển, sau khi thành phố Đà Nẵng sụp đổ; Phải mất tám giờ để đưa khoảng 6.000 người tị nạn lên tầu. Nguồn: Peter O’Loughlin / AP

Nhiều người bám vào dây neo của tàu để trèo lên. Chiếc SS Pionner Contender thứ nhất đã vớt được 5000 người và đã nhổ neo. Chiếc SS Pioneer Contender đã có thể áp sát tàu vào sà lan giúp cho người ta có thể lên tàu dễ dàng hơn. Khi chiếc Contender, nhổ neo thì không còn sà lan nào khác và tàu trực chỉ phía Nam, rất có thể là sẽ ghé Cam Ranh. Trên tàu thiếu nước uống, chỉ còn vài thùng nước uống không đủ phân phát cho mọi người. Thủy thủ đoàn đã phải biến Cabin trên tàu thành một nhà thương, vì có người đàn bà hạ sinh một đứa trẻ. bác sĩ cho biết đứa trẻ ở trong tình trạng nguy kịch.

Tàu trực chỉ hướng Nam và người ta còn nhìn thấy xa xa trên bãi biển như một đống rác với xe gắn máy, valise, dày giép, quần áo vứt hỗn độn cũng như xác một đứa trẻ nằm chết trên bãi. Người ta còn nhớ cảnh tượng hãi hùng khi một vài đứa trẻ bị rớt xuống biển và mẹ chúng nhảy xuống theo với một cố gắng vô ích cuối cùng mong cứu được con của họ.

Đó là bài tường thuật của phóng viên AP, tại Đà Nẵng, vào ngày 31 tháng ba với nhan đề: Babies fall overboard in scramble for ships.

Chẳng hiểu những ông Thiệu, ông Khiêm, ông Trần Văn Đôn, ông Dương Văn Minh có cơ hội được xem những thảm cảnh này trên truyền hình hay không?

Phần tôi, sau này có dịp nghĩ rằng các các cấp lãnh đạo miền Nam và các vị chỉ huy từ cấp đại tá trở lên đang có trách nhiệm ở vùng một đã không làm hết bổn phận của một quân nhân. Hầu hết đã dùng những phương tiện dành cho họ và rút khỏi miền Trung bỏ lại đằng sau các sĩ quan cấp thấp như thiếu tá, đại úy và binh lính của họ.

Vì thế, đã có nhiều thành phố buông xuôi, bỏ chạy mà cộng quân đã không phải tốn một phát súng nào. Chẳng hạn như tại Quảng Trị, Bình Định, Tuy Hòa.

Người ta có cảm tưởng mạnh ai tìm phương tiện tháo thân và bất kể số phận dân chúng ra sao. Ông Thị trưởng Đà Nẳng đã tỏ ra bất lực và buông xuôi. Một trong những nhân viên CIA làm việc tại Đà Nẵng Francis Gasped đã hét lên khi không cách nào liên lạc được với vị thị trưởng, “Get me the Mayor.”

Đã có bao nhiêu ông thị trưởng trốn trách nhiệm vào giờ phút thứ 25 như thế?

Và khi đã gặp được viên thị trưởng thì Gaspel nói, “Hãy giúp chúng tôi một tay ở đây. Họ dù sao cũng là dân của các ông.”(8)

Người ta ít để ý và ghi nhận là ngoài khơi bãi biển Đà Nẵng có chiếc tầu thủy dành riêng cho nhóm CIA để quan sát tình hình. Tên chiếc tầu là Oseola có nhiệm vụ quan sát, nếu cần tiếp trợ theo khả năng của họ.

Trên bong tầu Oseola, người ta có thể quan sát cảnh chen chúc nhau lên chiếc Pioneer Contender, cảnh những xà lan tới tấp đưa người lên chiếc SS Pioneer Contender đã quá tải. Xa xa là chiếc HQ-5 của Hải quân, một tầu tuần duyên.

Vài giờ sau, vào lúc nửa đêm, trên chiếc Oseola, người ta có nhận thấy đèn pha trên chiếc SS Pioneer Contender trực chỉ hướng Nam về phía Cam Ranh.

Sứ mệnh một con tàu coi như đã hoàn tất. Phần còn lại, để cho số phận quyết định!

Có một điều như một tấm gương cho các tướng lãnh, sĩ quan cao cấp soi gương là người ở lại cuối cùng trước khi rời Đà Nẵng lại là một người Mỹ. Mặc dầu có lệnh của trùm mật vụ Polgar yêu cầu ông phải di tản ngay khỏi Đà Nẵng bằng máy bay. Ông Philip Custer [bí danh của Trưởng Cơ sở CIA tại Đà Nẵng – có thể là Thomas J. Flores] coi như tai điếc vẫn tiếp tục ở lại, coi như không nhận được lệnh. Ông ở lại với hy vọng là cứu vớt được nhiều người khác lên tầu thủy, thêm được tin tức.

Nhưng đối với Polgar thì việc trì hoãn di tản là tự chuốc lấy một sự liều lĩnh không cần thiết.

Cũng trong cái tinh thần hy sinh và trách nhiệm mà Edward Daly đã nhất quyết cho chiếc máy bay phản lực 727s cất cánh từ phi trường Tân Sơn Nhất quay trở lại Đà Nẵng để cứu vớt thêm những người tỵ nạn mặc dầu sự ngăn cản của tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn.

Nhưng nếu tất cả cấp chỉ huy của chúng ta làm công việc như ông Custer hay ông Daly ở trên thì sự thể sẽ như thế nào?

Vào lúc này, tại tòa đại sứ Hoa Kỳ loan báo sẽ có những chuyến bay đặc biệt chở sang Sài gòn các phương tiện thuốc men và cả đồ viện trợ quân sự nữa.

Quyết định của sinh viên ở Canada

Trước tình hình miền Nam trở thành một sự tuyệt vọng. Anh em sinh viên bên này đã tụ họp lại và đi đến quyết định lên gặp đại diện chính quyền Canada bảo lãnh cho gia đình sang tỵ nạn bên Canda. Hạ tuần tháng 3, 1975 sinh viên Việt Nam đã đến văn phòng Bộ trưởng Bộ Lao động và Di trú Robert Andras yêu cầu chính phủ Canada đưa thân nhân của họ rời khỏi Việt Nam. Mặc dù chỉ có một số nhỏ, sinh viên Việt Nam (khoảng 1500 người ở Ontario và Quebec) khi tình hình xấu đi, trụ sở chính của Bộ Bộ Lao động và Di trú tại Ottawa đã tràn ngập với hàng ngàn đơn xin bảo lãnh cho thân nhân và gia đình ở Việt Nam.

Đơn bảo lãnh thân nhân của sinh viên Việt Nam tại Canada, Circa tháng 3, 1975

Các toán công tác của Bộ Lao động và Di trú ở châu Á-Thái Bình Dương không kịp đối phó, và toàn bộ đội ngũ ngoại giao đoàn đã chuyển sang gởi thư và chiếu khán nhập cảnh. Đơn xin bảo lãnh được cứu xét cấp tốc, và telex danh sách người được bảo lãnh được gửi đến đại sứ quán Canada tại Sài Gòn ở tốc độ nhanh nhất. Nhân viên ngoại giao đã làm việc từ 14 đến 16 giờ một ngày. Hai nhân viên đã ngủ tại Trung tâm Thông tin liên lạc của Bộ Ngoại giao để bảo đảm bảo các tin nhắn vào và ra đã được chuyển kịp thời. Và tất cả các trung tâm di trú ở Canada đã mở cửa một ngày cuối tuần để nhận đơn bảo lãnh.

Cố gắng của nhân viên Bộ Di trú ở Canada đã đem lại kết quả: mỗi buổi sáng tháng Tư, tòa đại sứ Canada tại Sài Gòn đã nhận được những tờ telex dài từ 7 đến 10 thước với tên và địa chỉ, thường không đầy đủ, của thân nhân của sinh viên và người Việt tại Canada.(9)

Chỉ trong tháng Tư 1975, văn phòng visa Canada ở Hồng Kông đã gửi thư hứa cấp chiếu khán nhập cảnh đến 3.500 gia đình (khoảng 15.000 người) ở Việt Nam được người thân ở Canada bảo lãnh.(9a)

Thư hứa cấp chiếu khán nhập cảnh Canada, 24 tháng 4, 1975. Nguồn CIHS, số tháng 4, 1975.

Nay nhìn lại, người ta thắc mắc không biết có bao nhiêu sinh viên phản chiến ở Canada nộp đơn xin đoàn tụ gia đình?

Câu trả lời có thể là từ một người dại diệm nhóm sinh viên thiên tả trong tổ chức UGCV (Union générale des Vietnamiens au Canada. Hội Việt kiều Yêu Nước Tại Canada) – ông Thục Bình nói như sau:

Chúng tôi chào đón cuộc chinh phục toàn Đông Dương của người cộng sản. Ông nói tiếp:

“Cuộc chiến thắng vào tháng tư 1975 đã làm rung chuyển huyền thoại sức mạnh siêu cường của nước Mỹ. Nó đem đến sự giải phóng cho nhiều quốc gia. Nhờ đó, nó đem lại sự chiến thắng của các lực lượng tiến bộ của lào và Cambodia, sự chấm dứt chế độ thộc địa của Bồ Đào Nha tại Angola, Guinea-Bissau và Mozambique và sự sụp đổ của các nhóm độc tài cực tả tại Thổ Nhĩ Kỳ và Bồ Đào Nha.”(10)

Phần chính quyền Canada như Bộ trưởng Di trú Robert Andras nhấn mạnh trong buổi họp nội các rằng: “Canada có truyền thống nhân đạo ‘humanitarian considerations ought to be regarded as paramount’ (Sự cứu xét về mặt nhân đạo phải được coi là điều tối quan trọng).”

Cứu trợ nhân đạo cũng là để đáp ứng lời kêu gọi của Mỹ muốn các nước đồng minh cùng nhau hợp tác trong một chương trình đa phương nhằm định cư những người Việt.

Chẳng những chính phủ Canada chấp nhận cho các sinh viên đang du học tại đây, các người có quyền công dân hay thường trú, khoảng 1500 người được bảo lãnh thân nhân từ Việt Nam sang. Chính quyền còn thỏa thuận nhận khoảng 2000 người không có thân nhân bảo lãnh ở các trại tỵ nạn và 1000 người khác Đông Nam Á.(11)

Chúng tôi nghĩ rằng, việc bảo trợ những người Việt Nam tỵ nạn đến Canada ngay sau ngày 30 tháng Tư, 1975 là một việc làm nhân đạo. Nếu có ưu tiên nào, lúc đó, thì ưu tiên duy nhất là có thân nhân hiện ở Canada. Cũng vì tính cách nhân đạo đó, sau này chính phủ Canada đã cho nhập cảnh Canada đủ mọi thành phần, có học cũng như không có học, biết tiếng Pháp cũng như không biết tiếng Pháp. Tài liệu “Indochinese Designated Class Regulations”, S.O.R./78- 931 nêu rõ nhiều chi tiết về tiến trình bảo lãnh/nhập cư vào Canada của người tị nạn Việt, Miên, Lào đã bỏ nước ra đi sau ngày 30 tháng Tư 1975.

Một số thành phần thuộc giới có ăn học ở Việt Nam, được bảo lãnh vào Québec chủ quan cho rằng, Québec thường dễ chấp nhận những người có bằng cấp và nói được tiếng Pháp! Đó là một lối suy nghĩ chủ quan không đúng chỗ. Hiện nay di dân người Việt ở Canada đã lên đến con số 250.000 người, vậy thì ai là người có học và ai là người nói tiếng Pháp trong số đó?

Trong tập hồ sơ kỷ niệm 40 năm di cư của Hội Sử học Di Dân Canada (The Indochinese Movement: Fortieth Anniversary), ông Bộ trưởng Di trú Robert Andras đã nêu bật tính cách ‘phi chính trị’ trong việc tiếp nhận người tỵ nạn. Vì thế, Canada cùng lúc cho nhập những người Việt Nam tránh nạn cộng sản cũng như cho nhập những người dân Chí Lợi thuộc cánh tả của Tổng thống Allende bị chính quyền độc tài quân phiệt Pinochet săn đuổi và truy lùng.

Ngày mồng một, tháng Tư, 1975 | Cong will talk, if Thieu out

Trước một nguy cơ miền Nam sụp đổ không tránh được, cộng sản Hà Nội càng tỏ ra quyết liệt. Tin của thông tín viên AP, từ Nhật Bản cho hay, cộng sản Hà Nội tuyên bố miền Nam Việt Nam đang ở một khúc quanh mới (New turning point) về một chiến thắng áp đảo và tràn ngập về quân sự.

Nhưng Hà Nội chỉ chịu nói chuyện với một chính quyền mới trong đó không có Nguyễn Văn Thiệu và phe đảng của ông ta. Và rằng trở ngại cuối cùng để đưa đến một cuộc đàm phán chính là Nguyễn Văn Thiệu. và Người Mỹ thì vẫn ngoan cố không chịu chấm dứt sự can thiệp bằng quân sự vào cuộc chiến tranh.

Kissinger thất bại trong cuộc đàm phán Do Thái-Ai Cập

Những cố gắng ngoại giao trong những ngày gần đây xem ra đã tan ra mây khói. Chính sách ngoại giao con thoi (Shuttle diplomacy) của Kissinger đã chấm dứt bằng sự thất bại vì không đưa được Do Thái-Ai Cập xích lại gần nhau để bàn thảo về tương lai giữa hai nước về việc giải trừ binh bị. Mặc dù gặp thất bại, Kissinger vẫn không ngừng gặp gỡ đôi bên. Ông vẫn hy vọng hai bên đạt được một thỏa hiệp!

Refugees plight hopeless

Hoàn cảnh của hơn một triệu người hiện nay còn bị kẹt lại Đà Nẵng coi như hết hy vọng. Ít lắm trong số đó có khoảng 120.000 người tỵ nạn có hy vọng được vớt ngoài biển. Đạn trọng pháo của cộng quân vẫn tiếp tục nã vào Đà Nẵng.

Hiện nay có khoảng 20 tầu biển đang đậu ngoài khơi hải phận quốc tế để cố gắng tìm cách đưa những người tỵ nạn còn bị kẹt trong đất liền. Nhưng xem ra khó có hy vọng làm được điều gì. Làm thế nào người tỵ nạn có phương tiện để ra gặp tầu biển đậu ngoài khơi? Xem ra mọi chuyện đã quá trễ và hết hy vọng? Họ phải có những tầu đổ bộ (Landing ship transport) chở ra tàu lớn.

Chính quyền miền Nam đã nhờ Mỹ can thiệp với Hà Nội để cho những người tỵ nạn ở Đà Nẵng được ra đi thong thả. Hà Nội trả lời là không thể nào có cuộc ngưng bắn đi kèm với việc để những ngươi tỵ nạn ấy ra đi! Chấm hết.

Ngày 2 tháng tư, 1975

Theo tin của đài Hà Nội, một chính quyền mới nay đang có trách nhiệm ổn định lại trật tự ở Huế. Một số viên chức cao cấp như cảnh sát và nhân viên chính phủ bị kẹt ở lại được biết đã bị đem ra xử bắn ngay tức khắc.

Và như một màn kịch cùng ngày, tướng Thiệu ra lệnh tướng Trưởng phải tái thiết lập Quân đoàn 1 dể phản công lấy lại toàn vùng.

Tường Trưởng nghe được lệnh này chắc phải vừa cười, vừa khóc.

Đã ít nhất hai lần, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã ra những lệnh trái ngược nhau liên quan đến Quân khu I.

Cuộc triệt thoái khỏi vùng I đã phải trả giá đắt. Với 3 triệu dân chỉ có hơn 70 chục ngàn thoát chạy khỏi vùng I mà phần lớn thoát chạy bằng đường biển.

Nay đến lượt thành phố Nha Trang phải di tản. Hôm nay là ngày thứ ba, 2 tháng Tư. Thành phố nhốn nháo với dân tỵ nạn và họ tìm cách chạy ra khỏi thành phố bằng đủ phương tiện. Phần đông họ dùng đường bộ để chạy ra Cam Ranh, cách Nha Trang 40 dặm về phía Nam.

Trong số những người tỵ nạn, một số không nhỏ chạy về từ Cao Nguyên và một số chạy vào từ Đà Nẵng mới được vài ngày nay lại một lần nữa chạy khỏi Nha Trang.

Tuy nhiên các chức sắc trong thành phố cũng như những người có tiền của, có phương tiện do kinh nghiệm từ Đà Nẵng, họ đã tìm cách đi vào Sài gòn trước khi tình trạng rối loạn ở Nha Trang xảy ra. Tuy vậy, những cảnh tượng hỗn loạn xảy ra ở Đà Nẵng nay tái diễn ở đây ở mức độ nhỏ hơn. Nhà tù được mở cửa tạo thêm sự hỗn loạn với nạn cướp hóc vốn đã có sẵn.

Chương trình Orphan Airlift bị bãi bỏ

Theo tin của hãng AP từ Sài Gòn đánh đi cho hay dự định cho 500 trẻ em mồ côi được phép đi sang Mỹ dã bị bãi bõ. Chương trình này do tổ chức có tên là Friend of all Children được 4 bác sĩ và 17 nữ trợ tá gồm các quốc tịch như Mỹ, Úc và Anh trợ giúp.

Theo dự định, các trẻ em sẽ được chở đi trên các chuyến bay World Airways DC8 Cargo jet đến Chicago, ghé qua Tokyo và Hawaii.

Sau đó chẳng bao lâu lại có lệnh cho phép các trẻ em mồ côi được phép ra đi.

Ngày 3 tháng tư, 1975

Người dân Đà Nẵng lo trốn chạy cộng sản như thế, nhưng theo phóng viên John Burns của tờ The Globe and Mail cho hay, tại Bắc Kinh, tờ People’s Daily (Nhân dân nhật báo), trích dẫn một nguồn tin của báo chí cộng sản Hà Nội viết hàng trăm ngàn thường dân ‘Who had been forced to retreat with the ennemy from Danang, firmly frustrasted the vicious ennemy scheme and return to city, where they gave the liberation armed forces a rousing welcome’. (Bị áp lực rút theo bọn kẻ thù xấu xa, đã quay trở về thành phố Huế và hoan hô chúc mừng quân đội giải phóng).

Bài báo còn cho biết thêm, chính ‘ngụy quyền’ miền Nam đã vi phạm Hiệp Định Ba Lê chứ không phải người cộng sản.

Bà Betty Ford, phu nhân Tổng thống Ford

Theo tin hãng AP, tại Los Angeles, bà Betty Ford, phu nhân Tổng thống Ford, bà rất lấy làm xúc động khi thấy hoàn cảnh một số trẻ em Việt Nam và bà mong muốn nhận chúng làm con nuôi. Bà Ford đã nói trong một buổi họp báo trong lúc đang đi nghỉ hè tại Palm Springs, bà nói bà ủng hộ chương trình cứu một số trẻ em của Tổng thống Ford, Orphans Airlifts. Bà nói thêm, “Tôi thấy rằng những trẻ em cũng là những đứa trẻ và chúng cũng cần có những cơ hội lớn lên như các con em của chúng ta.”

Where is Thi My Kieu?

Cũng theo tin AP, tại Pompano beach, Florida, trong một căn phòng mới được trang hoàng dán giấy mầu hồng và mọi sự đã được chuẩn bị sẵn sàng. Vợ chồng luật sư Ed Oddo đã sốt ruột trông chờ đứa trẻ Việt Nam được nhận làm con nuôi được sang Hoa Kỳ. Đó là bé gái Kiều Thị Mỹ.

Vào hôm thứ tư, ông Ed Oddo nói, “It’s frustrating. We’ve waited so long. You Know, We’ve got her picture. We’ve planned and dreamed, like a family would for any new baby.”

Phần bà vợ ông Oddo, Christine, 25 tuổi hy vọng rằng đứa con nuôi ba tháng rưỡi tuổi sẽ đến đây cùng với cùng với các trẻ mồ côi khác trong chuyến bay sắp tới.

Ông nói thêm, chúng tôi đã làm tất cả những điều có thể làm để hy vọng Thi My Kieu có thể đến đây.

Tin tiếp tục ngày 3-4 | Horror of war behind for 52 Viet orphans

Theo tin của hãng UPI, tại San Francisco, 52 trẻ em Việt Nam mồ côi hiện đã đặt chân đến đất Mỹ tuổi từ 3 tháng đến 8 tuổi vào tối thứ tư tại phi trường Oakland International Airport trên chuyến bay World Airways cargo jet.

Các trẻ em dã để lại đằng sau hình ảnh một cuộc chiến tranh ghê sợ mà các em chưa nhận thức hết được. Một cuộc sống mới đang mở ra.

Chắc chúng còn mệt sau 16 giờ 53 phút bay từ Việt Nam sang đây. Sau đó chúng được chở bằng xe buýt đến Tổng hành dinh của quân đoàn thứ sáu để khám bệnh và làm thủ tục nhận con nuôi.

Sở dĩ chúng có thể đến được đây trong ngày hôm nay là do lòng can đảm và tận tụy của Đại úy Ken Healy đã bất chấp lệnh từ Sài Gòn do trạm không lưu ngăn chặn không cho cất cánh bằng những chiếc phi cơ DC8. Đại úy William Keating cũng có mặt trong chuyến bay cắt nghĩa thêm: we were instructed to hold our position by ground control. We ignore that. We taxied down the runway and took off’.

Các trẻ em mồ côi này đã vượt được đoạn đường dài 6.993 dặm từ Sài gòn đến San Francisco.

Họ còn chuẩn bị một căn phòng cạnh cây cầu Golden Gate để cho các em mới tới vui chơi. Cứ hai em thì có một tấm nệm và căn phòng được trang hoàng đẹp mắt. Cứ mỗi một em thì do một người lớn chăm sóc mọi thứ.

Ngày 4 tháng Tư, 1975: Vietnamese cabinet ousted!

Theo nguồn tin UPI, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã tuyên bố ngày hôm nay chấp nhận chính phủ của ông sẽ từ chức và được thay thế bằng ông Nguyễn Bá Cẩn, chủ tịch Hạ viện. Vẫn có dư luận đồn thổi trong dân chúng là ông Nguyễn Cao Kỳ sẽ làm đảo chánh. Ông Kỳ phủ nhận tin này.

Sự thay đổi này chỉ là một sự chút trách nhiệm cho người khác. Nó không phải là giải pháp giải quyết của tình thế. Trong những ngày gần đây, Ông Thiệu đẩy trách nhiệm rút khỏi Tây Nguyên cho tướng Phú, trách nhiệm rút Huế Đà Nẵng cho tướng Trưởng. Tất cả chỉ là những màn chạy tội.

Miền Nam chắc sẽ mất vào tay cộng sản vì Mỹ bỏ viện trợ. Quân đội miền Nam VNCH đã từng chiến đấu ròng rã trong suốt 21 năm không lẽ thua trong vài tuần?

Ngay cả trường hợp miền Nam bị thua và rơi vào tay cộng quân, chúng ta vẫn có thể chọn lựa cho mình một cách thua khác.

Không phải cách thua nhục nhã như thế này!

Tướng Weyand, một đặc sứ của Tổng thống Ford gửi sang Việt Nam xem xét tình hình Việt Nam vẫn có thể tuyên bố như sau, “The North Vietnamese army… can be defeated.”

Chiến dịch ‘Operation Babylift’

Trong lúc cuộc chiến tranh ở miền Nam sắp sửa đi đến chỗ kết thúc. Một trong những người tích cực nhất trong việc di tản một số người Việt ra khỏi đất nước họ là ông Bộ trưởng bộ di trú Canada, ông, Robert Andras. Ông đã cho đặt thêm một emergency desk ngay trong văn phòng làm việc của ông để giải quyết vấn đề người tỵ nạn Đông Dương.

Việc làm ấy nằm trong cái tinh thần mà Peter Duschinsky, trong CIHS Bulletin, nhân dịp kỷ niệm 40 Năm sau 1975 với nhan dề bài viết The Human Side of the fall of Saigon.(12)

Cuộc chiến ấy nhiều mặt là một bi kịch chiến tranh, nhưng cũng là một thảm họa của nhân loại xét vế mặt con người.

Và sự cứu vớt người tỵ nạn ra khỏi cuộc chiến ấy, mặc dầu chỉ là như muối bỏ biển, cũng vẫn mang tính con người. Trong đó người ta nghĩ đến hàng triệu số phận trẻ em mồ côi của miền Nam mà con số may mắn được cứu vớt chỉ khoảng vài ngàn trẻ em.

Tuy nhiên, ngay chuyến bay đầu tiên, chiến dịch ấy đã tự nó mang một thảm họa vô cùng thảm khốc.

Ngày 4 tháng Tư. Thảm hoạ trên không

Hôm này có thể nói cũng là ngày tang thương cho số phận một số trẻ mồ côi trên chiếc máy bay khổng lồ của quân đội Mỹ, chiếc C-5A Galaxy đã cất cánh sau một thời gian ngắn với 305 trẻ em mồ côi để đi Mỹ. Tất cả những em ngồi ở phần đuôi máy bay thì không có hy vọng sống sót. Ít nhất có 178 trẻ em và người lớn bị chết. Cánh cửa phi cơ nổ tung do một số ổ khóa cửa hỏng gây ra, cánh cửa ở phần đuôi máy bay (cargo door) bị bung ra, phi cơ mất cao độ và viên phi công cố gắng quay trở về Tân Sơn Nhất, nhưng đã không thành công.

Trẻ mồ côi tử nạn trong chuyến bay đầu tiên của Chiến dịch Babylifts được đưa đi hỏa thiêu ở căn cứ Utapao và an táng tại một nghĩa trang Thiên chúa giáo ở Pattaya, Thailand.

Trường hợp này cũng giống như trường hợp chiếc DC 10 cũng đã nổ tung ra khi gần tới Paris năm 1974 làm chết 345 người.

Theo nguồn tin của AP thì tòa đại sứ Hoa Kỳ cho rằng có khoảng 100 em mồ côi còn sống sót cộng với 10 đến 15 người lớn. Số người sống sót bao gồm cả viên phi công. Trực thăng đã đến hiện trường và chở 63 em còn sống sót đến nhà thương Seventh-day Adventish hospital.(13)

Các em còn sống, mắt mở to ngơ ngác, không khóc và im lặng. They did not speak. They did not cry. Người ta đã chứng kiến và viết lại cái cảnh tượng đó như thế.

Việc phi cơ chở trẻ em mồ côi bị rớt trở thành một thảm kịch của những ngày tàn cuộc chiến.(14)

Ông Phan Quang Đán là một trong số những người phản đối chương trình này. Và theo tin của UPI vào ngày 7 tháng tư, chương trình mới lại được chính phủ Sài Gòn cho tiếp tục trở lại. Trong khi đó thực sự đã có chuyến bay chở trẻ em côi đến Mỹ và đến Canada.

Tại thủ đô Ottawa, ông bộ trưởng di trú Robert Andras cho hay có 300 gia đình ở tỉnh bang Ontario và 100 gia đình ở Nova Scotia bày tỏ ý muốn nhận các trẻ mồ côi đến từ Việt Nam chỉ sau ít giờ sau khi nhận được thông báo.

Hiện nay thì có hai chuyến bay sẽ đến Sài Gòn và mỗi chuyến bay sẽ chuyên chở 250 em mồ côi. Chính phủ Liên bang đã chấp thuận một quỹ là 76.000 đô la cho việc chuyên chở này.

Một vị ân nhân ẩn danh là một phụ nữ cho biết, “Tất cả điều chúng tôi mong muốn hiện nay là giúp các trẻ em mồ côi đó ra khỏi Việt Nam.” Cũng sẽ có 30 người tình nguyện đáp máy bay đi Sài Gòn để giúp đưa các trẻ mồ côi trong chuyến đi này.

Ngày 4 tháng tư, ông bà Tổng thống Ford có chương trình đón tiếp các trẻ em mồ côi trong chuyến bay đầu tiên đến Mỹ.

Đây là chuyến bay đầu tiên đến Mỹ nếu không kể chuyến bị rớt trước đó. Chuyến bay này chở 243 em mồ côi sang Mỹ. Chuyến bay sẽ dừng lại ở căn cứ không quân Clark Air Force bên Phi luật Tân, sau đó tiếp tục bay sang California. Chính ở nơi đây, ông bà Ford sẽ đón tiếp các em mồ côi.

Nhiều người nghĩ rằng đây chỉ là một màn kịch dở. Tổng thống Ford đã từng quay lưng trong việc không hỗ trợ Việt Nam trong cơn nguy khốn. Việc đón tiếp này vì thế có thể đặt dấu hỏi?

Cũng chính vì thế mà có những nhà báo như W.A.Wilson viết bài với nhan đề, “Trẻ em Việt Nam không nên bị bốc ra khỏi quê hương xử sở của chúng”. (Vietnamse children should not be taken from homeland).

Việc đưa các trẻ em sang Mỹ cho thấy sự ích kỷ và tính toán của họ.

Trên đây chỉ là một quan điểm nhìn của một số người không nhất thiết được mọi người đồng ý.

Ngày 7 tháng Tư

Hôm nay đã là mồng 7 tháng Tư, coi như vừa đúng một tháng sau cuộc tấn công của cộng quân vào Ban Mê Thuột. Có dư luận cho rằng tướng Phú bị cộng sản lừa. Chúng làm nghi binh như thể đánh Pleiku và tướng Phú tin chắc như thế nên đã nhất định để nguyên sư đoàn 23 bộ binh đóng chung quanh Pleiku. Sau này, nhiều vị chỉ huy tại chỗ đã trách tướng Phú, trong đó có đại tướng Cao Văn Viên.

Nhưng quyết định rút quân của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là một quyết định sinh tử, như vận mệnh cho số phận quân dân vùng II chiến thuật. Quyết định tái phối trí, rút quân là một quyết định xem ra quá trễ. Cuộc triệt thoái khỏi cao nguyên là một thất bại quân sự. Trong số 20 ngàn quân rút lui vào ngày 16-3, đến ngày kéo về được đến Tuy Hòa chỉ còn sót lại có 5.000 người. Số còn lại hoặc bị giết hoặc rã ngũ trên đường rút lui.

Cộng sản tiếp tục đòi hỏi Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức và thành lập một chính phủ mới để có thể thương thuyết với họ.

Chính quyền Sài Gòn ra lệnh ai gây rối sẽ bị xử bắn tại chỗ và lệnh giới nghiêm được nới rộng từ 9 giờ tối đến 5 giờ sáng.

Chuyến bay đẩu tiên trở 61 các em mồ côi người Việt Nam và Cambodia đến Vancouver, Canada theo nguồn tin CP là ngày 7 tháng tư, 1975.

Vì thế, sau này trong CIHS Bulletin, tại Canada, số ra kỷ niệm tháng Tư 1975 đã cho rằng việc mất Sài Gòn để lại ba dấu ấn nổi bật và ấn tượng nhất:

  • Thứ nhất là cảnh trốn chạy khỏi Đà Nẵng trên các bãi biển.
  • Thứ hai là quang cảnh chiếc C-5A, 6 ngày sau đó bị rớt với 135 trẻ mồ côi bị tử nạn.
  • Thứ ba là cảnh những người chạy vào tòa đại sứ Mỹ, đứng trên nóc nhà khi chiếc trực thăng cuối cùng rời khỏi nơi đây và bỏ rơi họ.

Đó là những sad endings!

Cũng ngày 7 tháng tư, 1975

Theo nguồn tin UPI, có khoảng 60 trái đạn pháo kích vào khu ngoại ô Sài Gòn, như vùng Nhà Bè, cách Sài Gòn 6 dậm. Điều đó cho thấy cộng quân đã tiến sát quanh Thủ Đô Sài Gòn, chỉ còn cách 8 dặm. Đây là những trái đạn pháo mở màn cho một cuộc tấn công sắp tới.

Hôm nay cũng là ngày chính quyền Cambodia thương thảo chấp nhận một cuộc đầu hàng vô điều kiện.

Năm năm trước, vào tháng Ba, năm 1970, tướng Lon Nol đã làm đảo chánh. Ông bỏ chính sách trung lập và tuyên bố sẽ chống trả lại Việt Nam cộng sản. Kissinger và Nixon nhảy vào, dùng B-52 bỏ bom quân đội cộng sản Bắc Việt. Trong vòng 5 năm, người Mỹ đã rót vào Cambodia 2 tỉ đô la.

Và một lần nữa, Người Mỹ bỏ cuộc để mặc cho số phận Cambodia rơi vào tay bọn Khmer đỏ và nạn diệt chủng đã xảy ra ngay sau đó.

Ngày 8 tháng tư, 1975

Theo tin AP, một phản lực cơ của quân đội VNCH đã dội bom và bắn rocket xuống dinh Độc Lập. Nhưng Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã tránh thoát và không bị thương.

Tổng thống Thiệu đã lên vô tuyến truyền hình và nói rằng, có một số cá nhân muốn ám hại ông với ý đồ muốn thay đổi chính phủ.

Tướng Trần Văn Minh, tư lệnh không quân đã lên tiếng là quân đội vẫn trung thành với Tổng thống Thiệu. Và đây chỉ là một hành vi của một cá nhân.

Tướng Kỳ lên tiếng và cho rằng ông không dính líu gì đến việc này. Nhưng yêu cầu ông Thiệu từ chức.

Ông Thiệu đã lên truyền hình và tuyên bố, “Tôi quyết định tiếp tục lãnh đạo xứ sở này.”

Cái câu nói nổi tiếng của Tổng thống Thiệu, “Đừng nghe những gì cộng sản nói mà hãy xem những gì cộng sản làm” cũng có thể ứng vào trưởng hợp của chính ông Nguyễn Văn Thiệu.

Võ Nguyên Giáp và Lê Duẩn chúc mừng Nguyễn Thành Trung (bìa phải) sau cuộc đánh bom Dinh Độc Lập ở Sài Gòn. Nguồn: VPAF museum

Sau này thì người ta được biết chiếc phản lực cơ ném bom dinh Độc Lập do Nguyễn Thành Trung lái từ Đà Nẵng. Sau đó Trung lái máy bay ở cao độ thấp, đáp xuống một phi đạo dài khoảng 915 m do Việt Cộng lập ở Phước Long, cách Sài Gòn 200 km về hướng Bắc.

Cuộc ném bom đã làm cho hai người chết và vài người bị thương.

Sài Gòn, ngày 8 tháng Tư, năm 1975: Tiếng súng tại mặt trận An Lộc bắt đầu

Câu hỏi đặt ra ở đây là liệu quân đội VNCH có giữ được phòng tuyến này không?

Chiếm được Xuân Lộc, đó là mục tiêu chiến lược của cộng quân. Nhưng họ cũng mong rằng qua thương lượng, political means, qua một cuộc đầu hàng có giàn xếp với một chế độ không phải Thiệu. Nguyễn Thị Bình, ở Paris, Bộ trưởng Ngoại giao của Chính phủ Lâm thời Miền Nam mong muốn đạt được mục tiêu, nếu có thể, mà không phải dùng đến những phương tiện quân sự. Nói với phóng viên tờ Le Monde, bà Bình mô tả hoàn cảnh ở miền Nam hiện nay là không thể đảo ngược được tình thế. Nhưng việc xử dụng quân lực hay sức mạnh quân sự hay không là tùy thuộc vào phía đối phương.

Ngày 9 tháng Tư: Secret US-Viet pact claimed. Tiết lộ những trao đổi thư từ bí mật giữa Mỹ và Việt Nam

Tùy viên Báo chí Tòa Bạch ốc Ronald Harold Nessen đọc bản thông cáo báo chi ngày 9 tháng Tư trong cuộc họp báo cùng ngày. Nguồn: “Vietnam – Correspondence from Richard Nixon to Nguyen Van Thieu” of the Richard B. Cheney Files at the Gerald R. Ford Presidential Library.

Trong giai đoạn trước khi ký Hòa đàm Ba Lê, Tổng thống Nixon đã thuyết phục Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ký vào bản Hiệp Định với những lời hứa hẹn bảo đảm sẽ can thiệp vào Việt Nam. Nói chung có tất cả 27 lá thư trao đổi của Tổng thống Nixon gửi cho ông Thiệu. Sau đó tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng đã gửi cho ông Tổng trưởng Quốc Phòng là James R. Schlesinger một số trong những lá thư đó. Ông này bèn thông báo cho nghị sĩ Henry Jackson biết và ông Jackson đã tìm cách đăt vấn đề với tòa Bạch Ốc.

Cuộc họp báo của ông thượng ngị sĩ được diễn ra ngay từ 30 tháng Tư. Trong đó ông cho rằng Kissinger đã che dấu những lá thư này đến ngay Tổng thống Gérald Ford cũng như bộ trưởng Quốc Phòng Schlesinger cũng không hề biết.

Thượng nghĩ sĩ Henry Jackson nói tiếp: Đây là lần đầu tiên, Tổng thống Ford biết được những lá thư mật trao đổi giữa Nixon và ông Thiệu. Phía Việt Nam, tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng nói còn giữ đuợc tất cả 27 thư trong khi phía Mỹ không biết tại sao chỉ còn giữ được có 10 bức thư.(15)

Theo bản tin của AP tại Hoa Thịnh Đốn, thượng nghị sĩ Hackson chính phủ Hoa Kỳ có bổn phận tinh thần tôn trọng những thỏa thuận ngầm này. Về phần dân chúng hoa Kỳ, họ có quyền được biết về những thỏa thuận giữa hai bên mà đáng lẽ họ phải được thông báo đầy đủ.

Nếu cứ đúng như những nội dung mà Nixon đã cam kết với ông Thiệu là Hoa Kỳ sẽ ‘react vigorously’, can thiệp một cách mạnh mẽ nếu Bắc Việt xâm lăng miền Nam bằng quân sự.

Và nếu tôn trọng những lời cam kết như trên thì Quốc Hội Hoa Kỳ phải chuẩn chi viện trợ khẩn cấp mà Tổng thống Ford đòi hỏi.

Thế nhưng, theo tin của AP, Tổng thống Ford đã nói chuyện với các lãnh tụ Thượng viện Hoa kỳ rằng: “Ông không tìm bất cứ thấy bằng chứng gọi là bí mật trong những thỏa thuận giữa Hoa Kỳ và Việt Nam.”

Nói trắng ra Tổng thống Ford muốn phủi tay không muốn bằng bất cứ giá nào can thiệp vào Việt Nam nữa.

Rockefeller, Phó tổng thống, theo thông tấn UPI tại New Orleans trong một lởi tuyên bố: U.S. must decide, ông cho rằng nay là lúc Hoa Kỳ phải quyết định nay là lúc chúng ta phải đứng một bên, bởi vì chúng ta đã đảm nhận vai trò trách nhiệm thế giới trong mấy thập niên rồi. và hãy để cho Liên Xô nắm trách nhiệm trọng tài thế giới.

Cũng ngày 9 tháng Tư

Người ta nói đến một cuộc thanh trừng ở Nam Việt Nam nếu cộng sản Hà Nội nắm chính quyền.

Theo các tài liệu báo chí từ Nga thì nếu nắm được chính quyền miền Nam, họ sẽ thực thi chính sách 10 điểm. Tờ Pravda, cơ quan ngôn luận chính thức của Liên Xô nói tới:

Việc gấp rút để đưa cuộc sống người dân trở lại bình thường và thanh trừng những thành phần tay sai ngụy quyền. Trước hết thanh lọc hết các tổ chức hành chánh, lực lượng quân đội và các tổ chức bù nhìn của chế độ. Và trong một thời gian ngắn nhất thiết lập các cơ chế chính quyền cách mạng ở mọi tầng lớp dân chúng.

Tất cả tùy thuộc vào hai chữ thanh trừng (Liquidation).

Nhiều người Việt Nam chắc đã không quên khi chiếm được miền Bắc, cộng sản đã áp đặt chính sách cải cách ruộng đất (Land reform) và chính sách tập thể hóa (Collectivization) nhằm loại bỏ các chủ đất. Theo tác giả Bernard Fall, các đợt thanh trừng này đã giết hại 50.000 nông dân và bắt 100.000 người bị tù đầy.

Tất cả chúng ta chờ xem mức độ thanh trừng sẽ được diễn ra như thế nào?

Ngày 11 tháng Tư, sinh viên Việt Nam du hoc tại Montreal biểu tình

Sinh viên Montreal biểu tình ở Quốc hội Canada, 11 tháng 4, 1975. Nguồn: CP

Có một nhóm khoảng 50 sinh viên Việt Nam cầm các biểu ngữ đi diễn hành ở trước tiền đình Quốc Hội Canada. Và họ kêu gọi có một chính quyền mạnh hơn chính quyền hiện nay để có thể đương đầu với sự tấn công của cộng sản Hà Nội vào miền Nam.

Lê [Nguyên] Khanh, một trong những phát ngôn viên của Hội Sinh Viên Việt Nam tại Montreal cho hay hầu hết những người tham dự cuộc biểu tình này đều là giới sinh viên Việt Nam du học mong muốn có một chính quyền mới đủ mạnh để đương đầu với sự xâm lăng của cộng sản Hà Nội.

Nhân dịp này, anh Lê [Nguyên] Khanh cũng cám ơn chính phủ Canda cũng như dân chúng Canada đã giúp đỡ một cách nhân đạo cho miền Nam Việt Nam như thực phẩm, thuốc men.

Trong các biểu ngữ, người ta đọc được một biểu ngữ với hàng chữ, “Stop Red”.

Cũng theo phát ngôn viên của tổ chức sinh viên ở Montréal, họ không thấy thích thú gì việc quảng cáo tuyên truyền cho Operation Babylifts. Nhưng anh nói thêm, nếu những trẻ con này tìm được những cha mẹ nuôi tốt thì cũng tốt cho các trẻ em.(16)

12 tháng tư, 1975

So chính quyền ở Pnom Penh và chính quyền của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vào giờ phút này thì xem ra các lãnh đạo nước láng giềng tỏ ra cương quyết ở tại chỗ để đương đầu với cộng sản.

Tướng Sak Suthsakhan, tướng chỉ huy quân độin Cambodia tuyên bố: việc chống đối lại quân Khmer rouge vẫn được tiếp tục.

Mặc dầu quân đội Khmer rouge hiện nay, có khoảng 10 ngàn người, đã đến làng Samrong chỉ còn cách phi trường Phnom Penh có một dặm. Có khoảng 1000 quân lính chính phủ hiện đang trấn đóng dọc theo đường xe lửa, song song với đường số 3 dẫn đến phi trường.

Dân chúng bằng đủ phương tiện đang ùn ùn kéo về thành phố. Cảnh sát đã bất lực không ngăn cản được dòng người kéo vào thành phố.

Thủ tướng Long Boret vẫn còn có thể nói, “We will never surrender.” Nhưng rõ ràng là chẳng bao lâu nữa, quân phiến loạn sẽ tràn ngập thủ đô.

Long Boret cùng với bảy nhân vật chính trị và quân sự nhận lãnh trách nhiệm sau khi đại tướng Suthskhan đã bỏ ra đi vào ngày thứ bảy.

Người Mỹ đã mở chiến dịch di tản ‘Eagle Pull’ và đã chở được 270 người Mỹ và người Cao Mên ra đi một cách êm ả. Người ta cũng đã không nghe một tiếng súng cũng như không một ai bị thương trong cuộc di tản này!

Phúc trình cuối cùng của Mỹ cho hay hoàn cảnh quân sự chung quanh thủ đô hầu như tuyệt vọng và xấu đi từng giờ. Và việc mất Phnom Penh là điều không còn gỉ để nói nữa.

Adieu Phnom Penh! Con đường dẫn đến Sài Gòn nay đã được mở rộng thêm!

Ngày 12 tháng tư. Việc chuyên chở 16 tấn vàng sang Thụy Sĩ. Vàng đó là của chung giữa Việt Nam Và Cam Bốt?

Trẻ thơ mồ côi trên đường đến phi trường LAX (Los Angeles) ngày 12 tháng 4, 1975.

Theo tin UPI từ Nữu Ước cho hay chính quyền VNCH đã cố gắng một cách tuyệt vọng để thuyết phục hãng Hàng Không Swiss Charter Airline để chuyên chở 16 tấn vàng từ Sài Gòn sang Thụy Sỹ.

Hãng Balair, đại diện cho hãng hàng không Thụy Sỹ từ chối việc chở 16 tấn vàng vì quá nặng và vấn đề cân bằng cho phi cơ. Theo tin từ Time cho rằng việc chuyên chở vàng này có dính dáng đến một hai nhân vật cao cấp như Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và tổng thống Cam Bốt Lon Nol.
Ở một đoạn văn khác được trích dẫn cũng nói rõ thêm như sau, “The airline also was concerned that the bullion might be part of the official reserves of the two countries. The gold apparently still in Saigon. Time said.”

Phải chăng số vàng đó có một phần là tài sản của Cambodia?

Tài liệu cho thấy số vàng 16 tấn không phải là của Viêt Nam mà có phần của Cao Mên. Phần là bao nhiêu thì không rõ. Thực sự chưa có tài liệu để nói rõ thêm về việc này.

Điều rõ ràng nhất là số vàng ấy sau này trở ra Bắc, rồi từ Bắc trở sang Liên Xô trả nợ.

Trẻ em mồ côi giả?

Trong số 56 trẻ em mồ côi đến Toronto để giao cho các cha mẹ nuôi, người ta phát hiện ra bé gái Phan Lợi không phải trẻ em mồ côi mà là con gái của một nhân viên làm việc cho lãnh sự Mỹ.

Bà Helen Allen, một phát ngôn viên của bộ di trú cho biết họ sẽ phân loại và hỏi xem đứa bé cảm nghĩ gì và điều gì đã thực sự xảy ra.

Người thông dịch viên ở San Fran Francisco tuần vừa qua cũng cho biết nhiều cha mẹ việt Nam lo sợ cho tương lai con cái họ nên đã tìm mọi cách để chúng có thể ra đi nước ngoài.

Điều này sau này xảy ra những vụ kiện pháp lý gay go. Cha mẹ ruột đứa trẻ tìm đủ mọi cách để đòi lại con mình.

Thật là không biết phải nói thế nào. Ai là kẻ được con và mất con?

Phần các trẻ em mồ côi khác thì được các cha mẹ nuôi đón tiếp với nước mắt và nỗi vui mừng.

Theo tin của AP, San Francisco, bà Jane Barton, thông dịch viên cho hay, bà có nói chuyện với 4 trẻ em và ba em cho biết họ là con của một đại tá và người thứ tư là cháu của vị đại tá ấy. Rõ ràng là có sự giàn xếp để cho cái một số người có tiền của, các viên chức cao cấp muốn cho con em của họ được đi ra ngoại quốc một cách an toàn.

Xem tiếp phần kết

(7) Frank Snepp, Ibid, trang 247
(7a) SS Pioneer Contender là tàu buôn dân sự chở hàng khô dài 333 bộ. Thuyền trưởng là Edward Flink do hải quân Mỹ (MSC) thuê làm theo khế ước. Con tàu bắt đầu nhiệm vụ tại Việt Nam trong tháng Ba, năm 1975, cung cấp dịch vụ vận chuyển phi quân sự và giao thông nội bộ cho quân đội VNCH và dân Việt Nam đang di tản, và những người lính Nam Việt có vũ trang. Điển hình của sự tàn ác của quân đội miền Nam Việt với những kẻ bi tình nghi là cảm tình viên của Cộng quân Bắc Việt, là những vụ xử án, ám sát, và giết người khủng khiếp trên con tàu. Rời Đà Nẵng là lúc tồi tệ nhất. Không có mặt của an ninh hàng hải trên tàu lúc đó. (Nguồn: Personal Account – PFC Matthew Phair, Hq. Co., 9th Marines/Detachment Victor)
(8) Frank Snepp, Ibid, trang 241
(9) Peter Duschinsky, “The Human Side of the Fall of Saigon”, CIHS Bulletin, Issue #73, April 2015, Canadian Immigration Historical Society. Trang 2-3
(9a) Employment and Immigration Canada, “The Indochinese Refugees: the Canadian Response, 1979 and 1980” (1981, Department of Supply and Services)
(10) Gilbert Gendron, B.A, “The Viet cong Front in Quebec”, trang 9-10
(11) Peter Duschinsky, Ibid, trang 2.
(12) Peter Duschinsky, Ibid, trang 1-5.
(13) Trong một cuốn sách Giá Tự Do mới xuất bản và được giải thưởng Văn Học, do Hội Quốc Tế Y sĩ Việt Nam Tự Do trao tặng giải thưởng Văn Học 2014, không biết dựa trên tài liệu nào, tác giả Lâm Vĩnh Bình đã viết rằng: ‘Tuy nhiên, chuyến bay đầu tiên đã gặp một tai nạn thảm khốc khi chiếc phi cơ trở 300 người gồm trẻ em và người lớn đi theo để săn sóc, vừa cất cánh phi trường Tân Sơn Nhất đã rơi vì phi cơ quá tải, 136 người đã tử nạn. Nguồn: Lâm Vĩnh Bình, Giá Tự Do, trang 2.
(14) Xem thêm Simon Parry, “Vẫn không nguồn cội” do Trà Mi dịch 13 -04-2015 đã trích lời các nhân chứng còn sống sót, cho hay có 313 người trên máy bay. Phi công lái máy bay là Dennis ‘Bud’ đả can đảm cứu được 175 người sống sót. Simon Parry, Still rootless: the child refugees of Vietnam war’s chaotic final days, Red Door News Hong Kong, April 2015.
(15) Nguyễn Tiến Hưng, “Khi đồng minh tháo chạy”, trang 460-461.
(16) CP, “Vietnamese thank Canadians”, The Brandon Sun – Brandon, Manitoba – Apr 12 1975


 

Chí Sỹ Hà sĩ Phu tiếp lời Ông TBT Tô Lâm về thể chế

Trân trọng tiếp lời của Tổng Bí Thư:
THẾ THÌ TA VỨT THỂ CHẾ ẤY VÀO SỌT RÁC !
TBT Tô Lâm vừa tuyên bố “Thể chế là Điểm nghẽn của Điểm nghẽn” ! Vậy muốn cho mọi mặt của nước nhà được trôi chảy, hanh thông thì phải vứt cái thể chế CS ấy vào sọt rác. Thế giới đã vứt nó vào sọt rác từ lâu, nghị quyết 1481 của Liên minh châu Âu đã lên án Chủ nghĩa CS là chống nhân loại, đã giết oan 100 triệu người. Trong nước thì hầu hết cán bộ cao cấp đều là tội phạm.
Đường đi đúng đắn của nhân loại văn minh hiện nay đã quá rõ. Thêm nữa, VN muốn Thoát Trung phải ra khỏi chế độ CS!
Cá nhân tôi đã dùng nửa cuộc đời (từ 1988 đến nay) để chứng minh học thuyết ấy là ngu dốt, bất nhân, dối trá và lừa đảo, nên đã bị Thể chế ấy quy tội PHẢN BỘI TỔ QUỐC, và nhà nước CS đã tự nhận thấy là sai, nên cuối cùng phải hủy vụ án !
Ông Tô Lâm mà nghĩ đúng như bài viết này thì Dân tung hô Ngài Vạn tuế !?
Tài liệu lý luận để chứng minh CNCS là một tà giáo phi lý, phi nhân đã quá đủ, không cần nhắc lại. Nhân đây chỉ xin minh họa bằng 1 bài thơ cho thấy Thể chế phi nhân ấy đã khiến một người có tên tuổi chửi thẳng vào mặt người mẹ vô tội của mình như thế nào thôi:
 
 
*
SÔNG CÓ THỂ CẠN
Trong “Đèn Cù” có đoạn
Nói về Chu Văn Biên,
Trùm cải cách Nghệ Tĩnh,
Bắc ghế ngồi trên thềm.
Hắn chỉ vào mặt mẹ
Chắp tay đứng dưới sân:
“Mày là đứa bóc lột,
Kẻ thù của nhân dân.
Không mẹ con gì hết.
Tao phải tiêu diệt mày.”
Vì cái thành tích ấy
Chu Văn Biên sau này
Được đề bạt thứ trưởng
Bộ nông nghiệp nước nhà.
Mẹ cắn lưỡi tự tử.
Thật tội nghiệp bà già.

Tiểu sử Hà sĩ Phu trích từ thư viện Hà sĩ Phu

  • 1979-1982:  Phó Tiến Sĩ tại Viện Hàn Lâm Khoa Học Tiệp Khắc năm 1982 về ngành Sinh Học Tế Bào. (Về sau học vị này chuyển thành Tiến Sĩ theo quy định mới của nhà nước).
  • Viện Khoa Học Việt Nam, phó Giám Đốc Phân Viện Khoa Học Đà Lạt, về hưu năm 1993.
  • Tham gia Hội Văn Học Nghệ Thuật Lâm Đồng năm 1987

 

2. Những Bài và Tác Phẩm:

  • Dắt Tay Nhau, Đi Dưới Tấm Biển Chỉ Đường của Trí Tuệ (1988)
  • Đôi Điều Suy Nghĩ của Một Công Dân (1993)
  • Chia Tay Ý Thức Hệ (1995)
    (3 bài lý luận này đã được người Việt hải ngoại gộp lại trong Tuyển Tập Hà Sĩ Phu)
  • Tuyển tập Sáng Trăng ( tuyển các bài thơ, văn xuôi và Câu đối)
  • Về văn học, ngoài các bài đã gom trong tuyển tập còn các bài viết rải rác như: Sức Nén của Ngôn Từ, Văn Hoá Chửi, Chuyện “Lan” và “Điệp”, Ất Dậu, Lại Nghĩ Về Tú Xương …v…v…
  • Về lý luận và chính trị, ngoài 3 bài chính luận đã kể trên, còn nhiều bài phỏng vấn của các đài VOA, BBC, RFI, RFA, VNCR, Chân Trời Mới…và các bài bình luận chính trị như: Thư gửi tiến sĩ Phan đình Diệu, Thư gửi bác Hoàng Minh Chính, thư gửi ông Lê Hồng Hà, Chia vui với bác Trần Độ, Kính viếng hương hồn tướng Trần Độ, Phát biểu với Hội nghị bảo toàn đất tổ, thư ngỏ gủi cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt, Phương Nam và khát khao trong lành của tuổi trẻ, Một người bạn quý của Dân chủ vừa qua đời, Thư ngỏ gửi các thân hữu…v…v…. 
  • 3 lần bị Công an khám nhà (có đọc lệnh khám), hai lần khám người. Lần nào cũng thu giữ máy vi tính và tất cả các tài liệu, tác phẩm, bản thảo, thư từ, kể cả các kỷ niệm của cá nhân và gia đình.Chính thức bị tịch thu 2 dàn vi tính, cả printer (năm 1999 và 2002).
  • Năm 1990, ở Hà nội, bị An ninh Văn hoá của Bộ Công an bắt về đồn rồi hỏi cung 10 ngày vì liên quan đến nhà văn Dương Thu Hương.
  • Năm 1991 bị công an mời lên làm việc vì liên quan đến tác phẩm “Quan điểm và cuộc sống” của ông Nguyễn Hộ.
  • Cuối năm 1995 bị tông xe, giật túi, bị bắt, giam 9 tháng ở trại giam B14 để hỏi cung về bài Chia Tay Ý Thức Hệ, về quan hệ với các ông Nguyễn Hộ, Đỗ Trung Hiếu, Hoàng Minh Chính, Trần Độ…, sau đó ra toà và chịu án tù 1 năm.
  • Hết hạn tù, về Đà Lạt, cuối năm 1996 đến1998 liền bị Công an gọi lên làm việc, cắt điện thoại, và canh gác trước nhà (một kiểu quản chế không có giấy tờ quyết định gì hết).
  • Năm 1999, vì viết thư trao đổi với các ông Hoàng Minh Chính, Lê Hồng Hà, Trần Độ lại bị thẩm vấn 45 ngày liền, cuối cùng bị quy tội vi phạm luật xuất bản, bị đấu tố 2 lần tại phường và tại tổ dân phố (bị tịch thu một dàn vi tính trong đợt này).
  • Mọi bài viết lớn nhỏ, chính trị hay văn học, đều nhằm quảng bá tinh thần dân chủ và nhân văn, thiết tha đổi mới đất nước và phát triển dân tộc; vạch trần và nhạo báng sự ngụy biện, giả trí tuệ, giả đạo đức.
  • Năm 2000, do viết thư trao đổi với 2 ông Nguyễn Gia Kiểng và Đỗ Mạnh Tri mà bị khởi tố tội “phản bội Tổ quốc” cùng với ông Mai Thái Lĩnh, bị giam tại nhà và bị thẩm vấn 7 tháng liền. Dư luận trong và ngoài nước can thiệp rất mạnh, cuối cùng không xét xử được, vụ án phải đình chỉ, nhưng chuyển thành một lệnh quản chế 2 năm (và tịch thu thêm một dàn vi tính trong đợt này). Đặc biệt khi hết đợt 2 năm quản chế này, Hà Sĩ Phu lại bị đấu tố một lần nữa tại khu phố hòng tiếp tục kéo dài quản chế.

  • Trong những đợt bắt các ông Phạm Quế Dương, Trần Khuê hoặc câu lưu Đỗ Nam Hải thì Hà Sĩ Phu đều bị liên quan, bị công an mời lên làm việc.

  • Do các bài phỏng vấn bình luận về các bài góp ý của ông Võ Văn Kiệt, Hà Sĩ Phu cũng bị công an mời lên làm việc.

  • Ngoài những việc đàn áp chính thức ấy, Hà Sĩ Phu còn bị liên tục gây phiền nhiễu bằng 3 kiểu phiền nhiễu triền miên như sau: Đi đến đâu cũng bị công an nơi đó tiếp cận, gây phiền nhiễu, thậm chí đi chữa bệnh (có trình báo rồi) vẫn bị hạch sách về trình báo hộ khẩu, ra lệnh phạt tiền cả 2 vợ chồng một cách hết sức vô lý (công an viện dẫn luật pháp rằng bất cứ người Việt nam nào cũng phải có phép của công an mới được rời nhà ở của mình quá 24 tiếng). Nhiều khi bạn bè đến chơi cũng bị công an xộc đến “thăm hỏi”. Riêng điện thoại của gia đình thì bị cắt suốt từ năm 1997 đến nay (10 năm, và còn tiếp tục), nhiều lần yêu cầu nối lại vẫn kiên quyết không cho dùng điện thoại, nên không tiếp xúc được với mạng Internet hay Email, cốt để cô lập Hà Sĩ Phu cả về quan hệ lẫn thông tin.

Ông Vương Tấn Việt vừa bị Bộ Giáo dục và Đào tạo ra quyết định thu mọi bằng cấp ở bậc đại học

Đài Á Châu Tự Do 

Ông Vương Tấn Việt, hay còn được biết dưới pháp danh Thích Chân Quang, vừa bị Bộ Giáo dục và Đào tạo ra quyết định thu mọi bằng cấp ở bậc đại học.

Trước đó, trong tháng 6, Bộ Giáo dục và Đào tạo ra công văn hỏa tốc yêu cầu Trường Đại học Luật Hà Nội giải trình về việc cấp bằng tiến sĩ cho vị tu sĩ Phật giáo này.

Bằng tiến sĩ của ông Vương Tấn Việt thu hút sự chú ý của dư luận bởi thời gian hoàn thành ngắn bất thường, chỉ trong vòng 2 năm, và việc trước đó ông này chỉ có bằng đại học tại chức ngành Luật.

Ngoài lùm xùm liên quan đến bằng cấp, vị trụ trì chùa Phật Quang ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu còn vướng phải rắc rối trong nội bộ Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Các phát ngôn của ông này được cho là “không đúng chánh pháp” và “gây hoang mang trong xã hội”, dẫn đến việc Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra quyết định cấm thuyết giảng dưới mọi hình thức trong hai năm hồi giữa tháng 6.

#RFAVietnamese #thichchanquang #giaohoiphatgiaovietnam #phatgiao

Lượng kiều hối về Sài Gòn đạt kỷ lục, gần 7,4 tỷ USD trong chín tháng

Ba’o Dat Viet

October 21, 2024

Theo số liệu từ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chi nhánh  Sài Gòn, lượng kiều hối chuyển về thành phố này trong chín tháng đầu năm 2024 đã đạt mức kỷ lục gần 7,4 tỷ USD. Đây là con số cao nhất từ trước đến nay, chỉ trong ba quý đầu năm, và đạt 78,1% so với cả năm 2023, năm mà lượng kiều hối đã lên đến 9,46 tỷ USD – cũng là năm có lượng kiều hối lớn nhất lịch sử.

Kiều hối đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của Sài Gòn nói riêng và Việt Nam nói chung, cung cấp nguồn tài chính lớn cho tiêu dùng, đầu tư và phát triển hạ tầng. Lượng tiền từ người Việt ở nước ngoài gửi về thường được sử dụng để hỗ trợ gia đình, đầu tư vào bất động sản, kinh doanh và thậm chí là tài trợ cho các dự án phát triển địa phương.

Theo báo cáo của Ngân hàng Nhà nước, lượng kiều hối từ khu vực châu Á chiếm tỷ trọng cao nhất, đạt 53,8% trong tổng số tiền kiều hối chuyển về thành phố. Điều này cho thấy mối quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và các quốc gia châu Á vẫn rất mạnh mẽ, đặc biệt là với những cộng đồng người Việt sống ở các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan. Đáng chú ý, lượng kiều hối từ châu Mỹ tăng 4,4%, từ châu Đại Dương tăng 20%, trong khi từ châu Âu giảm 19,1% so với cùng kỳ năm trước.

Tuy nhiên, trong quý III/2024, lượng kiều hối từ các khu vực đều giảm, ngoại trừ châu Âu tăng 22,8% so với quý II/2024. Mặc dù kiều hối từ châu Âu giảm so với cùng kỳ năm trước, nhưng mức tăng trong quý III cho thấy có những tín hiệu tích cực từ khu vực này, có thể do các yếu tố kinh tế hoặc sự gia tăng nhu cầu hỗ trợ tài chính của người Việt ở nước ngoài.

Từ khi bắt đầu thống kê lượng kiều hối vào năm 1993, Việt Nam đã nhận được trên 190 tỷ USD tiền kiều hối, một con số gần tương đương với nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giải ngân trong cùng giai đoạn. Điều này cho thấy tầm quan trọng của kiều hối đối với nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là trong việc giúp đỡ người dân cải thiện đời sống và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế.

Số liệu cũng cho thấy rằng cộng đồng người Việt ở nước ngoài đang ngày càng lớn mạnh. Cách đây 20 năm, tổng số người Việt sinh sống ở nước ngoài là khoảng 2,7 triệu người. Hiện nay, con số này đã tăng lên khoảng 6 triệu người, sống ở hơn 130 quốc gia và vùng lãnh thổ, với hơn 80% trong số này sinh sống tại các quốc gia phát triển như Hoa Kỳ, Canada, Úc và các nước châu Âu. Những cộng đồng này không chỉ đóng góp về mặt kiều hối mà còn giúp phát triển quan hệ kinh tế, thương mại và văn hóa giữa Việt Nam và các quốc gia mà họ đang sinh sống.

Bên cạnh kiều bào sinh sống lâu dài ở nước ngoài, lực lượng lao động xuất khẩu của Việt Nam cũng đóng góp lớn vào nguồn kiều hối. Mỗi năm, từ 120.000 đến 140.000 lao động Việt Nam đi làm việc tại nước ngoài, đặc biệt là ở các quốc gia châu Á, đã gửi về khoảng 3,5 đến 4 tỷ USD. Điều này không chỉ giúp cải thiện đời sống của hàng triệu gia đình mà còn góp phần vào sự phát triển kinh tế của Việt Nam thông qua đầu tư vào các dự án địa phương và các doanh nghiệp nhỏ.

Lượng kiều hối tăng kỷ lục trong năm 2024 cho thấy tầm quan trọng ngày càng lớn của nguồn tài chính này đối với nền kinh tế Việt Nam. Với xu hướng toàn cầu hóa và sự phát triển của công nghệ tài chính, việc chuyển tiền giữa các quốc gia ngày càng trở nên dễ dàng hơn, giúp người Việt ở nước ngoài có thể đóng góp một cách linh hoạt và hiệu quả hơn vào nền kinh tế quê hương. Trong tương lai, nguồn kiều hối có thể sẽ tiếp tục tăng, đặc biệt khi số lượng người Việt Nam sinh sống và làm việc ở nước ngoài tiếp tục gia tăng. 


 

Cựu Tổng thống Jimmy Carter bỏ phiếu ở tuổi 100, hoàn thành tâm nguyện ủng hộ bà Harris

Ba’o Dat Viet

October 18, 2024

Cựu Tổng thống Mỹ Jimmy Carter, người vừa kỷ niệm sinh nhật 100 tuổi vào ngày 1.10, đã hoàn thành một trong những mong muốn lớn của mình khi bỏ phiếu trong cuộc bầu cử tổng thống sắp tới tại bang Georgia. Đây là thông tin được Đài CNN đưa tin vào ngày 17.10. Ông Carter đã bỏ phiếu từ xa vào ngày 16.10, trong giai đoạn bỏ phiếu sớm của bang, và lá phiếu này dành cho Phó Tổng thống Kamala Harris, người đang đối đầu với cựu Tổng thống Donald Trump trong cuộc đua vào Nhà Trắng.

Theo Trung tâm Carter, ông Jimmy Carter từ lâu đã mong muốn được sống đủ lâu để có thể ủng hộ bà Harris trong cuộc bầu cử quan trọng này. Dù tuổi tác đã cao và sức khỏe suy yếu, ông vẫn dõi theo sát sao các diễn biến của chiến dịch tranh cử. Cháu trai của ông, Jason Carter, từng chia sẻ rằng ông đã nói với gia đình về quyết tâm bỏ phiếu cho bà Harris và nhấn mạnh rằng đây là điều ông rất mong chờ. Jason Carter cũng tiết lộ, trong cuộc trò chuyện với đài CBS vào tháng 9, rằng khi hỏi ông Carter liệu ông có phấn khích về cột mốc sinh nhật 100 tuổi hay không, ông Carter trả lời rằng: “Tôi hào hứng với điều đó, nhưng tôi thực sự hào hứng hơn khi được bỏ phiếu cho bà Kamala Harris.”

Phó Tổng thống Kamala Harris cũng đã bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc trước sự ủng hộ của cựu Tổng thống Carter. Trên mạng xã hội vào tối ngày 16.10, bà viết: “Tổng thống Carter, cảm ơn ông vì sự ủng hộ.”

Hiện tại, cựu Tổng thống Carter đang trải qua những ngày cuối đời tại nhà riêng ở thị trấn Plains, bang Georgia. Từ tháng 2.2023, ông đã được chăm sóc trong chế độ an dưỡng cuối đời. Theo Viện Y tế Quốc gia Mỹ, thời gian sống trung bình của những người trong chế độ an dưỡng cuối đời chỉ khoảng 63 ngày, nhưng ông Carter đã sống hơn 19 tháng trong tình trạng này, thể hiện sức bền bỉ đáng ngưỡng mộ.

Tuy nhiên, cuộc sống của ông không thiếu những mất mát lớn. Bà Rosalynn Carter, phu nhân của ông và là người bạn đời đã đồng hành cùng ông suốt 77 năm, đã qua đời vào tháng 11.2023. Dù sức khỏe yếu, cựu Tổng thống vẫn cố gắng tham dự lễ tưởng niệm vợ mình trên xe lăn, cho thấy tình yêu và sự gắn bó của ông đối với bà.

Cuộc sống của ông Jimmy Carter, với những cột mốc lịch sử và đóng góp lớn lao cho nước Mỹ, vẫn là một biểu tượng của sự kiên định và lòng nhân ái. Lá phiếu của ông dành cho Kamala Harris không chỉ thể hiện quan điểm chính trị mà còn là lời nhắn nhủ về niềm hy vọng và sự tin tưởng vào tương lai.


 

Từ giải thưởng Nobel kinh tế, lại nghĩ đến Việt Nam-Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Hoàng Quốc Dũng

Ba đồng sở hữu Nobel kinh tế

“Tiền là Tiên là Phật ». Chẳng ai phản đối câu nói dân dã này của người Việt Nam. Nói tóm lại Kinh tế quyết định tất cả. Sự thành bại của một cá nhân, của một quốc gia phụ thuộc vào kinh tế.

NHƯNG CÁI GÌ QUYẾT ĐỊNH CHO SỰ THÀNH BẠI CỦA KINH TẾ

Câu trả lời nằm trong giải Nobel kinh tế 2024

Giải Nobel Kinh tế năm 2024 đã được trao cho Daron Acemoglu, Simon Johnson và James A. Robinson vì những nghiên cứu của họ về tầm quan trọng của các thể chế đối với sự thịnh vượng của các quốc gia. Họ chỉ ra rằng các thể chế dân chủ, bảo vệ quyền sở hữu và hạn chế lạm dụng quyền lực, giúp thúc đẩy đổi mới và tăng trưởng kinh tế lâu dài. Ngược lại, các thể chế chiếm đoạt, tập trung quyền lực và tài sản vào một số giới nào đó thường kìm hãm sự phát triển kinh tế. Những nghiên cứu của họ được thể hiện trong cuốn sách “Why Nations Fail: The origins of Power, Prosperity, and Poverty”(Tại sao các quốc gia thất bại: Nguồn gốc của quyền lực, thịnh vượng và nghèo đói).

Tôi không muốn đi sâu vào các chi tiết của cuốn sách, chỉ biết rằng cuốn sách này đã được xuất bản từ năm 2012 được dịch ra hơn 30 thứ tiếng(kể cả tiếng Việt). Cuốn sách đã có 1 ảnh hưởng lớn trên toàn thế giới trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và phát triển.
Đã có biết bao nhiêu bài báo, sách vở chỉ trích chế độ độc tài, nguyên nhân của sự nghèo đói và kém phát triển. Nhưng cuốn sách này là một cuốn nghiên cứu sâu rộng, khoa học với các dẫn chứng cụ thể và nó đã xứng đáng đạt giải Nobel. Như vậy, giải Nobel cũng đã chính thức vạch mặt chỉ tên độc tài.

Bây giờ tôi muốn nói đến sự sụp đổ không thể tránh khỏi của các chế độ độc tài.
Các chế độ độc tài, dù có thể tồn tại trong một khoảng thời gian dài, cuối cùng cũng có xu hướng sụp đổ vì nhiều lý do mang tính cấu trúc. Về bản chất, các chế độ này không ổn định, giống như một thứ cân bằng không bền, mà đã có lần tôi đã dùng đến trong một bài viết trước đây.(Người đi trên dây là một thí dụ cân bằng không bền. Quả lắc đồng hồ là 1 thí dụ về cân bằng bền). Lịch sử của nhân loại đã cho chúng ta nhiều thí dụ về tính không ổn định và sự sụp đổ không tránh khỏi của các chế độ độc tài.

Một cách ngắn gọn nhất, Các chế độ độc tài sụp đổ vì :
1. Điểm yếu đầu tiên là nó thiếu tính chính danh từ nhân dân, tính chính danh dân chủ. Khác với các chế độ dân chủ, các chế độ độc tài thường cướp chính quyền và duy trì quyền lực bằng bạo động và đàn áp. Đây là những nguyên nhân gây ra bất mãn và các phong trào phản kháng của nhân dân. Khi những bất mãn này đạt đến đỉnh điểm, chế độ sẽ sụp đổ dưới áp lực của các cuộc đấu tranh, biểu tình của nhân dân.
2. Điểm yếu thứ hai của độc tài là nó tập trung quyền lực vào tay của một cá nhân hay một nhóm. Điều này dẫn đến lạm dụng quyền lực và tham nhũng tràn lan. Thiếu sự kiểm soát và đối trọng, các chế độ này trở nên mục nát từ bên trong, sẽ đến lúc không thể nào cứu vãn được.
3. Điểm yếu thứ ba chính là điều mà giải thưởng Nobel kinh tế 2024 đã nói đến, Kinh tế kém hiệu quả. Các chế độ độc tài không thể đảm bảo được sự tăng trưởng kinh tế bền vững. Tự do cá nhân bị bóp nghẹt, tự do sáng tạo sẽ bị hạn chế. Tham nhũng làm bộ máy kinh tế không thể nào hoạt động một cách bình thường.

Sự phồn thịnh hay đói nghèo của một đất nước hay một dân tộc không phụ thuộc vào vị trí địa lý, chủng tộc hay tôn giáo hay sự ngắn dài của lịch sử mà là kết quả của thể chế chính trị. Nước Mỹ chỉ có hơn 200 năm lịch sử, nước ta trên 4.000 năm…

Tuy nhiên, một số đặc điểm riêng của VN(văn hóa, lịch sử, xã hội…) đã làm cho chế độ cộng sản có thể bám rễ lâu hơn so với các nước khác. Tôi mạo muội đưa ra một số đặc điểm sau:

  1. Chế độ cộng sản không coi trọng cá nhân(trong nhân dân) và luôn luôn đề cao tính tập thể. Đặc điểm này có vẻ như hợp với người VN. Từ ngàn đời, người Vn ta có truyền thống sống trong các làng xã nhỏ bé, nơi mà mọi người biết rõ nhau, thậm chí có quan hệ huyết thống với nhau và cùng hỗ trợ nhau để tồn tại. Sự đoàn kết chặt chẽ này giúp hình thành tinh thần tập thể mạnh mẽ và dễ đồng nhất với tư tưởng cộng sản, vốn coi trọng tập thể và cộng đồng hơn cá nhân. Chế độ cộng sản đã khéo léo khai thác đặc tính này, sử dụng nó như một công cụ để duy trì sự thống nhất và kiểm soát xã hội.
  2. Tinh thần yêu nước và chống ngoại xâm: Người Vn có truyền thống yêu nước, có lịch sử lâu dài chống lại thành công các cuộc xâm lược từ Trung Quốc. Chính quyền cộng sản đã rất thành công trong việc động viên, kích động nhân dân trong các cuộc chiến chống Pháp, Nhật, Mỹ. HỌ KÉO LÉO GẮN KẾT NHỮNG THÀNH CÔNG ĐÓ VỚI TƯ TƯỞNG CỘNG SẢN, kiến nhiều người dân tin rằng Đảng với tư tưởng cộng sản là lực lượng duy nhất có thể bảo vệ đất nước trước sự đe dọa của ngoại bang. Yêu nước trở thành yêu Đảng, Yêu CNXH. Chủ nghĩa yêu nước của VN tự nhiên trở thành một yếu tố quan trọng củng cố tính chính danh của chế độ, hóa giải được điểm yếu chí mạng của một chế độ độc tài.(Yếu tố số 1 nêu trên).
  3. Chấp nhận quyền lực từ trên xuống dưới. Nước ta là một nước nông nghiệp, phong kiến lạc hậu. Người Vn quen với việc chấp nhận quyền lực từ trên xuống dưới. Ngày xưa thì có vua, bây giờ thì có đảng. Trong cấu trúc xã hội VN, sự tuân thủ và tôn trọng quyền lực đã trở thành một phần của văn hóa. Chính quyền cộng sản đã kế thừa và khai thác mô hình quyền lực này, áp đặt quyền lực mạnh mẽ từ trung ương đến địa phương. Điều này khiến cho người dân có xu hướng dễ chấp nhận và ít chống đối sự cai trị từ trên.
  4. Tính linh hoạt, khôn lỏi và thích nghi với hoàn cảnh. Trên đây là tôi tạm thời liệt kê một vài yếu tố có tính chất xã hội, cộng đồng, nói chung. Còn về cá nhân, người Việt có tính khôn lỏi rất cao để thích nghi với hoàn cảnh. Họ có thể chấp nhận điều chỉnh cuộc sống của mình dưới bất kỳ chế độ nào, luồn lách, tìm cái lợi riêng trong một thể chế chung tồi tệ. Người ta có thể nhắm mắt làm ngơ trước những bất công của xã hội, miễn là mình còn có lợi. Hơn nữa, trong xă hội Việt Nam, gia đình là một yếu tố trung tâm rất quan trọng trong đời sống của mỗi cá nhân. Nhiều người tìm cách sống khôn lỏi, an phận để bảo vệ an toàn cho mình và gia đình. Chế độ cộng sản cũng khéo léo lợi dụng yếu tố này để duy trì sự ổn định, thậm chí khuyến khích việc giám sát lẫn nhau giữa các thành viên trong xã hội.
  5. Tính kiên nhẫn và sức chịu đựng. Chắc chắn chúng ta là một dân tộc có tính kiên nhẫn và chịu đựng rất cao. Nói một cách dân dã “thà đói khổ nằm nhà còn hơn là đi đấu tranh đòi hỏi một cái gì đó chống lại chính quyền”.

6 Dân trí. Dưới đây là một đoạn trích trong báo Tiền Phong, Cơ quan trung ương đoàn TNCS Hồ Chí Minh : “Tản Đà đã chỉ ra một vấn nạn vô cùng nặng nề và dai dẳng của dân tộc: Ấy là mối quan hệ giữa dân trí với nạn quan tham lại nhũng: Cũng bởi thằng dân ngu quá lợn/Cho nên quân nó dễ làm quan”.(trích nguyên văn)

Rõ ràng dân trí của chúng ta vẫn đang là một vấn nạn khổng lồ của ngày hôm nay. Xã hội chỉ thay đổi được trước những đòi hỏi mãnh liệt của quần chúng nhân dân.

Chúng ta đã bước sang thế kỷ 21, nhưng dân trí của ta có thể vẫn ở mức độ cách đây vài trăm năm của Châu Âu. Chế độ độc tài nào rồi cũng phải sụp đổ nhưng nếu dân trí không khá hơn thì chúng ta vẫn tiếp tục “xứng đáng được hưởng” những “thành quả” của CNXH và tiếp tục tiến tới CNCS, thiên đường.

Giải thưởng Nobel là giải thưởng quốc tế danh giá nhất giành cho những công trình nghiên cứu có những đóng góp lớn lao trong việc làm cho xã hội loài người tốt hơn. Phủ nhận các giải thưởng Nobel đồng nghĩa với phủ nhận sự tiến bộ của nhân loại. Vậy mà, theo tôi được biết, cuốn sách “Tại sao các quốc gia thất bại: Nguồn gốc của quyền lực, thịnh vượng và nghèo đói” do Tiến Sỹ Nguyễn Quang A dịch đầu tiên, sau đó được nhóm khác có bản quyền dịch, xuất bản ở VN đã không được tái bản, thậm chí đang bị âm thầm thu hồi.

(Hình minh hoạ tranh vui của Nga “Cái hoạ không phải là ở chỗ ở bên trên nói láo mà ở chỗ bên dưới lại tin”).


 

Báo VnExpress gỡ hình về giải Nobel Kinh tế 2024

 Đài Á Châu Tự Do

Hình ảnh với nội dung quy trách nhiệm cho thể chế chính trị về tình trạng giàu nghèo giữa các quốc gia đã bị báo VnExpress gỡ bỏ trên trang Facebook.

Ảnh chụp màn hình của bài đăng gốc về giải Nobel Kinh tế năm 2024, được đăng lúc 12:05 trưa ngày 18 tháng 10, chứa dòng chữ “Chênh lệch giàu nghèo giữa các nước là do thể chế”.

Nhưng theo lịch sử chỉnh sửa của bài đăng trên, chỉ 40 phút sau, lúc 12:45 hình ảnh gốc đã bị gỡ bỏ và thay thế bằng hình ảnh mới có nội dung “Nobel Kinh tế 2024 giải thích chênh lệch giàu-nghèo”.

Giải Nobel Kinh tế năm nay được trao cho ba kinh tế gia đang làm việc tại Hoa Kỳ, hai trong số đó là tác giả của cuốn sách “Tại sao các quốc gia thất bại” được Nhà xuất bản Trẻ phát hành bản tiếng Việt năm 2013.

Ngày 15 tháng 10, RFA đưa tin hiện cuốn sách này đã bị cấm tái bản ở Việt Nam mà không rõ lý do.

#RFAVietnamese #NobelPrize #NobelPrize2024 #censorship #kiemduyet

Thượng Viện California vinh danh bà Khúc Minh Thơ, ân nhân cựu tù nhân chính trị và thuyền nhân-Văn Lan/Người Việt

Ba’o Nguoi-Viet

October 18, 2024

Văn Lan/Người Việt

SANTA ANA, California (NV) – Lễ vinh danh bà Khúc Minh Thơ, ân nhân của cựu tù nhân chính trị, được Tập Thể Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa Hải Ngoại tổ chức vào Chủ Nhật, 13 Tháng Mười, tại nhà hàng White Palace 2, Santa Ana.

Cựu Trung Úy Trần Ngọc Vinh, cựu tù nhân chính trị, chứng minh hồ sơ ký hiệu R.123 do bà Khúc Minh Thơ can thiệp để gia đình ông được qua Mỹ theo chương trình H.O. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Tại buổi lễ, Thượng Nghị Sĩ Janet Nguyễn đã trao bằng tưởng lục của Thượng Viện California vinh danh bà Khúc Minh Thơ vì những công lao của bà đã ròng rã trong hơn 30 năm để thiết lập hồ sơ “Tù Cải Tạo,” vận động các cơ quan hành pháp và lập pháp Hoa Kỳ để chấp nhận cho các cựu tù nhân chính trị và gia đình được định cư tại Hoa Kỳ theo chương trình H.O.

Bà Khúc Minh Thơ đã từng gõ cửa các vị dân cử các cấp ở Quốc Hội Mỹ để nhờ can thiệp cho không những trường hợp tù chính trị Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) được qua Mỹ theo diện H.O, mà bà cũng là ân nhân của những thuyền nhân vượt biển ở các trại tị nạn sau năm 1975 cũng được xét định cư tại Mỹ.

Thượng Nghị Sĩ Janet Nguyễn, con của một trong những gia đình thuyền nhân năm xưa, sau khi đã vận động, được Thượng Viện California chấp thuận, đã trao một bằng tưởng lục đến bà Khúc Minh Thơ để vinh danh bà.

MC Thanh Tùng (phải) và MC Đỗ Thanh, hậu duệ của đại gia đình H.O., cầm một bức vải trắng lớn có chữ ký của những thuyền nhân năm xưa tại trại tị nạn Hồng Kông, ngày 14 Tháng Mười, 1989, phản đối bị trả lại Việt Nam, và được định cư Mỹ. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Dược Sĩ Cao Xuân Thanh Ngọc, một trường hợp tiêu biểu cho lớp hậu duệ của đại gia đình H.O., cha của cô là một người tù “cải tạo,” khổ sai suốt 10 năm trong các trại tù cộng sản từ Nam ra Bắc, trong khi mẹ cô vất vả trăm bề để nuôi năm người con.

Cô xúc động nói: “Gia đình chúng tôi được định cư tại Hoa Kỳ theo chương trình H.O. là một sự nỗ lực thật không dễ chút nào đối với nhiều nhân sĩ trong Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam. Người tôi muốn vinh danh nhiều nhất là bà Khúc Minh Thơ, người đã thấu hiểu những thảm cảnh của những người tù ‘cải tạo,’ khi bà đã làm việc không ngừng nghỉ.”

Tiếp đến, hai MC Thanh Tùng và MC Đỗ Thanh cầm một bức vải trắng lớn có chữ ký của những thuyền nhân năm xưa tại trại tị nạn Hồng Kông, ngày 14 Tháng Mười, 1989, phản đối bị trả lại Việt Nam, và được định cư Mỹ nhờ công lao của bà Khúc Minh Thơ đã can thiệp. Bức vải này sau đó được trao lại cho ký giả Triều Giang, người tiếp nhận hồ sơ cựu tù chính trị từ bà Khúc Minh Thơ, để chuyển giao cho thư viện Lubbock tại đại học Texas Tech University.

Bác Sĩ Phạm Đức Vượng, chủ tịch Hội Đồng Điều Hành Tập Thể Chiến Sĩ VNCH Hải Ngoại, phát biểu trong buổi lễ vinh danh bà Khúc Minh Thơ. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Ông Trần Ngọc Vinh, Khóa 6/69 Trường Bộ Binh Thủ Đức, về Sư Đoàn 25 Bộ Binh với cấp bậc trung úy, kể lại sau khi ra tù bảy năm “cải tạo,” ông gửi trực tiếp hồ sơ của gia đình qua cho người anh ở Mỹ, để gửi qua nhờ bà Khúc Minh Thơ can thiệp.

Ông kể: “Khi hồ sơ ở Mỹ gửi về, chỉ có tôi, vợ tôi và con gái được qua Mỹ, cháu nội tôi bị ở lại. Vì cha nó mất sớm nên tôi nuôi cháu từ lúc mới 2 tháng tuổi, tôi nghĩ nếu gia đình đi Mỹ hết thì cháu nội ai nuôi nên gửi tiếp một thư.”

“Đến 1998 thì phía Mỹ đồng ý cho cháu nội tôi đi theo hồ sơ R13, số thứ tự R.123, là số hồ sơ đặc biệt do bà Khúc Minh Thơ vận động tại Mỹ, nếu hồ sơ H.O. làm tại Việt Nam chắc là không đi được. Gia đình tôi mang ơn bà Khúc Minh Thơ hết sức, nhờ bà vận động can thiệp với chính phủ Mỹ nên tất cả bốn người trong gia đình tôi được ra đi, lúc đó cháu nội tôi mới 5 tuổi,” ông xúc động kể.

Dược Sĩ Cao Xuân Thanh Ngọc, một trong những trường hợp thành công tiêu biểu của hậu duệ đại gia đình H.O., cám ơn bà Khúc Minh Thơ. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

“Cháu nội tôi nay đã tốt nghiệp đại học và thành tài trong xã hội Hoa Kỳ. Xin hết lời cám ơn bà, một vị đại ân nhân của các cựu tù ‘cải tạo,’ nếu không có bà có lẽ chúng tôi cũng tàn tạ như bao nhiêu người tù chính trị VNCH nghèo đói khác còn ở lại quê nhà,” ông nghẹn ngào nói.

Bà Khúc Minh Thơ, chủ tịch Hội Gia Đình Cựu Tù Nhân Chính Trị Việt Nam, từ năm 1989 và trước đó nữa, chỉ ngủ được bốn giờ một ngày, thì giờ còn lại dành hết cho chương trình H.O.

Mỗi ngày bà nhận hàng bao bố thư của bưu điện gửi đến, đọc và lựa lọc lại những trường hợp đặc biệt như can thiệp cho vợ con, gia đình những người tù chính trị đã chết trong tù cũng được định cư, rồi đến những hồ sơ con lai, rồi đến chương trình ODP.

Bà đã hoạt động hết mình để chính phủ Mỹ can thiệp với nhà cầm quyền Việt Nam, để một là trả tự do cho những người tù “cải tạo,” hai là cho họ cùng gia đình được định cư tại Hoa Kỳ, để cứu vớt những người tù đang bị giam cầm, tra tấn, tù đày áp bức hành hạ trong lao tù Cộng Sản.

Hợp ca “Việt Nam Quê Hương Ngạo Nghễ” trong lễ vinh danh bà Khúc Minh Thơ. (Hình: Văn Lan/Người Việt)

Sau cuộc chiến Việt Nam, hàng chục ngàn sĩ quan, công chức VNCH bị đi tù “cải tạo,” vợ con họ bị đẩy vào đường kinh tế mới, không được học lên cao, hàng ngàn gia đình con lai bị kỳ thị và bạc đãi, cuộc sống không hy vọng và không tương lai.

Gần 300,000 cựu tù nhân chính trị, gồm những cựu quân nhân Quân Lực VNCH và các viên chức dân sự, cùng gia đình đến được xứ sở tự do theo chương trình H.O., đến hôm nay con số ấy đã lớn lên đến hàng triệu người Việt, để con cháu thành công nơi hải ngoại trong mọi lãnh vực.

Buổi lễ vinh danh bà Khúc Minh Thơ như một “Bà Tiên,” còn có tên gọi thân thương là “Cô Bảy Sa Đéc,” một vị nữ lưu đáng kính, dù tuổi cao đã không đến dự được nhưng với trái tim nhân ái, vẫn lưu lại trong lòng những người được cứu và sống cuộc đời đáng sống nơi xứ người. [qd]


 

Khủng hoảng địa chính trị tái thúc đẩy thị trường tàu ngầm thế giới (RFI)

« Khủng hoảng địa chính trị tái thúc đẩy thị trường tàu ngầm thế giới », « Thị trường tầu ngầm đang ở thời hoàng kim ». Trên đây là những nhận định của các báo Pháp Le Monde ngày 14/10 và Les Echos hôm 27 và 28/09. Ngày càng có nhiều quốc gia muốn trang bị tàu ngầm, loại vũ khí đắt tiền, nhưng tinh vi và có sức răn đe vô song.

Tầu ngầm hạt nhân Barracuda lớp Suffren của Hải Quân Pháp tại cảng quân sự Toulon, miền nam nước Pháp, ngày 06/11/2020.

Tầu ngầm hạt nhân Barracuda lớp Suffren của Hải Quân Pháp tại cảng quân sự Toulon, miền nam nước Pháp, ngày 06/11/2020. AFP – NICOLAS TUCAT

Thùy Dương

Minh họa cho những nhận định trên là thông tin Canada gọi thầu mua 12 tàu ngầm mới chạy bằng năng lượng thông thường và có khả năng di chuyển bên dưới sông băng. 4 tàu ngầm hiện có của Canada thuộc lớp Victoria mua của Anh vào cuối những năm 1990. Báo kinh tế Pháp Les Echos ngày 27/09 nhấn mạnh đây là cuộc gọi thầu lớn nhất thế giới trong lĩnh vực tàu ngầm. Chính phủ Canada nhận định: « Những tàu ngầm của chúng tôi ngày càng lỗi thời và chi phí bảo trì rất lớn ». Ottawa dự kiến thay mới đội tàu vào giữa những năm 2030. Để đề phòng, muộn nhất vào năm 2028 Canada phải ký hợp đồng nếu muốn nhận chiếc tàu ngầm mới đầu tiên vào năm 2035, và để có thể sản xuất một phần ngay trên lãnh thổ Canada nhờ được chuyển giao công nghệ.

Trong khi đó, tập đoàn đóng tầu của Pháp Naval Group hôm 30/09 ký kết hợp đồng trị giá 5 tỉ euro, bán 4 tàu ngầm Barracudas tải trọng 3.000 tấn cho Hà Lan sau 7 năm đàm phán.

Theo Le Monde, việc lựa chọn loại tàu ngầm « viễn chinh » Barracudas nói lên nhiều tham vọng của Hà Lan. Tầu ngầm Barracuda chạy rất êm, được trang bị vũ khí hạng nặng và đa năng, như tấn công, phát hiện, trinh sát, rà phá bom mìn … Tầu ngầm Barracuda có thể được triển khai ở mọi đại dương trên toàn cầu và hoạt động dưới nước liên tục trong một thời gian rất dài. Công nghệ bình điện lithium-ion cải tiến của Saft, một công ty con của TotalEnergies, cho phép tàu ở dưới nước lâu hơn và khả năng bắn tên lửa Tomahawk của Mỹ, là điểm nổi bật của Barracuda.

Liên quan đến Canada, chính bối cảnh địa chiến lược đã thúc đẩy Ottawa thay mới đội tầu ngầm, tăng gấp 3 lần số tàu ngầm hiện có : băng tan chảy khiến các tuyến đường biển ở vùng cực trở thành các tuyến chiến lược cả về quân sự và thương mại, vào lúc Nga và Trung Quốc đang củng cố, tăng cường sự hiện diện ở vùng Cực Bắc. Bộ trưởng Quốc Phòng Canada Bill Blair, được Le Monde trích dẫn, cho biết cuộc cạnh tranh dành cho các nhà sản xuất có khả năng đáp ứng nhu cầu của Ottawa, bất kể châu Âu hay châu Á.

Vẫn bộ trưởng Quốc Phòng Canada Bill Blair, được báo Les Echos trích dẫn, khẳng định : « Là một quốc gia Bắc Cực, Đại Tây Dương và Thái Bình Dương có đường bờ biển dài nhất thế giới, Canada cần một hạm đội tàu ngầm mới. Việc mua tới 12 tàu ngầm chạy bằng năng lượng thông thường, có khả năng hoạt động dưới băng cho phép Hải quân Hoàng gia Canada tăng cường khả năng phát hiện và ngăn chặn các mối đe dọa hàng hải, kiểm soát bờ biển, cũng như triển khai sức mạnh và khả năng tấn công xa hơn từ bờ biển của mình ».

Les Echos nhắc lại là vào tháng 04, Canada đã thông qua chiến lược mới về quốc phòng và an ninh, mang tên « Phương Bắc của chúng ta, mạnh mẽ và tự do ». Một trong những thách thức chính là sự nóng lên ở Bắc Cực nhanh gấp 4 lần so với mức trung bình của thế giới. Với sự tan chảy của băng đá, hơn bao giờ hết Bắc Băng Dương có nguy cơ trở thành một không gian cạnh tranh mới. Một số người thậm chí cho rằng đến năm 2050, do biến đổi khí hậu, một tuyến hàng hải hiệu quả nhất kết nối châu Âu và châu Á sẽ được mở ra tại Bắc Băng Dương.

Hiện nay, hành lang tây-bắc của Canada và vùng Bắc Cực đã trở nên dễ tiếp cận hơn và chính phủ Canada cho biết đang quan sát thấy « sự gia tăng hoạt động của Nga, và ngày càng nhiều tàu nghiên cứu và giàn giám sát lưỡng dụng của Trung Quốc thu thập dữ liệu về Bắc Canada », nhất là để định vị các nguồn năng lượng tiềm ẩn có thể khai thác và tất cả các nguồn tài nguyên dưới đáy biển.

Cơ động và không dễ bị phát hiện

Chi tiêu quân sự trên toàn thế giới đã tăng lên từ 10 năm trở lại đây, lên thành 2.443 tỷ đô la vào năm 2023, tương đương 2.225 tỷ euro, và số tàu ngầm quân sự (444) cũng sẽ tăng. Le Monde trích dẫn tổ chức tư vấn Mordor Intelligence, theo đó thị trường từ năm 2019 đến năm 2029 sẽ tăng gấp đôi về giá trị, chủ yếu ở khu vực Bắc Mỹ. Theo chủ tịch – tổng giám đốc của Naval Group, Pierre Eric Pommelet, ngày càng có nhiều quốc gia có kế hoạch trang bị thêm số lượng tàu ngầm, hoặc thậm chí thành lập một đội tầu ngầm, trong đó có nhiều nước như Ấn Độ, Ai Cập, Brazil, Peru, Colombia, Argentina và Indonesia. Ả Rập Xê Út cũng được ghi nhận có chương trình hải quân tham vọng.

Các đại dương là không gian chung, nhưng tại một số khu vực xảy ra tranh chấp. Đơn cử là ở Biển Đông, nơi Philippines đang trang bị tàu ngầm để đối phó với mối đe dọa từ Bắc Kinh. Trong khi đó, để đối phó với Nga, Ba Lan và Na Uy lần lượt muốn có thêm 3 và 6 tàu ngầm được trang bị vũ khí đủ mạnh và có tầm hoạt động xa. Cơ động và khó có thể bị phát hiện, tàu ngầm có thể duy trì mối đe dọa thường trực và có thể được triển khai ở mọi đại dương, bảo đảm an ninh của các tuyến đường thương mại, cũng như bảo vệ cơ sở hạ tầng (cáp Internet, đường ống dẫn khí đốt, khu vực cảng, biển …)

Chủ tịch – tổng giám đốc của Naval Group, Pierre Eric Pommelet, phân tích là chỉ một vài tàu ngầm cũng có thể bảo đảm an ninh cho cả một khu vực rộng lớn, nhất là những vùng đặc quyền kinh tế của các quốc gia tiếp giáp biển. Đó là những ưu thế mà các tàu mặt nước không có, nên dễ bị tên lửa và drone biển tấn công, như cách mà Ukraina sử dụng để tấn công hạm đội Nga ở Hắc Hải.

Nhìn sang Les Echos, tờ báo kinh tế của Pháp hôm 28/09 cho biết chưa bao giờ trên thế giới lại có nhiều chiến dịch tích cực để mua tàu ngầm như hiện nay. Les Echos cũng trích dẫn chủ tịch – tổng giám đốc của Naval Group, cho biết cuộc chiến ở Ukraina đã đưa chủ đề về các vụ tấn công ngoài biển trở lại vị trí hàng đầu, và cũng làm nổi bật tình trạng mạng cáp internet dưới đáy biển dễ bị tấn công, đồng thời cho thấy các không gian chung, dù là dưới đáy biển, trên không trung hay trong không gian mạng được thảo luận rất nhiều.

Chính vì lẽ đó, ngày càng có nhiều quốc gia mong muốn tân trang các hạm đội tầu ngầm cũ hoặc lập đội tầu ngầm để bảo vệ bờ biển và đặc biệt là vùng đặc quyền kinh tế của họ. Theo một báo cáo gần đây của GlobalData, thị trường tàu ngầm dự kiến ​​sẽ tăng gấp rưỡi, từ 30 tỉ đô la năm 2023 lên thành 45,6 tỉ đô la vào năm 2033. Do khả năng vận hành lâu và sức bền cao, tàu ngầm dường như phù hợp để răn đe hơn so với các loại phương tiện khác trên không và trên bộ.

Điều đáng nói là số nhà sản xuất phương Tây có thể đáp ứng nhu cầu tầu ngầm rất ít, bởi vì những rào cản công nghệ rất cao. Hoa Kỳ, Anh Quốc, Nga, Pháp, Đức, Thụy Điển, Tây Ban Nha và Hàn Quốc là những nước chiếm phần lớn thị trường thế giới.

Đối mặt với tiến bộ trong chiến tranh chống tàu ngầm, độ tàng hình của tàu ngầm phải ngày càng cao và tiên tiến về công nghệ, điều này khiến các tàu thế hệ cũ mất dần khả năng răn đe. Do đó, dù vẫn coi Hoa Kỳ, Nga và Trung Quốc là những nước thống trị thế giới về tàu ngầm, nhưng GlobalData cũng nhấn mạnh rằng các quốc gia như Ấn Độ, Úc, Brazil và Hàn Quốc đang lần lượt đầu tư vào năng lực tầu ngầm ngày càng tân tiến.

Riêng về Mỹ, Les Echos lưu ý ngành công nghiệp tàu ngầm của nước này đang bị chỉ trích vì không thể giao tàu ngầm đúng hạn cho chính Hải quân Mỹ, chưa kể những cam kết của Washington cung cấp các tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân cho Úc thay cho tàu Barracuda mà ban đầu Úc đã ký thỏa thuận mua của Naval Group của Pháp rồi sau đó bất ngờ hủy để chuyển sang mua của Mỹ, nguồn cơn một cuộc khủng hoảng ngoại giao giữa Pháp-Úc.