Hồi ký – Nguyễn Hiến Lê

Thienlong Nguyen 

( Hồi kí của một người cảm tình sâu sắc với kháng chiến,  với Miền Bắc VNDCCH, một đại trí thức  Miền Nam- Học giả uyên bác  Nguyễn Hiến  Lê )

THẤT BẠI TRONG HÒA BÌNH

Mấy tháng đầu sau ngày 30-4-75, các bạn kháng chiến, già cũng như trẻ, nhất là trẻ, đều có tâm lý chung là hăm hở hưởng thụ sau mấy chục năm gian khổ sống chui, sống nhủi trong rừng, trong bụi, dưới hố dưới hầm. Đành rằng phải bắt tay ngay vào việc kiến thiết, nhưng đã có đường lối sẵn rồi, có kinh nghiệm 20 năm ở Bắc thì không có gì khó; vả lại đã thắng được Mỹ, thành cường quốc thứ ba trên thế giới, sau Nga và Trung Hoa thì có việc gì mà làm không được, chỉ trong 5 năm sẽ tiến bộ, 20 năm sẽ đuổi kịp Nhật Bản về kinh tế.

Đồng chí Lê Duẩn - nhà lãnh đạo kiệt xuất của cách mạng Việt Nam

Muốn kiến thiết thì trước hết phải san phẳng chế độ cũ đã không để lại một dấu vết nào cả. Phải đuổi hết các nhân viên cũ, để anh em cách mạng chia nhau tất cả các chức vụ lớn nhỏ. Phải diệt bọn tư bản, chiếm nhà cửa, tài sản như núi của họ, chia nhau mỗi người một chút. “Đó là quyền của mình mà!”

Thời chiến hễ nung được lòng yêu nước của quốc dân rồi, giữ cho lòng đó đừng giảm, quốc dân kiên trì chịu đựng được tới phút chót thì không còn vấn đề gì nữa: thiếu cái gì đã có Nga, Trung Hoa cung cấp cho; trái lại trong thời bình mới phải đương đầu với nhiều vấn đề nội bộ, ngoại giao, kinh tế, nhất là kinh tế. Nước ta nghèo, thiếu vốn đầu tư thiếu kỹ thuật gia, khó phát triển kinh tế mau được. Thất bại về kinh tế thì sự nghiệp của cách mạng sụp đổ.

Bây giờ 5 năm sau ngày 30-4-75, hết kế hoạch ngũ niên đầu tiên rồi, chúng ta mới thấy cơ hồ chẳng tiến bộ về một phương diện nào hết mà còn thụt lùi nữa, và ai lạc quan tới mấy cũng phải nhận chúng ta đã bỏ phí 5 năm, và không biết phải mấy năm nữa mới bắt lại được thời gian đã mất đó. Trong khi ấy thì thế giới cứ vùn vụt tiến tới.

KHÔNG ĐOÀN KẾT

Thất bại lớn nhất, theo tôi, là không đoàn kết được quốc dân. Tháng 5-1975, có ít nhất là 90% người miền Nam hướng về miền Bắc, mang ơn miền Bắc đã đuổi được Mỹ đi, lập lại hòa bình, và ai cũng có thiện chí tận lực làm việc để xây dựng lại quốc gia. Nhưng chỉ 6, 7 tháng sau, cuối 1975 đã có đa số người Nam chán chế độ ngoài Bắc, chán đồng bào Bắc. Tôi nhớ như ở phần trên tôi đã nói năm 1976, trong một cuộc hội nghị ở Sài Gòn, bàn về vấn đề thống nhất quốc gia, một học giả lão thành miền Bắc, ông Đào Duy Anh (đã có hồi sống ở Nam nhiều năm, có nhiều bạn thân ở Nam) khi được mời phát biểu ý kiến, chỉ nói mỗi một câu đại ý là thống nhất cái gì cũng dễ; quan trọng nhất là phải thống nhất nhân tâm đã. Cả hội trường sửng sốt và làm thinh.

Ông Anh đã nhận xét đúng và dám nói. Quả thực là lúc đó có sự chia rẽ nặng giữa người Nam và người Bắc, Nam đã không muốn thống nhất với Bắc rồi. Từ đó, tinh thần chia rẽ cứ mỗi ngày mỗi tăng, năm nay (1980) có thể nói 90% người miền Nam hay hơn nữa, muốn tách khỏi miền Bắc.

Có nhiều nguyên nhân.

Nguyên nhân chính theo tôi là người miền Bắc vơ đũa cả nắm, coi người Nam là “ngụy” hết, trụy lạc, bị nhiễm độc nặng của Mỹ. Ngay hạng trí thức miền Bắc như ông Đào Duy Anh cũng có thành kiến rằng dân Sài Gòn hư hỏng quá rồi Họ chỉ nhìn bề ngoài, chỉ thấy một số thanh niên híp pi, lêu bêu ở ngoài đường; tôi phải giảng cho họ hiểu rằng đó chỉ là thiểu số, chứ đại đa số người trong này ghét Mỹ, ghét văn minh Mỹ, có thể nói gia đình nào cũng có người có cảm tình với kháng chiến, giúp kháng chiến cách này hay cách khác, nếu không vậy thì làm sao kháng chiến thành công được. Chỉ nội một việc biết người nào đó là kháng chiến mà không tố cáo cũng đủ có công với kháng chiến, chớ đừng nói là còn che chở, giúp tiền bạc, tiếp tay cho nữa. Chỉ trừ một số phản quốc, theo Mỹ, Thiệu triệt để vì quyền lợi, còn thì không có gia đình nào trong Nam là ngụy cả. Một số người yêu nước, có tư cách, mới đầu gia nhập kháng chiến, sau vì lập trường chính trị, phải rời hàng ngũ, về thành, mà không ưa Pháp, Mỹ, hạng đó không nên coi người ta là ngụy. Bọn thanh niên hư hỏng chỉ ở Sài Gòn mới có nhiều, mà tỉ số không cao so với những thanh niên đứng đắn.

Người Bắc coi người Nam là ngụy, đối xử với người Nam như thực dân da trắng đối với dân “bản xứ”, tự cao tự đại, tự cho rằng về điểm nào cũng giỏi hơn người Nam, đã thắng được Mỹ thì cái gì cũng làm được.Chỉ cho họ chỗ sai lầm trong công việc thì họ bịt miệng người ta bằng câu: “Tôi là kháng chiến, anh là ngụy thì tôi mới có lý, anh đừng nói nữa”.

Chẳng bao lâu người Nam thấy đa số những kẻ tự xưng là kháng chiến, cách mạng đó, được Hồ chủ tịch dạy dỗ trong mấy chục năm đó, chẳng những dốt về văn hóa, kỹ thuật – điều này không có gì đáng chê, vì chiến tranh, họ không được học – thèm khát hưởng lạc, ăn cắp, hối lộ, nói xấu lẫn nhau, chài bẩy nhau … Từ đó người Nam chẳng những có tâm trạng khinh kháng chiến mà còn tự hào mình là ngụy nữa, vì ngụy có tư cách hơn kháng chiến. Và người ta đâm ra thất vọng khi thấy chân diện mục của một số anh em cách mạng đó, thấy vài nét của xã hội miền Bắc: bạn bè, hàng xóm tố cáo lẫn nhau, con cái không dám nhận cha mẹ, học trò cấp II đêm tới đón đường cô giáo để bóp vú…

Chợ trời | Sài gòn thập cẩm

 

Trong mỗi cơ quan ở Sài Gòn cũng có sự chia rẽ. Cùng là công nhân viên cả, mà bọn ở Bắc vô không ưa bọn Liên khu 5; hai hạng đó đều khinh bọn ở bưng trong Nam về; bọn này lại không chơi với bọn trước kia tập kết ra Bắc, nay trở vô Nam; bọn “nằm vùng” cũng không ưa bọn tập kết về đó; bị khinh nhất là bọn ngụy được tạm dùng lại, mà bọn này thạo việc hơn hết. Chỉ vì thiếu đoàn kết cho nên trong cuộc hội họp nào người ta cũng hô hào “Đoàn kết, đại đoàn kết”. Còn ở trong phòng họp thì ai cũng hoan hô tinh thần đoàn kết, ra khỏi phòng rồi thì hết đoàn kết. Người ta chỉ đoàn kết với nhau vì quyền lợi thôi; do đó mà có tinh thần bè phái, gia đình trị, và ở Bắc có câu này: Nhất thân, nhì thế, tam quyền, tứ chế.

CHỢ TRỜI SAU 1975 ĐẢNG cs CƯỚP SÀI GÒN - THÔNG TIN-VĂN HÓA

BẤT CÔNG

Điểm thứ nhì làm cho chúng ta thất vọng là xã hội còn bất công hơn thời trước nhiều.

Có người nói một số “ông lớn” đi đâu cũng có người hầu xách bình nước sâm Cao Ly để ông lớn uống thay trà; một ông nọ luôn luôn có một bác sĩ ở bên và một thiếu nữ quạt hầu vì ông không chịu được quạt máy. Tôi không biết những tin đó đúng hay không, chỉ biết những tin đó do “anh em cách mạng” đưa ra cả.

Một ông bạn tôi bảo có vô nhà thương mới thấy có cả chục (sic) giai cấp bệnh nhân, tùy giai cấp mà được ở phòng nào, khám bệnh ra sao, trị bệnh ra sao, cấp thứ thuốc nào v.v.

Người chết cũng phân biệt giai cấp khi đăng cáo phó: cán bộ thường thì được mấy phân trên cột báo, cán bộ bự thì được mười mấy phân; lời cáo phó cũng theo những tiêu chuẩn riêng. Đúng là đường lối Staline.

Sài Gòn được giải phóng vài năm thì ta thấy xuất hiện ngay một hạng giàu sang mới nổi, thay thế bọn giàu sang thời Thiệu, và cũng thích những xa xí phẩm (áo hàng thêu, hột xoàn, máy điều hòa không khí v.v.) của thời Thiệu. Tiền đâu mà họ mua những thứ đó nhỉ?

Sự bất công chướng nhất, tàn nhẫn nhất là lương công nhân viên từ 1975 cứ đứng yên trong khi sự phân phối nhu yếu phẩm giảm đi gần hết, chỉ còn gạo, bo bo là tạm đủ, nhất là trong khi mãi lực của đồng bạc năm 1980 chỉ còn bằng 1/10 năm 1975; thành thử lương một công nhân viên chỉ đủ để mua củi chụm, lương một bác sĩ mới ra trường chỉ đủ để mua rau muống ăn. Khắp thế giới không đâu có chế độ lương bổng kỳ cục như vậy (2). Người nào cũng phải bán đồ đi mà xài, nhờ cha mẹ giúp đỡ, nếu không thì phải xoay trở mọi cách, làm sao sống được thì làm, chính phủ không biết tới. Một cán bộ ở Hà Nội đã phàn nàn: “Người ta có rất nhiều quyền hành mà không có một chút tinh thần trách nhiệm nào cả. Thật lạ lùng!” Kravchenko (trang 185) nói chính phủ Nga bắt dân đói để dân biết phép chính phủ mà phải răm rắp tuân lệnh. Ở nước ta không đến nỗi như vậy, có áp dụng chính sách đó thì chỉ áp dụng cho những kẻ thù của chế độ thôi, tức bọn ngụy quân ngụy quyền còn ở trong một số trại cải tạo.

kinh tế việt nam thời bao cấp

Giành giật mua hàng nhu yếu phẩm ở mậu dịch quốc doanh.

THIẾU KỶ LUẬT

Không ai có trách nhiệm mà tinh thần bè phái quá nặng, nên không có kỷ luật, dưới không tuân trên, loạn.

Chương trên tôi đã nói tới cái tệ mỗi tỉnh là một tiểu quốc, địa phương tự do tới mức không tuân lệnh trung ương (ngay xã cũng không tuân lệnh tỉnh, huyện), lấy lẽ rằng chỉ địa phương mới hiểu tình trạng của địa phương, cấp trên không nên xen vào; cái tệ nhân viên được lệnh đi công tác mà không đi, nằm ỳ ở nhà, một tuần sau trở lại sở, trả sự vụ lệnh mà không bị khiển trách; cái tệ nhân viên muốn bỏ sở về giờ nào thì về, lấy cớ là phải kiếm gạo, chủ nhiệm đành làm thinh, chứ không biết đáp sao.

Tôi kể thêm một trường hợp nữa. Ông giám đốc một cơ quan nọ đến tuổi về hưu, bảo người giúp việc: “Tôi sẽ không về, về thì mất hết quyền lợi: xe hơi, “bìa” (sổ đặc biệt để mua nhu yếu phẩm), nhà ở v.v. mà còn bị xã ấp nó ăn hiếp, hoạnh họe cái này, cái khác; không, tôi không về”. Một ông giám đốc mà sợ công an ấp vì công an có quyền bắt ai thì bắt, giam ai thì giam. Một viên công an bảo: “Tôi làm việc 4, 5 năm rồi, mà bây giờ mới biết quyền hạn của tôi, từ trước tôi muốn làm gì thì làm”.

Vì mất kỷ luật, cho nên thanh niên trốn nghĩa vụ quân sự: ở miền Nam trốn tới 90%, có nơi cả 100% mà vẫn sống yên ổn. Bắt được họ, đưa họ ra mặt trận, họ lại trốn nữa. Không thể giam hoài họ được, gạo đâu mà nuôi? Họ sống yên ổn ngay ở làng vì chỉ cần đút lót cho công an là êm. Còn nạn đào ngũ thì toàn quốc tới 25%. Trước kia người ta hy sinh để giành độc lập; bây giờ độc lập rồi lại đánh nhau với nước anh em, người ta không hăng hái nữa.

Nghe nói ở một tỉnh nọ, viên giám đốc sở tài chánh kiêm giám đốc ngân hàng (?) ôm 60 lượng vàng cùng với 30 viên công an xuống một chiếc tàu của chính phủ, mang theo đầy đủ khí giới (và không biết bao nhiêu lượng vàng nữa) để vượt biên. Tin đó chưa lấy gì làm chắc nhưng chuyện công an – cây cột chống đỡ chế độ – ôm vàng vượt biên thì mấy năm nay nghe thường quá rồi.

Tinh thần vô kỷ luật đó, không biết một phần có phải do chính sách giáo dục trẻ em không. Người ta cấm đánh trẻ – điều đó có thể hiểu được – cấm nghiêm khắc với trẻ, chúng nghỉ học thì lại nhà mời chúng đi học; chúng làm biếng thì không bị phạt mà cô giáo bị trách là dạy dở. Kỳ tựu trường có nơi còn tổ chức múa lân, đốt pháo để dụ trẻ em đi học nữa. Cô giáo nào mời được ít trẻ thì bị rầy. Riết rồi cô giáo ngán dạy quá, cứ tự ý nghỉ bừa, hiệu trưởng phải tới nhà năn nỉ, nếu không thì lỗi ở hiệu trưởng chứ không phải ở cô giáo. Và người ta ngán luôn cả nghề sư phạm: dốt hoặc muốn tránh nghĩa vụ quân sự mới phải thi vô sư phạm.

Kỷ luật như vậy, trẻ em càng được thể làm biếng, sức học rất kém, mà tính ngỗ nghịch (bóp vú cô giáo như trên đã nói) thì quá sức tưởng tượng. Một số cán bộ già ở Bắc vô nhận rằng trẻ em trong này ngoan ngoãn, lễ phép. Nhưng tôi sợ rằng ít năm nữa, chúng đuổi kịp bạn chúng ở Bắc mất.

KÍNH TẾ SUY SỤP

Sự thất bại hiển nhiên nhất của chế độ là sự suy sụp của kinh tế mà tôi đã trình bày sơ lược ở trên. Hậu quả là Việt Nam trước thế chiến tự hào là “tiền rừng bạc bể”, có những đồng lúa, đồn điền cao su mênh mông ở miền Nam, những mỏ than, mỏ phốt phát (phosphate) phong phú ở miền Bắc mà bây giờ thành một trong vài nước nghèo nhất thế giới.

Sau 30/4/1975, Chính Quyền VNCH Để Lại Nhiều Vàng Và USD, Tại Sao Nước ...

Từ ngày 30-4-75, do những đồng bào ở Bắc vào, chúng ta ở Nam mới lần lần biết cảnh điêu đứng của dân tình ngoài đó sau 20 năm sống dưới chế độ mới. Từ trên xuống dưới ai cũng phải ăn độn có khi 60-70% (3); có hồi gạo quý tới nỗi người ta cất vào trong những cái thố, cái liễn, trân trọng như nhân sâm, chỉ khi nào đau ốm mới lấy ra một nhúm để nấu cháo; ngày Tết mà có đủ gạo nấu cơm cúng ông bà là mừng lắm; khi nào được ăn một bữa cơm không độn với nước mắm thôi thì coi như được dự một bữa tiệc. Nước mắm rất hiếm, có người ở Nghệ An hay Hà Tĩnh mấy năm không có nước mắm ăn, gặp người trong Nam ra đem theo nước mắm, xin một vài muỗng rồi cầm nuốt ực ngay hết, không đợi đem về nhà.

Nhiều người vào Sài Gòn thăm bà con, khi ra vơ vét đủ thứ, từ cây đinh, khúc dây chì, lon sữa bò, ve chai … đem ra, vì ở ngoài đó thường cần dùng tới mà không kiếm đâu ra. Họ cho miền Nam này là thiên đường. Nhưng một người Ba Lan trong ủy ban kiểm soát quốc tế năm 1975 bảo chỉ trong 5 năm, miền Nam sẽ “đuổi kịp miền Bắc”, nghĩa là nghèo như miền Bắc. Lời đó đúng, rất sáng suốt. Nếu không nhờ mấy trăm ngàn kiều bào ở ngoại quốc gởi tiền, thuốc men, thực phẩm, quần áo … về giúp bà con ở đây thì chúng ta hiện nay cũng điêu đứng như anh em miền Bắc rồi.

Dân miền Nam từ xưa chưa bao giờ biết đói, phải ăn độn thì năm 1979 đã phải ăn độn 70-80%, có những gia đình phải ăn bữa cơm bữa cháo, có cô giáo và học sinh đói quá, tới lớp té xỉu

Nhà nào cũng bán đồ cũ đi để ăn; nhiều giáo viên nhà đã trống rỗng, không còn bàn ghế nữa, ăn ngủ trên sàn. Ai cũng chỉ lo sao có cái gì nuốt cho đầy bao tử, chứ không dám nghĩ tới miếng ngon. Tết Canh Thân vừa rồi, ở Long Xuyên, nhà một giáo viên hồi hưu, trên bàn thờ ông bà chỉ bày một đĩa có mấy chiếc bánh phồng và bánh gai, không có một đòn bánh tét, một quả dưa hấu.

Khổ nhất là bọn đi kinh tế mới, thất bại, tiêu tan hết vốn liếng, về Sài Gòn, sống cảnh màn trời chiếu đất, ăn xin, moi các đống rác hôi thối, lượm một miếng giấy vụn, một túi ni lông, một miếng sắt rỉ, một quai dép mủ … để bán cho “ve chai”. Trông thấy đống túi ni lông được rửa qua loa trong nước dơ rồi phơi ở lề đường để bán cho tiểu thương đựng hàng, tôi ghê tởm quá.

Không có tiền mua rau thì làm gì có tiền mua thịt. Muốn lâu lâu có thịt thì phải nuôi heo, gà, cho nên nhiều cơ quan ngay khi mới thành lập đã nghĩ ngay đến việc hùn tiền (hay lấy trong quỹ?) mua heo con, phân công nhau nuôi tại khu ở tập thể, như vậy đến lễ, Tết mới có thịt liên hoan. Người ta thèm thịt quá, cho nên liên hoan lu bù, bất kỳ một dịp gì cũng liên hoan được: một bạn đồng nghiệp được ban khen, ngày tựu trường, bãi trường, họp bạn để học tập, ban hành hiến pháp mới, làm xong một công tác, mỗi ngày lễ, Tết … mỗi năm liên hoan cả chục lần là ít.

Cơ quan nào cũng có đủ nhà bếp, chén đĩa, xoong chảo, người làm bếp (lựa trong nhân viên) để nấu ăn làm tiệc Và khi ngồi vào bàn tiệc thì chẳng ai mời ai, đợi ai, mạnh ai nấy gắp, ăn cho thật mau (tới nỗi có người bảo cứ nuốt trước rồi sẽ nhai sau!), tệ gấp 10 thói ăn uống ở đình làng mà Ngô Tất Tố đã mạt sát trong cuốn Việc làng.

Nghèo thì sinh ra ở bẩn. Ngay trong khu tập thể một trường Đại học Hà Nội, phòng một giáo sư ở Pháp về cũng dơ dáy, từ sàn gạch đến tường đều đầy vết bẩn. Hỏi như vậy làm sao chịu được, ông ta nhún vai đáp: “Lâu rồi quen đi” Không nên trách ông ta. Dù muốn sống sạch cũng không thể được: đâu có vôi để quét tường? đâu có xà bông để rửa sàn? đâu có giẻ để lau? Nước thì có nhưng phải xuống dưới sân để hứng rồi xách lên 5-6 chục bực thang, ai mà không ngại?

Phải, lâu rồi thì quen đi. Nếu tình trạng không thay đổi thì chỉ mươi năm nữa, toàn dân sẽ quen đi, không thấy gì là bẩn nữa. Hiện nay ở trong Nam đã nhiều nhà để bụi đóng đầy bàn ghế – mà trước kia họ sống rất sạch – mạng nhện giăng đầy trần, còn dân thị xã thì đã quen với cảnh 4, 5 người cùi nằm trên đường đưa tới chợ, lăn ở giữa chợ để xin ăn.

Câu “nghèo cho sạch, rách cho thơm” của ông cha, chúng ta không giữ được vì chúng ta nghèo tới mức không thể ở sạch được.

Năm 1978, chính quyền Bắc … ra lệnh hủy hết các sách ở trong Nam…, trừ những sách về khoa học tự nhiên, về kỹ thuật, các tự điển thôi; như vậy chẳng những tiểu thuyết, sử, địa lý, luật, kinh tế, mà cả những thơ văn của cha ông mình viết bằng chữ Hán, sau dịch ra tiếng Việt, cả những bộ Kiều, Chinh phụ ngâm… in ở trong Nam đều phải hủy hết ráo. (Nguyến Hiến Lê tâm sự)

Nguyễn Hiến Lê

————————

( Nguồn: FB Sơn Bùi )

 


 

Ngày 30/4 của Phạm Xuân Ẩn

Tác Giả: Đàn Chim Việt

30/04/2025

Tuần báo Newsweek đã miêu tả về ngày 29-4 của Phạm Xuân Ẩn – người được đánh giá là “nhân vật của Thế kỷ XX” một “Điệp viên hoàn hảo”, một “Người Việt trầm lặng” sau này mới rõ dần chân dung ông. Còn ngày 29-4 ấy trong một biến động được miêu tả là “cuộc tháo chạy tán loạn”, là ”Sài Gòn sụp đổ “, thì ông Ẩn đã làm gì?

Tờ Newsweek viết về việc Phạm Xuân Ẩn đã cứu trùm cảnh sát mật vụ của chế độ Sài Gòn, bác sỹ Trần Kim Tuyến, đi được chuyến bay cuối cùng di tản khỏi Sài Gòn như thế nào? “Tuyến sẽ bị giết chết nếu ông ta còn ở lại”, Newsweek viết.

Khi ông Tuyến cuống cuồng gọi điện cho Sứ quán Mỹ tìm sự giúp đỡ của CIA thì được trả lời là tất cả đã đi hết. Quá hoảng sợ lo cho tính mạng, ông quay lại tìm người bạn thân Phạm Xuân Ẩn, một phóng viên báo Time nhiều quyền lực và có mối quan hệ rộng vào bậc nhất Sài Gòn.. Ông Ẩn vội đưa Tuyến lên chiếc xe của mình tới Tòa Đại sứ Mỹ kiếm tìm cơ hội cuối cùng nào có được.

Nhưng cảnh tượng thật hãi hùng. Tòa đại sứ đông nghẹt những người cầu cứu hoảng loạn. Chiếc xe cũ Renault của ông Ẩn không sao len vào được… Gọi điện khắp các địa chỉ cần thiết khác trong thành phố, cuối cùng ông Ẩn liên lạc được với một nhà báo Mỹ có thể nhắn cho Tòa Đại sứ… Nhờ thế họ mới biết được còn chuyến di tản cuối cùng của CIA tại ngôi nhà của CIA ở đường Gia Long, nơi đã diễn ra biểu tượng cuối cùng của Sài Gòn sụp đổ.

Ở tòa nhà này, họ cũng suýt nữa thì trượt chuyến đi. Khi xe của ông tới nơi, cánh cửa thép của tòa nhà đã đóng lại để tránh dòng người có thể ập vào. “Đề nghị cho gọi ông Polgar”. Ẩn yêu cầu được gặp người sếp mà ông quen. Nếu gặp được Polgar chắc chắn ông ta biết được câu chuyện trầm trọng của ông Tuyến, sẽ giải quyết ngay. Nhưng người lính gác không chịu gọi.

Vừa may lúc vợ của người lính gác mua đồ ăn đến, cánh cửa hé ra cho bà ta vào. Thế là ông Ẩn một tay giữ chặt cửa, tay kia đẩy thật mạnh bạn mình vào lọt. Tờ Newsweek kết luận: “Thế là, vị trùm cảnh sát mật vụ Sài Gòn đã được một điệp viên của Hà Nội cứu thoát, leo lên mái nhà để lên máy bay đi di tản.”

Nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn: Biểu tượng của hòa bình và hòa hợp - Ảnh 2.

Khi tất cả phóng viên của Time được sơ tán trước ngày Sài Gòn thất thủ ngày 30/4 /1975, Phạm Xuân Ẩn là người ở lại. Ảnh tư liệu đăng ở Afamily Magazine.

Chuyện gì đã xảy ra sau đó? Vợ con ông Ẩn đã đi theo người của báo Time. Để rồi sau này lại phải vất vả mới về lại Sài Gòn. Chỉ còn mình ông ở lại vì chưa có mệnh lệnh nào. Ông không đi, bởi “ngoài việc đất nước đang sang giai đoạn mới, đã đẩy được người ngoại quốc chiếm đóng ra khỏi xứ sở, còn lý do nữa là mẹ tôi đã quá già yếu không thể đi được”. Đó là lời ông Ẩn trả lời phỏng vấn báo chí nước ngoài.

Vào năm 1992 khi tôi bắt đầu viết cuốn sách đầu tiên đưa Phạm Xuân Ẩn ra ánh sáng, mãi tới 10 năm sau mới in được, cuốn “Phạm Xuân Ẩn — Tên người như cuộc đời”, một công việc có ý nghĩa trong đời viết lách của mình, tôi đã phỏng vấn Phạm Xuân Ẩn về ngày 30-4 ở Sài Gòn.

Vì sao ông Tuyến lại rơi vào cảnh đó, khi mà ông ta là người đứng đầu bảng danh sách số người mà Mỹ phải đưa đi? Phạm Xuân Ẩn tả lại: “Ông ta là nhân vật thứ ba sau Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu. Làm giám đốc Sở Nghiên cứu Văn hóa Chính trị Xã hội, người Mỹ gọi là Sở Mật vụ. Trong suốt cuộc đời tôi hoạt động dưới vỏ bọc làm một nhà báo của Mỹ, ông mến tôi. Sau đảo chính Ngô Đình Diệm năm 1963, ông ta cũng bị bắt. Ông ta đi cùng chuyến máy bay với ký giả Stanley Karnow từ Hồng Kông về và bị bắt ngay trước mắt Stanley. Sau lúc ông bị bắt, tôi tới nhà thăm. Bả đang mang bầu. Vì sao ông ta kẹt lại khi vợ con ông ta đi cả rồi? Vì ông này ghét Thiệu. Trước giải phóng một tháng, ngay sau khi Đà Nẵng đã thất thủ, Tuyến vẫn đang trong một âm mưu lật đổ Thiệu để lập chính phủ mới.

Tối 1-4 bác sỹ Trương Khuê Quang, giám đốc trường Quốc gia Nghĩa tử, người trung gian của Tuyến đưa Tuyến đến gặp Trí Quang. Đêm mùng 3 rạng mùng 4 Thiệu bắt nhốt hết những phần tử âm mưu đảo chính, kể cả nghị sỹ, dân biểu, nhà báo.. Ông Tuyến vẫn nấn ná chờ vì nghĩ rằng Thiệu bỏ chạy sớm sẽ thả đàn em của mình ra… Nhưng mãi khi ông Hương lên rồi, ngày 26 mới thả. Ông Tuyến yên trí thế nào CIA cũng phải đưa mình đi.”

Tướng Phạm Xuân Ẩn nhớ lại cảnh ông Tuyến chạy đến cầu cứu:

Người cháu ông Tuyến – một viên thiếu tá – chở ông đến bằng xe Honda. Tôi giục nó về lo cho vợ con, để ông Tuyến lại. Tôi bắt đầu gọi điện. Kêu Tòa Đại sứ. Năm cái telephon tất cả. Sự thể diễn ra đúng như báo chí đã nói rồi.

Tuyến đi chuyến cuối cùng với ông Trần Văn Đôn. Ông Đôn cũng thảm, không sao chen lên được mấy chuyến trước. Con ông phải động viên “Ba, ba đừng bỏ cuộc.” Cô bí thư của ông Polgar chủ nhiệm CIA tên là Hà Hiếu Lang, em đại tá Điệp nhường 3 chỗ cho gia đình tướng Đôn. Người cuối cùng lên được máy bay là ông Tuyến. Trong hình, cái người thấp bé là ổng… Không leo lên được, tướng Đôn phải đưa tay kéo lên.

Chi tiết này sau tôi biết được do đọc báo trong bài người ta phỏng vấn tướng Đôn. Tấm hình minh chứng phút cuối cùng đó của một phóng viên hãng UPI. Hãng được sử dụng 20 năm, gần đây tác giả mới lấy bản quyền.”

Trong bài của Morley Safer, ông ta viết: “Ẩn đã can đảm giúp cho Trần Kim Tuyến thoát khỏi Việt Nam. Tuyến là một trong những viên chức cao cấp nhất của CIA tại Việt Nam. Là một tay âm mưu bất trị làm việc cho Thiệu sau đó chống lại chính quyền Thiệu. Vào ngày cuối cùng của Sài Gòn Tuyến vẫn còn nỗ lực thương thuyết với Phật giáo để lập một chính quyền mới.”

Những việc cứu “kẻ thù” như thế không chỉ diễn ra một lần. Ông đã từng cứu nhiều bạn Mỹ của ông thoát chết trong những hoàn cảnh vô cùng phức tạp và còn nguy hiểm cho ông trong chiến tranh.

Câu chuyện ngày 30-4 của tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn vẫn còn gây tranh luận tới tận gần 30 năm sau – vào năm 2006 khi ông Ẩn mất và giới truyền thông trong ngoài nước viết nhiều về ông.

Một bài phỏng vấn nhà báo Mỹ Don Southerland – người đang là Tổng giám đốc chương trình, trong đó có lý giải ngày 30-4 của Phạm Xuân Ẩn lý giải tại sao ông Ẩn lại cứu bác sỹ Trần Kim Tuyến.

Dan Southerland là người chứng kiến phút giây đó: “Đêm 29-4 trước khi các trực thăng chuẩn bị rời Việt Nam, tôi đang liên lạc với các trụ sở truyền thông nước ngoài thì Ẩn vẫn còn ở lại đó dù vợ con ông đã đi. Ông nói có một vấn đề hệ trọng là cần tìm cách cho bác sỹ Tuyến ra đi. Tôi sau khi liên hệ với một giới chức cao cấp của tòa Đại sứ Mỹ và được bảo là hãy nói cho ông Tuyến hay rằng có thể đến 22 Gia Long có thể gặp được số quan chức Nam Việt nam như Trần văn Đôn và một số người khác để được bốc đi khỏi Sài Gòn.” Và câu chuyện diễn ra như thế nào ta đã biết.

Dan Southerland nhận định như sau:

“Ông Ẩn đã giúp người vốn chống Cộng cuồng nhiệt. Tôi muốn nói là ông Ẩn đã giúp một người có lý tưởng mà ông Ẩn hoạt động gần hết đời để chống lại nó… Lời của đại tướng Võ nguyên Giáp đánh giá rằng “nhờ các tài liệu tình báo của Phạm Xuân Ẩn mà Hà Nội như có mặt tại phòng chiến tranh của Lầu Năm góc” là đúng. Bởi vì Ẩn có thể cung cấp cho Hà Nội một số việc, chẳng hạn cách suy nghĩ, lý luận của người Mỹ. Đó là khả năng lớn nhất của ông Ẩn. Ông ta có thể cảm nhận sự thật.”

Phạm Xuân Ẩn: Vừa làm báo, vừa... tình báo - Báo Công an Nhân dân điện tử

Tình báo Phạm Xuân Ẩn (phải) và Đại tướng Võ Nguyên Giáp ảnh của báo lề phải.

“Có thể kết luận việc ông Ẩn hết sức giúp Trần Kim Tuyến ra khỏi Việt nam là chỉ thuần về ơn nghĩa và tình bằng hữu mà chuyện này có thể đã khiến ông mất sự tin cậy của Hà Nội.

Nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn: Biểu tượng của hòa bình và hòa hợp - Ảnh 3.

Phạm Xuân Ẩn khoe thẻ nhà báo năm 1965 tại nhà riêng ở thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, ngày 26/4/2000. Ảnh tư liệu đăng ở Afamily Magazine.

Khi viết cuốn sách “Phạm Xuân Ẩn – Tên người như cuộc đời”, tôi cũng băn khoăn về suy diễn này và đã đem hỏi hai người chỉ đạo trực tiếp của ông là Trần Quốc Hương, Nguyên Bí thư TW Đảng, và Đại tướng Mai Chí Thọ. “Cứu Tuyến, đó là biểu hiện rất đặc biệt về tư chất Ẩn. Con người trung hậu như vậy nhất định sẽ thành công trong sự nghiệp. Đó gần như là Luật Nhân – Quả”(lời đại tướng Mai Chí Thọ). Còn ông Trần Quốc Hương thì nói: “Ẩn xử sự đúng với bản chất con người của mình trọng đạo lý.”

Ngày 30-4-1975 đã lùi xa 40 năm. Giá như tổ chức một cuộc đại phỏng vấn mọi người Việt Nam chung một câu hỏi: Ngày 30-4-75 đến với bạn như thế nào? Câu trả lời sẽ là phần máu thịt toàn vẹn đắp lên phần xương, là những diễn biến sự kiện lịch sử đã ghi lại.

Phạm Xuân Ân, phóng viên chiến tranh Việt Nam của tờ Times, 2005 ©AFP - Nicolas Cornet

Phạm xuân Ẩn năm 2005, hình của TTX AFP

Và trong số đó, ngày 30-4 của Phạm Xuân Ẩn đã hiện lên con người nhân văn nhất trong những giây phút sống còn. Viết về ông, tôi được các tác giả nước ngoài nhận xét tặng những lời ghi nhận quý báu:

Giáo sư sử học Mỹ Larry Berman, tác giả cuốn “Điệp viên hoàn hảo”:

“Cuốn sách của bà đã mở đường cho tất cả chúng tôi” (Your biography of Pham Xuân Ẩn led the way for the rest of us..). “Trong tất cả những người viết về Phạm Xuân Ẩn, bà là người hiểu rõ chủ nghĩa nhân văn của ông ấy hơn ai hết” (You know An’s humanity better than anyone who writes his story”.

Giáo sư người Mỹ Thomas Bass – tác giả cuốn sách mới viết về Phạm Xuân Ẩn “Điệp viên Z 21, kẻ thù tuyệt vời của nước Mỹ” đã trả lời phỏng vấn trên “Tuổi trẻ cuối tuần” ra ngày 27-4-2014 như sau:

“Bà Nguyễn Thị Ngọc Hải là tác giả quan trọng hàng đầu về Phạm Xuân Ẩn. Cuốn sách của bà là chỉ dẫn quan trọng cho tất cả chúng tôi những người theo bước chân bà viết về ông”.

Sau cùng, tôi vinh dự còn giữ một kỷ vật quý không công bố, đó là lá thư viết tay của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cảm ơn về cuốn sách Phạm Xuân Ẩn.

NGUYỄN THỊ NGỌC HẢI

 (Facebook)

***************************************************************

Ghi chú của Kẻ Đi Tìm:

Ý thức về cái xấu, cái bẩn của Cộng Sản, Phạm xuân Ẩn đã trăn trối với gia đình đừng chôn ông ở nghĩa trang của Cộng Cán. Sự tuyệt vọng và chán ghét chế độ Cộng Sản đã theo ông tới cuối đời bằng lời yêu cầu trước khi ông trút hơi thở cuối cùng, được tiết lộ bởi David Devoss: “Đừng chôn tôi gần Cộng sản”. 


 

Cha Bắn Tài Xế Từng Cán Chết Con Gái Rồi Tự Sát, Nghi Án “Chìm Xuồng” Lộ Diện

Ba’o Dat viet

April 30, 2025

Một bi kịch đẫm máu vừa xảy ra sáng 28 Tháng Tư tại huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long, khi ông Nguyễn Vĩnh Phúc, 43 tuổi, nổ súng bắn vào một tài xế vận tải – người từng liên quan đến cái chết của con gái ông – rồi tự kết liễu đời mình bên vệ đường.

Theo tường thuật từ báo Tuổi Trẻ, khoảng 7 giờ 30 phút sáng cùng ngày, ông Phúc mang theo một khẩu súng tự chế đến tiệm bán vật tư nông nghiệp Nga Bình, xã Vĩnh Xuân, huyện Trà Ôn. Tại đây, ông bất ngờ rút súng bắn vào người chủ tiệm là ông Nguyễn Văn Bảo Trung, 33 tuổi, quê ở Cầu Kè, Trà Vinh – người từng là tài xế trong vụ tai nạn giao thông khiến con gái ông Phúc tử vong vào năm ngoái.

Sau phát súng, ông Phúc chạy bộ khoảng 200 mét ra quốc lộ 54 rồi quay súng tự bắn vào đầu mình. Cả hai được đưa đi cấp cứu trong tình trạng nguy kịch tại Bệnh viện Đa Khoa Trung Ương Cần Thơ.

Được biết, ông Trung là người điều khiển xe tải trong vụ tai nạn giao thông xảy ra ngày 4 Tháng Chín, 2024, trên tỉnh lộ 901, khiến em Nguyễn Ngọc Bảo Trân, 14 tuổi, con gái ông Phúc, tử vong tại chỗ. Vụ tai nạn sau đó gây ra nhiều tranh cãi khi Công An Huyện Trà Ôn không khởi tố vụ án, với lý do lỗi thuộc về em Trân do “không giữ khoảng cách an toàn” và “không chú ý quan sát.”

Tuy nhiên, kết luận này ngay lập tức vấp phải phản ứng từ Viện Kiểm Sát và Tòa Án Tỉnh Vĩnh Long. Hai cơ quan này khẳng định lỗi chính thuộc về tài xế Nguyễn Văn Bảo Trung do “vượt xe không bảo đảm an toàn,” trong khi em Trân chỉ vi phạm hành chính.

Dư luận địa phương khi đó sôi sục với nghi vấn có “bàn tay che chắn,” khi tin đồn lan truyền rằng tài xế Trung là cháu của một lãnh đạo cấp cao Công An Huyện Trà Ôn. Trên mạng xã hội xuất hiện nhiều bài viết cáo buộc công an địa phương “đánh tráo khái niệm” để không khởi tố vụ án, đẩy phần lỗi hoàn toàn về phía nạn nhân.

Vụ án từ đó rơi vào im lặng. Cho đến sáng 28 Tháng Tư, người cha của nạn nhân tự tay “lật lại hồ sơ” bằng một hành động tuyệt vọng và bạo liệt.

Ông Phúc – người dân xã Trà Côn, được nhiều người địa phương mô tả là “ít nói nhưng thương con vô cùng” – đã im lặng suốt nhiều tháng, lặng lẽ sống cùng nỗi uất nghẹn vì cái chết của con gái không được làm rõ minh bạch.

Sự việc nay không chỉ là một vụ án hình sự liên quan đến súng đạn, mà còn là tiếng chuông cảnh báo về niềm tin đang mai một trong hệ thống tư pháp cấp cơ sở.

Một người cha mất con, một kẻ gây tai nạn không bị khởi tố, và một hệ thống điều tra – tố tụng bị nghi ngờ “nương tay” vì quan hệ cá nhân – tất cả đan xen trong một câu chuyện mà công lý vẫn chưa có lời đáp.


 

Tuẫn Tiết- Đinh Khắc Nam

Đinh Khắc Nam

 Tuẫn Tiết.

Trước đó, như một hành động nhận lãnh trách nhiệm của mình, ngày 29-41975, Tư lệnh Quân đoàn II, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, người đảm trách cuộc triệt thoái thất bại khỏi ba tỉnh Cao Nguyên, đã tự tử bằng một liều thuốc độc; gia đình đã đưa vào bệnh viện Grall, nhưng đến trưa 30-4-1975, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, thì tắt thở.

Chiều 30-4-1975, tại căn cứ Đồng Tâm, Chuẩn tướng Trần Văn Hai, tư lệnh Sư đoàn 7 tự tử bằng thuốc độc. Tướng Lê Văn Hưng về phòng nói lời từ biệt với thuộc cấp và vợ con. Tám giờ 45 phút, từ dưới nhà, vợ ông, bà Phạm Thị Kim Hoàng, nghe tiếng súng, chạy lên. Khi cùng người nhà cạy cửa phòng, bà Hoàng thấy Tướng Hưng đã chết với một phát súng tự bắn vào đầu. Mười một giờ đêm hôm đó, Tướng Nguyễn Khoa Nam gọi điện thoại cho bà Hoàng chia buồn. Sáng hôm sau, khoảng 7 giờ 30 phút ngày 1-5-1975, Tư lệnh Quân đoàn IV, Quân đoàn cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa, Tướng Nguyễn Khoa Nam tự sát.

Cũng trưa 30-4, tại Lai Khê, Tướng Lê Nguyên Vỹ tự sát tại Bộ Tư lệnh Sư đoàn 5 sau khi cho binh lính rã ngũ. Vào lúc 2 giờ chiều ngày 30-04-1975, Ðại tá Đặng Sĩ Vinh cùng gia đình gồm vợ và bảy người con đã tự tử bằng súng lục.

Nhưng đấy vẫn chưa phải là những phát súng cuối cùng của cuộc chiến tranh. Nhiều quân nhân vô danh vẫn tìm đến cái chết trong những ngày sau đó.


30 THÁNG 4

Xuyên Sơn

 30 THÁNG 4

Xin các bạn nói chuyện với tôi đừng bao giờ nhắc đến từ ăn mừng ngày giải phóng 30 tháng 4 nhe, nếu các bạn còn coi tôi là bạn, bởi với tôi đó là một tháng 4 đen vì giải phóng vô đây có vạn người vui nhưng có triệu người buồn !

Hình 1:

Thiếu tá Đặng Sĩ Vinh vị sĩ quan QLVNCH đã tuẫn tiết cùng với vợ con khi hay quân CSBV đã tiến chiếm Saigon, ông thà chết vinh hơn sống nhục

Hình 2:

Trung tá Cảnh Sát Quốc Gia Nguyễn Văn Long tự sát trước tượng đài Thủy Quân Lục Chiến tại Saigon trong ngày 30 tháng 4 !

Ông chấp nhận cái chết chớ không muốn rơi vào tay giặc thù !

Anh Hùng Tử Khí Hùng Bất Tử

Mẹ Việt Nam Ơi,

Con Xin Tạ Lỗi Dưới Chân Người .!

Nguồn: fb Si Ngo


 

Quá sợ Trump, dân Canada bỏ phiếu cho Carney thắng, khiến lãnh tụ Đảng Bảo Thủ mất ghế

Ba’o Nguoi-Viet

April 29, 2025

TORONTO, Canada (NV) – Đảng Tự Do của Thủ Tướng Mark Carney đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử liên bang Canada, chặn đứng một ngã rẽ đáng sợ với mối đe dọa bị sáp nhập vào Mỹ cùng với cuộc chiến tranh thương mại của Tổng Thống Mỹ Donald Trump nhắm đánh Canada, thông tấn xã AP loan tin hôm Thứ Ba, 29 Tháng Tư.

Đối thủ của Thủ Tướng Carney, là nhà lãnh đạo Đảng Bảo Thủ theo chủ nghĩa dân túy Pierre Poilievre, đã bị cử tri bỏ phiếu truất khỏi ghế của mình trong Quốc Hội, theo tính toán của Hiệp Hội Phát Thanh Truyền Hình Canada.

Việc mất ghế đại diện cử tri Quận Ottawa trong cuộc tuyển cử vào hôm Thứ Hai đã đánh dấu đà sụt giảm nhanh chóng trong vận may của ứng cử viên Poilievre, nhân vật mà cách đây vài tháng có vẻ như là sẽ trở thành vị thủ tướng tiếp theo của Canada và giúp cho Đảng Bảo Thủ quay trở lại nắm quyền sau một thập niên đứng bên lề. Nhưng sau đó, cũng nhờ Tổng Thống Mỹ Donald Trump bỗng dưng phát động cuộc chiến tranh thương mại với Canada và đòi nước này phải trở thành tiểu bang thứ 51 của Hoa Kỳ mà cử tri Canada đâm ra phẫn nộ, dẫn đến chuyện đảo lộn kết quả cuộc bầu cử.

Thủ Tướng Canada, nhà lãnh đạo Đảng Tự DoMark Carney phát biểu trước những người ủng hộ sau khi đắc cử thủ tướng ngày 29 Tháng Tư, 2025 ở Ottawa, Canada. (Hình: Andrej Ivanov/Getty Images)

Ông Poilievre, một chính trị gia chuyên nghiệp, đã vận động tranh cử với sự liều lĩnh giống như ông Trump bên Mỹ, rõ ràng là đã lấy một chương từ trong chính sách của vị tổng thống Mỹ này, là “Nước Mỹ Trên Hết,” khi ông áp dụng khẩu hiệu “Canada Trên Hết” để làm cương lĩnh chính trị của đảng mình.

Thế là những điểm tương đồng của ông Poilievre với ông Trump, rốt cuộc, có thể đã khiến ông và đảng của ông phải trả giá đắt. Nhờ thế mà Đảng Tự Do mà theo dự đoán sẽ giành được nhiều ghế hơn trong số 343 ghế của Quốc Hội so với Đảng Bảo Thủ. Tuy vậy, hiện vẫn chưa rõ liệu họ có giành được đa số hoàn toàn, tức là phải giành được ít nhất là 172 ghế, hoặc là sẽ phải liên hiệp với một đảng nhỏ hơn để thông qua các đạo luật và tiếp tục nắm quyền.

Trong bài diễn văn tuyên bố chiến thắng, Thủ Tướng Carney nhấn mạnh đến tầm quan trọng của tình đoàn kết dân tộc khi đang phải đối phó với các mối đe dọa từ Washington. Ông cũng cho biết hệ thống bang giao đôi bên cùng có lợi, mà Canada và Hoa Kỳ đã cùng nhau áp dụng từ Thế Chiến II cho tới ngày nay, coi như đã kết thúc mất rồi.

“Chúng ta đã vượt qua cú sốc do sự phản bội của Mỹ gây ra, nhưng chúng ta không bao giờ nên quên những bài học thấm thía đó,” ông Carney nói. “Như tôi đã báo động trong nhiều tháng, nước Mỹ thèm khát đất đai, tài nguyên, nước, và xứ sở của chúng ta,” vị đương kim thủ tướng nói thêm.

“Đây không phải là những mối đe dọa suông. Tổng Thống Trump đang cố gắng đập tan chúng ta để nước Mỹ có thể làm chủ đất nước chúng ta. Điều đó sẽ không bao giờ… không bao giờ xảy ra đâu. Nhưng chúng ta cũng phải nhận ra thực tế chẳng mấy hay ho gì rằng thế giới của chúng ta đã thay đổi từ căn bản. Hy vọng rằng thất bại của Đảng Bảo Thủ dưới quyền ông Poilievre sẽ biến cuộc bầu cử này thành một cuộc trưng cầu dân ý về cựu Thủ Tướng Justin Trudeau, nhân vật phải lãnh đủ sự ủng hộ giảm sút của cử tri vào cuối giai đoạn cầm quyền khi giá thực phẩm và nhà ở tại Canada tăng cao quá…” (TTHN)


 

Bắt thẩm phán, gây khủng hoảng du học sinh: Chính quyền Trump bị tố “lạm quyền trắng trợn”

Ba’o Dat Viet

April 27, 2025

MILWAUKEE – Một thẩm phán liên bang bị bắt ngay giữa nhiệm sở. Hàng ngàn du học sinh lao đao, bị đẩy đến bờ vực trục xuất. Ngày 25 Tháng Tư, hai sự kiện chấn động đã phơi bày tình trạng rối loạn và lạm quyền ngày càng trắng trợn của chính quyền Donald Trump trong cuộc chiến di trú đầy tranh cãi.

Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) đã còng tay thẩm phán Hannah Dugan, hạt Milwaukee (bang Wisconsin), với cáo buộc trợ giúp người nhập cư bất hợp pháp trốn tránh truy bắt. Giám đốc FBI Kash Patel xác nhận trên mạng xã hội X rằng bà Dugan bị truy tố vì “cản trở thi hành công vụ” – một cáo buộc đang bị giới luật gia lẫn các chính trị gia chỉ trích là nhằm mục tiêu chính trị.

Tại phiên tòa cùng ngày, bà Dugan chọn im lặng, để luật sư của mình, Craig Mastantuono, lên tiếng phản đối vụ bắt giữ mà ông gọi thẳng là “hành động phi lý, đe dọa nền pháp quyền.”

Thống đốc bang Wisconsin, ông Tony Evers, cũng không giấu được sự phẫn nộ khi tuyên bố việc còng tay một thẩm phán là “cú đòn đánh vào năng lực hành pháp và nền dân chủ Mỹ.” Vụ việc diễn ra giữa lúc nhiều thẩm phán liên bang và tiểu bang đang mạnh mẽ chống lại các sắc lệnh di trú hà khắc của ông Trump.

Chưa dừng lại ở đó, cùng ngày, Bộ An ninh Nội địa Mỹ phải chấp nhận khôi phục trạng thái cư trú hợp pháp cho hàng trăm du học sinh – sau ba tuần gây ra hỗn loạn chưa từng thấy bằng cách xóa hồ sơ cư trú trên hệ thống SEVIS.

Ít nhất 1.800 du học sinh và 280 trường đại học bị cuốn vào cơn bão nhập cư. Hàng loạt sinh viên mất việc, buộc phải rời khỏi Mỹ, hoặc kéo nhau ra tòa. Theo thống kê, hơn 100 đơn kiện đã được các tòa án trên toàn quốc thụ lý, khiến chính quyền Trump phải đối mặt với áp lực pháp lý ngày càng lớn.

Dưới áp lực trong và ngoài nước, giới quan sát nhận định rằng việc bắt thẩm phán và truy lùng du học sinh chỉ càng bộc lộ một chính quyền ngày càng đơn độc, đang sử dụng luật pháp như vũ khí chính trị, bất chấp mọi nguyên tắc pháp quyền căn bản mà nước Mỹ từng tự hào.


 

VẪN CÒN NƯỚC MẮT –  DODUYNGOC

THÁNG TƯ. MỘT BÀI VIẾT CŨ

VẪN CÒN NƯỚC MẮT –  DODUYNGOC

Tháng tư. Khi cái nóng miền Nam lên đến đỉnh điểm và cờ đỏ giăng đầy lối phố, là đến ngày kỷ niệm. Ngày mà cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt cho rằng: Triệu người vui cũng có triệu người buồn.

Người bên thắng trận có triệu người vui, nhưng thật ra trong niềm vui cũng có chất chứa sâu kín nỗi buồn. Hàng ngàn thanh niên miền Bắc sinh Bắc tử Nam, đã đi và không về cho một chiến thắng cuối cùng. Họ nằm lại và cho đến giờ, cuộc chiến tranh chấm dứt đã 43 năm, gần nửa thế kỷ qua rồi, thịt  xương của họ đã thành cát bụi, đã hoà lẫn với đất cát, tro than, cây cỏ. Người thân của họ vẫn trông chờ, tìm kiếm trong vô vọng. Những bà mẹ miền Bắc chiều chiều vẫn ngóng về Nam, thắp nén nhang gọi hồn con về. Cắm nén nhang lên bàn thờ nhiều khi chỉ là khung ảnh trống không có hình, nhiều khi chỉ ghi một cái tên, cũng có khi là chân dung của một người rất trẻ. Họ ra đi trong chiến tranh và không trở về trong ngày hoà bình, thân xác của họ được vùi vội vàng đâu đó và bây giờ không còn dấu tích. Bạn bè, đồng đội trở về nhưng họ không về. Có người cho đến giờ vẫn chưa được công nhận là liệt sĩ. Và hàng ngày những bà mẹ già buồn bã vẫn đợi tin con. Ngày lễ chiến thắng nhiều người vui nhưng mẹ lại buồn dù con mẹ là người lính của đoàn quân thắng trận.

Một người không về là nỗi đau không riêng người mẹ, nó là nỗi xót xa, khổ đau của cha, của anh em và còn là nỗi đau của người vợ mất chổng, những đứa con lớn lên không biết mặt cha. Chiến tranh đi qua như một con lốc dữ, để lại những nỗi đau không lấp được.

Hàng dãy mộ bia trùng trùng điệp điệp ở Trường Son, ở các nghĩa trang liệt sĩ, nhiều đến không còn nước mắt để khóc thương.

Người ta có thể tung hô, hùng hồn đọc diễn văn, vui chơi với ngày chiến thắng. Nhưng những bà mẹ, người cha, người vợ làm sao vui khi vẫn chưa tìm thấy hài cốt người thân của mình, hay chỉ thấy con, cháu mình chỉ còn là nấm mồ hiu quạnh.

Theo thống kê của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội Việt Nam, trong tất cả các cuộc chiến tranh kể từ sau năm 1945 (bao gồm Chiến tranh Đông Dương, Chiến tranh Việt Nam, Chiến tranh biên giới Tây Nam, Chiến tranh biên giới Việt-Trung và một số chiến dịch chống thổ phỉ và FULRO), cả Việt Nam có trên 1.140.000 liệt sĩ. Theo tài liệu thống kê của cổng thông tin điện tử ngành chính sách quân đội – Cục chính sách – Tổng cục Chính trị – Bộ Quốc phòng thì đến năm 2012, toàn quốc có 1.146.250 liệt sĩ và khoảng 600.000 thương binh, trong đó có 849.018 liệt sĩ hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ.(Wikipedia)

Bên thua cuộc là hàng triệu người buồn. Họ bị mất nhiều thứ: công việc, nhà cửa, tương lai không biết về đâu? Là chia ly, là ly tán, là những bất hạnh dồn dập.

Họ cũng có những người thân cầm súng chết trong cuộc chiến. Và cũng có rất nhiều người không về. Trong cơn hoảng loạn của tháng ba, cả tiểu đoàn Thuỷ quân lục chiến bị kẹt lại ở biển Thuận An, pháo dội, súng nổ, nhiều người đã chết và vùi thây trong hố chôn tập thể. Trên con đường từ Phú Bổn về trong những ngày cuối tháng tư, bao nhiêu xác người đã nằm lại bên đường, họ nằm đó và cát bụi thời gian phủ thây họ, gia đình bặt tin và lấy ngày đó làm ngày giỗ. Những ngày cuối của cuộc chiến, xác người vẫn ngã xuống và nhiều người bây giờ cũng không tìm thấy xương cốt mộ bia. Rồi khi lá cờ của bên chiến thắng tung bay trên những thành phố, hàng trăm ngàn người vào trại cải tạo, và hàng ngàn người cũng không trở về, họ chết và thân xác được chôn vội vàng giữa vùng đồi núi xa lạ hoang vu. Người thân của họ đi tìm mà mấy người tìm gặp.

Con số 220.357 binh sĩ VNCH tử trận được Lewy dẫn từ tài liệu lưu trữ của Bộ quốc phòng Mỹ, tính từ năm 1965 đến năm 1974. Cộng thêm con số tử trận trong giai đoạn 1974-1975 và trước đó cho ra ước tính khoảng 300.000 tử trận. Nhà sử học R.J. Rummel đưa ra con số ước tính cao nhất có thể lên tới 313.000 tử trận.

Theo thống kê chi tiết của Jeffrey J. Clarke thì tính từ năm 1960 tới 1974, Quân lực Việt Nam Cộng hòa có 254.256 lính tử trận. Cộng thêm con số tử trận trong các năm 1956-1959 và năm 1975 thì số lính Việt Nam Cộng hòa tử trận ước tính là khoảng 310.000 người.

Sau năm 1975 ở miền Nam có hơn 1.000.000 người thuộc diện phải ra trình diện. Riêng ở Sài Gòn có 443.360 người ra trình diện, trong số đó có 28 viên tướng, 362 đại tá, 1.806 trung tá, 3.978 thiếu tá, 39.304 sĩ quan cấp uý, 35.564 cảnh sát, 1.932 nhân viên tình báo, 1.469 viên chức cao cấp trong chính quyền, và 9.306 người trong các “đảng phái phản động”.

Hàng trăm ngàn người đi về phía biển, hàng triệu người bất chấp hiểm nguy đi ra biển và hàng trăm ngàn người chôn vùi thân xác dưới đáy đại dương. Hàng trăm, hàng ngàn người đàn bà bị hãm hiếp trên con đường đi về phía biển ấy, có người bị chết xác quăng xuống biển, cũng có người đi được đến nơi và sống đến bây giờ, nhưng dấu tích của vết thương theo suốt đời họ, không xoá được. Có hàng trăm, hàng ngàn cô gái bị bắt đi và mấy chục năm rồi không tin tức, có thể họ chết lần mòn trong những căn nhà chứa ở Thái Lan. Theo thống kê của cơ quan Tị nạn Liên Hiệp quốc thì có khoảng 500.000 người vượt biên đã bỏ xác ở biển Đông. Thế giới cho rằng đó là cuộc di dân tồi tệ nhất của lịch sử.

Nỗi đau tức tưởi đó làm sao quên, nên tháng tư đối với họ là tháng nước mắt.

Như thế, trong ngày chiến thắng của bên thắng cuộc, cả hai phía vẫn còn những nỗi đau khó xoá. Cả hai phía đều vẫn còn nước mắt. Nước mắt khóc cho một dân tộc bất hạnh có cuộc chiến tranh dài nhất của thế kỷ hai mươi. Một cuộc chiến tranh giữa anh em mà đã 43 năm rồi vẫn chưa hàn gắn được. Thời gian đã trôi qua, cuộc chiến tranh đã lùi xa, nhưng VẪN CÒN NƯỚC MẮT.

15.4.2018

DODUYNGOC


 

Chuyến Vượt Biển Kinh Hoàng – (Sài Gòn trong tôi – Hoàng Định)

Sài Gòn trong tôi

Chuyến Vượt Biển Kinh Hoàng

– Đoàn người chúng tôi vượt biển bằng chiếc ghe với chiều dài khoảng 10 thước, ngang 2 thước, kéo bằng chiếc máy đầu tám ngựa khỏi Bãi Giá, Đại Ngãi, Hậu Giang, Sóc Trăng chở 78 con người đủ lứa tuổi, riêng trẻ em khoảng 20 cả trai lẫn gái, hầu hết thuộc về làng ven biển, mà tôi chỉ biết một số người.

Chúng tôi rời quê hương tháng 2 năm 1990, thời tiết êm dịu, mọi việc kể như trót lọt, nhưng đồ ăn nước uống rất thiếu thốn, vì thế sau bảy ngày chịu đựng một em bé sáu tuổi khóc mãi và chết trong tư thế đang khóc, mọi người lấy ván có sẵn trong ghe làm tạm chiếc hòm với hy vọng ngày mai mang lên bờ chôn cất,

Tối đó có rất nhiều người nằm mơ nhiều chi tiết liên quan đến cái chết của cháu bé, riêng tôi thấy rất nhiều trẻ em kêu khóc, níu kéo ghe chìm xuống, thế là mọi người đều đồng ý cúng vái với một ít mì gói vụn và thả hòm xuống biển, mấy đêm sau đó mọi người không còn những giấc mơ kinh hoàng nữa.

Vài giờ sau chiếc ghe máy bị hỏng không ai sửa chữa được, thế là thuyền lênh đênh trên biển thêm bảy ngày đêm, đói thì ăn cả kem đánh răng, khát thì uống nước biển hoặc nước tiểu, cứ tối đến thì thỉnh thoảng đốt lửa kêu cứu bằng quần áo tẩm dầu. (SGtt-HĐ)

Một đêm, khoảng 2 giờ 30 sáng, trong lúc người ta đốt lửa làm hiệu thì nhận ra một chiếc tàu chạy đến và dừng lại trao cho chúng tôi chuối, nước, rồi tự động cột dây kéo đi. Người trên chiếc tàu đó không biết là người nước nào. Chúng tôi rất mừng vì được cứu. Khoảng mười phút sau đó, tàu dừng lại song song với ghe và ra dấu chỉ vào tai, vào ngón tay, cổ tay chúng tôi, mấy tiếng giọng lơ lớ “US đô la”.

Vì quá vui mừng nên chủ ghe Năm Be vội lấy mũ nỉ gom góp nữ trang của những người trên ghe, họ đứng nhìn và thấy nữ trang được bỏ đầy vào chiếc mũ thì nhẩy qua ôm chiếc mũ sang tàu họ. Một người có vẻ là chủ tàu ra dấu như không đủ vào đâu nên ra dấu bảo đưa thêm hoặc chính họ sang để lục soát. Rồi họ tự động cột giây từ bánh lái đến mũi ghe và cột vào tàu họ.

Tôi và một số thanh niên khác cảm thấy lo sợ và nghi ngờ hành động này thì tức thời họ ra dấu chỉ đám đàn ông đu dây xuống nước dọc thành ghe. Tôi và mọi người cùng biết đây là bọn hải tặc đang tìm cách hãm hại những người trên ghe, đang do dự không tuân lệnh nhưng chủ ghe Năm Be lại giải thích vì của cải chúng tôi nộp cho họ quá ít ỏi không đủ cho chuyến đánh cá của họ. Và vì họ ít người nên ngại chúng tôi đông người đó thôi. (SGtt-HĐ)

Thấy chúng tôi vẫn đứng yên, Năm Be vung tay nói; “Đ.M! có thằng nào chịu nổi cú đấm của tao không mà bày đặt chống cự?”, thế là chúng tôi hậm hực đu xuống, bọn họ chỉ tay ra dấu cho Năm Be đu xuống luôn. Cả đám đàn ông thanh niên đu dây trong biển dọc thành ghe mà nhìn họ.

Trời lờ mờ sáng và với đốm lửa cấp cứu mà chúng tôi đã đốt lên, nhận ra bọn họ khoảng năm tên, tay xách búa chặt cây bước sang lục soát những phụ nữ, trẻ em trên ghe, sau dó tên lái táu lái ghe chạy làm lệch ghe.

Đàn ông thanh niên dưới nước ôm chặt dây sát vào ghe, cố ngoi đầu lên thở còn thân mình và đôi chân trôi trong nước theo tốc độ của ghe bị kéo. Chúng tôi còn đang kinh hoảng thì những chiếc búa vun vút chém vào đầu, vào mình đám đàn ông thanh niên đang đu dây.

Cảnh tượng thật kinh hoảng, những tiếng la ó từ trên ghe của phụ nữ, trẻ con, những tiếng hét đau đớn, thảm thiết vang lên chỉ một lần để rồi tắt lịm của những nhát búa trúng đích vào đầu, tiếng la thất thanh của những ai bị bọn hải tặc man rợ chém trúng tay, cổ, vai hoặc lưng.

Tôi kinh hãi buông tay lúc nào không hay và lặn ngầm qua bên kia của ghe. Tên lái tầu rọi đèn pha đảo qua đảo lại để nhìn cho rõ ràng mà chém, chợt nhận ra tôi, một tên trong bọn lấy mỏ neo liệng theo nhưng may không trúng, thế là tôi lặn tiếp một hơi. (SGtt-HĐ)

Rời xa ghe một khoảng, tôi nhìn lên ghe, đèn sáng choang từ dưới mặt nước nhìn rất rõ, tôi thấy rõ bọn ác thú man rợ tách một đứa bé ra khỏi tay một bà nào đó rồi liệng đứa bé tội nghiệp xuống biển. Tôi tiếp tục bơi xa và nhìn thấy tàu của bọn ác thú hải tặc đã húc cho chiếc ghe của những người tỵ nạn khốn khổ chìm hẳn.

Tôi quá kinh hãi không biết chuyện gì đã xảy ra sau đó nữa ! Mãi sau này khi qua đến trại Sikew và qua những lời kể lại của một bé gái 13 tuổi, tôi mới biết là những trẻ em quá nhỏ thì bị bọn ác thú hải tặc Thái Lan quăng xuống biển, còn bé gái đang lớn và tất cả phụ nữ thì bọn chúng bắt lên tàu bọn chúng và ngày đêm thay nhau hãm hiếp những nạn nhân nữ đáng thương. (Sài Gòn trong tôi)

Tôi vẫn tiếp tục bơi mà chẳng biết đi về đâu, mãi gần sáng gặp được tài công Thời (còn gọi là Chệt Lác) lưng bị chém một nhát búa, và ông Hùng bị một nhát búa ngang mang tai máu me còn rỉ ra.

Cả hai đang ôm một thùng nhựa đựng dầu 20 lít làm phao, tôi mệt quá ghé tay vịn vào nhưng cả hai năn nỉ tôi rời xa đi vì thùng dầu quá bé không đủ sức nổi cho ba người. Tôi thông cảm với họ và chợt nhớ ra vết thương của hai người máu đang rỉ ra và như vậy rất dễ làm mồi cho bọn cá mập hung ác.

Thế là tôi bơi đi và chợt nảy ra sáng kiến cởi chiếc quần dài thắt ống, lộn ngược làm phao, tôi dựa cổ vào đáy quần và cứ thế một vài giờ lập lại cách làm như vậy cho đến khoảng gần giữa ngọ ngày hôm sau. Nhìn xa xa thấy một vật mầu đen đen nhấp nhô, thế là tôi cố gắng lội đến và rất may vớ được thùng dầu từ chiêc ghe của chúng tôi.

Tôi vội ôm ngay vào ngực và thấy sung sướng lạ thường như vừa trút được một khối nặng nề mệt mỏi ra khỏi con người vậy. Nhìn quanh thấy kẻ ôm thùng, người bơi, người ôm ván, không biết ai là ai nhưng nhẩm đếm những điểm di động có vào khoảng 30 người. Tôi rất mừng vì còn được nhiều người sống sót, hoạt cảnh xẩy ra như thể chúng tôi đang chia từng nhóm bơi lội vậy. (SGtt-HĐ)

Có khá nhiều tàu đánh cá khoảng hơn mười chiếc không biết của nước nào đi ngang, nhưng họ tỉnh bơ nhìn chúng tôi như đang tắm biển vậy, có thể nói từng chiếc tàu đó nghe thấy tiếng kêu cứu não nề tuyệt vọng của chúng tôi trên mặt biển đều khoác tay từ chối.

(Khi đến trại chúng tôi được biết nếu họ cứu thì sẽ phiền đến họ vì phải khai báo, chụp hình chung với nhau theo luật Cao Ủy Tị Nạn để điều tra, và nhất là họ sợ bọn hải tặc nhận ra sẽ trả thù)

Chúng tôi cứ lênh đênh ngày đêm trên biển đến ngày thứ ba đã thấy lờ đờ vài ba xác chết và nhiều người bất động còn ôm thùng, ván, có một cái xác ngay sát gần bên tôi. Đến trưa, chợt một tàu đánh cá chạy lại gần lại một cặp vợ chồng.

Họ vớt vội người đàn bà, đó là chị Lên đang lả người bám vào ván, anh Vũ vội bám vào thành tàu để họ vớt lên thì bọn họ gỡ tay đẩy xô ra, nhìn xuống trông thấy tôi chị Liên vội la lên; “Hoàng ơi, giúp anh Vũ với !”.

Tôi chẳng giúp được gì, tôi cũng như anh ấy lều bều trên mặt nước, anh Vũ chỉ biết nhìn theo vợ, thẫn thờ như một cái xác không hồn.

Chiều đến sóng bắt đầu lớn, cha con ông Ba Vạn và cháu Hồng ôm thùng dầu bị dập vùi trong cơn biển động trông quá kiệt sức, đột ngột ông Ba Vạn thốt lên “Hồng ơi! Tao bỏ mày!”, thế là ông buông tay mất tăm.

Lúc này, chẳng mấy ai còn ai để ý đến ai nữa, tôi cũng như mọi người đều mê sảng, hoa mắt, có người thốt lên thấy cồn cát trước mặt, có kẻ thấy hàng dừa xanh mướt, kẻ thì thấy núi xanh thăm thẳm, người thấy cồn đất, còn tôi thì thấy bờ dừa và người đàn bà ngoắc tay như bảo tôi bơi vào, tôi bơi theo hướng tôi thấy, mạnh ai nấy lội theo hướng riêng. (SGtt-HĐ)

Tôi bơi rất lâu mà chẳng thấy đến gần, rồi người đàn bà hiện ra bảo tôi bỏ thùng mà bơi cho nhanh, tôi buông ra và ra sức bơi bằng tay, được vài phút cũng vẫn chẳng thấy bờ dừa đâu.

Chợt ôi như bừng tỉnh và cầu nguyện thì thấy cát biển, cây dưới nước, tôi đứng xuống rồi người tôi chìm hẳn và mê sảng, thấy như người nào cho ăn, tự nhiên tỉnh táo, mở mắt nhìn lại thấy mình đang chìm dần nên tôi hoảng hồn lội lên, một hồi mới nổi khỏi mặt nước.

Nhìn chung quanh toàn biển là biển, thì ra tôi đang mê man hoang tưởng, và kỳ lạ là không cảm đói khát chi, đêm hôm đó trải qua một đêm quả là kinh hãi.

Đến sáng tôi gặp được ba người lớn và ba trẻ em còn lại trên biển gồm người cha có đứa con sáu tuổi bị tách rời mẹ quăng xuống biển và vợ thì chúng bắt hãm hiếp, đứa bé chín tuổi con của anh ta, cô bé 13 tuổi có mẹ bị chúng bắt sang tàu hãm hiếp và hai người em nhỏ bị tách ra liệng xuống biển, cháu Hồng con ông Ba Vạn bị sóng dập kiệt sức buông tay, Từ Minh Tường, Thời (Chệt Lác).

Qua 5 ngày 4 đêm trên biển chúng tôi gặp một tầu sắt và một tầu đánh cá, họ dừng lại, chúng tôi cũng chẳng màng đến vì hàng trăm chiếc cũng đã qua đi như vậy. Thế nhưng họ đang vớt chúng tôi, tuy có muộn màng vì quá nhiều người kiệt lực trên biển, nhưng vẫn còn sống sót bảy người lớn nhỏ, tôi nhìn đồng hồ tay là 6 giờ 58 chiều. (SGtt-HĐ)

Nhìn họ nước da ngăm đen, quấn xà rông tôi không đoàn được họ là người nước nào, họ đang loay hoay nấu cháo cho chúng tôi ăn, uống từng chút như họ đã có kinh nghiệm cho những người vượt biển đói khát này rồi.

Họ chở chúng tôi và tiếp tục đi đánh cá, hơn một giờ sau đánh bắt được một con cá mập họ đem bỏ xuống hầm tàu, nó quậy ầm ầm, họ chỉ tay xuống hầm rồi chỉ chúng tôi như muốn nói sẽ bị cá ăn thịt nếu tụi tôi còn lêu bêu trên nước.

Tầu chở chúng tôi vào bờ khoảng 5 giờ sáng, họ ra dấu sẽ có cảnh sát tới giúp nhưng đừng nói số tàu của họ cứu, rồi họ vội quay tầu ra khơi (Sau này tôi mới biết vùng biển đó thuộc Mã Lai Á cạnh Thái Lan)

Khoảng nửa giờ sau, có cảnh sát đến, chúng tôi vẫn chưa rõ là người nước nào, một cảnh sát biết tiếng Việt chỉ vào một chiếc xe pick up truck và bảo chúng tôi “Lên xe đi” (Sài Gòn trong tôi).

Trên đướng đi họ hỏi chúng tôi có biết cô gái nào tên N. 13 tuổi không? Một anh nhận là cháu vợ, thế là họ trở về trạm cảnh sát và anh đã gặp được cô cháu gái thân xác ốm yếu, và nhất là đôi chân bước đi hai hàng trông đau đớn lắm. Gặp lại chúng tôi, cháu khóc nức nở kèm theo nỗi kinh hoàng ghê gớm trên khuôn mặt, chúng tôi cùng im lặng trong nỗi đau đớn chung.

Một chập sau đó cháu kể lại đã bị nhốt trên tầu 3 ngày đêm và bọn hải tặc liệng hết quần áo em mà đè ra thay nhau hãm hiếp, cháu khóc la hét đau đớn mà bọn chúng thì cứ hết đứa nọ đến đứa kia cho đến khi cháu không còn biết gì thì chúng xách liệng xuống biển cháu mới bừng tỉnh dậy.

Cũng may mắn là chỉ vài phút sau đó được tàu cảnh sát vớt. Anh ta hỏi thăm về vợ mình (là dì của cháu N), cháu cho biết là vẫn còn sống nhưng dì la hét suốt ngày đêm vì bọn họ hãm hiếp dì nhiều quá! thế là trong số 78 người ra đi, chỉ còn lại 8 người sống sót.

Sáng hôm sau một số người trong Cao Ủy Tị Nạn đến chích ngừa, chăm sóc cho bé N…Còn 7 người chúng tôi thì hình dáng gần như nhau, ai cũng lở loét khắp mình và mặt mũi, da sưng từng mảng, được thoa và uống thuốc trị liệu.

Tám người chúng tôi ở đó ba tháng rồi được làm hồ sơ đi trại Sikhew, 30 ngày sau được thanh lọc và tất cả chúng tôi được chấp thuận đi diện nhân đạo. Ở lại trại thêm 6 tháng nữa, riêng tôi định cư tại Hoa Kỳ theo diện đoàn tụ anh chị em ngày 20 tháng 10 năm 1992.

Mong rằng những câu chuyện đau thương này sẽ tạo khối đoàn kết mạnh hơn trong cộng đồng người Việt hải ngoại khắp thế giới. (Sài Gòn trong tôi – Hoàng Định)


 

HÃY DỠ BỎ NHỮNG CÁNH CỔNG TRONG ĐẦU CÁC THẾ HỆ

Luân Lê

Những đứa trẻ ở ngôi trường mầm non này làm sao hiểu được những gì chúng làm và càng không thể có đủ năng lực cảm nhận mọi giá trị hay ý nghĩa của những gì chúng (phải) làm – những thể nhân chưa có năng lực hành vi dân sự theo luật pháp. Chúng chỉ diễn tập lại, và tái hiện cảnh tượng của chiến tranh trên chiếc xe tăng 50 năm trước theo hướng dẫn của những người là giáo viên (và cả cha mẹ) của chúng.

Nếu ông TBT đã nói việc hoà hợp hoà giải là vấn đề quan trọng nhất hiện nay để tạo nên một dân tộc Việt Nam thống nhất – là một, thì người ta phải ngay lập tức cần hành động với một nguyên tắc cốt lõi, rằng chính những người ở hiện tại phải xây dựng một thực tại với hoà bình và tôn trọng, cũng như ông nói – không thể giữ mãi lòng hận thù mà cần xem lịch sử là các bài học.

Thử hỏi, những đứa trẻ hò reo lao vào húc đổ cánh cổng ấy học được gì, khi bản thân chúng còn không hiểu bất cứ điều gì về những gì mình làm?

Những đứa trẻ không có lỗi, nhưng những diễn cảnh được thực hành được tạo bởi những người có trách nhiệm nhận thức rõ ràng về lịch sử và giá trị các bài học của nó – nếu ở đó người ta tin rằng nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một, hẳn sẽ không để cho thế hệ tiếp theo lớn lên húc đổ cánh cổng nào nữa, thay vào đó chúng sẽ xây nên những sự vĩ đại trên những mảnh đất rộng lớn hơn hay xa xôi hơn nhiều.

Hãy chắp những đôi cánh cho những đứa trẻ bay đi những chân trời mới, không phải là gắng mọi cách chỉ để buộc chặt chúng vào những cánh cổng của thương đau, vốn đã đổ sập. Người ta không thể bay lên nếu tiếp tục ghìm nhau bằng gánh nặng và tính uy nghi chết lặng của quá khứ. Muốn vậy, hãy dẹp bỏ mọi rào chắn trong trí óc của những thế hệ mà họ đang đứng trong vai trò và đảm nhận việc giáo dục của hiện tại – tương lai của những đứa trẻ phụ thuộc vào việc đứng cách xa bao nhiêu trong một thái độ khiêm nhường và bao dung trước lịch sử.


 

Mẹ đơn thân năm con bị cấm xuất cảnh vì “phản đối diễn binh”

Ba’o Dat Viet

April 27, 2025

HÀ NỘI – Một văn bản được dư luận viên Cộng Sản Việt Nam tung ra trên mạng hôm 26 Tháng Tư cho thấy, bà Hoàng Thị Hồng Thái, 45 tuổi, chủ tài khoản Facebook Hong Thai Hoang với gần 80,000 người theo dõi, vừa bị Công An Hà Nội áp lệnh cấm xuất cảnh với lý do “phục vụ điều tra tin báo về tội phạm.”

Bà Thái, quê Hưng Yên, nổi bật gần đây nhờ những phát ngôn thẳng thắn trên mạng xã hội. Bà viết: “Tôi phản đối việc tổ chức diễn binh tiêu tốn hàng ngàn tỷ tiền thuế của dân. Thay vì phô trương, hãy xây bệnh viện, trường học cho vùng cao.” Không dừng lại ở đó, bà cũng tuyên bố coi ngày 30 Tháng Tư là “ngày đau thương của dân tộc,” chứ không phải là dịp để tự hào hay hân hoan.

Những dòng chia sẻ này lập tức trở thành cái gai trong mắt bộ máy dư luận viên. Chúng nhanh chóng gạch chéo hình ảnh thông điệp của bà, bêu riếu bà là “kẻ vô ơn,” thậm chí mỉa mai rằng bà chỉ nổi tiếng nhờ “diễn sâu quá mức cho phép,” chứ chẳng có đóng góp gì cho xã hội.

Không chỉ phản đối diễn binh, bà Thái còn chia sẻ những video lay động lòng người, như cảnh một người cha nghèo nuôi ba đứa con sau cái chết của vợ vì tự tử. Dưới đoạn video ấy, bà bình luận: “Có ở đâu mà đứa trẻ không có nổi miếng cơm ăn như thế này? Sao không dùng tiền diễn binh để lo cho các em?”

Sau những phát ngôn và hành động trên, Công An Hà Nội ra tay. Lệnh cấm xuất cảnh giáng xuống trong lúc bà đang gồng gánh nuôi năm đứa con nhỏ, đứa út mới sáu tuổi và mắc chứng tự kỷ. Theo những chia sẻ trước đó trên Facebook cá nhân, bà Thái khẳng định mình tự tay nuôi con bằng mồ hôi công sức, “chưa một lần được hưởng dịch vụ miễn phí,” và thậm chí còn bị tước quyền được bảo vệ bởi chính hệ thống pháp luật mà đáng ra phải bảo vệ công dân.

Bà từng tâm sự: nếu chọn im lặng, có lẽ các con bà sẽ có cuộc sống đầy đủ vật chất hơn, “nhưng chúng sẽ lớn lên như những con chim trong lồng, không bao giờ thoát khỏi tư duy nô lệ.”

Trong bối cảnh nhà cầm quyền Việt Nam gia tăng kiểm soát mạng xã hội và đàn áp những tiếng nói đối lập, câu chuyện của bà Hoàng Thị Hồng Thái không chỉ là nỗi buồn cá nhân, mà còn là tấm gương phản chiếu một xã hội mà tự do ngôn luận đang ngày càng bị bóp nghẹt.


 

Chị và cháu tôi đã ra đi mãi mãi vào ngày 21/04/2025 tại Bệnh viện II Lâm Đồng.

Đinh Hữu Thoại 

Hai mẹ con sản phụ tại thôn Tân Hoá 1, Lộc Nga, Bảo Lộc, Lâm Đồng tử vong: thông tin từ Bệnh viện II Lâm Đồng (link trong bài) và từ người nhà nạn nhân.

“Hiện, các cơ quan chức năng đang điều tra, xác minh làm rõ nguyên nhân tử vong của mẹ con sản phụ H.”

———-

Chị và cháu tôi đã ra đi mãi mãi vào ngày 21/04/2025 tại Bệnh viện II Lâm Đồng.

Không có sự công bằng nào có thể đổi lại hai sinh mạng ấy, nhưng gia đình chúng tôi cần một điều duy nhất: Sự minh bạch! Chúng ta ở 1 thành phố đẹp nhưng cũng cần ở 1 thành phố văn minh, nơi có đội y tế lành nghề và những trái tim nhân đức!

  • Chị tôi – sản phụ Bùi Thị H. – đã đến Bệnh viện II Lâm Đồng vào khoảng 7h sáng, trong tình trạng đau bụng liên tục, sốt cao 38.7°C, kèm ói và chảy máu. Tuy nhiên, theo hồ sơ của bệnh viện, mãi đến 10h sáng chị tôi mới được “nhập viện chính thức”. (thông tin bệnh viện 10h nhập viện theo link báo đính kèm:

https://baolamdong.vn/…/benh-vien-ii-lam-dong-thong…/…)

=> Tại sao lại có khoảng cách tới 3 tiếng đồng hồ như vậy trong khi đây là một bệnh viện tuyến tỉnh, lượng bệnh nhân không đông? Và trong thời gian đó, người nhà chúng tôi nhận thấy không có bác sĩ nào tiếp nhận ca trực, chỉ có sự thờ ơ của một vài nhân viên y tế, cho rằng “thai phụ nào cũng đau như thế cả thôi” ?!!

  • Khoảng trưa ngày hôm đó, khi tình trạng chị tôi đã nguy kịch, chị mới được đưa vào mổ. Sau khi kết thúc ca mổ, gia đình chúng tôi nhận thông tin em bé đã mất. Người mẹ được đưa vào hồi sức trong tình trạng sức khỏe yếu, nhưng ở thời điểm đó chúng tôi vẫn tiếp tục không nhận thấy sự theo dõi, chăm sóc cho chị. Mà đáng lẽ ở thời điểm hậu phẫu sau sinh của 1 thai phụ vừa mất con, chính là thời điểm nguy hiểm nhất và lẽ ra phải được theo dõi đặc biệt?!

Tình trạng của thai phụ ngày càng chuyển biến xấu, nhưng gia đình chúng tôi vẫn nhận được sự từ chối và trấn an rằng bệnh viện vẫn có khả năng cứu sống bệnh nhận.

Tới tận 18h cùng ngày, tức hơn 8 tiếng sau mổ, chị tôi mới được làm thủ tục chuyển viện lên TP.HCM. Nhưng không còn kịp nữa… Trên đường đi, chị tôi qua đời tại Bệnh viện huyện Định Quán.

Chị tôi – và cháu tôi – không chết vì “rủi ro y khoa”. Họ chết vì sự chậm trễ, thờ ơ, thiếu đạo đức, thiếu chuyên môn của đội ngũ được gọi là bác sĩ, y tá tại Bệnh viện II Lâm Đồng.

Chúng tôi quá đau đớn, bàng hoàng, phẫn nộ trước sự mất mát to lớn của 2 sinh mạng quý giá này – vì mọi thứ đáng ra đã có thể được ngăn chặn!

Chúng tôi viết những dòng này để cảnh báo, để thức tỉnh, để đòi lại sự thật cho người đã khuất – và để bảo vệ những thai phụ khác, những đứa trẻ khác. Hãy hành động trước khi con cháu bạn có thể trở thành nạn nhân tiếp theo!

Gia đình chúng tôi đã quá đau lòng về sự ra đi quá sức bàng hoàng của chị và cháu tôi, không muốn nhắc tới và cũng chấp nhận sự thật là chị và cháu đã mất thật rồi, nhưng bên bệnh viện lại có những bài báo viết sai sự thật, khi người nhà chúng tôi lên tiếng thì bị block và không được bình luận, tới mức này rồi chúng tôi không thể im lặng được nữa, xin hãy làm việc đúng lương tâm và đưa ra những thông tin thật đúng đắn!

Nguồn: Loan Kim