Nguyễn Lân Thắng : Một nhà hoạt động nhân quyền tích cực

Chau Trieu is with Phaolô Hiển Nguyễn 

Sinh năm 1975, là một blogger, nhà hoạt động nhân quyền tích cực, và là người đồng sáng lập No-U FC, một câu lạc bộ bóng đá hoạt động vì cả dân chủ lẫn dân tộc, chẳng hạn như các cuộc biểu tình phản đối yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông.

Ông đưa tin về các vụ tịch thu đất đai, cưỡng chế di dời, và vi phạm nhân quyền, đồng thời đấu tranh cho quyền sử dụng đất, tự do tôn giáo, các vấn đề môi trường và quyền của những người yếu thế. Ông thường xuyên đến các địa điểm xung đột đất đai, ghi chép các hoạt động của cảnh sát và gửi báo cáo.

Ngày 5 tháng 7 năm 2022, ông Thắng bị công an Hà Nội đã bắt giữ và bị khởi tố theo Điều 117 Bộ luật Hình sự 2015 với cáo buộc “làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước”.

Phiên tòa xét xử ông diễn ra vào ngày 12 tháng 4 năm 2023, trong một phiên tòa kín; chỉ có luật sư và vợ ông được phép tham dự.

Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội tuyên án ông 6 năm tù giam và 2 năm quản chế với tội danh “tuyên truyền chống Nhà nước” theo khoản 1, Điều 117.

Phiên xử và bản án đã vấp phải phản ứng mạnh mẽ từ các tổ chức nhân quyền quốc tế về tính minh bạch và công bằng của thủ tục tố tụng.

Nhiều tổ chức nhân quyền quốc tế—bao gồm Tổ chức Theo dõi Nhân quyền, Tổ chức Ân xá Quốc tế, và một ủy ban độc lập của Liên Hợp Quốc (Nhóm Công tác của Liên Hợp Quốc về  Bắt giữ Tùy tiện) đã chỉ trích mạnh mẽ phán quyết này. Họ cho rằng việc giam giữ ông là tùy tiện, vì ông chỉ đơn thuần thực hiện quyền tự do ngôn luận theo luật pháp quốc tế.

Nguyễn Lân Thắng là trường hợp điển hình trong danh sách những nhà hoạt động ôn hòa bị truy tố hình sự vì các hoạt động biểu đạt chính kiến ở Việt Nam./.

Vân Phong


 

 Gió chướng đã đổi chiều – Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

06/12/2025

 Reviendrez-vous un jour, ô frères exilés(Một ngày nào đó, các anh sẽ trở về, ôi những đứa con lưu lạc)

  Cách đây đúng 50 năm-đúng nửa thế kỷ- trên chiến hạm chỉ huy Blue Ridge thuộc hạm đội thứ 7 đang đậu ngoài khơi bờ biển Việt Nam VN vào lúc miền Nam đang hấp hối.

Trên phòng chỉ huy của viên đô đốc Hạm đội thứ bảy, người ta thấy tề tựu đông đủ các ký giả nhà báo Mỹ đã từng có mặt trên các chiến trường VN như Stanley Karnov, tác giả cuốn Viêt Nam, a history. Frank Sneppp với các cuốn: Decent Interval và An Insinder Account of Saigon. David Halberstam với The best and the Brightest.. và Neil Sheehan, John Kenneth Galbraith..vv.

Tất cả bọn ký giả này, trừ Stanley Karnov và trum mật vụ Frank Snepp  đều là bọn ký giả thuộc thành phần phản chiến, luôn tìm cách bêu xấu và phát biểu tiêu cực về miền Nam. Bọn họ gián tiếp là nguyên cớ đưa đến sự suy sụp miền Nam vào ngày 30 tháng tư, 1975, toa rập với tên H. Kissinger.

Tôi gọi sau này là: Người Mỹ thua Mỹ ngay tại Mỹ.

Đặc biệt, phụ tá Trùm mật vụ Frank Snepp đã từ Đài Loan đến đây được vài giờ để đón tiếp một nhân vật quan trọng: Đại sứ Martin. Ông đại sứ là người Mỹ cuối cùng rời VN mà trên tay chỉ ẵm theo một gói: Đó là lá cờ Mỹ. Ngay khi vừa đặt chân lên bong tàu vào lúc 2 giờ 47, giờ Sài Gòn, ông nhận được một điện tín của H.Kissinger với nội dung như sau:

« Với lời khen ngợi nồng nhiệt vì ông đã chu toàn toàn trách nhiệm. Nước Mỹ đến như thế nào thì lúc ra đi cũng như thế!!!”

Nhìn từ trên bong tàu, các ký giả ngoại quốc đã thấy hàng ngàn những chiếc thuyền nhấp nhô như lá tre trôi trên biển. Đó là những thuyền đủ loại, đủ cỡ của những người Việt Nam đầu tiên bỏ chạy Cộng Sản. Họ là ai, số phận họ sẽ ra sao sau này?

Chẳng ai trong số những ký giả trên và ngay cả những người ngồi trên những chiếc thuyền đó có thể tiên đoán đuợc điều gì. Chỉ biết bỏ chạy đã. Chữ bỏ của chạy lấy người diễn tả đúng trong hoàn cảnh như thế này. Số phận họ ra sao không ai dám nghĩ tới, ngay cả đối với kẻ lạc quan nhất.

Và đã có hơn 100.000 ngàn người trong số 250.000 ngàn người như thế đã được vớt đi định cư.từ các chiến hạm của hạm đội 7. Cuộc ra đi thật bi tráng và tuyệt vọng đến tức tưởi. Số phận họ có khác gì những con thuyền lênh đênh trên biển cả như những lá tre?

Vâng những lá tre trên một đại dương mà lẽ sống chết đang chờ đợi họ.

Bằng mọi giá họ đã ra đi mà nếu nay ngồi nghĩ lại, nhiều người không mường tượng nổi, họ đã có thể làm một điều như vậy.

Nhưng cái “sô” vớt người trên biển trong tuần lễ cuối cùng của tháng tư và đầu tháng năm của người Mỹ cũng nói lên được cái gì:

 Người Mỹ có thể làm được tất cả mọi việc một cách quy mô, hoành tráng, ngay cả việc trốn chạy.

Đó là những thuyền nhân Việt Nam đầu tiên chạy trốn làn gió chướng từ trong đất liền đã thổi giạt họ ra biển..

Nhìn cảnh tượng đó, Stanley Karnov quay sang David Haberstam vừa cười vừa nói: Công việc đang xảy ra trước mắt chúng ta đây, ngày hôm nay như những chứng nhân lịch sử vào những giờ phút cuối cùng của miền Nam chắc hẳn có công của ông đấy.

Haberstam trả lời:

Tôi chỉ là một ký giá làm việc cho quyền lợi nước Mỹ trên mảnh đất nghèo nàn và khốn khổ này. Mỗi người Mỹ đến đây mang theo mình một trách nhiệm, một sứ mệnh.

  Chẳng hạn sứ mệnh của E. Lansdale và tôi- mặc dầu khác nhau- Nhưng tất cả, chúng ta đều làm vì nước Mỹ!!

 – Chắc là ông hãnh diện lắm.

– Đương nhiên, vì thế mà tôi có mặt ở đây trong giời phút này. Thôi, mời ông nhìn xem cảnh tượng dưới kia xem.

Ông cứ tưởng tượng, trong số 100 ngàn người dưới kia, ít ra cũng đến phân nửa ở tuổi vị thành niên, Cái hình ảnh ngưới lếch thếch, lang thang với từng đoàn người người nối đuôi nhau chạy trốn

Nếu tôi là họa sĩ, tôi chỉ vẽ lên cái cảnh này đũ diễn tả cái hiện trạng người Việt bỏ chạy. Và nếu cần nói một điều gì về lúc đó, về tâm trạng những người bỏ chạy thì có thể tóm tắt trong một câu: Tất cả đều hoang mang và không có một chút hy vọng gì về tương lai cả

Bài hát vui Que sera sera của Doris Day trở thành câu hỏi cho mỗi người Việt bỏ nước ra đi.

Những điều nhận xét của ký giả Haberstam sau này chỉ đúng có một nữa phần đầu của câu chuyện.

Trong lúc đó, một sĩ quan đang trình với viên đô đốc chỉ huy chiến hạm 7 là có một vị tướng lãnh trẻ VN(NCK) vừa đáp trực thăng của ông xuống bong tàu muốn được gặp.

Vị đô đốc ra lệnh một cách tắt gỏng là: Ông nói với ông ta là tức khắc cởi bộ quân phục cũng như lon của ông ra và không được tuyên bố gì..

Đây là nước nước Mỹ trên biển chứ không phải là VNCH nữa.

 Nhiều người sau này cho biết là viên tướng VN sau đó đã nhục nhã khóc, quỳ xuống, ngữa mặt lên trời và hét to lên:

« Ta thề với trời đất là ta sẽ trở về.”

Sau này được biết là ông đã giữ đúng lời thề, ông đã về..

Nhưng vấn đề là về để làm gì và về như thế nào? Đó là chuyện khác.

Và cứ như thế, không phải chỉ có đêm 29 tháng tư, mà tiếp câu chuyện đêm nay còn được tiếp diễn dài dài.

Các con số thuyền nhân trốn khỏi Việt Nam càng gia tăng theo nhịp độ của những chính sách của Hà Nội như “đi vùng kinh tế mới”. “học tập cải tạo”, “đánh tư sản, mại bản”, và cuối cùng “đi bán chính thức” nhằm vào giới Hoa Kiều. Cứ mỗi một đợt chính sách lại thêm số người trốn ra đi khỏi nước.

Tổng cộng đã có gần hai triệu người trốn đi như thế.

Đấy là còn chưa kể những nguời để lại xác trên biển cả. Con số này chẳng ai biết là bao nhiêu? Và cũng chẳng ai có thì giờ tìm hiểu làm gì. Người chết thì đã chết. Phải vậy không? Tiếc nuối rồi cũng nguây ngoa, người Việt đến được các xứ tự do mọi người đều quyết tâm cất cật lực để lo sinh kế, miếng ăn trước đã.

Tất cả những chính sách vừa kể trên là nhằm đánh vào những thành phần phản động, ngụy quân, ngụy quyền, tay sai Mỹ Ngụy. Nước nhà đã độc lập, nay bỏ nước ra đi thì không phản động thì còn là cái gì?

Nhưng chính thức thì có thể quả quyết rằng, nhà nước không cưỡng bức một ai phải bỏ xứ ra đi, và cũng không giữ một ai muốn ra ra nước ngoài sinh sống.

Và cuối cùng để giữ thể diện, vừa loại bỏ được những thành phần ” rác rưởi” muốn vứt, vừa kiếm được tiền hoặc để trao đổi trong thương thuyết, nhà nước Cộng Sản đã đồng ý với Liên Hiệp Quốc theo một chương trình “ra đi trong vòng trật tự”(orderly Departure Program).

Thảm cảnh thuyền nhân trên biển vì thế đã giảm mức độ đi nhiều.

Tất cả câu chuyện, những thảm cảnh trên biển cả nay đảo ngược trở thành cái mà Michel Tauriac trong Hồ sơ đen của Cộng sản (Le dossier noir du Communisme)(1) tóm tắt đầy đủ ý nghĩa tóm gọn trong một câu:

Những con bò sữa thuyền nhân”.

Gió đã đổi chiều, gió chướng đã thổi họ ra biển, nay ngọn gió nào đã đưa họ về?
(1) Cuốn sách Le livre noir du Communisme, Hắc thư về chủ nghĩa cộng sản, do nhà Robert Laffont xuất bản, Paris, năm 1997, 846 trang do Stephane Courtois cầm đầu với 11 tác giả.

Hình ảnh thật biểu tượng và gợi hình. Thật vậy, tất cả những con bò sữa thuyền nhân đã ra đi với hai bàn tay trắng để lại tiền bạc, nhà cửa ruộng vườn. Họ đã vắt được bao nhiêu sữa ở những con bò đó:

Vắt lúc ra đi và nhất là vắt lúc trở về.

 Nói chi đâu xa, tôi có căn nhà kiểu biệt thự ở số 224B Nguyễn Hùynh Đức, quận Phú Nhuận. Căn nhà đó lúc mua là 5 triệu 300 ngàn trước 75. Tính theo trị giá vàng thời đó là khoảng 80 chục cây. Ra đi hợp pháp, có giấy tờ hẳn hoi, đi bằng cửa chính ra Tân Sơn Nhứt.
Kể cũng lạ, tên đường phố ở Sài Gòn thường đổi cả, chỉ có phi trường Tân Sơn Nhứt là vẫn để nguyên, phải chăng bởi vì tên đó chẳng gợi nhớ lên một ấn tượng gì? Lúc ra đi, cái được coi như giấy thông hành là mảnh giấy mà nội dung như sau: Căn nhà 224B Nguyễn Huỳnh Đức do nhà nước quản lý. Quản lý là giữ giùm? hay giữ luôn?

Việc ra đi theo diện người Hoa, bán chính thức hay việc quản lý nhà cửa đất đai, tài sản nằm trong tay Bộ nội vụ. Công việc bộ này là đảm trách và tổ chức nhằm “nhổ sạch lông” những bọn người lưu vong này.

Kẻ dỗi hơi ngồi tính nhẩm chuyện nhổ sạch lông này đem lại cho nhà nước ít nhất là 25 tấn vàng. Tôi không tin vào con số, đúng sai khó đoán vì không biết tính toán. Nhưng ấn tượng trong đầu tôi là nhiều lắm, nhiều lắm lắm. Nhưng 25 tấn vàng vẫn là chuyện nhỏ.

Vẫn là chuyện vắt đi. Vắt lại mới là quan trọng.

Trách chi những nhà báo Mỹ ở trên. Chính người Việt đã quên cái thảm cảnh liều chết ra đi với bất cứ giá nào,

 Nay họ đã quay trở về mà không thấy tủi hổ và khongo biết ngượng.

Và để gọi những thuyền nhân thì có nhiều tên gọi tùy theo thời kỳ: lúc đầu là bọn bán nuớc, bọn tay sai. Cho mãi đến 1990 cũng còn có người gọi Việt kiều là những tên Việt gian. Nói chung họ coi đó là thành phần rác rưởi của chế độ cũ, muốn thải loại, muốn tống đi cho rảnh mặt. Và gọi một cách vô tội vạ nhất là người nước ngoài. Nghĩa là có sự phân biệt đối xử giữa người trong nước và ngoài nước.

Sau này chữ được dùng hơn cả là Việt Kiều.

Rồi cứ như thế sau thời kỳ mở cửa mà số lượng người Việt về nước cũng như kiều hối đã bắt buộc mọi người phải thay đổi lại thế nhìn, thế bắn. Không ai có thể từ chối được những món quà, không phải 10 đô la trong ngày lễ Noel mà là 3 tỉ đô la. 3 tỉ đô la! Không phải chỉ 3 tỉ đô mà nay nhiều lần hơn 10 tỉ-15 tỉ, chiếm tỉ trọng một phần ba ngân sách nhà nước.

Nhờ đó tình nghĩa hàn gắn những vết sứt sẹo, những lời nói mà bình thường chỉ được coi như kẻ thù.

Gió đã đổi chiều nên ngôn ngữ cũng đã đổi theo. Những chiếc thảm đỏ đã trải dài từ phi trường Tân Sơn Nhứt đến Nội bài chạy thẳng vào Bắc bộ Phủ.

Thật là trớ trêu đến nực cười ra đi trốn chui, trốn nhủi, lúc trở về thảm đỏ dưới chân..

Những thành phần rác rưởi ta vừa nói ở trên, những con bò sữa đã vắt cạn chẳng bao lâu sau trở thành rác quý mà người ta có thể chế biến thành những sản phẩm, những vật liệu để xây dựng một nước Việt Nam hùng mạnh. Đã chẳng ai ngờ điều đó đã xảy ra. Rác rưởi cứ thể đổi hình đổi dạng mà tính ra tiền bằng những sản phẩm mới.

Những anh thuyền chài có thể ra đi vỏn vẹn chiếc quần đùi nay chễm trệ ngồi Mercedes. Những mệnh phụ nói tiếng Mỹ oe oé mà nếu không có cuộc đổi đời này cùng lắm chỉ bán cá chợ Trần Quốc Toản.

Kể gì đến những hiện tượng nhỏ nhoi đó.

Đã có rất nhiều thay đổi tràn đầy hy vọng như thế đối với giới người Việt di tản, nhất là nơi người trẻ. Họ không còn là cô nữ sinh cười e lệ, hỏi không dám mở lời mà nay là những chuyên viên hàng đầu của xã hội Mỹ. Có những người trong bọn họ đã làm ra số vốn bạc tỷ. Có người trong bọn họ cùng với bạn đầu tư nửa tỷ đô la tại nơi mà trước đây được coi là thánh địa của cuộc kháng chiến chống Mỹ..Củ Chi với những địa đạo, nơi tự hào về cuộc chiến thần thánh trong tương lai trở thành biểu tượng “thung lũng của ngành tin học.”

Đã chẳng ai từ hai phía, người trong nước cũng như người nước ngoài nhìn thấy được điều đó ngay từ đầu.

Chuyện kể ra như một giấc mơ hay như câu chuyện thần thoại.

Và cái kim chỉ đường cho người Việt tương lai là hãy nhìn vào giới trẻ đang lên. Họ chiếm đa phần. Tương lai thuộc về họ, đời sống thuộc về họ, cộng đồng VN là họ.

Không phải do một thiểu số những người lớn tuổi như tôi. Những người bỏ nước ra đi đã chỉ nhớ cái phần đầu câu chuyện mà quên phần cuối.

Những người không biết kể chuyện và những câu chuyện kể càng ngày càng nhạt phèo như nước ốc.Thời của họ đã hết. Ngay cả Thời của Thánh thần hay Thiên đường mù cũng bị bỏ quên lãng.

Những người còn bám víu vào quá khứ có thể được coi là những người không thức thời. Nhưng nếu không bám víu vào đó thì họ còn gì là họ?

Họ chỉ còn là những loài củi mục trong đám cây rừng đang xanh lá. Củi mục thì làm gì? Đốt làm củi cũng không xong.

Nhưng chắc hẳn nhiều người không

nghĩ như thế. Bỏ vấn đề chính tri, lịch sử xã hội qua

một bên thì vẫn còn lại vấn đề nhân cách, vấn đề đạo lý con người. Củi mục thì cũng vẫn là củi.

Người ta nói, nhìn cây thì thấy rừng, nhưng nhìn củi mục thì thấy gì? Thà là như anh thuyền chài, thà là như chị bán cá nói tiếng Mỹ oe éo.

Thà là như thế.

Phải nhớ rằng cuộc ra đi bất hạnh đã trở thành đại hạnh cho chính mình, cho con cháu mình, cho cái nơi mình đi tới và cả cái nơi mà từ đó mình đã ra đi.

Hãy nhìn vào những con số để nhận ra câu chuyện thần thoại về người Việt di tản.

Năm 1987, có 8 ngàn người về thăm quê hương, đến năm 1993 thì con số tăng lên 160 ngàn người, đến năm 2002 là 380 ngàn người. Con số tự nó nói lên điều gì rồi và người ta bắt đầu vỡ lẽ ra. Bên cạnh đó, kiều hối đem lại một sốn tiền tươi là 2 tỷ 6 đôla trong năm 2003. Hãy làm một so sánh cho rõ. Năm 2003, Việt Nam xuất khẩu được 20 tỉ đôla, trừ vốn liếng cho sản xuất, lời ròng của 20 tỷ vị tất đã được 5 tỷ?

Có một điều, nhiều người vô tình quên là năm nay có 2 triệu lượt khách đến Việt Nam. Cứ giả dụ, mỗi người khách tiêu 2000 đô la đầu người. Số tiền thu được sẽ là bao nhiêu? Trong số 300.000 người Việt về thăm quê hương, cứ cho là vừa tiêu sài, vừa cho bà con họ hàng, ở từ hai tuần đến một tháng, mỗi người đổ đồng chi tiêu 4000 đô la cho một chuyến về thăm quê hương, cán cân ngân sách cũng như nền kinh tế Việt Nam đã được kích cầu lên không nhỏ.

Tiềm năng thật lớn. Tương lai cũng đầy hứa hẹn.

Đó là nền kinh tế sống nhờ trên những kỹ nghệ không khói.

10 năm nữa, dự đoán số khách du lịch là 10 triệu người-năm như Thái Lan hiện nay, với các đường bay thẳng Sài Gòn-Mỹ, Sài Gòn-Âu Châu. Chuyện đã xảy ra và chắc sẽ xảy ra.

Lúc đó tiền đổ vào qua du lịch không phải là nhỏ nên hiện nay trên hầu hết 60 tỉnh thành của VN đều có khu du lịch đủ kiểu.

Điều đáng nói hơn nữa là nay có một số Việt Kiều về nước kinh doanh đầu tư với 74 dự án được chấp nhận với số vốn 540 triệu đô la. Những Việt kiều như Nguyễn chánh Khê với phát minh chế tạo thành công than Nano áp dụng vào việc sản xuất mực không phải là hiếm.

Năm vừa qua, dự án khu khách sạn Vinpearl Resort- Spa, 5 sao, tại đảo Hòn Tre, Nhatrang đã khánh thành vào cuối năm với số tiền đầu tư là 500 tỉ đồng.Phần lớn các số tiền đầu tư này tập trung vào lĩnh vực công nghiệp, tin học, lắp ráp, du lịch.

Cũng vì thế, nhà nước đã chẳng tiếc lời gọi Việt Kiều là những người con của đất nước. Những lời lẽ trân trọng mật ngọt đã hẳn là không thiếu. Gió chướng đã không còn nữa.

Gió đã đổi chiều, ngôn ngữ đổi chiều, giọng lưỡi đổi giọng. Không còn có chữ nghĩa làm đau lòng nhau nữa.

Trên tất cả các sách báo, trên các trang nhà, không còn có thể tìm thấy bất cứ thứ chữ nào nói xa nói gần đến chế độ miền Nam trước đây nữa.

Những chữ như bọn ngụy quân, ngụy quyền và bọn tay sai đã không tìm thấy trong tự điển của bộ chính trị nữa.

Ngược lại không thiếu những chữ mật ngọt như “Tổ quốc Việt Nam, quê hương thân thiết luôn giang rộng vòng tay chào đón những người con xa xứ.”

Nhà nước bảo hộ quyền lợi chính đáng của người Việt nam định cư ở nước ngoài giữ gìn quan hệ gắn bó với quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước”.

Luật quốc tịch điều hai thì viết rõ ràng thế này:” Người Việt Nam ở nước ngoài là công dân Việt Nam “Người Việt nam ở nước ngoài là bộ phần không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam.”

Nhà nước lại còn trích dẫn câu nói của ông Hồ mà không ai tự hỏi xem ông nói lúc nào và bao giờ: “Tổ quốc và chính phủ cũng luôn luôn nhớ thương đồng bào, như bố mẹ thương nhớ những người con đi vắng. Đất nước hòa bình..” bác nói với kiều bào ở Thái lan về nước năm 1960.

Hình như người ta đã quên cái cảnh bồng bế xô đẩy nhau lên máy bay và bằng bất cứ giá nào phải đi bằng được. 29 năm sau, câu chuyện kể về thuyền nhân chỉ còn là dĩ vãng mà cả bên này bên kia đều đã quên hoặc cố tình quên.

Thật ra không hẳn là như vậy. Nhà nước chính quyền hoan hỉ nhận những đồng tiền Đôla từ mọi nơi gửi về cũng như người Việt mang tiền về nước.

Mang tiền về thì được chứ đừng mang chữ về. Chữ hiểu theo nghĩa rất rộng là sách báo, tư tưởng, âm nhạc, nghệ thuật.

Từ khi có nhà nước Cộng Sản đến nay..Chữ vẫn là độc quyền tuyệt đối nằm trong tay đảng.Nó nằm trong một hệ thống khép kín: Chủ nghĩa hay ý thức hệ – bạo lực khủng bố – và một chính quyền toàn trị. (ideology, terror and totalitarian government).

Chẳng lạ gì, trước khi về VN, người ta thường khuyên có một điều duy nhất: anh muốn làm gì thì làm:

chẳng hạn anh có thể cờ bạc, chơi bời đủ kiểu, tắm đủ kiểu, phòng trà đủ kiểu, âm nhạc đủ kiểu, cà phê đủ kiểu, gái đủ kiểu, sex đủ kiểu, ngủ trưa đủ kiểu, ngủ tối đủ kiểu, ăn đủ kiểu, vừa ăn vừa chơi đủ kiểu, đĩ điếm đủ kiểu, hối lộ đủ kiểu, lưu manh lường gạt đủ kiểu, gian trá đủ kiểu, buôn bán mánh mung đủ kiểu, làm giầu đủ kiểu, đầu cơ đủ kiểu, công an đủ kiểu, phường khóm đủ kiểu, công ty đủ kiểu, cơ quan đủ kiểu, chính quyền địa phương đủ kiểu, chính quyền trung ương đủ kiểu, luật pháp đủ kiểu, thằng ăn cắp xử thằng ăn cướp đủ kiểu và cuối cùng xã hội lọan đủ kiểu.

Ta có quyền đủ kiểu hết, miễn là đừng đụng đến chính trị.

Vì trên hết, vẫn có một nhà nước toàn trị ở trên tất cả những đủ kiểu đó. Trước khi lên máy bay về nước, còn dặn với theo: nhớ nhé đừng đụng đến chính trị.

Phải nhìn nhận rằng, sự suy đồi đạo đức xã hội ở VN đã đi quá xa đến mức nó xuống cấp, vượt xa những nước tư bản Phương Tây. Đến nỗi phải kêu lên một câu: Có nước nào như nước ấy không?

Phát triển kinh tế không đồng nhịp với cải tiến xã hội và đạo đức. Về Xã hội, chỉ nhìn giao thông đường phố Sài Gòn, Hà Nội là đủ hiểu. Về đạo đức, chỉ nhìn thực trạng học đường ở VN là đủ hiểu.

Mặc dầu vậy, ngày nay, có nhiều bà con Việt Kiều tính về ở hẳn VN. Có người trong đám này về Việt Nam dưỡng già với xe hơi SUV.

Có những ông già lấy tiền xã hội của Mỹ về tậu nhà, tậu cửa, líu lưỡi khen ngọng và hãnh diện nói: mấy chục năm không sáng tác được, nay về ở VN nhờ đó mới hoàn thành được tác phẩm. Có ông Nhà văn ” tiến bộ” nay trở thành thứ ” Chim hót trong lồng”.

Tất cả đều thuộc loại người không biết ngượng.

 Trong vòng 10 năm nữa, khi xa lộ đông tây hoàn thành, khi 6 tuyến xe điện ngầm xây dựng xong, khi đường hầm Hải Vân nối liền Nam Bắc nay đã hoàn tất, thành phố Sài Gòn sẽ thay mặt đổi tên chẳng còn ai nhận ra nó nữa.

Nay ở Sài Gòn, đã có những khu nhà “Làng Việt Kiều “. Người ta dự trù có 4 khu như thế, với những biệt thự sang trọng, đủ tiện nghi như ở Mỹ, Canada.Người ta thấy những Việt Kiều lái những chiếc xe SUV, hay ngồi nhâm nhi ly rượu cocktail bên bờ sông Sài Gòn. Những căn nhà có những bãi cỏ xanh, mái nhà mầu cam kiểu California, những hồ bơi với những cây dừa với những hàng chữ tiếng Anh Welcome.

Đây là, chẳng phải ai khác, mà là những nguời di tản, những rác rưởi 37 năm trước chạy trốn Cộng Sản, hoặc đã bị đi tù, đi cải tạo. Gió chướng đẩy họ ra đi, nay gió nào đẩy họ về?

 Chẳng hạn, anh chàng Võ Q, kèm theo cái tên Larry, nay đã 65 tuổi, trước đây là một sĩ quan không quân, quân đội VNCH. Anh ta ta đã rời bỏ vùng Southern Califronia cách đây 2 năm cùng với vợ, còn có tên cúng cơm là Lynda để về ở đây. Anh ta khoe căn nhà với vẻ hãnh diện không cần giấu giếm với đồ dùng toàn bằng Inox, phòng tắm lớn có vòi tắm hơi, thiết trí theo kiểu Jacuzzi của Ý. Sàn nhà mầu hồng bóng lộn. Anh còn chỉ cho thấy và nói thêm: Không phải cẩm thạch đâu nhé, đá hoa cương thứ thiệt đấy.

 Thiệt là quá rẻ, còn rẻ hơn ở Hoa Kỳ rất nhiều. “Thiệt là Việt Kiều”.

Một anh khác tên Hoàng Tiến, chả bù cho lúc ra đi lếch thếch, lang thang, nay anh trở thành chủ nhà thầu đang có những kế hoạch xây cất nhà cho Việt Kiều với những dự án ” thành phố xanh” (Green city).

Cái điều oái ăm đến quái gở là khi ở Mỹ, người ta tìm cách đặt tên Little Saigon, Phở Bắc, bánh mì Tân Định, bánh cuốn Đakao, Restaurant Hoài Hương để nhớ về;nay ở Việt Nam thì người ta lại muốn đặt tên cho những khu thương xá là ” tiểu Cali “, ” tiểu Fairfax ” để nhớ đến.

Và cứ như thế, sẽ có một số người Việt gốc Mỹ sống riêng biệt trong những tiểu quốc của họ bên cạnh những người Việt bản xứ.

 Khi ở Mỹ thì họ nhớ Việt Nam, khi ở Việt Nam họ lại tiếc lối sống Mỹ. Họ trở thành người ngoại quốc trước mắt những người đồng loại của họ.

  Họ tưởng về quê thật, nhưng lại mang tâm trạng một thứ chủ nhân, cách biệt với dân bản xứ.Và điều rõ rệt là Hoàng Tiến đã bực tức về một căn nhà hàng xóm đã vứt những bao rác ra đường ngay cổng nhà anh ta, đã mở nhạc Karaoké tùy tiện ầm ĩ cả lên. Anh bực tức nói:

– Như thế không phải lối sống Mỹ, không biết tôn trọng luật pháp.

Như thế là thiếu văn minh. Khi ở Mỹ thì anh muốn bảo tồn văn hoá Việt, không muốn trở thành Melting pot hay Sálát Mỹ. Anh bắt con đi học tiếng Việt. Về VN, đụng mở mồm là anh xổ tiếng Mỹ cho oai. Quả là về sống ở Việt Nam thì lại là câu chuyện khác.

Trong tương lai, Hoàng Tiến sẽ còn phải bực tức nhiều về những điều trái tai gai mắt: chẳng hạn một anh cán bộ phường cứ xồng xộc vào nhà chẳng điện thoại trước.

Riêng Nguyễn Anh, năm nay mới 35 tuổi về Việt Nam làm việc cho một công ty nước ngoài. Ra đi từ nhỏ, kể như không biết gì về Việt Nam, anh cũng không có ý ở hẳn VN.Nhưng anh cũng có một vài nỗi khổ vặt khác.

Nguyễn Anh sửng sờ khi làm một việc gì giúp người khác không nhận được một tiếng thanh kiu, thanh kiếc gì hết. Anh cũng khó chịu khi mọi người chen lấn không xếp hàng khi trả tiền.Nhất là các cô thiếu nữ trông khả ái, dịu hiền, nhưng cũng huých tay chân như ai.

Gần như mạnh ai nấy làm, mạnh ai nấy sống chen lấn chụp giựt. Nguyễn Anh có hơi buồn về con người Việt Nam vốn có tâm hồn, vốn thương người mà một tai nạn xe cộ xảy ra đến chết người mà mọi người dửng dưng. Quả thực, tuy là người Việt Nam, nhưng anh lại không hiểu gì về người mình.

Lại nói đến giải trí, Nguyễn Anh không hiểu được là người Việt Nam “Xem thể thao” chứ không chơi thể thao.

Mấy triệu người thức đêm, bỏ công ăn việc làm, bỏ học để dán mắt vào đài truyền hình theo dõi một trận đá banh. Thật là vô lý vì hại sức khỏe. Chỉ có 22 cầu thủ thực sự chơi thể thao, còn cả nước chỉ ngồi xem thể thao, chưa kể còn cá độ.Hình như cái gì ở Việt Nam cũng có thể trở thành cờ bạc. Lại một điều nữa, Nguyễn Anh không hiểu được.

Nguyễn Anh thì chỉ thích đi đánh golf. Nhưng muốn chơi ngon, Nguyễn Anh phải lấy vé máy bay ra Phan Thiết chơi, vì ở đó có sân chơi nổi tiếng là đẹp. Ít ra thì điều đó cũng làm Nguyễn Anh vui lòng.

Nhưng có người thấy như thế thì lấy làm kỳ cục. Họ chép miệng, tội tình gì mà phải cất công như thể để chơi Golf. Chơi đâu chả được. Phí tiền nữa. Nguyễn Anh không đáp lại, vì anh có cái lý của anh. Đúng là anh thấy người Việt mê đá banh một cách kỳ cục. Nhưng ngược lại, họ cũng thấy anh không giống ai.

Còn về thanh niên, thiếu nữ thì chửi thề không biết ngượng mồm, nhất là thanh niên, thiếu nữ gốc Bắc. Mở mồm ra là địt. Sáng ra, chỉ hỏi giá cả món hàng đã bị một người con gái xinh đẹp phạng cho một câu.

 Nói gì thì nói, nghĩ gì thì nghĩ. Thời gian sẽ xoá nhoà tất cả vết tích cũ: thời gian cứ trôi qua, nhiệt tình chống Cộng giảm xuống và tình hoài hương lại trỗi dậy.

Những vị lãnh đạo trong nước thì nghĩ rằng: Nhân dân muốn quên hết mọi thứ.Những người này hiện ở đây vì đất này là tổ quốc của họ. Chúng ta không có quyền trách mắng họ. Chúng ta tiếp đón họ. Chúng ta không muốn để Việt kiều gây chiến tranh lần nữa.

Tự nhiên bật ra một câu hỏi: Nhưng nhân dân là ai mới được cơ chứ?
Nhưng tôi cho rằng lịch sự trớ chêu có những bài học không bao giờ chúng ta học hết được.

Chiếc soái hạm Blue Ridge 37 năm trước trong vai trò chở binh lính Mỹ và người tỵ nạn VN ra khỏi miền Nam thì hiện nay đang đậu ở bãi Tân Sa, Hải Phòng!

Đố ai biết được ngày hôm nay vai trò của Blue Ridge đên VN với mục đích gì?

© Nguyễn Văn Lục


 

NHÂN TAI chứ không phải thiên tai

 

Tôi xin nói rõ ; theo tôi , năm nay không phải là lũ lụt . 

Năm nay không phải lụt . Cũng không chỉ là lũ, theo nghĩa ta quen gọi .

Không cần giàu tưởng tượng lắm đâu , để mà thử nghĩ : Chảy hết núi rồi , thì đến gì nữa ?

Cứ đà này , rồi sẽ đến một ngày , cái nơi thân yêu và thiêng liêng mà ta vẫn gọi là Đất nước , là Tổ quốc , cái mặt đất trên đó là làng mạc , đồng ruộng , thành phố , con người nữa… tất cả , tất cả ta vẫn đinh ninh là trường cửu , là vĩnh hằng đây , có chảy trôi tuột luôn hết ra Biển Đông không ?

Song tôi có cảm giác dường như năm nay , đến giờ này , thì không còn có thể nói đến “ tương tự “ được nữa . Năm nay đã có cái gì đó mới , khác , cái khác đó lại là cơ bản , rất cơ bản . Tất nhiên ở đời không có gì đùng một cái bỗng xảy ra , cái điều tôi thấy và muốn nói là mới , khác , mà lại là mới , khác một cách cơ bản năm nay , tất nhiên đã từng có dấu hiệu những lần trước rồi , nhưng là lẻ tẻ , thỉnh thoảng , trong một điều kiện cực đoan bất chợt nào đó . Nó tích tụ dần , cho đến năm nay , thì trở thành hiện tượng tai họa cơ bản . Hơn thế nữa , rất có thể từ nay cái cơ bản này sẽ trở thành bình thường , hằng năm , ngày càng nặng hơn , dữ hơn . Thành “ quy luật ” nếu ta muốn nói cho có vẻ chữ nghĩa , khoa học một chút .

Giáo sư Nguyên Ngọc Lung , chuyên gia số một về rừng , vừa có bài viết nói rõ : khi còn rừng tự nhiên thì mưa xuống chỉ có 5% nước chảy trên mặt đất , 95% sẽ ngấm xuống thành nước ngầm , cho nên ta đào giếng ở đâu cũng có nước . Khi mất rừng tự nhiên thì ngược lại , chỉ 5% ngấm xuống thành nước ngầm , hơn 90% sẽ chảy tràn trên mặt đất .

Nghĩa là còn rừng tự nhiên thì chỉ có lụt . Lụt hiền , lành , và thân thuộc như bạn chung tình mỗi năm một lần trở lại . Tôi ở Hội An , tôi biết , 3 năm qua không có lụt , người ta nhớ và chờ . Lụt rửa sạch ruộng đồng và mang về phù sa .

Lũ là khi đã mất rừng tự nhiên , chỉ còn lơ thơ mấy cây bụi lẹt đẹt , với cỏ , với cao su , keo , cà phê… tràn lan , là các loại cây không có bộ rễ giữ nước , ( mà các báo cáo với thống kê cứ gọi vống lên một cách gian dối là “ độ che phủ ”), 95% nước mưa chảy thành thác trên mặt đất quét hết mọi thứ , làng mạc và con người .

Nhưng năm nay khác : Năm nay không chỉ có nước xối xả thành lũ . Năm nay đã diễn ra một điều hoàn toàn khác , mới , và rất cơ bản : NĂM NAY ĐÃ ĐẾN LƯỢT ĐẤT CHẢY .

Tôi chưa có con số thống kê , nhưng số người chết vì đuối nước lũ năm nay , thấp hơn rất nhiều số người chết vì bị đất chảy chôn vùi . Cần hết sức chú ý đến hiện tượng mới này .

Ta gọi là lở núi . Thôi thì nói thẳng đi : Từng quả núi , từng ngọn núi lớn nổ tung rồi chảy ra thành nước , thành thác , vùi lấp xóm làng , ruộng đồng , con người , nuốt gọn từng gia đình , từng cộng đồng người , tất cả , tất cả…

Con người sống trên đất , ấy là ơn nghĩa vĩ đại của Tạo hoá . Trên khắp thế giới con người đều gọi đất là Mẹ hay là Cha . Fatherland , Mère Patrie , người Việt thì gọi Tổ quốc của mình là Đất nước .

Mối quan hệ sinh tử của sự sống là Đất và Nước , được kết chặt vào nhau bằng Rừng . Năm mươi năm nay , với lòng tham vô độ , bất chấp mọi lời kêu cứu thất thanh , ta đã chặt đứt cái khâu sinh tử : RỪNG . Phá sạch sành sanh rừng rồi . Không còn rừng , rừng tự nhiên , thì NÚI CHẢY RA như nước . Năm nay không phải chủ yếu là lũ nước , mà là lũ đất . Đó là thay đổi cơ bản năm nay , và theo tôi , từ nay .

Ai dám bảo là không ?

Nguyên Ngọc .

Các ông phá nát rừng rồi ngăn nước làm thủy điện ,đảo lộn sinh thái ,khi mưa lớn sợ vỡ đập nên xả nước làm ngập .

Đây là NHÂN TAI chứ không phải thiên tai


 

BÀI GIÁO KHOA CŨ

Xuyên Sơn

Bài học cũ, đơn giản nhưng dạy trẻ con biết hoài niệm, biết nghĩ về những gì đã có.

Đọc lại một trang giấy nhỏ, đã cũ, đã bị phế bỏ, mà nghĩ rằng người viết chẳng có chức phận hay quyền hành gì, nhưng họ hành động như một người Việt buộc phải cẩn trọng trách nhiệm với trăm năm sau.

Chỉ tự tâm niệm mà cẩn trọng.

Không cần phải có một tôn giáo hay lý tưởng vĩ đại nào, chỉ cần một tấm lòng học làm người, biết thương nhớ mẹ cha, đã là một công dân tử tế trên nước Việt.

“Con không cần phải khấn, vì hồn mẹ lúc nào cũng phảng phất bên con”.

Thật ra, câu văn chỉ là một lời an ủi. Nhưng cảm động đến có thể rơi bước mắt. Lời dạy còn âm thầm nhắc rằng khi hành động bất kỳ điều gì, đều có một lương tâm truyền đời dõi theo và nhắc nhở.

Nếu không có mẹ cha và người đi trước, thế hệ hôm nay dễ dàng trở thành hành động, suy nghĩ vô loài.

Chân thành với giáo dục không khó, nhưng cố gắng tạo dáng vẻ cho giống như giáo dục thì rất khó.

Nhiều năm cải cách, gắng gượng thay đổi sách giáo khoa cho thấy một tương lai dân tộc rất mơ hồ: một hệ thống vật vã, gượng gạo tạo ra cái mới – rất giả tạo – bởi mang quá nhiều mặc cảm với cái cũ đã hoàn chỉnh từ một thể chế khác.

Sẽ chẳng ngạc nhiên, khi hôm nay, mọi thứ giả dối đang lên ngôi:

Giả trí thức, giả văn bằng, giả học vị… và cuối cùng là giả làm một người yêu nước.

Nhạc sĩ Tuấn Khanh


 

LÊ TRỌNG HÙNG: NGƯỜI ĐÀN ÔNG DÁM TỰ ỨNG CỬ QUỐC HỘI BẰNG MỘT CHIẾC ĐIỆN THOẠI

Kim Dao Lam

Fb Việt Tân

Anh Lê Trọng Hùng, sinh năm 1979, từng là một người đàn ông bình thường ở Hà Nội: có vợ, có con, có công việc ổn định. Nhưng anh lại mắc “cái tật” không bỏ được: thấy bà con mất đất khóc ngoài ruộng thì phải quay phim, thấy cán bộ xã chèn ép dân thì phải livestream, thấy người dân không biết quyền của mình thì phải mở kênh YouTube dạy từng điều luật.

Thế là anh cùng vài người bạn lập ra Chấn Hưng Nước Việt Television – viết tắt là CHTV. Không phòng thu, không biên tập viên áo vest, chỉ có một chiếc điện thoại, một cái xe máy và một trái tim nóng. CHTV trở thành “đài truyền hình” của người dân oan: Đồng Tâm, Dương Nội… ở đâu có tiếng khóc vì mất đất, ở đó có mặt anh Hùng.

Anh dạy bà con cách viết đơn khiếu nại, dạy cách đối thoại với chính quyền, dạy cả cách quay phim để lưu chứng cứ. Anh nói chậm, nói rõ, nói bằng thứ ngôn ngữ mà ngay người ít học nhất cũng hiểu: “Quyền của mình nằm trong Hiến pháp, không phải trong miệng cán bộ”.

Rồi đầu năm 2021, anh làm một việc mà cả nước giật mình: tuyên bố tự ứng cử Đại biểu Quốc hội với tư cách độc lập. Không đảng đoàn bảo lãnh, không cơ quan giới thiệu, chỉ một mình anh và lá đơn. Anh bảo: “Hiến pháp cho phép, sao tôi không làm?”

Chỉ chưa đầy ba tháng sau, ngày 27-3-2021, công an đến nhà anh ở quận Đống Đa. Còng tay. Bắt khẩn cấp. Điều 117 – tội “tuyên truyền chống Nhà nước”.

Ngày cuối cùng của năm 2021 – 31-12-2021 – tòa tuyên anh 5 năm tù giam và 5 năm quản chế. Lý do? Vì những video anh quay cho người dân oan, vì những buổi dạy luật miễn phí, vì lá đơn ứng cử mà anh chưa kịp nộp. Tòa nói thẳng: anh “làm giảm lòng tin của nhân dân vào chính quyền”.

Giờ anh đang ở Trại giam số 6, Nghệ An – cùng trại với thầy giáo Bùi Văn Thuận, luật sư Đặng Đình Bách và nhiều tù nhân lương tâm khác. Người nhà chỉ được thăm vài lần mỗi năm, mỗi lần nhìn anh qua tấm kính, gầy đi, tóc bạc đi, nhưng mắt vẫn sáng. 

Anh Hùng là minh chứng sống động nhất cho nghịch lý của thời đại này:

Một người chỉ dùng chiếc điện thoại để nói thay cho dân oan, dạy dân biết quyền của mình, và dám đứng ra ứng cử như Hiến pháp cho phép – lại bị kết án 5 năm tù vì “đe dọa an ninh quốc gia”.

Trong khi đó, hàng triệu người dân vẫn đang mất đất, vẫn đang khiếu kiện, vẫn đang cần những người như anh Hùng lên tiếng.

Hôm nay, ngày Nhân quyền, chúng ta không thể không nhắc đến anh – người đàn ông đã biến chiếc điện thoại thành vũ khí mạnh nhất: sự thật.

Anh không cầm súng, không kêu gọi bạo lực, anh chỉ cầm điện thoại và nói thay cho những người không có tiếng nói. Vậy mà phải trả giá bằng 5 năm tự do và thêm 5 năm quản chế.

Anh đã bị cướp mất tự do, nhưng không ai cướp được điều anh để lại: ý thức công dân mà anh đã gieo vào từng người dân nhỏ bé nhất.

Tự do cho nhà báo công dân Lê Trọng Hùng!

Thế Bảo


 

PHẠM CHÍ DŨNG: 15 NĂM TÙ CHO MỘT CÂY BÚT ĐỘC LẬP  ĐÃ TỪ BỎ HÀNG NGŨ CHẾ ĐỘ

Kim Dao Lam

Sáu năm trước, vào một buổi chiều cuối tháng 11-2019, không tiếng còi xe công an, không tiếng còng tay, không quá đông công an và vài người đàn ông mặc thường phục “mời” ông Phạm Chí Dũng, Chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam (IJAVN),  lên xe. Từ đó, một trong những cây bút sắc bén của báo chí độc lập Việt Nam bị giam cầm sau song sắt.

Ông Phạm Chí Dũng, sinh năm 1966, tiến sĩ kinh tế, cựu sĩ quan quân đội với 30 năm tuổi Đảng. Người đàn ông ấy từng ngồi ở những vị trí mà nhiều người mơ cả đời không tới. Nhưng ngày 5-12-2013, ông làm một việc mà không ai ngờ: nộp đơn xin ra khỏi Đảng với lý do ngắn gọn đến đau thắt: “Đảng không còn đại diện cho quyền lợi của đại đa số nhân dân”.

Từ đó, ông chọn con đường còn lại của đời mình: làm nhà báo, thật sự là nhà báo.

Ông thành lập IJAVN – Hội Nhà Báo Độc Lập Viet Nam, tổ chức đầu tiên và duy nhất dám tự nhận mình là “nhà báo độc lập” trong một đất nước mà mọi tờ báo đều phải có “giấy phép sinh hoạt”. Ông viết hàng trăm bài báo, phân tích kinh tế sắc như dao, phơi bày tham nhũng, lên tiếng cho người dân mất đất, cho ngư dân Formosa, cho những tù nhân lương tâm bị lãng quên. Ông ký tên vào mọi thư ngỏ gửi Liên Hợp Quốc, gửi Nghị viện châu Âu, gửi bất kỳ nơi nào còn sẵn lòng lắng nghe tiếng Việt Nam không qua bộ lọc.

Ngày 5-1-2021, Tòa án Nhân dân TP.HCM tuyên phạt ông 15 năm tù giam về tội “tuyên truyền chống Nhà nước” theo Điều 117 Bộ luật Hình sự. 15 năm mức án nặng nề dành cho một nhà báo tâm huyết. Cùng ngày hôm ấy, hai thành viên khác của IJAVN là Nguyễn Tường Thụy và Lê Hữu Minh Tuấn cũng nhận án nặng. Một thông điệp rõ ràng được gửi tới toàn bộ những ai còn dám cầm bút tự do.

Amnesty International, Phóng viên Không Biên giới (RSF), Human Rights Watch, Ủy ban Bảo vệ Nhà báo (CPJ)… đều đồng loạt gọi tên ông Phạm Chí Dũng là “tù nhân lương tâm” và xếp vụ án này vào danh sách những vụ đàn áp tự do báo chí nghiêm trọng nhất khu vực Đông Nam Á những năm gần đây.

Sáu năm trôi qua, ông đã bước sang tuổi 59 trong tù. Không ai được thăm gặp thường xuyên, không thông tin sức khỏe, chỉ có những dòng tin ngắn ngủi lọt ra từ người thân: “Anh vẫn đọc sách, vẫn viết khi được phép, và có lẽ anh vẫn có thể tự hào cười khi nhắc tới IJAVN”.

15 năm tù cho một người từng phục vụ chế độ 30 năm.

15 năm tù cho những con chữ không chịu nói dối.

15 năm tù chỉ để nhắc chúng ta rằng: ở Việt Nam năm 2025, nói thật vẫn là tội nặng nhất.

Ngày Quốc tế Nhân quyền năm nay, chúng ta không thể không nhắc đến ông, người đã chọn từ bỏ mọi đặc quyền để giữ lại một thứ duy nhất: lương tâm của một nhà báo.

Ông Phạm Chí Dũng không còn tự do, nhưng cây bút của ông vẫn đang được hàng trăm người trẻ âm thầm tiếp nối ngoài kia. Họ có thể không dám công khai đứng dưới ngọn cờ IJAVN nữa, nhưng mỗi dòng chữ trung thực họ viết hôm nay có bóng dáng của những người cầm bút can đảm như ông.

15 năm là quá dài với một con người, nhưng quá ngắn để dập tắt một ngọn lửa đã được thắp đúng chỗ.

Tự do cho nhà báo Phạm Chí Dũng!

Tự do cho báo chí độc lập Việt Nam!

Vân Phong


 

3 người Việt bị bắt trong ngày đầu tiên ICE bố ráp di dân ở New Orleans

Ba’o Nguoi-Viet

December 4, 2025

NEW ORLEANS, Louisiana (NV) – Có ba người Việt Nam trong số 16 người bị Cảnh Sát Di Trú (ICE) bắt trong ngày ngày đầu của chiến dịch bố ráp ở New Orleans, theo thông cáo báo chí của Bộ Nội An (DHS) hôm Thứ Tư, 3 Tháng Mười Hai.

Ba người Việt Nam bị bắt trong ngày đầu tiên của chiến dịch “Catahoula Crunch” tại thành phố lớn nhất Louisiana là Bình Văn Tô, Vũ Hoàng Phạm, và Hùng Ngọc Trần.

Ông Bình Văn Tô (trái) bị còng tay và đứng cạnh một nhân viên ICE trong lúc trả lời phỏng vấn đài News Nation Network sau khi bị bắt hôm Thứ Tư, 3 Tháng Mười Hai. (Hình: Chụp từ Facebook Ali Bradley)

Theo DHS, ông Bình Văn Tô là “một di dân tội phạm bất hợp pháp” phạm tội ăn cướp, tấn cộng người với vũ khí giết người, bắt cóc, giết người, và hành hung người khác, và từng bị bản án 40 năm tù.

Sau đó, ông được thả ra và bị quản chế, và bị tòa án di trú ra lệnh trục xuất.

Khi được phóng viên Ali Bradley của đài News Nation Network lúc bị bắt, ông Bình trả lời lý do ông bị kết tội: “Tôi rất tiếc. Quý vị biết tôi không bao giờ có ý định làm như quý vị biết. Nó là, quý vị biết đó, nó không phải như vậy. Cho dù sự việc tệ hại thế nào, nó không phải là như vậy, nhưng lại xảy ra như vậy.”

Ông tiếp: “Tôi xin lỗi vì tất cả những gì xảy ra. Sự việc xảy ra như vậy, nhưng không phải vậy. Tôi có sai lầm. Chỉ có tôi. Gia đình tôi. Và tất cả những chuyện này làm vợ tôi phải chịu đựng.”

“Nhưng ông vừa thú nhận ông vi phạm điều luật di trú?” phóng viên Bradley hỏi.

“Không,” ông Bình trả lời.

“Như vậy là ông không vi phạm luật di trú khi bị kết tội?” cô Ali Bradley hỏi tiếp.

Ông Bình đáp: “Đúng vậy, nhưng tôi là tội phạm vì phạm tội hình. Tôi sẽ rất biết ơn nếu tôi đi Việt Nam, mặc dù không biết một tí gì ở nơi đó. Tôi đến đây khi còn rất nhỏ.”

Nữ phóng viên hỏi tiếp: “Như vậy có nghĩa là ông sẵn sàng đi nếu họ trục xuất ông về Việt Nam?”

Ông Bình dõng dạc nói: “Nếu quý vị cung cấp giấy tờ cho tôi, tôi sẽ tự bay về Việt Nam. Tôi không cần họ đi với tôi. Tôi không cần họ mua vé cho tôi.”

Vẫn theo DHS, ông Vũ Hoàng Phạm là “một di dân tội phạm bất hợp pháp, bị bắt vì liên tục vi phạm các tội hình sự như hành hung người khác, bạo hành gia đình và tấn công bạo động, ăn cắp xe, tấn công mang tính bạo động, hành hung người khác cấp độ hai, hành hung một cảnh sát viên, ăn trộm, say rượu nơi công cộng, ăn cắp, và ăn trộm – âm mưu hình sự, lái xe khi trong cơ thể có cồn (DUI), sở hữu vật dụng dùng để ăn cắp, giả danh người khác, và các tội khác liên quan đến ma túy.”

Ông Vũ Hoàng Phạm, người vừa bị ICE bắt trong chiến dịch “Catahoula Crunch” ở New Orleans. (Hình: DHS)

Còn ông Hùng Ngọc Trần có lệnh trục xuất từ năm 2010. Ông bị kết tội tấn công tình dục, ăn cắp, và sờ mó trẻ em.

Trong thông cáo báo chí, DHS không cho biết ông Bình Văn Tô, ông Vũ Hoàng Phạm, và ông Hùng Ngọc Trần đến Mỹ khi nào và bằng cách nào, cũng như tình trạng di trú của ba người này trước và sau khi bị bắt.

Trong nhiều trường hợp, có người chưa phải là công dân, mặc dù đến Mỹ hợp pháp, nhưng phạm tội hình sự. Sau khi mãn hạn tù, những người này bị đưa ra tòa án di trú, và thường bị trục xuất.

Nếu sau đó người này không tự trục xuất, hoặc bị quốc gia gốc của mình từ chối nhận, khi bị bắt lại, DHS thường gọi họ là “di dân tội phạm bất hợp pháp.”

Việt Nam là một trường hợp cụ thể.

Năm 2008, Việt Nam và Hoa Kỳ đạt một thỏa thuận chính thức bao gồm không trục xuất những người Việt chưa có quốc tịch Mỹ nhưng phạm tội hình sự và đến Mỹ trước ngày 12 Tháng Bảy, 1995, ngày Hoa Kỳ và Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao.

Tuy nhiên, năm 2017, chính quyền Tổng Thống Donald Trump bất chấp thỏa thuận này, đe dọa trừng phạt chính quyền Việt Nam, và bắt đầu trục xuất một số người đến Mỹ trước năm 1995.

Vào Tháng Hai, 2018, vụ kiện “Trinh vs Homan” thành công, chính quyền Mỹ ngưng trục xuất những người này.

Nhưng đến năm 2020, cũng dưới thời chính phủ Donald Trump, Mỹ và Việt Nam đạt một thỏa thuận mới, hủy bỏ điều khoản bảo vệ những người Việt này không bị trục xuất.

Liên quan đến chiến dịch “Catahoula Crunch,” bà Tricia McLaughlin, phát ngôn viên DHS, cho biết: “Chính sách cho phép trú ẩn gây nguy hiểm cho các cộng đồng tại Mỹ, qua việc thả những di dân tội phạm bất hợp pháp và đẩy các nhân viên công lực DHS vào tình cảnh nguy hiểm đến tính mạng khi đi bắt những người này mà đáng lẽ họ không nên được thả ra đường.”

“Thật là ngu xuẩn khi để những kẻ gớm ghiếc như vậy trở lại đường phố để họ PHẠM TỘI THÊM và có thêm nhiều nạn nhân. ‘Catahoula Crunch’ nhắm vào những tội phạm bạo động, những người được thả sau khi bị bắt vì những tội đột nhập gia cư, cướp có vũ trang, ăn cắp xe, và hiếp dâm. Dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Donald Trump và Bộ Trưởng Kristi Noem, chúng tôi đang khôi phục luật pháp và trật tự cho người dân Mỹ, ” bà McLaughlin tiếp.

Chiến dịch “Catahoula Crunch” có khoảng 250 nhân viên công lực di trú có mặt tại New Orleans trong vòng một tháng, với mục tiêu bố ráp di dân bất hợp pháp vùng Đông Nam Louisiana và một phần tiểu bang Mississippi.

Chiến dịch này, có mục tiêu bắt 5,000 người, là cuộc hành quân mới nhất của ICE nhắm vào thành phố do đảng Dân Chủ lãnh đạo, trong chiến lược trục xuất di dân hàng loạt của Tổng Thống Trump.

Theo thống kê mới nhất, tính đến năm 2024, New Orleans có khoảng 14,000 người gốc Việt cư ngụ, và đây cũng là nơi có nhiều người Việt nhất Louisiana. (Đ.D.)


 

Đừng để một viên đạn lái cả chính sách di dân!- Trúc Lam

Ba’o Tieng Dan

Trúc Lam

5-12-2025

Vụ nổ súng ở Washington, D.C. ngày 26-11-2025 làm một lính Vệ binh Quốc gia thiệt mạng và một người khác bị thương là chuyện hết sức đau lòng! Nghi phạm Rahmanullah Lakanwal là một người tị nạn gốc Afghanistan, từng đến Mỹ định cư. Nhưng điều đáng lo hơn nữa là, ngay lập tức, vụ việc bị biến thành chuyện chính trị, rồi nó được dùng làm cái cớ để siết visa, ngừng nhận người tị nạn và gây khó khăn cho hàng chục ngàn người, trong khi họ chẳng hề liên quan gì.

Trong một đất nước dân chủ, luật pháp rõ ràng: Ai làm người nấy chịu. Người nào gây án thì chỉ người đó phải ra tòa. Thế nhưng mấy ngày qua, thay vì tập trung vào việc điều tra vụ án, tìm hiểu động cơ gây án, nhiều quan chức và các nhóm chính trị lại quay sang đổ hết nghi ngờ lên đầu người Afghanistan, người tị nạn và tất cả những người nhập cư, nói chung.

Một người phạm tội tự nhiên bị biến thành cái cớ để nhiều người nhìn vào cả một cộng đồng đang sống đàng hoàng, tử tế ở Mỹ bằng con mắt méo mó. Không có cách nào dễ hơn để gây chia rẽ và gieo rắc sợ hãi bằng cách này.

Chính sách được làm từ nỗi sợ thì chỉ có tệ hơn

Ngay sau vụ nổ súng, hàng loạt biện pháp được nhà chức trách tung ra: Dừng xét đơn tị nạn, thắt chặt chương trình tái định cư, siết chặt việc cấp giấy phép làm việc và mở rộng danh sách các nước bị xem là “nguy cơ phạm tội”. Tất cả những quyết định này đều được gắn với một cụm từ nghe rất đẹp: “Bảo vệ an ninh quốc gia”.

Thực tế cho thấy, không hề có bằng chứng nào chứng minh rằng hàng trăm ngàn người tị nạn còn lại là mối đe dọa ai cả. Điều duy nhất được viện dẫn chỉ là… nỗi sợ hãi và kỳ thị di dân!

Nhưng vấn đề nằm ở chỗ: Khi nỗi sợ tập thể được nâng cấp thành chính sách, nó không chỉ trở thành cái cớ để né tránh trách nhiệm đạo đức, mà còn biến thành công cụ hợp pháp hóa sự kỳ thị. Và khi sự kỳ thị ấy được đóng dấu bởi chính quyền, những người lãnh đủ đầu tiên luôn là những nhóm yếu thế: Những người không có tiếng nói, không có quyền lực để tự bảo vệ, và thường bị xem như “vật tế thần” mỗi khi xã hội cần người để đổ lỗi.

Cái giá không chỉ là số phận của những người đang chạy trốn chiến tranh và bạo lực ở Afghanistan. Cái giá còn là niềm tin của cả xã hội, bởi họ từng tin rằng luật pháp Mỹ vốn công bằng, rằng nước Mỹ không trừng phạt những con người vô tội chỉ vì sai lầm của người khác.

Không phải ai cũng may mắn có được cuộc sống an toàn

Rất nhiều người Afghanistan từng đứng cùng quân đội Mỹ, tin vào lời hứa bảo vệ của chính phủ Mỹ. Khi Taliban quay lại, những người cùng chiến tuyến với người Mỹ đã không bỏ chạy vì muốn sang Mỹ để được ăn “bơ thừa, sữa cặn”, mà họ bỏ chạy bởi vì họ muốn sống sót. Nhiều người bị săn đuổi, bị đe dọa, thậm chí bị giết… Họ đến Mỹ để làm lại cuộc đời. Vậy mà giờ đây chỉ vì một vụ án, họ bị nhìn bằng ánh mắt nghi ngờ, thù hằn. Họ bị xem như “nguy cơ”, dù đa số họ đang sống rất bình thường: Đi làm, đóng thuế, nuôi con, hòa nhập…

Đáng lẽ ra Mỹ phải bảo vệ họ, nhưng thay vào đó, các chính trị gia Mỹ lại biến họ thành nạn nhân của một kiểu “công lý tập thể”, thứ công lý không bao giờ là công lý thật sự.

Một tay súng không thể đại diện cho cả một dân tộc

Chúng ta không bao che cho tội ác. Nhưng chính sách di dân không thể viết chỉ vì một cơn giận ai đó đã phạm tội. Cả một cộng đồng không thể bị kết tội vì hành động của một vài cá nhân.

Nếu một người Mỹ phạm tội, chúng ta đâu có kết luận rằng tất cả người Mỹ đều nguy hiểm. Một quân nhân Mỹ gây án, chúng ta đâu có nói cả quân đội Mỹ đều có vấn đề. Vậy tại sao một người nhập cư phạm tội bỗng nhiên biến cả cộng đồng nhập cư thành “có nguy cơ phạm tội”? Đó không phải công lý mà đó là thành kiến, là lợi dụng sự kiện để làm lợi cho ai đó.

Và lịch sử từng chứng minh: Khi nhà nước bắt đầu xem nhóm thiểu số như kẻ thù, thì nền dân chủ bắt đầu lung lay.

Công lý nằm ở đâu?

Công lý trong vụ này rất đơn giản: Xử người gây án bằng pháp luật, nghiêm minh và minh bạch. Nhưng hãy bảo vệ những người vô tội, không bị vơ đũa cả nắm.

Mỹ có đủ khả năng điều tra, có đủ công cụ để làm điều này. Cho nên, không có lý do gì để trút cơn giận lên đầu những người khác, những người chỉ giống nghi phạm ở màu da hay quốc tịch.

Nếu công lý bị bóp méo, thì không chỉ viên đạn trong vụ án làm tổn thương xã hội Mỹ, mà chính cách đối xử sau đó của lãnh đạo Mỹ mới là điều gây nguy hại lâu dài.

Đừng biến bi kịch thành chính sách

Ra một quyết định dựa trên nỗi sợ hãi thì dễ quá. Chỉ có quyết định dựa trên lý trí và lòng nhân đạo mới khó. Nhưng một đất nước mạnh không phải là đất nước đóng cửa vì sợ, mà là đất nước vẫn mở cửa, nhưng mở một cách công bằng, có trách nhiệm, và không chà đạp lên phẩm giá con người.

Một viên đạn không đại diện cho một cộng đồng; một kẻ phạm tội không thể quyết định số phận của hàng chục ngàn người; và một vụ án không thể trở thành nền tảng cho chính sách di dân của cả một quốc gia.

Nếu điều đó xảy ra, thứ bị đạn xuyên thủng không chỉ là một sinh mạng, mà là những giá trị đạo lý đã làm nên một nước Mỹ văn minh.

_________

Tham khảo: Người tị nạn Afghanistan tại Hoa Kỳ trước làn sóng nghi kỵ mới (NYT)


 

Hoạt động quân sự Mỹ ở Caribê : Quốc Hội điều tra về tội ác chiến tranh (RFI)

(RFI)

Các hoạt động quân sự của Mỹ gần Venezuela đang gây nhiều tranh cãi tại Hoa Kỳ. Vào đầu tháng 9, hai cuộc oanh kích của Mỹ nhắm vào một tàu bị nghi ngờ vận chuyển ma túy ở vùng biển Caribê đã khiến 11 người thiệt mạng. Các dân biểu đảng Cộng Hòa và Dân Chủ yêu cầu mở điều tra để xác định tính hợp pháp của những cuộc tấn công này, thậm chí có vi phạm tội ác chiến tranh hay không, trong bối cảnh Nhà Trắng tìm cách bênh vực bộ trưởng Quốc Phòng Pete Hegseth, đang bị các phương tiện truyền thông chĩa mũi dùi.

Đăng ngày: 03/12/2025 

Ảnh tư liệu : Bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Pete Hegseth trong cuộc gặp tổng thống Cộng hòa Dominica Luis Abinader tại Cung điện Quốc gia, Santo Domingo, Cộng hòa Dominica, ngày 26/11/2025.
Ảnh tư liệu : Bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Pete Hegseth trong cuộc gặp tổng thống Cộng hòa Dominica Luis Abinader tại Cung điện Quốc gia, Santo Domingo, Cộng hòa Dominica, ngày 26/11/2025. © Erika Santelices / Reuters

Phan Minh

Theo Washington Post, bộ trưởng Quốc Phòng Hegseth đã ra lệnh phát động cuộc tấn công này với mục tiêu “giết tất cả” những người trên tàu bị nghi ngờ vận chuyển ma túy. Tuy nhiên, tổng thống Donald Trump, hôm 30/11/2025, đã lên tiếng bênh vực bộ trưởng của mình : “Ông ấy không nói vậy, và tôi tin ông ấy.” Lầu Năm Góc đã phủ nhận thông tin của Washington Post, nhưng Nhà Trắng xác nhận bộ trưởng Hegseth đã bật đèn xanh cho đô đốc Frank Bradley thực hiện nhiệm vụ này. Trên mạng xã hội X, ông Hegseth đã ca ngợi đô đốc Bradley là “một anh hùng Mỹ”, khen ngợi những quyết định của vị đô đốc trong chiến dịch ngày 02/09 và các chiến dịch khác sau đó.

Quốc Hội Mỹ đang điều tra xem liệu hai cuộc tấn công này có vi phạm tội ác chiến tranh hay không. Một số thành viên đảng Cộng Hòa phản đối việc đổ trách nhiệm cho đô đốc Bradley, trong khi những người khác chỉ ra rằng Pete Hegseth đã ra lệnh không để ai sống sót trong những cuộc tấn công đó. Tổng thống Donald Trump, hôm qua 02/12, cũng đã khẳng định bất kỳ quốc gia nào đưa ma túy vào Hoa Kỳ đều có thể bị tấn công.

Về phần mình, chính quyền Venezuela, hôm qua, thông báo rằng tổng thống Nicolas Maduro đã cho phép khôi phục các chuyến bay hồi hương những di dân Venezuela bất hợp pháp từ Hoa Kỳ, theo yêu cầu của Washington.

Trước đó, Caracas thông báo rằng Washington đã đình chỉ các chuyến bay này sau khi Donald Trump tuyên bố không phận Venezuela coi như bị “đóng hoàn toàn”. Quyết định tái khởi động các chuyến bay hồi hương này được đưa ra trong bối cảnh chủ nhân Nhà Trắng đã triệu tập Hội đồng An ninh Quốc gia vào thứ Hai để thảo luận về tình hình ở Venezuela.


 

Miền Trung Lũ Ngập Nhưng Lương Tâm Ai Vẫn Khô Hạn?

Luong Nguyen

Miền Trung Lũ Ngập Nhưng Lương Tâm Ai Vẫn Khô Hạn?

(Nhận từ Người phương Nam)

Có lẽ chưa bao giờ cảm giác bất lực lại trĩu nặng như những ngày này, khi mở bất kỳ trang tin nào cũng thấy hình ảnh nước đục ngầu phủ lên mái nhà, người ta ngồi co ro trên nóc tôn, gương mặt trắng bệch vì lạnh, vì đói, vì sợ. Miền Trung, dải đất gầy guộc mà tôi từng lớn lên, vốn đã quen với điệp khúc “năm thì mười hoạ bão lũ”, bỗng dưng những năm gần đây như bị đẩy vào tâm điểm của một trò thí nghiệm tàn nhẫn: lũ hết đợt này đến đợt khác, nước hết dâng lại rút, rồi lại dâng, mỗi lần là thêm vài chục sinh mạng, thêm vài chục ngàn căn nhà ngập sâu, thêm vài trăm ngàn phận người trắng tay.

Là người con miền Trung, tôi không lạ gì cảnh nước lụt tràn sân, gùi sách trên đầu lội đến trường, đêm nằm nghe tiếng mưa ràn rạt trên mái tranh mà tim nơm nớp lo lắng. Nhưng cái lũ ngày xưa, dù khốc liệt – vẫn là lũ trời: mưa nhiều, nước sông lên, rồi vài ngày nó cũng rút; người ta xắn quần lên dọn bùn, dựng lại mái nhà, trồng lại luống rau, vá lại cuộc đời. Còn bây giờ, càng nhìn càng thấy đây không chỉ là lũ của thiên nhiên, mà là lũ của lòng người, là kết quả cộng dồn của bao năm quyết định sai lầm, của cách đối xử tàn nhẫn với rừng, với sông, với đất.

Ai cũng biết dọc thượng nguồn bao con sông miền Trung, bao nhiêu năm nay người ta cho phép mọc lên dày đặc những đập thuỷ điện. Hết dự án này tới dự án khác, rừng bị xẻ ngang, bị “dọn dẹp” tới tận chân núi để làm đường, làm hồ, làm nhà máy. Đến khi mưa lớn, nước đổ về, hồ đầy, lại vội vã “xả lũ theo quy trình”, mà cái quy trình ấy hình như chỉ có mỗi một bước: “mở cửa xả và… mặc kệ phía hạ du xoay xở ra sao”. Cái mà lẽ ra phải là công trình bảo vệ – điều tiết nước, giảm lũ – thì nay lại trở thành bản lề nhân tai, biến trận lũ vốn dĩ đã nặng nề vì mưa thành cơn cuồng nộ cuốn phăng làng mạc.

Nhưng bi kịch không chỉ nằm ở chỗ “thiên tai + nhân tai”, mà còn nằm ở cách người ta đối xử với những người đang chìm trong nước. Giữa lúc bao nhiêu xóm làng kêu cứu, người dân phải leo lên nóc nhà, đứng cả ngày trên cột điện chờ một chiếc xuồng, một chiếc ca nô đi ngang, thì có những nhóm thiện nguyện – tự họ gom góp, tự họ thuê ca nô, tự họ xông vào vùng nước xiết cứu người. Ấy vậy mà thay vì được hỗ trợ, họ lại bị… nhắc nhở là “vượt quyền”, “không phối hợp đúng tuyến”. Nghe mà nghẹn. Người ta có thể tranh luận mãi về quy trình, về phân cấp, nhưng trước mặt là mạng người, là đứa nhỏ đang bám cột dừa, là bà già đang ngồi ôm cái rương áo quần trên mái nhà, thì có lý do nào, có văn bản nào quan trọng hơn việc cứu cho được con người đó hay không?

Buồn hơn nữa là những câu chuyện “hậu trường” của các đoàn cứu trợ. Biết bao người ở trong và ngoài nước, gom từng đồng, từng thùng mì, từng bao gạo, áo ấm, thuốc men để gửi về. Thế mà khi xe cứu trợ đến cửa ngõ địa phương, lại thấp thoáng những “thủ tục”, những “điều tiết”, những dạng “cống nạp mềm”, nếu không khéo léo, không “biết điều”, thì hàng sẽ nằm ở đó, hoặc bị “xin lại một phần” trước khi đến tay người dân. Có nơi còn muốn đoàn phải “đi theo danh sách” do mình lập sẵn, trong khi người cho chỉ muốn trao tận tay những gia đình khẩn cấp, những mái nhà đang trắng tay. Trong một thảm hoạ, lòng người vốn đã tổn thương, mà còn phải hoài nghi xem phần gạo mình gửi có đến đúng chỗ không, đó là một loại đau buồn rất khó gọi tên.

Ở bên này bờ Thái Bình Dương, mỗi mùa lũ về, tôi lại thấy những cảnh rất ngược nhau. Trong bao nhiêu buổi lễ ở nhà thờ Việt Nam, sau thánh lễ, cha xứ lại nhắc khéo: “Tuần này xin cộng đoàn cầu nguyện đặc biệt cho đồng bào vùng lũ, và nếu có thể, xin mỗi gia đình góp một chút tình thương…”. Khay quyên góp chuyền qua từng hàng ghế, cả nhà đạo gốc lẫn đạo… theo vợ, ai cũng móc túi, có khi chỉ vài đồng lẻ, có khi là một ngân phiếu khá hơn, nhưng đó là tấm lòng. Bên chùa cũng vậy: sau buổi tụng kinh hay lễ Vu Lan, thầy trụ trì đứng nhắc nhẹ: “Chúng ta ở xa, không gánh nước, không kéo dây được, thôi thì góp chút tịnh tài, tịnh vật gửi về cho bà con bớt khổ”. Những thùng quyên góp đặt ở cổng chùa, trên bàn tiếp tân hội trường, đầy dần lên; người già lấy tiền hưu, người mới đi làm bớt lại ly cà phê, đứa nhỏ bớt tiền ăn quà, gom lại thành chuyến hàng đi về phương trời bão gió.

Những nỗ lực ấy âm thầm, đều đặn, năm này qua năm khác. Thế nhưng, trái ngược với tấm lòng đó là những lời lẽ độc địa vẫn đều đặn xuất hiện trên mạng xã hội từ một bộ phận “dư luận viên” nào đó: họ xem những người Việt hải ngoại chỉ là “3///”, là “khát nước”, là “ngụy”, là “ăn cơm Mỹ thờ ma…”. Hễ thấy ai ở nước ngoài nhắc tới chuyện cứu trợ, phê phán việc phá rừng, xả lũ bừa bãi, hay cách chính quyền đối xử với dân vùng lũ, là lập tức bị chụp mũ, bị chửi rủa, bị bôi nhọ. Thật trớ trêu: những bàn tay chìa ra từ nhà thờ, từ chùa, từ hội trường cộng đồng ở tận trời Tây thì gọi là “phản động”, còn những lời nhạo báng đau thương đồng bào, bào chữa cho sai lầm của bộ máy lại được xem như “đúng lập trường”, “bảo vệ nhà nước”.

Cái bất lực lớn nhất với tôi, và chắc với nhiều người, không phải là không làm gì được, mà là thấy rất rõ nguyên nhân mà không ai chịu đứng ra nhận trách nhiệm. Mưa lớn hơn, bão dày hơn, đó là xu thế khí hậu toàn cầu, không riêng gì ta. Nhưng phá rừng “tới tận chân núi” cho lâm tặc và cho các dự án, chặn hết dòng sông để làm thuỷ điện, quy hoạch bê tông lên cả vùng trũng tự nhiên, buộc dân nghèo phải sống chen chúc ở những nơi vốn là đường thoát lũ, đó là lựa chọn của con người. Cảnh báo của giới chuyên gia, của báo chí độc lập, của những tiếng nói lẻ loi nhiều năm qua chẳng thiếu, vậy mà mỗi mùa mưa đến, ta vẫn lặp lại kịch bản: “bất ngờ trước mưa lớn kỷ lục”, “đang rà soát quy trình xả lũ”, “sẽ kiểm điểm, rút kinh nghiệm sâu sắc”.

Tôi không biết phải an ủi người dân vùng lũ bằng lời nào nữa. Nói “rồi cũng qua” thì tàn nhẫn, vì qua đợt lũ này sẽ tới những khoản nợ mới, những mùa màng mất trắng, những đứa trẻ phải nghỉ học, những ngôi nhà chưa kịp trả xong tiền vay đã trôi mất. Nói “cố gắng lên” thì nghe sáo rỗng, vì bao đời nay họ đã cố gắng hơn ai hết. Cứ mỗi mùa lũ đi qua là thêm một lớp người rời quê, bỏ ruộng, bỏ đồi chè, bỏ rẫy cà phê, bỏ xóm nhỏ bên sông mà đi làm thuê xứ khác, bám trụ ở thành phố, ở xứ người, chỉ vì họ không thể mãi sống chung với cái kiểu lũ không còn giống như xưa.

Có người bảo: “Thiên tai thì ở đâu chẳng có, Mỹ, Nhật, châu Âu cũng lũ, cũng bão”. Đúng, nhưng cái làm người ta phẫn nộ ở đây là cảm giác bị bỏ mặc và bị đối xử như “đối tượng quản lý” hơn là công dân. Người dân không được tham gia vào những quyết định lớn liên quan đến rừng, đến sông, đến thuỷ điện, đến quy hoạch; đến khi hậu quả ập xuống cuộc đời họ, thì lời giải thích lại là “biến đổi khí hậu”, là “trận mưa lịch sử”, là “tình hình rất phức tạp”. Còn những ai cố gắng tự tổ chức, tự lo cho nhau, từ nhóm đi ca nô đến các đoàn cứu trợ độc lập, thì đôi khi lại bị gây khó, bị soi, bị gán nhãn.

Viết những dòng này, tôi biết mình cũng chỉ là một người đứng bên lề, nhìn quê hương từ xa qua màn hình, chia sẻ được chút tiền, chút lời, chút vật chất, nhưng không thể thay được tấm phao, chiếc xuồng, vòng tay cụ thể cho ai đó đang giữa dòng lũ. Cái cảm giác bất lực ấy không chỉ là chuyện cá nhân, mà là một nỗi buồn chung của cả một thế hệ người Việt lưu lạc: nơi mình sinh ra thì cứ hết lũ này đến lũ khác, hết “tai trời” đến “hoạ người”; nơi mình đang sống thì bình yên hơn, nhưng lòng lúc nào cũng giằng xé.

Có lẽ điều duy nhất còn lại mà chúng ta có thể làm, ngoài việc tiếp tục cứu trợ, tiếp tục đứng về phía những nạn nhân, là không im lặng trước những nguyên nhân đã quá rõ. Bởi vì nếu mỗi mùa lũ đi qua chỉ kết thúc bằng vài câu “chia buồn sâu sắc” và vài dòng thống kê thiệt hại, thì những cơn lũ năm sau, năm sau nữa sẽ còn dữ hơn, rộng hơn, tàn phá hơn. Và đến một lúc nào đó, người miền Trung sẽ không còn gì để mất, ngoài ký ức về những ngôi làng từng nằm yên bên triền sông, trước khi bị nuốt chửng bởi những quyết định mà họ chưa từng được hỏi ý kiến một lần.

 (1) BẢO TỒN TIẾNG VIỆT | Miền trung lũ ngập nhưng lương tâm ai vẫn khô hạn | Facebookig


 

Gia đình một người Colombia bị không kích thiệt mạng ở biển Caribbean nộp đơn kiện Mỹ

Ba’o Nguoi-Viet

December 3, 2025

BOGOTA, Colombia (NV) – Thân nhân của một người đàn ông Colombia thiệt mạng do bị quân Mỹ không kích ở vùng biển Caribbean đã nộp đơn kiện Mỹ lên Ủy Ban Nhân Quyền Liên Châu Mỹ (IACHR), AFP đưa tin.

Người bị giết là ông Alejandro Carranza Medina, 42 tuổi, sau khi quân Mỹ không kích chiếc tàu của ông vào ngày 15 Tháng Chín. Thân nhân của ông bác bỏ có ma túy trên chiếc tàu của ông, vốn bị nhắm bắn trong chiến dịch chống buôn lậu ma túy của Washington. Họ khẳng định ông chỉ là ngư dân đi đánh cá ngoài biển.

Tổng thống Colombia, ông Gustavo Petro phát biểu trong buổi lễ tiêu hủy vật liệu chiến tranh ở Puerto Asis, Colombia, vào ngày 15 Tháng Mười. (Hình minh họa: David Salazar/AFP via Getty Images)

“Chúng tôi biết rằng ông Pete Hegseth, bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ, là người ra lệnh ném bom các tàu thuyền giống như của chiếc tàu Alejandro Carranza Medina và sát hại tất cả những người trên những con tàu đó,” đơn kiện của gia đình mà AFP thấy được hôm Thứ Tư ngày 3 Tháng Mười Hai, viết.

Các cuộc không kích của Mỹ ở Caribbean và phía Đông Thái Bình Dương đã giết chết hơn 80 người trên các tàu thuyền mà Washington cho là đang vận chuyển ma túy từ Venezuela mà không đưa ra bằng chứng.

Người thân và chính quyền ở các nước có nạn nhân thiệt mạng khẳng định một số người trong số họ là ngư dân, trong khi các tổ chức nhân quyền nói các cuộc tấn công này là bất hợp pháp ngay cả khi các mục tiêu thực sự là tàu bè đang chở ma túy.

Đơn khiếu nại đưa lên IACHR ghi rằng ông Hegseth đã ra các lệnh tấn công “mặc dù ông không biết danh tính của những người bị nhắm đến trong các vụ đánh bom và sát hại ngoài vòng pháp luật” mà họ cho rằng đã được Tổng Thống Trump “phê duyệt”.

Trong một cuộc họp nội các hôm Thứ Ba ngày 2 Tháng Mười Hai, ông Hegseth nói: “Răn đe phải được xem là điều quan trọng. Không bắt giữ và bàn giao rồi sau đó làm lại, như cách làm của các chính quyền trước đây là xử lý rồi làm lại.”

Ông Gustavo Petro, tổng thống Colombia, người đã gọi các cuộc tấn công của Mỹ là “giết người ngoài vòng pháp luật”, cam kết sẽ ủng hộ gia đình nạn nhân tìm kiếm công lý.

Trong một cuộc phỏng vấn với AFP hồi Tháng Mười, bà Katerine Hernandez, vợ góa của ông Carranza, nói rằng chồng bà là một “người tốt”. Ông để lại bốn đứa con.

“Ông ấy không có mối liên hệ gì với buôn bán ma túy, và công việc hàng ngày của ông là đánh bắt cá,” bà Hernandez nói.

“Tại sao họ lại tước đi mạng sống của ông như vậy?” bà nói trong cuộc phỏng vấn. “Ngư dân có quyền sống. Tại sao không bắt giữ họ là được?” (NNL) [đ.d.]