NHÂN TAI chứ không phải thiên tai

 

Tôi xin nói rõ ; theo tôi , năm nay không phải là lũ lụt . 

Năm nay không phải lụt . Cũng không chỉ là lũ, theo nghĩa ta quen gọi .

Không cần giàu tưởng tượng lắm đâu , để mà thử nghĩ : Chảy hết núi rồi , thì đến gì nữa ?

Cứ đà này , rồi sẽ đến một ngày , cái nơi thân yêu và thiêng liêng mà ta vẫn gọi là Đất nước , là Tổ quốc , cái mặt đất trên đó là làng mạc , đồng ruộng , thành phố , con người nữa… tất cả , tất cả ta vẫn đinh ninh là trường cửu , là vĩnh hằng đây , có chảy trôi tuột luôn hết ra Biển Đông không ?

Song tôi có cảm giác dường như năm nay , đến giờ này , thì không còn có thể nói đến “ tương tự “ được nữa . Năm nay đã có cái gì đó mới , khác , cái khác đó lại là cơ bản , rất cơ bản . Tất nhiên ở đời không có gì đùng một cái bỗng xảy ra , cái điều tôi thấy và muốn nói là mới , khác , mà lại là mới , khác một cách cơ bản năm nay , tất nhiên đã từng có dấu hiệu những lần trước rồi , nhưng là lẻ tẻ , thỉnh thoảng , trong một điều kiện cực đoan bất chợt nào đó . Nó tích tụ dần , cho đến năm nay , thì trở thành hiện tượng tai họa cơ bản . Hơn thế nữa , rất có thể từ nay cái cơ bản này sẽ trở thành bình thường , hằng năm , ngày càng nặng hơn , dữ hơn . Thành “ quy luật ” nếu ta muốn nói cho có vẻ chữ nghĩa , khoa học một chút .

Giáo sư Nguyên Ngọc Lung , chuyên gia số một về rừng , vừa có bài viết nói rõ : khi còn rừng tự nhiên thì mưa xuống chỉ có 5% nước chảy trên mặt đất , 95% sẽ ngấm xuống thành nước ngầm , cho nên ta đào giếng ở đâu cũng có nước . Khi mất rừng tự nhiên thì ngược lại , chỉ 5% ngấm xuống thành nước ngầm , hơn 90% sẽ chảy tràn trên mặt đất .

Nghĩa là còn rừng tự nhiên thì chỉ có lụt . Lụt hiền , lành , và thân thuộc như bạn chung tình mỗi năm một lần trở lại . Tôi ở Hội An , tôi biết , 3 năm qua không có lụt , người ta nhớ và chờ . Lụt rửa sạch ruộng đồng và mang về phù sa .

Lũ là khi đã mất rừng tự nhiên , chỉ còn lơ thơ mấy cây bụi lẹt đẹt , với cỏ , với cao su , keo , cà phê… tràn lan , là các loại cây không có bộ rễ giữ nước , ( mà các báo cáo với thống kê cứ gọi vống lên một cách gian dối là “ độ che phủ ”), 95% nước mưa chảy thành thác trên mặt đất quét hết mọi thứ , làng mạc và con người .

Nhưng năm nay khác : Năm nay không chỉ có nước xối xả thành lũ . Năm nay đã diễn ra một điều hoàn toàn khác , mới , và rất cơ bản : NĂM NAY ĐÃ ĐẾN LƯỢT ĐẤT CHẢY .

Tôi chưa có con số thống kê , nhưng số người chết vì đuối nước lũ năm nay , thấp hơn rất nhiều số người chết vì bị đất chảy chôn vùi . Cần hết sức chú ý đến hiện tượng mới này .

Ta gọi là lở núi . Thôi thì nói thẳng đi : Từng quả núi , từng ngọn núi lớn nổ tung rồi chảy ra thành nước , thành thác , vùi lấp xóm làng , ruộng đồng , con người , nuốt gọn từng gia đình , từng cộng đồng người , tất cả , tất cả…

Con người sống trên đất , ấy là ơn nghĩa vĩ đại của Tạo hoá . Trên khắp thế giới con người đều gọi đất là Mẹ hay là Cha . Fatherland , Mère Patrie , người Việt thì gọi Tổ quốc của mình là Đất nước .

Mối quan hệ sinh tử của sự sống là Đất và Nước , được kết chặt vào nhau bằng Rừng . Năm mươi năm nay , với lòng tham vô độ , bất chấp mọi lời kêu cứu thất thanh , ta đã chặt đứt cái khâu sinh tử : RỪNG . Phá sạch sành sanh rừng rồi . Không còn rừng , rừng tự nhiên , thì NÚI CHẢY RA như nước . Năm nay không phải chủ yếu là lũ nước , mà là lũ đất . Đó là thay đổi cơ bản năm nay , và theo tôi , từ nay .

Ai dám bảo là không ?

Nguyên Ngọc .

Các ông phá nát rừng rồi ngăn nước làm thủy điện ,đảo lộn sinh thái ,khi mưa lớn sợ vỡ đập nên xả nước làm ngập .

Đây là NHÂN TAI chứ không phải thiên tai


 

BÀI GIÁO KHOA CŨ

Xuyên Sơn

Bài học cũ, đơn giản nhưng dạy trẻ con biết hoài niệm, biết nghĩ về những gì đã có.

Đọc lại một trang giấy nhỏ, đã cũ, đã bị phế bỏ, mà nghĩ rằng người viết chẳng có chức phận hay quyền hành gì, nhưng họ hành động như một người Việt buộc phải cẩn trọng trách nhiệm với trăm năm sau.

Chỉ tự tâm niệm mà cẩn trọng.

Không cần phải có một tôn giáo hay lý tưởng vĩ đại nào, chỉ cần một tấm lòng học làm người, biết thương nhớ mẹ cha, đã là một công dân tử tế trên nước Việt.

“Con không cần phải khấn, vì hồn mẹ lúc nào cũng phảng phất bên con”.

Thật ra, câu văn chỉ là một lời an ủi. Nhưng cảm động đến có thể rơi bước mắt. Lời dạy còn âm thầm nhắc rằng khi hành động bất kỳ điều gì, đều có một lương tâm truyền đời dõi theo và nhắc nhở.

Nếu không có mẹ cha và người đi trước, thế hệ hôm nay dễ dàng trở thành hành động, suy nghĩ vô loài.

Chân thành với giáo dục không khó, nhưng cố gắng tạo dáng vẻ cho giống như giáo dục thì rất khó.

Nhiều năm cải cách, gắng gượng thay đổi sách giáo khoa cho thấy một tương lai dân tộc rất mơ hồ: một hệ thống vật vã, gượng gạo tạo ra cái mới – rất giả tạo – bởi mang quá nhiều mặc cảm với cái cũ đã hoàn chỉnh từ một thể chế khác.

Sẽ chẳng ngạc nhiên, khi hôm nay, mọi thứ giả dối đang lên ngôi:

Giả trí thức, giả văn bằng, giả học vị… và cuối cùng là giả làm một người yêu nước.

Nhạc sĩ Tuấn Khanh


 

LÊ TRỌNG HÙNG: NGƯỜI ĐÀN ÔNG DÁM TỰ ỨNG CỬ QUỐC HỘI BẰNG MỘT CHIẾC ĐIỆN THOẠI

Kim Dao Lam

Fb Việt Tân

Anh Lê Trọng Hùng, sinh năm 1979, từng là một người đàn ông bình thường ở Hà Nội: có vợ, có con, có công việc ổn định. Nhưng anh lại mắc “cái tật” không bỏ được: thấy bà con mất đất khóc ngoài ruộng thì phải quay phim, thấy cán bộ xã chèn ép dân thì phải livestream, thấy người dân không biết quyền của mình thì phải mở kênh YouTube dạy từng điều luật.

Thế là anh cùng vài người bạn lập ra Chấn Hưng Nước Việt Television – viết tắt là CHTV. Không phòng thu, không biên tập viên áo vest, chỉ có một chiếc điện thoại, một cái xe máy và một trái tim nóng. CHTV trở thành “đài truyền hình” của người dân oan: Đồng Tâm, Dương Nội… ở đâu có tiếng khóc vì mất đất, ở đó có mặt anh Hùng.

Anh dạy bà con cách viết đơn khiếu nại, dạy cách đối thoại với chính quyền, dạy cả cách quay phim để lưu chứng cứ. Anh nói chậm, nói rõ, nói bằng thứ ngôn ngữ mà ngay người ít học nhất cũng hiểu: “Quyền của mình nằm trong Hiến pháp, không phải trong miệng cán bộ”.

Rồi đầu năm 2021, anh làm một việc mà cả nước giật mình: tuyên bố tự ứng cử Đại biểu Quốc hội với tư cách độc lập. Không đảng đoàn bảo lãnh, không cơ quan giới thiệu, chỉ một mình anh và lá đơn. Anh bảo: “Hiến pháp cho phép, sao tôi không làm?”

Chỉ chưa đầy ba tháng sau, ngày 27-3-2021, công an đến nhà anh ở quận Đống Đa. Còng tay. Bắt khẩn cấp. Điều 117 – tội “tuyên truyền chống Nhà nước”.

Ngày cuối cùng của năm 2021 – 31-12-2021 – tòa tuyên anh 5 năm tù giam và 5 năm quản chế. Lý do? Vì những video anh quay cho người dân oan, vì những buổi dạy luật miễn phí, vì lá đơn ứng cử mà anh chưa kịp nộp. Tòa nói thẳng: anh “làm giảm lòng tin của nhân dân vào chính quyền”.

Giờ anh đang ở Trại giam số 6, Nghệ An – cùng trại với thầy giáo Bùi Văn Thuận, luật sư Đặng Đình Bách và nhiều tù nhân lương tâm khác. Người nhà chỉ được thăm vài lần mỗi năm, mỗi lần nhìn anh qua tấm kính, gầy đi, tóc bạc đi, nhưng mắt vẫn sáng. 

Anh Hùng là minh chứng sống động nhất cho nghịch lý của thời đại này:

Một người chỉ dùng chiếc điện thoại để nói thay cho dân oan, dạy dân biết quyền của mình, và dám đứng ra ứng cử như Hiến pháp cho phép – lại bị kết án 5 năm tù vì “đe dọa an ninh quốc gia”.

Trong khi đó, hàng triệu người dân vẫn đang mất đất, vẫn đang khiếu kiện, vẫn đang cần những người như anh Hùng lên tiếng.

Hôm nay, ngày Nhân quyền, chúng ta không thể không nhắc đến anh – người đàn ông đã biến chiếc điện thoại thành vũ khí mạnh nhất: sự thật.

Anh không cầm súng, không kêu gọi bạo lực, anh chỉ cầm điện thoại và nói thay cho những người không có tiếng nói. Vậy mà phải trả giá bằng 5 năm tự do và thêm 5 năm quản chế.

Anh đã bị cướp mất tự do, nhưng không ai cướp được điều anh để lại: ý thức công dân mà anh đã gieo vào từng người dân nhỏ bé nhất.

Tự do cho nhà báo công dân Lê Trọng Hùng!

Thế Bảo


 

PHẠM CHÍ DŨNG: 15 NĂM TÙ CHO MỘT CÂY BÚT ĐỘC LẬP  ĐÃ TỪ BỎ HÀNG NGŨ CHẾ ĐỘ

Kim Dao Lam

Sáu năm trước, vào một buổi chiều cuối tháng 11-2019, không tiếng còi xe công an, không tiếng còng tay, không quá đông công an và vài người đàn ông mặc thường phục “mời” ông Phạm Chí Dũng, Chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam (IJAVN),  lên xe. Từ đó, một trong những cây bút sắc bén của báo chí độc lập Việt Nam bị giam cầm sau song sắt.

Ông Phạm Chí Dũng, sinh năm 1966, tiến sĩ kinh tế, cựu sĩ quan quân đội với 30 năm tuổi Đảng. Người đàn ông ấy từng ngồi ở những vị trí mà nhiều người mơ cả đời không tới. Nhưng ngày 5-12-2013, ông làm một việc mà không ai ngờ: nộp đơn xin ra khỏi Đảng với lý do ngắn gọn đến đau thắt: “Đảng không còn đại diện cho quyền lợi của đại đa số nhân dân”.

Từ đó, ông chọn con đường còn lại của đời mình: làm nhà báo, thật sự là nhà báo.

Ông thành lập IJAVN – Hội Nhà Báo Độc Lập Viet Nam, tổ chức đầu tiên và duy nhất dám tự nhận mình là “nhà báo độc lập” trong một đất nước mà mọi tờ báo đều phải có “giấy phép sinh hoạt”. Ông viết hàng trăm bài báo, phân tích kinh tế sắc như dao, phơi bày tham nhũng, lên tiếng cho người dân mất đất, cho ngư dân Formosa, cho những tù nhân lương tâm bị lãng quên. Ông ký tên vào mọi thư ngỏ gửi Liên Hợp Quốc, gửi Nghị viện châu Âu, gửi bất kỳ nơi nào còn sẵn lòng lắng nghe tiếng Việt Nam không qua bộ lọc.

Ngày 5-1-2021, Tòa án Nhân dân TP.HCM tuyên phạt ông 15 năm tù giam về tội “tuyên truyền chống Nhà nước” theo Điều 117 Bộ luật Hình sự. 15 năm mức án nặng nề dành cho một nhà báo tâm huyết. Cùng ngày hôm ấy, hai thành viên khác của IJAVN là Nguyễn Tường Thụy và Lê Hữu Minh Tuấn cũng nhận án nặng. Một thông điệp rõ ràng được gửi tới toàn bộ những ai còn dám cầm bút tự do.

Amnesty International, Phóng viên Không Biên giới (RSF), Human Rights Watch, Ủy ban Bảo vệ Nhà báo (CPJ)… đều đồng loạt gọi tên ông Phạm Chí Dũng là “tù nhân lương tâm” và xếp vụ án này vào danh sách những vụ đàn áp tự do báo chí nghiêm trọng nhất khu vực Đông Nam Á những năm gần đây.

Sáu năm trôi qua, ông đã bước sang tuổi 59 trong tù. Không ai được thăm gặp thường xuyên, không thông tin sức khỏe, chỉ có những dòng tin ngắn ngủi lọt ra từ người thân: “Anh vẫn đọc sách, vẫn viết khi được phép, và có lẽ anh vẫn có thể tự hào cười khi nhắc tới IJAVN”.

15 năm tù cho một người từng phục vụ chế độ 30 năm.

15 năm tù cho những con chữ không chịu nói dối.

15 năm tù chỉ để nhắc chúng ta rằng: ở Việt Nam năm 2025, nói thật vẫn là tội nặng nhất.

Ngày Quốc tế Nhân quyền năm nay, chúng ta không thể không nhắc đến ông, người đã chọn từ bỏ mọi đặc quyền để giữ lại một thứ duy nhất: lương tâm của một nhà báo.

Ông Phạm Chí Dũng không còn tự do, nhưng cây bút của ông vẫn đang được hàng trăm người trẻ âm thầm tiếp nối ngoài kia. Họ có thể không dám công khai đứng dưới ngọn cờ IJAVN nữa, nhưng mỗi dòng chữ trung thực họ viết hôm nay có bóng dáng của những người cầm bút can đảm như ông.

15 năm là quá dài với một con người, nhưng quá ngắn để dập tắt một ngọn lửa đã được thắp đúng chỗ.

Tự do cho nhà báo Phạm Chí Dũng!

Tự do cho báo chí độc lập Việt Nam!

Vân Phong


 

3 người Việt bị bắt trong ngày đầu tiên ICE bố ráp di dân ở New Orleans

Ba’o Nguoi-Viet

December 4, 2025

NEW ORLEANS, Louisiana (NV) – Có ba người Việt Nam trong số 16 người bị Cảnh Sát Di Trú (ICE) bắt trong ngày ngày đầu của chiến dịch bố ráp ở New Orleans, theo thông cáo báo chí của Bộ Nội An (DHS) hôm Thứ Tư, 3 Tháng Mười Hai.

Ba người Việt Nam bị bắt trong ngày đầu tiên của chiến dịch “Catahoula Crunch” tại thành phố lớn nhất Louisiana là Bình Văn Tô, Vũ Hoàng Phạm, và Hùng Ngọc Trần.

Ông Bình Văn Tô (trái) bị còng tay và đứng cạnh một nhân viên ICE trong lúc trả lời phỏng vấn đài News Nation Network sau khi bị bắt hôm Thứ Tư, 3 Tháng Mười Hai. (Hình: Chụp từ Facebook Ali Bradley)

Theo DHS, ông Bình Văn Tô là “một di dân tội phạm bất hợp pháp” phạm tội ăn cướp, tấn cộng người với vũ khí giết người, bắt cóc, giết người, và hành hung người khác, và từng bị bản án 40 năm tù.

Sau đó, ông được thả ra và bị quản chế, và bị tòa án di trú ra lệnh trục xuất.

Khi được phóng viên Ali Bradley của đài News Nation Network lúc bị bắt, ông Bình trả lời lý do ông bị kết tội: “Tôi rất tiếc. Quý vị biết tôi không bao giờ có ý định làm như quý vị biết. Nó là, quý vị biết đó, nó không phải như vậy. Cho dù sự việc tệ hại thế nào, nó không phải là như vậy, nhưng lại xảy ra như vậy.”

Ông tiếp: “Tôi xin lỗi vì tất cả những gì xảy ra. Sự việc xảy ra như vậy, nhưng không phải vậy. Tôi có sai lầm. Chỉ có tôi. Gia đình tôi. Và tất cả những chuyện này làm vợ tôi phải chịu đựng.”

“Nhưng ông vừa thú nhận ông vi phạm điều luật di trú?” phóng viên Bradley hỏi.

“Không,” ông Bình trả lời.

“Như vậy là ông không vi phạm luật di trú khi bị kết tội?” cô Ali Bradley hỏi tiếp.

Ông Bình đáp: “Đúng vậy, nhưng tôi là tội phạm vì phạm tội hình. Tôi sẽ rất biết ơn nếu tôi đi Việt Nam, mặc dù không biết một tí gì ở nơi đó. Tôi đến đây khi còn rất nhỏ.”

Nữ phóng viên hỏi tiếp: “Như vậy có nghĩa là ông sẵn sàng đi nếu họ trục xuất ông về Việt Nam?”

Ông Bình dõng dạc nói: “Nếu quý vị cung cấp giấy tờ cho tôi, tôi sẽ tự bay về Việt Nam. Tôi không cần họ đi với tôi. Tôi không cần họ mua vé cho tôi.”

Vẫn theo DHS, ông Vũ Hoàng Phạm là “một di dân tội phạm bất hợp pháp, bị bắt vì liên tục vi phạm các tội hình sự như hành hung người khác, bạo hành gia đình và tấn công bạo động, ăn cắp xe, tấn công mang tính bạo động, hành hung người khác cấp độ hai, hành hung một cảnh sát viên, ăn trộm, say rượu nơi công cộng, ăn cắp, và ăn trộm – âm mưu hình sự, lái xe khi trong cơ thể có cồn (DUI), sở hữu vật dụng dùng để ăn cắp, giả danh người khác, và các tội khác liên quan đến ma túy.”

Ông Vũ Hoàng Phạm, người vừa bị ICE bắt trong chiến dịch “Catahoula Crunch” ở New Orleans. (Hình: DHS)

Còn ông Hùng Ngọc Trần có lệnh trục xuất từ năm 2010. Ông bị kết tội tấn công tình dục, ăn cắp, và sờ mó trẻ em.

Trong thông cáo báo chí, DHS không cho biết ông Bình Văn Tô, ông Vũ Hoàng Phạm, và ông Hùng Ngọc Trần đến Mỹ khi nào và bằng cách nào, cũng như tình trạng di trú của ba người này trước và sau khi bị bắt.

Trong nhiều trường hợp, có người chưa phải là công dân, mặc dù đến Mỹ hợp pháp, nhưng phạm tội hình sự. Sau khi mãn hạn tù, những người này bị đưa ra tòa án di trú, và thường bị trục xuất.

Nếu sau đó người này không tự trục xuất, hoặc bị quốc gia gốc của mình từ chối nhận, khi bị bắt lại, DHS thường gọi họ là “di dân tội phạm bất hợp pháp.”

Việt Nam là một trường hợp cụ thể.

Năm 2008, Việt Nam và Hoa Kỳ đạt một thỏa thuận chính thức bao gồm không trục xuất những người Việt chưa có quốc tịch Mỹ nhưng phạm tội hình sự và đến Mỹ trước ngày 12 Tháng Bảy, 1995, ngày Hoa Kỳ và Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao.

Tuy nhiên, năm 2017, chính quyền Tổng Thống Donald Trump bất chấp thỏa thuận này, đe dọa trừng phạt chính quyền Việt Nam, và bắt đầu trục xuất một số người đến Mỹ trước năm 1995.

Vào Tháng Hai, 2018, vụ kiện “Trinh vs Homan” thành công, chính quyền Mỹ ngưng trục xuất những người này.

Nhưng đến năm 2020, cũng dưới thời chính phủ Donald Trump, Mỹ và Việt Nam đạt một thỏa thuận mới, hủy bỏ điều khoản bảo vệ những người Việt này không bị trục xuất.

Liên quan đến chiến dịch “Catahoula Crunch,” bà Tricia McLaughlin, phát ngôn viên DHS, cho biết: “Chính sách cho phép trú ẩn gây nguy hiểm cho các cộng đồng tại Mỹ, qua việc thả những di dân tội phạm bất hợp pháp và đẩy các nhân viên công lực DHS vào tình cảnh nguy hiểm đến tính mạng khi đi bắt những người này mà đáng lẽ họ không nên được thả ra đường.”

“Thật là ngu xuẩn khi để những kẻ gớm ghiếc như vậy trở lại đường phố để họ PHẠM TỘI THÊM và có thêm nhiều nạn nhân. ‘Catahoula Crunch’ nhắm vào những tội phạm bạo động, những người được thả sau khi bị bắt vì những tội đột nhập gia cư, cướp có vũ trang, ăn cắp xe, và hiếp dâm. Dưới sự lãnh đạo của Tổng Thống Donald Trump và Bộ Trưởng Kristi Noem, chúng tôi đang khôi phục luật pháp và trật tự cho người dân Mỹ, ” bà McLaughlin tiếp.

Chiến dịch “Catahoula Crunch” có khoảng 250 nhân viên công lực di trú có mặt tại New Orleans trong vòng một tháng, với mục tiêu bố ráp di dân bất hợp pháp vùng Đông Nam Louisiana và một phần tiểu bang Mississippi.

Chiến dịch này, có mục tiêu bắt 5,000 người, là cuộc hành quân mới nhất của ICE nhắm vào thành phố do đảng Dân Chủ lãnh đạo, trong chiến lược trục xuất di dân hàng loạt của Tổng Thống Trump.

Theo thống kê mới nhất, tính đến năm 2024, New Orleans có khoảng 14,000 người gốc Việt cư ngụ, và đây cũng là nơi có nhiều người Việt nhất Louisiana. (Đ.D.)


 

Đừng để một viên đạn lái cả chính sách di dân!- Trúc Lam

Ba’o Tieng Dan

Trúc Lam

5-12-2025

Vụ nổ súng ở Washington, D.C. ngày 26-11-2025 làm một lính Vệ binh Quốc gia thiệt mạng và một người khác bị thương là chuyện hết sức đau lòng! Nghi phạm Rahmanullah Lakanwal là một người tị nạn gốc Afghanistan, từng đến Mỹ định cư. Nhưng điều đáng lo hơn nữa là, ngay lập tức, vụ việc bị biến thành chuyện chính trị, rồi nó được dùng làm cái cớ để siết visa, ngừng nhận người tị nạn và gây khó khăn cho hàng chục ngàn người, trong khi họ chẳng hề liên quan gì.

Trong một đất nước dân chủ, luật pháp rõ ràng: Ai làm người nấy chịu. Người nào gây án thì chỉ người đó phải ra tòa. Thế nhưng mấy ngày qua, thay vì tập trung vào việc điều tra vụ án, tìm hiểu động cơ gây án, nhiều quan chức và các nhóm chính trị lại quay sang đổ hết nghi ngờ lên đầu người Afghanistan, người tị nạn và tất cả những người nhập cư, nói chung.

Một người phạm tội tự nhiên bị biến thành cái cớ để nhiều người nhìn vào cả một cộng đồng đang sống đàng hoàng, tử tế ở Mỹ bằng con mắt méo mó. Không có cách nào dễ hơn để gây chia rẽ và gieo rắc sợ hãi bằng cách này.

Chính sách được làm từ nỗi sợ thì chỉ có tệ hơn

Ngay sau vụ nổ súng, hàng loạt biện pháp được nhà chức trách tung ra: Dừng xét đơn tị nạn, thắt chặt chương trình tái định cư, siết chặt việc cấp giấy phép làm việc và mở rộng danh sách các nước bị xem là “nguy cơ phạm tội”. Tất cả những quyết định này đều được gắn với một cụm từ nghe rất đẹp: “Bảo vệ an ninh quốc gia”.

Thực tế cho thấy, không hề có bằng chứng nào chứng minh rằng hàng trăm ngàn người tị nạn còn lại là mối đe dọa ai cả. Điều duy nhất được viện dẫn chỉ là… nỗi sợ hãi và kỳ thị di dân!

Nhưng vấn đề nằm ở chỗ: Khi nỗi sợ tập thể được nâng cấp thành chính sách, nó không chỉ trở thành cái cớ để né tránh trách nhiệm đạo đức, mà còn biến thành công cụ hợp pháp hóa sự kỳ thị. Và khi sự kỳ thị ấy được đóng dấu bởi chính quyền, những người lãnh đủ đầu tiên luôn là những nhóm yếu thế: Những người không có tiếng nói, không có quyền lực để tự bảo vệ, và thường bị xem như “vật tế thần” mỗi khi xã hội cần người để đổ lỗi.

Cái giá không chỉ là số phận của những người đang chạy trốn chiến tranh và bạo lực ở Afghanistan. Cái giá còn là niềm tin của cả xã hội, bởi họ từng tin rằng luật pháp Mỹ vốn công bằng, rằng nước Mỹ không trừng phạt những con người vô tội chỉ vì sai lầm của người khác.

Không phải ai cũng may mắn có được cuộc sống an toàn

Rất nhiều người Afghanistan từng đứng cùng quân đội Mỹ, tin vào lời hứa bảo vệ của chính phủ Mỹ. Khi Taliban quay lại, những người cùng chiến tuyến với người Mỹ đã không bỏ chạy vì muốn sang Mỹ để được ăn “bơ thừa, sữa cặn”, mà họ bỏ chạy bởi vì họ muốn sống sót. Nhiều người bị săn đuổi, bị đe dọa, thậm chí bị giết… Họ đến Mỹ để làm lại cuộc đời. Vậy mà giờ đây chỉ vì một vụ án, họ bị nhìn bằng ánh mắt nghi ngờ, thù hằn. Họ bị xem như “nguy cơ”, dù đa số họ đang sống rất bình thường: Đi làm, đóng thuế, nuôi con, hòa nhập…

Đáng lẽ ra Mỹ phải bảo vệ họ, nhưng thay vào đó, các chính trị gia Mỹ lại biến họ thành nạn nhân của một kiểu “công lý tập thể”, thứ công lý không bao giờ là công lý thật sự.

Một tay súng không thể đại diện cho cả một dân tộc

Chúng ta không bao che cho tội ác. Nhưng chính sách di dân không thể viết chỉ vì một cơn giận ai đó đã phạm tội. Cả một cộng đồng không thể bị kết tội vì hành động của một vài cá nhân.

Nếu một người Mỹ phạm tội, chúng ta đâu có kết luận rằng tất cả người Mỹ đều nguy hiểm. Một quân nhân Mỹ gây án, chúng ta đâu có nói cả quân đội Mỹ đều có vấn đề. Vậy tại sao một người nhập cư phạm tội bỗng nhiên biến cả cộng đồng nhập cư thành “có nguy cơ phạm tội”? Đó không phải công lý mà đó là thành kiến, là lợi dụng sự kiện để làm lợi cho ai đó.

Và lịch sử từng chứng minh: Khi nhà nước bắt đầu xem nhóm thiểu số như kẻ thù, thì nền dân chủ bắt đầu lung lay.

Công lý nằm ở đâu?

Công lý trong vụ này rất đơn giản: Xử người gây án bằng pháp luật, nghiêm minh và minh bạch. Nhưng hãy bảo vệ những người vô tội, không bị vơ đũa cả nắm.

Mỹ có đủ khả năng điều tra, có đủ công cụ để làm điều này. Cho nên, không có lý do gì để trút cơn giận lên đầu những người khác, những người chỉ giống nghi phạm ở màu da hay quốc tịch.

Nếu công lý bị bóp méo, thì không chỉ viên đạn trong vụ án làm tổn thương xã hội Mỹ, mà chính cách đối xử sau đó của lãnh đạo Mỹ mới là điều gây nguy hại lâu dài.

Đừng biến bi kịch thành chính sách

Ra một quyết định dựa trên nỗi sợ hãi thì dễ quá. Chỉ có quyết định dựa trên lý trí và lòng nhân đạo mới khó. Nhưng một đất nước mạnh không phải là đất nước đóng cửa vì sợ, mà là đất nước vẫn mở cửa, nhưng mở một cách công bằng, có trách nhiệm, và không chà đạp lên phẩm giá con người.

Một viên đạn không đại diện cho một cộng đồng; một kẻ phạm tội không thể quyết định số phận của hàng chục ngàn người; và một vụ án không thể trở thành nền tảng cho chính sách di dân của cả một quốc gia.

Nếu điều đó xảy ra, thứ bị đạn xuyên thủng không chỉ là một sinh mạng, mà là những giá trị đạo lý đã làm nên một nước Mỹ văn minh.

_________

Tham khảo: Người tị nạn Afghanistan tại Hoa Kỳ trước làn sóng nghi kỵ mới (NYT)


 

Hoạt động quân sự Mỹ ở Caribê : Quốc Hội điều tra về tội ác chiến tranh (RFI)

(RFI)

Các hoạt động quân sự của Mỹ gần Venezuela đang gây nhiều tranh cãi tại Hoa Kỳ. Vào đầu tháng 9, hai cuộc oanh kích của Mỹ nhắm vào một tàu bị nghi ngờ vận chuyển ma túy ở vùng biển Caribê đã khiến 11 người thiệt mạng. Các dân biểu đảng Cộng Hòa và Dân Chủ yêu cầu mở điều tra để xác định tính hợp pháp của những cuộc tấn công này, thậm chí có vi phạm tội ác chiến tranh hay không, trong bối cảnh Nhà Trắng tìm cách bênh vực bộ trưởng Quốc Phòng Pete Hegseth, đang bị các phương tiện truyền thông chĩa mũi dùi.

Đăng ngày: 03/12/2025 

Ảnh tư liệu : Bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Pete Hegseth trong cuộc gặp tổng thống Cộng hòa Dominica Luis Abinader tại Cung điện Quốc gia, Santo Domingo, Cộng hòa Dominica, ngày 26/11/2025.
Ảnh tư liệu : Bộ trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Pete Hegseth trong cuộc gặp tổng thống Cộng hòa Dominica Luis Abinader tại Cung điện Quốc gia, Santo Domingo, Cộng hòa Dominica, ngày 26/11/2025. © Erika Santelices / Reuters

Phan Minh

Theo Washington Post, bộ trưởng Quốc Phòng Hegseth đã ra lệnh phát động cuộc tấn công này với mục tiêu “giết tất cả” những người trên tàu bị nghi ngờ vận chuyển ma túy. Tuy nhiên, tổng thống Donald Trump, hôm 30/11/2025, đã lên tiếng bênh vực bộ trưởng của mình : “Ông ấy không nói vậy, và tôi tin ông ấy.” Lầu Năm Góc đã phủ nhận thông tin của Washington Post, nhưng Nhà Trắng xác nhận bộ trưởng Hegseth đã bật đèn xanh cho đô đốc Frank Bradley thực hiện nhiệm vụ này. Trên mạng xã hội X, ông Hegseth đã ca ngợi đô đốc Bradley là “một anh hùng Mỹ”, khen ngợi những quyết định của vị đô đốc trong chiến dịch ngày 02/09 và các chiến dịch khác sau đó.

Quốc Hội Mỹ đang điều tra xem liệu hai cuộc tấn công này có vi phạm tội ác chiến tranh hay không. Một số thành viên đảng Cộng Hòa phản đối việc đổ trách nhiệm cho đô đốc Bradley, trong khi những người khác chỉ ra rằng Pete Hegseth đã ra lệnh không để ai sống sót trong những cuộc tấn công đó. Tổng thống Donald Trump, hôm qua 02/12, cũng đã khẳng định bất kỳ quốc gia nào đưa ma túy vào Hoa Kỳ đều có thể bị tấn công.

Về phần mình, chính quyền Venezuela, hôm qua, thông báo rằng tổng thống Nicolas Maduro đã cho phép khôi phục các chuyến bay hồi hương những di dân Venezuela bất hợp pháp từ Hoa Kỳ, theo yêu cầu của Washington.

Trước đó, Caracas thông báo rằng Washington đã đình chỉ các chuyến bay này sau khi Donald Trump tuyên bố không phận Venezuela coi như bị “đóng hoàn toàn”. Quyết định tái khởi động các chuyến bay hồi hương này được đưa ra trong bối cảnh chủ nhân Nhà Trắng đã triệu tập Hội đồng An ninh Quốc gia vào thứ Hai để thảo luận về tình hình ở Venezuela.


 

Miền Trung Lũ Ngập Nhưng Lương Tâm Ai Vẫn Khô Hạn?

Luong Nguyen

Miền Trung Lũ Ngập Nhưng Lương Tâm Ai Vẫn Khô Hạn?

(Nhận từ Người phương Nam)

Có lẽ chưa bao giờ cảm giác bất lực lại trĩu nặng như những ngày này, khi mở bất kỳ trang tin nào cũng thấy hình ảnh nước đục ngầu phủ lên mái nhà, người ta ngồi co ro trên nóc tôn, gương mặt trắng bệch vì lạnh, vì đói, vì sợ. Miền Trung, dải đất gầy guộc mà tôi từng lớn lên, vốn đã quen với điệp khúc “năm thì mười hoạ bão lũ”, bỗng dưng những năm gần đây như bị đẩy vào tâm điểm của một trò thí nghiệm tàn nhẫn: lũ hết đợt này đến đợt khác, nước hết dâng lại rút, rồi lại dâng, mỗi lần là thêm vài chục sinh mạng, thêm vài chục ngàn căn nhà ngập sâu, thêm vài trăm ngàn phận người trắng tay.

Là người con miền Trung, tôi không lạ gì cảnh nước lụt tràn sân, gùi sách trên đầu lội đến trường, đêm nằm nghe tiếng mưa ràn rạt trên mái tranh mà tim nơm nớp lo lắng. Nhưng cái lũ ngày xưa, dù khốc liệt – vẫn là lũ trời: mưa nhiều, nước sông lên, rồi vài ngày nó cũng rút; người ta xắn quần lên dọn bùn, dựng lại mái nhà, trồng lại luống rau, vá lại cuộc đời. Còn bây giờ, càng nhìn càng thấy đây không chỉ là lũ của thiên nhiên, mà là lũ của lòng người, là kết quả cộng dồn của bao năm quyết định sai lầm, của cách đối xử tàn nhẫn với rừng, với sông, với đất.

Ai cũng biết dọc thượng nguồn bao con sông miền Trung, bao nhiêu năm nay người ta cho phép mọc lên dày đặc những đập thuỷ điện. Hết dự án này tới dự án khác, rừng bị xẻ ngang, bị “dọn dẹp” tới tận chân núi để làm đường, làm hồ, làm nhà máy. Đến khi mưa lớn, nước đổ về, hồ đầy, lại vội vã “xả lũ theo quy trình”, mà cái quy trình ấy hình như chỉ có mỗi một bước: “mở cửa xả và… mặc kệ phía hạ du xoay xở ra sao”. Cái mà lẽ ra phải là công trình bảo vệ – điều tiết nước, giảm lũ – thì nay lại trở thành bản lề nhân tai, biến trận lũ vốn dĩ đã nặng nề vì mưa thành cơn cuồng nộ cuốn phăng làng mạc.

Nhưng bi kịch không chỉ nằm ở chỗ “thiên tai + nhân tai”, mà còn nằm ở cách người ta đối xử với những người đang chìm trong nước. Giữa lúc bao nhiêu xóm làng kêu cứu, người dân phải leo lên nóc nhà, đứng cả ngày trên cột điện chờ một chiếc xuồng, một chiếc ca nô đi ngang, thì có những nhóm thiện nguyện – tự họ gom góp, tự họ thuê ca nô, tự họ xông vào vùng nước xiết cứu người. Ấy vậy mà thay vì được hỗ trợ, họ lại bị… nhắc nhở là “vượt quyền”, “không phối hợp đúng tuyến”. Nghe mà nghẹn. Người ta có thể tranh luận mãi về quy trình, về phân cấp, nhưng trước mặt là mạng người, là đứa nhỏ đang bám cột dừa, là bà già đang ngồi ôm cái rương áo quần trên mái nhà, thì có lý do nào, có văn bản nào quan trọng hơn việc cứu cho được con người đó hay không?

Buồn hơn nữa là những câu chuyện “hậu trường” của các đoàn cứu trợ. Biết bao người ở trong và ngoài nước, gom từng đồng, từng thùng mì, từng bao gạo, áo ấm, thuốc men để gửi về. Thế mà khi xe cứu trợ đến cửa ngõ địa phương, lại thấp thoáng những “thủ tục”, những “điều tiết”, những dạng “cống nạp mềm”, nếu không khéo léo, không “biết điều”, thì hàng sẽ nằm ở đó, hoặc bị “xin lại một phần” trước khi đến tay người dân. Có nơi còn muốn đoàn phải “đi theo danh sách” do mình lập sẵn, trong khi người cho chỉ muốn trao tận tay những gia đình khẩn cấp, những mái nhà đang trắng tay. Trong một thảm hoạ, lòng người vốn đã tổn thương, mà còn phải hoài nghi xem phần gạo mình gửi có đến đúng chỗ không, đó là một loại đau buồn rất khó gọi tên.

Ở bên này bờ Thái Bình Dương, mỗi mùa lũ về, tôi lại thấy những cảnh rất ngược nhau. Trong bao nhiêu buổi lễ ở nhà thờ Việt Nam, sau thánh lễ, cha xứ lại nhắc khéo: “Tuần này xin cộng đoàn cầu nguyện đặc biệt cho đồng bào vùng lũ, và nếu có thể, xin mỗi gia đình góp một chút tình thương…”. Khay quyên góp chuyền qua từng hàng ghế, cả nhà đạo gốc lẫn đạo… theo vợ, ai cũng móc túi, có khi chỉ vài đồng lẻ, có khi là một ngân phiếu khá hơn, nhưng đó là tấm lòng. Bên chùa cũng vậy: sau buổi tụng kinh hay lễ Vu Lan, thầy trụ trì đứng nhắc nhẹ: “Chúng ta ở xa, không gánh nước, không kéo dây được, thôi thì góp chút tịnh tài, tịnh vật gửi về cho bà con bớt khổ”. Những thùng quyên góp đặt ở cổng chùa, trên bàn tiếp tân hội trường, đầy dần lên; người già lấy tiền hưu, người mới đi làm bớt lại ly cà phê, đứa nhỏ bớt tiền ăn quà, gom lại thành chuyến hàng đi về phương trời bão gió.

Những nỗ lực ấy âm thầm, đều đặn, năm này qua năm khác. Thế nhưng, trái ngược với tấm lòng đó là những lời lẽ độc địa vẫn đều đặn xuất hiện trên mạng xã hội từ một bộ phận “dư luận viên” nào đó: họ xem những người Việt hải ngoại chỉ là “3///”, là “khát nước”, là “ngụy”, là “ăn cơm Mỹ thờ ma…”. Hễ thấy ai ở nước ngoài nhắc tới chuyện cứu trợ, phê phán việc phá rừng, xả lũ bừa bãi, hay cách chính quyền đối xử với dân vùng lũ, là lập tức bị chụp mũ, bị chửi rủa, bị bôi nhọ. Thật trớ trêu: những bàn tay chìa ra từ nhà thờ, từ chùa, từ hội trường cộng đồng ở tận trời Tây thì gọi là “phản động”, còn những lời nhạo báng đau thương đồng bào, bào chữa cho sai lầm của bộ máy lại được xem như “đúng lập trường”, “bảo vệ nhà nước”.

Cái bất lực lớn nhất với tôi, và chắc với nhiều người, không phải là không làm gì được, mà là thấy rất rõ nguyên nhân mà không ai chịu đứng ra nhận trách nhiệm. Mưa lớn hơn, bão dày hơn, đó là xu thế khí hậu toàn cầu, không riêng gì ta. Nhưng phá rừng “tới tận chân núi” cho lâm tặc và cho các dự án, chặn hết dòng sông để làm thuỷ điện, quy hoạch bê tông lên cả vùng trũng tự nhiên, buộc dân nghèo phải sống chen chúc ở những nơi vốn là đường thoát lũ, đó là lựa chọn của con người. Cảnh báo của giới chuyên gia, của báo chí độc lập, của những tiếng nói lẻ loi nhiều năm qua chẳng thiếu, vậy mà mỗi mùa mưa đến, ta vẫn lặp lại kịch bản: “bất ngờ trước mưa lớn kỷ lục”, “đang rà soát quy trình xả lũ”, “sẽ kiểm điểm, rút kinh nghiệm sâu sắc”.

Tôi không biết phải an ủi người dân vùng lũ bằng lời nào nữa. Nói “rồi cũng qua” thì tàn nhẫn, vì qua đợt lũ này sẽ tới những khoản nợ mới, những mùa màng mất trắng, những đứa trẻ phải nghỉ học, những ngôi nhà chưa kịp trả xong tiền vay đã trôi mất. Nói “cố gắng lên” thì nghe sáo rỗng, vì bao đời nay họ đã cố gắng hơn ai hết. Cứ mỗi mùa lũ đi qua là thêm một lớp người rời quê, bỏ ruộng, bỏ đồi chè, bỏ rẫy cà phê, bỏ xóm nhỏ bên sông mà đi làm thuê xứ khác, bám trụ ở thành phố, ở xứ người, chỉ vì họ không thể mãi sống chung với cái kiểu lũ không còn giống như xưa.

Có người bảo: “Thiên tai thì ở đâu chẳng có, Mỹ, Nhật, châu Âu cũng lũ, cũng bão”. Đúng, nhưng cái làm người ta phẫn nộ ở đây là cảm giác bị bỏ mặc và bị đối xử như “đối tượng quản lý” hơn là công dân. Người dân không được tham gia vào những quyết định lớn liên quan đến rừng, đến sông, đến thuỷ điện, đến quy hoạch; đến khi hậu quả ập xuống cuộc đời họ, thì lời giải thích lại là “biến đổi khí hậu”, là “trận mưa lịch sử”, là “tình hình rất phức tạp”. Còn những ai cố gắng tự tổ chức, tự lo cho nhau, từ nhóm đi ca nô đến các đoàn cứu trợ độc lập, thì đôi khi lại bị gây khó, bị soi, bị gán nhãn.

Viết những dòng này, tôi biết mình cũng chỉ là một người đứng bên lề, nhìn quê hương từ xa qua màn hình, chia sẻ được chút tiền, chút lời, chút vật chất, nhưng không thể thay được tấm phao, chiếc xuồng, vòng tay cụ thể cho ai đó đang giữa dòng lũ. Cái cảm giác bất lực ấy không chỉ là chuyện cá nhân, mà là một nỗi buồn chung của cả một thế hệ người Việt lưu lạc: nơi mình sinh ra thì cứ hết lũ này đến lũ khác, hết “tai trời” đến “hoạ người”; nơi mình đang sống thì bình yên hơn, nhưng lòng lúc nào cũng giằng xé.

Có lẽ điều duy nhất còn lại mà chúng ta có thể làm, ngoài việc tiếp tục cứu trợ, tiếp tục đứng về phía những nạn nhân, là không im lặng trước những nguyên nhân đã quá rõ. Bởi vì nếu mỗi mùa lũ đi qua chỉ kết thúc bằng vài câu “chia buồn sâu sắc” và vài dòng thống kê thiệt hại, thì những cơn lũ năm sau, năm sau nữa sẽ còn dữ hơn, rộng hơn, tàn phá hơn. Và đến một lúc nào đó, người miền Trung sẽ không còn gì để mất, ngoài ký ức về những ngôi làng từng nằm yên bên triền sông, trước khi bị nuốt chửng bởi những quyết định mà họ chưa từng được hỏi ý kiến một lần.

 (1) BẢO TỒN TIẾNG VIỆT | Miền trung lũ ngập nhưng lương tâm ai vẫn khô hạn | Facebookig


 

Gia đình một người Colombia bị không kích thiệt mạng ở biển Caribbean nộp đơn kiện Mỹ

Ba’o Nguoi-Viet

December 3, 2025

BOGOTA, Colombia (NV) – Thân nhân của một người đàn ông Colombia thiệt mạng do bị quân Mỹ không kích ở vùng biển Caribbean đã nộp đơn kiện Mỹ lên Ủy Ban Nhân Quyền Liên Châu Mỹ (IACHR), AFP đưa tin.

Người bị giết là ông Alejandro Carranza Medina, 42 tuổi, sau khi quân Mỹ không kích chiếc tàu của ông vào ngày 15 Tháng Chín. Thân nhân của ông bác bỏ có ma túy trên chiếc tàu của ông, vốn bị nhắm bắn trong chiến dịch chống buôn lậu ma túy của Washington. Họ khẳng định ông chỉ là ngư dân đi đánh cá ngoài biển.

Tổng thống Colombia, ông Gustavo Petro phát biểu trong buổi lễ tiêu hủy vật liệu chiến tranh ở Puerto Asis, Colombia, vào ngày 15 Tháng Mười. (Hình minh họa: David Salazar/AFP via Getty Images)

“Chúng tôi biết rằng ông Pete Hegseth, bộ trưởng Quốc Phòng Mỹ, là người ra lệnh ném bom các tàu thuyền giống như của chiếc tàu Alejandro Carranza Medina và sát hại tất cả những người trên những con tàu đó,” đơn kiện của gia đình mà AFP thấy được hôm Thứ Tư ngày 3 Tháng Mười Hai, viết.

Các cuộc không kích của Mỹ ở Caribbean và phía Đông Thái Bình Dương đã giết chết hơn 80 người trên các tàu thuyền mà Washington cho là đang vận chuyển ma túy từ Venezuela mà không đưa ra bằng chứng.

Người thân và chính quyền ở các nước có nạn nhân thiệt mạng khẳng định một số người trong số họ là ngư dân, trong khi các tổ chức nhân quyền nói các cuộc tấn công này là bất hợp pháp ngay cả khi các mục tiêu thực sự là tàu bè đang chở ma túy.

Đơn khiếu nại đưa lên IACHR ghi rằng ông Hegseth đã ra các lệnh tấn công “mặc dù ông không biết danh tính của những người bị nhắm đến trong các vụ đánh bom và sát hại ngoài vòng pháp luật” mà họ cho rằng đã được Tổng Thống Trump “phê duyệt”.

Trong một cuộc họp nội các hôm Thứ Ba ngày 2 Tháng Mười Hai, ông Hegseth nói: “Răn đe phải được xem là điều quan trọng. Không bắt giữ và bàn giao rồi sau đó làm lại, như cách làm của các chính quyền trước đây là xử lý rồi làm lại.”

Ông Gustavo Petro, tổng thống Colombia, người đã gọi các cuộc tấn công của Mỹ là “giết người ngoài vòng pháp luật”, cam kết sẽ ủng hộ gia đình nạn nhân tìm kiếm công lý.

Trong một cuộc phỏng vấn với AFP hồi Tháng Mười, bà Katerine Hernandez, vợ góa của ông Carranza, nói rằng chồng bà là một “người tốt”. Ông để lại bốn đứa con.

“Ông ấy không có mối liên hệ gì với buôn bán ma túy, và công việc hàng ngày của ông là đánh bắt cá,” bà Hernandez nói.

“Tại sao họ lại tước đi mạng sống của ông như vậy?” bà nói trong cuộc phỏng vấn. “Ngư dân có quyền sống. Tại sao không bắt giữ họ là được?” (NNL) [đ.d.]


 

TẠI SAO THẾ HỆ TRẺ VN SINH RA LÀ ĐỂ ĐI LÀM CU LI CHO NGOẠI BANG?

Nguyễn Doãn Đôn

Vì Nhà nước VN do Đảng CS độc tài kết hợp với bất tài lãnh đạo, nên không tạo ra được công ăn việc làm cho họ. 

Cả nước hiện nay biến thành thị trường tiêu thụ lượng hàng rất lớn từ Trung Quốc đưa sang qua nhiều con đường. Nó đã làm cho các hãng xưởng của VN không cạnh tranh nổi, nên phải đóng cửa, dẫn đến tình trạng công nhân bị thất nghiệp.

Lẽ ra hàng Tầu vào phải đánh thuế thật cao, còn hàng nội địa thì phải được ưu tiên, để kích thích cho doanh nghiệp VN mạnh lên,  từ đó mà họ có đủ khả năng cạnh tranh với hàng Tầu mới phải. Nhưng phía VN đã không làm. Thành thử nhiều ngành công nghiệp chủ là người  VN bị thương trường Tầu quật không tồn tại được. Họ phải bán hãng xưởng với giá rẻ rúng lại cho Tầu.

Sau đó một số công nhân VN sẵn sàng ở lại làm tiếp cho Hãng Tầu mua lại này, với đồng lương rẻ mạt. Nghĩa là họ làm nô lệ ngay trên chính Đất nước mình. Số còn lại tìm cách bung ra nước ngoài để hy vọng kiếm được nhiều tiền hơn và cũng là để biết đó biết đây; đồng thời tò mò xem Tư bản giãy chết thế nào mà chúng giàu có thế.

Cũng sinh ra  ở Châu Á với nhau, nhưng những nước văn minh có Chính phủ dân chủ  lãnh đạo, thì  nền kinh tế của họ phát triển tốt. Ví dụ như Nhật, Đài Loan, Nam Hàn thì  họ thừa việc làm. Nên họ mới nhận chúng ta sang làm cu li cho họ.

Còn lý do nữa là vì Chính phủ VN không biết xử dụng người tài, có trình độ chuyên môn. Họ để đa phần là người kém cỏi cho lên làm lãnh đạo, thành thử sai đường lạc lối. Kinh tế thị trường lại gắn cái đuôi “định hướng XHCN” vào, để Đảng có cớ  lãnh đạo và can thiệp toàn diện, nên không thể thành công được. Mà cũng không ai người ta công nhận. Thành thử các chính sách ưu tiên, ưu đãi về thuế  và chất lượng hàng hóa cũng như luật pháp không được bình đằng như các nước khác.

Nguyễn Doãn Đôn


 

AI BẢO CHĂN TRÂU LÀ KHỔ? – LM Phan Phát Huồn

Đặng Minh Tâm 

 Câu chuyện của một vị Linh Mục ở trong tù cộng sản

(Fb Lê Đăng Ngô Đồng chia sẻ)

AI BẢO CHĂN TRÂU LÀ KHỔ? – LM Phan Phát Huồn

https://hoiquanphidung.com/forum/các-chuyên-mục/thời-sự/chuyện-tù-cải-tạo/61327-câu-chuyện-của-một-vị-linh-mục-ở-trong-tù-cs

Lời giới thiệu của KD

Cha Phêrô Phan Phát Huồn, DCCT (1926-2015), người quê giáo xứ Phường Đúc, Huế, nguyên Trung Tá Phó Giám đốc Nha Tuyên Úy VNCH và cũng là người sáng lập và xây dựng nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp tại Xóm Mới. Sau 1975, bị tù cs 13 năm (75-88), trải qua nhiều trại giam từ Nam chí Bắc như: Tam Hiệp, Thanh Phong, Nam Hà. Tại trại Nam Hà, cha Huồn đã ban bí tích Rửa Tội… cho các: Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Thiếu Tướng Lê Văn Tư và Chuẩn Tướng Phan Đình Thứ tự Lam Sơn trở lại đạo Công Giáo.

Năm 1992 cha Huồn sang Hoa Kỳ theo diện H.O. Sau đó Ngài làm chủ bút nguyệt san Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp xuất bản tại Long Beach, Nam California.

Ngay từ khi vừa chịu chức linh mục ngài đã viết cuốn lịch sử Việt Nam Giáo Sử- tác phẩm đầu tiên về lịch sử GHCG Việt Nam từ ban đầu cho đến giữa thế kỷ XX.

Tôi gặp ngài lần đầu ở Thái Hà dịp Tết năm 1988 khi ngài vừa được trả tự do sau 13 năm trong ngục tù cộng sản. Vì Thái Hà là nơi ngài đã sống 7 năm khi còn làm thầy trước năm 1954, nên ngài cùng với cha Ngô Đình Thỏa và Đinh Ngọc Quế đã ở lại đây ăn tết với cha Vũ Ngọc Bích và tôi gần 1 tháng, trước khi về Sài Gòn.

Năm sau -1989- tôi được cha Vũ Ngọc Bích gửi vào tu viện DCCT Sài Gòn ở đường Kỳ Đồng. Thế là chúng tôi lại có dịp chung sống với nhau. Bấy giờ công an cấm những người như ngài và tôi- không có hộ khẩu- ngủ qua đêm tại tu viện. Vì thế khoảng 8g mỗi tối tôi chở ngài về chỗ ngủ nhờ ở nhà 1 giáo dân và khoảng 4g45 sáng khi tôi đi qua chỗ ngài ở thì lại chở ngài đến tu viện.

Trong mấy năm ở chung tại tu viện Kỳ Đồng, ngài kể cho tôi nghe nhiều chuyện đau khổ trong tù trong đó cũng có nhiều chuyện cười ra nước mắt. Tôi nhớ mỗi lần kết thúc một câu chuyện ngài lại nói: “Đó là chuyện tôi sẽ viết khi đáp máy bay xuống phi trường Washington!”

Ngài đã viết thật. Năm 1991 ngài sang Hoa Kỳ theo diện HO và năm 1994 ngài đã xuất bản cuốn hồi ký có tựa đề là “AKA và Thập Giá. Ai thắng ai?”viết về 13 năm sống trong ngục tù cộng sản và gửi về VN tặng tôi một bản. Nhân dịp 30 tháng 4 tôi xin trích vài trang kể về hai “tai nạn” khi ngài đi chăn trâu lúc ở tù.

*****

(….) Chúng tôi chia tay nhau mà lòng đầy phấn khởi, và cũng vì phấn khởi mà tôi leo lên lưng trâu cỡi, tôi vừa cỡi trâu vừa nghêu ngao ca bài của Phạm Duy:

Ai bảo chăn trâu là khổ,

Chăn trâu sướng lắm chứ

Đầu tôi đội nón mê như lọng che.

Tôi vừa ca đến đây thì tôi nghe tiếng quen quen:

– Tụt, tụt, anh tụt khỏi lưng trâu ngay lập tức.

Tôi nhận ra tiếng của cán bộ quản giáo của tôi. Tôi lanh lẹ cầm đuôi trâu tụt xuống khỏi lưng nó. Cũng lúc ấy cán bộ xông tới gần tôi, tôi nghĩ là ông ta muốn đánh tôi, tôi nói:

– Yêu cầu cán bộ đứng xa tôi 3 mét.

Sở dĩ tôi nói như vậy vì trong nội quy của nhà tù, tôi không được đứng gần cán bộ 3 mét.

Ông cán bộ đăm đăm nhìn tôi như muốn ăn sống tôi làm tôi nhớ lời trong thánh vịnh:

Tôi phải nằm giữa bầy sư tử,

Loài thú ăn thịt người

Nanh vuốt chúng là đầu tên mũi giáo,

Lưỡi thì sắt bén tựa gươm đao.

– Anh có biết anh là gì không?

– Thưa cán bộ tôi là Phan Phát Huồn.

– Phan Phát Huồn là cái thớ gì? Anh là tư sản, là tanh hôi là xấu xa, anh biết chưa?

Tôi không trả lời cho câu hỏi ấy. Ông cán bộ hỏi tôi tiếp:

– Anh có biết con trâu này là gì không?

– Thưa cán bộ có, về mặt sinh vật học con trâu này là một con vật có 4 chân thuộc loài có vú.

Nghe tôi nói có vẻ lạ tai, ông ta trợn đôi mắt tròn xoe rồi ông ta khạc nước bọt lên trên nền đất tỏ vẻ bất mãn:

– Cà chớn, ai lại không biết con trâu này có 4 chân thuộc loài có vú, cha cố gì mà ăn nói tục tĩu, điều mà anh cần phải nhớ, phải ghi lòng tạc dạ: con trâu này là một con trâu xã hội chủ nghĩa, và anh là tư bản chủ nghĩa, vậy mà anh dám đưa cái đít thối tha tư bản chủ nghĩa của anh, ngồi lên trên, cà lên trên lưng của con trâu xã hội chủ nghĩa. Láo.

Cán bộ nói câu ấy với tất cả tấm lòng thành của một cán bộ cộng sản lúc ông ta tưởng rằng lý thuyết của ông ta bị xúc phạm.

– Vậy bây giờ anh hãy tự xử lấy.

– Thưa cán bộ tôi chẳng biết phải tự xử làm sao cả.

– Học tập như anh quá kém, làm sao lên lớp được, anh đem trâu xuống suối tắm, giải tỏa cho lưng nó sạch mùi xú uế.

– Thưa cán bộ sáng hôm nay đài khí tượng cho biết tại Yên Bái là 5 độ C, đem trâu xuống suối tắm thì cả trâu lẫn người sẽ đều bị bệnh. Vậy tôi xin cán bộ cho phép tôi lấy lá khô xung quanh đây chùi lưng trâu với mục đích giải tỏa cho lưng trâu sạch mùi xú uế.

Cán bộ suy nghĩ chốc lát rồi trả lời ngắn gọn:

– Được!

Thế rồi tôi hái lá khô chùi lưng trâu, vừa chùi vừa cười thầm trong bụng về cái công tác kỳ cục này. Sau đó tôi lại tiếp tục nghề chăn trâu của tôi.

Một hôm cán bộ đến gần tôi và nói rằng:

– Anh Huồn, anh biết là sắp đến ngày quốc khánh mồng 2/9 không? Anh lựa con trâu nào coi được, trao cho nhà bếp làm thịt cho trại viên ăn.

Tôi lựa một con thật béo tốt và tôi để trong trí tôi, không cho ai hay biết. Tôi lựa một con thật béo là cốt ý cho anh em bồi dưỡng chứ không phải để mừng ngày 2/9 vì ngày ấy đối với tôi là một ngày toàn dân bắt đầu làm thân trâu ngựa để phục vụ cho một chế độ độc tài, độc đảng, độc ác.

Sáng mồng 2/9 tôi vào chuồng trâu để đưa con trâu tôi đã chọn trao cho nhà bếp làm thịt, thì nó nhìn tôi và tràn trụa nước mắt, thấy vậy tôi về trại cáo bệnh và tôi xin bác sĩ cho tôi nghỉ ngày hôm ấy, như thế tôi tránh được việc dẫn trâu đến lò sát sinh vì tôi không muốn chứng kiến cái cảnh đau thương dù là của một con vật.

Chiều đến chúng tôi được một bữa cơm thịnh soạn với thịt trâu, anh NSX linh mục tuyên úy Quân khu 3, bạn đồng nghiệp của tôi, nằm khít bên cạnh tôi, là người bạn giúp đỡ tôi trong suốt thời kỳ tôi đau ốm, chúng tôi cùng ngồi ăn chung với nhau suốt thời kỳ ở Yên Bái. Hôm ấy ăn món thịt trâu xong, tôi để xương vào đĩa định đem đi đổ thì anh NSX không cho và anh lấy hết đĩa xương ấy ngồi mút thật ngon lành, rồi một buổi chiều kia anh NSX đưa tôi lên bệnh xá nhận thuốc bổ của gia đình anh gởi và bắt tôi uống, có lẽ đó là cách anh trả xương trâu lại cho tôi! Anh em chúng tôi ở với nhau thật tình như thế đấy.

Lâu lâu các linh mục BĐH và mục sư ĐVL cũng ghé thăm tôi, và một hôm các anh đề nghị với tôi, tổ chức đại hội trâu, thật là một ý kiến tuyệt vời. Đến ngày ấn định chúng tôi cùng kéo nhau lên đỉnh núi cầu nguyện, để đàn trâu ăn cỏ dưới chân núi. Đứng trước cảnh trời bao la, một màu xanh biếc, chúng tôi cảm thấy tâm hồn nhẹ nhõm thư thái, và quên hết tất cả những nỗi lo âu, phiền toái của cuộc sống ở chốn nhà tù việt cộng âm u. Thế rồi không ai bảo ai, chúng tôi cất tiếng hát:

Chúa ơi cho con hầu kề, Gần bên Chúa luôn.

Trí con đinh ninh một bề làm tôi Chúa luôn.

Con quyết không bao giờ nguôi.

Theo Chúa con luôn không rời.

Chúa ơi cho con hầu kề gần bên Chúa luôn…

Chính lúc đó một tiếng từ trong bụi quát ra:

– Làm gì có Chúa mà gần các anh, chính tôi, tôi đây, cán bộ nhân lực, cán bộ an ninh, tôi gần các anh đây, tôi bắt quả tang các anh bỏ giờ lao động, tập họp bất hợp pháp để hát những bài nhạc vàng, những bài dâm ô. Các anh xuống núi, lùa trâu về trại.

Anh Hiểu quay lui nói với tôi:

– Làm gì mà không chịu ngó trước ngó sau!!

– Lỡ rồi biết sao được.

Lúc xuống núi tôi nhìn quanh quẩn nhưng không thấy đàn trâu của chúng tôi đâu cả, tôi đâm lo, người xưa nói thật đúng: Họa vô đơn chí, nhưng may cho tôi, tôi thấy được dấu chân trâu và tôi lần mò đi theo lối chân ấy, lúc tôi tới cuối ruộng mía, tôi thấy đàn trâu đang bị buộc ở đấy, bỗng trong ruộng mía một cụ già xông ra, tay cầm bó mía, vừa chạy vừa chửi:

– Mẹ kiếp nhà mày, chúng mày cho trâu ăn mía nhà ông. Ông phang cho vỡ sọ bây giờ.

Ông vừa chửi vừa chạy nhanh về phía tôi, vấp phải một hòn đá ông ngã lăn quay ra, miệng cạp phải đất, bó mía rơi khỏi tay ông nhưng miệng ông vẫn nói: “Ông phang vỡ sọ nhà mày”.

Tôi chạy tới đỡ ông dậy, ông hơi trầy gối, tôi lấy thuốc đỏ trong túi tôi xức cho ông, vì khi chúng tôi đi lao động chúng tôi luôn mang theo thuốc đỏ và thuốc trị rắn cắn, đồng thời tôi xin ông cho tôi chuộc lại bầy trâu. Bây giờ ông không còn hung hăng nữa, ông chấp nhận đối thoại, ông hỏi tôi:

– Anh có gì mà chuộc?

– Cháu có áo Tây Gi.

– Áo Tây Gi là áo gì?

– Là áo chúng cháu đang mặc đây.

Ông nhìn chúng tôi một chốc rồi ông nói:

– Được, các anh trao cho tôi.

Chúng tôi cởi áo chúng tôi ra, xót xa như bị lột da vậy, vì đây là một gia tài đối với tù nhân như chúng tôi. Ông nhận lấy áo chúng tôi, xem đi xem lại rồi bảo tôi:

– Cả quần của các anh nữa.

Chúng tôi dành phải tụt quần trao cho ông, nhưng riêng đối với tôi, tôi còn một chiếc quần đùi, mà quần đùi của tôi chỉ còn khả năng che phía đằng trước. Lấy xong bộ đồ tây gi của 3 anh em chúng tôi, ông nhìn tôi và nói:

– Áo lót của anh nữa!

Biết làm sao bây giờ, tôi cũng phải chiều lòng ông cởi chiếc áo lót duy nhất của tôi cho ông, sau đó thì ông đăm đăm nhìn tôi rồi ông hỏi tôi:

– Anh là Công Giáo à?

– Vâng cháu là Công Giáo và còn hơn thế nữa.

– Hơn thế nữa nghĩa là gì?

– Cháu là Linh Mục.

– Cháu là Linh Mục?

Nói câu ấy xong, tôi thấy một sự thay đổi rõ rệt trên nét mặt, đôi mắt ông trở nên đỏ ngầu, ông chấp hai tay lại và ông van nài tôi:

– Lạy cha, xin cha tha tội cho con, thưa cha thật tình là con không biết, lúc cha cởi áo thun ra, con thấy cha đeo thánh giá, con chỉ nghĩ rằng cha là một giáo hữu thường, con đâu có ngờ là linh mục.

Rồi ông gọi thằng con ông:

– Tuấn, mày đem nồi khoai ra đây cho tao.

Ông cụ già chẳng những hoàn lại cả bầy trâu cho chúng tôi, mà còn biếu chúng tôi một nồi khoai nóng hổi, thảo nào các em thường hát: Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ!

Phan Phát Huồn

(Trích Hồi ký: AK và Thập Giá. Ai thắng ai của LM Phan Phát Huồn – trong mục XIV: Ai bảo chăn trâu là khổ? Trang 137-142).

********

DANH SÁCH NHỮNG LINH MỤC BỊ TÙ TRONG TRẠI A20 XUÂN PHƯỚC SAU NGÀY 30 THÁNG 4 NĂM 1975 (và một số trại tù khác)

Tại nhà tù A20 thuộc xã Xuân Phước, tỉnh Phú Yên:

– Linh mục Marcô Bùi Quốc Khánh (nguyên Chánh xứ nhà thờ Tiên Chu)

– Linh mục Giuse Maria Đinh Bình Định (nguyên Chánh xứ nhà thờ Tân Chí Linh)

– Linh mục Giuse Đinh Hoàng Năng (nguyên Chánh xứ nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm)

– Linh mục Phanxicô Xaviê Đinh Quốc Thụy (cai quản họ đạo Bố Mua)

– Linh mục Đaminh Đinh Xuân Hải (Chánh xứ tiên khởi gx Bùi Môn, gx Tân Phú, tù 10 năm, chết tại Mỹ)

– Linh mục nhạc sĩ Giacôbê Đỗ Bá Công (nguyên Chánh xứ nhà thờ Mỹ Lợi)

– Linh mục Giuse Hoàng Văn Hinh (nguyên Chánh xứ nhà thờ Giuse), tù 11 năm

– Linh mục Giuse Lê Thanh Quế (Dòng Tên, chết tại VN)

– Linh mục Matthia M. Nguyễn Huy Chương(Dòng Đồng Công, tù 20 năm)

– Linh mục Giuse Nguyễn Huyền Linh (nguyên Chánh xứ Bù Đăng, tù 20 năm)

– Linh mục Đaminh Nguyễn Quang Minh (nguyên Chánh xứ nhà thờ Vinh Sơn, chết trong nhà biệt giam)

– Linh mục Giuse Nguyễn Tiến Khẩu (cai quản Giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Xóm Mới)

– Linh mục Giuse Nguyễn Văn Bút (từng làm Mục Vụ tại Giáo Phận Vĩnh Long)

– Linh mục Phêrô Nguyễn Văn Đệ (đi tập trung, hiện là giám mục giáo phận Thái Bình)

– Linh mục Nguyễn Văn Đoan (đi tập trung)

– Linh mục Nguyễn Văn Hiệu (chung thân, sau đó bị tử hình)

– Linh mục Gioakim Nguyễn Văn Hiếu (dòng Đông Công, tù 20 năm)

– Linh mục Nguyễn Văn Luân (tù 20 năm, chết trong nhà biệt giam)

– Linh mục Nguyễn Văn Thuyên (dòng Đồng Công, tù 20 năm)

– Linh mục Nguyễn Văn Vàng (dòng Chúa Cứu Thế, tù chung thân, thổ huyết chết trong buồng cùm A20 năm 1986)

– Linh mục Phanxicô Maria Nguyễn Viết Linh (đi tập trung, sáng lập Tu Đoàn Nữ Thừa Sai Thánh Mẫu Chúa Cứu Thế)

– Linh mục Micae Phạm Bá Tước (tù 13 năm, Phục vụ tại Giáo xứ Gia Cốc, ngài qua đời ngày 9/4/2021)

– Linh mục Micae Phạm Quang Hồng (tù 13 năm, khi đi tù là Sư huynh dòng Lasan, sau này được thụ phong linh mục tại hải ngoại)

– Linh mục Phạm Minh Trí (Dòng Đồng Công, tù 20 năm)

– Linh mục Trần Văn Long (Dòng Đồng Công, tù 20 năm)

– Linh mục nhạc sĩ Rôcô Trần Hữu Linh (Bị bắt đi tù 11 năm “vì đã thương tình cho một chủng sinh tá túc một đêm!”. Anh chủng sinh này bị gán tội phản động. Vì vụ này, trụ sở Tu hội Thánh Vinh Sơn tại Tam Hiệp bị nhà nước chiếm đoạt.)

– Linh mục Trần Văn Nguyện(chết tại Bà Rịa tháng 12 năm 2008)

– Linh Mục Tuyên (tù trên 10 năm)

– Linh mục Phaolô Võ Văn Bộ (chánh xứ tiên khởi nhà thờ Fatima Bình Triệu, tù 15 năm)

-Linh mục Antôn Vũ Ngọc Đăng (nguyên Chánh xứ nhà thờ Chánh tòa Phan Thiết, tù trên 10 năm)

– Linh mục Phêrô Hoàng Văn Thiên (dòng Đaminh, chết tại Mỹ)

– Linh mục Phêrô Nguyễn Đình Đệ (cai quản Giáo xứ Đồng Tiến)

-Linh mục Phanxicô Nguyễn Sơn Miên (qua Mỹ và cai quản giáo xứ các Thánh Tử Đạo VN, TGP Seattle)

– Linh mục Nguyễn Văn Thông (tuyên úy nhà giam Chí Hòa trước năm 1975, chết năm 2011 tại Nam Cali)

– Linh mục Mai Đức Chương (dòng Đồng Công)

– Linh mục Phêrô Nguyễn Luân (quản xứ Thủy Lợi, bị tù 20 năm, biệt giam dài ngày, thiếu ăn, bị bệnh phổi nên kiệt sức mà chết)

– Linh mục Đaminh Ngô Quang Tuyên (đi tù 13 năm hoặc hơn, hiện là chính xứ Giáo Xứ Phú Xuân, Tổng Giáo Phận Sài Gòn, cha cũng là thành viên ban cố vấn cho Đức Tổng Năng hiện giờ)

– Linh mục Vũ Huy Chương (không rõ tt)

– Linh mục Trần Quang Điềm, Tuyên uý, chánh xứ nhà thờ Vinh Sơn, Sơn Trà , Đà nẵng

– Linh mục Phong (không rõ tt)

– Linh mục Nguyễn Văn Thế (không rõ tt)

– Linh mục Lê Quang Tạo (không rõ tt)

(Trại tù A Xuấn Phước là một trong số các trại tù khắc nghiệt nhất nước. Hầu hết tù nhân đều bị cùm, bị hành hạ, nên rất nhiều người bị thương tật, bệnh hoạn hoặc bỏ mình ở đây.)