Chính quyền Trump muốn phỏng vấn lại người tị nạn vào Mỹ thời Biden

Ba’o Nguoi-Viet

November 24, 2025  

WASHINGTON, DC (NV) – Chính quyền Tổng Thống Donald Trump chuẩn bị phỏng vấn lại một số người tị nạn được nhận vào Mỹ thời Tổng Thống Joe Biden, theo thông báo nội bộ và một người biết kế hoạch này, CNN đưa tin hôm Thứ Hai, 24 Tháng Mười Một.

Đây là một phần trong việc kiểm tra lại toàn diện hồ sơ tị nạn của những người đó.

Người xin tị nạn mong chờ vượt biên giới vào Mỹ tại cửa khẩu El Chaparral ở Tijuana, tiểu bang Baja California, Mexico, hôm 20 Tháng Giêng, 2025. (Hình minh họa: Guillermo Arias/AFP via Getty Images)

Kế hoạch này là biện pháp chưa từng thấy trong chiến dịch trấn áp nhập cư của Tổng Thống Trump – lần này nhắm những người dễ tổn thương nhất thế giới. Người tị nạn phải chứng minh họ bị bách hại hoặc có thể bị bách hại ở quê hương của họ và phải được xét duyệt nghiêm ngặt mới được nhận vào Mỹ. Thủ tục này thường kéo dài nhiều năm.

Giới chức chính quyền Tổng Thống Trump cho rằng chính quyền cựu Tổng Thống Biden không kiểm tra kỹ lưỡng những người tị nạn được nhận vào Mỹ. Từ khi nhậm chức hồi Tháng Giêng tới nay, ông Trump hầu như ngưng nhận người tị nạn, ngoại trừ người Nam Phi da trắng.

Theo dự trù, Sở Di Trú (USCIS) sẽ được giao nhiệm vụ xem xét lại hồ sơ và phỏng vấn lại một số người tị nạn được nhận vào Mỹ thời Tổng Thống Biden, theo thông báo nội bộ đề ngày 21 Tháng Mười Một, nêu lý do chính quyền phải làm như vậy để bảo đảm người tị nạn không đe dọa an ninh quốc gia hoặc an ninh công cộng. Từ năm tài chính 2021 tới 2025, khoảng 235,000 người tị nạn được nhận vào Mỹ sau khi trải qua thủ tục xét duyệt.

Suốt nhiều năm, Mỹ từng vượt xa các quốc gia khác trong việc nhận người tị nạn, cho phép hàng triệu người nhập cảnh kể từ khi có Đạo Luật Người Tị Nạn Năm 1980. Nhưng chương trình này bị ảnh hưởng đáng kể trong nhiệm kỳ đầu của Tổng Thống Trump khi ông cắt giảm mạnh số người tị nạn được nhận vào Mỹ, và trong đại dịch COVID-19, vốn khiến chương trình này tạm dừng. Cựu Tổng Thống Biden cố gắng xây dựng lại chương trình này, và cuối cùng, quyết định nhận tối đa 125,000 người tị nạn một năm. (Th.Long)


 

Nhìn tấm ảnh mà đứt ruột, đau xót tận tâm can!

Văn Hóa Việt

Nhìn tấm ảnh mà đứt ruột, đau xót tận tâm can!

Chị Nguyễn Thị Út (xã Hòa Xuân Đông, Đông Hòa, Phú Yên cũ) ngồi lặng lẽ bên chiếc xuồng. Trên đó là thi thể người cha của chị được bọc trong vải bạt và một tấm di ảnh phía trước.

Trong cơn mưa lũ vừa qua, căn nhà của ba mẹ chị nằm trơ trọi giữa cánh đồng mênh mông nước. Khi con nước dữ tràn qua, 2 vợ chồng già vẫn quyết ở lại căn nhà và mảnh vườn bên cánh đồng mà họ đã mưu sinh cả đời.

Suốt mấy ngày mưa lũ lớn, mặc dù rất nóng ruột về tình hình của ba mẹ nhưng chị không thể nào tiếp cận được. Cho đến khi cùng với lực lượng cứu hộ vào được căn nhà thì thật đau đớn khi nhìn thấy thi thể 2 đấng sinh thành nằm kẹt nơi góc nhà.

Sau cơn mưa lũ khủng khiếp mấy ngày qua, không biết đã xảy ra bao nhiêu thảm cảnh như thế.

Nguồn :  Hà Thạch Hãn


 

Vì sao miền Trung cứ mưa là lụt?

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Đàn Chim Việt

24/11/2025 

Thủy điện xả lũ

Miền Trung năm nào cũng lũ, nhưng những năm gần đây mức độ thiệt hại ngày càng nghiêm trọng. Không năm nào như năm nay. Mới vài tuần trước Hội An, Huế, Đà Nẵng nước lên ngập mái nhà chưa kịp rút hết thì giờ nước lại lên và lần này không chỉ từ Quảng Trị tới Hội An nữa mà cả nguyên một dải Nam Trung Bộ cũng đều mênh mông trong biển nước.

Chắc sẽ có nhiều người đặt câu hỏi:

Tại sao chỉ mưa vài ngày mà nhà cửa ngập tận nóc? Tại sao lũ ngày xưa không dữ như bây giờ? Và tại sao thủy điện lại luôn được nhắc đến khi xảy ra ngập lụt? Những hình ảnh ngập lụt luôn đi kèm với những hình ảnh xả lũ ào ạt.

Nếu chỉ nhìn một nhân tố riêng lẻ như mưa nhiều, sạt lở đất, thủy điện xả lũ rồi gán nguyên nhân cho một trong số chúng thì sẽ đều là cách nhìn phiến diện.

Để lý giải được nguyên nhân cho những gì đang xảy ra một cách toàn diện đầy đủ ta cần nhìn miền Trung như một hệ thống phức hợp với nhiều yếu tố liên kết với nhau, mỗi yếu tố thay đổi một chút cũng có thể làm cả hệ thống biến dạng.

Chúng ta sẽ đi qua từng tầng, từng nguyên nhân từ thiên nhiên, con người đến hạ tầng để thấy lũ lụt miền Trung không phải đơn thuần là chuyện “thiên tai” mà còn có cả “nhân họa” nữa. Thực tế những gì chúng ta đang thấy hôm nay là hậu quả của nhiều năm lệch pha giữa hệ sinh thái và cách chúng ta can thiệp vào nó.

  1. Địa hình miền Trung: chiếc phễu hứng nước tự nhiên

Miền Trung là một dải đất hẹp, một bên là biển, một bên là núi. Khoảng cách từ chân núi đến biển chỉ vài chục km. Hãy hình dung một chiếc phễu đặt nghiêng. Nước đổ xuống sẽ chảy thẳng ra đầu nhỏ rất nhanh. Theo logic đó thì với địa hình giống như chiếc phễu của Miền Trung ta sẽ thấy:

Mưa từ núi đổ xuống gần như lập tức. Không có đồng bằng rộng để “giữ nước” như miền Tây hay sông Hồng. Sông ngắn, dốc, dòng chảy mạnh. Nghĩa là nước về nhanh hơn khả năng thoát, tạo ra lũ dồn và lũ quét. Đây là “bản chất tự nhiên” của vùng đất miền Trung dài và hẹp, núi ngay sát biển.

Nhưng tự nhiên vốn có chế độ vận hành và điều hóa riêng của nó. Nếu nhìn lại lịch sử chúng ta sẽ thấy ngày xưa, dù mưa lớn vẫn ít khi ngập sâu như bây giờ. Vấn đề nằm ở những thay đổi chúng ta tạo ra.

Nếu chiếc phễu nghiêng 

  1. Rừng mất, tầng đệm hấp thu biến mất

Nếu chiếc phễu nghiêng đó có tấm mút xốp lót phía trên, thì nước sẽ được thấm từ từ, giảm sốc. Rừng chính là tấm mút đó. Khi rừng dày, nước mưa được giữ lại trên tán lá và thấm vào đất rồi chảy xuống dần dần

Nếu rừng bị khai thác quá mức, hoặc thay thế bằng rừng trồng kinh tế (cây non, tán thưa, đất nghèo), thì nước không còn “bị giữ lại”. Nó đổ thẳng xuống sông.

Đất miền Trung lại rất mỏng. Khi mất rừng, mưa xuống là trôi bề mặt, chứ không thấm được. Giống như đổ nước lên nền xi măng nước tràn đi ngay.

Kết quả: lũ đến nhanh, mạnh và bất thường.

  1. Sông bị thay đổi dẫn đến mất khả năng tự điều hòa

Nguyên nhân bị sông bị thay đổi thì lý do chính là ở các hệ thống thủy điện và hồ thủy lợi.

Hồi học cấp 2 mình nhớ các thày cô giáo dạy là thủy điện là một phát minh tuyệt vời và chỉ có lợi không có hại, nó là minh chứng cho việc con người cải tạo thiên nhiên vừa làm ra điện, vừa giúp trị thủy điều tiết dòng nước làm giảm lũ lụt. Và đã rất nhiều năm mình cũng tin vào điều đó mà không kiểm chứng lại thông tin cho đến sau này khi đọc báo thấy nhiều nước châu Âu và Mỹ người ta dỡ bỏ dần các công trình thủy điện để trả lại môi trường thì mới thắc mắc và đi tìm câu trả lời.

Và kết quả là sau khi tìm hiểu thì mình biết rằng các nước phát triển bỏ thủy điện đã và đang dỡ bỏ thủy điện không phải vì họ “không cần điện nữa”, mà vì hiểu biết hệ thống của họ đã thay đổi. Họ phát hiện rằng thủy điện mang lại điện rẻ trước mắt nhưng gây chi phí hệ thống rất lớn về lâu dài. Khi tổng chi phí ấy vượt quá lợi ích, họ chọn tháo dỡ. Thủy điện cắt đứt dòng chảy tự nhiên, giữ phù sa, làm nước tù, nhiệt độ thay đổi.

Nhiều nước nhận ra điều này khi thấy cá tuyệt chủng hoặc giảm 80–95%, sông mất khả năng tự làm sạch, đất ngập nước và rừng ven sông biến mất. Chi phí phục hồi hệ sinh thái còn lớn hơn chi phí vận hành thủy điện.

Sông tự nhiên có ba chức năng quan trọng là mang nước, mang phù sa và tự đào sâu, tự bồi để ổn định lòng sông.

Khi hệ thống thủy điện xây dựng dày đặc, những chức năng này bị phá vỡ. Phù sa bị giữ lại trong hồ, khiến lòng sông ở hạ du sâu hơn, yếu hơn. Bờ sông dễ sạt lở không còn phù sa bồi ruộng, dẫn tới đất bạc màu

Tệ hơn, hồ chứa dần bị bồi lắng, giảm dung tích chứa nước. Khi mới xây thì dung tích hồ chứa rất lớn nhưng càng ngày theo thời gian phù sa không chảy theo dòng mà đọng lại trong hồ thành trầm tích chiếm dụng không gian lòng hồ dẫn đến dung tích chứa hồ bị thu hẹp lại. Khi mưa đến, hồ nhanh đầy hơn thì ban quản lý buộc phải xả nước nhanh hơn tạo ra dòng lũ nhân tạo dồn dập.

Sông vốn có nhịp điệu tự nhiên của nó nhưng một khi bị khóa lại bằng đập, nó mất đi khả năng tự điều hòa. Khi phù sa không xuống được hạ du nó bờ sông bị xói, lòng sông sâu và khi chảy ra biển thì làm bờ biển lún, cầu cống, đường sá bị phá hủy nhanh. Ở Mỹ và châu Âu, nhiều cây cầu phải sửa liên tục chỉ vì các đập giữ trầm tích. Chi phí bảo trì này vượt xa tiền bán điện nên họ bỏ thủy điện.

Thủy điện là công trình có vai trò hai mặt đem lại lợi ích lớn nhưng rủi ro hệ thống rất lớn.

Nhiều nước phát triển nhận ra hồ chứa có giới hạn. Thời điểm mưa cực đoan và bão ngày càng khó dự đoán rủi ro vỡ đập ngày càng tăng, rủi ro xả lũ khẩn cấp gây thảm họa hậu quả nếu xảy ra sự cố là không thể chấp nhận được đối với dân cư đông đúc. Tháo dỡ đập sẽ làm giảm các tình huống rủi ro khẩn cấp đến mức thấp nhất.

Nói thế này nhiều người nhầm rằng thủy điện gây lũ. Nguyên nhân sâu xa thì vẫn là từ mưa, lượng nước nhiều. Thực tế, bản thân thủy điện không tạo ra nước nhưng nó làm cho dòng nước trở nên hung dữ hơn. Quả thực thủy điện làm thay đổi cách nước đi qua hệ thống nên có thể làm cho lũ lụt trở nên trầm trọng hơn. Thông thường nếu mọi thứ vận hành theo tự nhiên khi có lũ nước sẽ tăng từ từ và có độ trễ lớn hơn khi chảy về đồng bằng, xuôi ra biển.

Nếu không có đập nước thì đường đi của nước sẽ là: Nước mưa thấm vào đất chảy ra suối đổ ra sông. Quá trình này có thời gian trễ tự nhiên dài, nước lên từ từ, đỉnh lũ tăng dần.

Còn đây là tình trạng của lũ có thủy điện: Nước dâng đột ngột, dồn một cục. Khi hồ đầy sẽ rơi vào tình thế lưỡng nan là

Nếu xả ít thì có nguy cơ vỡ đập mà nếu xả nhiều thì sẽ ngập hạ du. Cuối cùng người ta thường buộc phải chọn “phương án ít tệ hơn” là xả nhiều. Và khi xả thì lưu lượng tăng đột biến làm nước đổ xuống trong vài giờ thay vì vài ngày tạo “cú sốc thủy lực” thay vì một quá trình từ tốn.

Trong khoa học hệ thống, đây gọi là spike shock: cú đột biến phá vỡ mọi cân bằng.

Tại sao thủy điện càng nhiều, lũ càng nặng?

Vì các hồ chứa nối tiếp nhau theo chuỗi. Chỉ cần một hồ đầy và xả, hồ dưới cũng phải xả theo. Toàn bộ chuỗi hồ vận hành như một “dòng domino thủy lực”. Vùng hạ du là nơi đông dân nhất sẽ chịu tất cả hậu quả.

  1. Đô thị hóa bóp nghẹt mọi đường thoát nước

Ngày xưa nước tràn ruộng, tràn ao, tràn cánh đồng, rồi mới vào nhà dân. Ngày nay bê tông hóa, nhà cửa san sát, ruộng biến thành khu dân cư, ao hồ bị san lấp, cống quá nhỏ so với lượng mưa mới. Nước không còn nơi tạm trú. Nó chỉ có một con đường duy nhất: tràn thẳng vào phố.

Hệ thống thoát nước đô thị miền Trung vốn thiết kế theo dữ liệu khí hậu cũ, khi mưa cực đoan còn hiếm. Giờ khí hậu đã đổi nhưng hạ tầng thì chưa. Khi không gian hấp thu biến mất, lũ không còn “đi vòng được”, và mọi nơi thấp đều trở thành hố nước.

  1. Biển chặn đường nước bị dồn nghẽn hai chiều

Các thành phố miền Trung đều nằm ở cửa sông. Khi mưa từ núi đổ xuống, triều biển dâng lên, gió mùa đẩy nước biển vào. Ta có hiện tượng kẹt hai đầu: nước từ thượng nguồn không thoát ra được, nước biển dâng lên chặn ngang như đóng một cái van. Cửa sông tắc nghẽn nước dâng đứng.

Đây là lý do Đà Nẵng, Huế, Hội An… rất dễ ngập dù hệ thống thành phố hiện đại hơn các tỉnh khác.

  1. Biến đổi khí hậu: những trận mưa “không thuộc sách giáo khoa”

Tần suất mưa cực đoan đang tăng. Ngày xưa một trận mưa 300–400 mm phải 10 năm mới gặp. Giờ 1 đến 2 năm lại xuất hiện. Nếu hệ thống thiết kế để chịu “trận lũ 10 năm”, nhưng mỗi năm lại có một trận tương tự, thì hệ thống chắc chắn vỡ. Biến đổi khí hậu không gây lụt trực tiếp. Nó làm mọi rủi ro có sẵn trở nên sắc bén và khó lường hơn.

  1. Tổng hợp lại: Vì sao miền Trung ngập nặng?

Vì nhiều yếu tố lệch pha cùng lúc:

Rừng suy yếu làm mất khả năng thấm. Đất trơ trọi làm nước trôi bề mặt. Sông bị chặn dẫn đến mất cân bằng phù sa. Thủy điện đầy nước mà không có lựa chọn khác luôn xả khẩn cấp khi có áp lực. Đô thị hóa phá hết vùng chứa nước và thủy triều biển dâng chặn đường thoát

Càng ngày càng có nhiều cơn mưa cực đoan dồn toàn bộ năng lượng vào hệ thống đã suy. Lũ không còn là “nhiều nước”, mà là nhiều nước đi vào một hệ thống không còn chỗ cho nó. Hệ thống mất khả năng chống sốc, nên chỉ cần một tác nhân như mưa lớn là đủ gây thảm họa.

GIẢI PHÁP NHƯ THẾ NÀO?

Giải pháp dài hạn để giảm lũ miền Trung: chỉ có thể làm bằng tư duy hệ thống

Muốn miền Trung hết cảnh cứ mưa là ngập, không thể sửa một chỗ. Phải “chỉnh lại cả dàn nhạc” từ rừng, đất, sông, hồ đến đô thị và biển. Mỗi nơi một chút, nhưng khi kết hợp thành mạng lưới, chúng tạo ra sức mạnh lớn hơn rất nhiều.

  1. Khôi phục “tấm mút” tự nhiên: rừng giữ nước, đất giữ nước.

Nếu rừng là cái mút xốp thì ngược lại rừng trọc là nền xi măng. Muốn giảm lũ, bước đầu tiên phải làm cho nước thấm chậm lại.

Các giải pháp căn cơ: phục hồi rừng tự nhiên thay vì chỉ trồng rừng kinh tế, tăng diện tích rừng phòng hộ đầu nguồn ,xây “đê mềm” bằng cây cối và hệ sinh thái thay vì bê tông và hạn chế phá rừng làm nương, làm dự án ngắn hạn

Hiệu quả không thấy ngay. Nhưng chỉ cần 5 đến 7 năm, đất vùng đồi núi sẽ tăng khả năng giữ nước gấp nhiều lần. Khi rừng khỏe, đất ẩm nước xuống sông chậm thì lũ sẽ thấp. Đây là vòng lặp giải nguy đầu tiên.

  1. Trả lại nhịp điệu tự nhiên cho sông

Sông là một sinh vật sống. Nó đào, nó bồi đắp, nó uốn cong để tự điều hòa. Khi bị chặn bằng đập, nó mất chức năng đó.

Giải pháp:

Duy trì lượng xả đáy để đưa phù sa về hạ du, ưu tiên nạo vét hợp lý, khôi phục các nhánh sông cũ. Không bê tông hóa toàn bộ bờ sông, giữ không gian cho sông “thở”. Mở lại một số vùng trũng tự nhiên làm nơi chứa nước tạm thời. Sông được trả lại không gian thì lũ có chỗ tản sẽ làm đỉnh lũ giảm mạnh.

  1. Điều độ thủy điện theo “nguyên lý dòng chảy chậm”

Hiện tại chúng ta vẫn còn cần thủy điện vì chưa đủ điều kiện thay thế như các nước phát triển nhưng cũng cần thay đổi cách vận hành bởi vì cách vận hành hiện nay giống như để hồ đầy gặp mưa lớn xả gấp cho kịp. Đây là cách dùng hồ chứa như một cái cốc tràn: dẫn tới cú sốc nước khổng lồ.

Giải pháp hệ thống là

Bắt buộc hạ mực nước hồ xuống trước mùa mưa (giảm 15–25% dung tích tối đa)

Thiết lập quy trình xả sớm, xả nhỏ, xả theo nhịp tự nhiên

Liên thông dữ liệu giữa các hồ theo chuỗi để tránh domino xả lũ. Mấu chốt không phải “xả ít hay nhiều”, mà là xả theo kiểu từ tốn, giống lũ tự nhiên. Dòng nước chảy từ tốn thì hạ du không vỡ vụn.

Có hệ dự báo thời tiết chính xác tới từng giờ và từng lưu vực, cần sớm ứng dụng AI vào dự báo thời tiết, các nước khác đã có dự báo chính xác hơn nhiều khi áp dụng AI.

  1. Mở lại không gian cho đồng bằng: cần chỗ trữ nước khi lũ về

Đồng bằng miền Trung hẹp, nhưng vẫn có những vùng trũng, ao hồ, đầm phá từng làm “túi chứa nước” tự nhiên. Khi đô thị hóa lột mất các vùng trũng đó, thì nước không có chỗ đứng.

Giải pháp:

Đào các “hồ sinh thái”, “hồ điều hòa” xen trong đô thị để chứa nước. Không san lấp ao hồ, mà kết nối chúng thành hệ thống chứa lũ.

Khôi phục vùng ngập lũ tự nhiên (floodplain) đưa những khu dân cư trũng thấp vào kế hoạch giãn dân hoặc nâng nền

Một thành phố có đủ không gian chứa nước thì lũ đến chỉ là “nước mưa nhiều”, không phải thảm họa.

  1. Thoát nước đô thị phải dựa trên nhận thức về tình hình khí hậu mới, không phải dựa trên nhận thức về tình trạng khí hậu cũ.

Cống thoát nước ở nhiều TP miền Trung được thiết kế cho cường độ mưa của 30–40 năm trước. Nhưng khí hậu đã đổi nhanh hơn hạ tầng.

Giải pháp:

Nâng chuẩn thiết kế thoát nước theo mưa cực đoan 300–500 mm/24h

Làm mương hở và hành lang thoát nước thay vì cống nhỏ

Tăng diện tích bê tông thấm nước và vật liệu thấm

Làm “đường thoát lũ” khẩn cấp trong đô thị

Không có hệ thống thoát nước mới, mọi giải pháp khác chỉ chữa phần ngọn.

  1. Quản lý sông, rừng, hồ theo một mạng lưới duy nhất

Lũ không đi theo ranh giới hành chính. Nó đi theo độ dốc, lưu vực và đường dòng chảy nhưng có một khó khăn là hiện nay:

Rừng do lâm nghiệp quản, hồ do thủy điện quản còn lũ do chính quyền tỉnh xử lý. Chúng ta không có một mạng lưới chung. Đây là điểm nghẽn lớn nhất.

Giải pháp:

Lập cơ quan quản lý lưu vực thống nhất theo từng sông

Hồ chứa được vận hành theo mục tiêu an toàn hệ thống, không chỉ theo doanh thu điện

Dữ liệu thời tiết, mực nước, xả lũ kết nối realtime cho mọi bên

Khi cả hệ thống nhìn chung 1 bản đồ, lũ sẽ dễ kiểm soát hơn rất nhiều.

  1. Chuẩn bị cho tương lai: mưa cực đoan sẽ còn tăng

Biến đổi khí hậu làm miền Trung thành “điểm nóng mưa lớn ngắn hạn” của khu vực. Cần chấp nhận rằng mưa 300–400 mm/24h giờ đã là bình thường. Bão ít đi nhưng mưa sau bão mạnh hơn. Dải hội tụ nhiệt đới xuất hiện bất thường và chúng ta không thể dựa vào kinh nghiệm cũ để đoán lũ mới

Giải pháp:

Xây bản đồ rủi ro nước theo năm, theo mùa. Có hệ thống cảnh báo sớm từng giờ mô phỏng lũ bằng mô hình số 3D. Cũng cần đưa giáo dục an toàn nước vào trường học để nâng cấp dần kỹ năng “sống chung với lũ” cho người dân để không ai bị bất ngờ.

Lũ không bao giờ biến mất. Nhưng thiệt hại có thể giảm xuống 10 lần nếu chuẩn bị đúng cách.

Tổng kết lại nguyên nhân của tình trạng hiện nay là

Thiên tai + Hệ thống suy kiệt dễ tổn thương = Thảm họa.

Nhưng chúng ta vẫn có lựa chọn khác nếu hành động đúng.

Thiên tai + Hệ thống khỏe = Thử thách có thể vượt qua

Nói tóm lại là: Muốn bớt lũ, phải thuận theo tự nhiên, theo ông trời. Ngôn ngữ hệ thống gọi là phải bớt lệch pha với tự nhiên, cố gắng đồng bộ với hệ sinh thái.

FB Thành Nguyễn


 

Nghị lực phi thường không phải là mạnh mẽ từ đầu

Vạn Điều Hay

Nghị lực phi thường không phải là mạnh mẽ từ đầu, mà là vẫn kiên cường dù không còn chút sức lực nào

Chiều hôm ấy, nước lũ bất ngờ dâng cao. Giữa cánh đồng heo hút, căn nhà nhỏ của chị đứng chơ vơ trong tiếng gió rít và trời sầm tối. Một linh cảm chẳng lành len vào tim chị khi thấy nước mỗi lúc một dữ dội. Không kịp nghĩ ngợi, chị chỉ kịp đưa hai đứa nhỏ leo lên mái nhà, mặc cho toàn bộ đồ đạc bị dòng nước cuốn trôi trong khoảnh khắc.

Cha chồng đã gần 80 tuổi. Khi nước bắt đầu dâng, ông cụ cố đi tìm chỗ trú vì sức yếu, không thể leo lên mái nhà.

Mưa như dội thẳng từ trời xuống. Trong tích tắc, căn nhà chìm sâu trong biển nước. Ba mẹ con co ro trên tấm mái tôn lạnh buốt, bốn bề chẳng còn bóng người. Không điện, không đèn, không ai qua lại, chỉ có bóng tối và tiếng mưa gào thét. Chị vừa run vừa khóc, nhưng vẫn cố gắng ôm chặt hai con vào lòng, dỗ dành trong tuyệt vọng. Hai đứa nhỏ chỉ biết co cụm bên mẹ, run bần bật. Hình ảnh ấy khiến bất cứ ai nhìn thấy cũng nhói lòng.

“Ban đầu nước chỉ ngập thấp, tôi còn ráng kê đồ lên cao. Ai ngờ nước lên nhanh quá, không kịp trở tay. Cửa bật tung, mọi thứ trôi theo dòng nước. Tôi chỉ ôm được hai đứa trèo lên nóc nhà, mang theo đúng hai lốc sữa để tụi nhỏ cầm cự”, chị kể, giọng còn run rẩy.

Trên nóc nhà trần trụi, chiếc áo mưa mỏng chẳng đủ che mưa gió. Ba mẹ con trải trọn đêm dài, vừa lạnh vừa đói, vừa sợ hãi. Chị gửi lời cầu cứu lên mạng; dòng tin nhắn của chị được chia sẻ khắp nơi, nhưng nhiều giờ trôi qua vẫn chưa có hồi đáp.

“Tôi sợ hai đứa nhỏ không chịu nổi. Tụi nhỏ lạnh xanh mặt. Tôi chỉ biết ôm con mà khóc. Mỗi giờ trên mái nhà dài như một ngày”, chị nói.

Sau 27 tiếng chênh vênh giữa trời nước, cuối cùng lực lượng cứu hộ cũng tìm đến. Ba mẹ con được đưa đến vùng cao an toàn. Hai đứa trẻ được ủ ấm, cho ăn, tinh thần dần ổn định sau ký ức kinh hoàng.

Ở trong Nam, chồng chị như “ngồi trên lửa”. Đường sá tê liệt, xe cộ không lưu thông, anh không thể mua nổi một tấm vé về quê. Anh đành mượn xe máy của người quen, vượt gần 400 km giữa mưa gió, chỉ với một ý nghĩ duy nhất: phải về với vợ con. Trên đường trở về quê, anh nhận được cuộc gọi báo tin cha mình đã bị nước cuốn và ra đi mãi mãi.

Khi đặt chân về đến quê, nhìn thấy vợ và hai con bình an, anh chỉ kịp ôm chầm lấy ba mẹ con mà nghẹn ngào:

“Còn người là mừng rồi…”

Cơn lũ đi qua, họ mất cha già, mất nhà cửa, mất sạch tài sản tích cóp bấy lâu. Anh ở lại quê, cùng vợ dọn dẹp và cúng thất cho cha. Lòng anh rối bời, chưa biết tương lai sẽ ra sao. Nhưng trong phút giây này, với anh, việc còn vợ con ở bên là điều quý giá nhất.

Giữa hoang tàn, còn lại một điều không gì đánh đổi được – Đó là sự sống.

Và cũng trong những ngày nghiệt ngã ấy, người ta thấy rõ một điều:

Nghị lực phi thường không phải là mạnh mẽ từ đầu. Mà là, dù sợ hãi, dù kiệt sức, dù tưởng như chẳng còn chút hơi tàn — người mẹ ấy vẫn không buông tay con, vẫn tiếp tục sống, tiếp tục kiên cường.

(Câu chuyện của chị Đỗ Thị Hồng Đào (SN 1994) ở xóm Bầu Trạnh, xã Hòa Mỹ, Đắk Lắk.)

Khai Tâm biên tập

(Ảnh và tư liệu lấy từ trang Dân Trí)


 

Chị Diễm bám lấy cây nhàu suốt hai ngày hai đêm.

Nguyễn Thị Bích Hậu

 Nhà báo Lê Anh Đủ đang ở Tuy An, Phú Yên. Một xã mà anh nói với mình có rất nhiều suối, một vùng trũng. Lũ về vừa rồi có nhiều người tử vong.

Những hình ảnh dưới đây là của anh chụp tại Tuy An. Người phụ nữ trong hình là chị Nguyễn Thị Diễm ở thôn Tuy An Đông.

Cơn lũ vừa qua, nhà tan cửa nát, chị sống sót được là vì trèo lên cây nhàu trong sân nhà, rồi ở trên đó 2 ngày 2 đêm trong mưa lũ ngút trời trước khi được giải cứu. Trong thời gian đó, chị kiên cường bám víu sự sống và tụng chú Đại Bi.

Có lẽ Trời Phật đã nghe thấu tiếng kêu cứu tuyệt vọng trong tâm tưởng người phụ nữ đó mà cho chị được sống.

______________________

Anh Lê Anh Đủ viết trên trang của TT BSA những dòng rất xúc động:

“Từ trên cao, chị nhìn thấy mái nhà của mình nghiêng dần rồi đổ sập. Khoảng cách đến nhà hàng xóm chỉ vài chục mét, nhưng sức nước không cho ai tới gần.

Người dân đứng trên mái nhà bên kia dòng nước chỉ có thể dùng đèn pin ra hiệu và hét sang trong tiếng gió: “Bà ôm cây cho chắc. Ráng lên. Buông tay là chết đó”.

Dưới ánh sáng chập chờn, Diễm chứng kiến những gì chưa từng thấy trong đời: một con bò bị cuốn trôi, vừa rống lên vừa xoay vòng giữa dòng nước. Vài giây sau, tiếng rống tắt lịm. Một con nữa. Rồi một con nữa. Đàn bò bị nước nhấn chìm, tiếng kêu vang qua màn đêm khiến chị chỉ biết ôm chặt cành cây mà bất lực nhìn theo.

Lũ ập đến như muốn xé toạc làng mạc. Nước dội mạnh vào tường những ngôi nhà còn sót lại, kéo sập từng mảng lớn.

Chị Diễm bám lấy cây nhàu suốt hai ngày hai đêm. Không thức ăn. Không nước uống. Chỉ có âm thanh của dòng nước và cảm giác cái lạnh bám lấy từng thớ thịt.

Tô mì nóng đầu tiên sau khi được cứu khiến chị bật khóc. Giữ được mạng, nhưng tất cả những gì dành dụm qua hàng chục năm mưu sinh – chiếc bếp gas, tủ lạnh nhỏ, vài bộ quần áo – đều đã theo con nước trôi đi.

Mâý ngày sau, chị được nhà chùa gần đó cưu mang, rồi phải điều trị vì suy kiệt…

Chị nói với chúng tôi: “Giờ tui mới thấy mạng sống giá trị. Tui sẽ chăm sóc cái cây nhàu cứu mạng tui”.

_________________

Mình đọc những dòng này từ chiều nay và nghĩ miên man về chị Diễm, về những người nông dân kiên cường miền Trung.

Trên gương mặt có họ có biết bao nhiêu sự chịu đựng, biết bao sự dồn nén để gắng sống sót qua mọi thiên tai địch họa, qua mọi biến cố của kiếp người.

Họ là đồng bào của chúng ta.


 

CHUYỆN NHỮNG NGƯỜI VỢ LÍNH VNCH

Xuyên Sơn

 CHUYỆN NHỮNG NGƯỜI VỢ LÍNH VNCH

1.Vợ Lính Thời Chinh Chiến…

Thôn Nữ Bàu Trai

Lời Giới Thiệu:

Tác giả bài viết này là một phụ nữ sinh trưởng ở Bàu Trai, miền Đông Nam Phần.

Đây là một địa danh mà các quân nhân từng hành quân ở vùng 3 chiến thuật đều quen biết.

Từ câu chuyện tình đơn sơ, một thiếu nữ hiền lành trở thành người vợ lính thời chiến. Đời sống gia binh, người chồng chuẩn bị đi hành quân, tiếng khóc của góa phụ nhà kế bên, tiếng xe Jeep của chàng trở về chạy trên sân sỏi, tiếng súng đêm đêm vọng lại, những lần từ biệt vội vàng, các chuyến về thăm nhà bất chợt giữa các trận đánh.

Người vợ lính với 20 năm khắc khoải, hạnh phúc đếm từng ngày để đến lúc tan hàng lại tiếp tục lo cho chồng đi cải tạo.

Chúng ta đã từng đọc các trang sử chiến tranh của nam nhi thời binh lửa. Bây giờ xin một lần đọc để thông cảm cho những giọt lệ của phụ nữ VN trong vai trò vợ lính thời chinh chiến.*

      Trong các chị em gái của gia đình, tôi là đứa con gái nhút nhát nhất.

Tôi không thích xem phim chiến tranh, sợ nghe tiếng súng nổ, nên tôi không mong muốn lấy chồng nhà binh như phần đông các cô gái khác thích những chàng trai trong bộ quân phục oai hùng. Có lẽ tôi chịu ảnh hưởng của Ba tôi.

Ba tôi là viên chức hành chánh, ông thường than phiền một số sĩ quan trẻ ngang tàng và lái xe ẩu.

     Một đêm khuya sau Tết Mậu Thân năm 1968, chúng tôi nghe tiếng gõ cửa, Ba tôi cẩn thận đuổi chị em tôi vào phòng, đóng cửa kỹ lại.

Ông bỏ cây súng nhỏ vào túi quần và ra mở cửa. Một sĩ quan trẻ tuổi mặc rằn ri vào xin cho binh sĩ đóng quân trong khu vườn nhà tôi và cho cấp chỉ huy của họ ở tạm trong phòng khách.

Lúc đó Ba tôi mới yên tâm biết là đơn vị đi hành quân về đến đây tìm chỗ nghỉ quân.

      Lính ở đầy trong khu vườn nhà tôi nhưng không phá phách gì như một số người đồn đại.

Riêng vị sĩ quan ở trong phòng khách nhà tôi với cái ghế bố nhà binh nhỏ bé, nằm khiêm nhượng ở một góc phòng. Cuộc sống gia đình tôi không có gì thay đổi khi có mặt vị sĩ quan này.

Chúng tôi lịch sự không đi tới lui trong phòng khách.

Ban đêm thỉnh thoảng chúng tôi nghe những câu hát vu vơ hoặc vài câu vọng cổ của các người lính trẻ than thở nhớ gia đình và người yêu.

Chúng tôi thông cảm và thương mến họ hơn.

 Dần dần ba mẹ tôi có cảm tình với vị sĩ quan chỉ huy. Những lúc rảnh rỗi, ông đến nói chuyện hoặc được ba tôi mời ăn cơm gia đình.

Ông sĩ quan này mượn phòng khách để làm nơi hội họp của bộ chỉ huy, nhờ thế gia đình tôi quen biết thêm vài sĩ quan nữa.

Câu “quân dân như cá nước” là đúng, chúng tôi thân tình rất mau,

có những bữa ăn hoặc những buổi tối ngồi chung để xem ti vi thật vui vẻ. Quan niệm không tốt về nhà binh, cảm giác sợ sệt những người lính chiến trong bộ quân phục rằn ri không còn nữa.

      Cũng nhờ dịp đơn vị dừng quân, tôi đã gặp nhà tôi sau này.

Anh là một trong các sĩ quan trẻ của đơn vị. Chúng tôi biết nhau qua sự giới thiệu của vị sĩ quan quen thân với gia đình như đã kể trên.

Một thời gian sau chúng tôi thương nhau và anh xin làm đám hỏi sớm để còn lên đường đi hành quân.

Có lần anh nói, gia đình hối thúc cưới vợ, nhưng “Đời lính tác chiến xa nhà, ra đi không chắc có ngày trở lại, cưới vợ chỉ làm khổ cho người đàn bà.”

Và anh không muốn vướng bận thê nhi trong thời ly loạn.

Sau đó anh đi hành quân liên tục, thỉnh thoảng tôi chỉ nhận được thư.

Hơn một năm sau đơn vị anh về đóng quân tại Biên Hòa gần Sài Gòn,

đây là dịp tiện lợi để chúng tôi tổ chức đám cưới.

      Tôi theo chồng về ở căn nhà trong trại quân đội. Bây giờ tôi cảm thấy hạnh phúc nhất, ngoài gia đình cha mẹ thương yêu, tôi còn có người chồng tính tình trầm tĩnh, hòa nhã với mọi người.

Sau những ngày nghỉ phép cưới vợ, anh trở lại cuộc sống nay đây mai đó, anh đi ba bốn tháng mới về một lần hoặc lâu hơn tùy tình hình chiến sự.

       Khi anh chuẩn bị đi hành quân tôi không hề biết trước nhưng dễ nhận ra ngay.

Tôi thấy những binh sĩ làm việc với anh lăng xăng dọn dẹp chuẩn bị quân trang. Nhưng tôi vẫn mong mình nghĩ lầm.

Anh trở về nhà gương mặt đượm nét quan trọng, ít nói với tôi hơn.

Bận rộn với giấy tờ, điện thoại và dặn dò người này người kia liên tục.

Tôi hiểu anh không có thì giờ để nghĩ đến gia đình. Tôi không quấy rầy anh, tôi luôn luôn nhớ lời dạy bảo của ba tôi trước khi tôi đi theo chồng: 

“Con đừng bao giờ xen vào công việc của chồng con.”

Ăn cơm tối xong anh tiếp tục chuẩn bị tài liệu. Tôi buồn vì sắp phải xa chồng, không biết làm gì hơn là ngồi sau lưng anh, áp má vào sau lưng anh im lặng. Anh làm việc đến gần nửa đêm, xong anh kêu tôi lại ghế salon ngồi, anh dặn dò mọi việc ở trong nhà, có buồn trở về nhà cha mẹ chơi, nhất là phải cất kỹ tờ giấy hôn thú.

Tôi hiểu anh muốn ám chỉ điều gì, tôi nghe lòng tê tái.

Tôi có bao giờ nghĩ đến mười hai tháng lương tử tuất để thành góa phụ!

Không, tôi chỉ cần chồng tôi. 

     Sau đó chúng tôi chỉ ngủ được vài giờ. Ba giờ sáng trong sân trại rầm rộ tiếng xe, tiếng nói ồn ào của lính.

Trong cảnh lờ mờ tối, tôi nhìn ra sân thấy những người lính, lưng đeo ba lô nặng nề, đầu đội nón sắt.

Trong số đó sẽ có người không trở lại. Quang cảnh này trái hẳn với những ngày đại lễ, những người lính trong bộ quân phục thẳng nếp, tay cầm súng đi diễn hành rất đẹp.

    Khi chồng tôi bắt đầu mặc áo giáp, đeo súng ngang hông, lòng tôi tê tái, có một cái gì đó làm cho tôi bất động, chỉ biết nhìn anh và im lặng.

Sau cùng anh đội nón sắt và đưa tay vỗ vào má tôi nói: 

“Thôi anh đi”.

Anh không có những cử chỉ âu yếm hơn, những lời từ giã nhiều hơn như những lần anh đi làm việc bình thường hay đi ăn cơm với bạn bè.

    Anh sợ làm tôi khóc.

Tôi muốn nói anh cố sớm trở về với em, nhưng càng dặn dò càng đau lòng trong buổi chia tay.

Tôi cố gắng không cho nước mắt trào ra. Tôi nhìn anh thật kỹ, để hình ảnh anh in sâu mãi trong lòng tôi.

Tôi thầm nghĩ, không biết lần này anh có còn trở về không?

Không thể chờ xe anh khuất bóng, tôi chạy vội vào giường khóc nức nở. Cảnh này cứ diễn đi diễn lại trong cuộc đời làm vợ lính của tôi.

Có lần tôi nói với anh, khi đi hành quân cho em biết trước để em chuẩn bị tư tưởng cho đỡ sợ. Nhưng có lẽ vì bí mật quân sự hoặc cuộc hành quân gấp rút, anh chẳng bao giờ chiều tôi chuyện đó.

       Mỗi lần nghe có tin đơn vị anh đụng độ lớn tôi chỉ biết vào phòng âm thầm cầu nguyện, lo sợ gặp những sĩ quan đến báo tin buồn.

Có lúc anh về thăm tôi thình lình. Mừng rỡ không được kéo dài bao lâu lại nghẹn ngào vì anh ra đi sớm hơn lời hứa. Một buổi chiều anh về và nói chiều mai mới đi.

Tôi vui mừng vì trưa mai vợ chồng tôi sẽ có chung bữa cơm với nhau.

Nhưng đến tối có tiếng điện thoại, anh nghe xong nói với tôi sáng sớm mai anh phải đi.

Thế là mất một đêm hạnh phúc, chỉ có tiếng than thở và tiếng nức nở của tôi.

       Khi tôi có thai được sáu tháng, lúc đó anh đóng quân tại Bến Tre,

anh biết gia đình tôi có quen thân với ông bà bác sĩ tại Mỹ Tho.

Anh hẹn gặp tôi tại đó để anh đến thăm vì từ Bến Tre chỉ qua một cái phà là đến Mỹ Tho. Anh cho biết sẽ ở chơi từ trưa đến chiều mới đi.

Sáng ngày ấy ba tôi chở tôi xuống Mỹ Tho, sẵn ba tôi thăm lại người bạn cũ. Tôi gặp anh ngượng ngùng mắc cỡ với cái áo bầu khoác ngoài. Tuy là vợ chồng nhưng ít khi sống gần gũi nhau nên đối với anh đôi khi tôi vẫn còn e thẹn.

Sau khi chúng tôi hàn huyên được nửa giờ, chúng tôi dùng cơm trưa, tuy có mặt ba tôi và hai ông bà bác sĩ nhưng tôi cũng cảm thấy hạnh phúc lắm.

Bữa cơm chưa xong, chồng tôi có máy truyền tin gọi trở về đơn vị, vậy là anh lại đi ngay.

Tôi tiếp tục dùng cơm, nhưng món ăn trở nên lạt lẽo, dầu bà bác sĩ nấu rất ngon. Thương con, ba tôi cáo biệt về Sài Gòn sau buổi cơm.

Trên xe ông nhìn tôi và vuốt tóc thông cảm.

       Một đêm tôi đang ngủ bỗng giật mình thức giấc bởi tiếng khóc thảm thiết của bà hàng xóm, tôi vội đến cửa sổ nhìn ra ngoài để xem chuyện gì xẩy ra. Bên ngoài đêm tối yên tĩnh bị đánh tan bởi tiếng khóc của người vợ trẻ vừa được tin chồng tử trận ngoài chiến trường, cùng đi hành quân chung đơn vị với chồng tôi.

Chị khóc lóc, kêu gào, gọi tên chồng nhưng chồng chị sẽ mãi mãi không trở về nữa.

Tôi trở lại giường nằm nhưng không ngủ được, tôi thương cho người đàn bà góa phụ kia và lo sợ cho bản thân mình.

       Sáng hôm sau người vợ trẻ đầu phủ khăn tang, gương mặt xanh xao cùng với bà mẹ già đi lãnh xác chồng theo sau hai đứa con khoảng ba, bốn tuổi, đầu chít khăn trắng.

Chúng nó vô tư không biết gì, thật ra ba chúng đi hành quân luôn, ít khi ở nhà. Bây giờ không có lời an ủi nào làm chị vơi được nỗi buồn, chỉ mong thời gian sẽ hàn gắn vết thương lòng của chị mà thôi.

Sau này chị kể, chị nghe tiếng chim cú kêu chiều hôm đó, chị nghĩ có điều xui rồi. Tôi không bao giờ tin dị đoan, tôi không xem bói vì thầy bói nói vui tôi không tin, nói buồn tôi phải bận tâm lo lắng, nhưng bây giờ tôi lại sợ tiếng cú kêu.

       Một chị bạn quen, chồng cũng là bạn thân với chồng tôi, nhà ở trong

cư xá đối diện, với ba đứa con nhỏ. Chồng đi hành quân không chắc có ngày về, tinh thần của chị ngày càng suy nhược, cộng thêm những lần thay mặt gia đình đi dự đám tang quá nhiều bạn bè thân thiết bị tử trận.

Tinh thần đã sẵn yếu, ngày càng trở nên suy sụp.

Lúc ở Việt Nam, bác sĩ phải cho uống thuốc an thần. Sau này may mắn được di tản qua sống ở Mỹ nhưng rồi cũng không tránh khỏi bệnh nan y Alzheimer, chị hoàn toàn mất trí, thể xác trông cậy vào người chồng thủy chung, ngày xưa là người chỉ huy chiến trận tài ba, bay giờ biến thành người y tá tận tụy và hy sinh nhẫn nại cho người vợ tào khang, quen biết từ thuở còn niên thiếu.

       Ngày tôi sanh cháu bé, chồng tôi được nghỉ phép, anh ở hẳn trong nhà thương với tôi, mặc cho những lời dị nghị của các cô bác theo xưa cho như vậy là không tốt là bị “mắc phong long”. Mấy ngày sau tôi rời nhà thương, anh được lệnh đi hành quân tại Campuchia.

Nhìn anh đi tôi khóc mãi vì nghe tin đồn ở Campuchia thường bị “Cáp duồn”.

Mẹ tôi khuyên “Con mới sanh khóc như thế không tốt đâu”.

Nhưng tôi đâu nào nghĩ đến sức khoẻ của tôi, tôi lo cho anh và không muốn con tôi mất cha. Hàng ngày bận bịu nuôi con, nghĩ đến anh tôi chỉ biết cầu nguyện.

           Đến năm 1973 chồng tôi chuyển sang làm việc hành chánh, mặc dù ở đâu cũng là phục vụ cho nước nhà, nhưng anh không thích lắm.

Riêng tôi vui vẻ hơn vì đây là dịp mẹ con tôi được sống với anh hàng ngày.

Tại đây anh vẫn phải đi xuống thăm các quận thường xuyên. Đã có các sĩ quan thỉnh thoảng bị chết vì địch phục kích dọc đường, cho nên tôi vẫn tiếp tục lo lắng cho anh.

Ngày này qua ngày khác, mỗi buổi chiều tôi nghe chiếc xe lăn bánh trên con đường đá sỏi vào cổng là tôi biết anh đã bình yên trở về.

Có những chiều anh về rất muộn, tôi không yên tâm được, vào phòng ngồi bất động âm thầm cầu nguyện.

Tình thương đã khiến tôi rất thính tai, tiếng cổng mở cửa từ xa tôi đã nghe được, lúc đó tôi mới thở phào nhẹ nhõm, đi ra ôm lấy con và cùng nhau ra đón ba nó.

            Có những đêm pháo kích tôi sợ quá, một tay ôm choàng lấy con,

một tay nắm chặt tay anh, nhưng sau khi đợt pháo kích đầu tiên đã chấm dứt, anh phải vội vã từ giã mẹ con tôi để băng qua cửa hông nhà đi xuống hầm trung tâm hành quân, hầu tiện việc chỉ huy yểm trợ các đơn vị đồn trú địa phương.

Muốn cho chồng luôn được bình yên và tôi bớt đi nỗi lo âu để yên tâm làm việc nội trợ, một hôm tôi đưa cho anh xâu chuỗi mà vị linh mục đỡ đầu đã cho anh ngày rửa tội.

Tôi nói “Anh nhớ luôn bỏ xâu chuỗi này vào túi áo mỗi ngày anh đi làm việc, để có Chúa phù hộ anh và em đỡ lo lắng cho anh.” Tôi biết đàn ông tánh không chu đáo lắm nên tôi nói thêm “Anh thương em hãy nhớ lời em dặn.”

     Ngày tháng cứ thế trôi qua, chiến sự càng ngày càng sôi động,

cho đến một ngày mẹ con tôi từ giã anh, trở về ở với ngoại, để anh không phải bận tâm gia đình. Chúng tôi từ giã đời sống gia binh. Lần này tôi cũng nhìn anh rất kỹ và niềm hy vọng gặp lại anh ít hơn.

     Khi cuộc sống của người vợ lính thời chiến chấm dứt thì những ngày nghiệt ngã mới lại bắt đầu.

30/04/75 đã chấm dứt cuộc đời binh nghiệp của chồng tôi và anh đi tù với mười ba năm cải tạo.

Riêng tôi, ngoài trách nhiệm nuôi chồng, nuôi con, nỗi lo âu vẫn còn và sự mong đợi chồng về mỏi mòn hơn.

Sau cùng, nhờ ơn trên, nhà tôi đã trở về. Anh vẫn còn giữ xâu chuỗi ngày xưa đã cùng anh sống trong ngục tù với những chỗ bị đứt đã nối lại và rơi mất một hạt.

Hơn hai mươi năm làm vợ lính thời chiến, 13 năm vợ tù cải tạo của thời bình, là người con gái ở miền quê Bàu Trai, tôi có làm gì đâu mà suốt đời chỉ sống với nước mắt.

Chiến tranh đã cướp mất tuổi thanh xuân của bao nhiêu người vợ trẻ.

Chỉ còn lại Việt Nam, một quê hương điêu linh, một dân tộc bất hạnh triền miên trong chiến tranh và nghèo khó.

Thôn Nữ Bàu Trai

nguồn: Email của TH

(còn tiếp)


 

Nhà thờ Mằng Lăng ở tỉnh Phú Yên…va` Cuốn sách Phép Giảng Tám Ngày…

My Lan Pham

Nhà thờ Mằng Lăng ở tỉnh Phú Yên, nơi lưu giữ cuốn sách đầu tiên bằng chữ Quốc ngữ (Phép Giảng Tám Ngày) đang bị nước lũ bao vây tứ phía. Cho đến giờ vẫn chưa biết được số phận cuốn sách có được đảm bảo hay không.

Cuốn sách Phép Giảng Tám Ngày được cha Alexandre de Rhodes biên soạn và in ấn tại Roma vào năm 1651. Đây được xem là quyển sách tiếng Việt đầu tiên được in bằng chữ Quốc ngữ.

Do cuốn sách nằm dưới hầm có nhà nguyện nhỏ của Chân Phước (Á Thánh) Andre Phú Yên, cho nên khả năng bị ngập chìm là rất cao. Tuy vậy cuốn sách được đặt trong một hộp kính và hy vọng Cha quản nhiệm hoặc các vị hữu trách đã bảo vệ cận thận.

Ngôi nhà thờ cổ này, bản thân đã là một di tích lịch sử vô cùng giá trị, đang chứa trong mình cuốn sách bằng chữ viết đầu tiên mà chính tôi đang dùng để gõ những dòng này.

Khi gõ những dòng này lòng tôi vô cùng biết ơn tiền nhân đã cho ra một phương tiện để biểu đạt được hầu hết những suy nghĩ của mình, và cũng không khỏi lo âu liệu những tài liệu quý giá như vậy có tiếp tục gìn giữ được cho thế hệ mai sau hay không?

Lũ, lũ, và bão lũ… mãi mãi trên quê hương tôi vậy sao?

Lê Quốc Quân


 

Triển lãm và hội thảo VHM: 50 năm căn cước người Mỹ gốc Việt

Ba’o Nguoi-Viet

November 22, 2025

Trà Nhiên/Người Việt 

SANTA ANA, California (NV) – Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt (VHM) tổ chức triển lãm và chuỗi hội thảo với chủ đề “Từ Cuộc Di Tản Đến Di Sản: 50 Năm Hành Trình Người Mỹ Gốc Việt,” trong ba ngày Thứ Sáu, Thứ Bảy, và Chủ Nhật, 21, 22, và 23 Tháng Mười Một, tại viện bảo tàng Bowers Museum, Santa Ana.

Đoàn múa Thiên Ân Performing Arts trình diễn trống khai mạc ngày thứ hai của buổi triển lãm và hội thảo của VHM. (Hình: Trà Nhiên/Người Việt)

Ngày thứ hai của buổi hội thảo hôm 22 Tháng Mười Một thu hút đông đảo khán giả tham dự các phiên hội thảo sống động để kỷ niệm 50 năm hành trình hình thành kiên cường của cộng đồng người Việt hải ngoại.

Sảnh trước của Bowers Museum được VHM trưng bày những hiện vật lịch sử quý hiếm, tư liệu cá nhân, và tư liệu cộng đồng, mời gọi khách tham quan cùng ngược dòng thời gian, từ những cuộc di tản hỗn loạn năm 1975 đến sự hình thành của một cộng đồng đa thế hệ, năng động và bền bỉ.

Chương trình bắt đầu với phần trình diễn trống đa thế hệ của đoàn múa Thiên Ân Performing Arts.

Tiến Sĩ Alex-Thái Đình Võ, trưởng ban tổ chức, cho biết các phiên hội thảo tập trung phân tích những thành tựu nổi bật của người Việt trong kinh doanh, y tế, giáo dục, truyền thông và chính trường Mỹ, với điểm nhấn của chương trình là cuộc thảo luận giữa các diễn giả từ 20 đến 50 tuổi – những người đang trực tiếp định hình sinh hoạt cộng đồng. 

“Ngoài việc ôn lại hành trình 50 năm, sự kiện còn đặt câu hỏi trọng tâm: Làm thế nào gìn giữ ký ức và di sản để con cháu mai sau hiểu mình là ai và vì sao cộng đồng hiện diện trên đất nước này? Đây cũng là thông điệp xuyên suốt mà VHM muốn gửi gắm qua dịp kỷ niệm quan trọng này,” Tiến Sĩ Alex-Thái nói.

Tiến Sĩ Alex-Thái cho biết mục tiêu của phiên thảo luận là tạo không gian để mọi người có thể nói và lắng nghe nhau, ngay cả khi không đồng quan điểm. 

“Có những điều chúng ta đồng ý, hoặc không, nhưng quan trọng là phải có diễn đàn để hiểu nhau trước khi quyết định có thể cộng tác hay không,” anh nói.

Các diễn giả phiên thảo luận 2 và ban tổ chức của chương trình “Từ Cuộc Di Tản Đến Di Sản: 50 Năm Hành Trình Người Mỹ Gốc Việt.” (Hình: Trà Nhiên/Người Việt)

Với 30 diễn giả trong ba ngày, chương trình không nhằm đại diện toàn bộ trải nghiệm của cộng đồng, mà phản ánh một phần sự đa chiều của người Việt hải ngoại. 

“Không ai có thể nói thay cho cả cộng đồng, nhưng từng câu chuyện cá nhân đều góp vào một bức tranh chung,” anh Alex-Thái nhấn mạnh.

“Cộng đồng chỉ có thể lớn mạnh khi chúng ta đủ can đảm để trưởng thành cùng nhau,” anh nói. “Điều quan trọng nhất là cho nhau cơ hội để cất tiếng nói, và cơ hội để lắng nghe.”

Thảo luận sống động về căn cước người Mỹ gốc Việt

Phiên thảo luận 2 với chủ đề “Vươn Lên và Đại Diện: Chính Trị, Kinh Doanh, và Giáo Dục,” cũng chính là hội thảo đầu tiên trong ngày quy tụ các diễn giả thuộc nhiều thế hệ – từ Gen Z đến thế hệ 1.5 và thế hệ tị nạn đầu tiên để chia sẻ căn cước “người Việt tị nạn.” 

Với phần điều hợp của anh Joseph Nguyễn, giáo viên Học Khu Westminster, hội thảo gồm các diễn giả như cô Cathy Beaupain (doanh nhân), Tiến Sĩ Annie Bích-Loan Dương (Sở Giáo Dục San Joaquin County), Tiến Sĩ Trí C. Trần (Liên Hiệp Các Trường Việt Ngữ Hải Ngoại), bà Frances Thế Thủy Nguyễn (ủy viên Học Khu Westminster), Bác Sĩ Nguyễn Thành Tâm (ủy viên Hội Đồng Giao Thông Orange County-OCTA), và Luật Sư Thái Việt Phan (nghị viên Santa Ana).

Các diễn giả nhấn mạnh rằng trải nghiệm tị nạn, ký ức về chiến tranh, việc học tiếng Anh, áp lực hòa nhập và niềm tự hào văn hóa là những yếu tố định hình bản sắc và động lực để vượt khó. 

Phần thảo luận tập trung vào câu hỏi: Làm thế nào các thế hệ người Việt tại Mỹ có thể dung hòa hai bản sắc, truyền thống Việt Nam và đời sống Mỹ, để xây dựng tương lai chung? 

Từ trái, nữ tài tử Quyên Ngô, Tiến Sĩ Thảo Hà, đạo diễn Đức Nguyễn, và Bác Sĩ Suzie Xuyến Đông. (Hình: Trà Nhiên/Người Việt)

Một số diễn giả khẳng định việc giữ ngôn ngữ và văn hóa Việt rất quan trọng, nhưng cũng cần mở lòng với sự thay đổi và hội nhập. 

Luật Sư Thái Việt Phan nói: “Tôi không phải chọn giữa Việt Nam hay Mỹ. Tôi là 100% người Việt Nam và 100% người Mỹ.” 

Các diễn giả cùng nhấn mạnh vai trò của giáo dục, văn hóa đại chúng, ẩm thực, và sự hợp tác liên cộng đồng để giúp thế hệ trẻ tự hào về gốc rễ, và kêu gọi các thế hệ cùng nhau gìn giữ di sản, thích ứng với thời đại mới, và tiếp tục xây dựng một cộng đồng người Việt vững mạnh, đa văn hóa và đoàn kết tại Hoa Kỳ.

Phiên thảo luận 3 có chủ đề “Những Cái Mất: Chấn Thương Tâm Lý, Im Lặng và Chữa Lành Trong Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại,” với sự điều hợp của nữ tài tử Quyên Ngô, đồng sáng lập VìTÂM.

Các diễn giả gồm Bác Sĩ Suzie Xuyến Đông (Southland Integrated Services), đạo diễn Đức Nguyễn, và Tiến Sĩ Thảo Hà (MiraCosta College).

Buổi hội thảo xoay quanh những câu chuyện ít khi được kể trong cộng đồng như những vết thương chiến tranh, chấn thương gia đình và hành trình đi tìm sự chữa lành. 

Các khán giả cũng được mời định nghĩa “chấn thương” và “chữa lành” bằng một câu ngắn, để thấy rằng mỗi người đều mang một câu chuyện riêng, và những câu chuyện đó đều đáng được lắng nghe và thấu hiểu.

Các chuyên gia trong buổi hội thảo phân tích chấn thương không chỉ nằm trong ký ức, mà in hằn vào cơ thể, cảm xúc, cả cách nuôi dạy con cái. 

Họ cũng nhấn mạnh vai trò của không gian an toàn để kể chuyện, của lắng nghe không phán xét, của nghệ thuật, phim ảnh, ca hát, thiền, sinh hoạt cộng đồng… như những hình thức chữa lành tập thể. 

Các diễn giả cũng thẳng thắn nhắc công việc kể chuyện, làm phim, hỗ trợ pháp lý hay công tác xã hội đều cần được cộng đồng ủng hộ cả tinh thần lẫn tài chính. 

Thông điệp của hội thảo rằng mỗi người xứng đáng có một mối quan hệ tử tế với chính mình, chấn thương có thể truyền qua nhiều thế hệ, nhưng sự cảm thông, lòng nhân ái và không gian cho sự thật được cất lên, là con đường để vá lại những gì chiến tranh và im lặng làm rạn vỡ.

Nhiều khán giả tham dự buổi hội thảo của VHM hôm 22 Tháng Mười Một. (Hình: Trà Nhiên/Người Việt)

Những ký ức quý giá

Tiến Sĩ Annie Bích-Loan Dương, ở miền Bắc California bay xuống để tham dự hội thảo, cho biết: “Tôi rất hân hạnh và rất vui khi được tham dự hội thảo và triển lãm của VHM với vai trò diễn giả.“

“Trong cộng đồng mình không thiếu doanh nhân, không thiếu chính trị gia, nhưng trong hệ thống trường công K-12 thì lại thiếu tiếng nói và sự hiện diện của người Việt. Chúng ta cần nhiều giáo viên, nhiều người làm trong ngành quản lý giáo dục hơn nữa,” bà nói.

Tiến Sĩ Annie kể rằng mình cứ bảo con mình là người gốc Việt, nhưng chưa bao giờ giải thích vì sao. Sau này, bà bắt đầu kể cho các con về hành trình vượt biên, về lịch sử gia đình và ý nghĩa thật sự của văn hóa Việt. 

“Tết không chỉ là áo mới hay lì xì. Mình phải dạy sâu hơn, vì sao đi chùa, vì sao cúng ông bà, vì sao gia đình sum họp,” bà chia sẻ. 

Bà cho rằng phụ huynh nên mạnh dạn kể lại ký ức, góc nhìn và trải nghiệm của chính mình, để con trẻ từ đó tự phát triển cách hiểu của riêng chúng.

“Cứ nói, cứ chia sẻ. Con cái rồi sẽ lớn và sẽ tự tìm hiểu thêm. Điều quan trọng là chúng biết gốc của mình bắt đầu từ đâu,” bà nói.

Đứng trầm ngâm một góc triển lãm nơi trưng bày bàn máy may là cô Nguyễn Liên Hương, cư dân Fountain Valley, qua Mỹ năm 1992.

“Lúc đầu tôi chỉ nghĩ đơn giản rằng đến triển lãm để xem trưng bày các hiện vật của người Việt mang theo khi đến Mỹ,” cô nói. “Nhưng khi bước chân vào đây và nhìn bàn máy may này tôi rất xúc động.”

Cô Nguyễn Liên Hương (trái) và cô Hoàng Kim Yến bên bàn máy may gợi lại nhiều ký ức quý giá thuở mới sang Mỹ. (Hình: Trà Nhiên/Người Việt)

Cô tiếp: “Bàn máy may cũng là một trong những cái phương tiện để cho gia đình tôi kiếm sống lúc mới qua Mỹ. Những ngày đầu tiên gia đình tôi đến đất Mỹ này là cả nhà ngồi may hì hục từ sáng tới tối và một giờ tính ra chỉ làm được một đồng, nhưng chúng tôi rất mừng.”

“Khi nhìn lại thời gian đó thì mình cảm thấy biết ơn. Mình rất biết ơn nước Mỹ này đã cho mình một cơ hội để là làm lại cuộc đời,” cô Hương xúc động nói.

Cùng chung tâm sự với cô Hương, là cô Hoàng Kim Yến, ở Westminster.

“Chỉ cần nhìn thấy chiếc máy may, bao nhiêu cảm xúc của thời đó ùa về. Lúc mới qua Mỹ, ban ngày tôi đi học trung học, ban đêm cả nhà ngồi may để kiếm sống. Nhìn cái máy may này, tôi như thấy lại chính mình ngày xưa,” cô Yến, sang Mỹ 1983, chia sẻ.

“Tôi rất cảm ơn những người đã gìn giữ và hiến tặng những hiện vật này. Nhà tôi giờ không còn giữ được gì nữa, chứ nếu còn, tôi cũng sẽ đem tặng cho bảo tàng để thế hệ sau hiểu được những năm tháng khó khăn mà thế hệ thứ nhất trải qua,” cô Yến nói. [dtr]

Liên lạc tác giả: nguyen.nhien@nguoi-viet.com


 

Công an triệu tập hơn 50 Facebooker loan tin về số người chết ở Phú Yên

Ba’o Nguoi-Viet

November 23, 2025

ĐẮK LẮK, Việt Nam (NV) – Công An Đắk Lắk loan báo triệu tập 52 Facebooker với cáo buộc đưa tin số người chết do thủy điện xả lũ tại xã Hòa Thịnh, trước đây thuộc tỉnh Phú Yên, nhiều hơn tuyên truyền trên báo nhà nước.

Nhà chức trách công bố chỉ có 23 người tại xã Hòa Thịnh thiệt mạng do mưa lũ, trong lúc các Facebooker đưa tin “hàng trăm người.”

Một phụ nữ bị Công An Đắk Lắk triệu tập vì bài đăng không theo tuyên truyền về số người chết do thủy điện xả lũ tại tỉnh Phú Yên trước đây. (Hình: Công An Đắk Lắk)

Theo tờ Người Lao Động hôm 23 Tháng Mười Một, Công An Đắk Lắk quy chụp rằng 52 danh khoản mạng xã hội “đăng tải nội dung chưa kiểm chứng, sai sự thật về tình hình mưa lũ.”

Có năm trong số 52 Facebooker bị xử phạt 37.5 triệu đồng ($1,422), 17 trường hợp bị triệu tập, răn đe và yêu cầu viết cam kết “không tái phạm,” những người còn lại bị ép buộc “gỡ bỏ bài viết vi phạm.”

Đáng nói, ngoài việc đe dọa các Facebooker, Công An Đắk Lắk còn triệu tập những “KOLs” (người có sức ảnh hưởng), quản trị viên các hội nhóm Facebook tại địa phương, ra lệnh cho họ “tăng cường kiểm duyệt, gỡ bỏ các bình luận, hình ảnh tiêu cực, sai lệch gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự và nỗ lực cứu trợ.”

Trong hai ngày qua, một số báo ở Việt Nam đưa tin úp mở về việc không đủ quan tài cho những người chết tại xã Hòa Thịnh.

Tờ Thanh Niên hôm 23 Tháng Mười Một kể về trường hợp bà Lê Thị Hằng, 50 tuổi, ở xã Hòa Thịnh, có người mẹ thiệt mạng, thi thể ngâm trong nước lũ bốn ngày, bắt đầu phân hủy, mùi tử khí nặng nề nhưng không có quan tài để lo hậu sự.

Bà Hằng kể rằng mình đã báo với chính quyền nhưng cán bộ thôn trả lời: “Giờ tiếp nhận thì tiếp nhận, nhưng để đó…”

Phóng viên báo Thanh Niên cám cảnh trước sự việc, liên hệ đội cứu hộ “Ghềnh Chè Thái Nguyên” để thu xếp một chiếc xe bán tải và ca nô chở quan tài đến tận nhà bà Hằng.

Trên mạng xã hội xuất hiện nhiều lời kêu gọi góp quan tài cho những người chết do thủy điện xả lũ tại xã Hòa Thịnh, trước đây thuộc tỉnh Phú Yên. (Hình: Công An Đắk Lắk)

Một ngày trước, tờ Tuổi Trẻ dẫn lời ông Lâm Sư Thắng, một người dân ở xã Hòa Thịnh có cha thiệt mạng nhưng chưa có quan tài để chôn.

Ông Thắng kể lũ rút, ông về nhà cha mẹ thì phát hiện ông Sanh bị tủ đè, chết chìm dưới nước.

“Tôi nghe mẹ nói ngày 20 Tháng Mười Một, nước rút tới bụng, cha bước xuống thì bị tủ ngã đè. Giờ chờ quan tài mà mãi chẳng thấy. Không biết có quan tài để chôn không, dịch vụ mai táng ở đây họ làm không xuể,” ông Thắng nói.

Cùng thời điểm, ông Nguyễn Văn Tiến, người làm dịch vụ mai táng ở xã Hòa Thịnh, được nhìn thấy liên tục nghe điện thoại nhờ lo hậu sự, trước quay qua nói với phóng viên: “Gia đình tôi làm dịch vụ mai táng mấy chục năm ở Hòa Thịnh, nhưng chưa khi nào thấy thảm kịch như lần này. Hôm qua làm 13 đám [ma], hôm nay đến giờ này chín đám. Chẳng biết còn nữa không, mong là dừng, quá khổ.”

Đang nói thì điện thoại đổ chuông, ông Tiến vừa thò tay vào túi quần, vừa nói: “Gì nữa đây, không lẽ còn nữa hả trời…” (N.H.K) [kn]


 

HOÀI NIỆM… MỘT THỜI: ÔI SÀI GÒN! NHỚ ÔI LÀ NHỚ…-LÊ MINH ĐỨC (YK 1967-1974)

LÊ MINH ĐỨC (YK 1967-1974)

Không biết các anh chị ghé duyên về sống ở vùng đất Saigon vào lúc nào? 

Để tôi kể lại: 

– Quê tôi ở Bến Tre từ trước năm 1954, Ba tôi làm sở Bưu Điện mà hồi xưa hay gọi là nhà dây thép. Ba tôi nhận nhiệm sở ở Vũng Tàu không có đem gia đình theo cùng. Má tôi và gia đình nhỏ tá túc ông nội tôi ở Bến Tre, cách nhà ông ngoại cô bạn cùng lớp Phương Khanh có vài ba căn phố trên đường từ sở thú ra đến bến sông Bến Tre. Muốn tới bến sông, phải băng qua ngã tư. Đến ngã tư, rẽ trái sang Cầu Cá Lóc về Giồng Trôm, rẻ phải ra chợ Bến Tre và Tòa Bố (tên gọi Văn Phòng tỉnh lỵ thời xưa). Từ đầu ngã tư này đến cổng vườn  thú (sau này xây trường trung học Bến Tre) là nhà ông nội tôi, đi xa hơn nữa là hồ Trúc Bạch, sau này có tên khác là hồ Chung Thủy. Ở châu thành Bến Tre, ai cũng đi qua nơi này. Sau khi Nhật đảo chánh Tây, ba tôi thất nghiệp cho tới Tây trở lại Đông Dương sau thế chiến. Lúc đó, nhà nước mới triệu hồi ra làm việc.

Lần này, Ba tôi lên Saigon nhận nhiệm sở ở Bưu Điện Trung Ương vào năm nào tôi không rõ và từ đó tôi trở thành dân Sài Gòn.  

Ba tôi làm công chức tuy là có đồng vào, đồng ra, nhưng chạy tiền mua nhà rất vất vả, đành ở thuê. 

Tôi theo gia đình di chuyển từ Nancy qua Khánh Hội (xưa có tên là Xóm Chiếu), nằm trong quận Tư, thành phố Saigon. 

Sau đó, từ Khánh Hội, đổi chỗ cư ngụ qua Lê Lai gần nhà thờ Huyện Sĩ, rồi quay trở lại Khánh Hội. 

Năm 1963, một lần nữa tôi  lại dời nhà về Gò Vấp, Gia Định, và ở tại đó cho đến  năm 1975.  

Cư ngụ từ nhà sàn, sang nhà gạch, đến nhà phố, đời tôi đã gởi gắm nhiều về Saigon. 

Khi trí nhớ tôi bắt đầu lúc tôi 8 tuổi, hình ảnh Saigon càng ngày càng ghi đậm trong lòng tôi. Theo thời gian, từ lúc đón nhận người Bắc di cư năm 1954, truất phế Vua Bảo Đại, đến giặc Bình Xuyên, rồi Đệ Nhất Cộng Hòa qua với 2 lần đảo chánh, một lần ném bom tại dinh Tổng Thống.

Từ sau năm 1963, tiếp theo nền đệ nhất Cộng Hòa sụp đổ. 

Từ đó, Saigon trầm luân trong cuộc chiến, thay đổi chính phủ, không lúc nào yên, nổi bật nhất vào những năm 1968, 1972. Saigon liên tục thay đổi theo sự nhọc nhằn với chiến tranh. 

Sài gòn trở mình vì biến đổi xã hội nhanh chóng. Người Mỹ mang một nền văn minh mới lạ đôi khi va chạm với nền đạo lý truyền thống của người Việt. Đời sống giao động theo chiến tranh và kinh tế lạm phát mãi tận đến ngày không bao giờ quên là ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Lúc đó, tôi mới đành từ giả Saigon lưu lạc xứ người. Nay đã hơn 40 năm trên xứ người, Saigon không phai mờ trong trí óc. Saigon một thời là nhịp thở của tôi.

Có lẽ thời gian sau năm 1954 là thời gian mà Sài gòn chuyển mình mạnh nhất về xã hội, kinh tế, giáo dục và văn hóa. Con người và nếp sống tự do ngắn ngủi trong chừng 20 năm, mang rất nhiều vương vấn, thương nhớ Sài gòn. 

Sài gòn có từ hơn 300 năm, Sài gòn trãi qua nhiều giai đoạn thăng trầm, trở mình lớn dậy từ buổi sơ khai do di dân từ đời chúa Nguyễn, tiếp nối Triều Nguyễn qua nhiều triều đại cho đến khi trở thành thuộc địa của Pháp. 

Dầu sống dưới hình thức thể chế nào đi nữa, người dân Saigon chưa bao giờ phủ nhận là mình không phải là người Việt Nam mặc dầu về kinh tế, giáo dục, văn hóa tiếp cận Âu Tây sớm hơn người dân ở ngoài Trung, ngoài Bắc. 

Trong lịch sử, có nhiều cơ hội để miền Nam tách ra thành một quốc gia độc lập, nhưng người Miền Nam và dân Saigon vẫn một lòng với chúa, với vua, giữ trọn đạo cương thường. 

Saigon từ xưa vốn không phải là nơi đặc biệt dành cho người Nam Kỳ mà là nơi có nhiều sắc dân từ lâu sinh sống chung đụng hài hòa: người miền Nam, miền Bắc, miền Trung, người Hoa, người Miên, Chàm, Ấn Độ, Pháp. 

Ai muốn giữ ngôn ngữ, tiếng nói của mình thì giữ, không có sự đồng hóa.  

Người Tàu, người Việt (Bắc, Trung), người Pháp ngay cả người Miên, Ấn Độ vẫn có trường học dạy tiếng của họ.

Tại Saigon có đủ chùa, đình, miếu, nhà thờ, mosque hồi giáo. Họ sống hòa đồng, quý mến nhau, không gây gắt kỳ thị.

Ai đã từng ở Saigon, thở không khí Saigon, sống giữa những trưa hè oi ả.  Nghe tiếng ve sầu kêu vang suốt mùa, hay lặng nhìn những cơn mưa rào nặng hạt trên mái hiên, những con đường lầy lội, phập phồng chiếc bong bóng nước. Những buổi tan trường khi cơn mưa ập đến, đành đội mưa mà đi, tuy quần áo ướt sũng mà lòng phơi phới hân hoan không cần ô dù, cứ để mặc nước tuông vào người. Nhớ hoài cái cảm giác lâng lâng, cái cảm nhận sâu sắc về cơn mưa rào trong lòng người Saigon.

Có những lúc, cả nhà ngồi quây quần bên chiếc Radio nghe tuồng cải lương với tình tiết ly kỳ, những màn thoại kịch bi hài: Vũ Đức Duy, Dân Nam, Kim Cương, Túy Hồng, tay phe phẩy quạt muỗi giữa khí trời nóng nực, tha hồ mà ngậm ngùi rơi lệ với tuồng Lá Sầu Riêng hay Đời Cô Lựu. 

Lại có bữa khác, hồi hộp nghe Huyền Vũ truyền thanh trận banh quốc tế, sao mà mê tơi , thấy mình như là cầu thủ đang vẻ vời những đường banh ngoạn mục trên sân cỏ. Trên những con đường phố xưa, sau buổi cơm chiều, bắt ghế bố, ngồi hóng mát trước sân, cùng hàng xóm chia sẻ nỗi buồn vui cuộc đời. Sống ở Saigon là thế.

Lòng rộn ràng được cô chú dẫn đi xem một tuồng cải lương, một buổi đại nhạc hội, say sưa thả hồn theo màn trình diễn nghe ca sĩ Anh Ngọc với bài ” Em đến thăm anh một chiều mưa” !!! 

Nghe Ban Thăng Long với” Ngựa Phi Đường Xa”, ngậm ngùi nghe Trần văn Trạch với “Chuyến xe lửa mùng Năm”, rơi lệ với Kim Cương trong thoại kịch Trà Hoa Nữ… 

Saigon ôi nhớ ơi là nhớ.

Có đôi khi trốn học ghé vào những rạp xi-nê tình tứ trong góc hẻm Lê thánh Tôn chéo chợ Bến Thành (rạp Lê Lợi thì phải – rạp Vĩnh Lợi) rạp Eden trong hẻm Eden, rạp hát Catinat trong ngõ hẻm vắt ngang đường Charner (Nguyễn Huệ) và đường Catinat (Tự Do). 

Lạ lùng, đó là những rạp ciné nhỏ trang trí khá sang trọng chứa ít người. Người xem ăn mặc chỉnh tề như vào những rạp có tiếng là sang: Rex, Majestic, Casino.

Tuy vậy, không có gì vui bằng vào rạp Cathay gần Ngân Hàng Quốc Gia, mặc quần tiều (xà lỏn) ướt sũng vì mưa, ngồi chồm hổm trên ghế cho khô quần, say mê xem phim “ Canon de Navarone” ” Gunfight at the O.K.Corral”. 

Thời đó thiếu gì rạp hát chiếu với giá 5 đồng 2 phim, đặt biệt là phim hay đứt nửa chừng. Mình ngồi ngáp dài chờ nối phim. Xem chớp bóng (Xi cờ la ma) với cung cách đó chỉ thấy ở những rạp bình dân ở Saigon.

Người Saigon tìm giải trí về những tuồng Cải Lương trên sân khấu, ngày càng nở rộ, những buổi Đại nhạc Hội đầy kịch tính và những bài hát đa dạng về đồng quê, tình yêu nước, tinh duyên ngang trái. Nghe Radio và sau này trên truyền Hình (TV) là lối giải trí rẻ tiền của người dân Saigon.

Tuổi thơ Saigon có gì vui? nhiều lối chơi lắm: trong nhà, nhất là khi trời mưa: Bắn thun, bắn bì, diễn tuồng. Ngoài sân: tụm ba tụ bảy với hàng xóm, trời không mưa: đá banh, táng trống, đánh đáo, chơi bông vụ, đá cầu lông, bắn bi chai, đá dế, đá cá lia thia, tạc hình, nút phén đập dẹp, bao thuốc lá, ném đá trên lưng người cổng. Trời mưa: tắm mưa ngoài phố, trượt xi măng láng, bắt cá bằng lồng bẫy chuột trong cống dẫn nước từ sông Saigon chảy ngược vào.v.v.

Còn nữa chưa hết: trèo lên nóc nhà thả diều, bẫy chim khoen, bắt dế cơm ở Ngân Hàng Quốc gia bên kia cầu Mống lúc trời tối. Đánh lộn với trẻ con của khu phố khác. Cờ bạc: Hốt lú, đánh bài, tạc hay khẻ tường, đổ xí ngầu ăn bò vò viên, ăn bò bía. Ban đêm: u mọi, bỏ khăn, chờ xe taxi qua cộng số xe theo bài cào để  định hơn thua  mà thay phiên nhau cổng. Tuổi thơ của tôi ở Khánh Hội, Saigon” là vậy đó.

Ăn hàng vặt ở Saigon thì muôn hình vạn trạng: Trẻ con được vài đồng mỗi buổi sáng cha mẹ cho là vui rồi, số tiền đó vừa ăn vừa dè sẻn mới có được những trò chơi ở trên (nhất là trò chơi cờ bạc). Vài đồng thì ăn được cái gì hở? một tô cháo huyết, cháo đậu xanh với đường thẻ, cháo lòng. Một gói xôi đậu xanh và dừa nạo, bọc bánh phồng, xôi bắp kiểu Nam, kiểu Bắc, cốm dẹp trộn dừa, bánh mì chang sốt cà, một đỉa cơm tấm bì nhỏ, bánh ướt với một nửa bánh đậu chan nước mắm cay vừa cay vừa hít hà, bánh cuốn thanh trì chờ lâu vì tráng bánh, một tô bánh hoành thánh nước lèo, một đĩa ốc gạo với nước mắm chanh, một đĩa ốc len xào dừa, một tô bánh canh nhỏ, một đĩa bánh tằm bì, bánh bèo bì.

Chắc tạm đủ, thêm những lặt vặt khác: như kẹo kéo, kẹo đậu phộng kẹp bánh tráng, một chiếc chuối nướng bọc nếp, một chiếc chuối nướng trên lò than, đập dẹp chan nước dừa. Một miếng khô mực nướng, khô cá đuối nướng, khô mực nướng tráng mỏng chấm tương ớt. Một trái cóc chẻ ngâm cam thảo, một trái ổi, một miếng xoài tượng ăn với mắm ruốc hay muối ớt, một miếng khóm ngọt.v.v. Còn chè thì đủ loại: táo soạn, chè thưng, chè trôi nước, chí mà phù, chè đậu xanh, chè đậu xanh bột bán, chè đậu đỏ, sương sa hạt lựu nước dừa, đá nhận chan nước siro, cà rem cây đậu xanh đậu đỏ…v.v.. anh chị nhớ mệt nghỉ.

Ở Saigon, hàng sách báo tự do mở khắp nơi, nhật báo, tuần báo, nguyệt san, báo Xuân. Nhà sách lớn nhỏ, cho đến những quán sách vỉa hè đông đúc người đọc. Chờ báo Hồng Kông với truyện kiếm hiệp của Kim Dung, tiểu thuyết mới xuất bản của Quỳnh Dao là một trong món ăn tinh thần  đầy lôi cuốn của người dân Saigon.Người Saigon có cách đọc báo thú vị : ăn sáng trong quán cà phê, tiệm nước, hay ngồi vắt vẻo trên xích lô khi không có khách, hay ngồi chồm hổm, hay trên chiếc ghế đẩu thấp tè tè, miệng phì phèo điếu thuốc, đọc ngấu nghiến từng trang báo. Hình ảnh này, có từ hồi nhà văn Phú Đức cho ra tiểu thuyết trinh thám từng kỳ: Châu Về Hiệp Phố . Món ăn tinh thần phong phú đến đổi sau này  mỗi một góc phố Saigon, đều có hiệu sách thuê. Cứ thuê mà đọc khỏi phải mua.

Sau năm 1954, phong trào văn nghệ phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết, từ báo chí, đến sách vở, tiểu thuyết, truyện dịch. Số nhà văn, nhà thơ tăng lên gấp bội. Nhạc sĩ, ca sĩ cũng vậy, ta có nhiều nhạc phẩm tuyệt vời còn lưu lại đến bây giờ. Phòng trà, quán cà phê ca nhạc bỏ túi, phong trào nhạc trẻ và những danh ca ngoại quốc len lỏi vào tâm hồn giới trẻ: Sylvie Vartan, Francoise Hardy, Christophe, the Beatle, the Animal, Elvis Presley, Pat Boone v.v.

Chỉ có Saigon mới có những ngày Giáng Sinh thật tưng bừng. Nó đến như ngày vui quốc lễ, không phân biệt tôn giáo, ai cũng vui vẻ đón mừng. Những hang đá làm bằng giấy bồi, những ngôi sao có ren tua thấp sáng báo tin Chúa ra đời, những chiếc thiệp với lời chúc nồng ấm. Phố xá đông nhiều hơn, mua bán nhiều hơn. nhộn nhịp hơn . Dân bát phố đổ ra đường nhiều hơn, chen chân mà đi. Hàng quán lung linh ánh đèn chớp, đóng cửa trễ. Đúng là rộn ràng một nỗi vui. Đêm Giáng Sinh, con đường dẫn đến nhà thờ Đức Bà đông hơn bao giờ hết. Tan lễ rồi, ai vội vã về nhà ăn reveillon thì về, ai muốn thưởng thức phố khuya thì lang thang trên những con đường đang vào cơn ngủ muộn.

Nhớ nhiều những rộn ràng cả tuần lễ trước Tết, khí hậu êm dịu, mát lạnh. Hàng hóa tuông về thành phố. Những quầy hàng dưa hấu lớn có, nhỏ có. Gian hàng treo những ngọn đèn khí đá. Cây cảnh, quất tắc, mai, đào đươm nụ chờ đến ngày tết. Hàng quán bánh mứt, pháo đỏ, rượu hồng chưng bày làm tăng nét yêu kiều chào đón mùa xuân mới. Những bài hát Xuân lập đi lập lại trên đài phát thanh không ngừng nghỉ, những phong pháo, hàng vải lụa là mới tinh. Những cánh thiệp xuân treo dài trong sạp báo nhỏ. 

Đi chợ hoa Nguyễn Huệ là một thú vị, xem người và hoa lấp lánh ánh xuân nồng. Mùa Xuân và Tết làm cho lòng người Saigon, háo hức, chộn rộn chờ đón Tết đến từ rằm tháng chạp, giao thừa, đến mùng 3, đi du xuân khoe áo mới khắp nẻo đường Saigon, đùa vui với tiếng pháo rộn rã liên tục, từ khu phố này đến khu phố khác. Đâu đâu cũng chan hòa niềm vui.. 

Sài gòn trong tâm tư của tôi không bao giờ xóa hết cho đến khi tôi rời xa Sài gòn năm 28 tuổi và lưu lạc đất khách hơn 40 năm. Tôi nghĩ, anh chị dầu là người Bắc , người Trung, người Hoa đã sống ở Saigon, tâm hồn anh chị thế nào cũng chất chứa nỗi nhớ nhung Saigon. 

Không phải chỉ tổng quát Saigon, mà từng con đường, từng khu phố, ngõ hẻm, từng công viên, từng chiếc lá me, lá chuồn chuồn tung bay trước gió, từng khu chợ, từng món ăn chơi trên vỉa hè, món chè món cháo không nơi nào mà không lưu dấu chân kỷ niệm của các anh chị về những địa danh quen thuộc : Đa Kao, Phú Nhuận, Tân Định, Chợ Cũ, Bàn Cờ, Xóm Chiếu, Khánh hội, Vĩnh Hội, Tân Thuận, Bình Tây, Chợ lớn, Phú Lâm, Cầu kho, Đồn Đất, Ba son, Bến Bạch Đằng, Bến đò Thủ Thiêm, Chợ Đũi, Chợ Quán, Ngã Sáu, Ngã bảy, Ngã tư Bảy Hiền, Phú Thọ, Phú Nhuận, Hàng Xanh, Ngã ba Chú Ía.v.v.

Làm sao quên được tiếng rao hàng lanh lảnh giữa đêm. Tiếng mì gõ ở cuối ngõ. 

Tiếng súc sắc tẩm quất. Tiếng gánh hàng kẽo kẹt giữa đêm về sáng. Tiếng chân ngựa thồ gõ từng nhịp bước trên đường phố. Rất thú vị bước lang thang độc hành dưới ánh đèn đường héo hắt khi thành phố Saigon đang yên giấc, ngủ vùi trong đêm. Nhớ câu hát: Nửa đêm lạnh qua tim, phố đã vắng thưa rồi, có người mãi đi tìm một người không hẹn đến, mà tiếng bước buồn thêm…thấm thía và nhớ nhiều về Saigon nếu ai đó đã từng lang thang giữa đêm khuya

Ngày xưa, anh chị còn nhớ, khi tan trường về, nhìn những tà áo dài trắng và chiếc nón lá của nữ sinh phất phơ trước gió. Từng nhóm nhỏ, họ đi bộ hay xe đạp về hướng trung tâm thành phố như những cánh bướm trắng yêu kiều bay từng đàn nhỏ trên cánh đồng xanh và chỉ một thoáng sau đó, có vài giờ, những tà áo trắng ấy tan biến đi trong ngày nắng vội.

Sài Gòn ôi đẹp làm sao những giờ phút ngắn ngủi đó. Lúc xưa nó ở quanh ta, mà giờ chỉ còn là hoài niệm. 

Sài gòn nay vắng bóng những tà áo dài trắng yêu kiều  phất phơ ngoài Phố. Saigon vĩnh viễn mất đi hình tượng ấy rồi .

Sài Gòn ngày ấy vẫn còn vương vấn mãi không biết cho đến bao giờ. 

Bây giờ đã ngoài 70, mà ký ức xa xưa vẫn còn lãng vãng đâu đây.

Tất cả tâm tình như đã gửi gắm ở phần trên kích động trong tâm tôi.

Tôi phải làm gì đây để khơi lại những gì liên hệ đến Thành Phố Saigon này?

Có những ngày trong căn phòng vắng, ngoài trời mưa lê thê không buồn trôi, ngồi thả hồn nhớ lại một Saigon xa xưa mà giờ đây chỉ còn là hồn thu thảo, bóng tịch dương và tôi viết bài này từ những gì tồn đọng trong ký ức của tôi với hy vọng gợi lại những lưu dấu về Saigon trong anh chị, cùng để lòng tràn dâng một niềm nhớ Sài Gòn dấu yêu.

Ôi Saigon của tôi ! 

Xin anh chị dành một phút suy tư về một nơi chốn đã chìm dần vào một bóng tối thăm thẳm của niềm nhớ. Phải chăng Saigon xưa chỉ còn hư ảo ? 

Mà thật, Saigon bây giờ khác, khác hơn Saigon xưa nhiều.. nhiều lắm.

Thân thương

Lê Minh Đức (YK67-74)

From: T. Nguyen


 

SIÊU SAO MAGA MARJORIE TAYLOR GREENE RỜI HẠ VIỆN SAU MÂU THUẪN VỚI ÔNG TRUMP-BBC

BBC News Tiếng Việt

SIÊU SAO MAGA MARJORIE TAYLOR GREENE RỜI HẠ VIỆN SAU MÂU THUẪN VỚI ÔNG TRUMP

Nữ dân biểu bang Georgia, Marjorie Taylor Greene, loan báo tin bà sẽ từ chức, một động thái gây bất ngờ chỉ vài ngày sau khi xảy ra mâu thuẫn công khai với Tổng thống Donald Trump.

Bà Greene – từng là một trong những ngôi sao thuộc phong trào MAGA của ông Trump trên chính trường Mỹ – đã đăng một video lên mạng xã hội thông báo bà sẽ rời quốc hội vào ngày 5/1/2026.

Dù là một chính trị gia nhiệt thành bảo vệ ông Trump nhất, nhưng việc nữ dân biểu Cộng hòa này liên tục yêu cầu công bố tài liệu về tỷ phú ấu dâm Jeffrey Epstein đã dẫn tới cuộc đối đầu gay gắt giữa bà và Tổng thống Mỹ.

Ông Trump thậm chí đã gọi bà Greene là “kẻ phản bội”, và đe dọa sẽ hậu thuẫn một ứng viên Cộng hòa khác thay thế bà Greene trong Hạ viện Mỹ.

Tổng thống Mỹ khi nghe tin bà Greene thông báo từ chức, đã gọi đó là “tin tuyệt vời cho đất nước”.

Bà Greene liệu có tiếp tục con đường chính trị sau khi bị ông Trump xa lánh?

AFP/Getty Images: Bà Greene và ông Trump trong một sự kiện vào năm 2024

#BBCNewsTiengViet

#DonaldTrump

#MAGA

#Epstein


 

 Bò viên và những kỷ niệm khó quên- Lê Văn Nghĩa

  Lê Văn Nghĩa

Nhắc đến bò viên là nhắc đến tuổi thơ của tôi, nên khiêm tốn một chút, chứ đáng lẽ phải nói là tuổi thơ của Sài Gòn ngày trước, và của bây giờ.

Một buổi sáng vui nhất khi còn đi học là có rủng rẻng một hai đồng dằn túi. Có tiền là tôi tìm đến chú bán xe bò viên có đổ xí ngầu lát (hột xúc xắc). Vì ít tiền nên cũng có máu “ăn thua” hòng kiếm chác thêm một chén nữa để bao mấy thằng bạn không may mắn trong ngày hôm nay, cũng như tôi đã từng có lúc không may mắn do không có tiền hoặc chơi thua chú bán bò viên.

Xí ngầu lát là ba cục xúc xắc đen thùi lùi và đôi khi đầy mỡ. Cách chơi rất công bằng, chú bán bò viên không lấy quyền làm nhà cái mà bắt chẹt mấy thằng nhỏ còn thò lò mũi. Hai bên cùng nhau bỏ ba cục xí ngầu lát vào cái tô cũ ba lần. Cục xí ngầu có sáu mặt: Hai mặt sơn đỏ là hai số một và bốn, những mặt còn lại là màu đen với các số còn lại.

Mỗi người được đi một lượt và chỉ lấy con số màu đỏ để tính điểm. Người nào thắng hai lần đổ thì là người thắng cuộc.

Mỗi khi có một thằng bạn chơi thì nhiều đứa xúm lại mong cho bạn mình thắng chú bò viên để được ăn ké, chí ít là cũng được một viên cho đỡ thèm. Còn bạn mình mà thua thì coi như cả đám trớt quớ.

Ôi, cái chén bò viên lúc đó sao mà ngon quá vậy! Còn những lúc không tự tin cho cái tay đổ bác (xui xẻo) của mình, tôi thường mua một chén để tận hưởng những viên bò viên dai dai, sựt sựt của gân, của mỡ. Trên mặt nước lèo là những mẩu hành lá nhỏ màu xanh, tô điểm cho mặt nước đầy mỡ, có thêm vài lát xá bấu (củ cải mặn) và rắc tiêu thơm lừng.

Ăn bò viên phải chấm với tương đen mới “phù hợp chủng loại” và đúng quy trình. Một cục bò viên chấm với tương đen, có thêm màu đỏ của tương ớt, hôm đó thua chú bò viên, khi nhìn tôi ăn phải chảy nước miếng.

Nhưng không, ngoài chuyện ăn ngon, chén bò viên cũng thắt chặt tình huynh đệ khi tôi cho tụi nó ăn khính (ké) một vài viên chấm tương đen. Trong đầu óc thơ dại của mình tôi nghĩ, biết đâu ngày mai nó thắng chú bò viên nó sẽ cho tôi ăn lại khi mình gặp xui. Ấy thế mà tình nghĩa bò viên cũng sống khá dai.

Lên trung học, mỗi thằng bạn chia tay vào đường đời vạn ngã. Thi thoảng tôi có quay lại trường xưa vẫn thấy chú bò viên muôn năm đứng đổ xí ngầu lát với tụi nhỏ. Có những thằng bạn, khi gặp nhau vẫn có dịp ăn bò viên ở những quán khác.

Những quán này, trong chén bò viên lại có thêm gân, thịt, gầu… hơi tả pí lù. Rồi sau này lớn lên thằng còn, thằng mất, thằng bệnh già, thằng giàu có, đại gia thì bò viên Sài Gòn vẫn còn đó, nhưng cảm giác ăn không ngon bằng xe bò viên thời tiểu học. Có lẽ, tâm hồn chúng tôi được in dấu thức ăn ngày xưa cũ, nó vẫn đi theo, theo mãi với kỷ niệm ăn uống từ tuổi thơ nghèo khổ.

From: Tu-Phung