21/6/2025 cộng sản Hà Nội kỷ niệm 100 Năm ngày Báo chí Cách mạng.

Bùi Văn Phú

21/6/2025 cộng sản Hà Nội kỷ niệm 100 Năm ngày Báo chí Cách mạng.

Buồn cho đất nước Việt Nam ngày nay vẫn chưa có tự do báo chí, tự do biểu đạt hay truyền đạt thông tin và những nhà báo dám viết lên sự thực, nói lên điều mình muốn nói như Phạm Chí Dũng, Phạm Đoan Trang, Osin Huy Đức hiện còn đang bị giam tù.

 NHÀ THƠ HỮU LOAN KHÓC GIỮA SÀI GÒN …- Cung Tích Biền

Việt Luận – Viet’s Herald

Cung Tích Biền

Thật hạnh ngộ khi chúng tôi được gặp nhà thơ Hữu Loan, tác giả bài thơ Màu Tím Hoa Sim, cùng một số vị trong vụ án Nhân văn – Giai phẩm, những năm từ 1957 về sau, trên đất Bắc.

Sau tháng Tư 1975, trước khi nhà thơ Hữu Loan có dịp vào Nam, đã có một số thân hữu từ miền Nam ra Bắc thăm ông. Khó có thể mô tả cảnh nghèo khó của gia đình ông thuở ấy, lại khó hình dung ra cái tình cảnh cô đơn của một Hữu Loan bị chính quyền cô lập trong bao nhiêu năm.

Ông vào thăm Sàigòn khá muộn màng, có thể do điều kiện kinh tế quá khó khăn. Anh em chúng tôi có dàn xếp một ngày để tiếp ông. Cà phê sáng, dùng cơm trưa, buổi chiều đưa ông đi dạo chơi đó đây. Thuở ấy chỉ toàn xe đạp, sang trọng tí chút là xe gắn máy. Ông rất hồi hộp khi ngồi yên sau xe gắn máy. Ông luôn bảo “Đèo nhau xe đạp, chậm rãi, thì bình an hơn”.

Quán cà phê vườn khá rộng. Khi anh Duy đưa Hữu Loan tới, quanh bàn chúng tôi đã có Tô Kiều Ngân, Bùi Giáng, mấy anh em văn nghệ, có cả một lúc có hai cô, Huyền Tr. và Thúy V. một cô là ca sĩ, cô kia đang là diễn ngâm thơ cho đài phát thanh, trong các chương trình thi ca.

Hữu Loan, thoạt nhìn như một pho tượng, sạm một màu đất nung. Khuôn mặt chữ điền, tóc dài, trán rộng, sống mũi thẳng, cao. Tôi nghiêng người chào ông. Ông nở nụ cười. Một nụ cười cẩn thận, nói rằng thân thiện là chưa đúng. Một cái bắt tay của giao tế, dè chừng. Sống ở miền Nam, sau cơn dâu bể, nay gặp anh trở về, gặp chị ngoài kia vô, chào một nhà văn xứ Bắc vừa chạm mặt, tôi nhận ra tất cả họ đều có một hành xử khá giống nhau.

Bây giờ ông đang trước mặt. Với ly cà phê đen, bữa nay tôi có cái để mà Nhớ Lại, có cái để được Ngắm Nhìn. Hữu Loan, Ông từ đâu tới!

Trò chuyện với Hữu Loan, mến ông là một người khá hiểu biết về văn chương, học thuật. Dễ là chốn tri âm, tương phùng. Có thể do ông là người có học hành tử tế, trưởng thành vào thời kỳ nước nhà còn lưu giữ những nền móng đạo lý, những thứ vốn văn hóa quý hiếm của giống nòi.

Một ngày gặp gỡ. Bữa trưa uống một trận bia. Chiều đưa ông thăm chơi đó đây. Buổi tối ghé một quán vườn, rất đông anh em. Sáng hôm sau ông ghé tôi. Chúng tôi cùng uống cà phê, ăn sáng. Nhà tôi ngay đường Nguyễn Huệ nên nhà hàng Givral cũng gần. Vào quán, ông đầy vẻ ngỡ ngàng. Xem thực đơn, ông nói, “Tôi không biết gọi gì, anh gọi dùm”.

Tôi gọi cho ông ly cà phê sữa, bánh mì vuông, một đĩa thịt nguội, patê, xúc xích. Lúc này chúng tôi cũng đang túng thiếu, nhưng tiếp ông, tôi phải “bề thế” tí chút. Chẳng lẽ mấy mươi năm ông nhai củ mì ngoài Bắc, giờ này tôi mời ông mấy củ khoai lang trộn bo bo!

Tôi nhường ông ngồi ghế bên trong, nhìn ra đường, quang cảnh góc đại lộ Lê Lợi và Tự Do. “Sàigòn nó to rộng thế đấy”. Bên kia là Continental khách sạn thuộc loại cổ nhất Sàigòn, nhà Hát Tây [tòa nhà Hạ nghị viện thời Cộng Hòa], khách sạn Caravelle. Ông mãi nhìn cảnh đẹp bên ngoài, lại nhìn đĩa thịt nguội. Chừng không muốn ăn. Tôi giục ông ăn chút gì kẻo đói bụng. Ông nói:

“Anh cho tôi nhìn một hồi đã. Bao nhiêu năm tôi mới thấy cái món lạ lùng này”.

Ông ăn một cách khó khăn. Chừng từ lâu không quen với dao nĩa. Tôi bèn gọi một đĩa tương tự, rồi bốc mà ăn, ý hô hào ông cùng bốc mà ăn.

Nhìn ông, tôi lại nhớ nước mắt của ông buổi sáng hôm qua. Lúc trò chuyện, tôi nói nhỏ với Thúy V. “Em nên ngâm bài Màu Tím Hoa Sim của chính Hữu Loan để tặng ông”.

Trong quán có cây đàn ghi-ta. Vũ D. đệm đàn. Tô Kiều Ngân rút cây sáo trúc “nhà nghề”, dìu giọng người ngâm thơ. Giọng Thúy V. mượt mà, khá trữ tình. Nghe ngâm thơ của mình, từ mấy mươi năm bị chế độ cấm phổ biến trên đất Bắc, Hữu Loan ngậm ngùi. Bất ngờ ông bật tiếng khóc.

Khuôn mặt như một phiến đá chỗ lòng suối cạn. Khó lòng thấm nước. Nhưng những hạt trong vắt cứ trôi xuống má. Ông có vẻ sờ soạng. Một bàn tay thò vào túi. Không có gì. Hai bàn tay thô tháp chỉ run run, ông kéo cái chéo áo ka-ki màu chàm, vải nhám, chừng cũng bẩn do mặc lâu ngày, đưa lên lau nước mắt…

Nhà thơ Hữu Loan qua đời vào trung tuần tháng 3 năm 2010 tại quê nhà, hưởng thọ 94 tuổi. Phùng Quán ra đi ngày 22 tháng 1 năm 1995. Trần Dần mất ngày 17 tháng 1 năm 1997. Cùng những ngày của mùa xuân. Phan Khôi, Văn Cao, Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Nguyễn Hữu Đang…và nhiều nữa… những thành phần trụ cột của Phong trào “Đi Tìm tự do tư tưởng, đòi hỏi nhân quyền”, là đỉnh cao của văn hóa, cội nguồn, nay đã ra người thiên cổ.

Thiên cổ, là Bên Kia của hiện thực bên này ư? Bên kia, ai có nhớ về? Hoài niệm, bảo tôi nghĩ và viết những dòng này.

Cung Tích Biền


 

Nhìn lại việc thi tú tài Ở Việt Nam trước 1975

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

20/06/2025 

Hình Quảng Trường Thi Nam Định (năm 1897) (Nguồn: nguyentl.free. fr)

Việc thi cử ở nước ta đã có một truyền thống lâu đời truyền lại. Miền Nam sau này việc thi cử phần nào cũng tiếp nối cái tinh thần của truyền thống ấy. Thật vậy, nước ta đã có gần 20 thế kỷ dùng chữ Hán kể từ thời Bắc thuộc. Và 10 thế kỷ chữ Nôm đánh dấu thời kỳ tự chủ.

Việc thi cử tính ra cũng được ngàn năm.

Cái truyền thống ấy được Nguyễn Hiến Lê viết lại như sau: “Ở nước ta hiện nay, số hậu Duệ của giai cấp ấy kể ra cũng còn được kha khá, nhưng số người còn giữ được nếp nhà thì hiếm đấy; và tôi nghiệm thấy người nào giữ được cũng có vài nét chung rất dễ nhận ra: không ham danh lợi, chăm nom sự dạy dỗ con cái, yêu nước, thích văn chương, chuộng nghề dạy học và hình như có khiếu dạy học nữa” (Trích Mười câu chuyện văn chương, Nguyễn Hiến Lê, trang 82)

 Phải chăng truyền thống đó sản sinh ra những người thầy như giáo sư Hoàng Cơ Nghị, Trần Trọng Kim, Dương Quảng Hàm hay như thi sĩ Đông Hồ mà lúc chết học trò khắc trên bia hai câu thơ như sau:

“Ân sâu nghĩa nặng tình dài

Khóc thầy, khóc mãi, biết đời nào nguôi?”

Cũng Nguyễn Hiến Lê viết về thầy Dương Quảng Hàm trong cuốn Hồi ký của ông : “Tất cả học sinh trường Bưởi không ai không trọng thầy. Vì vậy, mà các bạn đồng sự Pháp, Việt cũng quý thầy nữa. Thật đáng tiếc, thầy không thọ, mất trong những ngày đầu cuộc kháng chiến ở Hà Nội.” (Trích Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, trang 65)

Giáo dục miền Nam đã tiếp nối cái truyền thống kính trọng ông thầy ấy. Ở miền Bắc thì họ mang thầy ra tố khổ như trong bài viết của Trần Huy Liệu: “Bóc trần quan điểm thực dân và phong kiến trong quyển “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim” (Tập san sử địa, số 6, 1955)

May là cụ Dương Quảng Hàm đã chết sớm.

Và họ bắt học trò phải “Quyết tâm thực hiện lời dạy của Hồ Chủ tịch và Thủ tướng Phạm Văn Đồng” (Tập san sử địa, số 4, tháng 11, 12-1955, Hà Nội)

Trước đó, khoa cử còn thiếu, các đời Đinh, Lê về trước chưa có thi cử. Việc tuyển chọn người chỉ là tùy tiện, không câu nệ, nhưng lại cũng không có phép tắc gì.

Kể từ năm 1072, đời Lý mới mở khoa thi chọn người tài ra giúp nước. “Con đường tìm người tài giỏi, trước hết là khoa mục, phàm muốn thu hút người tài năng, thì người làm vua một nước không thể nào không có thi cử” (Trích Lịch Triều Hiến Chương loại chí (LTHCLC) của Phan Huy Chú, phần mở đầu chương Khoa Mục Chí)

Cái mục đích mở khoa thi đã rõ ràng: Chọn người có tài. Nhưng chọn bao nhiêu? Chọn thế nào?

Đó là cả một vấn đề. Việc thi cử thời xưa còn nhiều điều bất cập như: Cái học từ chương quá, tỉ lệ thi đỗ quá thấp. 1000 người lấy một. Có sĩ tử đã để cả đời đi thi mới đỗ. Ông Đoàn Tử Quang tham dự cả thảy 21 khóa thi từ năm 20 tuổi. Cứ ba năm thi một lần, mãi đến năm 83 tuổi mới thi đỗ. Ông nội Ngô Tất Tố 7 lần đi thi, bố Ngô Tất Tố sáu lần, phần ông Tố hai lần đi thi.

Mặc dầu thi cử khó khăn, nhưng tổ chức thi cử rất nghiêm ngặt. Luật lệ nghiêm minh như ông Đỗ Nhuận viết vào năm 1484: “Việc lớn trong chính trị của Đế Vương, chẳng gì gấp bằng nhân tài… Khoa cử các đời thịnh nhất là đời Hồng Đức, cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng, đời sau không thể theo kịp.” (LTHCLC, phần Khoa Mục Chí).

Chỉ cần giữ lại mấy chữ: Lấy rộng rãi, cách chọn người công bằng. Đời sau không sánh kịp.

 Nếu nhìn lại việc thi cử ở miền Nam, tôi chỉ thấy việc thứ nhất còn chưa ổn, việc thứ hai có lẽ cũng không thua gi việc thi cử đời Hồng Đức cả. Trừ giai đoạn chót của VNCH, việc thi cử xem ra có một số trường hợp bê bối. Đã có dư luận đồn thổi về tình trạng con ông cháu cha, kẻ có tiền của.

Sau này đến đời vua chúa triều Nguyễn, phép tắc thi cử cũng vẫn nghiêm ngặt như vậy. Nhà vua xem xét từng ly từng tý việc học của các sinh viên trong trường Quốc Tử Giám. Ta hãy nghe lời phê phán vừa nặng nề vừa cho thấy mối quan tâm của vua Minh Mạng đối với tương lai giáo dục ra sao. Năm 1837, vua ra chỉ dụ: “Thế mà nhìn lại các học quan chỉ biết chiếu lệ thường khảo hạch cho có, gọi là đã làm xong chức vụ, còn quy trình giảng dạy thi lên lớp, tiến bộ ra sao, trình độ học sinh như thế nào, không lưu ý tới, thì bảo sĩ tử gắng sức ở chỗ nào” (Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ – Bộ Lễ- Q.192 : Học Hiệu)

Thật ra miền Nam có khá nhiều kỳ thi: Thi Tiểu học, thi nhập học lớp đệ thất các trường công lập, thi Trung Học Phổ Thông dành cho các lớp đệ tứ và thi Tú tài 1 và 2. Ở đây chưa kể việc thi trên Đại Học, thi tuyển vào trường chuyên nghiệp như Quốc Gia Hành Chánh, Đại Học Sư Phạm, các trường Kỹ Sư Phú Thọ như Điện, Công Chánh vv..

 Việc thi cử phần đông tiến hành tốt đẹp.

Tôi chỉ đưa ra một tỉ dụ. Việc thi vào đệ thất các trường công lập khó mà tránh khỏi một số trường hợp quen biết gửi gắm. Nhất là tại các tỉnh. Cho dù có gửi gắm cũng không phải là ăn tiền hay hối lộ. Có thể chỉ vài trường hợp cá biệt, đơn lẻ. Vì thế vẫn bảo đảm được chất lượng thi cử. Bằng chứng rõ ràng tỉ lệ các học sinh trường công thi đỗ thường cao hơn trường tư nhiều vì có sàng lọc rồi. Nếu trường tư thi đỗ đạt tỉ Lệ 20% thì trường công, tỉ lệ thí sinh thi đậu tú tài là 75% đến 85% hoặc hơn thế nữa.

Nếu tuyển sinh đệ thất không minh bạch thì kết quả thi đỗ Tú tài ở trường công tỉ lệ thi đỗ đã khác.

Có nhiều lớp, toàn thể học sinh đều thi đỗ. Đặc biệt một lớp 12, ban B, trường Pétrus Ký, vào năm 1970, toàn thể học sinh đều thi đỗ hạng Bình trở lên. Dĩ nhiên, cũng có trường hợp nhà trường dồn học sinh giỏi vào cùng một lớp. Sau này, lớp học này có nhiều học sinh xuất sắc được học bổng Quốc Gia đi du học và thành tài. Và một trong những học sinh ưu tú ấy, hai lần đỗ tú tài 1 và 2 hạng ưu, điểm trung bình toàn bộ các môn phải từ 16 trở lên và hiện nay ngoài công việc chỉ huy ở sở, anh đang giữ trọng trách chủ biên một tờ báo mạng toàn cầu.

Việc học còn từ chương

Việc này, Nguyễn Trường Tộ (1830-1871) ngay từ năm 1867 đã phê phán thẳng thừng và dứt khoát, ông viết: “Nhìn lại sử học của ta ngày nay, 1867, những điều thầy dạy, những điều trò học, toàn là những chuyện xa xưa. Lúc nhỏ thì học văn từ, thơ phú, lớn lên ra làm việc thì lại thấy luật-lịch-binh-hình… Xưa nay, trên thế giới chưa từng nước nào có nền học thuật như vậy… Nếu đem cái công phu cả đời đem tâm trí ra trau chuốt chữ nghĩa mà học những việc hiện tại như trận đồ, binh pháp, đắp thành giữ nước, sử dụng súng ống thì có thể chống được giăc…” (Trích Nguyễn Trường Tộ- Con người và di thảo, Trương Bá Cần, tr 76, NXB TPHCM, 1988).

Rất tiếc những lời cảnh báo về cái học từ chương, “toàn những chuyện xa xưa” không được vua quan để ý tới và kéo dài cho mãi đến bây giờ.

Mặc dầu việc phê phán của Nguyễn Trường Tộ nhằm vào thời kỳ còn nặng nho học, nhưng cái tinh thần ấy vẫn còn rơi rớt lại sau này. Chẳng hạn trong chương trình tiểu học của miền Nam sau này. Học trò tiểu học phải học thuộc lòng các bài địa lý, lịch sử, cách trí. Học thuộc lòng ra rả như cuốc kêu. Kể thật cũng tội. Các lớp trung học, nhất là ban Vạn vật thì vạn vật cũng là môn học thuộc lòng, môn học đào luyện trí nhớ tốn bao thì giờ công sức mà xét ra ít hữu dụng. Các môn sử ký, địa lý trong cách giảng dạy, trong cách chấm điểm còn nặng tính từ chương, thiếu óc phê bình, thiếu nghị luận. Ngay các bài giảng văn cũng được diễn giải một chiều, ước lệ, có bài bản sẵn, ít đi ra ngoài thông lệ, ít sáng tạo, thiếu cách đặt lại vấn đề, thiếu phản biện.

Nói chung là còn vướng mắc nhiều tinh thần lệ thuộc. Lệ thuộc người xưa, lệ thuộc sách vở và ngay cả lệ thuộc vào ông thầy.

Các lớp dạy luyện thi cho thấy học trò lệ thuộc vào ông thầy như thế nào.

Và đây là một lời dạy khuôn vàng thước ngọc: “Các người lại không bắt chước người đời xưa sao, hay là chỉ lấy tiếng ư? Học trò tranh nhau mài gọt, gây dựng nhân tài, để làm việc nước, có vậy mới không phụ ý trong việc học, hậu đãi người hiền, mọi người đều phải kính cẩn tuân theo” (Trích Đại Nam Thực Lục chánh biên.)

Đại Nam Thực Lục chánh biên là sách ghi chép sử triều Nguyễn từ Gia Long đến Đồng Khánh, chia làm nhiều kỳ, mỗi kỳ là một đời vua. Có tất cả 6 kỳ.

Cái học lệ thuộc thầy, lệ thuộc “cours” còn tồn tại ngay ở các đại học. Sinh viên thi đỗ chỉ cần thuộc cours của giáo sư giảng trong lớp.

Thi cử lấy đỗ khá khắt khe

Tiêu biểu cho sự khắt khe này là hình ảnh Vân Hạc trong Lều Chõng của Ngô Tất Tố, một sĩ phu tài tuấn, có lương tri, có tài học mà lận đận với thi cử. Nó là bản cáo trạng đối với tổ chức lề lối học hành và thi cử thời xưa, lãng phí nhân tài và chất xám của đất nước.

Người viết đã truy tìm một số kết quả các kỳ thi Trung Học Phổ Thông và tú tài sau 1954 để cho thấy việc thi cử là khắt khe quá. Nhưng kết quả tìm tòi còn chưa được như ý muốn.

Năm 1950, đại học văn khoa Sài Gòn, ở đường Garcerie nay là Phạm Ngọc Thạch mới có 50 sinh viên theo học và 50 dự thính viên. Trường Khoa Học mới có 14 sinh viên đậu chứng chỉ P.C.B, 2 sinh viên đậu S.P.C.N, 3 sinh viên đậu toán đại cương, 2 sinh viên đậu vật lý đại cương. Năm 1954-1955 có 13 bác sĩ, 11 dược sĩ, cử nhân luật 159 và rất tiến bộ đã có 135 người đậu chứng chỉ khoa học. (Trích Địa chí Văn hóa TPHCM, trang 743-745)

Một học sinh giỏi nhất lớp ở ngoài Bắc vào năm 1948, vậy mà trong học bạ của anh, không có điểm số nào anh đạt trung bình. Xem và đọc để thấy nó vô lý như thế nào!!!

Giỏi nhất lớp, thông minh mà điểm chưa đạt trung bình? Và đây là nhận xét của giáo sư Dương Thiệu Tống, người đã còn giữ học bạ này của học trò gửi cho làm kỷ niệm. (Gs Dương Thiệu Tống, trường Trung Học kiểu Mẫu, Thủ Đức).

Ông nhận xét như sau :” Điểm nhận xét đầu tiên của tôi là điểm số các môn học ngày xưa sao lại thấp đến thế, ngay cả đối với học sinh đứng nhất lớp như các thí dụ trên đây.” (Trích Suy Nghĩ về giáo dục truyền thống và hiện đại, Dương Thiệu Tống, nxb Trẻ, tg 279-281)

Nhưng câu nhận xét sau đây của giáo sư Dương Thiệu Tước thật hơi lạ. “Vậy phải chăng các thầy giáo chúng tôi ngày xưa không bị áp lực bởi thi đua đạt thành tích nên có thể cho điểm trung thực hơn? Phải chăng chúng tôi quá khắt khe với học sinh? Hay là học sinh ngày nay giỏi hơn xưa quá nhiều? Tôi xin phép dành các câu hỏi này cho các đồng nghiệp và các trường học của chúng ta suy ngẫm và tìm giải đáp.” (Trích như trên)

Giáo sư đã cho phép dành cho đồng nghiệp tìm ra giải đáp thì tôi xin được thưa với giáo sư như thế này. Giáo sư là thầy của nhiều thế hệ mà bản thân người viết bài này có thể chỉ là hàng con cháu. Giáo sư đã đi du học Hoa Kỳ mang về cái bằng Tiến sĩ giáo dục mà vấn đề cho điểm như trên, giáo sư lại thối thác không cho một giải đáp.

Thưa giáo sư, trồng cây thì phải có quả. Trồng tốt sẽ cho quả tốt. Trồng người cũng gần như vây. Dạy học thì trò đi thi phải đỗ. Không đỗ thì phần trách nhiệm không nhỏ là do thầy, do chương trình, do xã hội. Điểm phi lý đến nực cười là cho điểm thì đều dưới trung bình mà lại đứng đầu lớp. Không nhẽ học trò đều dốt cả? Cho dù thế nào đi nữa thì không có lý nào điểm thì kém, dưới trung bình trong khi lời phê của giáo sư thì nào là giỏi, thông minh, đáng khen. Như vậy thì nên căn cứ vào điểm hay vào lời phê? Lời phê như thế có phản ảnh đúng trình độ học sinh hay không? Giải pháp là xét lại thang điểm và thay đổi thái độ chấm bài, nhất là bài văn, cần kèm thêm các câu hỏi giáo khoa hay trắc nghiệm như sau này Bộ giáo dục Việt Nam Cộng Hòa đã đem ra áp dụng.

Thực ra khó khăn do thi cử và giáo dục thì ở đâu cũng có. Mỗi thời mỗi khó khăn khác. Như tỉnh Québec mà tôi đang ở. Mỗi năm dành 13 tỉ đô la dành cho giáo dục, vậy mà nhiều học trò trung học, ngay cả đại học còn viết đầy lỗi chính tả. Ngay ông Thủ tướng trong bài diễn văn đọc về cải cách giáo dục, người ta tìm ra được 13 lỗi phạm lớn: “N’est–ce pas le premier ministre Jean Charest, qui dans un dis cours à l’Assemblée nationale, affirmait vouloir poursuivre ses efforts” pour améliorer la qualité de notre langue commune, le francais “alors qu’il remettait aux journalistes un texte comptant une douzaien de fautes majeures…” (Trích Le grand mensonge de l’éducation, Luc Germain, Luc Papineau, Benoit Séguin, trang12) Phải chăng ngay cả ông Thủ tướng Charest trong một bài diễn văn đọc trước Quốc Hội khẳng định trong nỗ lực tiếp tục “Cải tiến phẩm chất tiếng nói chung của chúng ta là tiếng Pháp”, vậy mà, chính ông Thủ tướng đã phát cho các nhà báo một bản diễn văn trong đó tính ra có đến 13 lỗi phạm lớn.

Kinh nghiệm đi chấm thi tú tài 2 các bài Triết hay luận Pháp văn, Anh văn cho thấy hệ số bản thân người chấm, hệ số tin cậy và sai số do hai giám khảo chấm, cách nhau trung bình hai điểm, có khi là 4 điểm. Thường trước khi bắt đầu chấm, giám khảo ngồi thảo luận “thang điểm”. Phần này thì cho bao nhiêu điểm, phần kia bao nhiêu điểm… Sau đó, cộng lại các điểm đã cho. Sự sai biệt giữa hai giám khảo chấm cùng một bài là từ hai đến ba điểm, có khi 5 điểm cho thấy việc chấm thi thiếu công bằng, thiếu khách quan. Giả dụ bài Triết ban C, hệ số 4. Cách nhau 3 điểm, nhân 4 trở thành cách nhau 12 điểm. Quá bất công cho học trò, vì nhiêu khi chỉ cần một điểm là đủ đỗ?

Kinh nghiệm bản thân khi tôi thi tú tài 2 ban C, chọn Pháp Văn làm sinh ngữ một. Bài thi bắt buộc là một bài luận văn chương Pháp chọn trong các tác giả thế kỷ 19 như Victor Hugo, Alfred de Vigny, Lamartine, Chateaubriand vv… Sinh ngữ 2 là Anh văn thì gồm có một bài luận luân lý. Cả năm đã học theo chương trình như thế. Nhưng nghe tin đồn là năm nay, giáo sư Nguyễn Văn Lúa, giáo sư Pháp Văn đại học Văn Khoa xuống chấm thi. Không ai bảo ai, một số học sinh sợ ăn điểm một hai gậy của giáo sư Lúa bèn trốn ông, chọn Anh văn làm sinh ngữ một.

Tên sao trùng với người thế. Gặp ông là lúa đời rồi. Ông nổi tiếng hung thần đánh rớt học trò. Vậy mà được đồng nghiệp kính nể. Anh văn vốn tôi đã chẳng giỏi gì, phần lớn thời gian tự học lấy trong “Butterfly”. Giọng đọc Anh văn thì thầy còn đọc trật huống chi trò. Sang Mỹ này vừa chẵn 30 năm mà nói Mỹ vẫn chưa hiểu! Sau bài luận văn chương ép uổng đó, từ đó đến nay, tôi không hề dám viết một câu tiếng Anh nào nữa, mặc dầu việc biên khảo hiện nay, phần lớn, tôi đều dựa trên sách viết bằng tiếng Anh.

Nói theo kiểu giáo sư Dương Thiệu Tống, nói Mỹ nó không hiểu thì nó dốt hay mình dốt? Giáo sư Dương Thiệu Tống còn viết bài: Trẻ chưa ngoan, Nguyên nhân? Tôi thấy ông thật thà quá. Nguyên nhân chính là cộng sản mà ông cứ nói đâu đâu?

Ông Cụ Vương Hồng Sển trong cuốn Hơn nửa đời hư có kể đi dự thi concours để làm việc cho Pháp, thi mãi không đậu. Ông viết: “Kỳ nầy, chua cay là rớt số Một, khít nút với người đội sổ. Gặp thầy bói tên Trần Thúc Sanh, coi tay và coi tướng, nói mình về già tốt phúc, năm nay không đậu vì tiểu nhơn ám hại, muốn đậu phải liều như đánh bài thua . Nhưng mình vẫn nhất quyết “Không liều như đánh bài”, chỉ còn tự trách còn óc mê tín, tin dị đoan và vẫn đi xem bói”. Cuối cùng ông kết luận: “Cám ơn đã được thi rớt” (Trích Hơn nửa đời hư, Vương Hồng Sển, trang 226-228)

Nói chuyện với mấy vị giáo chức lớn tuổi, họ thường ân hận là trong đời đi dạy, họ đã chấm điểm ngặt nghèo quá. Vì mình mà có đứa phải đi lính, có đứa biết đâu vì thế chết ngoài mặt trận.

Sau đây là kết quả các kỳ thi tú tài 1 và tú tài 2 vào niên khóa 1954-1955 cho thấy kết quả thí sinh thi đỗ là bao nhiêu của hai chương trình Việt và Pháp lúc bấy giờ.

 Một vài nhận xét

Tú tài Việt

Đây là năm cuối cùng của việc thi cử trong hệ thống giáo dục của Pháp.

  • Nên nhớ rằng, chính phủ quốc gia chỉ mới công bố chương trình thi lấy bằng Trung Học Phổ thông đệ nhất cấp kể từ 1950. Khóa 1, tháng sáu/1950, khóa 2 vào tháng 9/1950
  • Vì thế không lạ gì số học sinh trường Việt dự thi ít hơn trường Pháp đến gần một nửa. Điều đó cho thấy việc học chỉ dành cho những người có tiền của, loại con ông cháu cha khác hẳn kỳ thi năm 1955-1956. Trường Petrus Ký, Gia Long mới chỉ bắt đầu mở các lớp đệ thất dạy chương trình Việt, nhưng vẫn duy trì một số lớp chương trình Pháp.
  • Tỉ lệ tú tài một: thí sinh thi đỗ tú tài 1, Việt Nam, kỳ một là 25% cộng cả hai kỳ là 35%. Thấp.
  • Tỉ lệ thí sinh bỏ dự thi tú tài 1, kỳ 2, rất cao. Điều đó cho thấy, người giỏi thì đỗ ngay kỳ đầu, người không học, sau khi thi thử kỳ đầu, không đậu đã bỏ luôn, không dự kỳ khóa hai. Đáng nhẽ phải có hơn 800 dự thi khóa hai, chỉ còn hơn 500 dự thi khóa hai. Đã có khoảng 300 người bỏ cuộc. Cho dù thi lại, tỉ lệ thi đậu chỉ hơn 10% so với kỳ đầu là 25%.
  • Tỉ lệ tú tài 2: Những người thi tú tài 2 đều giỏi vì đã được sàng lọc trong kỳ thi tú tài một. Vì thế tỉ lệ thi đỗ rất cao so với tú tài một. 70%. Số lượng những người tham dự kỳ thi tú tài hai, khóa hai cũng rât cao, chỉ vắng mặt vài chục người, vì họ tin rằng họ có thể thi đậu nên không bỏ cuộc.
  • Tỉ lệ thi Trung học đệ nhất cấp đậu cao, đến hơn 50%.
  • Những con số thi cử này sẽ thay đổi nhiều trong các năm tới khi có số đông học sinh di cư vào Nam cũng như các trường trung học mở ra khắp nơi.

Tú tài Pháp

  • Nhận xét thứ nhất là thi tú tài Pháp gay go và khó đỗ hơn tú tài Việt. Vì họ chỉ thi có một kỳ, không có kỳ 2. Tỉ lệ thí sinh thi đậu chỉ đạt 20- 25%. Vì thế sau này không lạ gì, nhiều học sinh đổi sang trường Việt học thi cả hai kỳ thi Việt Pháp. Tại đường Cao Bá Nhạ, gần đường Cống Quỳnh, Trần Hưng Đạo, có một trung tâm luyện thi dành cho học sinh chương trình Pháp thi tú tài Việt. Ai là người đã học trong hai lớp này?
  • So sánh hai bảng thì kết quả thi cử Việt Nam cho đỗ nhiều hơn thí sinh người Pháp. Phải chăng học sinh Việt Nam học giỏi hơn người Pháp, chăm hơn người Pháp? Tôi nghiêng về lý do giám khảo Việt Nam chấm rộng hơn giám khảo Pháp.

Và đó phải coi là một ưu điểm, tiến bộ về phía giám khảo Việt Nam.

Thi cử qua các kỳ thi tú tài 1 và 2 ở miền Nam là công bằng vì tổ chức chặt chẽ và vì lương tâm nhà giáo

Tổ chức chặt chẽ

Tổ chức chặt chẽ, có phương pháp, có nề nếp trong thi cử là yêu tố quyết định trong thi cử. Cá nhân muốn gian lận cũng khó mà gian được. Chẳng hạn chuyển đổi người địa phương đi nơi khác là yếu tố quan trọng hàng đầu. Phân biệt tổ chức Hội đồng giám thị và Hội đồng giám khảo. Không cho phép bất cứ quan chức địa phương nào, từ Tỉnh trưởng đến người quân cảnh dính dáng xa gần tới Hội đồng giám thị giám khảo. Hai hội đồng ấy từ trung ương gửi xuống biệt lập với quan chức địa phương. Địa phương chỉ có bổn phận bắt buộc cung cấp phương tiện. Chánh chủ khảo đến làm việc là mọi chuyện phải được sắp xếp sẵn sàng cho họ như phương tiện di chuyển như máy bay quân sự, xe cộ, lính canh gác thùng đề thi, an ninh tại các trường thi.

Chẳng hạn để tiết lộ thùng đề thi do trách nhiệm ông Tỉnh trưởng thì việc trước tiên là ông Tỉnh trưởng phải đổi đi chỗ khác.

Tổ chức ấy được tiến hành như sau:

Nha Khảo Thí

Nha khảo thí là nơi đầu não làm việc suốt quanh năm nhằm mục đích tổ chức hai kỳ thi Trung học Phổ thông và 4 lần thi tú tài một và hai. Cơ quan này chia ra nhiều bộ phận riêng rẽ, biệt lập như tổ chức các Hội đồng Giám thị và Giám khảo, phân phối điều động các giám khảo, giám thị. Sài Gòn vì là trung tâm nên nơi đây còn chia ra nhiều Hội Đồng như Hội Đồng ban B, ban C và D, Hội Đồng ban A. Các tỉnh thì có các Hội Đồng Giám khảo như Huế, Nha Trang, Cần Thơ vv… Hội Đồng Giám thị thì tổ chức tại các địa phương như các tỉnh Quãng Ngài, Đà Nãng, Hội An, Quảng Trị vv… Khi các thí sinh thi xong thì bài thi và hồ sơ của Hội Đồng Giám Thị được chuyển tất cả về Huế.

Nhưng bộ phận quan trọng của Nha Khảo thí là hội đồng ra đề thi. Bộ phận này nằm trót lọt trên lầu 3 của Nha Khảo Thí.

Người ta gọi đùa là một vương quốc thi cử. Nội bất xuất, ngoại bất nhập.

Trung bình mỗi môn có hai giáo sư trung học có kinh nghiệm phụ trách. Họ có bổn phận cân nhắc kỹ lưỡng từng câu hỏi giáo khoa, từng bài thi sao cho đúng. Không có kẽ hở như có thể để học trò hiểu lầm câu hỏi hay có thể có hai cách trả lời vv… Hoặc đề tài cần vừa trình độ học trò, không quá khó. Có nhiều năm, bài toán ra quá khó, nhiều học trò giỏi cũng ngắc ngư. Báo chí phản ứng dư luận rùm beng. Riêng đề thi ban Triết, nhiều vị không dám tự mình đề xướng ra một đề thi mới và thường chọn các đề thi có bài luận giải đáp trong sách Foulquié cho chắc ăn. Vì thế, các giáo sư cũng lấy các đề thi và bài luận trong sách này dạy cho học trò. Không có “học tủ” đâu, vì có đến 4, 5 cuốn Foulquie với hàng trăm bài mẫu.

Sau khi đã quyết định chọn được đề thi rồi, các vị ấy phải tự mình đánh máy, tự mình quay ronéo, tự mình để vào các phong bì. Niêm phong lại. Phong bì đóng khằn bằng xi. Phòng đề thi được bảo mật, có người canh gác, có hệ thống an toàn riêng để tránh sự đột nhập của người lạ. Tất cả tổ chức khắt khe như vậy chỉ nhằm mục đích bảo đảm an toàn cho việc thi cử được bảo mật tối đa, giữ được công bằng.Tuy nhiên tổ chức bảo mật khắt khe đến đâu đi nữa vẫn có yếu tố con người.

Vì thế, vấn đề còn lại vẫn là cá nhân, tư cách người thầy.

Điều đó chính là rường cột của một nền giáo dục chân chính.

Nhân cách người thầy qua thi cử

Chắc các vị lớn tuổi một tý còn nhớ câu chuyện giáo sư Hoàng Cơ Nghị, giáo sư toán đã đánh rớt cô em gái tài giỏi của mình. Chẳng những không cho đỗ mà còn “trù ếm” đánh rớt oan. Sau này, cô tức khí bỏ đi Pháp học mà bằng cấp chẳng những không thua gì anh, còn vượt trội.

Không ai có thể đòi hỏi một giám khảo như ông Hoàng Cơ Nghị. Nhưng đó là một tấm gương.

Cứ lấy kinh nghiệm bản thân cho thấy, trong suốt cuộc đời đi chấm thi, tôi chưa hề thấy một lần, dù là thứ học trò ruột dám mở lời nhờ cậy. Tuyệt đối không. Tôi vừa nói chuyện hỏi thăm một cháu trai hồi đó đi thi đỗ hạng bình, tôi nhớ lại trong nhà, chắc cũng có nhiều cháu con các chị đi thi, vậy mà chú hay cậu nó có giúp được gì không? Trong nhà còn không giúp được làm sao giúp được người ngoài? Nếu có 2000 ngàn vị giám khảo trên toàn quốc mà mỗi người có độ hai ba “con gà”, vị chi là có 6000 thí sinh được chạy chọt, được điểm cao thì còn gì giá trị việc thi cử nữa?

Cứ nghĩ như thế để thấy tổ chức thi cử nghiêm chỉnh và nhân cách người giám khảo là hai yếu tố tạo cho các kỳ thi ở miền Nam trước 1975 đâ đạt được sự công bằng cho mọi thí sinh.

Cuộc đời thầy giáo ở đâu cũng thế phần đông nghèo, bổng lộc không có, chức tước cũng không. Cùng là bạn học, dù chỉ là một thiếu úy, nếu nó không dại dột sắm hòm tô bia cho mình, biết đâu có ngày nó lừng lững lên đến tá tướng. Cùng đỗ tú tài, đứa học Đại Học Sư Phạm, đứa học Quốc Gia Hành Chánh. Lương bổng ngạch giáo sư có nhích hơn bên Quốc Gia Hành chánh. Vậy mà một ngày nào đó không xa. Ông bạn Quốc Gia Hành Chánh cứ lên như diều như trường hợp ông Nguyễn Bá Cẩn. Chẳng may không lên, nếu nó lanh lợi một chút cũng có xe cộ, nhà cửa, vợ đeo hột soàn… Nó đi xe hơi, đánh bạc ăn bạc trăm bạc ngàn. Mình đi xe đạp hoặc xe gắn máy, đánh mạt chược cò con, được thua đáng giá chục tô phở.

Ấy là chưa kể để giữ an ninh cho gia đình, hoặc phú quý sinh lễ nghĩa, nó lập phòng nhất, phòng nhì, phòng ba, phòng bốn. Trong đời tôi, chỉ một lần thấy một ông giáo có phòng nhì mà thôi.

Nói thế chỉ có ý nói nhà giáo ít có cơ hội làm điều xấu. Tôi có bạn là Quốc Gia Hành Chánh, nay nghiên cứu sử ưu thế hơn “sử gia” mà lúc ở hành chánh chẳng biết tơ hào, sơ múi gì. Có rất nhiều người như thế. Người hiền lương ở đâu cũng có thể là hiền lương được.

Nhưng người đời theo thói thường trọng nhau khinh nhau ở chỗ đó.

Nhà giáo suốt đời dậm chân tại chỗ, không lên mà cũng không xuống, “không có tương lai”. Cái uy tín thầy giáo không ai ban phát cho ông được. Tự ông mà có.

Ông vì thế cũng không cần xin sỏ bất kỳ ai.

Thầy Nguyễn Văn Lục và các nam sinh trường Trung Học Ngô Quyền.

 Trường hợp các nhà Giáo như Hoàng Xuân Hãn, Trần Trọng Kim là hi hữu của thời trước. Trong Nam có cụ già Hương thì nghiệp cầm phấn chỉ là lúc ban đầu. Nhưng cái background nhà giáo đã làm nền, đánh bóng cho cuộc đời chính trị của cụ sau này.

Mặc dầu sống thanh bạch, các thầy giáo miền Nam, trung và tiểu học, nhất là tiểu học. Đặc biệt là tiểu học có quyền ngửng đầu để thấy rằng thi cử cũng như giáo dục là điều còn lại duy nhất giúp cho người miền Nam thấy hơn miền Bắc.

Miền Nam có thể thua miền Bắc để mất miền Nam. Nhưng nền giáo dục ở miền Nam dù còn chập chững thiếu sót mà thực tế ngày nay cho thấy vượt trội rất xa miền Bắc cộng sản cả về chất lượng đào tạo và phẩm chất đạo đức.

Tất cả những ai đã đỗ đạt ở miền Nam vì thế đều có quyền tự hào là mình đã xứng đáng đỗ như thế. Và chỉ cần nhìn những người Việt Nam ở hải ngoại đã có thể học lại, có thể đỗ đạt ở nước ngoài không thua bất cứ di dân nào. Và tất cả chúng ta đều có quyền hãnh diện với chính mình và hãnh diện vì đã được đào tạo trong một môi trường giáo dục lành mạnh, nhân bản và đạo đức ở miền Nam Việt Nam.

Cụ thể là có khoảng 2800 dược sĩ hiện nay đang hành nghề tại Hải ngoại.(Trích Danh sách dược sĩ Việt Nam trên thế giới Tự Do, xuất bản năm 1997)

Và có khoảng 2600 bác sĩ đủ loại cũng đang hành nghề khắp nơi trên thế giới. (Trích Danh sách Y sĩ Việt Nam trên thế giới Tự Do, 1997}.

Còn lại biết bao nhiêu kỹ sư, giáo sư, Quốc Gia Hành Chánh cũng đã tạo được chỗ đứng cho họ ở xứ người.

Về phía đồng bào tỵ nạn đi từ miền Bắc hoặc đã ở các nước Đông Âu với tư cách sinh viên du học sau khi các nước cộng sản Đông Âu sụp đổ, đã có bao nhiêu người đã đỗ đạt và thành công ở xứ người? Tôi sợ rằng con số là ít ỏi. Hiện nay các di dân đi từ miền Bắc đang gây nhiều trở ngại cho các nước Đông Âu và họ tìm cách tống xuất những người Việt trên về lại Việt Nam vì rất nhiều lý do.

Nền giáo dục đào tạo do cộng sản cầm đầu và chính quyền cộng sản có trách nhiệm gì về những thành phần sống bất hợp pháp này? Phải chăng nó chỉ là hậu quả tất yếu của một chính sách giáo dục phi nhân bản mà những thành phần di dân từ miền Bắc nay phải gánh chịu hậu quả?

Nói ra đây không phải để so bì với các anh chị em đó, nhưng cần nói thẳng là do hậu quả cách đào tạo và nền giáo dục dưới chế độ cộng sản đã quá yếu kém về mọi mặt.

Vậy mà họ dám viết phê phán nền giáo dục của VNCH như sau: “ Mỹ và chính quyền Sài Gòn cố gắng kết hợp mọi triết học cũ xưa với triết học mới nhất nhồi nhét những thế hệ thanh thiếu niên “lý tưởng quốc gia” giả hiệu, “thế giới tự do”, làm cho họ chạy theo lối sống thực dụng, hoặc sợ hãi sức mạnh nước ngoài, rồi bi quan, yếm thế, an phận” (Trích Địa chí văn hóa .. trang 768)

Những vụ bê bối trong thi cử ở miền Nam.

Mặc dầu vậy, vẫn có những vụ bê bối không tránh được và người viết không ngại vạch áo cho người xem lưng. Không phải để bôi xấu gì mà để cho thấy trong cái tốt có cái xấu.

Cá nhân tôi xin thú thật thì tôi cũng đã làm nhiều việc bê bối thời trẻ. “Tôi hư trong bụng tôi biết”. Ngồi coi ciné trong rạp mà cứ “xé rào”. Ôi tuổi trẻ sao mà mệt thế! Chuyện gì cũng dám làm. Vậy mà đụng đến thi cử là bàn tay như nhụt lại, không dám xé rào thò tay vào. Điều gì đã làm cho người tuổi trẻ biết tôn trọng, biết giữ gìn “nhân cách” của mình, một cái nhân cách mà so với một Hoàng Cơ Nghị là thua một trời một vực?

Nhưng dù gì thì cũng vẫn là con người. Việc gian lận thi cử cũng vẫn xảy ra – thời nào cũng có – và điều đó không có gì lạ.

Nếu đời hết tham lam thì biết đâu chúng ta đã có cơ hội ngồi chung bàn với Phật? Và có dịp bắt tay ông Thánh Phê Rô lừng lững vào Thiên Đàng?

Trong truyện đời xưa, ông Trương Vĩnh Ký kể truyện đút sáp vào đít hối lộ cho cọp ăn cũng kể là thâm thúy.(Ý của Vương Hồng Sển). Trong Hồi ký Nguyễn Hiến Lê viết: “Năm đó, tôi thi xong môn chính tả buổi sáng tin chắc là rất ít lỗi mà qua được môn đó, tôi sẽ đậu. Buổi chiều, bỗng có tin là đầu bài bị tiết lộ nên bỏ, sáng hôm sau thi lại. Nghe nói kẻ tiết lộ đầu bài là một học sinh ban tú tài bản xứ trường Bưởi được thống xứ Bắc Kỳ yêu vì giỏi Pháp Văn. (Trích Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, trang 144)

Việc thi cử như trên dù có sơ xuất cũng chỉ thu gọn vào phạm vi cá nhân mà không có tính cách “đại trà” như hiện nay ở Việt Nam.

Tôi nêu ra đây một vài vụ việc, nêu cả danh tánh, trong đó có những người tôi cũng biết. Nêu ra để chứng tỏ một thứ trong sáng, transparency, cần thiết mà không có một chút ác ý cỏn con nào. Câu chuyện nay đã vào quá khứ, nói ra như một bằng chứng cần phải nói thôi. Và xin lưu ý, cả hai vụ nêu ra đây đều xảy ra thời đệ nhị Cộng Hòa của miền Nam Việt Nam. Lúc đó kỷ cương, kỷ luật học đường- do chiến tranh một phần, nhưng do những người lãnh đạo miền Nam lúc đó phẩm chất đạo đức yếu kém, sự có mặt của người Mỹ tạo ra những xáo trộn xã hội không tránh khỏi, thêm nhiều nhố nhăng chạy theo đồng tiền- Và truyên gì đã xảy ra thì phải xảy ra thôi. Có nhiều trường hợp chỉ là tin đồn thì chúng tôi không xét đến như có đường giây nọ, giây kia ở tỉnh Biên Hòa.

Vụ thứ nhất liên quan đến hai giám khảo Nguyễn Hữu Lễ và Phạm Kiều Tùng. Việc này xảy ra ở Vĩnh Long do có lộ đề thi trước và giám thị đã bắt được và truy ra manh mối từ hai vị giám khảo trên. Hồ sơ nội vụ đã được phúc trình về bộ giáo dục dưới thời bác sĩ Nguyễn Lưu Viên và Nguyễn Danh Đàn. Hồ sơ được chuyển cho Thanh tra đặc biệt. Vụ này có liên quan đến một người cháu của ông Trần Văn Văn và vì thế bà Trần Văn Văn có can thiệp, gọi điện thoại cho vị thanh tra, nhưng vị thanh tra cứ thẳng mà làm. Và cho biết rằng không có bổn phận trả lời bà. Kết quả là hai vị giám khảo bị vi phạm kỷ luật trường thi, bị đổi đi nơi khác. Vụ này thật ra chỉ là do tình cảm cá nhân như liên hệ bà con họ hàng chứ không phải là làm tiền hay tham nhũng. Ảnh hưởng xấu có giới hạn rõ ràng và có thể giảm khinh được theo cái lối xử sự của người mình.

Vụ thứ hai liên quan đến một giáo sư toán dạy Pétrus Ký, ông Cam Duy Lễ, sau về làm trong nhóm ra đề thi. Gia đình một phụ huynh học sinh đã bỏ một số tiền ra mua đề thi của ông giáo sư này. Đề thi chắc để bảo mật chỉ giao cho thí sinh này trước vài tiếng. Nhưng thí sinh này tham muốn gỡ lại số tiền đã bỏ ra bèn bán đề thi. Chẳng mấy chốc mà đề thi được tiết lộ cho nhiều người. Ông giáo sư này bị điều tra, bị hoàn trả vê sở nhân viên và để làm gương cho những người khác, ông bị đưa ra tòa.

Dù sao, việc này đã gây một tiếng xấu trong ngành giáo dục không ít.

Các Hội Đồng Thi

Phần này viêt theo trí nhớ, có thể có một hai tiểu tiết thiếu sót, xin được thông cảm.

Để bảo đảm cho các kỳ thi đạt được kết quả mong muốn. Nguyên tắc của bộ giáo dục miền Nam là điều động các giám khảo từ địa phương này sang địa phương khác. Giám khảo ở Huế thì vào Nha Trang và ngược lại. Các giám khảo các tỉnh lẻ cũng bị điều động đi nơi khác. Mặc dầu tốn kém và khó khăn di chuyển. Nhiều địa phương mất an ninh, bắt buốc phải dùng phương tiện máy bay và lúc đó phải nhờ bên quân đội đảm trách việc di chuyển các giám khảo. Nguyên tắc di chuyển giám khảo ra khỏi địa phương của họ đã được duy trì từ năm 1955 đến 1975 và đem lại kết quả khá mỹ mãn.

Có các vị giáo sư lão thành cho hay hồi 1955-1956, số thí sinh còn ít, bài thi rọc phách rồi giám khảo được phép mang về nhà chấm. Vậy mà đâu có chuyện gì xảy ra?

Việc coi thi và chấm thi là hai bộ phận riêng biệt.

Các giáo sư trung học phải đảm trách hai nhiệm vụ một lúc: Vừa là giám thị vừa là giám khảo. Từ đó phân chia ra hai hội đồng: Hội đồng giám thị để coi thi, hội đồng giám khảo để chấm thi.

  1. Hội Đồng Giám thị

Công việc của Hội đồng giám thị là tổ chức các kỳ thi viết tại các tỉnh nhỏ như Phan Thiết, Đà Lạt, Lâm Đồng, Vũng Tàu, Di Linh, Quảng Ngãi, Long Xuyên, Rạch Giá vv… Nghĩa là học sinh ở đâu thi tại đó.

Báo chí trong nước hiện nay cho tin, các học sinh phải thuê nhà trọ để ứng thi chẳng khác gì các sĩ tử thời Nho Học là bao nhiêu. Trên thế giới chắc chỉ có Việt Nam hiện nay làm như vậy.

Ban Chủ tịch Hội đồng thường có ba người: Một chủ tịch hội đồng, một phó chủ tịch và một thư ký. Các chức vụ chủ tịch, phó chủ tịch thường do các hiệu trưởng hay các giáo sư có thâm niên trong nghề đảm trách. Tại địa phương, các ông phó tỉnh Trưởng, trưởng ty tiểu học- Không có Hiệu Trưởng, vì hiệu trưởng, cũng được điều động đi nơi khác- giúp sắp xếp lo liệu về hành chánh, điều động an ninh quân đội hay cảnh sát nếu có canh gác thì phải ở ngoài khuôn viên nhà trường. Các ông giám thị, tổng giám thị lo liệu sắp xếp chỗ ngồi theo số báo danh.

Đề thi đã được gửi tới tòa Tỉnh trưởng và Tòa tỉnh trách nhiệm cho người canh gác hòm bài thi, nếu cần. Cho dù có gan trời, các ông ấy cũng không dám đụng đậy vào các bao bì đề bài thi này.

Đến ngày thi, ông chủ tịch hoặc ông phó chủ tịch Hội đồng thi đến tòa tỉnh làm biên bản nhận bao bì bài thi. Tòa tỉnh cho xe quân cảnh hộ tống xe của Hội Đồng thi đến các hội đồng thi giao bài.

Đây là lần đầu tiên trong đời nhà giáo có tý oai dựa hơi tỉnh trưởng, đi xe có “lính hầu”, tìền hô hậu ủng.

Phần thư ký hội đồng có bổn phận sắp xếp các giám thị địa phương là các giáo viên tiểu học kèm theo một giáo sư từ chỗ khác đến. Nghĩa là mỗi phòng thi gồm hai giám thị. Giám thị 1 là giáo sư trung học, giám thị 2 là giáo viên tiểu học. Bên ngoài, mỗi hành lang có thêm một giám thị hành lang là một giáo sư để kiểm soát chung cả hành lang.

Trước giờ thi các giám thị xem bảng sắp xếp đi về phòng thi đã được chỉ định kèm theo một hồ sơ các giấy tờ cần thiết cho mỗi phòng như biên bản. Đúng giờ thi, các giám thị hành lang sẽ mang phong bì đề thi được gián kín giao cho các giám thị mỗi phòng.

Tổ chức rất chặt chẽ, nhiệm vụ được phân chia rõ ràng. Bao nhiêu năm vẫn thế, ít có sự thay đổi. Vai trò càc giám thị là giáo viên địa phương có hơi tế nhị như gặp thí sinh quen biết hoăc họ hàng. Nhưng thật sự không có vấn đề, vì còn có giám thị 1 có nhiệm vụ kiểm soát tất cả. Chưa kể còn giám thị hành lang.

Tờ giấy thi phát cho thí sinh làm có chữ ký của hai giám thị. Không có chữ ký của họ là bất hợp lệ. Cho nên tráo bài thi là truyện khó có thể xảy ra.

Hết giờ thi, nhiệm vụ của giám thị là thu bài xếp theo thứ tự vần, đánh số mật mã ở ô vuông trên mỗi bài thi. Phía ngoài ghi số thí sinh có mặt. Số đó là mật mã của sấp bài Bài sau đó, được buộc chặt đóng thùng, gửi máy bay về Hội Đồng giám khảo.

Công việc của Hội Đồng giám thị kể là xong. Số phận học sinh nay nằm trong chính những xấp bài mà họ đã làm và nhất là trong tay các vị giám khảo.

Thế là hết một mùa thi đối với học trò.

Công lao khó nhọc cả năm trời quyết đinh trong mấy tiếng đồng hồ, kéo dài trong mấy ngày. Phù du như ảo ảnh. Đôi mắt tuổi trẻ nay ánh lên nỗi niềm lo âu và tin tưởng. Sự mong đợi và sự hy sinh vô bờ bến của bậc làm cha mẹ. Làm sao nói hết cho ra lời. Họ chỉ mong con cái thi đậu.

Nỗi niềm đó kéo theo tâm sự của cả miền Nam mỗi khi đến mùa thi.

Phần ông thầy, người viết bài này, đi chấm thi xong ở một nơi nào đó, vội về thăm một vòng xem đứa nào đỗ, đứa nào rớt. Nhiều quá, không nhớ hết. Tất cả trách nhiệm 12 lớp đệ nhất vừa công vừa tư. Chỉ mong chúng đậu nhiều. Đậu nhiều thì thầy mừng và không khỏi hãnh diện. Có nước mắt mừng vui và chia sẻ. Kỷ niệm vào một buổi trưa nắng, trong nhà học trò đang mở tiệc, ông thầy xuất hiện đột ngột, chỉ kịp hỏi vài câu đủ làm nên những cảm xúc và kỷ niệm nhớ cả đời.

Đó cũng là ý nghĩa cuộc đời ông thầy.

Nhưng cho dù tổ chức thi cử có chặt chẽ thế nào đi nữa, người ta vẫn có thể gian lận. Tôi không chối cãi điều đó. Nhưng điều mà tôi nghĩ rằng, tổ chức thi cử ở miền Nam được tốt đẹp không hẳn ở tổ chức chặt chẽ.

Thi cử chặt chẽ và đàng hoàng là do con người của nhà giáo.

Tôi đã nhìn lại một số bậc đàn anh để thấy rằng nơi những người thầy ấy không có chỗ cho điều xấu có chỗ cư ngụ. Nhân cách họ bày tỏ một sự trong sáng không tì vết. Nhìn họ, nhìn con người họ nhìn phong cách họ, không một ai dám mở lời xin sỏ.

Xin vinh danh họ. Những người đã đào tạo nên những thế hệ học sinh sau này thành người.

  1. Hội đồng giám khảo

Đây là công việc quan trọng nhất, quyết định số phận học trò. Công việc chấm thi, cộng điểm, lên danh sách kéo dài cả tháng trời. Rất thận trọng, rà soát lại từng thí sinh một.

Nhiều khi công việc chấm thi đến mệt mỏi và chán chường. Phải nhẫn nại để cố gắng đừng chán nản. Nhất là công việc cộng điểm được chia ra từng nhóm để làm việc.

Nếu chấm ở Huế thì có dịp thưởng thức cái nóng gió Lào. Cái nóng chảy mỡ. Những bữa cơm cay sè thanh đạm với những cuộn rau sống xanh và đắng ngắt. Những tô canh cá bống cay xè, điểm tô bằng một hai con cá hiếm hoi như bơi lội tung tăng. Những đĩa thức ăn Tiểu, Trung, Đại đến là ít ỏi và cạnh đó là một lô ăn mày ngồi chực săn để vét tý canh thừa cơm cặn.

Huế đồng nghĩa với nghèo trong những bữa ăn. Nghèo đến tội nghiệp. Nhưng thiếu nữ Huế vẫn giữ nếp nhà, vẫn cố che dấu tất cả trong những tà áo dài. Ngay cả những người bán hàng quà rong cũng ăn mặc tươm tất.

Đó là phong cách Huế.

Gái Huế vẫn kín đáo và mở phơi trong biện chứng khép mở, chờ đợi, đón nhận và sẵn sàng. Ngoài những người con gái Huế ra, Huế còn gì để nói? Nói về Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường chăng? Hay nói về các phong trào tranh đấu?

Không có gì đẹp và có thể so sánh được với tà áo Huế. Không ở đâu có những mái tóc chải mượt và đôi con mắt của người con gái Huế ngồi bên mạn thuyền.

Nó gửi gắm nhiều thứ lắm.

Thôi thì cũng phải quay về với bài thi. Bài thi được rọc phách. Thường ông Phó chủ khảo đánh số mật mã. Mật mã trên phần phách phía trên và mật mã trên phần bài thi. Sau này chấm xong, ráp hai phần đó có số mật mã giống nhau là được.

Mỗi bộ môn có chừng độ 7, 8 giám khảo. Chấm lâu và mất nhiều thì giờ nhất là môn Triết. Có một trưởng ban cho mỗi môn. Mỗi giám khảo chấm bài nhận xấp bài đã ghi mã số bên ngoài bìa như xấp 25 bài, sẽ ghi xấp 25. Trước khi chấm phải họp lập thang điểm để thống nhất việc cho điểm. Bài cho điểm cao, bắt buộc phải đưa cho một giám khảo khác chấm lần thứ hai, sau đó cộng lại cho trung bình. Rất tiếc, đáng nhẽ bài cho điểm thấp quá cũng cần có chấm lại lần thứ hai cho công bằng.

Sau khi các giám khảo chấm xong. Vấn đề còn lại có tính cách hành chánh như là ráp phách, cộng điểm. Ngay việc cộng điểm cũng cần hai người, đọc điểm lên, rồi cộng, rồi so sánh, rà soát lại để tránh cộng sai.

Công việc tổ chức khá là chặt chẽ.

Hết những giờ làm việc căng thẳng và mỏi mệt ra đến cổng trường là bị đám đông bu lại, hỏi thăm tíu tít, hốt hoảng lo âu. Hầu hết những câu hỏi không trả lời được đành tìm cách thoái thác cho xong. Công chúng chờ đợi, trẻ già người lớn, đứng đông nghẹt trông ngóng trước cổng trường. Càng gần đến ngày công bố kết quả, bầu khí như sôi sục hẳn lên. Lại chờ đợi. Họ đổ xô đến các giám khảo, hỏi thăm tin tức, dúi những mảnh giấy nhờ vả xem kết quả dùm.

 Đúng là không khí mùa thi cử có lẽ chỉ nhìn thấy ở Việt Nam.

Vô ích, chẳng ai có thể làm gì cho họ được. Bầu khí đó nói lên tầm quan trọng của mùa thi. Nhất là cuối thập niên 1960, sau Tết Mậu Thân. Tương lai tuổi trẻ như thế nào có thể đổi khác khi những mảnh giấy in ronéo đ ược dán lên.

Thi cử và tương lai tuổi trẻ gắn liền vào một. Đó là cái ý nghĩa nhất trong mùa thi cử.

Đầu thập niên 1960, lúc bấy giờ còn có kỳ thi vấn đáp nữa. Thêm một thứ rào cản vô ích và thừa thãi.

Nó chẳng để làm gì. Nếu không muốn nói nó vô tích sự. Chẳng kiểm soát được khả năng và học lực của học sinh. May mà các kỳ thi vấn đáp đã bị bãi bỏ.

Tú Tài I.B.M

Cho đến lúc này, người viết không nắm chắc được việc thí nghiệm thi trắc nghiệm, còn gọi là tú tài IBM là do khuyến cáo của Mỹ hay do các vị đi du học ở Mỹ về đề nghị. Điều chắc chắn là thử nghiệm tú tài IBM đã bị một số viên chức và báo chí lên tiếng phản đối. Sự phản đối này hiểu được vì bất cứ cải cách nào về phương diện gíáo dục đều gây phản ứng trái ngược. Nhưng xem ra phản ứng của dư luận có phần yếu ớt và cuộc thi trắc nghiệm bậc tú tài vẫn được tiến hành cho đến 1975.

Có thể các câu hỏi trắc nghiệm lúc đầu chưa hoàn chỉnh. Báo chí mang các câu hỏi đó ra bình phẩm và chê trách. Nhưng cái xu hướng thi trắc nghiệm là điều không thể không làm.

Cái lợi thứ nhất là tránh cho học sinh khỏi bị rơi vào cái bẫy may rủi với chỉ một bài toán hay chỉ một bài luận duy nhất. Các câu hỏi dàn trải suốt cả chương trình không cho phép học sinh “học tủ”. Các câu hỏi đòi hỏi trí nhớ nhưng cũng đòi hỏi trí thông minh tránh tình trạng “Học gạo”.

Áp dụng thi trắc nghiệm chỉ là làm những điều mà các nước tân tiến đã thi hành từ lâu rồi.

Bên cạnh đó vẫn còn duy trì bài luận để học sinh vẫn có thể vận dụng óc suy luận tổng hợp, khả năng trình bày biện chứng vv…

Cái lợi trước mắt là học trò thi trắc nghiệm nay có thể được điểm cao. Tỉ số đậu có khá hơn và các học sinh đậu bình hay bình thứ là thường.

Câu truyện thi trắc nghiểm kể như mới đi những bước đầu dọ dẫm thì miền Nam bị rơi vào tay cộng sản. Chế độ không biết gì về phương pháp thi trắc nghiệm nên dẹp bỏ luôn.

Chế độ giáo dục mới giống loài tôm hùm lúc nào cũng cựa quậy, nhưng là đi những bước lùi, giống như loài tôm hùm luôn luôn đi lùi. Ý tưởng mà tôi lấy lại của Umberto Eco trong cuốn sách của ông: À reculons, comme une écrevisse. Giật lùi giống như loài tôm hùm.

Tôi đã có kinh nghiệm chấm thi trong cả hai chế độ. Khoảng tháng chín 1975, tôi được điều động đi chấm thi tuyển vào l ớp 10. Chấm xong là hết. Từ đó, tôi không còn biết số phận các bài chấm đó ra sao nữa?

Đấy sự khác biệt nó từ chỗ ấy. Ôi những con tôm hùm giáo dục của người cộng sản. Con tôm hùm giáo dục nó tiến lên bằng những bước đi lùi.

Đối với con tôm hùm, tiến có nghĩa là lùi. Tuổi trẻ bây giờ trả giá cho những chính sách sai lầm trong giáo dục từ đó đến nay. Vậy mà họ dám viết như thế này : “Sài Gòn- Thành phố Hồ Chí Minh với những kinh nghiệm giáo dục sâu sắc, cả thành tựu lần thất bại, chắc sẽ trở thành môi trường thuận lợi nhất cho một nền giáo dục và đào tạo con người vừa có nhân cách vững vàng, vừa có chuyên nghiệp, khoa học tiên tiến”. (Trích Giáo Dục ở Sài Gòn, trong Địa chí văn hóa, trang 748)

Vài kỷ niệm nhỏ về thi cử

Ai thích thì đọc, không đọc thì cứ bỏ qua nhé. Năm ấy, tôi cùng với Trương Ân, bạn học cũ thời sinh viên, nay là hiệu trưởng Quy Nhơn đi coi thi ở Phan Thiết. Trương Ân người phốp pháp, mặt đỏ gay như chú Ba Tàu. Tính nết vui vẻ, hồn nhiên, năng động, tháo vát, nhiệt tình, có lòng, đi đến đâu đem không khí vui nhộn đến đó. Được rất nhiều bạn bè đồng nghiệp quý mến từ thời đi học. Anh đã mất vì đột quỵ ở Paris khi còn trẻ. Trương Ân là chủ tịch Hội đồng thi, còn tôi là tà lọt của Trương Ân. Viết mấy dòng này, tôi muốn thân tặng các cựu học sinh Cường Để Quy Nhơn và em gái Trương Ân và chồng là Tích. Chúng tôi đáp máy bay quân sự từ phi trường Nha Trang đi Phan Thiết. Khoảng đường Nha Trang- Phan Thiết tuy ngắn, nhưng kém an ninh nên đành dùng máy bay. Tôi đoán là loại máy bay của Úc Đại Lợi. Trên máy bay không có ghế ngồi. Chúng tôi ngồi bệt xuống sàn, chen chúc với tủ bàn ghế, rương hòm đủ thứ. Nóng bức như lò lửa. Chắc là có sĩ quan nào dọn nhà đổi ra Phan Thiết chăng. Gần đến nơi, tài xế máy bay như biểu diễn, nhào xuống như tụt dốc, phải bám chắc lấy thân máy bay. Sợ hết hồn vía.

Hồn nhiên và vui tính như Trương Ân cũng không có bụng nào mà cười được. Đến nơi, quần áo xốc xếch, tóc tai bù xù, người nhễ nhại mồ hôi thì đã có ông Trưởng Ty tiểu học ra đón. Ông “mẫn cán” thế này chắc có truyện nhờ vả rồi. Xe đưa chúng tôi về nhà Tùng, cũng là bạn học cũ, hiệu trưởng Phan Thiết đi coi thi chỗ khác. Nhà Tùng giàu có, nhà mới quá đẹp, khang trang, mát mẻ.

Thôi đúng như là đi nghỉ hè.

Nghỉ một chút, rửa mặt mũi xong thì ông trưởng ty vào đề mời ba chúng tôi đi ăn cơm tối. Trương Ân “lão luyện” trong nghề nên từ chối rất khéo. Tưởng yên, ai ngờ chiều tối, một hiệu ăn Tầu chở bàn ghế tới bầy tiệc ngay tại nhà. Không có cách nào khác đành chịu trận ngồi ăn. Trong bàn tiệc có thêm mấy người, trong đó có hai cô giáo và một giáo viên trẻ, con trai ông Trưởng ty.

Chúng tôi ăn uống vui vẻ. Không một chữ nhắc đến thi cử. Nhân tiện đó, mấy cô giáo mời chúng tôi, bữa sau đến nhà ăn cơm. Chúng tôi hoan hỉ không thắc mắc.

Buổi sáng thi cử diễn ra bình thường. Chỉ có điều tôi nhận ra giáo viên, con trai ông trưởng ty lại coi ở một phòng khác. Xem xét lại, tôi biết là có sự nhầm lẫn. Tôi nhẹ nhàng nói nhỏ với anh ấy về lại phòng thi mà anh đã được chỉ định. Cũng hơi ngượng. Sáng hôm sau thì có sao quả tạ xảy ra cho tôi. Tôi đi rảo qua hành lang. Chỉ cần đi thoáng qua là biết ngay cô cậu nào đang “quay film”. Đầu cứ cúi gằm xuống là có chuyện. Tôi vào phòng và nhận ra “thủ phạm” dấu bài quay dưới vạt áo dài ở đùi. Tôi đến gần, cúi xuống nói nhỏ với em nữ sinh cất “bửu bối” đi và tránh không để em bị xấu hổ. Không biết vì sao, em hối hả lấy miếng giấy cho vào miệng nhai phi tang, đồng thời nói to là tôi bắt oan em. Em nói to, bù lô, bù loa làm câu chuyện thành lớn. Tôi bối rối, luống cuống rồi đành lấy bài thi của em. Dằng co dằng lại chẳng ra làm sao cả. Cuối cùng thì em thả ra và nhận tờ giấy thi mới. Tôi cầm tờ giấy làm bài đi về văn phòng Hội Đồng thi. Em hoảng tưởng tôi làm biên bản. Khổ thế, tôi lấy để vứt đi thôi. Em bỏ phòng thi, chạy theo tôi vừa nói lải nhải. Một điều tối kỵ không cho phép làm là ra khỏi phòng thi như vậy. Lại ồn ào, hình như có khóc lóc. Mọi người, các thư ký văn phòng ngoái nhìn. Nói mãi em mới chịu về. Tôi trở lại phòng thi của em, tức giận. Nhờ giáo viên ghi vào phách là: Thí sinh gian lận. Ký tên.

Buổi trưa ra về, em đón tôi tại cổng trường ra chiều tuyệt vọng không năn nỉ nữa và hét to trước khi bỏ đi: “Thầy ác quá, sau này không có con”. May là lời nguyền rủa của em không ứng nghiệm. Sau này, tôi có hai con trai và có cả hai bàn tọa bình thường. Tôi im lặng không nói gì để cho em rủa và xỉ vả. Nhưng buồn.

Cho đến bây giờ nhắc lại vẫn thấy buồn. Và tự nhiên còn hối hận vì nặng tay với em. Thôi thì cho xin lỗi. Trong đời đi dạy, niềm vinh hạnh đến cho tôi thì đầy không có chỗ chứa. Nhưng bên cạnh đó, có những ân hận việc này, việc nọ nhiều khi chẳng đáng mà vẫn còn ân hận như mắng nặng một em nữ sinh, dĩ chí có lần tát vào má một nữ sinh trước mặt đông đảo học trò. Ân hận này sao nguôi!

Bữa cơm tối tại nhà các cô giáo thật vui. Trừ Trương Ân có vợ là Hoa, chúng tôi đều độc thân. Buổi tối về nhà. Trương Ân lôi trong cặp ra một bản nhạc có nhan đề: Hãy trả lời em đi anh… Hãy trả lời em đi anh. Hắn mở đĩa nhạc trong nhà và nói: “con X nó mê cậu rồi và nó nhờ mang bản nhạc này về tặng cậu”. Thế rồi hắn rống lên theo cô ca sĩ đang hát như thể đó là mối tình của anh ta với cô X. Bản nhạc sến ơi là sến. Sau 4 ngày thi cử, chúng tôi ra phi trường về lại Nha Trang. Không biết ai đó tặng ba đứa mỗi đứa một túi sắc trong có cá mực, nước mắm nhĩ. Và mỗi người không quên nhận một lô giấy ghi tên học sinh, số báo danh vv…

Điều bất ngờ đến ngạc nhiên là X theo ra phi trường từ lúc nào, đứng sẵn ở một góc, mắt đỏ hoe. Tội nghiệp. Tôi đã vứt tất cả đám giấy tờ vì một lẽ dản dị là nhiệm vụ của tôi đã chấm dứt, tôi chẳng có thể làm việc gì cho ai cả. Tôi không có chân trong Hội đồng thi ở Nha Trang vì đây là kỳ thi tú tài một. Tôi có muốn gian lận cũng không được. Và tôi cũng đã không có dịp trả lời thư mà X đã gửi cho tôi.

Sau này X trở thành nhà văn. Phải chăng bắt đầu từ những giọt nước mắt tiễn đưa?

Mùa thi ở Huế, sau tết Mậu Thân 1968

Mậu thân xong, tôi lấy vợ trong hoàn cảnh đât nước mà tương lai không sáng sủa gì. Tôi nhận Sự Vụ Lệnh ra Huế chấm thi. Lại một tháng trời đằng đẵng, sống chung với gió Lào. Huế, nơi mà những năm trước tôi phải chứng kiến những cảnh rối loạn chính trị không mấy vui.

Nhiều lúc tôi ghét Huế lắm. Ra là buồn, về đôi khi cũng vương buồn. Trong khi xuống Cần Thơ, đi tuốt xuống miệt Long Xuyên, Rạch Giá vẫn thấy lòng thảnh thơi, ăn uống thoải mái. Đến và đi nhẹ nhàng. Chẳng biết tại sao, chẳng hề có dịp nào quen biết một cô gái.

Từ phi trường về đến thành phố, nét hoang tàn đổ nát vẫn không dấu diếm được. Những tàu lá chuối tả tơi rách nát. Những cây bị cắt đứt ngang đoạn. Những mái nhà tôn tróc nóc. Con đường dẫn vào Huế bụi mù.

Đôi mắt con gái Huế buồn tang tóc. Những “con đường tình nhân” ở Huế thưa bóng người. Vắng bóng xe đạp đi hàng đôi.

Nghỉ ngơi xong ra phố, đi một vòng. Những con đường như Trần Hưng Đạo, áo dài Huế nay không thấy thướt tha nữa.

Vết đổ nát vì bom đạn vẫn còn in đó chưa kịp sửa chữa hay không sửa chữa vì chủ nhân đã dọn đi vào Sài Gòn.

Huế đã có những mất mát không bao giờ lấy lại được. Ai phải chuộc lại cho những cái mất mát ấy?

Học trò Huế gian lận dễ sợ hơn các nơi khác. Cả con trai, con gái. Họ phải sống còn mà. Họ gian lận không dấu diếm, bắt được thì năn nỉ. Con gái thì nước mắt lưng tròng. Ai nỡ làm gì, đành ngoảnh mặt quay đi.

Lòng đã nản. Chấm thi như là “phóng sinh”, tôi cho rộng rãi hơn giám khảo khác đến hai ba điểm. Cứ có một vài ý là có điểm. Cho điểm rộng, chấm nhanh. Rồi bỏ ra phố. Nhiều giám khảo khác nhìn với ánh mắt thiếu tôn trọng.

Hoàn cảnh đất nước như thế còn có can đảm gò lưng từng phân ly nửa điểm để làm gì? Tôi nghĩ tôi hiểu biết đất nước hơn những giám khảo cù lần kia. Tôi có cái lý bắt từ chuỗi cảm nghiệm từ cuộc sống mà mặt đất đang rung lên từng hồi của bom đạn và chết chóc. Chẳng còn nghĩa lý gì nữa. Tôi như sờ thấy, giáp mặt với chiến tranh. Tôi sợ và thù ghét chiến tranh.

Trong chiến tranh, cái gì cũng có thể được. Tout est possible.

Điểm của tôi là điểm của thời chiến, điểm của thời kỳ bom đạn. Thay vì những viên đạn, tôi cho điểm rộng hy vọng có một người khỏi chết vì bom đạn.

Cũng như những lần ra Huế trước, tôi gặp một cô giáo viên cùng coi chung phòng. Tạm gọi tên cô là N. Tôi và N. nói chuyện tương đắc, mặc dầu N. hầu như không nói câu nào cả. N. nói chuyện bằng những mỉm cười, bằng ánh mắt, bằng những thỏa thuận ngầm của cả con người N. N. nhẹ nhàng, N. kín đáo, nụ cười chúm chím, môi hồng phơn phớt. Tôi ghét chỗ ấy đậm mầu. Tôi không cắt nghĩa tại sao. 

Chúng tôi đã đi dạo buổi chiều ở một chỗ có nước rất êm đềm, rất ngọt nào đó. Mát dịu hẳn lên. Tôi nhìn N. qua làn áo dài mỏng thấy được nét trinh nguyên, tinh tuyền của N. Nếp quần dài au lên tuổi con gái. Không một tì vết. N. đi nhẹ nhàng, cẩn trọng từng bước. Không nói năng. Lâu lâu một tiếng dạ nhỏ. Ánh mắt ngước nhìn tinh nghịch. Cái đẹp nhất của người con gái để ta tôn thờ là nét trinh nguyên ấy. Lòng mềm đi khi nghĩ đến điều ấy khi nghĩ về N. Chẳng bao giờ còn những cảm giác như thế nữa. Chẳng bao giờ gặp những cảm giác như thế ngoài Huế. Gặp nhau chỉ có mấy ngày coi thi. Nhưng N. đã đi với tôi nhiều buổi chiều xem ra tin cẩn lắm. Chúng tôi có cảm tưởng quen nhau từ kiếp nào. Còn đi nhiều nơi không nhớ hết. Chúng tôi cứ đi thế thôi. Có lần đi trên một loại xe hàng như xe thùng, vuông, mầu trắng bẩn. Đi đâu không nhớ. Chỉ biết đi. Nắm nhẹ tay nhau truyền cảm giác chẳng nói năng gì mà nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ ấy. Tôi còn nhớ vài nốt mụn trứng cá tuổi dậy thì phía má trái, phấn son không che hết của N.

Tôi thích nhất là N. biết ngượng ngùng. Rồi một bữa, N. bạo dạn mời tôi đến nhà ăn cơm tối. Hình như chỉ có hai mẹ con. Nhà neo đơn lắm, thanh bạch không dấu nổi. Mẹ N soắn sít đến tội nghiệp không dấu được nỗi mừng cho con gái. Phần tôi đã có vợ. Tôi làm gì được?

Như thể những người phụ nữ chân chính nhất như N. bao giờ cũng nhận những phần thiệt thòi về mình.

Tôi rời xa Huế mà không có lấy cái địa chỉ. Sao N. có thể dại khờ đến như thế. Không biết trao tay một cái địa chỉ để liên lạc. Thế còn tôi thì sao?

Một sáng chủ nhật trong cái tuần lễ cuối cùng ở lại Huế, tôi lần mò lên nhà thờ Phủ Cam. Đường buổi sáng còn vắng người. Hai bên đường không còn một dấu vết đổ nát. Đã đến giờ lễ rồi. Tôi len lén ngồi dưới cuối dãy nhà thờ như một người khách xa lạ. Tiếng cầu kinh vang vang. Nhưng đến cái kinh: Lạy Chúa tôi, tôi ở dưới vực sâu kêu lên Chúa tôi thì giọng đọc kinh dần không còn bình thường nữa. Càng ngày nó càng biến thành những tiếng nỉ non, rồi tiếng rên xiết ứ trong cổ họng. Cả nhà thờ trắng xóa một mầu tang từ trên xuống dưới. Sao chết nhiều thế. Không trừ ai, không trừ nhà nào.

Huế tang thương. Huế giết Huế. Tôi rời Huế với những ý nghĩ đen tối như thế. Tôi vứt bỏ lại đằng sau những chuyện thi cử và muốn chạy trốn khỏi Huế.

Tôi ra trụ sở hãng máy bay Air Viet Nam để trở về Sài Gòn. Hết một tháng mệt mỏi. Hình bóng N. lúc tỏ, lúc nhạt. Tôi đã vô tình không hỏi nàng về những ngày tết Mậu thân vừa qua.

Quầy bán vé cũng chỉ loe ngoe người. Không có đến quá 5 người. Còn sớm quá chăng? Tôi tạt qua bên kia đường, phía chợ Đông Ba thấy bầy bán nhiều nhãn lồng Huế. Tôi mua vội ít chùm tính làm quà cho gia đình. Mua xong mới thấy hố, vì bà bán nhãn không có túi ni lông để đựng. Tôi vào đại một cửa hàng bán tạp hóa thuộc loại sang hỏi mua túi ni lông. Cô bán hàng lắc đầu không có bán. Nhưng nghĩ thế nào, cô bắc ghế trèo lên những kệ bán áo chemise bầy trong tủ kính. Cô lấy xuống hai chiếc và tháo gỡ bao ni lông ra. Cô đưa cho tôi và không tính tiền. Tôi ái ngại vì chiếc áo có giá là vì có vỏ ni lông bao bên ngoài. Tôi đã nán lại và nói chuyện hỏi thăm cô. Cô cho biết Ba cô có tiệm trên đường Gia Long hay Lê Thánh Tôn gì đó. Tôi cho địa chỉ và không chờ đợi có dịp gặp lại được cô.

Về Sài Gòn, bẵng đi một thời gian, tôi nhận được điện tín nhắn tôi ra phi trường đón cô. Quá đột ngột mà tôi lại vừa cưới vợ. Tôi đành thất hẹn với cô.

 Tôi nợ những người con gái Huế nhiều lắm. Đây là lần thứ hai, tôi mong muốn tuyệt vọng gặp lại N và cô. Cô có đẹp không nhỉ ? Nói đẹp thì ai tin. Nhưng thưa, cô xinh đẹp và quý phái lắm, người cao mảnh khảnh. Nhưng đẹp xấu lúc này để làm gì?

Mỗi mùa thi đối với tôi là một mùa kỷ niệm và mùa tình ái. Mỗi lần bước lên máy bay đi về từ Huế thì hình như máy bay nặng thêm.


 

Bạn có nhớ người Nữ Tu này không?

Chuyện tuổi Xế Chiều – Công Tú Nguyễn 

Bạn có nhớ người Nữ Tu này không?

Đó là sơ Maria Nguyễn Thị Kim Hoa, người đã bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ Y khoa với đề tài “Nghiên cứu biến đổi gen trong chẩn đoán và điều trị bệnh bạch cầu cấp trẻ em tại Bệnh viện Trung ương Huế”.

Mình đã đăng bài về sơ hồi năm ngoái. Là một Nữ Tu Dòng Con Đức Mẹ Vô Nhiễm, sơ Kim Hoa đồng thời là Phó Trưởng khoa Ung bướu – Huyết học – Ghép tủy Trung tâm Nhi, Bệnh viện Trung ương Huế.

Sơ Kim Hoa được gọi là “Cô tiên của các bệnh nhi ung thư” bởi nhiều em nhỏ đã được sơ cùng các Y Bác sĩ Bệnh viện Trung ương Huế cứu chữa khỏi căn bệnh hiểm nghèo này. Là một chuyên gia hàng đầu về kỹ thuật ghép tế bào gốc tự thân (GTBGTT), sơ đã miệt mài nghiên cứu, ứng dụng phương pháp ghép tủy để giành giật sự sống lại cho các em.

Sơ Kim Hoa từng trực tiếp chủ trì những ca mổ ghép tủy cho nhiều cháu bé. Không chỉ vậy, với kinh phí mỗi ca mổ lên tới hàng trăm triệu đồng, quá tầm với những gia đình lao động nghèo miền Trung, sơ còn giúp vận động, tìm kiếm nguồn hỗ trợ từ nhiều nhà hảo tâm để giúp các em có chi phí chữa chạy. Không ít gia đình bệnh nhi đã coi sơ như Ân nhân của họ.

Là dân chuyên Toán tại Trường THPT chuyên Quốc học Huế, sơ Kim Hoa có ý định đi tu để phụng sự Chúa từ khi còn trẻ; mà ngành Y khoa thì rất hợp với tu sĩ nên sơ đã đầu tư thời gian cho việc học các môn “khối B” để thi vào Đại học Y dược Huế. Trở thành Bác sĩ, sơ được Bệnh viện cử đi đào tạo tại Mỹ, Nhật Bản, Singapore. Nhờ ơn Chúa và nhờ quá trình phấn đấu học hỏi không ngừng, sơ trở thành Tiến sĩ Nhi khoa đầu tiên của Bệnh viện Trung ương Huế.

Nói về sơ Kim Hoa, một gia đình bệnh nhi cho biết: “Cô Hoa là nữ bác sĩ tuyệt vời khó có từ nào diễn tả. Cô ấy khác rất nhiều những người mà vợ chồng em từng gặp. Ở cô Hoa mình cảm nhận cô ấy có một sự ấm áp, nhân từ, thân thiện rất khó tả. Không chỉ con của mình mà nhiều bé khác đang điều trị ở đây đều xem cô ấy như một người mẹ thứ hai, một vị thiên thần mang tình yêu thương đến cho con người, cho bọn trẻ.

    Nguồn: Chuoc Dang/Bao Nguyen Quang

Tự hào là con Thiên Chúa


 

Ông An Giang tông chó rồi giết luôn chủ chó

Ba’o Nguoi-Viet

June 19, 2025

AN GIANG, Việt Nam (NV) – Nghi can Chau Linh E, 31 tuổi, ở thị xã Tịnh Biên, tỉnh An Giang, bị bắt với cáo buộc chạy xe gắn máy tông phải chó nhà hàng xóm rồi dùng búa đánh bà này thiệt mạng.

Theo báo VNExpress hôm 19 Tháng Sáu, vào ba hôm trước, nghi can Linh E chạy xe gắn máy về đến gần nhà thì tông một con chó của hàng xóm, bà Nèang Ron, 50 tuổi. Bà Ron thấy vậy, ra đường chửi bới nam nghi can.

Nghi can Chau Linh E (trái) tại đồn công an. (Hình: Tiến Tầm/VNExpress)

Sau một hồi cự cãi qua lại, nghi can Linh E bực tức lấy một cây búa chẻ củi trong cốp xe đuổi chém bà hàng xóm.

Lúc đó, ông Chau Ao, cha bà Ron, chạy ra ngăn cản cũng bị nam nghi can cầm búa tấn công. Bà Ron thiệt mạng tại chỗ, ông Ao được đưa đi cấp cứu kịp thời nên giữ được mạng sống.

Nam nghi can bị công an bắt giữ gần hiện trường.

Trong một vụ án mạng khác liên quan đến việc nuôi chó, vào đêm 8 Tháng Sáu, nghi can Nguyễn Thị Cúc, 47 tuổi, ở tỉnh Vĩnh Long, sang nhà kế bên phàn nàn với bà hàng xóm 65 tuổi về chuyện con gái bà này thường xuyên dẫn chó đái ị trước cửa nhà mình, gây hôi thối.

Khi nghi can Cúc vừa quay về nhà, mẹ con bà hàng xóm kéo sang nói chuyện phải quấy, dẫn đến xô xát.

Bà cao niên 65 tuổi nắm tóc nghi can Cúc, đè xuống đất. Nữ nghi can sau đó dùng tay đánh vào đầu bà này đến khi nạn nhân bất tỉnh. Bà cao niên chết trên đường đi cấp cứu.

Hiện trường vụ án mạng xảy ra tại thị xã Tịnh Biên, tỉnh An Giang. (Hình: Tiến Tầm/VNExpress)

Đáng lưu ý, hầu hết ý kiến độc giả bên dưới bản tin về sự việc trên báo VNExpress đều tỏ ý bênh vực nghi can Nguyễn Thị Cúc.

Độc giả “Trancongthai1939” cho biết: “Chủ chó có lỗi thả chó phóng uế, đã không nhận lỗi lại còn sang đánh người hàng xóm tố cáo. Theo tôi, việc người hàng xóm bị đánh đau, oan ức và đánh trả là tự vệ chính đáng, không cố ý giết người.”

Độc giả “Bachminhtrieu45” nêu ý kiến: “Người ta đem chó qua cửa nhà mình để cho chó đi vệ sinh. Nếu là mình thì mọi người sẽ xử lý ra sao? Chủ nhà qua nhắc nhở là quá chuẩn mực rồi, không biết điều thì thôi còn kéo đến nhà người ra tay trước. Theo tôi thì nghi can phòng vệ chính đáng và vô tình gây chết người.” (N.H.K) [qd]


 

50 năm kết thúc chiến tranh: Cuộc tranh luận chưa dứt giữa Phan Châu Trinh và Hồ Chí Minh

BBC News Tieng Viet

  • Tác giả,
  • Tiến sĩ Kevin D. Phạm (viết); Bùi Văn Phú (dịch)
  • Gửi cho BBC News Tiếng Việt từ Amsterdam, Hà Lan
  • 18 tháng 6 2025

Chủ điểm của bài viết này là tìm hiểu về các hệ tư tưởng chính trị tại Việt Nam từ đầu Thế kỷ XX cho đến cuộc cách mạng vào giữa Thế kỷ XX, qua đó cho chúng ta thấy hai ví dụ về phản ứng của người Việt đối với chủ nghĩa thực dân Pháp (1858-1954).

Tôi cho rằng các lý thuyết gia người Việt như Phan Châu Trinh (Phan Chu Trinh) và Hồ Chí Minh đã áp dụng truyền thống Nho giáo cùng với các hệ tư tưởng phương Tây để đưa ra tầm nhìn khác nhau về việc làm sao đưa dân tộc thoát khỏi ách thực dân. Các cuộc tranh luận của họ vào đầu thế kỷ XX nay vẫn còn mang tính thời sự đối với tranh luận về các hệ tư tưởng hiện đại.

Trong nghiên cứu gần đây về những chủ trương thoát thực dân của người Việt, tôi đã giới thiệu những tư tưởng chính trị Việt Nam vào lĩnh vực học thuật trong lý thuyết chính trị và đặt ra những câu hỏi như: Cuộc sống tốt đẹp là gì? Nên đặt ưu tiên cho những giá trị nào? Ai là thành phần lãnh đạo? Thế nào là một chính phủ tốt?

Ngoài việc đưa ra những đáp án cho những luận đề kinh điển nêu trên về “lý thuyết chính trị”, các nhà tư tưởng người Việt thời kỳ thuộc địa đã tìm câu trả lời cho những vấn đề khác như: Người châu Âu đã cai trị chúng ta như thế nào? Chủ nghĩa thực dân châu Âu có phải là quy luật tự nhiên, kẻ mạnh thống trị kẻ yếu, như những người theo chủ nghĩa Darwin xã hội thường nói không? Hay đó là hệ quả của chủ nghĩa tư bản như Lenin vẫn nói? Chúng ta nên làm gì với các giá trị truyền thống của mình trước sự du nhập những ý tưởng mới từ châu Âu? Khi kẻ thực dân hành hạ chúng ta vì không cùng chủng tộc, làm nhục hoặc bóc lột chúng ta, chúng ta nên phản ứng như thế nào? Làm thế nào để tạo nên sức mạnh và đoàn kết giữa chúng ta để chống lại chủ nghĩa thực dân hay làm cách mạng? Nói chính xác thì kháng chiến và cách mạng sẽ được tiến hành như thế nào? Mục tiêu là gì và phương pháp thực hiện nó ra sao? Nói cách khác, viễn cảnh tốt nhất để thoát khỏi nô lệ thực dân là gì?

Thành phần trí thức và giới hoạt động người Việt quan tâm đến những vấn đề nêu trên vốn có xuất thân từ truyền thống Nho giáo, một triết lý xã hội do Khổng Tử khởi xướng. Những người theo tư tưởng Không Tử tin rằng điều đáng giá nhất mà bất kỳ ai cũng có thể làm trong quãng đời của họ là rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức, hay “đức hạnh”, để trở nên quan tâm hơn tới tha nhân. Họ tin rằng một người trở nên có đức hạnh hơn thì có thể thúc đẩy sự hòa hợp trong xã hội và tạo ảnh hưởng qua tấm gương tốt của mình (thay vì sử dụng vũ lực hoặc sự đe dọa).

 Tuy nhiên, mỗi lý thuyết gia trong số này đều có cách diễn giải riêng về Nho giáo, và trước làn sóng du nhập của các tư tưởng chính trị-xã hội từ phương Tây, họ có những ý tưởng khác nhau trong cách tổng hợp hay tìm thỏa hiệp giữa truyền thống Nho giáo với các hệ tư tưởng chính trị mới đến từ “phương Tây”, như chủ nghĩa tự do (một hệ tư tưởng chính trị nhấn mạnh đến quyền và tự do cá nhân), dân chủ, cũng như chủ nghĩa Mác. Họ đối chiếu giữa các truyền thống tri thức của nước ngoài để tìm ra những ý tưởng phù hợp với họ. Có rất nhiều nhà tư tưởng Việt đã làm điều này và chúng ta sẽ tìm hiểu về hai người trong số họ.

Nguyễn Ái Quốc tại đại hội Đảng Xã hội Pháp ở Tours vào năm 1920

Vào một buổi tối mùa đông năm 1919, tại căn hộ ở số 6 Villa des Gobelins thuộc quận 13 Paris, nhà yêu nước Việt Nam nổi tiếng Phan Châu Trinh đã có một cuộc tranh luận gay gắt với một học trò của mình – một thanh niên vô danh trạc tuổi con trai của ông. Người thanh niên trẻ này đã tỏ ra mất kiên nhẫn khi lập luận rằng thực dân Pháp đã làm nhục người Việt Nam trong hơn sáu thập kỷ vì thế đã đến lúc người Việt phải hành động trực tiếp bằng bạo lực. Nhưng ông Phan kêu gọi thận trọng:

“Anh muốn hai mươi triệu đồng bào ta phải làm gì khi trong tay không có vũ khí để chống lại vũ khí khủng khiếp của người Âu? Tại sao chúng ta lại tự sát vô ích để chẳng đi đến một kết quả nào cả?… Phải chăng tốt hơn là chúng ta đòi hỏi một cách mềm mỏng nhưng rất kiên quyết và với lòng kiên nhẫn, nhất là những quyền mà phẩm cách con người cho phép chúng ta đòi hỏi.”

Chàng trai trẻ trả lời:

“Dân An Nam đã chờ đợi thay đổi từ sáu mươi năm nay nhưng chính phủ [thực dân Pháp] không làm được gì đáng kể cho họ thỏa mãn. Nếu trong dân chúng có kẻ nào lên tiếng bày tỏ với nhà đương cục những yêu cầu và nỗi thống khổ của họ và để kêu xin những phương thuốc chống đỡ nỗi khổ đau họ phải gánh chịu, thì người ta trả lời họ bằng nhà tù, bằng lưu đày và tử hình. Nếu bác luôn tin cậy vào sự quan tâm của chính phủ để cải tiến tình trạng hiện nay thì bác sẽ phải đợi đến muôn đời.”

Thế giới về sau đã biết đến chàng trai trẻ tuổi này với cái tên Hồ Chí Minh. Trong căn phòng tối hôm đó có một mật vụ ngầm đã ghi âm cuộc đối thoại giữa hai người. Người này được lệnh chính quyền Pháp theo dõi Hồ Chí Minh vì bởi kể từ mùa hè năm ấy, ông đã gây nên cho họ những nghi ngờ.

Khi đó, ông Hồ đã gửi một bản kiến nghị mang vẻ chính thức đến các đại biểu tại Hội nghị Hòa bình Paris ở Versailles. Bản kiến nghị không yêu cầu độc lập, thay vào đó, nó chứa đựng các yêu cầu công nhận các quyền tự do căn bản cho người Việt ngay cả khi vẫn còn dưới sự cai trị của thực dân Pháp. Ông Hồ đã ký thay mặt cho Nhóm những người Việt Nam yêu nước mà ông và người thầy của ông, Phan Châu Trinh, sau đó nhận ra rằng các thỉnh cầu này đã không được quan tâm.

Qua những trích dẫn, cả Hồ Chí Minh và Phan Châu Trinh dường như đã thể hiện một quan điểm quen thuộc được công nhận, đó là về phẩm giá của con người: phẩm giá là thứ thừa hưởng ở mỗi con người riêng lẻ, nó là sự biện minh cho các quyền, và nó đòi hỏi sự công nhận của xã hội. Phan Châu Trinh nghĩ rằng người Việt Nam nên đòi từ người Pháp “những quyền mà phẩm giá con người cho phép chúng ta được có.” Hồ Chí Minh có quan điểm ngược lại, với lập luận rằng người Việt Nam phải buộc người Pháp công nhận phẩm giá của người Việt Nam.

Nhưng rồi cả hai bắt đầu nhận ra những hạn chế của quan điểm qui ước về phẩm giá. Biết rằng phẩm giá vốn có ở mỗi cá nhân không làm dịu đi nỗi đau khi chứng kiến sự phủ nhận phẩm giá của dân mình. Người Việt phải chờ bao lâu và phải “đòi hỏi” bao nhiêu lần thì thực dân Pháp mới chịu công nhận phẩm giá và quyền của họ? Nếu người Pháp không bao giờ làm vậy thì sao? Và nếu không có thực thể nào mạnh hơn Pháp để trừng phạt người Pháp hoặc buộc họ phải công nhận phẩm giá của người Việt Nam thì sao? Vậy phải làm gì? Câu trả lời hiển nhiên là kháng chiến và làm cách mạng.

Nhưng như đã đề cập ở trên, điều khó xác định hơn nhiều chính là hình thức cụ thể mà kháng chiến và cách mạng nên diễn ra như thế nào. Phan Châu Trinh và Hồ Chí Minh có tầm nhìn khác nhau về kháng chiến và cách mạng.

Năm 1925, Phan Châu Trinh trở về Việt Nam và có bài phát biểu về “Đạo đức và luân lý Đông Tây” ở Sài Gòn. Trong bài phát biểu, ông lập luận rằng Việt Nam bị Pháp đô hộ là vì người Việt yếu kém, xuất phát từ việc thiếu đạo đức Nho giáo đích thực. Sự yếu kém của người Việt là do sự suy đồi của vua quan Việt khi họ bóp méo tư tưởng Nho giáo để biện minh cho sự cai trị áp bức của họ. Chính điều đó khiến dân tộc bị che mắt để không hiểu đúng về đạo đức và luân lý Nho giáo đích thực. Điều này tạo ra sự yếu kém ở người Việt nên dễ bị khuất phục trước ngoại bang.

Phan Châu Trinh đã từng sống mười ba năm ở Pháp và ông nhận thấy người châu Âu phát triển hơn về mặt đạo đức xã hội. Ông lập luận rằng người Âu biết cư xử tử tế với đồng bào của họ vì “người bên Âu châu họ cũng tranh giành nhau dữ dội lắm, song giành nhau cũng ở trong vòng pháp luật mà thôi. Chí như công đức là giúp đỡ lẫn nhau, kính trọng quyền lợi cho nhau thì họ vẫn không bỏ.” Ngược lại, “lấy một việc đó mà so với người mình quanh năm trọn tháng chỉ lo cho cái xác thịt, cái tuổi già mà vẫn không xong thì cũng đủ xấu hổ rồi; huống hồ là nói đến việc xã hội nhân quần, họ hơn ta xa như thế thì làm sao ta không kính trọng họ cho được?”

Tóm lại, ông cho rằng người châu Âu có bản sắc “Nho giáo” hơn người Việt và điều này là do người châu Âu có truyền thống phản ứng lại chế độ quân chủ chuyên chế của họ bằng cách thúc đẩy “tự do” (ý ông là quyền của con người) và “dân chủ” (ý ông là “chính quyền theo pháp luật”).

Ông lập luận rằng nếu người Việt muốn tự cường và xây dựng phẩm giá dân tộc, họ nên từ bỏ truyền thống quân chủ của mình và thay vào đó áp dụng chủ nghĩa tự do và dân chủ từ châu Âu như một “phương thuốc”. Làm như vậy, ông lập luận, sẽ cải thiện đạo đức và luân lý của người Việt, từ đó cho phép tư tưởng Khổng Mạnh được phát huy trọn vẹn ở Việt Nam:

“Đem văn minh Âu châu về tức là đem đạo Khổng Mạnh về… Thế thì đem văn minh Âu châu về đã không hại gì mà lại còn làm cho rỡ ràng đạo Khổng Mạnh ra.”

Thông thường, những lý thuyết gia chính trị coi chủ nghĩa tự do của “văn minh châu Âu” là một sự đối lập với “Nho giáo.” Vậy làm sao Phan Châu Trinh có thể đưa ra lập luận này? Hóa ra là vì ông gạt bỏ sự tập trung của chủ nghĩa tự do vào quyền và tự do cá nhân, và tập trung diễn giải nó như một hệ tư tưởng đề cao quyền và tự do của người dân. Thông thường chúng ta có thể cho rằng việc hiểu sai các truyền thống ngoại lai là điều không tốt, nhưng Phan Châu Trinh cho thấy rằng việc diễn giải một cách tích cực – dù có phần lý tưởng hóa – các tư tưởng ngoại lai có thể là một phương thức sáng tạo như một “phương thuốc” làm sống lại các truyền thống đang tàn lụi của chính mình.

Bây giờ chúng ta hãy chuyển sang người học trò trẻ tuổi của Phan Chu Trinh, người sau này được biết đến với tên gọi Hồ Chí Minh.

Hãy trở lại với buổi tối năm 1919 ấy. Hồ Chí Minh, thất vọng với Phan Châu Trinh, lang thang qua những con phố của Paris, đến tòa soạn các báo để tìm cách phổ biến các yêu sách của mình, nhưng chẳng ai quan tâm, ngoại trừ những người theo Đảng Xã hội Pháp. Với sự cảm thông, họ đã mời ông đến các cuộc họp của họ.

Lúc bấy giờ, những đảng viên Xã hội Pháp đang theo dõi sát những diễn biến của cuộc cách mạng Nga, nơi mà chủ nghĩa cộng sản đang chuyển từ lý thuyết sang thực tiễn. Họ tranh luận xem liệu nước Pháp có nên theo hướng cải cách dần dần (evolution) hay đi theo người Nga, với một cuộc cách mạng hướng tới chủ nghĩa cộng sản. Nhưng điều quan trọng nhất đối với Hồ Chí Minh là sự áp bức đối với các dân tộc đang bị thực dân cai trị. Tại các cuộc họp này, ông nêu vấn đề là nếu quan tâm đến việc giải phóng người bị áp bức, tại sao không ai nói về chủ nghĩa thực dân?

Sau đó, trong các buổi họp này, có một ai đó đã trao cho Hồ Chí Minh một bản sao của “Luận cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lenin. Mặc dù khi đó Hồ Chí Minh đã quen với những ý tưởng cộng sản, nhưng việc đọc Lenin là một bước ngoặt trong tư tưởng chính trị của ông. Đối với Hồ Chí Minh, Lenin đã đưa ra những lý luận thuyết phục nhất về vấn đề thực dân áp bức cũng như giải pháp cho những gì cần phải làm.

Hồ Chí Minh nổi tiếng là người đã tham gia vào việc thành lập Đảng Cộng sản Pháp vào tháng 12 năm 1920. Ông bắt đầu viết báo đăng trên các tạp chí, đưa ra lập luận rằng người Việt phải tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin và lén đưa các ấn phẩm này về Việt Nam. Đó là cách người ở trong nước đã được giới thiệu đến chủ nghĩa Mác.

Vào một ngày trong năm 1922, Hồ Chí Minh nhận được lá thư mang tính nhượng bộ của Phan Châu Trinh.

“…Anh cũng không ưa cái phương pháp khai dân khí, chấn dân khí, hậu dân sinh của tôi; còn tôi thì lại không thích cái phương pháp ngọa ngoại chiêu hiền đãi thời đột nội của anh và cả cái phương pháp bất hòa mà anh đã nói với anh Phan [Văn Trường] là tôi là hạng người hủ nho hủ cựu.

“Cái điều anh gán cho tôi đó, tôi chẳng giận anh tí nào cả, bởi vì suy ra thì tôi thấy rằng: tôi đọc chữ Pháp bập bẹ nên không am tường hết sách vở ở cái đất văn minh này… Tôi tự ví tôi ngày nay như con ngựa đã hết nước tế; tôi nói thế chẳng hề đem ví anh là kẻ tử mã lục thạch [Hoàng Xuân Hãn giải thích là ‘ngựa non háu đá’],…

“…Lần này tôi phải viết cái thơ này cho anh là tôi có cái hy vọng muốn anh nghe theo tôi mà lo cái đại sự… Theo ý tôi thì mình mà học hỏi lý thuyết hay, phương pháp tốt, tóm thâu được chủ nghĩa, có chí mưu cầu lợi quyền cho quốc dân đồng bào, thì đừng có dùng cái lối nương náu ngoại bang để rung chuông, gõ trống, mà phải trở về ẩn náu trong thôn dã, hô hào quốc dân đồng bào đồng tâm hiệp lực đánh đổ cường quyền áp chế, ắt là thành công…”

Sau đó Hồ Chí Minh rời Pháp sang Nga và Trung Quốc và rèn luyện trong nhiều năm để trở thành một nhà cách mạng trước khi trở về nước vào năm 1941 để lãnh đạo phong trào giành độc lập cho Việt Nam. Năm 1945, ông đọc Bản tuyên ngôn Độc lập và chính thức khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Nhưng người Pháp không nhượng bộ. Họ vẫn cố gắng tìm cách quay lại chiếm đóng Việt Nam, đẫn đến cuộc kháng chiến của người Việt và khơi mào cho Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất. Người Pháp cuối cùng thua ở Điện Biên Phủ năm 1954 và một năm sau thì người Mỹ vào Việt Nam.

Lính Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất

Trong suốt những năm tháng chiến tranh, Hồ Chí Minh đã phát triển một lý thuyết cách mạng, theo kiểu tinh thần gia trưởng vì ông tin rằng Đảng Cộng sản tiền phong nên hành động như bậc “cha mẹ” của dân vì ông coi nhân dân như những đứa trẻ chưa phát triển cần được hướng dẫn về đạo đức và chính trị. Ông cho rằng lãnh đạo của Đảng phải là những “cha mẹ” khôn ngoan, nhân từ của các con.

Để trở thành “cha mẹ” tốt, Hồ Chí Minh lập luận rằng các lãnh đạo của Đảng phải trau dồi đạo đức cách mạng cho chính bản thân qua việc thường xuyên “phê và tự phê.” Chỉ khi đó họ mới có thể dẫn dắt quần chúng một cách hiệu quả trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Tuy nhiên, song với đó, ông cũng diễn giải lý thuyết cách mạng của mình là mang tính dân chủ. Ông nhấn mạnh rằng chính quyền là “đầy tớ” của dân và dân là “chủ của đất nước.” Như vậy, trong tư tưởng của Hồ Chí Minh, tập thể nhân dân vừa là người chủ của đất nước vừa là trẻ thơ cần có được dìu dắt về đạo đức.

Trung tâm của quan điểm này là quan niệm của Khổng giáo về tự tu dưỡng. Hồ Chí Minh tin rằng lãnh đạo phải thấm nhuần đức tính cách mạng. “Muốn làm cách mạng, trước hết phải cải tạo tâm hồn. Muốn cải tạo xã hội, trước hết phải cải tạo bản thân.” Đối với ông, đạo đức cá nhân và đạo đức xã hội là quá trình liên tục gắn kết với nhau – một quan điểm mà ông tiếp thu từ án thư Đại học của Khổng giáo, một tác phẩm đưa ra lập luận rằng bằng cách thay đổi bản thân, người ta tự động thay đổi thế giới: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.”

Nếu như Phan Châu Trinh kết hợp Nho giáo với chủ nghĩa tự do, thì Hồ Chí Minh lại kết hợp Nho giáo với chủ nghĩa Mác-Lênin. Đối với Phan Châu Trinh, chủ nghĩa tự do nên được sử dụng để đạt được những điều tốt hơn của Nho giáo. Ngược lại, đối với ông Hồ, Nho giáo nên được sử dụng để bồi dưỡng đạo đức cách mạng để tiến tới chủ nghĩa cộng sản:

“…Những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình về mặt tinh thần bằng đọc các tác phẩm của Khổng Tử và về mặt cách mạng thì cần đọc các tác phẩm của Lenin!”

Hồ Chí Minh cho rằng đạo đức Nho giáo là tốt, nhưng chủ nghĩa thực dân Pháp đã ngăn cản người Việt thực hành đạo đức Nho giáo bằng cách áp bức họ qua bóc lột, rượu chè và thuốc phiện. Do đó, ông đã thúc giục lãnh đạo Đảng:

“Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập. Tôi đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh thần nhân dân bằng cách thực hiện: cần, kiệm, liêm, chính.”

Cần lưu ý, ở đây, “nhân dân” tiếp tục được xem như những “đứa trẻ” cần được giáo dục lại. Và cũng cần lưu ý bốn đức tính cốt lõi này (cần, kiệm, liêm, chính) có nguồn gốc từ đạo Khổng như thế nào. Đây là những gì ông gọi là “đạo đức cách mạng.”

Như chúng ta biết, Hồ Chí Minh và tầm nhìn của ông đã tiếp tục dẫn đường cho những người cộng sản Việt Nam vượt qua cuộc chiến tranh chống Pháp trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1945-1954), vượt qua cuộc chiến tranh với Mỹ và Việt Nam Cộng hòa trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ hai (1955-1975). Hệ tư tưởng chính thức của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay được gọi là “Tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Trong khi đó, tư tưởng của Phan Châu Trinh dù đã từng truyền cảm hứng cho một số người nhưng lại rồi bị rơi vào quên lãng sau khi ông qua đời năm 1926. Tuy vậy, những nét chính về chủ nghĩa cộng hòa của ông đã xuất hiện ở miền Nam Việt Nam. Và ngày nay đang có sự hồi sinh tiềm năng và quan tâm đến tư tưởng của Phan Châu Trinh cũng như ông vẫn rất được kính trọng và ca ngợi ở xã hội Việt Nam đương đại.

Play video, “Chiến Tranh Việt Nam: Việt Nam Cộng Hòa thua do sự phản bội của Kissinger?”, Thời lượng 12,20

12:20

Chiến Tranh Việt Nam: Việt Nam Cộng Hòa thua do sự phản bội của Kissinger?

Trong căn hộ đó tại số 6 Villa des Gobelins vào buổi tối mùa đông năm 1919, cuộc tranh luận giữa Phan Châu Trinh và Hồ Chí Minh có vẻ quen thuộc với nhiều người trong chúng ta. Để đáp lại bất công, bóc lột, thống trị và sự phân biệt chủng tộc, chàng thanh niên tỏ ra mất kiên nhẫn và thúc giục hành động ngay trong khi người đàn ông lớn tuổi thì thận trọng và khuyên nhủ thực hiện những thay đổi chậm rãi và bền vững.

Nhưng chính trong căn hộ ấy, những hạt mầm đã được gieo xuống cho các cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, thứ hai và thứ ba. Trực giác con người cho thấy nếu những ai có lợi thế về quyền lực mà không nhận ra phẩm giá của những người ở vị thế yếu kém hơn và không đưa họ vào các cuộc thảo luận về lợi ích chung, thì những người yếu thế ấy sẽ tìm cách xây dựng phẩm giá của họ theo những cách khác – dù là bạo lực hoặc phi bạo lực, dù là phá hoại hay kiến tạo.

Vài tháng trước, tôi đã thăm Việt Nam, một đất nước dường như đang khởi sắc. Tôi đã đến viếng mộ Phan Châu Trinh và lăng Hồ Chí Minh và suy ngẫm về những tầm nhìn khác nhau của họ. Rõ ràng là cả hai đều được kính trọng ở Việt Nam, nhưng các bài phát biểu của lãnh đạo Việt Nam hiện nay cho thấy rằng tư tưởng của Hồ Chí Minh đã chính thức chiếm ưu thế so với tư tưởng của Phan Châu Trinh.

Dù vậy, tôi vẫn tự hỏi: Liệu đề xuất của Phan Châu Trinh về việc kết hợp các tư tưởng phương Tây về chủ nghĩa tự do và dân chủ với Nho giáo có còn phù hợp ở Việt Nam ngày nay không? Những lập luận do Phan Châu Trinh và Hồ Chí Minh đưa ra có còn hữu ích cho những ai đang quan tâm đến các câu hỏi đương đại như: Chính quyền Việt Nam hiện đang – hoặc nên – dựa trên cơ sở tư tưởng nào để xây dựng tính chính danh? Những tư tưởng nào định hướng (hoặc nên định hướng) cho những hoạt động của thanh niên? Về kiểm duyệt và giới hạn của tự do ngôn luận về chính trị? Và về bản sắc của cộng đồng người Việt hải ngoại (nơi rất nhiều người Việt như tôi lớn lên với cả tư tưởng “tự do” và đạo lý Nho giáo truyền thống)?

Hay, phải chăng, ngày nay, Việt Nam cần một hệ tư tưởng hoàn toàn khác? Những câu hỏi như vậy vẫn còn để ngỏ.

Tác giả Kevin D. Phạm là phó giáo sư/tiến sĩ về lý thuyết chính trị tại Đại học Amsterdam, chuyên về tư tưởng chính trị thế kỷ XIX và XX, với chú trọng vào dân chủ, tự do và cách mạng qua các nền văn hóa. Tác phẩm của ông, The Architects of Dignity: Vietnamese Visions of Decolonization – Những kiến trúc sư của phẩm giá: Những viễn kiến của người Việt về giải thoát khỏi ách thực dân (Nhà xuất bản Đại học Oxford, 2024), giới thiệu các nhà tư tưởng chính trị Việt, tiếp cận với những tranh luận về lý thuyết chính trị, chú trọng đến cách họ thách thức các quan niệm của phương Tây về phi thực dân hóa và phẩm giá. Nghiên cứu của ông được phổ biến trên các tạp chí như Philosophy and Global Affairs, The Review of PoliticsEuropean Journal of Political Theory.


 

Ông chồng đổ xăng dọa đốt nhưng gây cháy lớn ở Bình Dương

Ba’o Nguoi-Viet

June 18, 2025 

BÌNH DƯƠNG, Việt Nam (NV) – Một ông đến tiệm tóc ở phường Tân Đông Hiệp, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, tìm vợ rồi xảy ra cãi vã nên lấy xăng dọa đốt, không ngờ ngọn lửa bùng lên cháy lớn.

Theo báo Dân Trí, khoảng 10 giờ 30 phút sáng 18 Tháng Sáu, ông Huỳnh Văn P., 33 tuổi, quê An Giang, mang can xăng đến tiệm spa ML (cũng là phòng tập yoga) trên đường ĐT 743C, phường Tân Đông Hiệp, thành phố Dĩ An, để tìm vợ đang làm đẹp tại đây.

Vụ cháy tiệm tóc và quán bún riêu ở phường Tân Đông Hiệp, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. (Hình: Xuân Đoàn/Dân Trí)

Tại đây, giữa hai người sau đó xảy ra cãi vã.

Tức giận, ông P. đã tạt can xăng trước tiệm, dọa đốt vợ. Lúc này, ở sát vách tiệm spa là khu vực bếp của quán bún riêu. Bất ngờ, ngọn lửa bắt vào xăng gây bốc cháy tiệm spa, lan sang quán bún riêu bên cạnh và làm cháy một xe hơi, bốn xe gắn máy để phía trước hai tiệm.

Nhiều người hoảng loạn bỏ chạy bằng cửa sau. Nghi can đổ xăng bị bỏng nặng. Lửa bén vào người ông P. làm ông ta bị phỏng ở vai, chân và chạy ra đường kêu cứu.

Nhận được tin báo, Phòng Cảnh Sát Phòng Cháy Chữa Cháy Cứu Nạn Cứu Hộ Tỉnh Bình Dương điều động nhiều xe chữa cháy và lính cứu hỏa đến hiện trường dập lửa. Khoảng 15 phút sau, ngọn lửa được dập tắt.

Vụ cháy làm hư hỏng chiếc xe hơi, một số xe gắn máy và nhiều đồ đạc trong tiệm gội đầu và quán bún riêu.

Chiều cùng ngày, Công An Tỉnh Bình Dương lấy lời khai những người liên quan, khám nghiệm hiện trường để làm rõ dấu hiệu phạm tội của ông P.

Làm việc với công an, nghi can P. cho biết “chỉ đổ xăng dọa, chứ chưa châm lửa” và không biết vì sao lại cháy.

“Lúc ngọn lửa bùng lên, tôi và con gái cũng có mặt trong cửa tiệm spa, thấy lửa cháy to đành mở cửa sau chạy thoát thân, may mắn không bị thương, thường ngày P. ở nhà rất hiền lành, ít nói, nhưng không biết hôm nay sao lại như vậy,” mẹ vợ ông P. nói với báo Pháp Luật TP.HCM.

Hiện trường vụ cháy, ông giận vợ đổ xăng dọa nhưng xảy ra cháy lan. (Hình: Đình Trọng/Lao Động)

Liên quan đến hỏa hoạn, báo Lao Động hôm 18 Tháng Sáu dẫn tin từ Cục Cảnh Sát Phòng Cháy Chữa Cháy và Cứu Nạn Cứu Hộ Bộ Công An cho biết, trong năm tháng đầu năm 2025, Việt Nam xảy ra 1,497 vụ cháy, làm chết 39 người và bị thương 39 người, thiệt hại tài sản ước tính khoảng 138 tỷ đồng ($5.2 triệu) và 216 hécta rừng.

Ngoài ra, cả nước đã xảy ra 11 vụ nổ, làm năm người chết, 14 người bị thương. Thiệt hại tài sản ước tính khoảng 50 tỷ đồng ($1.9 triệu).

Cục Cảnh Sát Phòng Cháy Chữa Cháy phân tích, các vụ cháy chủ yếu xảy ra ở thành thị, chiếm 54.8%, còn lại là ở nông thôn.

Theo đó, có 539 vụ cháy nhà dân; 94 vụ cháy nhà ở kết hợp sản xuất, kinh doanh; 41 vụ cháy chung cư; 10 vụ cháy chợ; ba vụ cháy siêu thị, cửa hàng bách hóa; bốn vụ cháy quán bar, karaoke; 11 vụ cháy trụ sở làm việc; 216 vụ cháy kho, cơ sở sản xuất, kinh doanh; năm vụ cháy cơ sở giáo dục; ba vụ cháy cơ sở quốc phòng… (Tr.N) [qd]


 

LỜI THỀ Y ĐỨC CỦA CÁC TÂN BÁC SĨ SÀI GÒN XƯA…- BS ĐỖ HỒNG NGỌC

BS ĐỖ HỒNG NGỌC

Bác sĩ ở Saigon ngày xưa phải đọc lời thề Hippocrates khi chuẩn bị ra trường để hành nghề. Lời thề này được các sinh viên Y khoa đọc và nguyện làm theo trong lễ tốt nghiệp.

Chúng ta hãy tìm hiểu về Hippocrates cũng như lời thề củả ông nhé :

Hippocrates là một y sĩ Hy Lạp thời cổ đại (khoảng 460 – 370 Trước Công nguyên) được xem là ông tổ của nền y khoa phương Tây. Ông là người khởi xướng nền y khoa mang tính khoa học trong hoàn cảnh hệ thống y khoa của Hy Lạp thời đó là hệ thống chữa bệnh một nửa là y học một nửa là pháp thuật phù thủy và tất nhiên không khỏi bị chống đối kịch liệt. Do đi trước thời đại, chống lại lối mòn xưa cũ gắn với cường quyền, Hippocrates lúc đó bị tù 20 năm. Ở trong tù, bộ óc thiên tài của ông không chịu phận tù đã viết nên quyển “Cơ thể phức tạp” về cơ thể con người mà rất nhiều điều trong đó vẫn đúng cho đến ngày nay.

“Lời thề Hippocrates” là lời tuyên thệ của các thầy thuốc khi vào nghề. Ở Việt Nam ta còn gọi là “Lời thề Y đức”. Trải qua thời gian với một không gian hầu như khắp toàn cầu, lời thề Hippocrates có nhiều dị bản khác nhau. Tuy nhiên, bản gốc của lời thề Hippocrates được nhiều nước lưu giữ như sau:

“Tôi tuyên thệ với Apollo, thần chữa bệnh, Asclepius, Hygieia và Panacea, và tôi minh chứng với tất cả các nam thần, các nữ thần, tôi gìn giữ, tùy theo khả năng và thẩm định của tôi, lời thề sau đây:

Yêu kính, như là cha mẹ tôi, người đã dạy tôi môn học này; sống hòa nhã với thầy và nếu cần, chia sẻ tài sản với thầy; chăm sóc con cái thầy như là anh chị em tôi và dạy họ môn học này.

Tôi sẽ kê toa vì lợi ích của bệnh nhân, tùy theo khả năng và thẩm định của tôi, và không bao giờ làm hại ai.

Tôi không bao giờ đưa thuốc giết người cho bất kỳ ai hỏi tôi và sẽ không tư vấn một kế hoạch như vậy; và cũng như thế tôi sẽ không cho bất kỳ người phụ nữ nào một dụng cụ phá thai. Nhưng tôi sẽ giữ tinh khiết cho đời tôi và cho nghề nghiệp của tôi.

Tôi sẽ không giải phẫu để lấy sạn, kể cả đối với bệnh nhân biểu lộ là mang bệnh này; tôi sẽ dành việc giải phẫu cho những y sĩ, chuyên gia về bệnh này.

Mỗi căn nhà tôi bước vào, tôi bước vào vì lợi ích của bệnh nhân của tôi, giữ gìn tôi khỏi mọi ý đồ xấu xa và mọi cám dỗ và đặc biệt là khỏi các khoái lạc tình yêu với phụ nữ hay với nam giới, dù họ là người tự do hay nô lệ.

Tất cả mọi điều tôi biết trong khi hành nghề hay trong giao tiếp với mọi người, mà không nên để lộ ra ngoài, tôi sẽ giữ bí mật và sẽ không bao giờ tiết lộ.

Nếu tôi giữ lời thề này một cách thành khẩn, tôi sẽ được an hưởng đời tôi và thực hành nghề tôi, được mọi người kính trọng mãi mãi; nhưng nếu tôi đi trái đường và vi phạm lời thề, những điều ngược lại sẽ đến với tôi”.

BS ĐỖ HỒNG NGỌC

From: haiphuoc47 & NguyenNThu


 

Tác giả bài hát KHI CHÚA THƯƠNG GỌI CON VỀ đã về Nhà Chúa

Thao Teresa

 Tác giả bài hát KHI CHÚA THƯƠNG GỌI CON VỀ đã về Nhà Chúa

Xin tạ ơn Chúa với cha Phêrô Kim Long.

Linh mục nhạc sĩ Mi Trầm viết về cha Kim Long:

TIỂU SỬ LM. NS. KIM LONG…..

Lm Phêrô Nguyễn Kim Long (bút danh Kim Long) sinh ngày 9 tháng 1 năm 1941 tại Nam Định, trong gia đình Công giáo. Năm 1954, ông theo gia đình di cư vào Nam.

17 tuổi, ông đã sáng tác bài thánh ca đầu tay “Con hân hoan”, và sau đó ba năm, năm 1960, phổ nhạc lời Việt cho “Kinh Hòa Bình” – tác phẩm nổi tiếng nhất của ông.

Thụ phong linh mục năm 1968, Lm Kim Long được cử đi du học tại Học viện Thánh nhạc giáo hoàng ở Roma, tốt nghiệp năm 1972 với các bằng Magistero (bình ca) và Cử nhân Thánh nhạc.

Trở về Việt Nam, ông giữ chức quản xứ Đức Hòa (Mỹ Tho) và là giảng viên thánh nhạc tại Đại học Đà Lạt, Đại học Thành Nhân và nhiều Đại chủng viện khác.

Sau 1975, ông phụ trách giảng dạy và biên soạn giáo trình âm nhạc liturgy, đồng thời giữ nhiều chức vụ cao như Phó chủ tịch Ủy ban Thánh Nhạc và Tổng thư ký Ủy ban Phụng Tự – Hội đồng Giám mục Việt Nam.

Với hơn 50 năm sáng tác, Lm Kim Long đã sáng tác khoảng 3.000–3.500 bài thánh ca, là một trong bốn nhạc sĩ hàng đầu của dòng bình ca Việt Nam.

Các tác phẩm tiêu biểu như “Kinh Hòa Bình”, “Chúa không lầm”, “Con hân hoan”, và nhiều tuyển tập khổng lồ như “Ca lên đi”, “Bài ca suy niệm” đã trở thành nền tảng của thánh nhạc Việt.

Ông được đánh giá là “cây đại thụ trong nền thánh nhạc Việt Nam” với phong cách âm nhạc đơn giản, sâu lắng, dễ đi vào lòng người.

Theo thông tin mới nhất, Lm Phêrô Nguyễn Kim Long đã qua đời vào lúc 12 giờ trưa ngày 17 tháng 6 năm 2025.


 

 Có một nỗi buồn rất khẽ, mang tên: cha mẹ đã già

MC Nguyễn Ngọc Ngạn

 Có một nỗi buồn rất khẽ, mang tên: cha mẹ đã già.”

Tôi không biết từ lúc nào, bàn tay cha bắt đầu run khi cầm đôi đũa. Mẹ thì hay quên, vừa kể chuyện xong lại hỏi: “Má nói chưa con?”

Lúc đầu, tôi bật cười nhẹ. Sau đó là im lặng.

Rồi một ngày, tôi chợt thấy dáng cha đứng ở cửa… nhỏ bé đến lạ.

Và bỗng hiểu: chúng ta đang chứng kiến người từng là bức tường vững chãi nhất trong đời mình… lùi dần vào phía hoàng hôn.

Người già không cần gì nhiều.

Chỉ mong con cái bớt cao giọng.

Chỉ mong có ai ngồi cạnh, nghe họ kể chuyện cũ mười lần như mới.

Chỉ mong mỗi lần lỡ tay làm rơi bát, không bị thở dài.

Họ từng là người đỡ ta qua những ngày chập chững.

Giờ đến lượt ta dắt họ đi qua những bước cuối cùng của kiếp người.

Làm người tử tế không cần điều gì cao xa.

Chỉ cần đủ dịu dàng với người đã từng vì ta mà gồng lên cả một đời.

Vì mai này, khi họ đi rồi… sẽ chẳng ai còn hỏi ta ăn chưa, hay nhắc ta mặc thêm áo khi trở trời.

Hãy thương khi còn kịp.

Đừng đợi đến lúc chỉ còn được gọi tên họ trong gió…

(Theo MDang – An Nhiên Giữa Dòng Đời)


 

Những ngày cuối ở bên cha – HOANG LE

 HOANG LE

Viet cho ngay father day

Một tháng  trước ngày Father day , ba bị stroke phải gọi xe cấp cứu đưa vào phòng ICU . Tạ ơn Chúa và Đức Mẹ , ba được cứu sống ra khỏi bệnh viện, họ đưa ba qua Rehab để điều trị tiếp và tập cho ba đi trở lại. 

Cứ mỗi buổi chiều sau khi tan sở,  tôi đến thăm ba khu rehabilitation ở thành phố Sugarland. Hôm đó là ngày thứ Bảy tôi được về sớm có thời giờ ở với ba nhiều hơn.  Tôi đẩy xe lăn cho ba ra ngoài ngồi hưởng không khí trong lành ngắm cây cảnh trong khu vườn nhỏ dành cho các bệnh nhân. 

“ Ba thấy hoa nở đẹp không ba? ” . Vừa hỏi tôi vừa chỉ tay phía trước có hai cây crape myrtles đang nở những chùm hoa màu hồng đậm và màu trắng đong đưa trong nắng chiều của hoàng hôn. Ba gật đầu nhẹ vì cổ họng đã bị tê liệt  không nói được sau khi bị stroke.  

Không ngờ ngày đó cũng là ngày cuối cùng ba được nhìn thấy hoa của cây crapes myrtle nở trên dương thế. 

Có lẽ rất nhiều người đã nhiều lần đi dự đám tang của bạn bè và của người thân nhưng rất ít ai trong số đó chứng kiến cảnh cuối cùng của một người hấp hối, giây phút mà tâm hồn của một con người đang lìa khỏi xác. Riêng tôi, đó là những giây phút trải nghiệm buồn đau hằn sâu trong ký ức để nhắc nhở cho tôi biết đời là phù du, hãy yêu thương nhiều đi, tha thứ mau đi. 

Khi ông bác sĩ  Michael là người trực tiếp nhận ca của ba tôi chuyển từ khu Rehab đến phòng cấp cứu nói với tôi rằng chắc chắn là ba tôi sẽ không qua khỏi trong vòng hai mươi bốn tiếng nữa, thì thần kinh tôi bỗng bị tê liệt và tim tôi bấn loạn, tôi nắm tay vào thành giường của bệnh nhân để khỏi bị ngã quỵ.  Mỗi buổi tối, tôi đều đọc kinh Chết Lành chung với nhóm Con hẹn gặp Chúa trong nhà thờ nhưng tôi vẫn thấy cái chết chắc là xa lắm. Lúc này tôi mới cảm nghiệm được cái chết thật rất gần và linh hồn thật là vô giá. Tôi cầu nguyện với Chúa cho tôi lấy lại bình tĩnh để có thể làm được gì cho linh hồn của ba tôi đang hấp hối . Linh mục của bệnh viện không có ở đây. Bây giờ mới là chín giờ sáng . Tay của tôi run rẩy tìm số điện thoại của Linh mục Tiến trong Giáo xứ .  Linh mục đang trên đường đi họp nhưng ông nói sẽ hủy bỏ cuộc họp để đến bệnh viện xức dầu Thánh cho ba tôi.  Trong lúc chờ Linh mục đến, tôi cầm xâu chuỗi đọc kinh Lòng thương xót Chúa. Đang cầu nguyện thì một cô gái mang cây đàn guitar bước vào phòng tự giới thiệu tên là Stephanie , music therapist,  hỏi tôi có muốn cho ba tôi nghe hát không?  Tôi có một chút ngạc nhiên vì trong bệnh viện cũng có dịch vụ này rồi gật đầu đồng ý vì biết ba tôi cũng rất thích nghe nhạc. 

Cô hát bài Amazing grace, tôi nghe não nề nát ruột nát gan . Thấy tôi khóc, cô hỏi tôi có muốn cho ba tôi nghe hát tiếp không, tôi quay qua nói với cô: “ Stephanie, tôi đã từng nghĩ ông ấy sẽ sống với tôi đến ngày Giáng Sinh nhưng ông đã ra  đi sớm hơn . Bạn có thể đàn và hát chung với tôi bài Silent Night và O Holy Night để xem như ba tôi đã sống với tôi đến Giáng Sinh được không? “Cô ta đồng ý dạo đàn và chúng tôi cùng hát . Sau đó , Stephanie lấy máy recording thâu lại nhịp tim của ba tôi đang đập để sau này mổi lần nhớ ba, tôi có thể nghe và cảm nhận ba vẫn bên tôi. Tôi tiếp tục đọc kinh Lòng thương xót Chúa và lần chuỗi kính Mân côi . Vừa đọc kính vừa khóc nhìn khuôn mặt đau đớn với những nếp nhăn trên trán của ba đang vật lộn với tử thần,  tôi lo lắng tột độ , cầu xin Chúa và Đức Mẹ giữ linh hồn ba tôi lại cho đến khi Linh mục tới. Ba vẫn nghe được tôi đang khóc, hai giọt nước mắt của ba chảy ra từ đôi mắt nhắm nghiền. Huyết áp của ba tôi đã xuống rất thấp 70/ 45  nhưng rồi lên trở lại từ từ 86/57. Rất may Linh mục đã đến kịp lúc. Linh mục đọc những lời nguyện và kinh đặc biệt cho người sắp chết rồi xức nước Thánh lên trán và hai tay của ba. Vừa nhận phép xức dầu xong, tôi nhìn thấy khuôn mặt ba thanh thản ngay tức khắc . Con số nhịp tim trên máy xuống thấp dần. Ba sống thêm mấy phút  chờ mẹ tôi đến để được nắm tay mẹ tôi rồi mới trút hơi thở cuối cùng. Ba đã ra đi lúc 1h15 pm nhanh hơn là bác sĩ đã dự đoán. 

Năm nay ngày Father’s day tôi không còn cha để đến thăm. Năm ngóai cũng ngày này tôi đã đến thăm ba trong Rehabilitation. Ba đang tập đi với một người Physical therapist , tên anh là Kevin. Tôi đã đến cổ vủ cho ba tôi đi những bước đầu tiên sau khi bị liệt nửa người . Tôi đã ôm chúc ba: “ Happy Father day, ba của con. Ba ráng tập đi để về nhà với mẹ và con nha ba.” Tôi cũng chúc anh Kevin “ Happy Father day.” Mặt anh đang rạng rỡ bổng biến sắc,  anh  trả lời tôi giọng lạnh như băng: “ Tôi còn thậm chí không biết ba tôi là ai.” Lúc đó tôi  cảm thấy thương cảm cho anh và nói lí nhí xin lỗi anh. 

Vâng, trên thế giới này có rất nhiều đưa trẻ mồ côi cha từ rất nhỏ hoặc có nhiều người không được may mắn hưởng được tình yêu của người cha. Tôi ước gì họ biết được vẫn còn có một người Cha trên Trời vẫn luôn yêu thương và quan tâm đến họ .  Nhìn hoa crape myrtles đua nhau nở trên các đại lộ doc theo freeway trong mùa hè tháng Sáu , tôi lại nhớ đến những ngày cuối cùng được ngồi cùng với ba ngắm hoàng hôn buông xuống . Mặc dù tôi đã mất một người cha trên dương thế nhưng tôi biết tôi vẫn còn có một người Cha trên trời luôn hằng thương tôi che chở  và bảo vệ tôi . Tôi cũng tin tưởng ba tôi giờ đã ở với Cha trên trời và đang nở một nụ cười bình an mãn nguyện. 

  HOANG LE