“Đi Ăn Ở Hà Nội” – Đỗ Duy Ngọc 

Đỗ Duy Ngọc 

 Hà Nội có nhiều món ngon; chuyện ấy ít người cãi. Nhưng món ăn ngon Hà Nội tập trung ở Phố cổ; mà nhà ở Phố cồ thì bé tẻo teo, thế nên hàng quán bày bán đầy vỉa hè, muốn ăn thì ngồi ngay đường đi, ghế thấp lè tè, toàn ghế nhựa. Món ăn cũng bày tràn ra đường mặc cho bụi đường và vi trùng ồ ạt.  Hà Nội nổi tiếng là thành phố ô nhiễm bậc nhất cho nên thức ăn cũng thế thôi.

Ra Hà Nội tìm món ăn ngon của một thời trong văn của Thạch Lam, của Vũ Bằng và cả ông Nguyễn Tuân, những người được cho là sành ăn, thế nhưng khi thấy mọi người chen chúc ở vỉa hè và món ăn bày tràn cả lề đường thì ngại ngùng. Cũng có một số quán bán trong nhà, nhưng chật chội và bẩn cộng với muỗng đũa nhầy nhụa cả mỡ. Căn nhà ám khói và tràn giấy lau bay như bướm, trắng cả sàn. Chủ tiệm và người phục vụ có lẽ đắt khách quá nên chẳng cần lịch sự với khách.  Họ trả lời cứ nhấm nha nhấm nhẳng. Chủ và tớ nhễ nhại mồ hôi cứ thế mà bưng bê thức ăn. Đặc biệt khi đi ăn ở các quán ăn Hà Nội, nhớ tuyệt đối đừng bao giờ đi vệ sinh, bởi đã vào đấy đi ra thì không thể ra ăn tiếp được vì nhà vệ sinh quá xá bẩn, bẩn tới phát khiếp.

Một lần tui vào Phở Thìn ở Phố Lò Đúc, ngồi một lát chẳng thấy ai hỏi mà quán thì nóng hầm hập, người chen chúc.  Bàn ăn của quán là một dãy dài, ngồi chung chạ nhau. Đợi một hồi thấy chả có ai hỏi dù đã ra dấu nhiều lần với người phục vụ, nhưng các cậu ấy cứ tảng lờ. Ông khách ngồi chung bàn thấy thế mới bảo: 

– “Ông phải ra ngoài kia gọi phở và trả tiền thì nó mới bưng vào.” 

À ra thế!  Gọi mấy bát phở, bảo chín, gầu.  Cậu phục vụ lắc đầu: 

– “Ở đây chỉ có một món tái lăn.  Một bát 60 ngàn.”  

Khi tô phở bưng ra, tui thử một muỗng nước lèo, đầy bột ngọt, thế là chỉ ăn được một vệt. Nhìn lui, một cặp vợ chồng trẻ và đứa con đang đứng chờ ngay sau lưng, tui đành đứng dậy.  Ở đây không bán nước uống.  Thôi thì để miệng nham nháp bột ngọt mà đi ra khỏi quán. 

Người ta bảo Phở Bát Đàn ngon, tui lại không thích quán đó, dù có ngon, bởi cái kiểu cầm tô xếp hàng và thái độ khinh khi khách của tên lùn múc phở là tui không chịu được. Lại nghe Phở Dư, Phở Sướng, Phở Hàng Da… ăn cũng được lắm (?)  Tui thuê xe đi ngang qua các quán này lại không dám vào vì quán nào cũng chen chúc, chỗ nào cũng chật chội. 

Không ăn phở thì ăn bánh cuốn vậy!  Nghe bảo ở Hàng Gà có bánh cuốn ngon, chợt nhớ cô bạn nhắn bảo ở phố Hàng Cót có quán bánh cuốn ăn được lắm.  Tui hí hửng đi lộn về, gọi một dĩa nhưng rất thất vọng. Chạy qua Thanh Vân ở Hàng Gà, quán sạch sẽ, có quầy thu tiền ở cửa. Được giới thiệu “dĩa combo” gồm bánh cuốn và hai miếng chả cắt xéo giá 60 ngàn. Tui gọi ngay một đĩa, rồi cũng đành bỏ vì ăn không ngon; có lẽ khẩu vị của tui khác chăng? Tui bị cái tật là cảm thấy không ngon là bỏ, không ăn. Thà nhịn đói chứ không chịu ăn thứ dở. 

Tui đành kêu cuốc xe trở về khách sạn. Đi ngang hàng quán bún, miến, cháo, gà, vịt, ngan, bún thang, bún ốc, chân gà, lòng lợn, cua, ốc, giò, nộm, chả cá…  đẩy phố, nhưng thấy quán chiếm chật vỉa hè đành nhịn mà đi. 

Một tối tui đi ăn bún chả gần khách sạn tui đang ở, đương nhiên là ngồi vỉa hè rồi.  Đang ăn chợt thấy trước mặt, chị giúp việc rửa tô bằng cách nhúng vào một xô nước lợn cợn bún và rau, rồi cầm một cái khăn đã ngã màu theo tháng năm lau quanh, sắp thành chồng. Nhìn thế, tui phát nhợn, không ăn tiếp được. 

Buổi sáng thức dậy sớm, một anh bạn người Hà Nội đem xe chở tui đi về làng Ước Lễ, nơi còn có cái cổng làng chụp hình. Anh bảo ghé Lý Thường Kiệt mua mấy gói xôi xéo ăn sang.  Theo anh, đây là nơi bán xôi ngon nhất Hà thành. Tới nơi, thấy xôi, hành phi, giò chả để ngay dưới đất trên lối đi của người đi bộ, không sạp, không bàn ghế là đã thấy oải. Có ngon cũng thành dở. 

Hà Nội vẫn có nhiều nhà hàng lịch sự và vệ sinh, nhưng người Hà Nội bảo rằng các món ăn ở đó không ngon, không đúng chất Hà Nội. Ăn ở các nơi đó là chưa thưởng thức được món ăn Hà Nội và chứng tỏ là không biết ăn. 

Có lẽ Hà Nội là nơi có nhiều quán lề đường nhất nước và cũng có lẽ đó là phong cách ẩm thực của người Hà Nội. Tui ra Hà Nội rất nhiều lần từ thập niên 90 đến nay, nhận thấy cung cách mua bán hàng ăn ở Hà Nội không đổi mà ngày càng xô bồ và nhếch nhác hơn. 

Đây là ý kiến và cách nhìn của một cá nhân, có thể chưa bao quát hết, nhưng cũng là nhận định của một người phương xa yêu Hà Nội viết vội về việc ăn ở Hà Nội. 

Đỗ Duy Ngọc 

Trần Văn Giang (ghi lại)

From: Tu-Phung


Sách và lửa! – Đoàn Xuân Thu

– Đoàn Xuân Thu

Nếu lửa là phát minh vĩ đại nhất giúp con người thoát khỏi thời mông muội, thì sách chính là phát minh vĩ đại giúp nhân loại bước vào kỷ nguyên của tri thức và văn minh.

  1. Ông Khai Trí

Trước khi Internet “qua mặt không bóp kèn” mọi thứ, trước khi Facebook “dạy đời” mỗi ngày, và trước cả khi những cuốn sách biến thành đồ trang trí bàn cà phê, ông Nguyễn Hùng Trương – tức ông Khai Trí – đã tiên phong đi trước thời hiện đại. Ông mở nhà sách để người ta “khai trí” bằng cách đọc: đọc ké, đọc kín, đọc chùa, đọc không trả tiền. Cái bất tiện hơn so với chui vô thư viện là ngồi đọc, thì ở đây… phải đứng đọc!

Ở Sài Gòn những năm 60, khi xã hội còn đang mải mê với những bộ phim “nghệ thuật” Hollywood, dân mình lại dịch theo kiểu Tàu là “Hồ Ly Vọng”. Nghe “Hồ Ly” là tôi lại tưởng đến Liêu trai chí dị của chú ba Bồ Tùng Linh chớ?!

Khờ câm từ đêm buồn tỉnh lẻ Mỹ Tho tui lên Sài Thành hoa lệ dùi mài kinh sử lại không lo, vì bận ngơ ngẩn trông vời áo tiểu thư. Tiểu thư đây là những em mặc jupe soirée (váy dạ hội), từ trong quán cà phê Givral bước ra, miệng parler français – nói tiếng Pháp – như ca sĩ Thanh Lan học trường Đầm Marie Curie.

(Viết tới đây tui lại nhớ giáo sư Nguyễn Anh Bổn dạy môn Pháp văn sinh ngữ hai lớp đệ nhứt trường Trung học Công lập Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho, tỉnh Định Tường. Thầy chạy xe đạp đòn dông, tóc bạc nên đám học trò tụi tui gọi thầy là: “ông ngoại”. Một hôm, ông ngoại biểu tui chia động từ avoir. Chia xong, thầy nói: “Đoàn quân (chàng họ Đoàn, tức là tui): Parlez français same same Vietnamien!” He he!)

Trong khi đó, ông Khai Trí bán sách không dễ tiêu hóa đâu, rất khó gặm: triết học cổ điển, văn học nước ngoài, công trình khoa học… Đọc để khai trí, chứ đâu phải đọc giải trí!

Ông Khai Trí  

Ở Footscray, ngoại ô cách Melbourne CBD về hướng Tây – nơi tôi,30 năm trước, từ sông nước miền Tây trôi dạt đến – có tiệm tên Khai Trí ở đường Droop. Khai Trí này không bán sách mà bán băng Paris by Night của ông Tô Văn Lai, hoặc Asia của ông Trúc Hồ. Sau băng, đĩa lậu tràn lan, tiệm nghỉ luôn, không thèm “khai trí” nữa. Cho tụi bây ngu… ráng chịu!

Nhà sách Khai Trí ở thủ đô Sài Gòn yêu dấu xưa là một kho tàng tri thức mà thư viện quốc gia chưa chắc có. Ngay cả nhà biên khảo Sơn Nam muốn tìm tài liệu cũng phải chịu khó lội bộ mấy cây số đến đó mà chép.

Rồi đến năm 1975, CSBV vào, “giải phóng” – không bị ‘phỏng…’ vì đó là trận bão tuyết lạnh giá văn hoá của Lenin từ Siberia thổi tới. Sách của ông bị tịch thu đem đốt, ông Khai Trí bị nhốt vì “tội bán quá nhiều sách đồi trụy của bọn Mỹ Ngụy”.

Ra tù, nhà sách của ông thì họ quên trả. Nhà lầu mặt tiền đường Lê Lợi, trung tâm Quận Nhứt Sài Gòn, trả sao được? Ông Khai Trí sống lưu vong ở Mỹ. Sách ông thì chẳng ai còn nhớ đến nữa.

2.Nguyễn Hiến Lê.

Ngày 30 tháng 4 năm 1975 không chỉ có những tiếng hô vang “giải phóng miền Nam” của Huỳnh Minh Siêng (tức Lưu Hữu Phước). Giải phóng bằng cách… đốt sách!

Những cuốn sách, dù là kỹ thuật, văn học của Nguyễn Du, của Lê Quý Đôn, hay các tác phẩm cổ điển phương Tây – tất cả đều trở thành “kẻ thù”, chỉ vì in ở Sài Gòn, mang “mầm mống phản động”.

Không cần lý lẽ, chỉ cần “tổ trưởng tổ dân phố” ra phán quyết là đốt sạch sành sanh.

Muốn đọc? Phải xin phép. Muốn viết? Phải được duyệt. Mà viết không được đăng thì chỉ có nước… đi học lại những đề cương về văn hoá cách mạng của Trường Chinh – tay đao phủ cải cách ruộng đất, từng bắt nông dân tố cha, tố mẹ, chỉ vì có vài mẫu đất trồng khoai nuôi heo ở miền Bắc năm 1956. Người ta vẫn nói: “Con người là những gì họ đọc.” Vậy sau bao nhiêu chiến dịch đốt sách, kiểm duyệt, cấm đoán, thì người dân trong chế độ Cộng sản còn đọc gì? Một dân tộc không còn thói quen đọc, không chỉ vì lười biếng, mà vì không còn sách để đọc – ấy mới là bi kịch.

Nhà biên khảo Nguyễn Hiến Lê chỉ cần liệt kê tên sách ông viết và dịch đã đủ làm một chồng sách cao hơn đầu. Nhưng sách ông cũng bị đốt sạch.

Nhà biên khảo Nguyễn Hiến Lê

Nếu sách là con tinh thần của ông, thì bọn vệ binh đỏ của trùm CS Lê Duẩn đã giết hàng trăm đứa con ông ngay trước mặt ông. Lòng đau như dao cắt, như muối xát kim châm, mà ông Nguyễn Hiến Lê chỉ dám nhẹ nhàng còm len (complain): “Người ta đốt sách như thời Tần Thủy Hoàng. Tôi buồn, nhưng không ngạc nhiên.”

Ông dùng chữ “người ta”? Người ta gì mà mọi rợ vậy chớ?! Hay là ông Nguyễn cũng sợ bị nhốt như ông Khai Trí?

Đối với tất cả các chế độ độc tài: sách là kẻ thù của họ. Không phải vì sách có thể bắn ra đạn, mà vì sách chứa đựng một thứ không ai cấm được: tư tưởng.

Lịch sử từng chứng kiến những vụ đốt sách “vĩ đại”: Tần Thủy Hoàng đốt sách để độc quyền tư tưởng. Stalin đốt sách để xóa “tư tưởng lệch lạc”. Hitler đốt sách Do Thái. Mao Trạch Đông đốt luôn cả văn hóa, cả lịch sử – để tái tạo Trung Hoa XHCN từ đầu. Pol Pot xé sách dạy chữ, quay về thời đồ đá.

Và ở Việt Nam, sau 1975, sách bị thiêu rụi trong những cuộc “giải phóng tư tưởng”. Cái mất không chỉ là sách – mà là cả một nền văn hoá, cả một dân tộc biết suy nghĩ.

o O o

Nhưng ngọn lửa đốt sách của lịch sử vẫn lởn vởn, sẵn sàng bùng lên mỗi khi quyền lực cảm thấy tri thức là mối đe dọa. Ngày nay, có ai còn đọc? Có ai còn viết mà không bị mạng xã hội “ném đá” hoặc “báo cáo vi phạm cộng đồng”?

Trong các chế độ độc tài, trong đó có độc tài Cộng sản, nếu muốn sống: cấm khai trí, cấm đọc, cấm phản biện. Hãy ngu đi! Animal Farm (Trại súc vật) của George Orwell thì phẻ re như con bò kéo xe, hay con ngựa thồ ngoại ô xa vắng, bị che hai bên mắt – chỉ được nhìn về một hướng như Trịnh Công Sơn. Hướng đó là: Thiên đường mù của Dương Thu Hương! Khè khè!

nguồn The New York Times

Nguon: Ba’o TRE

Người đàn ông ở Đồng Nai treo cổ tự tử sau bản án oan

Ba’o Dat Viet

June 2, 2025

 Một người đàn ông ở tỉnh Đồng Nai đã kết thúc cuộc đời mình trong uất ức, chỉ vài giờ trước khi bị cưỡng chế đi thi hành án tù hai năm. Cái chết của ông Trần Anh Tú, 49 tuổi, không chỉ là một bi kịch cá nhân mà còn là hồi chuông cảnh báo về sự lỏng lẻo, bất cập và thiếu công bằng trong hệ thống tư pháp dưới chế độ Cộng Sản Việt Nam.

Theo báo VN Express hôm 1 Tháng Sáu, ông Trần Anh Tú ban đầu là nhân chứng trong một vụ án “cố ý gây thương tích” liên quan đến người em ruột là Trần Anh Tài. Tuy nhiên, qua một chuỗi điều tra đầy khuất tất, ông Tú bất ngờ trở thành bị cáo và bị kết án hai năm tù, dù ông không trực tiếp gây thương tích cho bất kỳ ai trong vụ việc.

Câu chuyện bắt đầu vào cuối Tháng Ba năm 2022, khi ông Tài – người em của ông Tú – bị ông Trần Thanh Hải và ba người khác đến tận nhà đòi nợ. Ông Hải mang theo bình xịt hơi cay và xịt vào mặt ông Tài, khiến ông này chạy sang nhà anh ruột kêu cứu.

Thấy em mình bị tấn công, ông Tú cầm dao lao ra định ngăn cản. Trong lúc hỗn loạn, ông Tài chém vào mặt ông Hải, gây thương tích. Con riêng của vợ ông Tài cũng xông vào và gây thêm thương tích cho ông Hải. Cuối cùng, ông Tú cùng người trong nhà trói tay ông Hải lại và báo công an. Ông Tú sau đó ra đầu thú, được tại ngoại điều tra, và tiếp tục hợp tác với tư cách nhân chứng tại phiên sơ thẩm vào Tháng Chín năm 2023.

Tòa án huyện Nhơn Trạch tuyên ông Tài sáu năm tù. Riêng ông Tú và con trai riêng của vợ ông Tài chỉ được mời đến tòa với tư cách nhân chứng. Thế nhưng đến Tháng Tư năm ngoái, tòa phúc thẩm lại bất ngờ trả hồ sơ, yêu cầu điều tra bổ sung hành vi của cả hai người này.

Chỉ vài tháng sau, ông Tú bị khởi tố, cấm đi khỏi nơi cư trú, và đến đầu năm 2024 thì bị tuyên án hai năm tù. Trong mắt người dân, ông Tú chỉ là người can thiệp để bảo vệ em trai, không có hành vi cố ý gây thương tích. Thế nhưng, dưới tay bộ máy tư pháp địa phương, ông bị biến thành tội phạm.

Sáng 30 Tháng Năm, ông Tú treo cổ tự tử tại nhà riêng – đúng vào ngày ông bị cưỡng chế đi thi hành án.

Cái chết của ông không phải chỉ là kết thúc của một bản án. Nó phơi bày một sự thật cay đắng: trong hệ thống pháp lý của Cộng Sản Việt Nam, người dân có thể bị cuốn vào guồng máy tố tụng một cách vô lý, oan sai, và hoàn toàn bất lực.

Khi nhân chứng có thể bị biến thành bị cáo, khi người đứng ra can ngăn một vụ hành hung lại bị truy tố vì “cố ý gây thương tích,” thì công lý – nếu còn tồn tại – cũng đã bị bóp méo đến không nhận ra.

Và cái chết của ông Trần Anh Tú, giờ đây, không chỉ là một vụ tự tử. Nó là một bản cáo trạng.


 

PHÁT NGÔN GÂY SỐC VÀ XÚC PHẠM HÀNG TRIỆU NGƯỜI DÂN SÀI GÒN

Việt Tân

 PHÁT NGÔN GÂY SỐC VÀ XÚC PHẠM HÀNG TRIỆU NGƯỜI DÂN SÀI GÒN

Phát ngôn của Phó Chủ tịch UBND TP.HCM Võ Văn Hoan rằng: “Ngập là một đặc điểm rất tự nhiên của thành phố. Ngập thành phố phần nào là một hình ảnh rất đẹp” không chỉ gây sốc mà còn là một sự xúc phạm trắng trợn đối với hàng triệu người dân Sài Gòn đang ngày đêm oằn mình chống chọi với nước ngập. Đây có phải là cách mà một quan chức của một Đảng độc quyền lãnh đạo toàn diện thể hiện trách nhiệm của mình? Như thế rõ ràng là nỗi khổ của dân bị biến thành “vẻ đẹp”

Trong khi người dân phải lội bì bõm trong nước cống dềnh lên, xe cộ chết máy, tài sản hư hại, cuộc sống đảo lộn, thì vị Phó Chủ tịch lại có thể nhìn thấy “hình ảnh đẹp” từ cảnh tượng đó. “Đẹp” ở chỗ nào khi cả thành phố biến thành sông, giao thông tê liệt, hàng quán đóng cửa, và hàng trăm gia đình phải vật lộn với cảnh ngập úng triền miên sau mỗi trận mưa? Phát ngôn này không chỉ vô cảm mà còn cho thấy sự thiếu trách nhiệm đến kinh ngạc của những người nắm quyền. Thay vì đưa ra giải pháp, thay vì nhìn nhận đúng mức độ nghiêm trọng của vấn đề để tìm cách cải thiện đời sống người dân, họ lại chọn cách biện minh bằng những lời nói vô bổ, thậm chí là lố bịch.

Chính quyền Đảng Cộng sản Việt Nam tự nhận là “độc quyền lãnh đạo toàn diện” nhưng lại không thể giải quyết được một vấn đề cơ bản như ngập lụt, một vấn đề đã tồn tại dai dẳng hàng thập kỷ. Việc không chống ngập hiệu quả sau những trận mưa không phải là “đặc điểm tự nhiên”, mà là hậu quả của sự yếu kém trong quy hoạch, quản lý và thiếu trách nhiệm của bộ máy. Lời nói của ông Võ Văn Hoan là minh chứng rõ ràng nhất cho thấy người dân Việt Nam đang cần một sự thay đổi cấp bách. Chúng ta cần một chính quyền không chỉ biết hô hào khẩu hiệu mà phải thực sự bảo vệ quyền lợi và chăm lo cho đời sống của người dân. Chúng ta cần một chính quyền biết lắng nghe, thấu hiểu nỗi khổ của dân, chứ không phải nói những lời vô cảm, biện minh cho yếu kém của mình. Chúng ta cần một chính quyền minh bạch trong quy hoạch, đầu tư, và thực thi các dự án chống ngập, chứ không phải để hàng trăm ngàn tỷ đồng đổ vào những dự án kém hiệu quả.

Và trên hết, chúng ta cần tự do dân chủ để người dân có thể lên tiếng, chất vấn và giám sát những người đang nắm giữ quyền lực. Chỉ khi có tự do dân chủ, quyền lợi của người dân mới được đảm bảo, và những phát ngôn “tuyệt vời” như “ngập là đẹp” mới không còn đất để tồn tại. Đã đến lúc người dân Việt Nam phải cùng nhau đòi hỏi một chính quyền thực sự vì dân, chứ không phải một bộ máy chỉ biết “lãnh đạo toàn diện” trên giấy tờ nhưng lại bất lực trước những vấn đề cơ bản của cuộc sống.

Lão Thất


 

Ông xích lô ở Nha Trang ‘giật tiền’ của nữ du khách ngoại quốc

Ba’o Nguoi- Viet

June 2, 2025

KHÁNH HÒA, Việt Nam (NV) – Một ông chạy xích lô du lịch ở thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, bị cho là “có thái độ phản cảm” khi giật tiền trên tay nữ du khách ngoại quốc.

Theo báo Dân Trí, chiều 31 Tháng Năm, trên mạng xã hội Facebook lan truyền video clip dài gần 30 giây ghi lại cảnh một ông chạy xích lô chở hai mẹ con nữ du khách ngoại quốc.

Hình ảnh ông chạy xích lô giật tiền trên tay nữ du khách ở Nha Trang. (Hình: Dân Trí)

Khi đến nơi, nữ du khách đưa ra một số tờ tiền, sau đó giữa ông chạy xích lô và du khách xảy ra cự cãi.

Trong lúc lời qua tiếng lại, bất ngờ ông chạy xích lô đã giật các tờ tiền trên tay của nữ du khách. Thấy ông này tỏ vẻ hung hăng, nữ du khách này vội dắt tay con gái rời đi.

Ngay khi đoạn clip lan truyền, nhiều người đã bày tỏ bất bình cho rằng, ông xích lô đã cư xử không đúng mực với du khách và đề nghị giới chức địa phương “chấn chỉnh.”

Sáng 2 Tháng Sáu, nói với báo Dân Trí, ông Lê Quang Nhất, chủ tịch Nghiệp Đoàn Xích Lô Du Lịch Nha Trang kiêm phó chủ tịch Liên Đoàn Lao Động Thành Phố Nha Trang, cho biết đã xác định được danh tính người chạy xích lô là ông Đào L., 57 tuổi, quê huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên, đồng thời đang yêu cầu người này viết bản tường trình, kiểm điểm “để có cơ sở xử lý theo quy định.”

Ông Nhất cho biết qua làm việc, ông L. cho rằng trước khi thực hiện “cuốc” xe hơn 1.5 km đi từ đường Nguyễn Thị Minh Khai đến đường Trần Phú, thành phố Nha Trang, ông đã thông báo với khách giá phải trả là 50,000 đồng ($1.9). Tuy nhiên khi đến nơi, nữ du khách chỉ trả 35,000 đồng ($1.3).

“Vì vội nên người chạy xích lô đã có những hành động giật tiền gây phản cảm,” ông Nhất biện minh.

Ông Đào L. (thứ hai, trái qua) làm việc với Nghiệp Đoàn Xích Lô Du Lịch Nha Trang. (Hình: Thái Tĩnh/Người Lao Động)

Theo ông Nhất, một số hình thức xử lý đang được Nghiệp Đoàn Xích Lô Du Lịch Nha Trang xem xét là cho ông L. ra khỏi nghiệp đoàn, thu hồi thẻ thành viên.

“Thời gian qua, nghiệp đoàn đã nỗ lực kết nối với các đơn vị để phối hợp tuyên truyền về các quy tắc ứng xử với du khách, tránh xa tệ nạn xã hội, học ngoại ngữ… Tuy nhiên, vẫn còn những trường hợp không tuân thủ, dẫn đến ảnh hưởng tới hình ảnh của đa số đoàn viên thực hiện tốt,” ông Nhất cho biết thêm.

Ngoài vụ “giật tiền” trên, trước đó tại thành phố Nha Trang cũng đã từng xuất hiện nhiều vụ du khách tố cáo bị hành hung, thu các khoản phí bất hợp lý. (Tr.N) [kn]


 

Có một nỗi buồn rất khẽ, mang tên: cha mẹ đã già

An Nhiên Giữa Dòng Đời

Có một nỗi buồn rất khẽ, mang tên: cha mẹ đã già.”

Tôi không biết từ lúc nào, bàn tay cha bắt đầu run khi cầm đôi đũa. Mẹ thì hay quên, vừa kể chuyện xong lại hỏi: “Má nói chưa con?”

Lúc đầu, tôi bật cười nhẹ. Sau đó là im lặng.

Rồi một ngày, tôi chợt thấy dáng cha đứng ở cửa… nhỏ bé đến lạ.

Và bỗng hiểu: chúng ta đang chứng kiến người từng là bức tường vững chãi nhất trong đời mình… lùi dần vào phía hoàng hôn.

Người già không cần gì nhiều.

Chỉ mong con cái bớt cao giọng.

Chỉ mong có ai ngồi cạnh, nghe họ kể chuyện cũ mười lần như mới.

Chỉ mong mỗi lần lỡ tay làm rơi bát, không bị thở dài.

Họ từng là người đỡ ta qua những ngày chập chững.

Giờ đến lượt ta dắt họ đi qua những bước cuối cùng của kiếp người.

Làm người tử tế không cần điều gì cao xa.

Chỉ cần đủ dịu dàng với người đã từng vì ta mà gồng lên cả một đời.

Vì mai này, khi họ đi rồi… sẽ chẳng ai còn hỏi ta ăn chưa, hay nhắc ta mặc thêm áo khi trở trời.

Hãy thương khi còn kịp.

Đừng đợi đến lúc chỉ còn được gọi tên họ trong gió…

MDang

#annhiengiuadongdoi

#whispersofenlightenment


 

‘Nghịch tử’ ở Hải Phòng giết mẹ, chém bố trọng thương

Ba’o Nguoi-Viet

June 1, 2025

HẢI PHÒNG, Việt Nam (NV) – Nghi can Lê Văn Cường, 30 tuổi, ở phường Lưu Kiếm, thành phố Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng, bị bắt với cáo buộc sát hại mẹ ruột và đâm cha mình trọng thương.

Theo báo VietNamNet hôm 1 Tháng Sáu, nhà chức trách công bố nguyên nhân ban đầu là do nghi can đi uống rượu về muộn, bị cha mắng, không cho ngủ.

Căn nhà nơi xảy ra vụ án mạng tọa lạc tại thành phố Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. (Hình: Hoài Anh/VietNamNet)

Trong sự việc xảy ra vào lúc 6 giờ sáng cùng ngày, nghi can Cường lấy dao đuổi chém cha.

Mẹ của nghi can chạy ra can ngăn thì bị con trai dùng dao đâm chết ngay tại nhà. Người cha bị thương nặng, được đưa đi cấp cứu.

Công an sau đó đến hiện trường khống chế nghi can, đưa ông này đi xét nghiệm nồng độ cồn và chất kích thích.

Trong một bi kịch gia đình tương tự, báo Bảo Vệ Pháp Luật hồi đầu Tháng Tư cho hay, bị can Đặng Khánh Linh, 16 tuổi, ở quận Đống Đa, Hà Nội, bị bắt, truy tố với cáo buộc dùng dao đâm cha mẹ ruột suýt chết.

Theo cáo trạng, bị can Linh là học sinh một trường trung học tại quận Cầu Giấy, thường xuyên bỏ học, chơi bời lêu lổng nên bị cha mẹ cho chuyển trường đến trường nội trú IVS ở huyện Thanh Oai.

Do không chịu được áp lực học tập, hồi Tháng Năm năm ngoái, thiếu nữ bỏ học và nghỉ ở nhà. Hồi đầu Tháng Mười Một năm ngoái, bị can Linh bỏ nhà đi chơi lang thang, lêu lổng với bạn bè trong ba ngày.

Mẹ thiếu nữ đã chửi bới con gái và cấm em này đi chơi, cũng như không cho sử dụng điện thoại và mạng xã hội. Tiếp đó, cha thiếu nữ đe dọa gửi con gái vào trường giáo dưỡng.

Vụ việc xảy ra tại thành phố Thủy Nguyên, thành phố Hải Phòng. (Hình: Dân Trí)

Do bất bình, vào lúc 3 giờ sáng ngày 16 Tháng Mười Một cùng năm, bị can Linh nảy sinh ý định dùng dao đâm cha mẹ đang ngủ say. Bị can Linh đâm một nhát dao vào cổ cha, một nhát vào cổ mẹ, khiến hai người này hét lên kêu cứu.

Người cậu của thiếu nữ sống cùng nhà, kịp thời đưa cha mẹ bị can Linh đi cấp cứu kịp thời nên hai người này giữ được mạng sống, chỉ bị tổn hại 2-12% cơ thể.

Sau khi gây án, bị can Đặng Khánh Linh ra công an đầu thú. Kết quả xét nghiệm cho thấy thiếu nữ dương tính với chất ma túy. (N.H.K)


 

Ngày 1-6-1975: Lệnh gọi “học tập cải tạo”, một vết chém cay nghiệt!

Ba’o Tieng Dan

31/05/2025

Bùi Anh Thư

31-5-2025

Tháng 5, miền Nam vừa trải qua một tang thương của một cuộc chiến kết thúc không bằng tiếng súng mà bằng một sự im lặng ngột ngạt. Và ngày 1 tháng 6 năm 1975, lệnh trình diện “học tập cải tạo” được ban hành.

Tưởng chừng chỉ là một thông báo hành chính, nhưng đối với hàng trăm ngàn gia đình, đó là bản án treo lơ lửng không tuyên bố, một vết chém lạnh lùng rạch ngang đời sống của bao con người vừa bừng tỉnh sau cơn địa chấn lịch sử.

Từ sáng sớm hôm ấy, cả miền Nam rúng động. Loa phóng thanh vang lên khắp ngõ phố Sài Gòn – Gia Định, Huế, Cần Thơ, Vũng Tàu… Mỗi từ, mỗi chữ trong thông báo đều như mang theo hơi lạnh của rừng sâu, của dây thép gai, của cái đói chưa đến mà đã thấy trong ánh mắt những người đọc qua:

“Sĩ quan, viên chức, cảnh sát, công chức chế độ cũ… phải trình diện học tập cải tạo trong 10 ngày…”

Chỉ “mười ngày” – một lời hứa nhẹ nhàng đến cay nghiệt. Người dân biết: đó là lời tiễn biệt, không phải cuộc hẹn trở về.

mẹ – lệ chảy dài

thu xếp bọc hành trang

cha – nhìn đàn con thơ

mắt ngậm lời vĩnh biệt

Các bà mẹ lặng lẽ khâu tên con vào ống quần lính cũ, vợ gói gạo rang, muối hột, viên thuốc cảm cuối cùng. Không ai khóc, nước mắt đã cạn khô, chỉ còn đôi môi mím chặt như muốn gào lên nhưng không dám. Không tiếng khóc, nhưng từng mái nhà rền rĩ những uất ức không lời. Phút giây đó, mọi ngôn ngữ đều trở nên bất lực.

Tôi ngỡ ngàng sợ hãi:

HẠNH PHÚC – phải chăng là ra đi mất bóng

và TỰ DO

là giam đời trong trại tập trung?

Và rồi, từ ngày 1 tháng 6 ấy, những trại cải tạo mọc lên khắp rừng núi phía Bắc, Tây Nguyên, rìa biên giới. Không ai biết chính xác bao nhiêu người bị đưa đi. Họ trở thành những cái bóng không tên, sống trong đói khát, bệnh tật, cô lập, và thời gian bị tước mất.

Ở quê nhà, người thân của họ sống từng ngày như trong tang lễ kéo dài không hồi kết. Những đứa con bị khước từ tương lai chỉ vì cái họ mang danh “con ngụy”. Những người vợ gầy rạc, chống gậy bước qua năm tháng, vừa làm mẹ, vừa làm cha, vừa làm chứng nhân cho một nỗi đau bị cấm gọi tên.

Ngày 1 tháng 6 năm 1975 – không phải chỉ là một ngày trong lịch sử, mà là khởi đầu của một chương bi tráng và tàn khốc, nơi quyền lực không cần đến súng đạn nữa – chỉ cần một thông báo và sự im lặng của cả một xã hội.

Đó là ngày mà hàng trăm ngàn con người bước vào bóng tối – lặng lẽ, không tiếng khóc, không huy chương, không kháng cự – chỉ còn lại niềm kiêu hãnh bị nghiền nát, và nỗi đau ngấm sâu, không thể gột rửa bằng thời gian.

Ngày 1 tháng 6, ngày bắt đầu cho những nghiệt ngã đau thương!


 

Cựu Biệt Kích Chung Tử Ngọc bị giam cầm 6 năm ở những trại tập trung

Ba’o Nguoi-Viet

May 31, 2025

Lâm Hoài Thạch/Người Việt

WESTMINSTER, California (NV) – Cựu chiến sĩ Biệt Kích Chung Tử Ngọc tuy ở trong quân ngũ không dài nhưng vẫn lo tròn nhiệm vụ của người lính. Ông có những chuyến công tác đặc biệt cận kề với tử thần theo tinh thần chiến đấu cho quốc gia, dân tộc với phương châm “Vào sinh ra tử.”

Ông Chung Tử Ngọc (giữa) cùng con gái và cháu ngoại tại nhà ông ở Westminster, California. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)

Ông Chung Tử Ngọc là Sinh Viên Sĩ Quan (SVSQ) Khóa 3/73 Trừ Bị Thủ Đức, nhập ngũ năm 1972. Ra trường Tháng Mười Hai, 1973, ông được về đơn vị Biệt Kích của Nha Kỹ Thuật, thuộc Toán 729 Đoàn Công Tác 72 của Nha Kỹ Thuật.

Thời gian quân ngũ của ông chỉ khoảng hơn một năm thì biến cố cuối Tháng Tư, 1975 ập tới. Chia sẻ với phóng viên nhật báo Người Việt tại nhà ở Westminster, một thành phố trung tâm của Little Saigon, nơi có cộng đồng người Việt lớn nhất hải ngoại, cựu chiến sĩ Biệt Kích Chung Tử Ngọc tâm tình cuộc đời quân ngũ đến giờ phút cuối cùng khi chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) Miền Nam bị thất thủ, lúc ông bị bắt làm tù binh trong những trại tập trung của Cộng Sản hết sáu năm, rồi vượt biên ra hải ngoại.

Nhờ dân làng nên thoát chết

Khoảng đầu Tháng Ba, 1975 là chuyến cuối cùng công tác của Biệt Kích Chung Tử Ngọc trong rừng của phạm vi Đà Nẵng. Sau khi đối đầu với Việt Cộng, ba toán Biệt Kích còn sống sót và hai chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiến vào rừng, khi thấy không còn địch đuổi theo nữa, họ mới tìm cách đi ra khỏi khu rừng trong đêm.

Ông kể: “Lúc đó có người nói với chúng tôi là Cộng Sản đã chiếm Đà Nẵng, khoảng cuối Tháng Ba, 1975, và có rất nhiều người lính VNCH đã ra trình diện với Việt Cộng rồi, nên người dân mới khuyên chúng tôi phải ra trình diện. Không còn đường nào để đi, buộc lòng chúng tôi phải ra trình diện Cộng Sản.”

Sau khi ra trình diện tại một xã nhỏ, thì Việt Cộng mới đưa ba toán Biệt Kích và hai chiến sĩ Thủy Quân Lục Chiến về nhốt tại một trại giam nhỏ. Lúc đó một số lính xe tăng Bắc Việt ghé vào để xem số tù binh, khi họ biết nhóm này là lính Biệt Kích thì họ chĩa súng vào những Biệt Kích, nói: “Đem ra bắn bỏ hết mấy tên lính Biệt Kích này ngay.”

“Khi họ mang chúng tôi ra ngoài sân để tử hình thì những người dân thấy vậy mới ùa tới ngăn cản không cho mấy tên lính Bắc Việt giết chúng tôi,” ông Ngọc kể tiếp.

Cũng may, có một cán bộ Việt Cộng miền Nam đến nói với mấy tên lính xe tăng Bắc Việt rằng: “Các đồng chí tránh ra chỗ khác, nơi này là chỗ chúng tôi đang làm việc, các đồng chí không được muốn bắn ai thì bắn. Tôi biết mấy ông  lính ngụy đã từng đi ngang qua đây và chưa bao giờ bắt gà bắt vịt của dân làng gì hết. Tại sao các đồng chí phải giết họ? Đây là nhiệm vụ của chúng tôi, phải để chúng tôi xử lý. Tôi xin mời các đồng chí hãy đi khỏi địa bàn của chúng tôi đang làm việc.”

Chuẩn Úy Chung Tử Ngọc (ở trần) và các chiến hữu vào cuối Tháng Ba, 1975. (Hình: Chung Tử Ngọc cung cấp)

Ông Chung Tử Ngọc kể tiếp: “Sau khi đoàn xe tăng rời khỏi thì có một ông đến nói nhỏ với tôi, ‘Thôi mấy anh cứ ra Đà Nẵng trình diện với Ủy Ban Quân Quản đi, ở đây không phải nhiệm vụ của chúng tôi.’ Mừng quá vì được thoát chết, chúng tôi cám ơn và tức tốc rời nơi đó ngay. Tại Đà Nẵng, tôi đến nhà chị dâu là vợ của ông anh cả đang bị ở tù ngoài Bắc Việt, tá túc chỉ vài ngày, rồi nhờ mấy người bạn cho tôi tá túc hết nhà người bạn này đến nhà người bạn khác để tìm cách về Sài Gòn. Đến ngày 15 Tháng Sáu, 1975 thì tôi mới đi xe đò về Sài Gòn.”

Khi về đến Sài Gòn thì nhà cầm quyền Cộng Sản kêu gọi những cựu sĩ quan cấp tá của VNCH trình diện trước đó một tháng, còn những cựu sĩ quan cấp úy trở lên thì trình diện vào Tháng Bảy, 1975. Còn ông Ngọc là cấp chuẩn úy, được họ cho là hạ sĩ quan, nên đến Tháng Tám mới trình diện.

Họ kêu gọi những người lính VNCH ai là Biệt Kích, Chiêu Hồi, An Ninh Quân Đội, Quân Cảnh Tư Pháp thì chỉ đi trình diện học tập cải tạo trong tám ngày thôi. Nhưng thật ra trong những người này, có người bị đi cải tạo hết tám năm, còn Chuẩn Úy Chung Tử Ngọc bị đi cải tạo sáu năm.

Ông Ngọc cho hay, từ cấp chuẩn úy trở xuống hàng hạ sĩ quan của những binh chủng khác, người nào bị họ cho đi học tập cải tạo ba tháng là nhiều lắm rồi. Nhưng thành phần lính Biệt Kích bị họ xem như là những đơn vị “ác ôn” nên họ mới giam cầm lâu đến thế.

Ông Ngọc tiếp tục kể: “Đến ngày tôi trình diện thì họ đưa vài tù nhân trong đó có tôi ra Phú Quốc. Họ đưa chúng tôi xuống tàu ‘há mồm’ đang đậu tại bến Tân Cảng, chiếc tàu này đã bị hư không thể ‘há mồm’ được, nên chúng tôi phải đi bên hông để xuống tàu. Tàu lúc đó có khoảng 10 tù nhân. Tôi đem theo thức ăn dự trữ tám ngày để đi học cải tạo theo lời họ nói. Tôi ăn xong rồi nằm ngủ để chờ họ đưa mình đi đâu. Nghe có tiếng ồn ào, tôi tỉnh giấc thì thấy họ đã đưa thêm hơn trăm tù nhân xuống chiếc tàu này. Theo tôi biết là trong số này có những cựu sĩ quan cấp tá và tướng của VNCH.”

Chiếc tàu đi khoảng ba ngày ba đêm thì không biết tàu bị hư như thế nào nữa, nên không thể chạy đến Phú Quốc. Thế là họ quay tàu đưa nhóm tù binh vào trại Suối Máu. Rồi khoảng ba tháng sau, họ đưa tù binh Chung Tử Ngọc và một số tù nhân nữa xuống tàu ra trại giam Phú Quốc.

Ông Chung Tử Ngọc (giữa) trong Đại Hội Nha Kỹ Thuật tại Washington, DC. (Hình: Chung Tử Ngọc cung cấp)

Ông Ngọc cho biết thêm: “Tàu đưa chúng tôi ra Phú Quốc được an toàn, rồi tống chúng tôi vào trại giam tù binh ngày xưa của VNCH. Khoảng năm tháng sau thì xảy ra vụ quân Khmer tại Cambodia tấn công Phú Quốc, nên họ mới đưa các tù nhân chúng tôi về trại tù Long Giao giam cầm khoảng năm tháng, rồi họ đưa tôi về trại tù ở Phước Long.”

“Một hôm, tại trại Phước Long, các cán bộ giữ tù bắt chúng tôi phải đi đào củ mì để về trại tù trồng. Từ trại giam đến nơi trồng mì cũng xa khoảng 5 cây số. Khi đào mì xong thì họ bắt chúng tôi phải vác những bao khoai mì về trại. Đi khoảng nửa đoạn đường thì ông cán bộ canh giữ chúng tôi mới cho mọi người nghỉ mệt. Lúc đó có ông cán bộ tâm tình với một số anh em tù binh rằng, ‘Các anh biết không, mấy thằng lính Biệt Kích của ngụy chúng nó lội rừng nhanh lắm, họ đi một lèo là đến ngay. Mà mấy tên lính Biệt Kích này chúng nó như hồn ma vậy, khi ẩn khi hiện trong rừng sâu, và gan lì lắm.’”

Lúc đó có một tù nhân ngẫu hứng chỉ ngay ông Ngọc, nói: “Đó đó, ông Biệt Kích đang ngồi đó.” Tức tốc mấy cán bộ Việt Cộng liền đến chĩa súng ngay nơi ông Ngọc đang ngồi. Nhưng họ chỉ chĩa súng vào ông thôi chớ không làm gì ông hết. Hành động này là vì ngày xưa Việt Cộng đi rừng rất sợ Biệt Kích mai phục.

Qua những ngày sau đó, nếu có đi làm công tác lao động thì những người giữ tù nhân này bảo ông Ngọc đi trước, rồi họ mới đi theo sau. “Bởi vì họ vẫn còn sợ lính Biệt Kích,” cựu Chuẩn Úy Chung Tử Ngọc nói.

Cưới vợ lúc đang ở tù

Cả ông Ngọc và anh trai của ông đều bị Việt Cộng giam cầm sau biến cố 30 Tháng Tư, 1975. Mẹ ông phải tần tảo đi thăm hai con trai, người anh thì ở tù ngoài Bắc, còn ông Ngọc thì ở tù miền Nam. Thấy con mình bị ở tù khổ quá, nên mẹ ông Ngọc mới về lo tiền để chuộc ông ra khỏi tù.

Ông Ngọc nói: “Vì lúc đó mẹ tôi có làm ăn và cũng kiếm tiền được. Nhưng việc dùng tiền để đưa tôi ra khỏi tù không thành công, lý do vì tôi là lính Biệt Kích Lôi Hổ. Thấy thương con mình, nên mẹ tôi đã cưới vợ cho tôi lúc tôi đang ở tù.”

“Cô dâu là người hàng xóm của mẹ tôi, và chấp nhận làm đám cưới mà không có chú rể. Rồi sau đó, mẹ tôi cũng đưa vợ tôi ra trại tù Phước Long thăm tôi nhiều lần,” ông nhớ lại.

Tượng anh linh Chiến Sĩ Biệt Kích trong Đại Hội Nha Kỹ Thuật tại Little Saigon. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)

“Tôi bị họ giam cầm tại Phước Long hơn một năm, thì họ đưa tôi về lại trại tù Suối Máu. Lúc này tôi đã ở tù gần bốn năm. Rồi từ Suối Máu họ lại đưa tôi về trại tù ở Xuyên Mộc, đây là trại tù khổ sai hạng nhất tại miền Nam. Tôi bị giam cầm ở đây khoảng hai năm một tháng là đủ sáu năm tù,” ông kể thêm.

Vượt biển đến Hoa Kỳ

Đến Tháng Chín, 1981, cựu chiến sĩ Biệt Kích Chung Tử Ngọc được mãn tù. Sau đó, ông sống bằng nghề sửa xe đạp bên lề đường Tô Hiến Thành, quận 10, Sài Gòn, để nuôi vợ con. Nhưng không đủ tiền để lo cho gia đình, ông chuyển sang phụ mẹ đi bán hàng hóa ở chợ Vườn Chuối, quận 3.

Đến năm 1989, ông cùng gia đình vượt biên bằng đường biển tại Nha Trang. Chuyến vượt biên đầu tiên được thành công, nên năm ngày sau ông được đến Philippines vào Tháng Sáu, 1989.

Lúc đó vì vấn đề núi lửa ở Philippines bùng phát, nên Liên Hiệp Quốc mới đình chỉ rước những người tị nạn Cộng Sản đang ở các trại tập trung chuyển tiếp tại Bataan và Palawan, Philippines. Do đó gia đình ông phải ở lại Philippines gần bốn năm.

Đến Tháng Sáu, 1993, gia đình ông mới được định cư tại California, Hoa Kỳ.

Hiện giờ gia đình của cựu Biệt Kích Lôi Hổ Chung Tử Ngọc cư ngụ tại thành phố Westminster, California. (Lâm Hoài Thạch) [qd]


 

Hoa Kỳ : Donald Trump tiếp tục tấn công đại học Harvard

RFI

Cuộc đối đầu giữa Donald Trump và đại học Harvard tiếp diễn. Nhà Trắng muốn buộc cơ sở giảng dạy đầy danh tiếng này phải tuân theo đòi hỏi chính sách của họ. Để làm được điều đó, chính quyền Trump tiếp tục đánh vào túi tiền của  trường,

Đăng ngày: 28/05/2025 

Students walks on the campus of Harvard University in Cambridge, Massachusetts, U.S., May 23, 2025.

Một góc khuôn viên Đại học Harvard ở Cambridge, Massachusetts, Hoa Kỳ, ngày 23/05/2025. REUTERS – Faith Ninivaggi

Anh Vũ

Thông tín viên RFI Guillaum Naudin tại Washington tường trình :

100 triệu đô la là con số mà chính quyền Mỹ ước tính giá trị các hợp đồng ký kết giữa các cơ quan của chính phủ với trường Harvard. Chính quyền yêu cầu các cơ quan này nghiên cứu cách thức có thể hủy hoặc chuyển sang ký kết với các cơ sở khác.

Đây không phải lần đầu tiên Nhà Trắng xem xét lại các mối liên hệ tài chính với Harvard. Hơn hai tỷ đô la trợ cấp đã bị đóng băng, 9 tỷ khác đang được rà soát lại. Ngoài ra, chính quyền còn bãi bỏ quyền của trường được tuyển dụng sinh viên và giáo sư nước ngoài. Đây cũng là một nguồn tiền quan trọng đồng thời cũng là uy tín và tinh hoa của trường.

Chính quyền chỉ trích trường đại học này đã để cho các hệ tư tưởng cấp tiến cũng như bài Do Thái nảy nở mạnh trong khuôn viên  nhà trường.

Đó cũng là lý do tại sao bộ Ngoại Giao Mỹ tuyên bố tạm dừng cấp thị thực cho tất cả sinh viên nước ngoài ở tất cả các trường đại học Hoa Kỳ trong thời gian xem xét lại các bài đăng trên mạng xã hội của họ. Hiệu trưởng trường Harvard Alan Garber kêu gọi tất cả các trường đại học kiên định, không nhượng bộ trước cuộc tấn công của chính phủ. 

Theo AFP, hôm qua, 27/05/2025, hàng trăm sinh viên của trường Harvard đã biểu tình đế phản đối hành động tấn công mới của Nhà Trắng. Mặc dù tư pháp Mỹ quyết định tạm ngừng áp dụng việc bãi bỏ quyền tuyển sinh viên ngoại quốc, các sinh viên Mỹ và nước ngoài đều tỏ ra quan ngại trước việc chính quyền Trump tấn công Harvard.

Theo trang web của trường, đại học Harvard đóng tại Cambridge, bang Massachusetts (phía đông bắc). Hàng năm, trường đón khoảng 6.700 sinh viên quốc tế, chiếm 27% tổng số.

Harvard được xếp hạng là một trong những trường đại học tốt nhất thế giới và theo thống kê, 162 giải Nobel đã qua học tại trường. Học phí mỗi năm của Harvard lên tới hàng chục nghìn đô la, là trường đại học giàu nhất Hoa Kỳ, có ngân quỹ trị giá 53,2 tỷ đô la vào năm 2024.


 

Những Tỷ Phú Cam Kết Từ Thiện Hết Tất Cả Tài Sản Của Mình Cho Cộng Đồng

Nghĩ Giàu – Làm Giàu 

  1. Chuck Feeney – Người tỷ phú “vô hình”

Người sáng lập chuỗi cửa hàng miễn thuế Duty Free Shoppers, từng sở hữu khối tài sản hơn 8 tỷ USD. Ông âm thầm quyên góp toàn bộ tài sản của mình vào giáo dục, y tế và nhân quyền – đến mức khi qua đời năm 2023, ông chỉ còn vài triệu để sống giản dị trong căn hộ thuê nhỏ. Câu nói nổi tiếng của ông: “Tôi muốn tặng hết tiền khi còn sống – để được thấy tác động của nó.”

  1. Bill Gates – Tỷ phú đi đầu trong làn sóng từ thiện hiện đại

Ông cùng vợ cũ Melinda thành lập Quỹ Bill & Melinda Gates, chi hơn 100 tỷ USD cho các chương trình chống đói nghèo, bệnh tật và giáo dục. Gates cũng là người khởi xướng phong trào The Giving Pledge, kêu gọi giới siêu giàu cam kết cho đi ít nhất 50% tài sản. Riêng ông – tuyên bố sẽ cho đi 99% tài sản trong đời.

  1. Warren Buffett – “Huyền thoại phố Wall” nhưng sống như người bình thường

Buffett cam kết hiến tặng hơn 99% tài sản của mình – khoảng 150 tỷ USD – cho hoạt động từ thiện, phần lớn thông qua quỹ của Bill Gates. Dù là tỷ phú hàng đầu, ông vẫn sống trong căn nhà mua từ năm 1958, ăn sáng ở McDonald’s và đi làm bằng xe hơi cũ.

  1. MacKenzie Scott – Người phụ nữ thay đổi bộ mặt từ thiện toàn cầu

Vợ cũ của Jeff Bezos không chỉ nhận được khoản ly hôn trị giá 38 tỷ USD, mà còn lập tức cam kết cho đi gần hết số tiền ấy. Chỉ trong vòng vài năm, bà đã quyên góp hơn 19 tỷ USD cho hàng nghìn tổ chức nhỏ lẻ, hỗ trợ phụ nữ, giáo dục, cộng đồng thiểu số – với nguyên tắc: “Trao quyền mà không đòi hỏi sự công nhận.”

  1. Ông trùm mạng xã hội Mark Zuckerberg

Khi con gái đầu lòng tên Max ra đời vào năm 2015, Mark Zuckerberg cùng vợ là Priscilla Chan đã gây chú ý khi tuyên bố không để lại khối tài sản khổng lồ cho cô bé. Thay vì lập kế hoạch thừa kế hàng tỷ USD, hai vợ chồng quyết định thành lập tổ chức từ thiện mang tên Chan Zuckerberg Initiative – một dự án đầy tham vọng nhằm giải quyết các vấn đề toàn cầu như khoa học, giáo dục, năng lượng sạch và kết nối cộng đồng.

“Chúng tôi cam kết dành 99% số cổ phiếu Facebook mà mình sở hữu trong suốt cuộc đời để phục vụ cho sứ mệnh này. Dù biết rằng đóng góp của chúng tôi chỉ là một phần rất nhỏ trong bức tranh lớn, nhưng chúng tôi vẫn muốn dùng những gì mình có để góp phần thay đổi thế giới, cùng với hàng triệu con người đang nỗ lực mỗi ngày,” vợ chồng nhà sáng lập Meta bày tỏ.

#nghigiaulamgiau #typhu #tuthien


 

50 Năm – Còn Đó Nỗi Buồn – Phạm Tín An Ninh     

Phạm Tín An Ninh                   

    

     Ngày 24.2.2025 tại Đại Hội Đồng LHQ, Hoa Kỳ đã quay lưng trước đồng minh NATO cùng hầu hết các quốc gia thuộc thế giới tự do, chính thức đứng về phía Nga, Iran, Bắc Hàn, và những nước thân CS, bỏ phiếu chống lại nghị quyêt lên án Nga gây chiến tranh xâm lược Ukraine, nhân dịp thế giới kỷ niệm 3 năm ngày Vladimir Putin xua quân vào lãnh thổ Ukraine. Sau đó, cả thế giới lại bàng hoàng, khi vị Tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ đã tỏ ra thân thiện với kẻ thù Nga, ca ngợi, bênh vực tên đồ tể Putin trong khi hết lời mạt sát, nhục mạ TT Zelensky, người đồng cấp, từng là đồng minh thân tín của Hoa Kỳ. Đã vậy, Tổng thống Mỹ còn đòi phải được khai thác khoảng sản, đất quý, tài sản quốc gia của Ukraine để trừ vào số tiền viện trợ trước đây. Có lẽ đây là nguyên nhân tiềm ẩn đưa đến cuộc tranh luận gay gắt, trở thành trận cải vã nặng nề ngay tại Tòa Bạch Ốc, giữa TT Zelensky của Ukraine và TT D.Trump cùng PTT J.D Vance của Hoa Kỳ vào ngày 28.2.2025, trước sự chứng kiến của các cơ quan truyền thông hiện diện cùng cả thế giới qua màn ảnh truyền hình. Sau khi “mời” TT Zelensky cùng phái đoàn tùy tùng ra khỏi Phòng Bầu Dục, TT Trump cũng đã quyết định ngưng tức khắc mọi viện trợ quân sự cũng như cung cấp tin tức tình báo, nhằm áp lực Ukraine phải nhanh chóng ngồi vào bàn hội nghị theo sự sắp xếp của Hoa Kỳ. Đến hôm nay, kết quả hội đàm tuy chưa chính thức ngã ngũ, nhưng ai cũng đã nhìn thấy trước số phận của Ukraine!

Sự kiện này xảy ra đúng vào thời điểm người Việt chuẩn bị tưởng niệm 50 năm, ngày kết thúc cuộc chiến Việt Nam. Chính xác hơn là ngày Miền Nam Việt Nam hay nước VNCH bị CS Bắc Việt cưỡng chiếm, cũng với sự phản bội tương tự của đồng minh Hoa Kỳ, khi Mỹ và Bắc Việt đã cùng bắt tay thỏa thuận ký kết hiệp định mạo danh Hòa Bình vào ngày 27.1.1973 tại Paris, quyết định số phận của VNCH, quốc gia chính trong cuộc chiến nhưng bị áp lực để (gần như) phải đứng bên lề. Trong các cuộc hội đàm, phái đoàn VNCH bị xếp ngồi ngang hàng với (cái gọi là) Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam, trong khi ai cũng biết đó chỉ là đám tay sai, con rối do CSBV nặn ra.

Vẫn biết rằng, quyết định của nước lớn đối với đồng minh luôn tùy thuộc vào quyền lợi của chính đất nước họ, tuy nhiên điều đau lòng là cung cách hành xử khi quay lưng, phản bội lại những người từng một thời nhận là bạn, cùng sống chết bên nhau. Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, ngày 29.4.1975, tại Đài Loan, ngay sau đêm đầu tiên bị áp lực phải rời khỏi nước, khi trả lời cho một đại diện của chính phủ Mỹ, cũng đã lên tiếng trong ngậm ngùi, cay đắng “Làm kẻ thù của Mỹ thì rất dễ, nhưng làm bạn rất khó”

Ukraine và VNCH bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi khi cuộc chiến đấu của hai quốc gia này có cùng một đích: tự vệ, chống lại quân xâm lược. Chỉ khác là trong cùng tình huống này, Ukraine có nhiều may mắn hơn VNCH. Bởi cuộc chiến Việt Nam kéo dài quá lâu, có hơn 58.000 quân nhân Mỹ tử trận, một số khác bị bắt làm tù binh, đẩy phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ ngày một dâng cao, đỉnh điểm vào tháng 5/ 1970, đã có đến 4 triệu sinh viên thanh niên liên tục xuống đường, gây bạo động, một số đã bị cảnh sát bắn chết. Thời điểm này đại đa số dân chúng Mỹ, qua lưỡng viện quốc Hội, không còn ủng hộ cuộc chiến Việt Nam. Cũng phải thẳng thắn để thừa nhận, trên thực tế quân dân VNCH đã không chiến đấu hết lòng và dũng cảm bằng Ukraine, và các cấp lãnh đạo, đặc biệt vị tổng thống của họ rất xứng đáng. Ngoài ra, Ukraine vẫn còn được đa số dân chúng Mỹ ủng hộ, quan trọng hơn, được Tổ Chức Hiệp Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) và gần như toàn bộ Âu Châu luôn hết lòng, sát cánh. Trong khi ở vào thời điểm (trước và sau) Hiệp định Paris ký kết, VNCH gần như cô thân độc mã. Cùng lúc bị Mỹ bỏ rơi, các đồng minh khác như Úc, Nam Hàn, Thái Lan, kể cả Phi Luật Tân cũng đều theo Mỹ, quay lưng!

***

Vào thời gian này, đơn vị chúng tôi đang hành quân tảo thanh tại khu vực Kontum – Tây Nguyên, sau khi vừa liên tục tạo các chiến thắng lẫy lừng, đánh tan các lực lượng hùng hậu thuộc Mặt Trận B-3 của tướng CS Hoàng Minh Thảo. Với khẩu hiệu “sinh Bắc tử Nam”, CSBV chuyên áp dụng chiến thuật biển người, đẩy đám bộ đội, đa phần là thanh niên, sinh viên miền Bắc bị cưỡng bách nhập ngũ, như những con thiêu thân lao theo sau các trận địa pháo, để bằng mọi giá phải chiếm được căn cứ Charlie của Tiểu Đoàn 11 Nhảy Dù,  mở cánh cửa ngõ xua chiến xa T-54 với hỏa tiễn tầm nhiệt của Liên Xô, tràn ngập BTL Tiền Phương SĐ22BB tại Tân Cảnh, chiếm cứ một vùng Bắc Kontum. Sau đó, một lực lượng Cộng quân hùng hậu hơn, gồm Sư Đoàn 320, Sư Đoàn 2 (sau này tăng cường thêm Sư Đoàn 968 từ Lào sang), cùng 4 trung đoàn biệt lập 66, 95, 20, 24, Trung đoàn Đặc công 400, 2 trung đoàn Pháo,  6 tiểu đoàn Phòng không và 1 tiểu đoàn Tăng T-54… tràn xuống phía Nam nhằm thôn tính thành phố Kontum, trong ý đồ tiến chiếm Pleiku, nơi có bản doanh của BTL/QĐII/VNCH hầu dùng làm bàn đạp tràn xuống đồng bằng, duyên hải, nhưng chúng đã bị thảm bại trước một lực lượng VNCH, với chỉ duy nhất mỗi Sư Đoàn 23 BB cùng 3 tiểu đoàn Pháo Binh và 1 chi đoàn chiến xa M-41 cơ hữu, đặc biệt được Không quân (giai đoạn đầu có B-52 của Hoa Kỳ) yễm trợ. Điều này đủ để chúng tỏ khả năng chiến đấu của Quân Lực VNCH.

Ngay trong trận chiến đầu tiên tại tuyến Tây Bắc Kontum, vào sáng ngày 14.5.1972. cả hai Trung đoàn 28 và 64 của Sư Đoàn (Thép) 320 CS cùng 1 tiểu đoàn xe tăng bị tiêu diệt, làm cho cả sư đoàn có tiếng, kỳ cựu này bị kiệt quệ, không còn khả năng chiến đấu. Sau đó chỉ đúng 10 ngày, sáng sớm ngày 24.5.72. trong trận tấn công cùng lúc vào Tòa Giám Mục,  Bệnh Viện 2 Dã Chiến và vòng đai phi trường Kontum,  cả Trung đoàn 52 thuộc Sư Đoàn 2 (Quảng Đà) mới tăng cường từ vùng Quảng Nam vào, bị đánh tan, đã phải giải thể. Một số lớn cán binh của Trung đoàn 141 thuộc sư đoàn này bị bắt và ra hồi chánh. (Những thất bại này CSBV đã phải công nhận qua chính các hồi ký, quân sử của họ)

Chiến thắng Kontum vào Mùa Hè 1972 của đơn vị chúng tôi ở Quân Đoàn II, cùng lúc với Bình Long ở Quân Đoàn III và QuảngTrị ở Quân Đoàn I đã bẻ gãy ý đồ thôn tính VNCH của CSBV, khi lợi dụng việc Hoa Kỳ vừa rút hết quân về nước, đồng thời cắt giảm tối đa quân viện cho VNCH, sau chiêu bài “Việt Nam Hóa Chiến Tranh”.

Nhưng rồi Hiệp Định Paris ngày 27.1.1973 như một trận gió chướng tàn độc, cuốn trôi hầu hết những chiến công mà chúng tôi đã phải trả bằng biết bao máu xướng để đạt được, cùng lúc làm tiêu hao hào khí mà quân sĩ đơn vị chúng tôi vừa dâng cao trong men say chiến thắng. Hiệp định Paris mà Hoa Kỳ và Bắc Việt đã thỏa hiệp, ký kết trên nỗi đau thương, phẫn uất cùng thân xác của những người lính khốn khổ chúng tôi, chính là huyệt mộ do chính Hoa Kỳ đào lên nhằm chôn sống quân lực và cả quốc gia đồng minh VNCH sau đó.

Ủy Ban Nobel Hòa Bình NaUy năm 1973 đã phải vô cùng xấu hổ và ân hận khi có một quyết định vội vã, sai lầm, trao giải cho Henry Kissinger và Lê Đức Thọ. Bị cả thế giới và nhiều dân biểu NaUy phản đối, một số thành viên bất mãn rút tên ra khỏi Ủy Ban. Sau đó chính Lê Đức Thọ đã phải từ chối nhận giải, vì hơn ai hết, chính cá nhân ông ta và cả Bộ chính trị Đảng CS đều biết trước là sẽ không hề có hòa bình, bởi họ đã mưu đồ từ trước, không hề tôn trọng hiệp định mà chỉ lợi dụng những kẻ hở có toan tính, để đẩy mạnh cuộc chiến nhằm sớm cưỡng chiếm Nam Việt Nam.

Hiệp định mang tên Hòa Bình, nhưng kỳ thực chỉ là hình thức ngưng bắn kiểu “da beo”, để các lực lượng CSBV không phải rút về Bắc mà được tiếp tục hiện diện hợp pháp tại các phần đất mà chúng vừa lấn chiếm, cùng lúc Hoa Kỷ cắt hết viện trợ quân sự cho VNCH để đổi lấy tù binh, trong khi CSBV vẫn được Trung Cộng, Liên Xô cùng khối CS gia tăng tối đa viện trợ. Lợi dụng tình hình này, CSBV đã ào ạt chuyển đại quân, chiến xa, vũ khí, đạn dược, nhiên liệu vào chiến trường miền Nam theo đường mòn Hồ Chí Minh, và một số từ Lào sang để gia tăng cường độ các cuộc tấn công, trong khi chúng tôi phải chiến đấu trong những điều kiện vô cùng khó khăn, thiếu thốn, từ quân số, vũ khí, đạn dược, nhiên liệu, đến mọi phương tiện khác.

Hồi tưởng thời gian này, tôi bỗng thấy đồng cảm và thấm thía với tâm trạng của người lính trẻ Paul Bäumer, nhân vật chính trong “All Quiet On The Western Front” (Mặt Trận Miền Tây Vẫn Yên Tĩnh), tác phẩm viết về chiến tranh nổi tiếng của nhà văn Đức, Erich Maria Remarque, mặc dù tình huống tương tự đã xảy ra từ thời Đê Nhất Thế Chiến, hơn 55 năm trước:

“Ngày tháng trôi qua. Mùa hè 1918 này là mùa hè đẫm máu và kinh hoàng nhất. Thời gian giống như những thiên thần đang bay lượn trên vùng hủy diệt một cách không thể hiểu nổi. Dường như ai cũng biết rằng chúng tôi sẽ phải thua trong cuộc chiến này. Nhưng rất ít ai nói ra điều ấy. Chúng tôi đang bị đẩy lui. Chúng tôi không còn đủ quân số, không đủ tiếp liệu, đạn dược để có khả năng phản kích sau cuộc tổng công kích này. Duy chỉ có các chiến dịch hành quân là còn đang tiếp diễn – và những cái chết sẽ vẫn còn tiếp tục…”

Là những người trực tiếp chiến đấu, cận kề quân sĩ, chúng tôi đã phải xót xa, đau đớn đến dường nào khi chứng kiến đồng đội của mình ngã xuống mỗi ngày trong tình trạng tức tưởi, oan khiên như thế!

                   

                    (Trên đường ra trận – ảnh từ Internet)

Hơn mười năm phục vụ trong một đơn vị Bộ Binh bình thường, nhưng chúng tôi chưa hề một lần chiến bại, ngay cả những trận chiến gay go, đẫm máu nhất, với lực lượng địch đông gấp nhiều lần và vũ khí tối tân hơn, điễn hình như trận chiến Kontum. Vậy mà bỗng dưng chúng tôi trở thành những người bại trận. Bi thảm và tủi nhục hơn là dù có “gãy súng”, “buông súng” hay không, chúng tôi cũng bị thuộc về bên phía “đầu hàng” theo lệnh của ông tướng mới lên làm tổng thống ba ngày, nhân danh Tổng Tư Lệnh. Sau này, có người bảo ông làm đến đại tướng mà ngây thơ, nghe theo lời dụ dỗ, móc nối của ai đó và một người em ở phía bên kia, tin Cộng sản sẽ thành lập “chính phủ ba thành phần” Có người lại bảo ông giành chức tổng thống chỉ để làm một điều duy nhất – đầu hàng. Cũng có người bênh vực, bảo nhờ ông đầu hàng nên tránh được một cuộc tắm máu, và có đủ thời gian cho một số người kịp chạy đến Subic Bay hay đảo Guam, sang Mỹ sớm. Là những thằng lính khốn khổ nhất, năm tháng chỉ ở trong núi rừng, dưới các giao thông hào, ngộp thở với tiếng bom đạn cùng bao nhiêu thứ lệnh lạc chiến trường, chúng tôi đâu có biết gì về chính trị bẩn thỉu, nhất là các biến cố dồn dập, hỗn độn trong những ngày tháng cuối cùng tại thủ đô Sài gòn.

Trong chiến tranh, thắng bại dù sao cũng là lẽ thường tình. Cuộc nội chiến Mỹ 1861-1865, Nam quân đã đầu hàng Bắc quân, và trong Đệ Nhị Thế Chiến, nước Nhật hùng mạnh đã phải đầu hàng quân đội đồng minh, sau khi hai quả bom nguyên tử do Mỹ thả xuống thành phố Hiroshima và Nagasaki. Kẻ chiến thắng đã hành xử văn minh, nhân bản như thế nào, cho dù các cuộc chiến ấy cũng vô cùng tàn khốc, cướp đi rất nhiều sinh mệnh của hai bên – cả dân lẫn lính. Nhưng cuộc bại trận của chúng tôi sao mà phẫn uất và đau đớn quá.

Bị đồng minh phản bội, bỏ rơi trong đành đoạn, tức tưởi. Thua một kẻ địch không đáng để thua. Một chế độ tự do nhân bản, văn minh, phồn thịnh lại phải đầu hàng một chế độ man rợ, nghèo nàn, lạc hậu. Có lẽ trong lịch sử chiến tranh Đông-Tây, chưa từng có những người lính nào ở phe thắng trận lại ngồi khóc ở vệ đường trên phần đất vừa mới chiếm được – như trường hợp nhà văn bộ đội CS Dương Thu Hương và nhiều người khác nữa– bởi nhận ra mình bị lừa dối, uổng phí cả một thời trai trẻ để đi “giải phóng” một miền đất tự do, văn minh, nhân bản, giàu có, hạnh phúc gấp vạn lần “miền Bắc xã hội chủ nghĩa” của mình.

Đến hôm nay, cuộc chiến oan nghiệt ấy đã kết thúc vừa đúng nửa thế kỷ. Hầu hết những dấu tích chiến tranh trên quê hương đã bị “bên thắng cuộc” chôn xóa, hủy diệt, ngoại trừ một số rất ít được chọn lọc, tô son thiếp vàng, trưng bày trong các viện bảo tàng, nhằm để tô vẽ, tuyên truyền. Trong số chứng tích còn sót lại là những nấm mồ xác xơ của hàng vạn tử sĩ miền Nam, nằm trong các nghĩa trang tiêu điều hoang phế, bị kẻ chiến thắng đập phá, hủy hoại, nhục mạ. Thực ra, họ rất muốn phá hủy hoàn toàn cho sạch hết chứng tích cuộc chiến mà chính họ đã làm hoen ố lịch sử dân tộc một thời, như đã từng san bằng, giải tỏa một số các nghĩa trang quân đội ở các tỉnh miền Trung, nhưng sở dĩ một số ít nghĩa trang lớn còn sót lai, dù trong tình trạng bị phá hủy, thay tên gọi (như NTQĐ Biên Hòa trở thành một nghĩa trang dân sự địa phương lạ lẫm nào đó), chỉ nhằm để kiếm lợi trong các cuộc tuyên truyền, thương lượng, đổi chác với Hoa Kỳ cùng Thế Giới Tự Do, và cũng để gạt gẫm, lừa mị đồng bào miền Nam hầu ngụy tạo một chút gì cái “tình dân tộc” trong chiêu bài “hòa hợp hòa giải”.

                   

Mới đây, có người phát hiện Nghĩa trang Sư Đoàn 22BB hoang phế nằm lẫn khuất trong một vùng núi rừng Bình Định. Cây cỏ và cả rác rến gần như che lấp hàng ngàn mộ phần tử sĩ rêu phong. Một số đồng đội, nhà hảo tâm trong và ngoài nước cùng hô hào đóng góp, nhờ một số các anh chị em còn nặng tấm lòng với miền Nam trong nước tiếp tay, phát quang, sơn sửa, kẻ lại tên tử sĩ và dựng lại các tấm bia gãy đổ. Vậy mà, sau đó họ đã bị chính quyền CS đe dọa, ngăn chặn, gây bao phiền muộn. Kế hoạch trùng tu “kín” một số nghĩa trang hoang phế khác trong vùng cũng vì đó mà đành phải hủy bỏ.

                      

 Hàng vạn trại tù vội vàng được dựng lên sau tháng 4/1975, trên khắp mọi miền đất nước, nhằm đày ải, hành hạ, giết dần mòn gần một triệu quân cán chính, trí thức, văn nghệ sĩ, kể cả nhà sư và linh mục miền Nam. Giờ hầu hết những trại nằm trong rừng sâu, núi thẳm đã biến mất, một số trại tù lớn ở các thành phố thì đã được nâng cấp, sửa sang để trở thành những trại giam lớn của tỉnh hay cấp nhà nước. Tuy nhiên cứ thi thoảng người dân lại phát hiện một số nấm mồ “tù cải tạo” nằm sâu trong núi rừng Lào Cai, Yên Bái hoang vu, giờ chỉ còn mỗi tấm bia xám xịt rêu phong, lẫn khuất dưới cỏ cây từ gần 50 năm trước.

                       

             (Mộ tù cải tạo trong rừng núi Yên Bái – ảnh từ youtube)

Một chứng tích đau lòng khác, những thương binh VNCH  bị đối xử tệ hại, đang phải sống từng ngày khốn cùng trong nước, Phần đông, theo thời gian đã chết do nghèo đói, bệnh tật. Số còn lại cũng đã già nua, sống lây lất trên các vỉa hè góc phố. Vậy mà họ vẫn không yên với một chế độ thiếu vắng tính nhân bản, tình tự dân tộc, luôn nặng hận thù. Với nghĩa tình cùng lòng tri ân của những đồng đội, đồng bào từ hải ngoại và cả trong nước, vận động gom góp gởi về, qua các vị Linh mục nhân từ thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Sài gòn, để các vị tổ chức mỗi năm một, hai lần buổi họp mặt “Bên nhau đi nốt cuộc đời”, như là một chút ủy lạo trong tinh thần huynh đệ chi binh và biết ơn những người đã hy sinh một phần thân thể, vậy mà chính quyền CS cũng đã tìm mọi cách gây khó khăn, đe dọa, ngăn chặn cấm đoán, để cuối cùng phải hủy bỏ.

                     

                    Thương phế binh VNCH – ảnh Dân Làm Báo)

Chứng tích quan trọng và sinh động hơn, là sự hiện diện của hơn 5 triệu người Việt đã phải bỏ nước ra đi, đang sống lưu vong trên khắp mặt địa cầu. Sau tháng 4.1975, cả một miền Nam “thua cuộc” đã nhanh chóng trở thành một vùng đất chết, khốn cùng, bi thảm. Người dân có cảm giác như bị lưu đày ngay trên chính quê hương mình. Tương lai chỉ còn là những cơn ác mộng. Thời ấy, mọi người chỉ còn biết nhìn ra biển khơi mênh mông để ước mơ một sự đổi thay nào đó ở phía bên kia chân trời mịt mờ vô định. Và còn gì đau đớn hơn khi con người nghĩ tới chuyện phải bỏ quê hương ra đi lại là một niềm khát vọng! Trong suốt lịch sử thăng trầm của dân tộc, chưa có thời kỳ nào mà người dân phải bỏ cả quê hương, nhà cửa, mồ mả ông bà cha mẹ để vượt thoát ra đi trong cái chết. Chính quyền CS từng tuyên truyền, bôi xấu họ là bọn phản quốc chạy theo chân đế quốc nhằm tìm chút bơ thừa sữa cặn, để rồi không lâu sau đó lại âu yếm, chiêu dụ, gọi họ là những “khúc ruột ngàn dặm”, những “sứ giả”của quê hương, dân tộc. Thực chất, các cộng đồng người Việt tỵ nạn trên hầu hết các quốc gia tự do – mà chính quyền CS vẫn luôn xem là “các thế lực thù địch”- đa phần đã thành công vượt bậc tại các quốc gia định cư, thế hệ con cháu thành đạt trên đủ mọi lãnh vực, từ giáo dục, khoa học kỹ thuật, chính trị, quân sự, văn học, âm nhạc. Đó là những đóng góp rất tích cực cho các quốc gia đón nhân họ, nhưng cũng là những chất xám quý báu mà chính quyền CS trong nước hằng mơ ước.

Trong suốt 50 năm, kẻ chiến thắng đã cố tình biến miền Nam, vùng đất tự do văn minh hạnh phúc xinh đẹp một thời, trở nên nghèo nàn, khốn khổ hơn so với cái nôi “cách mạng” miền Bắc, nhưng rồi dù có bị đàn áp, bần cùng hóa. phân biệt đối xử đến đâu, người miền Nam vẫn luôn giữ được văn minh, nhân bản, và đất miền Nam vẫn luôn đáng yêu, đáng sống. Đã có hằng triệu triệu người dân miền Bắc bỏ quê cha đất tổ tìm vào đất phương Nam, mong được đổi đời. Mật độ dân số miền Nam, đặc biệt tại Sài gòn ngày một đông đúc, có khi gấp gần 5 lần so với tháng 4.1975, nhà cửa, cao ốc thi nhau dựng lên bừa bãi, đến nỗi nhiệt độ trở nên nóng bức trong cả mùa đông, và nhiều con đường phố đã trở thành sông, chỉ sau một cơn mưa, dù không lớn lắm. Ngay cả các tỉnh Cao Nguyên, miền Trung, giờ cũng đầy những người miền Bắc bỏ xứ vào đây lập nghiệp, giành nương chiếm rẫy của những người Thượng, vốn từng bao nhiêu đời khai sơn phá thạch, sống chết ở đây.

50 năm, nền giáo dục “xã hội chủ nghĩa” lạc hậu, xuống cấp đã làm cho bao thế hệ học trò trở nên thua kém rất xa so với thế giới chung quanh. Đến nỗi một cô giảng viên trường Đại học sư phạm (Thái Bình) đã công khai trong một chương trình trên truyền hình Hà Nội, rằng “Tự Lực Văn Đoàn là một gánh cải lương, và ông Nhất Linh là ca sĩ cổ nhạc”. Tệ hại và tủi nhục hơn là tình trạng tha hóa trong ngành giáo dục, kể cả thầy giáo và hoc trò, Chuyện thầy giáo gạ tình, hiếp dâm nữ sinh cũng như chuyện học trò, kể cả nữ sinh, đánh nhau và đánh luôn cả thầy cô giáo, gần như là chuyện thường tình.

Đặc biệt, ngôn ngữ Việt (cả tiếng nói lẫn chữ viết) bị biến cải một cách tùy tiện, ngốc nghếch, kể cả muốn Tàu hóa như trường hợp ông giáo sư tiến sĩ Bùi Hiền nào đó. Lịch sử (và môn Sử học) được dựng lên từ bao điều dối trá. “Anh hùng Lê Văn Tám” được xây tượng đài, đặt tên cho các con đường lớn, công viên, trường học, bắt học trò cả nước phải học tập, noi gương như một vị anh hùng. Thực chất, lại là một người không hề có thật, mà chỉ là nhân vật tưởng tượng trong một phim truyện của đạo diễn Phan Vũ, nhằm để tuyên truyền. Thực chất, lại là một người không hề có thật, mà chỉ là nhân vật tưởng tượng trong một phim truyện nhằm để tuyên truyền. Chính ông GS Trần Huy Liệu, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử VN đã thú nhận với GS Phan Huy Lê, nhân vật Lê Văn Tám là do mình “dựng” nên và nhờ GS Phan Huy Lê sau này khi đất nước yên ổn, nói lại giùm, lỡ khi đó ông Trần Huy Liệu không còn nữa.  (GS Phan Huy Lê: Trả lại sự thật hình tượng Lê Văn Tám, Khoa Đông phương học). Và ông Phan Huy Lê đã công bố sự thật này vào tháng 2 năm 2005,  nên người dân trong nước đều biết câu chuyện gian dối lừa mị này, vậy mà đảng và nhà nước vẫn không hề một lời lên tiếng.

50 năm, nền văn học “xã hội  chủ nghĩa” còn lại những gì, ngoài mấy trăm bài thơ nịnh Bác của đám văn nô, tiêu biểu cỡ Tố Hữu “Ta bên người, người tỏa sáng trong ta/ Ta bỗng lớn bên Người một chút…” hay “ Xta-lin ơi!/Hỡi ôi Ông mất, đất trời có không?/Thương cha, thương mẹ, thương chồng/Thương mình thương một, thương Ông thương mười), cùng các bản nhạc “đỏ”: Bác đang cùng chúng cháu hành quân, Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây,Tiếng Chày Trên Sóc Bam Bo,  Năm Anh Em Trên Một Chiếc Xe Tăng, Cô Gái Vót Chông… mà đám văn công hát đi hát lại trong mấy ngày lễ lớn, và tất nhiên chẳng ai còn muốn nghe, với họ có khi đó chỉ là một cách “tra tấn” thính giác của con người!

Nhưng 50 năm với những bản tình ca miền Nam, một thời bị cho là nhạc vàng, cấm đoán, đến nỗi có người hát (như Toán Xồm, Lộc Vàng) đã từng bị đàn áp,  tù đày để người phải bỏ mình, người thì gần cả một đời khốn đốn, giờ lại làm mê mẫn say đắm mọi người lớn nhỏ, kể cả những “đồng chí lãnh đạo”, công an, bộ đội, từ Nam ra Bắc, từ thành phố cho đến các hang cùng ngõ hẻm, vùng sâu vùng xa, Mà oái ăm thay, đa phần những bản nhạc tình ca này lại viết rất đẹp về lính VNCH, người lính “bên thua cuộc”.

Trong một bài tiểu luận viết vào ngày 1.1.2022, dưới nhan đề “Níu một thời, giữ một đời”, nhà văn Ban Mai, một trí thức trẻ của chế độ (giảng viên tại Trường Đại Học Quy Nhơn) đã viết:

“Việt Nam, sau năm 1975 kết thúc chiến tranh giữa hai miền Nam – Bắc. Hòa bình đã đến sau mấy thập niên tang tóc vì bom rơi, đạn nổ.

Thế nhưng, người Miền Nam đã không thể tưởng tượng nổi, tiếp sau đó là một thảm cảnh kinh hoàng… Trầm trọng hơn nữa: Sự xơ xác tinh thần của trí thức Miền Nam không còn được tự do trình bày suy nghĩ, không còn được tự do hấp thụ tri thức nhân loại. Thay vào đó là những đợt học tập chính trị triền miên, theo một định hướng duy nhất: Chủ nghĩa Marx.Tất cả sách báo, văn học nghệ thuật bị tịch thu tiêu hủy, nền văn chương Miền Nam hoàn toàn bị bôi xóa. Giống như thời man rợ của Tần Thủy Hoàng năm 210 trước công nguyên…

Bắt đầu sau năm 1975, những thế hệ sinh ra và lớn lên ở Việt Nam không hề biết đã từng có một nền văn học nghệ thuật Miền Nam vô cùng gía trị với nhiều thể loại “trăm hoa đua nở”, đề cao tự do, dân chủ, với ý thức khai phóng, nhân bản, theo kịp trào lưu thế giới…

Bên trong nước, mấy năm gần đây có một bạn trẻ Nguyễn Trường Trung Huy ở Sài Gòn cũng dày công sưu tầm Văn học Miền Nam và bộ sưu tập của bạn ngày một đồ sộ đáng cho ta kinh ngạc, đó là một kỳ công. Tôi tin rằng, trên đất nước Việt Nam này có nhiều người thầm lặng âm thầm tìm kiếm, lưu giữ một nền văn chương nhân bản mà ta tưởng rằng đã chết sau năm 1975. Ngày nay, giới nghiên cứu văn học trong nước đang ngày càng tìm kiếm để nghiên cứu, mới đây trong một đề thi luận văn bậc trung học phổ thông, có một giáo viên đã đem bài thơ “Ta về” của Tô Thùy Yên cho học sinh bình giảng, với những câu thơ đầy tính nhân văn:

“Ta về như lá rơi về cội

Bếp lửa nhân quần ấm tối nay

Chút rượu hồng đây xin rưới xuống

Giải oan cho cuộc biển dâu này”.

(Tô Thùy Yên là một sĩ quan VNCH, từng bị tù đầy qua nhiều trại giam trong gần 13 năm, sau tháng 4.1975)

Tuy đây chỉ mới là một hành động đơn lẻ nhưng đó là một tín hiệu vui.

 Tôi tin rằng, sẽ không còn bao lâu nữa dòng Văn chương Miền Nam (1954-1975) sẽ được đưa vào giảng dạy chính thức trong nhà trường, nó xứng đáng được trả về với đúng vị trí của nó trong tiến trình phát triển văn học Việt Nam hiện đại, không ai và không một thể chế nào có thể bôi xóa một thời đại lịch sử của nước nhà. Giữ gìn, bảo tồn và chia xẻ Văn học Miền Nam cho đời sau là trách nhiệm của chúng ta, của tôi và các bạn những người yêu tiếng Việt, những người yêu văn chương Việt Nam”

Một vị giáo sư khác trong nước, chuyên nghiên cứu về Văn Học Việt Nam đã khẳng định “Trong hai thập niên 1955-1975, nếu không có Văn Học Miền Nam, thì nền Văn Học Việt Nam xem như không hề có, hoặc chẳng có gì cả!”

Nhà thơ, nhà giáo cũng là nhà báo nổi tiếng miền Bắc, Hoàng Hưng, trong bài viết “Về ảnh hưởng của Văn hóa miền Nam (VNCH) sau 1975”, sau khi hết lời ca ngợi lối sống, văn hóa, văn học miền Nam, đã kết luận:

“…nhìn một cách tổng thể, toàn bộ đời sống miền Nam, trong đó có đời sống văn hoá, văn học, trong 45 năm qua đã dần dần “giải phóng” người dân miền Bắc khỏi cái nhà tù lớn trong đó con người bị buộc phải giả tạo, “gồng mình” hoặc bị mê hoặc mà mù quáng tuân phục trong thời chiến và theo “định hướng XHCN….

Đến nay nó vẫn tiếp tục đóng góp vào tiến trình “giải Cộng” gian lao của đất nước! Chắc chắn sẽ đến một ngày, đất nước chứng kiến một cuộc phục hưng văn hoá, văn học, đi tiếp con đường mà văn hoá, văn học miền Nam đã đi. Con đường Tự Do, Nhân Bản, Hội Nhập Quốc Tế.”

Sau 50 năm, tất nhiên đất nước cũng đã có những đổi thay nhất định. Cơ sở hạ tầng, đặc biệt tại các đô thị có nhiều phát triễn, đời sống người dân ở đây có khá hơn so với nông thôn. Tuy nhiên trên thực tế, Việt nam vẫn còn tụt hậu khá xa so với nhiều nước chung quanh. Chính ông TBT Tô Lâm mới đây đã công khai tuyên bố: “Cách đây 50 năm vào những năm 1960-1970, Singapore chỉ mong được sang Bệnh viện Chợ Rẫy (Sài gòn) để chữa bệnh, giờ thì ta lại ước mơ được vào khám bệnh ở Singapore.”

Theo thống kê của IMF (International Monetary Fund/Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế), lợi tức tính theo đầu người ở Việt Nam cho năm 2025 là 4,986 Mỹ kim (Mk), trong khi ở Singapore là 93,956 Mk, và so với hầu hết các quốc gia Đông Nam Á khác, mức sống của người dân Việt nam đều rất thấp:

-Hàn Quốc(Nam Hàn): 37,675 Mk

-Nhật Bản               :  35,611 Mk

-Đài Loan               :  34,944 Mk

-Malaysia               :  14,423 Mk

-Thái Lan               : 7,754 Mk

Tệ hơn, Việt nam còn thấp hơn nhiều so với cả Mộng Cổ (Mongolia), một nước chỉ có đồng cỏ và sa mạc, với lợi tức trung bình của người dân năm 2025 ở đây là: 7,576 Mk.

Điều đặc biệt đáng chú ý hơn là trong hầu hết các quốc gia Đông Âu, mới giã từ chế độ CS khoảng 30 năm nay, người dân đều có lợi tức cao hơn nhiều so với Việt Nam (4,896 Mk).

-Tiệp Khắc (Czech Republic) = 33,038 Mk

-Hung Gia Lợi (Hungary)   = 25,703 Mk

-Ba Lan (Poland)                 = 25,040 Mk

-Lỗ Ma Ní (Romani)           = 21,570 Mk

-Bảo Gia Lợi (Bulgari)       = 18,456 Mk

Tuy vậy, chủ trương làm “kinh tế thị trường (với cái đuôi) theo định hướng XHCN” thực tế cũng đã làm giàu nhanh chóng cho hầu hết tầng lớp đảng viên, gia đình và phe nhóm, đưa họ sớm trở thành những nhà tư bản “đỏ”, đào thêm cái hố ngày càng sâu giữa giai cấp giàu (đảng) và nghèo (dân). Điều này hoàn toàn trái ngược mục tiêu “đấu tranh giai cấp” mà đảng CS từng hô hào; đấu tố, giết hại dã man hàng mấy vạn người vô tôi trong “Cải Cách Ruộng Đất”, lộ rõ chiêu trò lừa gạt “giải phóng miền Nam”, và hiện nguyên hình một đám thảo khấu khi chủ trương “tiêu diệt tư sản mại bản” rất tàn độc ngay sau khi cướp được miền Nam.

Sự làm giàu bộc phát (và bất chính) của tầng lớp tư bản đỏ này đã kéo theo hiện tượng xuống cấp từ Giáo Dục, Văn Hóa, Y Tế, tha hóa về Đạo Đức, Xã Hội và cả Tôn Giáo. Đặc biệt nhất là vấn nạn thối nát, tham nhũng – tất nhiên ngay trong hàng ngũ đảng CS, kể cả những lãnh đạo cao cấp nhất, từ hàng tướng lãnh, thứ bộ trưởng, thủ tướng đến cả chủ tịch nước – như là một thứ quốc nạn không còn thuốc chữa. Chức quyền được chuyền tay theo kiểu “cha truyền con nối”, “gia đình trị” của thời phong kiến. Đảng đứng trên pháp luật, thu tóm mọi quyền lực, tài sản quốc gia. Đảng viên sống phè phởn giàu sang trên đầu những người dân cùng khốn. Đám con cháu, những “hạt giống đỏ”, được đưa sang du học tại các trường tư nổi tiếng ở các nước tư bản, tất nhiên bằng tiền của nhà nước hoặc từ tham nhũng, chuẩn bị cho các vai trò kế vị.

Một ông thủ tướng (sau đó là chủ tịch nước) từng mở miệng khoe khoang “Việt nam bây giờ đang là một đất nước đáng sống nhất, cái cột đèn ở hải ngọai mà có chân thì cũng đã chạy hết về VN” (sic!). Trong khi ấy, hàng vạn cô con gái phải bỏ cha mẹ, người tình sang làm vợ cho những ông già bệnh hoạn, tàn tật ở tận Đài Loan, Nam Hàn, như một thứ nô lệ, kể cả nô lệ tình dục. Nhiều cô không liên lạc được với gia đình, Một số bị giết chết hoặc bị bán vào các động mãi dâm. Tại một số nước Á châu, báo chí công khai quảng cáo dịch vụ “mua vợ Việt Nam” với giá bằng một món đồ chơi rẻ mạt. Trong lịch sử dân tộc, dù có những giai đoạn lệ thuộc khó khăn, nhưng không có thời kỳ nào mà thân phận những người con gái, đàn bà Việt Nam lại rẻ rúng và thê lương như thế. Chính quyền đã “xuất khẩu” hàng vạn, hàng trăm ngàn người lao động đi khắp thế giới, ngay cả những nước nghèo ở tận châu Phi, nhằm kiếm sống và kiếm thêm ngoại tệ cho nhà nước. Đã vậy vẫn cứ tiếp tục những dòng người tìm mọi cách trốn khỏi Việt nam, để một số phải chết ngạt trong những chiếc xe đông lạnh, kín mít, một số phải sống trong núi rừng, trồng á phiện và bị bắt, vì không có quốc gia nào chấp nhận để dung thân. Một sự kiện đáng xấu hổ, khi nhóm chín người tháp tùng chuyên cơ của bà Chủ tịch Quốc Hội Nguyễn Thị Kim Ngân trong chuyến viếng thăm “hữu nghị” Hàn Quốc, vào đầu tháng 12.2018, đã bỏ trốn khi vừa mới bước chân lên đất khách. Đó là chưa kể một số ra nước ngoài chỉ để ăn cắp, làm gái điếm, đến nỗi cái “hộ chiếu” Việt nam đã từng trở thành nỗi ô nhục.

Sau đúng 50 năm, tại Sài gòn, trước cả mấy tháng, nhà nước CSVN đang chuẩn bị rầm rộ mừng ngày “Thống Nhất”, thao dượt một cuộc diễn binh rất qui mô mà tốn phí dự trù hằng chục triệu Mỹ kim, vẫn với lời ca “thề phanh thây uống máu quân thù” vẫn với các khẩu hiệu “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, hừng hực không khí kiêu ngạo, hận thù. Trong khi ấy, đã có những anh bộ đội có mặt trong đoàn quân giải phóng ngày nào, theo chân nhà văn Dương Thu Hương (ngồi khóc ở vệ đường, khi nhận ra mình bị lừa gạt để chém giết đồng bào, hủy hoại cả một miền Nam nhân bản, văn mình, giàu đẹp) giờ cũng đã tột cùng ăn năn hối hận, như trường hợp cựu cán binh Bình Ngọc với bài thơ “Xin Lỗi Tháng Tư!”:

Thời trai trẻ, gác bút nghiên, gác mọi ước mơ …lên đường ” đánh Mỹ!”

Cây súng trên vai, máu đỏ trong tim!

Mụ lí trí! Hùng hục vượt Trường Sơn.

Đêm nghỉ, ngày đi, giày vẹt gót , áo sờn vai thấm lạnh!

Mẹ còng lưng vắt kiệt sức, mỏi mòn, thao thức đợi con về!

“Ba mươi tháng Tư” Bên Thắng cuộc, hả hê

Con trở thành kẻ “kiêu binh!” trong đoàn “quân Giải phóng!”

Nhưng! Ba mươi tám năm sau con vô cùng thất vọng!

Không hiểu mình đi Giải phóng cho ai?

Chễm chệ trên cao, toàn những kẻ bất tài!

Đáy xã hội, nhiều “dân oan!” mất đất.

Những nghịch lý, tai ương…chồng chất!

Khoảng cách “sang, hèn” cứ rộng mãi ra.

Người ở “quê” không còn tha thiết với “ao nhà”.

Tràn vào Miền Nam “ngoạ, chiếm, xâm canh…từ núi, rừng, chợ búa, thị thành, lầu cao, gác tía ….!”

Đi đâu, ở đâu cũng gặp toàn người “ngoài ấy”.

Nhà cửa, ruộng vườn ngoài ấy họ bỏ hoang???

Quê Hương tôi, tên thật đẹp (làng Vàng).

Cũng có đình, chùa, bờ xôi, ruộng mật!

Không hiểu vì sao nhiều người “bỏ tất” để vào Nam chen lấn, đua đòi?

Riêng tôi!

Đã mấy năm nay, tôi đã làm kẻ “chạy trốn!”

Trốn khỏi “sai lầm” những năm, tháng …đã đi qua!

Mỗi tháng Tư về tôi lại nhớ vào Nam!

Xin lỗi ! “tháng Tư!”

Xin lỗi ! Miền Nam, những việc tôi đã làm!

Xin lỗi tất cả!

Cả những người “bên thua cuộc!”

Biết sao được !

Mọi người chúng ta sinh ra, đâu có thể chọn được thời cuộc

Nhưng! Lẽ đời, Đen, trắng phải phân minh!

Xin lỗi! “tháng Tư!”

Hãy tha thứ cho mình! Rất chân thành, chứ không phải lời giả dối.

Hay trường hợp của Trần Đức Thạch, cựu phân đội trưởng trinh sát, Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 266, Sư đoàn 341, Quân đoàn 4, qua các bài thơ

Tạ Lỗi Miền Nam

Tôi sinh ra ở miền bắc

Không hình dung ra giặc thế nào

Người ta hô hào

Phải căm thù giặc…?

Người ta dạy tôi là người miền bắc

Phải biết thương yêu đồng bào miền nam

Bà con ruột thịt đang lầm than

Dưới gót giày của Mỹ Diệm…

Những người con nông dân thật thà như đếm

Mặc áo lính vai khoác súng lên đường

Hồn nhiên tin là đi bảo vệ tổ quốc quê hương

Đánh đuổi quân xâm lược…

Thống nhất đất nước

Mới ngớ ra “Quân ta đánh dân mình

Miền nam giàu và dân sống văn minh

Không đói khát vật vờ như dân miền bắc…”

Hận ngút trời đứa nào lừa tuổi xuân tôi coi dân mình là giặc!

Sám Hối

Thế hệ chúng tôi tội lỗi ngập đầu

Nhìn con cháu lòng muôn hổ thẹn…

Thế hệ chúng tôi một thời chinh chiến

Thắng lợi mang về là xua đuổi văn minh

Thắng lợi mang về là làm khổ dân mình

Để đểu cáng lên ngôi gây tội ác

Thế hệ chúng tôi hoàn toàn lầm lạc

Quên dân tộc mình theo chủ nghĩa Mác Lê Nin

Bệnh hoạn tư duy méo mó cách nhìn

Gieo thù hận trong lòng con cháu

Thế hệ chúng tôi đổ bao xương máu

Chẳng ý nghĩa gì khi dân tộc điêu linh

Chẳng ý nghĩa gì khi đất nước tanh bành

Lãnh thổ giang sơn bị ngoại bang gậm nhắm

Thế hệ chúng tôi cuộc đời cay đắng lắm

Mất chính mình mang tội ác với tương lai

Riêng những người lính miền Nam, sau nhiều năm bị tù ngục, đọa đầy, nhiều gia đình ly tán, lưu lạc khắp bốn phương trời, nếu còn sống sót giờ cũng đã trên dưới 80, nhưng vết thương từ cuộc chiến bất hạnh ấy vẫn mãi luôn âm ỉ trong lòng. Một quãng đời trai trẻ, những vinh nhục, những đớn đau tức tưởi trong giờ khắc phải buông súng, cùng những món nợ máu xương chưa trả được cho đồng đội anh em, rồi cùng sẽ xót xa theo họ về cõi vô cùng.

Xin được đồng cảm với tâm sự của một đồng đội đàn anh, nhiều năm chiến đấu bên nhau, từng là một cấp chỉ huy trẻ tuổi, thao lược:

“Tuổi đời chồng chất, sức khỏe và những hăng say của tuổi thanh xuân ngày tháng nguội dần. Tôi thấy cuộc sống mình hụt hẫng hoang mang. Mỗi năm lại vắng thêm đồng đội và rồi một ngày nào đó, cũng sẽ tới lượt mình. Điều tự nhiên này, thực chất chẳng phải là nỗi ưu tư bởi vì đó là quy luật. Nhưng điều làm tôi suy ngẫm là ý nghĩa về cuộc đời của chính mình, thế hệ chúng ta, qua những việc đã làm, những đau thương đã trải…thực sự là gì, hoặc chẳng là gì hết?”

 Phạm Tín An Ninh

Cuối tháng 4-2025  

From: haiphuoc47& NguyenNThu