Việt Nam cần tôn trọng công hàm Phạm Văn Đồng’

Việt Nam cần tôn trọng công hàm Phạm Văn Đồng’

Công hàm của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi cho thủ tướng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai năm 1958.

Công hàm của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi cho thủ tướng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai năm 1958.

Hoài Hương-VOA

19.06.2014

Tờ Nhân dân Nhật báo của Trung Quốc nói rằng Hà Nội phải thi hành nghĩa vụ pháp lý đã được vạch rõ trong công hàm ngoại giao của Việt Nam, công nhận quần đảo Hoàng Sa – Trung Quốc gọi là Tây Sa và quần đảo Trường Sa – Trung Quốc gọi là Nam Sa, là của Trung Quốc.

Chiều ngày 18 tháng Sáu, báo này  tố cáo rằng giàn khoan dầu Trung Quốc đang hoạt động bình thường, khoan dầu trong các vùng biển ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa của Trung Quốc hôm 2 tháng Năm thì trở thành “nạn nhân”, bị các tàu Việt Nam dùng vũ lực và biện pháp bất hợp pháp để quấy nhiễu.

Bài báo đòi Hà Nội phải quay lại với lập trường mà phía Trung Quốc cho là Việt Nam đã có từ lâu là công nhận hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Trung Quốc, dựa trên công hàm ngoại giao của Việt Nam do Thủ Tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng gửi cho Thủ Tướng Trung Quốc Chu Ân Lai hồi năm 1958.

Báo chí Trung Quốc tiếp tục viện dẫn tài liệu ngoại giao này và nói rằng trước năm 1974, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa không bao giờ tuyên bố chủ quyền tại hai quần đảo này, mà ngược lại, dưới nhiều hình thức cả trên văn bản lẫn những lời tuyên bố, đã công nhận hai quần đảo này là thuộc lãnh thổ Trung Quốc.

Tờ báo tố cáo rằng Việt Nam chỉ thay đổi lập trường sau khi hai miền Nam-Bắc tái thống nhất, và từ đó tới bây giờ đã làm đủ mọi cách để diễn giải sai lạc, hoặc chối bỏ lập trường chính thức đã được thể hiện trong văn thư thường được gọi là công hàm Phạm Văn Đồng.

Tiến sĩ Nguyễn Nhã, trong một cuộc phỏng vấn dành cho Ban Việt Ngữ -VOA mới đây, đưa ra một cái nhìn khác về lập trường của Việt Nam sau ngày 30 tháng Tư năm 1975.  Tiến sĩ Nhã nói sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, Việt Nam đã thống nhất không theo ý của Trung Quốc, và Trung Quốc đã phản ứng bằng cách ủng hộ lãnh tụ Kmer Đỏ Pol Pot của Campuchia, rốt cuộc đưa đến chiến tranh biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam. Tiến sĩ Nhã nói rằng sau 30 tháng Tư năm 1975, trong tư cách là một nước thống nhất, Việt Nam đã lập tức khẳng định chủ quyền lãnh thổ.

Ông cho rằng vụ Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trong thềm lục địa Việt Nam là một thách thức lớn, nhưng cũng là thời cơ để thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc. Tiến sĩ Nguyễn Nhã nói:

“Vụ Trung Quốc hạ đặt giàn khoan 981 là một thời cơ thoát Trung bởi vì Trung Quốc đã đẩy Việt Nam đến chân tường và dĩ nhiên là không có cách nào khác. Tôi nghĩ khả năng thoát Trung có thể rất là cam go nhưng tôi thấy đây là thời cơ tốt nhất vì Việt Nam không cô đơn.”

Tiến sĩ Nguyễn Nhã là một nhà chuyên gia về lịch sử Biển Đông, ông từng là Chủ Nhiệm kiêm Chủ bút của Tập san Sử Địa tại Đại học Sư Phạm Sài Gòn trước năm 1975. Năm 2003, ông bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, hệ thống hóa nhiều bằng chứng lịch sử xác minh chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Nguồn: People’s Daily, VOA’s interview.

 

Hà Nội: Chồng thua cá độ về nhà đâm chết vợ

Hà Nội: Chồng thua cá độ về nhà đâm chết vợ
June 19, 2014

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) – Án mạng đã xảy ra tại quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội liên quan đến cá độ đá banh chiều ngày 18 tháng 6.

Nạn nhân là bà LTMH, 24 tuổi, ngụ tại một căn nhà ở phường Xuân Ðỉnh thuộc quận nói trên. Hung thủ bị bắt, khai tên Ðỗ Minh Quân, 30 tuổi, chồng của nạn nhân.
Báo Ðời Sống và Pháp Luật dẫn phúc trình điều tra của công an địa phương cho biết, ông Quân là người đam mê cá độ đá banh từ nhiều năm nay. Chỉ sau gần hai tuần lễ đầu World Cup, Quân mắc một số nợ lên đến hàng tỉ đồng. Bị vây để đòi nợ ngặt nghèo, Quân đã phải bỏ nhà trốn đi nhiều lần.

Nạn nhân bị chồng thua cá độ đá banh đâm chết. (Hình: báo Ðời Sống và Pháp Luật)

Báo Ðời Sống và Pháp Luật dẫn lời của người hàng xóm cho biết, ông Quân lâm vào cảnh thất nghiệp lâu nay, lại đam mê cờ bạc, cá độ đá banh. Không có nguồn sinh kế nào khác, Quân có vẻ như muốn kiếm tiền từ sự hên xui, may rủi qua các canh bài. Nhưng thực tế không đúng như điều người ta mơ mộng, ông Quân đi từ bàn thua này đến bàn thua khác.

Cách nay hai tuần lễ, Quân đánh vợ một trận tơi bời khiến bà LTMH ôm hai đứa con bỏ về nhà mẹ ruột trú ngụ. Chiều ngày 18 tháng 6, 2014, Quân đến tận nơi tìm vợ con và hai đứa bé mở cửa để ông vào trong nhà. Hai bên cự cãi nhau về duyên cớ phải trái trong việc bà H. đưa con về nhà mẹ ruột tạm trú.

Sau hồi đôi co không phân thắng bại, Quân rút dao thủ sẵn trong người ra đâm bà H. nhiều nhát khiến bà này chết tại chỗ. Thấy vợ chết, Quân đến đồn công an phường Xuân Ðỉnh đầu thú. (PL)

 

Một triết lý giáo dục không cần ý thức hệ

Một triết lý giáo dục không cần ý thức hệ

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-06-19

06172014-edu-philosophy-wt-ideology-kh.mp3

000_Del6204271-600.jpg

Sinh viên Hà Nội trong “Ngày Trái Đất” 23/3/2013, ảnh minh họa.

AFP photo

Sự bao trùm về ý thức hệ cộng sản lên nền giáo dục Việt nam không những tạo nên những hậu quả nguy hiểm cho quốc gia như tài liệu sách giáo khoa được TQ viện dẫn cho chủ quyền của họ trên các quần đảo, nó còn làm cho chương trình học trở nên thiếu thực tế, không đáp ứng được những yêu cầu phát triển của đất nước. Không những các sinh viên Việt nam trong các ngành khoa học xã hội phải học rất nhiều giờ giành cho các môn liên quan đến ý thức hệ, mà cả sinh viên ngành khoa học tự nhiên cũng thế. Một sinh viên ngành công nghệ sinh học tại TP HCM nói:

Bọn em học để trả bài cho qua thôi, chứ những môn này chẳng giúp ích gì cho mình, em thấy không cần thiết vì nếu nghiên cứu mà không ứng dụng được thì chả giải quyết được vấn đề gì.

Các môn học ý thức hệ được xem như chính trị và xã hội Việt nam nói chung, giáo dục Việt nam nói riêng được chính trị hóa, theo như lời của Kỹ sư Nguyễn Khắc Nhẫn từ Pháp mà chúng tôi đã đề cập trong bài trước. Nhà giáo Phùng Hoài Ngọc, nguyên trưởng khoa ngữ văn đại học An giang xác nhận điều này.

Bọn em học để trả bài cho qua thôi, chứ những môn này chẳng giúp ích gì cho mình, em thấy không cần thiết vì nếu nghiên cứu mà không ứng dụng được thì chả giải quyết được vấn đề gì.
– Một sinh viên TP HCM

Cũng theo nhà giáo Phùng Hoài Ngọc bản thân khái niệm chính trị ở Việt nam cũng là sai. Theo ông chính trị là một khoa học để cai trị, làm chính sách chứ không phải là các chuyện có liên quan đến ý thức hệ, hay là nghị quyết của đảng cộng sản.

Những người quan tâm đến cải cách giáo dục ở Việt nam trong những năm gần đây thường nêu lên một vấn đề là Việt nam đang thiếu một triết lý giáo dục. Mặc dù chính đảng cầm quyền cũng đã tuyên bố rất mạnh mẽ rằng phải đổi mới toàn diện nền giáo dục. Thậm chí đã có những kế hoạch rất đắt tiền được đưa ra để cải cách nền giáo dục.

Song Tiến sĩ Hà Sĩ Phu, vốn cũng là một nhà giáo, nói rằng những vấn đề được đề cập đến trong các kế hoạch đó như là đào tạo giáo viên, đổi mới sách giáo khoa chỉ là những chi tiết kỹ thuật chứ không phải cốt lõi.

Chả có thể cải cách được gì khi còn đảng lãnh đạo. Cái mục tiêu giáo dục đã sai rồi. Đảng mở ra cái giáo dục chỉ để đào tạo công cụ phục vụ những công cuộc mà đảng chủ trương. Mục đích là như thế. Khác hẳn mục tiêu giáo dục. Trước hết mục tiêu giáo dục của người ta là đào tạo con người, sống một cách độc lập, có nhân cách và ích lợi cho xã hội. Mục tiêu giáo dục phải như vậy. Nhưng mà nếu con người có khả năng độc lập tư duy như thế thì đảng sẽ bị rất nguy hiểm. Nếu mà cả dân tộc này mà đều được giáo dục để có tư duy độc lập thì chủ nghĩa cộng sản làm gì còn chỗ đứng nữa.”

Nhà giáo Phùng Hoài Ngọc, trích lời ông Nguyễn Phú Trọng Tổng bí thư đảng cộng sản trong những lần phát biểu gần đây về ý thức hệ:

Chúng ta kiên định chủ nghĩa Mác Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, như vậy rõ ràng là ông ấy bất chấp hết mọi thứ khác, những thành tựu văn hóa của loài người.”

Mục tiêu giáo dục từ trước đến giờ là đào tạo con người yêu nước yêu chủ nghĩa xã hội, bây giờ cần xác định là có cái tính từ xã hội chủ nghĩa trong đó không?
– Nhà giáo Phùng Hoài Ngọc

Và ông nói tiếp vấn đề mục tiêu giáo dục:

“Mục tiêu giáo dục từ trước đến giờ là đào tạo con người yêu nước yêu chủ nghĩa xã hội, bây giờ cần xác định là có cái tính từ xã hội chủ nghĩa trong đó không? Theo tôi nghĩ là không nên ấn định một học thuyết nào. Ông Bộ trưởng Phạm Vũ Luận khi được hỏi triết lý giáo dục là gì thì ông ấy trả lời là nghị quyết số 29 của đảng. Một ông Bộ trưởng như vậy thì rõ ràng là không có hy vọng gì mấy trong chuyện ý thức hệ của cuộc đổi mới này. Tôi thì tôi thích cái triết lý giáo dục của miền Nam trước kia, tức là của Việt nam cộng hòa, ngắn gọn là Dân tộc, Khai phóng và Nhân văn.”

Nhà giáo Phùng Hoài Ngọc, người chủ trương phải có sự cạnh tranh chính trị trong môi trường đa nguyên đa đảng, đồng ý rằng sự độc quyền là một nguyên nhân quan trọng trong việc thoát ra khỏi ảnh hưởng của ý thức hệ, nhưng đó là một cuộc đấu tranh của toàn xã hội. Còn trong ngành giáo dục hiện nay thì các môn học có liên quan đến ý thức hệ cộng sản thì nên đặt nó về vị trí thực của nó như là một phần của những tư tưởng của loài người mà thôi.

Như vậy vấn đề ý thức hệ không chỉ tồn tại trong mô hình kinh tế Việt nam dưới câu khẩu hiệu kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vốn cũng gây bối rối cho nhiều người vì sự mâu thẫn của nó. Theo những người có quan tâm đến việc xây dựng một nền giáo dục lành mạnh cho nước nhà, chuyện thoát khỏi vỏ bọc ý thức hệ trong giáo dục cũng còn đầy khó khăn, đến nổi kỹ sư Nguyễn Khắc Nhẫn từ Pháp có nhận xét là ông không biết triết lý giáo dục hiện nay của Việt nam là gì.

 

Muốn thoát Trung phải thoát mọi chế độ độc tài

Muốn thoát Trung phải thoát mọi chế độ độc tài

Nam Nguyên, phóng viên RFA
2014-06-19

06192014-to-free-fr-cn.mp3

Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang cúi chào tại buổi lễ chào đón khi ông đến thăm Trung Quốc tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh ngày 19 tháng 6 2013

Chủ tịch nước Việt Nam Trương Tấn Sang cúi chào tại buổi lễ chào đón khi ông đến thăm Trung Quốc tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh ngày 19 tháng 6 2013.

AFP

Sự kiện giàn khoan HD 981 và viễn ảnh lệ thuộc Trung Quốc như một chư hầu khiến cho giới trí thức Việt Nam đặt vấn đề “thoát Trung”. Câu hỏi đặt ra Việt Nam có thể thoát khỏi ảnh hưởng Trung Quốc mà vẫn duy trì ý thức hệ Cộng sản hay không. Nam Nguyên ghi nhận một số ý kiến liên quan.

Giải Cộng

Đặt vấn đề muốn thoát Trung phải giải Cộng như một điều kiện tiên quyết, thì dễ thấy mục tiêu này có khoảng cách khá xa với thực tại. Nhưng các sử gia đã dẫn chứng những trường hợp thoát Cộng, từ bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa đã nhiều lần diễn ra trên thế giới. Điển hình là sự sụp đổ Liên bang Xô viết năm 1991, khi tình hình còn chưa ngã ngũ thì một số nước Cộng hòa, từng bị ép đi theo con đường Cộng sản đã nhanh chóng tuyên bố độc lập và sau đó người dân bầu chọn chế độ chính trị dân chủ đa đảng. Sự từ bỏ chủ nghĩa Cộng sản đã hoàn tất ở tất cả 15 nước Cộng hòa thuộc Liên bang Xô viết, kể cả Liên bang Nga.

Nếu Liên Xô cái nôi của chủ nghĩa Cộng sản phải mất 70 năm mới tan rã thì Campuchia lại khác, Xứ Chùa Tháp bị nhuộm đỏ nhanh chóng sau năm 1975 và cũng nhanh chóng thoát Cộng trong vòng 15 năm. Cho nên đối với những ai dị ứng với chế độ Cộng sản, vấn đề giải Cộng ở Việt Nam cũng không phải là chuyện viễn tưởng.

Theo tôi, về lâu về dài không có con đường nào khác phải thoát khỏi chế độ toàn trị này, xây dựng một chế độ dân chủ thực sự trong đó có đa nguyên đa đảng, đảm bảo các quyền con người và chỉ có trên cơ sở ấy thì mới có cơ hội để thoát ra những cái ràng buộc với Trung Quốc

TS Nguyễn Quang A

Trò chuyện với chúng tôi, TS Nguyễn Quang A thuộc nhóm chủ trương Diễn đàn Xã hội Dân sự từ Hà Nội trình bày ý kiến của ông:

“Tôi nghĩ rằng, thoát khỏi Trung Quốc là một vấn đề rất bức thiết. Nhưng cũng là một vấn đề không thể vội vàng làm ào ào được. Theo tôi, về lâu về dài không có con đường nào khác phải thoát khỏi chế độ toàn trị này, xây dựng một chế độ dân chủ thực sự trong đó có đa nguyên đa đảng, đảm bảo các quyền con người và chỉ có trên cơ sở ấy thì mới có cơ hội để thoát ra những cái ràng buộc với Trung Quốc và những ảnh hưởng không có lợi của Trung Quốc đối với Việt Nam.”

Các nhà lãnh đạo cộng sảng Việt Nam, (hàng đầu từ phải) Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, và Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng.

Các nhà lãnh đạo cộng sảng Việt Nam, (hàng đầu từ phải) Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, và Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng.

Tuy vậy, TS Nguyễn Quang A nhấn mạnh rằng người Việt Nam cần hết sức thận trọng, tránh bài học thoát Cộng nhưng vẫn không thoát độc tài. Ông nói:

“Người ta nói rằng phải thoát Cộng, tôi cũng đồng ý như thế nhưng cái đó chỉ mới là một nửa thôi. Có thể không có Cộng sản nhưng mà lại có một chế độc độc tài khác, một đất nước không thể phát triển được trên cơ sở chế độ độc tài. Cho nên tôi nghĩ rằng phải thoát cái gọi là toàn trị, thoát cái độc tài và đấy là một quá trình không thể ngày một ngày hai. Tôi nghĩ là không có biện pháp nào nói rằng ngày mai, hay hai năm nữa, hay sáu tháng nữa mà có thể đạt được. Bởi vì nếu mà còn một chế độ độc tài như thế này, thì thực sự Việt Nam không có bạn, trơ trọi và như thế khó mà có thể vươn lên được và có thể có mối quan hệ bình thường giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc được.”

Cũng có những ý kiến quan ngại sự giải Cộng hay xóa bỏ chế độ Xã hội Chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam sẽ có xáo trộn rất lớn. Hơn nữa không phải người dân Việt Nam nào cũng muốn giải cộng, giải tán chế độ hiện tại. Luồng ý kiến này lập luận rằng Việt Nam hiện có 3,6 triệu đảng viên cộng sản, mỗi gia đình trung bình 4 người, kéo theo họ hàng quyến thuộc và những kẻ ăn theo, tổng số người chịu ảnh hưởng quyền lợi nhờ chế độ Cộng sản hiện nay có thể lên tới mười mấy, hai chục triệu người. Thật ra để biết được người dân Việt Nam thực sự nghĩ gì, mong muốn gì đối với việc lựa chọn thể chế chính trị thì có lẽ phải có một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức nghiêm túc. Đây là điều Đảng Cộng sản Việt Nam không muốn phải đối mặt, do vậy mà mấy chục năm Quốc hội Việt Nam không hình thành được Luật Trưng cầu Dân ý hay Luật Biểu tình. Dù bản Hiến pháp nào của Việt Nam cũng đều có qui định các quyền  công dân này.

Thoát Trung?

Đáp câu hỏi của chúng tôi là để thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Quốc rất nặng nề cả về chính trị và kinh tế, có ý kiến cho là Việt Nam phải cải tổ để có một chế độ dân chủ thực sự thì mới có thể không còn ngán ngại trong việc bảo vệ chủ quyền. TS Trần Đình Bá, thành viên Hội Khoa học Kinh tế Việt Nam từ Hà Nội nhận định:

Tình hình bây giờ khác với thời kỳ 1979….Ngay bây giờ, thí dụ TQ mà xâm lược Việt Nam ở trên bộ thì người dân VN sẽ đoàn kết lại bất kể Chính phủ như thế nào. Chuyện ấy đụng tới vấn đề xâm lược, nhưng mà như thế không có nghĩa là thoát Trung. Sau năm 1979, thì đâu có thoát

TS Nguyễn Quang A

“ Không, theo tôi không cần thiết. Tôi nghĩ bây giờ ở các cơ chế đa phương, các quốc gia đều được tự do bình đẳng về quyền lợi quốc tế của mình, tất cả các hiệp định của quốc tế. Tôi nghĩ mỗi quốc gia có thể chế riêng của mình không sao cả, các nước ASEAN cũng thế thôi.”

Nhà nước Cộng sản Việt Nam trong quá khứ là đồng chí môi hở răng lạnh với Trung Quốc và nhận viện trợ về vũ khí và nhân sự rất lớn từ Trung Quốc. Thế nhưng sau khi Bắc Việt Cộng sản chiến thắng thống nhất đất nước thì đến năm 1979 thì Trung Quốc lại mở cuộc tấn công xâm lăng, gây ra cuộc chiến khốc liệt ở biên giới Việt-Trung.

Với ý kiến cho rằng, nước Việt Nam độc tài đảng trị nhưng vẫn đẩy lùi được quân xâm lược Trung Quốc bảo vệ chủ quyền vào năm 1979. Tình hình lấn chiếm hiện nay qua vụ giàn khoan HD 981 có thể xem là lịch sử đang tái diễn hay không. TS Nguyễn Quang A phân tích:

“ Tôi nghĩ tình hình bây giờ khác với thời kỳ 1979 và lúc ấy Trung Quốc xâm lược ở trên bộ, còn bây giờ ở xa ngoài biển và chuyện đó khác xa. Ngay bây giờ, thí dụ Trung Quốc mà xâm lược Việt Nam ở trên bộ thì người dân Việt Nam sẽ đoàn kết lại bất kể Chính phủ như thế nào. Chuyện ấy đụng tới vấn đề xâm lược, nhưng mà như thế không có nghĩa là thoát Trung. Sau năm 1979, thì đâu có thoát mà ảnh hưởng Trung Quốc từ xa xưa lắm rồi và tôi nghĩ không thể có một biện pháp đơn giản nào để làm việc này có kết quả ngay lập tức.”

Thoát Trung mà phải từ bỏ xã hội chủ nghĩa, từ bỏ vai trò lãnh đạo toàn diện Việt Nam chắc chắn không phải chọn lựa của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản. Nhà nước sẽ làm gì để thoát khỏi ảnh hưởng lệ thuộc Trung Quốc. Người dân Việt Nam rất mong muốn được thông tin về vấn đề này.

Đáp số của những sự im lặng

Đáp số của những sự im lặng

Hòa Ái, phóng viên RFA
2014-06-18

06182014-hoaai.mp3

000_Hkg9926949-600.jpg

Hai người Trung Quốc vào Việt Nam qua cửa khẩu Lào Cai hôm 09/5/2014.

AFP photo

Đã 6 tuần trôi qua kể từ khi giàn khoan Hải Dương 981 của Trung Quốc hạ đặt trong vùng biển thuộc chủ quyền của VN. Dư luận cho rằng phản ứng từ cấp lãnh đạo đến cả người dân trong nước trước tình hình căng thẳng ở biển Đông hiện nay chỉ là sự im lặng.

“Tình hình biển Đông bây giờ dân thì cũng nhiều người như tôi, người ta mặc kệ, chán rồi, chán chả buồn nói nữa vì 1 tháng rồi có làm được gì đâu. Nghe tivi nói nhiều nhảm nhí suốt ngày, súng phun nước chỉ bắn được có 1 lần, cứ rêu rao đi rêu rao lại mà cứ để bị lấn lướt như thế thì người ta cũng chán. Biểu tình thì không cho. Nhiều người kể cả công an về hưu cũng nói ‘rồi chẳng đi đến đâu’. Những lời nói của truyền thông như kiểu mị dân là ‘sợ bị Trung Quốc đánh’. Còn bao nhiêu nước, Liên Hiệp Quốc, có đánh mình chết được ngay đâu? ‘Kiến nghị hòa bình, 4 tốt’: ông Bộ trưởng nói kiểu quỳ lụy Trung Quốc quá thành ra dân cũng chán. Mình là người dân thấp cổ bé họng chẳng làm được gì cả”.

Vừa rồi là chia sẻ của 1 tài xế lái taxi tên Vũ ở Hà Nội. Do tính chất công việc, anh Vũ có cơ hội tiếp xúc với nhiều người, nhiều độ tuổi và nhiều thành phần khác nhau trong xã hội nhưng đa số những người anh Vũ gặp hằng ngày có cùng thái độ im lặng giống như anh trước tình hình căng thẳng ở biển Đông hiện nay.

…ở đâu không biết chứ ở Nha Trang-Khánh Hòa, người ta nói sao Nhà nước VN không lên tiếng mà cứ im lặng.
– Một người chạy xe ôm ở Nha Trang

Người dân im lặng không phải vì họ hoàn toàn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản và Nhà nước VN với phương châm “toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải hết sức tỉnh táo, sáng suốt, cả nước một lòng, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ” như lời phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong ngày bế mạc Hội nghị Trung ương 9 khóa XI hôm 14/5.

Dân chúng im lặng vì họ không thể thực hiện quyền công dân đi biểu tình chống Trung Quốc một cách ôn hòa, cho thế giới thấy tinh thần tôn trọng luật pháp quốc tế của họ trước sự xâm lấn chủ quyền biển đảo VN của Bắc Kinh. Công luận trong nước im lặng do không biết Chính phủ VN sẽ chọn phương sách nào giải quyết vụ việc giàn khoan HD 981 khi Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh khẳng khái tại Đối thoại Shangri-La hồi cuối tháng 5, cho rằng Việt Nam-Trung Quốc vẫn phát triển tốt đẹp, vẫn duy trì quan hệ giữa 2 nước và vấn đề tranh chấp chủ quyền ở biển Đông đôi khi có những va chạm gây căng thẳng giống như mỗi gia đình có những mâu thuẫn, bất đồng nên các nước láng giềng với nhau còn tồn tại tranh chấp về biên giới, lãnh thổ hoặc va chạm là điều khó tránh khỏi. Nhiều người dân trong nước mà đài ACTD tiếp xúc đều cho rằng họ rất bất mãn trước những lời tuyên bố trong quốc nội cũng như trong những diễn đàn quốc tế của các quan chức lãnh đạo hiện nay. Ngoài sự im lặng, người dân không còn cách nào khác để bày tỏ sự bất mãn của mình.

“Há miệng mắc quai?”

1-TBT-(2)-250.jpg

TBT Nguyễn Phú Trọng gặp Ủy Viên Quốc Vụ TQ Dương Khiết Trì tại Hà Nội chiều 18/6/2014.

Câu hỏi đặt ra có phải sự im lặng này là một sự buông xuôi trước vận mệnh của quốc gia? Trao đổi với Hòa Ái, một người hành nghề chạy xe ôm ở Nha Trang không cho là như vậy. Người thanh niên này cho biết:

“Trung Quốc khi đặt giàn khoan Hải Dương 981 thì dân chúng rầm rộ đi biểu tình ở Hà Nội và Sài Gòn nhưng sau này cũng lắng dịu. Tuy nhiên đây không phải là sự lắng dịu quên lãng đâu mà đây là sự âm thầm giống như lò áp suất hơi vậy đó, sẽ bùng phát hồi nào không hay, chứ không đơn giản bình thường. Người ta không dám nói nhưng bàn tán ngầm, ở đâu không biết chứ ở Nha Trang-Khánh Hòa, người dân có sự chú ý nhiều đến biển Đông, người ta nói sao Nhà nước VN không lên tiếng mà cứ im lặng. Người dân bây giờ đang nghi ngại Nhà nước những vấn đề như vậy đó”.

Một trong những người đại diện cho Nhà nước là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, được người dân đặc biệt nhắc đến trong thời gian từ khi giàn khoan HD 981 xuất hiện ở khu vực biển cách đảo Lý Sơn 120 hải lý. Nhân vật lãnh đạo cao cấp nhất của Đảng CSVN được nhắc tên vì sự im lặng của ông.

Có nhiều đồn đoán cho rằng ông Nguyễn Phú Trọng không đăng đàn nói được lời nào vì bị “há miệng mắc quai”. Thậm chí dư luận mặc cả rằng ông Nguyễn Phú Trọng tiếp tục giữ im lặng chính là bằng chứng “cõng rắn cắn gà nhà” của một Lê Chiêu Thống trong lịch sử VN, thế kỷ 21.

Tình hình biển Đông bây giờ dân thì cũng nhiều người như tôi, người ta mặc kệ, chán rồi, chán chả buồn nói nữa vì 1 tháng rồi có làm được gì đâu.
– Một tài xế taxi ở Hà Nội

Còn có dự đoán sau giữa tháng 8 vào lúc thời tiết không thuận lợi cũng như giàn khoan HD 981 đã tròn nhiệm vụ khoan thăm dò và rút đi thì Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng sẽ xuất hiện trước truyền thông để lên tiếng trấn an người dân rằng Đảng Cộng Sản và Nhà nước VN đã giải quyết thắng lợi tình trạng căng thẳng ở biển Đông đồng thời trỗi lên những lời ca tụng tình hữu nghị “4 tốt-16 chữ vàng” với người bạn láng giềng Trung Quốc.

Cho đến ngày 18/6 là ngày gặp gỡ chính thức đầu tiên giữa Ủy viên Quốc Vụ viện Trung Quốc, ông Dương Khiết Trì và đại điện quan chức cấp cao gồm Thủ tướng VN và Tổng Bí Thư Đảng CSVN thì ý nghĩa sự im lặng của ông Nguyễn Phú Trọng vẫn chưa được giải mã.

Một ngày trước cuộc gặp gỡ giữa các đại diện cấp cao của Hà Nội và Bắc Kinh để thảo luận liên quan đến việc Trung Quốc triển khai giàn khoan dầu HD 981 ở vùng biển tranh chấp, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh cảnh báo VN nên chú trọng đến lợi ích lớn hơn trong quan hệ song phương để làm việc cùng Trung Quốc trong tình hình căng thẳng hiện nay. Trước đó, nhà nghiên cứu văn hóa Nguyên Ngọc của VN nói với báo giới trong nước rằng “vụ giàn khoan trái phép đã dại dột đánh thức lòng tự tôn dân tộc thiêng liêng bị dồn nén của người Việt, sức mạnh đã từng quét sạch mọi cuộc xâm lăng của đế quốc Trung Hoa trong suốt chiều dài lịch sử. Nó phơi trần mọi sự lừa bịp được công phu bày vẽ lâu nay”.

Người dân trong nước bày tỏ vẫn đang thầm lặng chờ đợi xem phản ứng của những người đại diện Nhà nước VN trong cuộc gặp gỡ mặt đối mặt với đại diện của Trung Quốc như thế nào và họ cũng thầm hy vọng những lời tuyên bố của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng trong cuộc gặp gỡ này sẽ không đồng nghĩa với sự im lặng suốt những tuần vừa qua khi biển đảo quê hương bị xâm chiếm.

Biển Đông : Không nên để Trung Quốc tự do lợi dụng Liên Hiệp Quốc

Biển Đông : Không nên để Trung Quốc tự do lợi dụng Liên Hiệp Quốc

Đòi hỏi chủ quyền trên biển của các quốc gia ven Biển Đông

Đòi hỏi chủ quyền trên biển của các quốc gia ven Biển Đông

Ảnh : Bộ Quốc phòng Mỹ

Trọng Nghĩa

Sau khi đưa giàn khoan HD-981 vào vùng thềm lục địa của Việt Nam, và bị tố cáo trước công luận quốc tế, Trung Quốc đã phản pháo bằng một bản “tuyên bố lập trường” gởi lên Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc. Trong bài phân tích : “Chiến dịch tuyên truyền của Trung Quốc và Biển Đông : Cứ thử xem !”, trên báo The Diplomat ngày 16/06/2014, giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về Biển Đông thuộc Học viện Quốc phòng Úc cho đấy là một mưu toan lợi dụng Liên Hiệp Quốc “để được cả chì lẫn chài” và cần phải vạch trần. RFI xin giới thiệu toàn văn bài viết.

Cuộc đối đầu trên biển giữa Trung Quốc và Việt Nam về vụ hạ đặt giàn khoan HYSY 981 (HD-981) trong vùng biển tranh chấp ở Biển Đông – bắt đầu từ đầu tháng Năm – đã bước vào tuần lễ thứ bảy. Ngày 09/06/2014, Trung Quốc bất ngờ mở một mặt trận mới, khi ông Vương Dân (Wang Min), Phó Đại sứ Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc, chuyển đến Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Ban Ki Moon một bản tuyên bố lập trường chính thức về cuộc tranh chấp, với yêu cầu cho lưu hành văn bản đó trong toàn bộ 193 thành viên Liên Hợp Quốc.

Hành động quốc tế hóa tranh chấp với Việt Nam của Trung Quốc không thể hiện một sự thay đổi trong chính sách lâu dài của Bắc Kinh, theo đó tranh chấp trên biển chỉ có thể được giải quyết một cách song phương thông qua đàm phán và tham vấn trực tiếp giữa các bên liên quan. Một hôm sau khi Trung Quốc gửi văn kiện trên, bà Hoa Xuân Oánh, một phát ngôn viên Bộ Ngoại giao lại tuyên bố rằng Trung Quốc bác bỏ đề nghị trọng tài của Liên Hiệp Quốc về cuộc tranh chấp với Việt Nam.

Như vậy tại sao Trung Quốc lại đưa cuộc tranh chấp với Việt Nam ra trước Liên Hiệp Quốc ?

Năm 2003, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quân ủy Trung ương chính thức thông qua học thuyết “Tam chủng chiến pháp” (san zhong zhanfa – 三种 战 法). Học thuyết này là một nhân tố thiết yếu của cuộc chiến tranh thông tin.

Theo công trình nghiên cứu “Ba chiến pháp của Trung Quốc” do Timothy A. Walton viết năm 2012 cho văn phòng tư vấn Delex Consulting, Studies and Analysis, chiến pháp của Trung Quốc bao gồm ba thành tố : chiến tranh tâm lý, chiến tranh thông tin, và chiến tranh pháp lý. Chính thành tố thứ ba này là cơ sở cho bản tuyên bố lập trường của Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc.

Theo Walton, chiến pháp thông tin là một chiến lược được thiết kế nhằm tác động lên dư luận quốc tế, tạo hậu thuẫn cho Trung Quốc và làm nản lòng đối thủ trong việc theo đuổi các hành động trái với lợi ích của Trung Quốc.

Bản tuyên bố lập trường của Trung Quốc đã được gửi đến Liên Hiệp Quốc để đánh bật các nỗ lực tuyên truyền và để cô lập Việt Nam. Đại đa số các thành viên của Liên Hiệp Quốc đều không có lợi ích trực tiếp trong cuộc tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông. Nhiều nước Đông Nam Á vốn e ngại các hành động của Trung Quốc, sẽ né tránh khi bị buộc phải công khai bày tỏ lập trường về vấn đề này.

Chiến pháp pháp lý, theo Walton, là một chiến lược sử dụng luật pháp Trung Quốc và quốc tế để tôn cao nền tảng pháp lý của việc Trung Quốc khẳng định quyền lợi của mình. Bản tuyên bố lập trường của Trung Quốc đầy rẫy những dẫn chứng trong luật pháp quốc tế được chọn lọc để hỗ trợ cho lập trường của Trung Quốc.

Lập luận thiếu nhất quán và tự mâu thuẫn

Thoạt đầu, Trung Quốc đã bảo vệ việc hạ đặt giàn khoan dầu bằng cách nói rằng nó nằm trong vùng lãnh hải của Trung Quốc. Trung Quốc lưu ý rằng giàn khoan HD-981 nằm cách đảo Tri Tôn, ở phía cực tây quần đảo Hoàng Sa 17 hải lý. (Tuy nhiên), theo Công ước Liên Hiệp quốc về Luật Biển (UNCLOS), vùng lãnh hải chỉ rộng 12 hải lý tính từ đường cơ sở ven biển của một quốc gia.

Tuyên bố ngày 06/06/2014 của Trung Quốc đã sửa chữa sai lầm đó bằng cách cho rằng HD-981 nằm trong vùng tiếp giáp lãnh hải của Trung Quốc. Cách nói mới đó tuy nhiên, đã thiếu cơ sở pháp lý.

Theo UNCLOS, mục đích duy nhất của vùng tiếp giáp lãnh hải là để cho phép một quốc gia ven biển “thực hiện quyền kiểm soát cần thiết nhằm : (a) ngăn chặn hành vi vi phạm luật lệ và quy định về hải quan, tài chánh, xuất nhập cảnh hoặc y tế trên lãnh thổ hoặc lãnh hải của mình; (b) trừng phạt các hành vi vi phạm các luật lệ và quy định nói trên được tiến hành trước đó trên lãnh thổ hoặc lãnh hải của mình.”

Trung Quốc cũng tìm cách gây nhiễu trong cuộc tranh chấp với Việt Nam bằng cách thúc đẩy lập luận theo đó vị trí của HD-981 gần quần đảo Hoàng Sa hơn là bờ biển Việt Nam. Tuyên bố lập trường của Trung Quốc chẳng hạn, đã cho rằng HD-981 đang hoạt động ở nơi cách cả đảo Tri Tôn lẫn đường cơ sở xung quanh quần đảo Hoàng Sa 17 hải lý, và cách bờ biển Việt Nam từ 133 đến 156 hải lý.

Nhưng cùng lúc, Trung Quốc lại tuyên bố chủ quyền đối với bãi cạn Scarborough, nằm gần Philippines hơn là vùng đất Trung Quốc gần nhất. Theo luật pháp quốc tế, yếu tố “gần” đơn thuần không đủ để chứng minh chủ quyền.

Dùng luật quốc tế cho mình, nhưng không cho nước khác áp dụng

Tuyên bố lập trường của Trung Quốc gởi lên Liên Hợp Quốc hiện đang làm suy yếu việc Bắc Kinh sử dụng chiến tranh pháp lý để thúc đẩy các đòi hỏi chủ quyền. Ví dụ, tuyên bố của Trung Quốc viết :

Các vùng biển giữa quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) của Trung Quốc và bờ biển đất liền Việt Nam vẫn chưa được phân định. Hai bên vẫn chưa tiến hành phân định vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) và thềm lục địa trong vùng biển này. Cả hai bên đều có quyền khẳng định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo quy định của UNCLOS.”

Nếu quả thực là như vậy, Trung Quốc nên theo các quy định của UNCLOS để xử lý các yêu sách chồng lấn. Cả Trung Quốc lẫn Việt Nam nên có những dàn xếp tạm thời về các vùng tranh chấp cho đến khi đạt được thoả thuận về phân định. Trong thời gian đó, mỗi bên nên cấm làm thay đổi hiện trạng và đe dọa hoặc sử dụng vũ lực.

Rõ ràng là việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan dầu trong vùng biển tranh chấp đã vi phạm nguyên tắc pháp lý quốc tế.

Tuyên bố lập trường của Trung Quốc cũng đã làm suy yếu tính hợp pháp của họ khi Bắc Kinh lập luận rằng luật pháp quốc tế không thích hợp. Văn bản của Trung Quốc ghi nhận :

Tuy nhiên, vùng biển này sẽ không bao giờ trở thành vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, cho dù có áp dụng bất kỳ nguyên tắc (của luật pháp quốc tế) nào trong việc phân định.”

Đại sứ Trung Quốc tại Úc, Mã Triều Húc (Ma Zhaozu), đã góp phần vào cuộc chiến tranh thông tin của Bắc Kinh bằng cách lặp lại các lập luận tương tự trong một bài ý kiến trên báo Úc The Australian ngày 13/06/2014. Nhân vật này cho rằng khu vực tranh chấp chưa bao giờ được phân định và “dù có áp dụng bất kỳ nguyên tắc nào [của luật pháp quốc tế], các vùng biển liên quan sẽ không bao giờ trở thành một phần của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.”

Phải đưa vấn đề ra trước Hội đồng Bảo an !

Các thành viên của cộng đồng quốc tế đang lo ngại về căng thẳng leo thang giữa Trung Quốc và Việt Nam và tác động đối với an ninh khu vực cần phải nắm lấy việc Trung Quốc chính thức đệ trình bản tuyên bố lập trường lên Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc. Các nước nên vận động để vấn đề này được đưa lên Hội đồng Bảo an.

Không được để cho Trung Quốc theo đuổi cuộc chiến tranh thông tin với mục đích thu lợi cả hai đầu – cho lưu hành một bản tuyên bố lập trường tại Liên Hiệp Quốc để chứng minh tính chất nghiêm túc của họ trong cuộc tranh chấp với Việt Nam, và lại từ chối đề nghị trọng tài của Liên Hiệp Quốc. Mỹ và Úc nên thúc đẩy một cuộc tranh luận tại Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Nhật Bản và các cường quốc hàng hải khác có quyền lợi trong việc Biển Đông ổn định nên tham gia vào việc thúc đẩy đó.

Trung Quốc phải bị đẩy vào một vị thế khó chịu khi phải phản đối bất kỳ một cuộc tranh luận nào tại Hội đồng Bảo an, qua đó từ bỏ mưu toan sử dụng Liên Hiệp Quốc cho mục đích tuyên truyền, hoặc phải phủ quyết mọi nghị quyết phát sinh từ một cuộc tranh luận trong Hội đồng Bảo an chỉ trích hành động của Trung Quốc ở Biển Đông.

 

Hai bia đá chủ quyền thời VNCH là di tích quốc gia

Hai bia đá chủ quyền thời VNCH là di tích quốc gia
June 17, 2014

Nguoi-viet.com
VIỆT NAM (NV)Sau 58 năm chơ vơ giữa nắng, mưa, bão táp, 2 bia đá được chính phủ Việt Nam Cộng Hòa dựng tại hai hòn đảo Song Tử Tây và Nam Yết để khẳng định chủ quyền vùng biển đảo Trường Sa, vừa được nhà cầm quyền CSVN chính thức công nhận là di tích quốc gia.

Bia đá khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại đảo Nam Yết, Trường Sa. (Hình: báo Tuổi Trẻ)

Báo Tuổi Trẻ dẫn lời ông Trương Ðăng Tuyến, giám đốc Sở Văn Hóa-Thể Thao-Du Lịch tỉnh Khánh Hòa cho biết, đã nhận được quyết định của Bộ Văn Hóa-Thể Thao-Du Lịch công nhận hai tấm bia di tích quốc gia, vì tính chất lịch sử vô giá.

Trên mặt hai tấm bia bằng đá này có khắc hàng chữ nói rằng: “Quần đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Phước Tuy. Phái bộ quân sự thị sát nghiên cứu đến viếng quần đảo này ngày 22 tháng 8, 1956 dưới sự hướng dẫn của Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa.”



Bia đá khẳng định chủ quyền của Việt Nam tại đảo Song Tử Tây, Trường Sa, dưới thời Việt Nam Cộng Hòa. (Hình: báo Tuổi Trẻ)

Cũng theo báo Tuổi Trẻ, hai tấm bia này đã được tỉnh Khánh Hòa xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh từ 3 năm trước đây. Tỉnh này cũng đã đề nghị cấp trên nâng cấp công nhận lên mức cao hơn. Tuy nhiên, coi như phải mất 3 năm sau, giá trị của dấu vết lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa mới được nhà cầm quyền CSVN thừa nhận.

Ông Trương Ðăng Tuyến cho biết, tỉnh Khánh Hòa sẽ làm lễ đón nhận giấy chứng nhận di tích cấp quốc gia hai tấm bia đá nói trên trong những ngày tới. Theo ông, chính quyền địa phương có trách nhiệm duy tu, bảo quản hai tấm bia đá như là một minh chứng lịch sử về chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Trường Sa.

Theo dư luận, đến nay thì nhà nước CSVN mới thấy rằng, mọi bằng chứng xác lập chủ quyền hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa là hết sức quý báu về mặt lịch sử. Việc công nhận di tích cấp quốc gia còn đặt ra trách nhiệm bảo quản, tu sửa, tôn tạo hai bia đá cho chính quyền địa phương từ nay về sau. (PL)

 

Du học – “Đi đi, đừng về!”

Du học – “Đi đi, đừng về!”

Đỗ Thanh Lam –

Đây là những tâm sự thật của một bạn du học sinh Mỹ hiện đang ở Việt Nam hè 2014. Tôi quyết định giấu tên người chia sẻ câu chuyện này.

Góc nhìn Việt Nam: “Đi Mỹ được rồi, về làm gì?”

“Tôi năm nay 21 tuổi, đang du học tại Mỹ. Kết thúc 4 năm Đại học, tôi muốn về Việt Nam. Nhưng ai cũng ngăn cản: “Đi đi, đừng về!”

Bố mẹ tôi làm trong ngành y. Hai người bắt đầu nói về chuyện du học và định cư tại Mỹ khi tôi mới học 11. Mẹ thường hay kể công việc hằng ngày tại bệnh viện, để tôi hiểu lời hối thúc “đừng về Việt Nam” bắt nguồn từ 20 năm sống trong bức xúc của mẹ:

“Bệnh viện của mẹ có một bác giám đốc lên chức từ những năm 80. Kể từ đó, bác đã cho không biết bao nhiêu họ hàng từ Bắc, Trung vào làm hộ lý, điều dưỡng, kỹ thuật viên,… Với “quyền lực mềm” của giám đốc, bác chỉ nói một tiếng, có anh trưởng khoa nào không dám nhận người? Toàn con ông cháu cha. Còn những sinh viên chính quy, nắm tấm bằng Đại học, phải trầy trật khổ sở để được bước chân vào cổng viện. Không chỉ ở đây, mà bất cứ nơi đâu tại Việt Nam này cũng có “quyền lực mềm” giống thế hoặc hơn thế. Nhiễu nhương lắm. Hách dịch lắm. Về làm gì hả con?”

Khi không thuyết phục được tôi, ba mẹ viện đến dì. Dì bảo: “Dì hiểu là con muốn về Việt Nam để cống hiến. Nhưng, ở nơi này, tài năng của con không có cơ hội phát triển. Tìm cách định cư đi. Khi đã có kinh tế, con muốn làm gì cho quê hương mà chẳng được!” Không chỉ bố mẹ, dì, mà các bác đang sống ở Mỹ đều đồng ý với quan điểm ấy.

Lăng kính Mỹ: “Lý do nào để quay về quê hương?”

Trong vòng tròn bạn bè của tôi, chỉ ra ai không muốn về Việt Nam thì rất dễ. Còn tìm người quyết tâm trở lại thì thật khó khăn. Nhiều bạn lưỡng lự, không ai dám chắc chắn hai chữ: “Sẽ về!”

Tôi có một cô bạn thân đang học ngành Công nghệ thực phẩm. Cô bảo: “Ngành mình học, về nước không xài được. Còn đường ở Canada thì rộng mở. Mình không muốn trở về để chật vật kiếm một chỗ làm sau 4 năm vất vả!”

Một người bạn khác chia sẻ: “Từ lúc quyết tâm theo đuổi sự nghiệp sản xuất âm nhạc, mình đã biết. Tại Việt Nam, mình sẽ không làm được.”

Một chị theo học kinh tế thì bảo: “Đơn giản chị không muốn!” Chị đang đi thực tập rất nhiều nơi, kiếm tìm một chỗ tài trợ visa cho mình.

Anh bạn học kỹ sư hóa, vừa apply thạc sĩ thành công nói với tôi: “Anh thích nghiên cứu khoa học, Việt Nam sao có đất cho anh? Về ư? Anh không thể”.

Những thằng Mỹ thì hỏi thẳng vào mặt tôi: “Tụi mày từ Việt Nam đến đây học, thụ hưởng văn hóa của tụi tao, thụ hưởng cả những đồng tiền bố mẹ tao còng lưng đóng thuế. Học xong mày phủi tay quay về nước, thế thì có công bằng với tụi tao hay không?”

*

Giữa dòng ý kiến “Đi đi, đừng về!” dữ dằn như thác lũ đẩy tôi lùi lại, tôi nhìn về quê hương, cố gắng tìm một lý do cho mình quay lại. Nhưng tìm hoài mà không thấy. Chưa bao giờ sách giáo khoa nói về những cái cúi đầu của chúng tôi trên đất Mỹ, vì nỗi tự ti quê hương thua kém hơn, mà chỉ bảo: “Nước ta rừng vàng biển bạc.”

Chưa bao giờ chúng tôi được dạy về “trách nhiệm công dân”. Chúng tôi chỉ học ganh đua điểm số, chứ không học cách cùng nắm tay nhau mà đi xây dựng đất nước.

Chưa bao giờ bố mẹ nói tôi phải có trách nhiệm với Việt Nam, mà chỉ nói: “Đừng về để dẫm vào đường cụt. Trên mảnh đất này, người tài không có cơ hội. Vì tương lai của con, hãy đi đi!”

Việt Nam ơi, người có cho tôi một lý do để trở về?”

Đỗ Thanh Lam

Đối lập Miến Điện hoan nghênh hậu thuẫn của Washington

Đối lập Miến Điện hoan nghênh hậu thuẫn của Washington

Bà Aung San Suu Kyi lần đầu bước vào Quốc hội Miến Điện tại Naypyitaw ngày 2/5/2012.

Bà Aung San Suu Kyi lần đầu bước vào Quốc hội Miến Điện tại Naypyitaw ngày 2/5/2012.

REUTERS/Soe Zeya Tun

Tú Anh

Bộ ngoại giao Mỹ thúc giục Miến Điện, tu chính Hiến pháp, để cho dân chúng quyền tự do bầu lãnh đạo. Hôm nay 17/06, đối lập Miến Điện hoan nghênh lời kêu gọi cải cách bản Hiến pháp mở đường cho bà Aung San Suu Kyi lên làm tổng thống vào năm 2015.

Ngày 16/06/2014 bộ ngoại giao Mỹ kêu gọi chính quyền Miến Điện cải cách bản Hiến pháp để cho người dân có thể tự do chọn người lãnh đạo trong giai đoạn chuyển tiếp tế nhị này.

Bản Hiến pháp hiện hành, do chế độ quân sự trước đây ban hành, loại trừ khôi nguyên Nobel Hòa bình 1991, có chồng là người Anh, ra khỏi cuộc đua giành ghế tổng thống năm 2015.

Với uy tín hiện nay, Liên Đoàn Quốc Gia vì Dân Chủ có nhiều cơ may chiếm đa số tại Quốc hội qua cuộc bầu cử vào năm tới 2015 và do vậy với tư cách lãnh đạo, bà Aung san Suu Kyi, có nhiều khả năng sẽ được dân biểu đồng viện bầu vào ghế tổng thống.

Đáp lại sự ủng hộ của Mỹ, phát ngôn viên đảng đối lập Miến Điện, ông Nyan Win, cám ơn Washington nhưng theo ông thì có nhiều chướng ngại pháp lý trước khi tu chính được bản Hiến pháp.

Mọi đề nghị sửa đổi hiến pháp phải được trên 75% dân biểu chấp thuận. Vấn đề là hiện nay 25% ghế dân biểu nằm trong tay quân đội và một phần khác do đảng cầm quyền kiểm soát.

Liên Đoàn Quốc Gia vì Dân Chủ đã mở chiến dịch vận động chữ ký kiến nghị để sửa đổi các điều khoản phản dân chủ của bản hiến pháp từ gần một tháng nay.

Một Ủy ban Quốc hội đã được thành lập để xem xét và quyết định.

Từ khi chế độ quân phiệt giải thể vào năm 2011, chính phủ Thein Sein tiến hành nhiều biện pháp cải cách dân chủ nhưng chưa có dấu hiệu phe quân đội chấp thuận từ bỏ đặc quyền chính trị và kinh tế.

Tham vọng của ISIS

Tham vọng của ISIS

Tiến sỹ Nguyễn Phương Mai

Đại học khoa học ứng dụng Amsterdam, Hà Lan

Thứ ba, 17 tháng 6, 2014

Các tay súng ISIS được cho là bắn giết không ghê tay

Thế giới hơn một tuần qua trở nên náo động, thậm chí những trận World Cup cũng không thể làm tạt đi những luồng tin dữ từ Iraq. Tổ chức khủng bố ISIS chiếm được Molsul trong một trận tấn công làm tê liệt quân đội chính quyền, mở rộng vùng chiếm đóng đến tận gót chân thủ đô Baghdad, cướp nhà băng và nhét túi 425 triệu đôla.

Nhiều bản tin vẫn tiếp tục gọi ISIS là một nhánh hoặc một tổ chức trung thành của khủng bố Al-Qaeda. Điều này không những sai mà còn nguy hiểm.

ISIS là ai?

ISIS khởi đầu được thành lập với tên ISI (Islamic State of Iraq – Quốc gia Hồi giáo Iraq) để chống lại chính phủ Iraq theo Hồi giáo Shia và thân Mỹ. Sau rất nhiều chật vật, cuộc khủng hoảng ở Syria nổ ra khiến ISI đổi hướng quyết định tham chiến ở đây, một mũi tên trúng hai đích: vừa tiếp tục được lý tưởng thống nhất cộng đồng Hồi giáo (Sunni) khắp thế giới dưới một thể chế chung, vừa “hợp pháp hóa” chiến tranh vì kẻ thù mới không phải là Mỹ nữa mà là chính quyền phe Hồi giáo Shia của Syria. Cùng với sự chuyển hướng này, tên của ISI đổi thành ISIS (Islamic State of Iraq and Syria – Quốc gia Hồi giáo Iraq và Syria).

Rất ít người biết rằng ISI đã tự động nhập với nhánh Al-Qaida ở Syria mà không hề được phép của người đứng đầu tổ chức Al-Qaida là Al-Zawahiri. Sau một tháng giữ im lặng, Al-Zawahiri đề nghị ISIS rời tổ chức. Lãnh đạo ISIS là Al-Baghdadi không thèm quan tâm, thậm chí ra tay giết luôn người đại diện đàm phán. Cực chẳng đã, vào đầu tháng 2 năm nay, Al-Qaida tuyên bố cắt lìa ISIS khỏi gốc, với lý do được cho là ISIS quá sức man rợ, đến mức một tổ chức khủng bố như Al-Qaida cũng không thể nuốt trôi.

Tuy nhiên, đây chỉ là một lý do. Al-Qaida đương nhiên không thích bị một nhánh đàn em vượt mặt. Thêm nữa, Al-Qaida không muốn ISIS dính mũi vào miếng bánh Syria, giữa tổ chức mẹ và nhánh con có khá nhiều mâu thuẫn về vùng chiếm đóng.

ISIS tiến quân như chẻ tre ở Iraq

Một điều Al-Qaida không ngờ là khi ISIS tách ra, 65% jihadist (chiến binh của Thượng Đế) của Al-Qaida cũng bỏ đi theo ISIS. Trong mắt những kẻ cầm súng vì một lý tưởng tôn giáo thống trị và hợp nhất toàn cầu, ISIS từ một nhánh khủng bố nhỏ bé đã vượt lên trên cơ Al-Qaida và trở thành kẻ cầm cờ tiên phong trong cuộc thánh chiến.

ISIS nguy hiểm như thế nào?

Trước nhất, ISIS hành xử rất hung bạo. Những cuộc xả súng không khoan nhượng vào người đối lập tay không và người dân vô tội khiến ai cũng rùng mình. Là một tổ chức theo Hồi giáo Sunni, ISIS khiến cộng đồng Shia ở Iraq khiếp đảm và tháo chạy. Chủ trương của ISIS với những người chống đối là: “ISIS hay là chết!”

Tuy nhiên, điều quan trọng nhất khiến ISIS trở nên vô cùng nguy hiểm chính là việc tổ chức này không chỉ đơn giản là một nhóm khủng bố thánh chiến với tham vọng toàn cầu như Al-Qaida. ISIS không đánh rồi rút. ISIS đánh và lập nên nhà nước của riêng mình. Điều này khiến cả thế giới bất ngờ vì các tổ chức khủng bố hầu như không có tiền lệ lập quốc. Việc xuất hiện một “quốc gia khủng bố” jihadist state (quốc gia của các chiến binh thánh chiến) là cơn ác mộng không được dự đoán trước.

Nguy hiểm hơn, quốc gia khủng bố này không nằm trong sa mạc mà bao trùm những hố dầu béo bở. Khởi đầu, ISIS chỉ nhận viện trợ từ những quốc gia dầu lửa dòng Hồi Sunni muốn lật đổ chính quyền Syria dòng Hồi Shia. Khi quân đội chính phủ bỏ chạy, ISIS tiếp quản luôn hàng triệu đôla vũ khi tối tân của Mỹ viện trợ. Thử làm một phép so sánh, khi tấn công Tháp Đôi, Al-Qaida là một tổ chức với 30 triệu đô la tiền quỹ, và được coi là giàu có. Hiện nay, túi của ISIS nặng 2 tỷ đôla.

ISIS đang chiến đấu để thành lập nhà nước dòng Sunni ở Iraq và Syria

Chưa hết, nếu chỉ nhìn nhận ISIS như một tổ chức khủng bố đơn thuần cũng có nghĩa là sự thiếu kiến thức và đánh giá quá thấp về tầm nhìn của thủ lĩnh Al-Baghdadi. Là môt tiến sĩ Hồi giáo học, Al-Baghdadi tiếp thu tư tưởng cực đoan Wahhabism và Salafism từ Saudi. Những vùng ISIS chiếm đóng và thành lập quốc gia ngay lập tức được ban bố các đạo luật hà hà khắc của Hồi giáo cực đoan: ăn cắp sẽ bị chặt tay, hàng loạt tội bị đưa vào khung hình phạt xử chết trong đó có tội từ bỏ tôn giáo, phụ nữ phải che kín mặt khi ra đường, ai cũng phải cầu kinh 5 lần một ngày, các lăng tẩm và thánh đường dòng Hồi Shia bị phá bỏ, và âm nhạc bị cấm tuyệt đối ở nơi công cộng.

Thu phục người dân

Cùng với các đạo luật đó, các thành phố chiếm đóng nhanh chóng trở lại tình trạng ổn định và an toàn. ISIS không lặp lại các sai lầm của Al-Qaida mà lập tức trấn an dân chúng, tìm cách thu phục niềm tin của những người không chạy trốn. Tại Mosul, ngay khi quân chính phủ rút chạy, mỗi người dân được cấp một thùng gas miễn phí để nấu ăn. Khi những người dân ở đây băn khoăn làm sao họ có thể tin được ISIS, một jihadist trả lời: “Hãy cho chúng tôi thêm thời gian, chúng tôi sẽ nhanh chóng cung cấp số điện thoại. Khi mọi người cần chúng tôi sẽ lập tức giúp đỡ”.

Nhiều nhà phân tích bất ngờ khi nhận thấy ISIS sở hữu một bộ máy công quyền và dân sự khá hoàn chỉnh gồm tòa án, lực lượng cảnh sát, trường học, và các tổ chức từ thiện. Tại vùng Al-Raqqa, ISIS xây dựng chợ, đường sá, các đường dây điện, trạm xá, bưu điện, bến xe…quản lý khí đốt để đảm bảo phân chia công bằng, cùng hàng loạt các hoạt động cứu trợ từ thiện khác, trong đó có cả những hội chợ cho trẻ con với kem và cầu trượt, các bếp ăn miễn phí cho người nghèo, và đặc biệt là mạng lưới tìm gia đình mới cho trẻ mồ côi.

Quân đội Iraq đã phải tháo chạy trước sự tấn công của ISIS

Trong tình hình nội chiến căng thẳng, ISIS nhận được sự ủng hộ của một phần dân chúng dòng Hồi Sunni khi tạo được sự yên ổn nhất định. Sự cực đoan tôn giáo của ISIS ít nhất cũng có một điểm cộng là thể hiện sự công bằng, điều mà chính quyền độc tài tham nhũng không làm được.

Sự ổn định, công bằng, trong một quốc gia mới yên bình giữa bốn bề khủng hoảng, dù có hạn chế và tạm thời, chính là điều khiến ISIS hoàn toàn khác với các tổ chức khủng bố khác. Sự cực đoan man rợ và việc thành lập quốc gia riêng khiến ISIS trở nên bội phần nguy hiểm.

ISIS sẽ được xử lý thế nào?

Sự lớn mạnh không ngờ của ISIS khiến các kết nối đồng minh bất ngờ thay đổi.

Hiện nay, rất nhiều ánh mắt đổ dồn vào người Kurd. Là một dân tộc dũng mãnh nhưng chịu mất nước, người Kurd sau thế chiến thứ nhất không được thực dân Anh cho lập quốc như đã hứa, mà lãnh thổ bị chia sẻ nằm trải ra trên năm quốc gia khác nhau, trong đó có Iraq. Vùng tự trị của người Kurd luôn an toàn và phát triển, khác hẳn với phần còn lại của Iraq. Những chiến binh người Kurd nổi tiếng thiện chiến với danh hiệu “peshmerga” (kẻ đối đầu với cái chết).

Để thuyết phục người Kurd tham chiến, chính phủ Iraq chắc chắn sẽ phải nhân nhượng các hợp đồng bán dầu, nhất là việc xem xét nhượng lại cho người Kurd thành phố dầu lửa Kirkuk từ xưa vẫn đang tranh chấp.

Mỹ đã phải điều tàu sân bay đến Vùng Vịnh khi cuộc khủng hoảng ISIS nổ ra

Tuy nhiên, sự hợp tác đồng minh bất ngờ nhất có lẽ sẽ đến từ hai kẻ từ xưa tưởng không đội trời chung: Mỹ và Iran.

Iran là quốc gia đầu đàn của Hồi giáo Shia, đồng minh không lay chuyển của độc tài Assad dòng Hồi Shia tại Syria, đương nhiên cũng là đồng minh của chính quyền dòng Hồi Shia tại Iraq.

Mỹ với phương châm không tham chiến, nhưng trong cuộc khủng hoảng ở Syria đã luôn phản ứng tương đối chậm chạm với các diễn biến leo thang quá nhanh tại khu vực. Syria từ một mồi lửa dân chủ kiểu Mùa Xuân Ả Rập đã trở thành địa ngục với sự tham gia và thắng thế của các nhóm khủng bố toàn cầu, đe dọa cả sự an toàn của Mỹ một khi Syria sụp đổ.

Với ISIS, Mỹ và Iran giờ có một kẻ thù chung để bắt tay. Đây sẽ không phải là lần đầu tiên họ hợp tác. Một kẻ thù chung trong quá khứ, Taliban, cũng đã khiến Iran cộng tác với Mỹ vào năm 2002.

Lợi ích quốc gia là bàn đẩy để bản đồ đồng minh thay đổi, cùng chống lại ISIS với tư cách là một thế hệ khủng bố hoàn toàn mới và nguy hiểm gấp nhiều lần.

Kiểu cách văn hóa tiêu biểu của dân Nhật tại World Cup

Kiểu cách văn hóa tiêu biểu của dân Nhật tại World Cup
Monday, June 16, 2014

Nguoi-viet.com

RECIFE, Brazil – Đội tuyển Nhật Bản để thua 1-2 trước Ivory Coast dù đã mở tỷ số trước bằng bàn thắng của tiền vệ Honda. Đây là kết quả đáng buồn cho một trong ba đại diện của Châu Á ở World Cup 2014,  và tất nhiên cho những cổ động viên từ Nhật đến Brazil để cổ vũ đội nhà.

Đội tuyển Nhật cúi đầu tạ lỗi làm thất vọng khán giả và ủng hộ viên trên khán đài, sau trận thua Ivory Coast mặc dầu đã mở được  tỷ số trước, tại sân  Arena Pernambuco, Recife, tối Thứ Bảy 14 tháng 6. (Photo by Clive Rose/Getty Images)

Tuy nhiên sau khi mãn trận đấu trên sân Arena Pernambuco thành phố Recife, cổ động viên Nhật vẫn tự nguyện ở lại một khoảng thời gian dọn dẹp chỗ ngồi rồi mới ra về. Đây là hành động hoàn toàn tự nguyện dù công việc này thuộc trách nhiệm ban quản lý sân vận động. Những cổ động viên nam nữ Nhật Bản xách  túi plastic lớn lượm rác trên hàng ghế và các lối đi lên khán đài,  gây ấn tượng mạnh về phong cách  của cổ động viên Nhật Bản tại sân World Cup.

Trước đó, toàn thể đội tuyển Nhật đã xếp hàng trên sân cỏ cúi đầu xin lỗi  ủng hộ viên và người hâm mộ  khi để thua ngược Ivory Coast.

Những hình ảnh  thể hiện trình độ văn minh văn hóa như vậy người ta chỉ có thể tìm thấy ở dân tộc Nhật. (HC)

 

Miền Tây: Tài nguyên suy kiệt, môi trường suy thoái

Miền Tây: Tài nguyên suy kiệt, môi trường suy thoái

Nguoi-viet.com

CẦN THƠ (NV) – Sinh hoạt và sinh kế của cư dân đồng bằng sông Cửu Long vốn đã khó khăn sẽ còn khó khăn hơn do sự suy kiệt về tài nguyên và sự suy thoái của môi trường.

Ðó là cảnh báo của nhiều chuyên gia và được các viên chức thừa nhận tại “Diễn đàn Bảo Tồn Thiên Nhiên và Văn Hóa vì sự phát triển bền vững của đồng bằng sông Cửu Long lần thứ 7,” với sự tham dự của Bộ Tài Nguyên-Môi Trường Việt Nam, đại diện chính quyền 13 tỉnh ở miền Tây, giới nghiên cứu khoa học. Ðây là sinh hoạt thường niên, khởi đầu từ năm 2008 với sự hỗ trợ của Quỹ Bảo tồn thiên nhiên Thế giới (WWF).


Sạt lở bờ biển đang diễn ra trên diện rộng ở đồng bằng sông Cửu Long. (Hình: Thời báo Kinh Tế Sài Gòn)

Các tài nguyên như: đất, nước, thủy sản,… ở đồng bằng sông Cửu Long không còn như trước. Sự đa dạng sinh học cũng đã biến mất. Ông Nguyễn Văn Nghĩa, một chuyên viên của Cục Quản lý Tài nguyên nước, thuộc Bộ Tài Nguyên-Môi Trường, cho biết, vài năm gần đây, nguồn nước của sông Mekong đổ về đồng bằng sông Cửu Long đã giảm đáng kể vì bị điều tiết mạnh mẽ ở phía thượng nguồn và tác động của biến đổi khí hậu.

Nguồn nước mặt giảm nên người ta chuyển qua khai thác nguồn nước ngầm và vì vậy, mỗi năm, mực nước trong tầng nước ngầm đã giảm từ 0.2 mét đến 0.4 mét. Có nơi, mực nước của tầng nước ngầm giảm tới gần 1 mét/năm. Kết quả là nước mặn xâm nhập càng ngày càng sâu. Xói lở ven sông, ven biển càng ngày càng lớn.

Do nguồn nước, do sự hình thành và tồn tại của các công trình chặn lũ, ngăn mặn, thủy điện và cả do lối đánh bắt theo kiểu tận diệt, thủy sản – nguồn lớn tự nhiên ở đồng bằng sông Cửu Long vốn hết sức phong phú, dồi dào nay đã suy giảm đáng kể.

Ông Nguyễn Thanh Nguyên, một phó chủ tịch của tỉnh Long An, thú nhận những sai lầm trong quản lý đã góp phần làm suy kiệt tài nguyên của đồng bằng sông Cửu Long và khiến môi trường của khu vực này bị suy thoái. Hiện nay, mỗi năm, sản lượng lương thực của Long An khoảng 3 triệu tấn, gấp mười lần giai đọa 1970 (chỉ chừng 300,000 tấn). Tuy nhiên để đạt được kết quả đó, toàn bộ hệ sinh thái đa dạng của Ðồng Tháp Mười đã bị hủy diệt vì những kế hoạch khai phá, chuyển thành đất trồng lúa. Hệ sinh thái nước lợ ven biển coi như đã bị xóa sạch vì phong trào nuôi tôm.

Ông Bùi Cách Tuyến, một thứ trưởng của Bộ Tài Nguyên-Môi Trường, thừa nhận, hậu quả của việc thực hiện các quy hoạch tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long “đã bộc lộ rõ.” Vì vậy, sắp tới, phải cân nhắc các vấn đề môi trường trong quá trình lập quy hoạch.

Viên thứ trưởng này kêu gọi đẩy mạnh truyền thông về ý nghĩa, vai trò, giá trị, phương thức quản lý, khai thác, sử dụng bền vững các dịch vụ hệ sinh thái của vùng đất ngập nước nhằm bảo tồn đa dạng sinh học và ứng phó với biến đổi khí hậu. Ðồng thời phải lồng ghép việc bảo tồn, phát triển bền vững các vùng đất ngập nước, duy trì các dịch vụ hệ sinh thái để ứng phó với biến đổi khí hậu vào các kế hoạch, chương trình, dự án phát triển có liên quan, xem đó là một trong những tiêu chí đánh giá các giải pháp phát triển bền vững. (G.Ð)