“Chúng tôi muốn biết”

“Chúng tôi muốn biết”

Gia Minh, PGĐ Ban Việt ngữ
2014-09-02

09022014-giaminh.mp3

wordpress.com.jpg

Một số bạn trẻ với dòng chữ ‘Tôi muốn biết’.

Courtesy of worldpress.com

Một số bạn trẻ tại Việt Nam hôm nay đưa lên các trang mạng xã hội hình chụp của họ với dòng chữ ‘Tôi muốn biết’. Sinh hoạt mới này của các bạn trẻ hoạt động lâu nay nhắm đến mục tiêu gì?

Quyền được biết

Theo những bạn công khai hình ảnh và bảng viết với dòng chữ ‘Tôi muốn biết’ thì công dân có quyền tiếp cận thông tin từ nhà nước như chính sách quốc gia, hoạt động của chính khách Nhà nước và/hoặc đảng cầm quyền trên mọi lĩnh vực: giáo dục, y tế, an sinh xã hội, môi trường… Những người này cho rằng đó là một quyền cơ bản của người dân.

Cựu tù nhân lương tâm Phạm Thanh Nghiên, một trong những người tham gia, cho biết về quyền đó như sau:

Vào 12 giờ đêm ngày hôm qua theo giờ Việt Nam, Mạng lưới Bloggers Việt Nam đã chính thức khởi động phong trào ‘Chúng tôi Muốn Biết’.

Trước hết phải nói sơ một chút là quyền tự do ngôn luận có mối quan hệ rất chặt chẽ với quyền tự do tiếp cận thông tin, bởi vì Mạng lưới Bloggers Việt Nam cho rằng quyền được thông tin là cơ sở để người dân thực hiện quyền làm chủ đất nước của mình. Ngày 28 tháng 9 là ngày là Liên Hiệp Quốc lấy làm Ngày Quốc tế Quyền Được biết.

Luật pháp và hiến pháp Việt Nam mặc dù chưa thật đầy đủ, nhưng hiến pháp Việt Nam đã quy định người dân được quyền tiếp cận thông tin. Tức trong hiến pháp cũng ghi quyền căn bản của người dân Việt Nam; tuy nhiên đó chỉ là trên lý thuyết thôi, còn trên thực tế hầu như sự thật là không hề có quyền tự do ngôn luận hay quyền tự do tiếp cận thông tin.

Bản thân tôi chính là một trong những nạn nhân của chính thể chế này, tôi từng bị bốn năm tù giam bởi vì tôi đã lên tiếng bày tỏ quan điểm của mình về vấn đề chủ quyền- lãnh thổ hay những vấn đề tự do, dân chủ, nhân quyền khác. Cho nên tôi có đủ tư cách để nói rằng ở Việt Nam không hề có quyền tiếp cận thông tin, không có tự do ngôn luận, không có nhân quyền một cách chính đáng như những gì nhà nước, đảng cộng sản Việt Nam đã ghi trong hiến pháp và luôn nói với công luận rằng Việt Nam có đầy đủ những quyền đó.

Phong trào ‘”Chúng tôi Muốn biết” xuất phát trước hết từ quyền căn bản của mỗi người, mà động cơ để chúng tôi tham gia phong trào này là những sự kiện liên quan đến đời sống của chúng tôi và của cộng đồng.
– Anh Phạm Văn Hải, Nha Trang

Tôi nhắc lại là quyền tiếp cận thông tin là quyền căn bản của người dân cũng như quyền tự do ngôn luận, quyền bày tỏ các quan điểm về các vấn đề xã hội hay đất nước mình. Không có nên mọi người phải biết để giành lại các quyền cho mình. Hôm nay tôi nói ‘Tôi muốn biết’ và tôi có quyền được biết vì không thể có một xã hội tiến bộ nếu người dân không được biết những quyết sách mà can dự đến đời sống của mình, nhất là đến sự tồn vong của dân tộc!

Một người tham gia khác từ Nha Trang là anh Phạm Văn Hải cũng cho biết ý thức về quyền được thông tin và động cơ tham gia phong trào ‘Tôi muốn biết’:

Phong trào ‘”Chúng tôi Muốn biết” xuất phát trước hết từ quyền căn bản của mỗi người, mà động cơ để chúng tôi tham gia phong trào này là những sự kiện liên quan đến đời sống của chúng tôi và của cộng đồng.

Điều muốn được công khai

Hai vấn đề được các bạn tham gia cho hay họ muốn chính quyền Hà Nội và đảng cộng sản cầm quyền hiện nay phải công khai đầu tiên là Công hàm do thủ tướng Phạm Văn Đồng ký hồi năm 1958 gửi cho ông Chu Ân Lai và hội nghị Thành đô vào tháng 9 năm 1990 giữa các lãnh đạo Việt Nam và Trung Quốc.

Cô Phạm Thanh Nghiên nói về điều này:

Trước tình hình mối quan hệ rất đặc biệt giữa Việt Nam và Trung Quốc, giữa đảng cộng sản Việt Nam và đảng cộng sản Việt Nam rất đặc biệt. Đặc biệt (mối quan hệ đó) can dự tiêu cực đến đời sống của người dân Việt Nam. Như chúng ta biết Hội nghị Thành Đô năm 1990, người dân Việt Nam hoàn toàn không được biết, không được tiếp cận thông tin. Một nhóm lãnh đạo Việt Nam nhân danh đảng và nhà nước Việt Nam đã ký kết hiệp định Thành Đô. Mặc dù không được biết nhưng trên thực tế thông tin cho hay sau năm 1990 đảng cộng sản Việt Nam hầu như lệ thuộc hoàn toàn vào đảng cộng sản Trung Quốc và gây một ảnh hưởng vô cùng nghiêm trọng đến vận mệnh của người dân Việt Nam, của tổ quốc Việt Nam. Đó là chưa nói đến Công hàm năm 1958 của Phạm Văn Đồng.

Sau sự kiện hồi tháng 5 vừa rồi khi Trung Quốc cắm giàn khoan HD981 trong vùng biển của Việt Nam,một số báo chí, thông tấn của Trung Quốc tiết lộ phần nào nội dung của Mật ước Thành Đô. Chính vì thế Mạng lưới Bloggers Việt Nam cũng như nhiều người dân Việt Nam cũng rất lo lắng về vấn đề liên quan mật ước Thành Đô.

Hôm nay tôi nói ‘Tôi muốn biết’ và tôi có quyền được biết vì không thể có một xã hội tiến bộ nếu người dân không được biết những quyết sách mà can dự đến đời sống của mình, nhất là đến sự tồn vong của dân tộc!
– Cô Phạm Thanh Nghiên

Mạng lưới Blogger Việt Nam và nhiều người đấu tranh tại Việt Nam nhận thấy đây là vấn đề cần phải lên tiếng.

Anh Phạm Văn Hải cũng nêu ra thắc mắc về những hành xử của nhà cầm quyển Việt Nam trong các vấn đề liên quan:

Chuyện Trung Quốc kéo giàn khoan qua cách đây mấy tháng và cách cư xử của nhà cầm quyền, cách ứng xử của họ không bình thường, không xứng đáng là của một quốc gia có chủ quyền. Từ đó chúng tôi đặt thắc mắc vì sao có những ứng xử không phù hợp như vậy. Chúng tôi muốn biết đằng sau có cái gì, vì sao mà một quốc gia luôn tuyên bố có chủ quyền mà lại ứng xử như vậy. Phải có cái gì đó đằng sau chứ?

Đánh giá về đáp ứng của chính quyền

Một khi công khai lên tiếng đòi hỏi quyền được thông tin nêu lên như thế, các bạn tham gia mong mỏi hoạt động đó phần nào tác động được đến chính quyền, dù rằng khà năng đáp ứng không mấy cao.

Cựu tù nhân lương tâm Phạm Thanh Nghiên phát biểu:

Dù có đòi, nói thẳng ra đảng cộng sản Việt Nam sẽ không đáp ứng; tuy nhiên nó rất khác với việc chúng ta không làm gì, chúng ta không bày tỏ. Tôi xin nói thêm chút nữa, cách đây vài năm khi tôi nói đến Công hàm Phạm Văn Đồng thì tôi phải trả giá 4 năm tù giam. Từ năm 1958 đến năm 2014 là mấy chục năm đảng cộng sản Việt Nam không hề nói đến công hàm Phạm Văn Đồng. Tuy nhiên khi có sự kiện HD 981 thì đảng cộng sản Việt Nam phải bắt buộc công nhận có công hàm Phạm Văn Đồng. Dẫu thế họ diễn giải theo một cách khác.

Có thể không có kết quả trước mắt, nhưng chúng ta cứ kiên trì, tôi tin sẽ có kết quả. Ngày hôm nay, mặc dù tôi tin đảng cộng sản Việt Nam sẽ không đáp ứng; nhưng chỉ khi chúng ta gây một sức ép chính đáng, thì sự thật sẽ phải được trả về với sự thật.

Anh Phạm Văn Hải cho rằng hoạt động đòi quyền được biết mà các bạn tham gia có thể gặp khó khăn, tuy nhiên các bạn chấp nhận mọi rủi ro để mọi quyền công dân phải được tôn trọng.

TT Ngô Đình Diệm đã từng giúp gạo cho dân Tây Tạng tỵ nạn tại Ấn Độ?

TT Ngô Đình Diệm đã từng giúp gạo cho dân Tây Tạng tỵ nạn tại Ấn Độ?

ngo dinh diem 1

Vài tháng trước trên internet xuất hiện bài viết “Câu chuyện thật cảm động của đức ĐẠT LẠI LẠT MA nói về ĐỆ NHẤT VNCH” với nội dung chính: “Ngày 20.09.2013 khi người Việt tại Đức được vinh dự đón Đức Dalai Lama tại chùa Viên Giác, Ngài đã kể lại 1 câu chuyện thật cảm động. Những thập niên 50, Mao Trạch Đông xua quân vào Tây Tạng giết sư, đốt chùa và gây ra hằng hà xa số tội ác với dân tộc Tây Tạng hiền lành chịu đựng. Năm 1959 Đức Dalai Lama phải cùng dân tộc của Ngài từ bỏ quê hương lên đường tỵ nạn. TQ lúc bấy giờ như con hổ đói, họ dùng đủ mọi cách để truy lùng Ngài. Khoảng thời gian đó trên thế giới ít người biết và để ý đến tình hình xảy ra ở Tây Tạng, và cũng chẳng ai biết gì về 1 thanh niên với nụ cười thật nhân hậu đang dìu dắt dân tộc mình lánh nạn trước mũi súng bạo tàn của Mao Trạch Đông. Ấn Độ luôn có đụng độ với TQ về vấn đề biên giới, vi vậy họ không muốn làm tình hình căng thẳng thêm, nên cũng chẳng tha thiết giúp đỡ đoàn người tỵ nạn đến từ Tây Tạng. Tin tức về tình hình bi đát từ Tây Tạng chẳng được loan truyền, lại bị TQ cô lập thông tin toàn diện, nên thế giới chẳng ai biết đến mà quan tâm. Đoàn người tỵ nạn vì vậy thiếu thốn cơ cực đủ điều, tình hình lúc bấy giờ thật nghiệt ngã.

May thay ở vùng Đông Nam Á có 1 vị Tổng Thống cũng nhân đạo không kém. Ông từng biết thế nào là tỵ nạn CS, vì chính ông cũng đã mở rộng vòng tay đón tiếp và giúp đỡ hằng triệu đồng bào của ông chạy nạn CS từ Bắc vào Nam… Đó là cố TT Ngô Đình Diệm, một vị Tổng Thống Công Giáo, đã âm thầm gửi hàng tấn gạo để cứu khổ những người Phật Giáo Tây Tạng. Một miếng khi đói bằng một gói khi no, Đức Dalai Lama bồi hồi khi kể lại sự giúp đỡ của cụ Diệm đối với dân tộc của ông vào những ngày tháng khó khăn nhất”.

Vài hôm sau tôi nhận bài viết phản bác bài viết trên với cái tựa khá dài “ĐỨC DALAI LAMA, ÔNG NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ MẶC CẢM TỘI LỖI CỦA NHÓM “HOÀI NGÔ”” của tác giả Nguyễn Kha. Tác giả dành khá nhiều công sức để tìm kiếm gần như tất cả các phương tiện truyền thông thông dụng, từ google cho đến các trang web Tây Tạng và nhất là nghe kỹ youtube thu lại buổi thuyết pháp của Đức Đạt Lai Lạt Ma ở chùa Viên Giác.

Theo tác giả Nguyễn Kha, ngoài ba lần nhắc đến Việt Nam trong chiến tranh, trong toàn bộ buổi thuyết pháp “Đức Dalai Lama đã không còn đả động gì đến Việt Nam nữa. Nhất là Ngài HOÀN TOÀN KHÔNG NÓI MỘT TIẾNG “PRESIDENT DIEM” HAY MỘT TIẾNG “RICE DONATION” NÀO CẢ. Do đó, dĩ nhiên là không có câu chuyện hoang đường “Đức Dalai Lama bồi hồi khi kể lại sự giúp đỡ của cụ Diệm” đã “âm thầm gửi hàng tấn gạo để cứu khổ những người Phật Giáo Tây Tạng.” như “Chị Hoa Lan” đã gian trá phịa ra”.

Một lần, bạn tôi, Luật sư Nguyễn Xuân Phước ở Dallas gọi để thảo luận về chuyện “TT Ngô Đình Diệm tặng gạo cho dân Tây Tạng” này. Tôi nói với anh, trên quan điểm chính trị và nhân đạo, tôi tin là có nhưng thú thật tôi không chứng minh được bằng tài liệu nào. Biết tôi sắp đi Đức, anh Phước dặn tôi để đích thân nhờ Hòa Thượng Thích Như Điển, Phương trượng chùa Viên Giác, Hannover xác nhận dùm chuyện “hàng tấn gạo” này. Tôi hứa sẽ bạch với thầy.

Tôi đến Hannover chiều thứ Năm tuần trước. Lần đầu đến viếng chùa Viên Giác, nhưng về tình cảm, với tôi đây là chuyến trở về. Viên Giác Hannover không có bóng đa già và những mùa thu ngập lá như Viên Giác Hội An. Viên Giác Hannover không có thằng bé ngồi nhìn bóng trăng soi trên sân gạch mà nhớ đến mẹ mình trong những đêm rằm Vu Lan tháng Bảy như Viên Giác Hội An. Cây đa già đã chết, thằng bé đã đi xa nhưng ký ức của một phần đời cô đơn nhất vẫn còn nguyên vẹn trong tâm hồn nó.

Sau những chuyện riêng tư, thăm hỏi sức khỏe, tôi bạch với Hòa thượng Thích Như Điển trong thời gian Đức Đạt Lai Lạt Ma viếng thăm chùa Viên Giác hôm 20 tháng 9, 2013, khi ngài thuyết pháp, khi ngài trò chuyện, khi ngài nói trong chương trình, khi ngài thăm hỏi ngoài chương trình, có bao giờ Đức Đạt Lai Lạt Ma nhắc đến việc “TT Ngô Đình Diệm, một vị Tổng Thống Công Giáo, đã âm thầm gửi hàng tấn gạo để cứu khổ những người Phật Giáo Tây Tạng” không?
Hòa thượng Như Điển xác định “Không”.

Nhưng rồi hòa thượng nói tiếp, sau khi đọc bài viết chính hòa thượng cũng thắc mắc về chuyện “hàng tấn gạo” và bảo các đệ tử, trong đó có nhiều người tu học tại Ấn Độ truy cứu tài liệu để tìm xem nếu Việt Nam Cộng Hòa đã từng viện trợ gạo cho nhân dân Tây Tạng. Ngày 7 tháng 8 vừa qua, hòa thượng nhận được kết quả truy cứu.

Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã hai lần tặng gạo cho dân tỵ nạn Tây Tạng

Hoà Thượng Như Điển trước chùa Viên Giác, Đức

Hoà Thượng Như Điển trước chùa Viên Giác, Đức

Tài liệu xác nhận Việt Nam Cộng Hòa đã có cứu trợ gạo cho dân tỵ nạn Tây Tạng tại Ấn, và không chỉ cứu trợ “hàng tấn gạo”, vài chục ngàn tấn mà đã gởi hai lần tổng cộng một ngàn năm trăm tấn gạo qua trung gian chính phủ Ấn. Hòa thượng chuyển cho tôi nguyên văn tài liệu và cả đường link dẫn đến tài liệu. Ngài cũng khuyến khích tôi dịch các đoạn liên hệ đến Việt Nam để phổ biến cho công chúng. “Sự thật cần phải làm sáng tỏ”, thầy dặn tôi như thế.

Tôi thật có duyên với câu chuyện “hàng tấn gạo” này vì người đón gia đình tôi ở phi trường và cả nhà ga Berlin lại là chị Hoa Lan. Chúng tôi không biết nhau trước. Chị ở Berlin nên Hòa thượng Phương Trượng chùa Viên Giác nhờ chị đón chúng tôi ở phi trường, đưa sang nhà ga đi Hannover và đón chúng tôi khi về lại Berlin. Khi chị đón tôi ở nhà ga Berlin, trên đường về khách sạn, tôi hỏi có phải chính chị đã nghe đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng “TT Ngô Đình Diệm, một vị Tổng Thống Công Giáo, đã âm thầm gửi hàng tấn gạo để cứu khổ những người Phật Giáo Tây Tạng” hay không? Chị Hoa Lan trả lời “Không”. Chị Hoa Lan cũng không biết ai đã dùng tên chị để đưa vào bài viết. Vì tôi đã được hòa thượng xác nhận bằng tài liệu chính thức của chính phủ Ấn nên việc chị Hoa Lan có nói hay không, không còn là chuyện quan trọng.

Giá trị của tài liệu

Tài liệu do Hòa thượng Như Điển chuyển dày 116 trang do Trung Tâm Nghiên Cứu Chính Sách và Quốc Hội Tây Tạng (Tibetan Parliamentary and Policy Research Centre) công bố năm 2006. Trung tâm đặt văn phòng tại H-10, 2nd Floor, Lajpat Nagar – III, New Delhi – 110024, INDIA. Đây là tổng kết các biên bản ghi lại các buổi phỏng vấn các lãnh đạo trong chính phủ Ấn Độ. Những người được phỏng vấn có Thủ tướng Shri Jawaharlal Nehru, Bộ Trưởng Ngoại Giao Shrimati Lakshmi Menon, Bộ trưởng Thương mại Shri D.P. Karmarkar, Thứ trưởng Ngoại Giao Shri A.K. Chanda, Bộ trưởng Thương Mại và Kỹ Nghệ Shri T.T. Krishnamachari và nhiều viên chức cao cấp khác có liên hệ đến tiến trình định cư người tỵ nạn Tây Tạng tại Ấn từ năm 1952 đến năm 2005.

Phỏng vấn Thủ tướng Nehru

Ngày 19 tháng 12 năm 1960, người phỏng vấn tên Shri Harihar Patel hỏi Thủ Tướng Shri Jawaharlal Nehru: “Thủ tướng vui lòng cho biết tên các quốc gia, cơ quan cứu trợ tư có liên hệ đến công việc cứu giúp và định cư người tỵ nạn Tây Tạng tại Ấn và số lượng cũng như tên các trại do các cơ quan đó điều hành tại Ấn, Sikkim và Bhutan?”

Thủ tướng Shri Jawaharlal Nehru: “Các chính phủ Úc, Mỹ và Tân Tây Lan đã viện trợ 10 lakhs Rupees, 4,75,000 Rupees, 2,63,920 Rupees theo thứ tự để chính phủ Ấn chi dùng cho các chương trình tỵ nạn Tây Tạng. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tặng 1300 tấn gạo”.

Các cơ quan thiện nguyện tư cung cấp thức ăn, áo quần, thuốc men v.v. gồm có (1) Co-operative for American Relief Everywhere; (2) American Emergency Committee for Tibetan Refugees; (3) Catholic Relief Services in India; (4) National Christian Council of India; (5) World Veterans’ Federation; (6) Indian Red Cross Society; (7) Junior Chamber International; (8) The Buddhist Society of Thailand. Không có một trại tỵ nạn nào được đặt dưới sự điều hành bởi các cơ quan từ thiện ngoại quốc.”

Phỏng vấn Bộ Trưởng Ngoại Giao Shrimati Lakshmi Menon

Ngày 30 tháng Tư, 1962, người phỏng vấn tên Shri N. Sri Rama Reddy phỏng vấn Bộ Trưởng Ngoại Giao Ấn Shrimati Lakshmi Menon: “Thủ tưởng có vui lòng cho biết đúng hay không rằng Chính phủ Nam Việt Nam đã đề nghị tặng 200 tấn gạo để cứu giúp người tỵ nạn Tây Tạng tại Ấn Độ”. Bộ trưởng Ngoại Giao Ấn Shrimati Lakshmi Menon đáp “Đúng vậy, thưa ông”.
Như vậy, việc chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không chỉ một lần mà hai lần và cũng không chỉ vài ngàn mà hàng trăm ngàn tấn gạo là chuyện thật.

Người xác nhận nghĩa cử cao quý của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không phải là một viên chức cấp thấp chăm lo công việc cứu trợ hay một phóng viên báo chí góp nhặt tin tức đó đây mà chính từ lời phát ngôn trang trọng của cố Thủ Tướng Shri Jawaharlal Nehru, người có thẩm quyền cao nhất của chính phủ Ấn và cũng là nhà kiến trúc nên quốc gia dân chủ Ấn Độ hiện đại ngày nay.

Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tặng gạo cả hai lần đều qua trung gian của chính phủ Ấn và các trại tỵ nạn Tây Tạng ngày đó như Thủ Tướng Shri Jawaharlal Nehru xác nhận, đều đặt dưới quyền điều hành của các cơ quan xã hội Ấn nên đức Đạt Lai Lạt Ma có thể không biết.

Lý do không “hoang đường” mà rất đơn giản và dễ hiểu

Về mặt nhân đạo, việc cố Tổng thống Ngô Đình Diệm tặng gạo cho nhân dân Tây Tạng phát xuất từ tình người. TT Ngô Đình Diệm đâu cần phải vượt qua hàng rào tôn giáo như người viết bài gán ghép cho cố tổng thống. TT Ngô Đình Diệm cũng không phải “âm thầm” giúp đở chỉ vì ngài là “Tổng Thống Công Giáo” mà lại giúp đở “những người Phật Giáo Tây Tạng”. Đạo Công Giáo chẳng những không cấm cản mà còn khuyến khích con cái Chúa giúp đỡ những người khó khăn, đói khát, chịu đựng không cùng tôn giáo. Hình ảnh Mẹ Teresa sẽ mãi mãi như ánh trăng thương yêu soi sáng sông Hằng Hindu Ấn Độ. Hàng triệu người Việt tỵ nạn Cộng Sản sau 1975 đã vượt qua được chặng đường đầu đầy khó khăn phần lớn cũng nhờ vào bàn tay cứu giúp của những người không cùng tôn giáo.

Về mặt chính trị, cố Tổng thống Ngô Đình Diệm chắc chắn biết rằng Việt Nam Cộng Hòa và Tây Tạng có nhiều điểm giống nhau về hoàn cảnh lịch sử và địa lý chính trị. Hai dân tộc từng chịu đựng dưới ách thống trị của phong kiến Trung Hoa, hai quốc gia nhỏ chịu số phận vùng trái độn sát biên giới Trung Cộng, hai cuộc di dân tìm tự do trong đói khát, chịu đựng, viện trợ gạo, do đó, là một cách để thế giới thấy rằng Việt Nam Cộng Hòa luôn đứng về phía những người cùng chiến tuyến tự do. Tổng thống Ngô Đình Diệm không làm việc đó trong “âm thầm” mà đã chính thức thông báo cho Thủ tướng Ấn Độ Shri Jawaharlal Nehru biết và được thủ tướng vui mừng đón nhận. Ngày nay rất nhiều quốc gia có cảm tình với Tây Tạng nhưng trong thời điểm 1960 chỉ vỏn vẹn bốn quốc gia, trong đó có Việt Nam Cộng Hòa đã đóng góp trực tiếp vào việc cứu trợ dân tỵ nạn Tây Tạng. Và trong số bốn quốc gia, Việt Nam Cộng Hòa có thể là nước nghèo nhất về của cải nhưng giàu hơn nhiều cường quốc về lòng nhân đạo.

Hai lý do đó chẳng “hoang đường” nhưng rất đơn giản và dễ hiểu mà vị lãnh đạo một quốc gia cùng số phận với Tây Tạng hẳn phải biết.

Cố Tổng thống Ngô Đình Diệm có đức tính sống cao cả hơn và có một tâm hồn trong sáng hơn nhiều người đang “ca tụng” hay “vinh danh” ngài. Nếu biết kính trọng, hãy để ngài là cố Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, đừng cô lập ngài thành một vị “Tổng Thống Công Giáo”. Lịch sử để lại nhiều vết thương đau nhưng không có vết thương đau nào là của riêng Công Giáo hay Phật Giáo mà là vết thương đau của dân tộc.

Phản bác bài viết “Câu chuyện thật cảm động của đức ĐẠT LẠI LẠT MA nói về ĐỆ NHẤT VNCH”, tác giả của bài “ĐỨC DALAI LAMA, ÔNG NGÔ ĐÌNH DIỆM VÀ MẶC CẢM TỘI LỖI CỦA NHÓM “HOÀI NGÔ” cũng chẳng xây dựng hay tích cực gì hơn. Thái độ hiềm khích, hằn học thể hiện ngay trong cách dùng từ, đặt tựa.

Không thể đánh giá một con người đã sống, một biến cố đã xảy ra hơn nửa thế kỷ bằng tiêu chuẩn ngày nay. Phương pháp đó thiếu đặc tính khách quan và lịch sử. Dân chủ là một tiến trình từ thấp đến cao, từ non trẻ đến trưởng thành chứ không phải là một sản phẩm được chế tạo theo một công thức, mẫu mực nhất định hay được nhập từ một quốc gia nào. Nền dân chủ Mỹ trả giá bằng sinh mạng của sáu trăm ngàn người lính hai miền trong năm năm nội chiến. Nền dân chủ Nam Hàn cũng phải chịu đựng ám sát, đảo chính, độc tài, tham nhũng trước khi trở thành một trong G20 của thế giới ngày nay.
Việt Nam Cộng Hòa, sau hiệp định Geneva, từ một thường dân cho đến nguyên thủ quốc gia đều bắt đầu hành trình dân chủ đầy gai góc bằng hai bàn tay trắng, vừa học vừa hành trong máu và nước mắt. Không ai muốn nhưng đã để lại những hố sâu, những vết nứt trên đường đi của các thế hệ hôm nay. Một người Việt Nam có trách nhiệm, nếu không giúp lấp lại những cách ngăn, không giúp xoa dịu nỗi đau, không giúp bắt một nhịp cầu cảm thông thì cũng không nên đào sâu thêm hố hận thù, chia rẽ trong lòng một dân tộc đang quá khao khát thương yêu và đoàn kết.

Prague, chiều 26-8-2014

© Trần Trung Đạo

Chia tay Thương xá Tax

Chia tay Thương xá Tax

“Nếu anh bắn vào quá khứ bằng khẩu súng lục,

tương lai sẽ bắn lại anh bằng một khẩu đại bác”

Bất cứ cuộc chia tay nào cũng mang theo nhiều luyến tiếc. Chia tay giữa người và người thường mang những kỷ niệm riêng tư, những giây phút bên nhau bỗng chốc trở thành kỷ niệm. Nếu như có cơ hội gặp lại nhau thì người xưa đã trở thành “cố nhân” trong muôn vàn khuôn mặt.

Không phải chuyện chia tay chỉ xảy ra giữa người và người. Có những cuộc chia tay ngoài ý muốn và mang tính cách rộng lớn hơn của nhiều người với nơi mình đã sinh sống, thậm chí còn chia tay với cả một đất nước khi phải bỏ xứ ra đi.

Trong bài viết này, tác giả không nói đến những cuộc chia tay như vậy mà chỉ bàn đến sự chia tay Thương xá Tax của những người Sài Gòn đã từng, không ít thì nhiều, gắn bó với một địa điểm thường lui tới tại trung tâm thành phố có tên gọi “Hòn ngọc Viễn Đông”.

Tôi biết đến Thương xá Tax từ năm 1953 khi gia đình từ miền Bắc di cư vào Nam thời Đệ nhất Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Tax đã hiện diện tại Sài Gòn từ năm 1880 trong thời Pháp thuộc với cái tên “Cửa hàng Charner” (Grands Magasins Charner – GMC) tại góc của hai con đường Charner (Nguyễn Huệ ngày nay) và đường Bonard (Lê Lợi).

Những cái tên đường “rặt Tây” như Charner, Bonard được chính phủ Bảo hộ đặt từ năm 1865 để vinh danh Đô đốc Hải quân Pháp, Léonard Victor Joseph Charner (1797-1869) và Louis Adolphe Bonard (1805 – 1867), là những người có liên quan đến việc chinh phục Đông Dương của quân đội Pháp.

Trước đó, đường Bonard mang một cái tên rất bình dân: “Đường 13”. Đó chỉ là một con đường trong một xóm nhỏ mà cư dân địa phương thời đó gọi bằng một cái tên cũng dân dã không kém: “Xóm Thơm”.

Mãi đến năm 1955, Ban Quản lý Định cư dưới thời Tổng thống Diệm mới đổi tên đường Charner thành Nguyễn Huệ, đường Bonard trở thành Lê Lợi. Hai tên đường từ đó mang tên các danh nhân Việt thay thế những ông tướng Pháp và rất may, Nguyễn Huệ – Lê Lợi vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.

Vị trí của “Cửa hàng Charner” (Grands Magasins Charner – GMC) thời Pháp thuộc

“Cửa hàng Charner” do “Công ty Thuộc địa các Nhà hàng lớn” (Société Coloniale des Grands Magasins – SCGM) xây dựng với số vốn ban đầu 12 triệu franc sau lên đến 30 triệu vào năm 1925.

Ban đầu, mặt tiền của tòa nhà Grands Magasins Charner, thường được gọi tắt là GMC, có gắn tháp đồng hồ theo kiến trúc của Pháp nhưng pha trộn những đường nét Á Đông với mái cong trên tháp.

Mặt tiền của GMC với tháp đồng hồ

GMC tọa lạc tại vị trí đẹp nhất của trung tâm Sài Gòn, kinh doanh các mặt hàng mà thời Pháp thuộc gọi là “bazar”, những sản phẩm đắt tiền, sang trọng được nhập cảng từ Pháp và Anh nhằm phục vụ cho người Pháp tại thuộc địa, giới thượng lưu Sài Thành và các đại điền chủ Nam kỳ Lục tỉnh.

GMC thời đó cũng đăng quảng cáo trên báo, tự hào là “Cửa hàng rộng nhất; Nhiều mặt hàng nhất và là Thương xá tốt nhất” (Magasins les plus vastes; Magasins les mieux assortis; Magasins vendant le meilleur marché).

Bên cạnh các cửa hàng buôn bán, GMC còn có “phòng trà” (salon de thé) và “quán bar kiểu Mỹ” (bar Americain) với lời quảng cáo “Vào cửa tự do” (Entrée Libre) như để khuyến khích khách vãng lai đến mua sắm [*].

Quảng cáo của Cửa hàng Charner

Năm 1942, việc kinh doanh lúc này rất thịnh vượng nên “Công ty Thuộc địa các Nhà hàng lớn” xây thêm một tầng lầu và đập bỏ phần tháp đồng hồ ngoài mặt tiền. Thay vào đó là hàng chữ GMC.

Đối với những người Sài Gòn xưa, bộ mặt mới của GMC với 3 tầng lầu trong thập niên 1940 so với 2 tầng lầu nguyên thủy có phần “đồ sộ” hơn nhưng hình như tòa nhà đã đánh mất vẻ “cổ kính” với tháp đồng hồ mang những đường nét kiến trúc Á Đông.

Phải chăng đó cũng là “cái giá” phải trả khi người ta mải chạy theo cái được gọi là “đồ sộ” mà quên đi những nét kiến trúc đặc thù của một công trình cổ. Xin nhắc lại, đó mới chỉ là thay đổi đầu tiên trong thập niên 1940 vì tòa nhà CMG sẽ còn phải đương đầu với nhiều thử thách những năm sau đó.

GMC với 3 tầng lầu vào năm 1942

Tại đây người ta có thể mua các mặt hàng từ bình dân như đồ chơi trẻ con cho con cháu… đến những thứ đắt tiền như đồng hồ, máy ảnh hoặc nữ trang bằng vàng hay kim cương cho vợ hoặc người tình. Nói chung, Tax có thể coi là “thiên đàng mua sắm” của người Sài Gòn vào những thập niên 60 và 70.

Ngày xưa, trong “lộ trình” của người Sài Gòn khi “bát phố Bonard” không thể nào thiếu mục “ghé Tax”, đó có thể vào lúc khởi đầu hay kết thúc của cuộc hành trình dọc theo đường Lê Lợi. Quả thật, bên trong Tax người mua hàng bao giờ cũng ít hơn người “bát phố” với mục đích chỉ muốn được hòa mình vào đám đông. Dân “bát phố” thậm chí trong túi chỉ đủ tiền để uống ly nước mía Viễn Đông nằm ở góc Lê Lợi và Pasteur!

Vào những ngày cuối tuần còn có sự xuất hiện của những bộ kaki vàng, màu áo của sinh viên sĩ quan Thủ Đức được về phép. Họ vào đấy để tìm lại cảm giác được sống giữa Sài Gòn đô hội sau một tuần đổ mồ hôi trên thao trường nắng cháy. Mai đây khi tốt nghiệp, ra trường họ sẽ tỏa đi các đơn vị khắp 4 vùng chiến thuật và sẽ ít có cơ hội nhìn lại hậu phương Sài Gòn!

CMG trở thành Tax từ thập niên 1960

Vào thập niên 60, người Sài Gòn rất hãnh diện với Tax. Hãnh diện từ thiết kế bên ngoài lẫn bên trong thương xá. Đường dẫn lên lầu là hai cầu thang bằng đồng hình vòng cung trông sang trọng như trong một dinh thự quyền quý.

Khách vào đây có thể đứng tựa lan can nhìn xuống cảnh mua bán tấp nập phía dưới hoặc ghé cửa hàng giải khát, gọi ly cà phê đá hay nước ngọt uống để làm dịu cơn nóng nực lúc ban trưa.

Buổi sáng tại Pôle Nord ngay tầng trệt cũng có phục vụ điểm tâm, vừa ăn vừa nhìn thiên hạ qua lại trước mặt. Buổi tối ngồi nhấm nháp chai bia Con Cọp, bia 33… một cái thú tương đối rẻ tiền mà Tax đem lại cho bất cứ ai ghé chơi vào bất cứ lúc nào.

Đó chính là sợi dây vô hình “buộc” người Sài Gòn với Tax cũng như La Pagode, Givral, Brodard, Thanh Thế hay kem Mai Hương đã một thời gắn bó với cuộc sống Sài Gòn. Những cái tên quen thuộc giờ đây đã trở thành hoài niệm đối với những người nay tóc đã điểm sương.

Thương xá Tax năm 1965

Thương xá Tax cũng đã đi vào văn chương, thơ phú và âm nhạc của người Sài Gòn. Trong ký ức một thời của mình, Ngô Thụy Miên ngồi tại hải ngoại viết về những quán hàng quen thuộc của Sài Gòn xưa:

“Em nhớ không, La Pagode, Givral của những sáng hẹn hò, Hoàng Gia, Pôle Nord của những chiều đưa đón, dạo phố tết Nguyễn Huệ, Lê Lợi tấp nập người qua, và những tối ghé quán Bà Cả Đọi, rồi Đêm Mầu Hồng. Cái không khí ấm áp tràn đầy tình thương của quê hương đó, làm sao có thể ngờ được chỉ trong vài tháng đã chỉ còn để lại một mùa Xuân, một mùa Xuân cuối cùng của những đổi thay…”

Bài hát “Chiều trên Phá Tam Giang” của Trần Thiện Thanh lại diễn tả một buổi tối Sài Gòn sắp vào giờ giới nghiêm và Thương xá Tax đang chuẩn bị đóng cửa:

“… Giờ này thương xá sắp đóng cửa, người lao công quét dọn hành lang, giờ này thành phố chợt bừng lên để rồi ta nghỉ sớm. Ôi Sài Gòn, Sài Gòn giờ giới nghiêm, ơi Sài Gòn, Sài Gòn giờ giới nghiêm, ôi em ơi Sài gòn không buổi tối…”.

“Thương xá Tax” của Sài Gòn xưa

Sau ngày Sài Gòn “đổi chủ”, Thương xá Tax cũng được “đổi đời”! Nhu cầu mua sắm của người Sài Gòn được thay thế bằng “hệ thống bao cấp nhu yếu phẩm” của nhà nước cho nên sự nhộn nhịp của một trung tâm mua sắm ngày nào nay không còn lý do để tồn tại. Tax biến thành nơi trưng bày mặt hàng sản xuất của các công ty quốc doanh.

Đến năm 1978, Tax được “cởi trói” và “hóa kiếp” thành “Cửa hàng Phục vụ Thiếu nhi Thành phố”. Người bán hàng, khi đó được gọi là “Mậu dịch viên”, lại “thắt khăn quàng đỏ” như thiếu nhi để bán mặt hàng chính là đồ chơi cho trẻ con được sản xuất bởi các công ty quốc doanh.

Dĩ nhiên là “phục vụ thiếu nhi” như tên gọi của cửa hàng nhưng chắc chắn việc trả tiền là của các bậc phụ huynh. Họ chắt chiu từng đồng trong thời khó khăn bao cấp để “mua” nguồn vui cho trẻ thơ qua những con búp bê bằng nhựa tái sinh hay chiếc xe hơi làm bằng gỗ.

Đến năm 1981 Tax một lần nữa đổi tên thành “Cửa hàng Bách hóa Tổng hợp Thành phố” trực thuộc Sở Thương Nghiệp và trở thành một trong những cửa hàng lớn nhất Việt Nam thời bấy giờ. Tax khi đó mang cái tên thật lạ lẫm, vừa dài vừa khó nhớ đối với người Sài Gòn nên trong suốt thời gian từ 1981 đến 1990 người ta vẫn dùng cái tên cũ: “… đi lên Tax”“mua cái này ở Tax…”.

Thương xá Tax trở thành “Cửa hàng Bách hóa Tổng hợp Thành phố”

Đáng chú ý là “Cửa hàng Bách hóa Tổng hợp Thành phố” đã thu hút một số du khách đến từ các nước Đông Âu nên người Sài Gòn lại có một cái tên “bán chính thức” là “Chợ Liên Xô” hay ngắn gọn hơn, “Chợ Nga”! Khách hàng nhiều khi đóng thành từng thùng để chuyển về nước những mặt hàng… tư bản.

Vào thời điểm “thịnh vượng”, tòa nhà trở thành một trung tâm giao dịch với các mặt hàng phong phú, từ quần áo, may mặc, mỹ nghệ đến những mặt hàng xa xỉ đều xuất hiện.

Hình như nhà nước cũng ý thức được “Thương hiệu Tax” đã ăn sâu vào nếp nghĩ của người dân nên ngày 19/1/1998 dòng chữ “Thương xá Tax” chính thức được đặt trên nóc tòa nhà! Thế là sau bao nhiêu năm “lận đận”, tòa nhà được “phục hồi danh hiệu” đã có từ xưa.

Thương hiệu “Thương xá Tax” xuất hiện trở lại năm 1998

Bước vào thời kỳ “đổi mới” trước sự cạnh tranh từ các trung tâm thương mại do người nước ngoài đầu tư và quản lý, một lần nữa áp lực cạnh tranh đã buộc Thương xá Tax phải tự làm mới mình.

Thương xá từ đó thuộc quyền quản lý của “Công ty Bán lẻ Tổng hợp Sài Gòn”, trực thuộc “Tổng Công ty Thương mại Sài Gòn” với tên thương mại là SATRA (Saigon Trading Group), được thành lập từ năm 1995.

SATRA bên cạnh thương hiệu “Thương xá Tax”

Đọc đến đây chắc hẳn có bạn đọc thắc mắc tại sao bài viết này lại mang tựa đề “Chia tay Thương xá Tax”?

Nếu chú ý theo dõi báo chí trong nước ta sẽ hiểu ngay vì sao sẽ phải chia tay. Báo Tuổi trẻ, ngày 20/8/2014, đưa tin trong một bài viết có tựa đề “Tiểu thương Thương xá Tax “chết đứng”:

“Việc thương xá Tax thông báo kết thúc hợp đồng thuê mặt bằng kinh doanh tại đây trước ngày 1/10 đã khiến các tiểu thương than “chết đứng”. Trong khi đó khu vực kinh doanh trên đường Nguyễn Huệ (Q. 1, TPHCM) bị ảnh hưởng bởi việc xây nhà ga metro cũng kêu trời khi việc kinh doanh bị ảnh hưởng nghiêm trọng”.

Trên Thanh niên Online, tác giả Trần Thùy Linh sau khi nhắc lại việc “xóa sổ” khu vực Passage Eden đã viết:

“… Và mấy hôm nay, có một nỗi đau tưởng đã lên da non, bỗng bùng lên, dữ dội, khi nghe tin thương xá Tax sẽ vĩnh viễn bị xóa sổ. Tôi tin rằng những “vô tri, vô giác” ấy, những “vật cần phải hy sinh cho sự phát triển” trên khu đất vàng ấy, đã đau lắm. Một cao ốc 40 tầng hiện đại, sáng choang sẽ mọc lên, thay thế cho Tax già nua cũ kỹ đã 134 tuổi. Khu trung tâm Sài Gòn sẽ còn gì?” .

Mô hình dự án toà tháp Tax Plaza cao 40 tầng

Kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Dũng trong bài viết “Sài Gòn đang trở nên xa lạ” đưa ra nhận xét mang tính cách chuyên môn:

“Với một diện tích khiêm tốn vài trăm ha, trung tâm Sài Gòn vốn được quy hoạch thành khu trung tâm hành chính và công cộng nay lại đang được nén chặt đến mức ngộp thở. Sài Gòn xưa giờ đang trở thành đô thị của một nước xa lạ nào đó, những bản sắc vốn có và hồn đô thị của thành phố 300 năm tuổi đang bị xóa nhòa.

Liệu bạn có còn tìm được nét Sài Gòn xưa ở những cao ốc mang tên nước ngoài như Royal Garden, Eva Royal Plaza, Avalon, Sailing Tower, Centec Tower hay Kenton Residence, Gemadept Tower, The Manor? Cái tên Sài Gòn cũng được nhắc tới nhưng lại rặt một nét lai căng, ví như Saigon Sky Garden, Saigon Plaza…”

Người Sài Gòn ngồi nhìn Thương xá Tax trước ngày chia tay

Tôi bỗng rùng mình khi nhớ lại một câu nói của ai đó. Câu này đã được dẫn trước bài viết nhưng cũng xin ghi lại một lần nữa để chúng ta đừng quên:

“Nếu anh bắn vào quá khứ bằng khẩu súng lục,

tương lai sẽ bắn lại anh bằng một khẩu đại bác”

***

Chú thích:

[*] Đọc thêm bài viết “Quảng cáo Sài Gòn xưa: Thời Pháp thuộc” tại:

http://chinhhoiuc.blogspot.com/2013/05/quang-cao-sai-gon-xua-thoi-phap-thuoc.html

Cựu đảng viên tự chặt ngón tay phản đối công an ép tội

Cựu đảng viên tự chặt ngón tay phản đối công an ép tội

Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok
2014-08-31

Ngày 12-6-2013 hàng trăm bà con nhân dân tại khu phố Trịnh Nguyễn - phường Châu Khê, TX Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh tập trung phản đối dự án xử lý nước thải tại Từ Sơn, Bắc Ninh.

Ngày 12-6-2013 hàng trăm bà con nhân dân tại khu phố Trịnh Nguyễn – phường Châu Khê, TX Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh tập trung phản đối dự án xử lý nước thải tại Từ Sơn, Bắc Ninh.

Source Blog danoan2012

Cựu đảng viên cao niên, bà Ngô Thị Đức tại khu phố Trịnh- Nguyễn, Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh hôm qua đã công khai chặt đứt ngón tay trỏ để phản đối việc công an ép buộc bà ký tên nhận tội tham gia gây rối trật tự công cộng.

Đây là vụ việc xảy ra gần một năm qua khi người dân tập trung giữ khu đất thuộc các gia đình thương binh liệt sỹ mà địa phương lấy để làm dự án xử lý nước thải. Người dân phản đối yêu cầu phải dời dự án ra nơi khác vì địa điểm thu hồi đất là quá sát nhà dân.

Bà Ngô thị Đức là một đảng viên trong chi bộ đảng địa phương dám công khai lên tiếng phản đối dự án. Bà bị chi bộ khai trừ ra khỏi đảng vì lý do đó.

Nay tiếp tục bị ép buộc nhận tội cùng người khác gây rối trật tự, bà Ngô thị Đức phải chặt ngón tay để bày tỏ thái độ quyết liệt lên án những việc làm sai trái của chính quyền địa phương. Vào sáng ngày 31 tháng 8, bà Ngô thị Đức cho Đài Á châu Tự do biết như sau:

Họ đã khai trừ hết đảng rồi, kinh tế chính trị mất hết rồi, bây giờ họ còn bắt lên hầu tòa để nhận tội. Tôi bảo tôi không có tội gì hết, tôi chỉ đề nghị xa dân cư thôi.  Trong khi công an đánh dân, đánh người già, trẻ con thì không có tội, trong khi chúng tôi chỉ đề nghị xa dân cư thì lại qui chúng tôi thành tội. Chúng tôi không ăn cắp, không ăn trộm, chỉ giữ ruộng để cấy thôi; thế mà cứ ép buộc chúng tôi lên ký nhận tội’.

Ngày 04/07/2013, bà Đỗ Thị Thiêm, cư dân khu phố Trịnh Nguyễn - thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh - bất ngờ bị tạt axit bị thương nặng

Ngày 04/07/2013, bà Đỗ Thị Thiêm, cư dân khu phố Trịnh Nguyễn – thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh – bất ngờ bị tạt axit bị thương nặng

Người dân địa phương cho biết, chính quyền địa phương vừa trao giấy triệu tập cho 12 người đến ngày 4 tháng 9 này phải ra tòa để xét xử về tội gây rối trật tự công cộng. Trong số này ngoài bà Ngô thị Đức, còn có một người từng tích cực lên tiếng về dự án xử lý nước thải quá sát khu dân cư tại Từ Sơn là ông Đặng Văn Nhu. Ông cho biết thông tin về việc bị đưa ra tòa và chuyện bà Đức chặt ngón tay để phản đối:

Ngày 4 này họ đưa ra xét xử 12 người, qui vào gây rối trật tự. Hôm qua, họ ép bà Đức quá nên bà Đức chặt ngón tay.

Con trai bà Ngô thị Đức cho biết mọi người đã đưa bà này đi bệnh viện để được nối lại ngón tay trỏ mà bà tự chặt để phản đối chính quyền địa phương, tuy nhiên các bác sĩ tại bệnh viện cho rằng không thể nối lại và nếu tiến hành thực hiện việc đó chỉ làm tốn tiền cho gia đình mà thôi.

Trong vụ việc phản đối dự án xử lý nước thải tại Từ Sơn, Bắc Ninh, còn có một người tích cực đấu tranh là bà Đỗ thị Thiêm. Bà này trở thành nạn nhân bị đối tượng bất hảo tạt acid đến nay vẫn còn phải chữa trị; trong khi đó các hung thủ vẫn chưa được xét xử.

Xin được nhắc lại, chính quyền địa phương tại Từ Sơn, Bắc Ninh đưa ra dự án xây dựng nhà máy xử lý nước thải tại cánh đồng Lỗ Vó- Dạ Cá, khu đất ruộng của hơn 60 hộ dân thuộc diện gia đình thương binh khu phố Trịnh- Nguyễn, phường Châu Khê, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Thủ tướng chính phủ phê duyệt dự án vào ngày 16 tháng 7 năm 2009. Tuy nhiên dân chúng phản đối vì dự án quá gần khu nhà dân sinh sống, mà theo họ sẽ gây hại cho sức khỏe người dân vì môi trường không bảo đảm.

Từ ngày 12 tháng 6 năm ngoái, người dân địa phương ra lập lán ngay tại đồng để giữ đất. Chừng một tuần sau lực lượng chức năng gồm công an và dân quân tràn vào đánh đập người dân trong đó có cả trẻ em, người già, phụ nữ. Tuy vậy người dân vẫn kiên quyết phản đối. Đến tháng 10, cơ quan chức năng đến bắt đi một số người và sau đó tháo giở tất cả lều bạt của người dân để triển khai san lấp và xây dựng dự án bất chấp phản đối của dân chúng địa phương.

Bắc Kinh chống quyền tự do ứng cử lãnh đạo Hồng Kông

Bắc Kinh chống quyền tự do ứng cử lãnh đạo Hồng Kông

Khẩu hiệu "bất phục tùng" được dựng lên gần khu trung tâm tài chính Hồng Kông ngày 31/08/2014.

Khẩu hiệu “bất phục tùng” được dựng lên gần khu trung tâm tài chính Hồng Kông ngày 31/08/2014.

REUTERS/Bobby Yip

Tú Anh

Đúng như tiên liệu, chế độ Trung Quốc không cho người dân Hồng Kông tự do ra tranh cử chức vụ lãnh đạo hành pháp. Ủy ban Thường vụ Quốc hội Trung Quốc với vai trò bù nhìn thông qua các quyết định của đảng Cộng sản buộc các ứng cử viên tranh ghế lãnh đạo Hồng Kông phải là người « yêu nước » và được « chọn lọc ».

Tình hình Hồng Kông có nguy cơ căng thẳng thêm .Theo AFP, Ủy ban Thường vụ Quốc hội Trung Quốc mà thực chất chỉ là văn phòng tiếp thu các quyết định của ban lãnh đạo đảng Cộng sản hôm nay 31/08/2014 ra tuyên bố : chấp thuận bầu cử lãnh đạo hành pháp Hồng Kông năm 2017 theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, trực tiếp. Tuy nhiên, Bắc Kinh đặt điều kiện chỉ có người « yêu nước » phải hiểu là « yêu đảng Cộng sản » mới được ứng cử.

Phong trào bất phục tùng công dân Occupy Central cho biết sẽ tung ra những đợt biểu tình phản kháng, gây tê liệt trung tâm tài chính. Trung Quốc không xem thường đe dọa này. Từ Bắc Kinh, thông tín viên Sebastien Ricci phân tích :

Hồng Kông, với 7 triệu dân, lớn gấp 10 lần Paris nhưng chỉ bằng đầu đũa so với Hoa lục. Là lãnh thổ của Trung Quốc nhưng Hồng Kông theo một quy chế tự trị đặc biệt : có tiền tệ riêng, luật pháp riêng và chính phủ riêng. Lãnh đạo hành pháp Hồng Kông lần đầu tiên sẽ được bầu theo lối phổ thông đầu phiếu, trực tiếp vào năm 2017. Cho đến nay, chức vụ lãnh đạo này do một ủy ban gồm 200 đại cử tri đã được chọn lọc kỹ, bầu lên.

Tuy nhiên cần phải thận trọng vì Bắc Kinh nói đến bầu cử tự do nhưng lại đặt một loạt điều kiện. Ứng cử viên không được quá ba người, tất cả phải là người « yêu nước », phải hiểu là ủng hộ đảng Cộng sản Trung Quốc. Với tiêu chí tùy tiện này, chính quyền Trung Quốc có thể loại trước những ứng cử viên mà họ không thích.

Lập tức, phong trào bất phục tùng công dân đe dọa chiếm đóng trung tâm thành phố nếu Trung Quốc không thực hiện lời cam kết cải cách dân chủ thật sự tại Hồng Kông. Bắc Kinh không giấu sự lo ngại. Hơn 7000 cảnh sát đã được huy động và nhiều xe thiết giáp đã xuất hiện trên đường phố. Những hình ảnh này làm sống lại cơn ác mộng Thiên An Môn tháng 6 năm 1989 khi quân đội Trung Quốc đàn áp phong trào đòi dân chủ trong biển máu“.

 

Giới trẻ Việt Nam ‘mộng mị, mơ hồ, không lối thoát’

Giới trẻ Việt Nam ‘mộng mị, mơ hồ, không lối thoát’
Friday, August 29, 2014

Nguoi-viet.com

Người đoạt giải nhất “Văn học tuổi 20” nhận xét


SÀI GÒN (NV) – Liền sau khi kết quả được công bố, cậu thanh niên Ðỗ Minh Quân đoạt giải thưởng“Văn học tuổi 20” lần thứ 5 đã bán hết sạch tác phẩm đoạt giải của mình.

 


Tác giả ký tên trên sách theo yêu cầu của người hâm mộ. (Hình: báo Tuổi Trẻ)

Ðỗ Minh Quân, 23 tuổi, sinh viên một trường đại học ở Hà Nội đoạt giải này với tác phẩm mang tựa đề “Người ngủ thuê.” Ðây là một giải văn học do báo Tuổi Trẻ cùng với một nhà xuất bản và Hội Nhà Văn Sài Gòn tổ chức.

Sau buổi lễ trao giải, theo báo Tuổi Trẻ, anh sinh viên Ðỗ Minh Quân, tức tác giả Nhật Phi, đã “mỏi tay” để ký tên trên trang đầu cuốn sách theo yêu cầu của người hâm mộ.

Báo Tuổi Trẻ dẫn lời tác giả Nhật Phi cho biết, anh đã mê viết văn từ lúc lên 6 tuổi và tác phẩm “Người ngủ thuê” là truyện dài hoàn chỉnh đầu tiên của anh.

Minh Quân tâm sự, “Tôi đọc truyện Nhật, thấy họ khai thác yếu tố giả tưởng để nói về cuộc sống thực tại.” Từ một yếu tố khá bất ngờ, anh phát giác ra rằng anh thì quá rảnh có thể “ngủ giùm” cho người bạn lúc nào cũng bận, anh bắt tay vào viết cuốn tiểu thuyết đầu tay.

Theo anh, câu chuyện của anh bộc lộ trạng thái chung của giới trẻ Việt Nam hiện nay là hoang mang.

Anh bày tỏ sự bất bình khi nghĩ rằng có vẻ như cả một xã hội Việt Nam đang đẩy người trẻ đến những giấc ngủ chán chường như thế. Anh chỉ trích tình trạng nhiều sinh viên tốt nghiệp cử nhân ra trường không kiếm được việc làm, mà anh tin rằng không phải là lỗi của sinh viên. Theo Minh Quân, lớp trẻ Việt Nam đã được sinh ra, lớn lên, rồi bị bỏ rơi.

Qua câu chuyện, Minh Quân bộc lộ suy nghĩ về điều bất hợp lý trong xã hội: Người quá thừa thãi thời gian, người khác thì lại rất thiếu.

Cuối cùng, theo anh, giới trẻ Việt Nam không được “sống cuộc sống của chính mình.” Nhận định này được Minh Phi giải thích rằng, chỉ vì người trẻ luôn luôn bị người lớn buộc phải tuân thủ mọi thứ, từ tiêu chuẩn này đến tiêu chuẩn kia. Có người bị buộc phải thi vào một ngôi trường, theo học một ngành nào, làm một việc gì sau khi tốt nghiệp, và phải kết hôn với một người nào đó hoàn toàn theo ý muốn, và sự sắp đặt của người khác.

Theo anh, đó là kiểu sống đầy chán chường, khiến người trẻ ở Việt Nam hiện nay, như chìm vào một giấc ngủ mộng mị, mơ hồ, không lối thoát. (PL)

 

Xe thiết giáp Trung Quốc thị uy trên đường phố Hồng Kông

Xe thiết giáp Trung Quốc thị uy trên đường phố Hồng Kông

RFI

Biểu tượng của quân đội Trung Quốc tại trung tâm thương mại Hồng Kông, ngày 01/08/2014.

Biểu tượng của quân đội Trung Quốc tại trung tâm thương mại Hồng Kông, ngày 01/08/2014.

REUTERS/Tyrone Siu

Mai Vân

Người dân Hồng Kông vào hôm nay 29/08/2014 đã bị chấn động mạnh khi biết tin là quân đội Trung Quốc đã cho xe bọc thép di chuyển trên đường phố ngay tại khu vực trung tâm thành phố. Phong trào đòi dân chủ tố cáo một hành vi « phô trương lực lượng » trong bối cảnh căng thẳng đang diễn ra.

Hãng tin Pháp AFP trích dẫn báo Hồng Kông Apple Daily hôm nay, cho biết là đã có ít nhất 4 chiếc xe bọc thép của quân đội Trung Quốc di chuyển vào sáng sớm hôm qua, 28/08, trên các con phố lớn ở khu Cửu Long/Kowloon. Những hình ảnh truyền trên mạng Twitter cho thấy là bên trên những chiếc xe này đều có ổ súng đại liên.

Phe đòi dân chủ ở Hồng Kông hôm nay tố cáo một sự phô trương lực lượng nhằm hù dọa người Hồng Kông. Trả lời hãng tin Pháp, nữ dân biểu Mao Mạnh Tĩnh (Claudia Mo) giải thích : « Đây là một sự hù dọa người dân Hồng Kông đang chuẩn bị các hành động ‘bất phục tùng dân sự’ trên quy mô lớn ».

Phong trào dân chủ Hồng Kồng tiếp tục đối đầu với Bắc Kinh trên thể thức bầu lãnh đạo thuộc địa cũ của Anh, với viễn ảnh cuộc bầu cử lãnh đạo mới năm 2017.

Họ muốn lãnh đạo Hồng Kông phải được chọn theo thể thức phổ thông đầu phiếu trực tiếp thực thụ, không chọn lọc trước ứng của viên. Bắc Kinh công nhận thể thức phổ thông đầu phiếu, nhưng cho rằng chỉ những người “yêu nước” mới được phép ứng cử, điều mà giới dân chủ Hồng Kông không chấp nhận.

Đến nay thì lãnh đạo Hồng Kông được một Ủy ban thân Bắc Kinh bình chọn.

Ủy ban Thường trực Quốc hội Trung Quốc xem xét vào tuần này báo cáo trên vấn đề này do chính lãnh đạo Hồng Kông đệ trình. Một cuộc biểu tình lớn đuợc dự kiến tại Hồng Kông vào ngày Chủ nhật 31/08 nhân cuộc họp của Ủy ban nói trên.

 

‘Nhân tố mới thời đại Hồ Chí Minh’ là trùm du đãng

‘Nhân tố mới thời đại Hồ Chí Minh’ là trùm du đãng
Thursday, August 28, 2014

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) .- Nhiều tờ báo ở Việt Nam vừa đục bỏ thông tin, hình ảnh ca ngợi ông Nguyễn Thành Hưng, người từng được Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng CSVN vinh danh là “Nhân tố mới thời đại Hồ Chí Minh”.

Ảnh chụp ông Nguyễn Thành Hưng vào thời điểm được vinh danh là “Nhân tố mới thời đại Hồ Chí Minh”. (Hình: Báo Bắc Ninh)

Hồi trung tuần tháng này, ông Hưng – người được vinh danh là “Nhân tố mới thời đại Hồ Chí Minh” hồi năm ngoái – bị bắt vì là một trong hai ông trùm điều hành hoạt động buôn lậu gỗ tại Việt Nam, có dưới trướng hàng trăm du đãng chuyên bảo kê, tống tiền, đâm thuê chém mướn và dính líu tới một số vụ án mạng.

Cách nay khoảng hai tuần, Bộ Công an Việt Nam đã điều động hàng trăm cảnh sát bao vây, khám xét, bắt chín người của hai công ty có tên là Đại An và Thành Hưng, có trụ sở cùng đặt tại thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Đứng đầu trong số chín người bị bắt này là  ông Nguyễn Ngọc Minh, Giám đốc Công ty Đại An và ông Nguyễn Thành Hưng, Giám đốc Công ty Thành Hưng.

Ông Minh nguyên là một trung úy quân đội. Đầu thập niên 1980, trung úy Minh là người điều hành một tổ chức buôn lậu đủ thứ từ Trung Quốc vào Việt Nam và ngược lại. Năm 1982, tổ chức buôn lậu của trung úy Minh bị Công an Lạng Sơn vây bắt, trung úy Minh bắn chết một đại úy công an và bắn bị thương hai sĩ quan khác.

Nhờ có cha là lãnh đạo tỉnh Hà Bắc, trung úy Minh chỉ bị phạt 19 năm tù, song chỉ ở tù 13 năm thì được “ân xá”. Một năm sau ngày ra tù ông Minh trở thảnh trùm buôn lậu gỗ, không chỉ tổ chức khai thác, mua bán gỗ ở Việt Nam, ông Minh còn tổ chức khai thác gỗ tại cả Lào và Campuchia.

Ông Nguyễn Thành Hưng có xuất thân khác ông Minh một chút. Khi đang là giáo sinh của một trường Trung học Sư phạm, ông Hưng tổ chức một băng cướp, thực hiện nhiều vụ cướp táo bạo. Cũng vì vậy, ông Hưng bị bắt đi, bắt lại nhiều lần. Tính ra, ông Hưng phải ngồi tù 23 năm.

Trong tù, ông Minh kết bạn với ông Hưng. Ra khỏi tù, ông Minh được ông Hưng rủ buôn lậu gỗ.

Vào thập niên 2000, ông Minh lập Công ty Đại An, ông Hưng lập Công ty Thành Hưng. Cả hai nhanh chóng được thừa nhận là những “đại gia” vì tài sản được tính bằng triệu Mỹ kim, sở hữu những chiếc xe trị giá vài trăm ngàn Mỹ kim.

Từ thập niên 2000 đến nay, cá nhân ông Minh và Công ty Đại An của ông Minh, cũng như cá nhân ông Hưng và Công ty Thành Hưng của ông Hưng được tặng vô số danh hiệu, giải thưởng của cả chính quyền tỉnh Bắc Ninh lẫn chính quyền CSVN.

Vào dịp “Đại lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội”, Công ty Đại An của ông Minh được chọn làm “doanh nghiệp tiêu biểu”. Còn ông Hưng được báo chí Việt Nam bơm thổi thành “Hoa giang hồ” – xem đó như một “điển hình” mọi người cần “học tập” không chỉ vì biết phục thiện mà còn vì rất thành công trên thương trường. Năm ngoái, Ban Tuyên giáo Trung ương Đảng CSVN vinh danh ông Hưng là “Nhân tố mới thời đại Hồ Chí Minh”!

Khi vây bắt ông Minh và ông Hưng cùng bảy thuộc hạ hồi trung tuần tháng này, Bộ Công Việt Nam cho biết, họ đã thu giữ được sáu khẩu súng, một trái lựu đạn và rất nhiều đạn đủ loại.

Ông Minh và ông Hưng đã sử dụng hai Công ty Đại An và Công ty Thành Hưng để hợp pháp hóa hoạt động khai thác, buôn lậu gỗ khắp Đông Dương. Cả hai được xem là chủ sở hữu kho gỗ lớn nhất Đông Nam Á. Các doanh nghiệp có hoạt động liên quan tới gỗ mà không muốn gặp rắc rối khi nhập cảng, vận chuyển gỗ và xuất cảng đồ gỗ mỹ nghệ thì phải “nhờ” hai công ty này “bảo trợ”. Ông Minh và Ông Hưng còn bị cáo buộc là đứng đằng sau vô số vụ tống tiền, hành hung và một số vụ giết người nhằm thị uy.

Những bài viết ca ngợi “Nhân tố mới thời đại Hồ Chí Minh” Nguyễn Thành Hưng, kể rằng, sở dĩ ông Hưng “phục thiện” và “thành đạt” vì ông ta luôn “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, xem ông Hồ Chí Minh như “kim chỉ nam để nghĩ và làm mọi việc”. Đó có thể là lý do khiến tất cả những bài viết này bị đục bỏ. (G.Đ)

Gần 80 người Việt săn trộm tê giác bị bắt ở Nam Phi

Gần 80 người Việt săn trộm tê giác bị bắt ở Nam Phi
August 28, 2014

Nguoi-viet.com

VIỆT NAM (NV) Theo phúc trình được công bố tại một hội nghị quốc tế diễn ra ở Sài Gòn hôm 27 tháng 8, 2014, nhà chức trách Nam Phi đã bắt được 77 người Việt Nam săn trộm tê giác.

Phúc trình trên được báo Tiền Phong trích dẫn cho biết, đó là số nghi can Việt Nam bị bắt riêng trong năm 2013, chiếm gần 77% tổng số người bị bắt vì tội săn tê giác để lấy sừng tại Nam Phi. Hội nghị trên do Trung tâm Hành động và Liên kết vì Môi trường và Phát triển thuộc Liên hiệp Các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam tổ chức, phối hợp với Tổ chức Cứu Trợ Ðộng vật Hoang dã – WildAid và Quỹ Bảo vệ Ðộng vật Hoang dã Châu Phi – African Wildlife Foundation.



Một trong những chiếc sừng tê giác vừa bị cưa trộm. (Hình: Tinmoi.vn)

Cũng theo phúc trình trên, Việt Nam và Trung Quốc hiện là hai quốc gia tiêu thụ sừng tê giác nhiều nhất thế giới. Phúc trình cũng nói rằng, giá bán sừng tê giác trên thị trường chợ đen của thế giới hiện nay lên tới trên 65,000 đô la một kg. Vì nhu cầu tăng vọt, sừng tê giác mỗi ngày càng trở nên hiếm hoi.

Ðiều đó thôi thúc số người đổ xô đến các quốc gia Châu Phi săn tê giác để lấy sừng ngày thêm đông. Khá nhiều người Việt Nam cũng tìm cách len lỏi đến Châu Phi để gia nhập lực lượng này.

Một bài báo của Người Ðưa Tin mới đây còn tiết lộ rằng, giá sừng tê giác ở Việt Nam lên tới 100,000 đô la một kg, cao hơn cả vàng khối. Thời gian qua, rất nhiều đại gia Việt Nam sẵn sàng chi bạc tỉ để mua sừng tê giác, nghiền thành bột, trộn với nước lã hoặc rượu để uống. Họ tin rằng sừng tê giác là phương thuốc hiệu nghiệm để chữa bệnh bất lực, tăng cường khả năng tình dục của quý ông.

Thế nhưng theo tài liệu được công bố tại hội nghị trên, cho đến nay vẫn không có một chứng cứ nào cho thấy sừng tê giác là phương thuốc thần chữa bá bệnh như người ta đồn đãi. Ông Nguyễn Chấn Hùng, giáo sư-bác sĩ, chủ tịch Hội Ung Thư Việt Nam cũng khẳng định rằng, sừng tê giác không chữa được bệnh ung thư. (PL)

Luật sư Công Nhân ‘xé biên bản quản chế’

Luật sư Công Nhân ‘xé biên bản quản chế’

Thứ năm, 28 tháng 8, 2014

Bà Lê Thị Công Nhân bị kết án tù hồi năm 2007, với lệnh quản chế ba năm sau khi ra tù

“Thời hạn quản chế của tôi đã kết thúc từ hơn một năm nay, nhưng cuộc sống vẫn không hề thay đổi mà còn bị bóp nghẹt hơn,” bà Lê Thị Công Nhân nói với BBC Tiếng Việt.

Bà Công Nhân hồi 2007 bị kết án tù ba năm, kèm theo lệnh quản chế tại gia ba năm sau khi mãn hạn tù, với tội danh Tuyên truyền chống nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Bà nói: “Họ [công an] thường xuyên canh gác bên ngoài nhà và bắt giữ tôi khi tôi ra đường, trừ khi đi chợ hay mua sắm đồ cá nhân ở quanh khu nhà.”

Theo luật định, người bị quản chế chỉ được phép đi lại trong phạm vi phường, xã nơi người đó cư trú. Nếu muốn ra khỏi đơn vị hành chính này, người bị quản chế phải làm đơn xin phép và phải được sự đồng ý của chính quyền cấp quận, huyện phụ trách phường, xã đó.

Bà Lê Thị Công Nhân nói rằng bà “hoàn toàn không chấp nhận bản án tù”, gồm cả mức phạt chính là án tù, lẫn hình phạt quản chế mà giới chức đưa ra, cho nên bà không bao giờ “xin phép” khi đi lại trong thành phố Hà Nội, tức là “vượt gấp ba lần cấp quản lý hành chính như luật định, gồm cấp phường, quận rồi thành phố”.

‘Ba lần phạt tiền’

Luật sư Lê Công Định

Sáng nay, tôi đến Ủy ban nhân dân Phường nơi cư trú, cán bộ tư pháp lập hai biên bản, một về hành vi vi phạm lệnh quản chế của tôi và một về quyết định xử phạt của chính quyền.

Tôi ký tên cả hai biên bản và nêu rõ ý kiến rằng tôi chấp nhận nhưng không chấp hành. Vị cán bộ tư pháp thông báo vài ngày nữa sẽ đưa quyết định xử phạt cho tôi, nghe nói số tiền phạt là 3 triệu đồng. Khá cao, nhưng không s

ao …

Quan điểm của tôi vẫn trước sau như một, đối với những quy định luật pháp bất công và bất hợp lý, tôi sẽ vi phạm cho đến khi chúng được nhà cầm quyền sửa đổi.

Trước đây, trong vụ án của mình tôi đã tuyên bố rõ rằng tôi vi phạm các Điều 79 và 88 của Bộ luật hình sự, bởi vì chúng bất công. Bây giờ, đối với quy định quản chế bất hợp lý này, tôi cũng sẽ tiếp tục vi phạm cho đến khi nhà cầm quyền phải loại bỏ nó.

Tôi chấp nhận bị phạt, nhưng sẽ không chấp hành quyết định xử phạt. Đây chính là hành động bất tuân dân sự mà tôi luôn cỗ vũ và áp dụng.

Nguồn: Trang Facebook của Luật sư Lê Công Định (ngày 26/08/2014)

https://www.facebook.com/LSLeCongDinh

Việc đi lại không xin phép đó đã khiến bà “bị bắt giữ tổng cộng chín lần trong số cả trăm lần” ra khỏi nhà trong thời gian một năm đầu kể từ khi ra tù, bà cho biết, trong đó có ba lần bà bị trao “lệnh phạt” với tội danh “vi phạm lệnh quản chế”, bà Công Nhân cho biết.

Hai lệnh phạt, mỗi lệnh ghi mức 1,5 triệu đồng, đã bị bà xé ngay trước mặt người đưa biên bản, còn một tờ được bà đem về nhà giữ làm kỷ niệm, bà Công Nhân cho biết thêm.

“Khi tôi ra đường, công an chìm đi theo khá nhiều để theo dõi, đi rất gần sát. Nhưng không phải lúc nào tôi cũng bị bắt giữ.”

Theo bà Công Nhân, những lần bị bắt giữ thường là những lần bà có cuộc hẹn gặp nhân viên các tòa đại sứ hoặc hẹn gặp trả lời phỏng vấn với phóng viên nước ngoài.

Tuy nhiên, những lần bị phạt tiền dường như do quyết định ngẫu hứng của giới chức bởi theo bà, đó là những lúc “không có gì khác biệt so với những lần khác” bà bị bắt giữ, và không phải là ba lần liên tiếp.

Địa điểm bắt giữ cũng khác nhau, có lần là ngay khi bà chưa ra khỏi địa bàn phường, có lần là khi bà đã tới địa bàn quận khác của thành phố. Tuy nhiên, có một điểm chung là bà luôn được đưa vào trụ sở công an phường nơi xảy ra việc bắt giữ.

“Cách cư xử của lực lượng an ninh có thể nói như là ‘công an bố’ so với các công an phường. Khi họ cùng lúc đưa tôi vào công an phường, tôi thấy họ chỉ nói đúng một câu là “Chúng tôi bên an ninh,” hoặc “Chúng tôi bên Tổng cục 2”, sau đó việc trưng dụng phòng làm việc của công an sở tại được coi là mặc định thực hiện. Họ không cần phải chứng minh hay xuất trình giấy tờ gì.”

Về ba lần bị áp lệnh phạt tiền, bà Công Nhân nói bà sau khi bị đưa vào trụ sở công an phường nơi diễn ra vụ bắt giữ, bà đến cuối ngày đều được đưa về công an phường nơi bà cư trú và “người đưa biên bản xử phạt cuối cùng lại là công an phường nhà tôi, là những người công an mà tôi đã rất quen mặt, sau khi lực lượng an ninh đã đi về”.

Quản chế vô thời hạn?

Ra tù vào ngày 6/3/2010, lệnh quản chế đối với bà Lê Thị Công Nhân chính thức kết thúc vào ngày 5/3/2013.

Tuy nhiên, bà nói: “Khoảng tháng Năm, tháng Sáu vừa rồi, ông tổ trưởng dân phố đưa tôi giấy mời ra phường nhận quyết định đã chấp hành xong án quản chế. Tôi nghĩ rằng nếu có một quyết định như vậy thì lẽ ra nó phải được trao cho tôi từ tháng 3/2013. Nếu họ trao hơn một năm sau như vậy thì họ phải ra quyết định gia hạn án quản chế, tuy nhiên, quyết định gia hạn đó phải đồng đẳng với bản án hình sự của tôi, tức là phải gia hạn bằng một bản án tương ứng.”

Về phần mình, bà nói bà “không đoái hoài tới việc ra phường nhận quyết định đó”, và trên thực tế thì kể cả sau khi nhận được thông báo trên, cuộc sống của bà vẫn bị theo dõi chặt chẽ.

Một trong những gương mặt bất đồng chính kiến bị quản chế dài hạn là Hòa thượng Thích Quảng Độ

“Kể cả khi không bị án tù, không bị án quản chế thì những người như tôi vẫn bị giam giữ ở nhà, biến nhà thành nhà tù, thậm chí có những người bị khóa cả cửa nhà lại, bị nhốt trong nhà.”

“Việc này theo tôi là sẽ còn diễn ra cho tới khi những người tranh đấu như chúng tôi chịu từ bỏ lý tưởng mình theo đuổi, hoặc cho tới khi chúng tôi tranh đấu đạt được mục tiêu.”

Gần đây nhất, bà cho biết việc bà cùng một số bạn bè dự định tới tham dự buổi kỷ niệm 100 ngày mất của thân mẫu bà Phạm Thanh Nghiên, một nhà hoạt động khác, cũng đã bị cản trở, với việc công an tới canh giữ không cho bà ra khỏi nhà.

“Tôi ở chung cư, trên tầng ba. Họ tới canh giữ ngay cửa nhà.”

“Hoặc mỗi khi có sự kiện gì có thể khiến cộng đồng quan tâm, như khi chúng tôi kêu gọi biểu tình ở Bộ Y tế về việc chống bệnh sởi chẳng hạn, công an mật vụ đều biết hết.”

“Họ lên tận chiếu nghỉ tầng ba chỗ nhà tôi, mang cả bàn ghế chè chén, ống thuốc lào lên, ngồi đó để gác cửa nhà tôi. Tôi không thể ra khỏi nhà mình chứ đừng nói tới việc xuống được tầng một của tòa nhà.”

Biển Đông không phải để chia

“Biển Đông không phải để chia”

Kính Hòa, phóng viên RFA
2014-08-27

08272014-biendong-kh.mp3

000_Hkg9979390.jpg

Tàu cảnh sát biển Trung Quốc đâm tàu cảnh sát biển VN trên biển Đông hôm 24/6/2014

AFP photo

Sau chuyến làm việc ở Trung Quốc của ông Lê Hồng Anh, đặc phái viên của đảng cộng sản Việt Nam, Trung Quốc và Việt Nam đã đưa tuyên bố về Ba nhận thức chung. Trong tuyên bố này có phần nói về biển Đông, và nói rằng hai bên sẽ tích cực nghiên cứu và thương lượng về vấn đề cùng khai thác. Tiến sĩ Địa chất Nguyễn Thanh Giang, người làm việc nhiều năm ở Tổng cục địa chất Việt Nam, và có nhiều bài viết về tài nguyên biển Đông, cho đài RFA biết quan điểm của ông về chuyện này. Trước hết ông nói:

Chuyện cùng nghiên cứu và khai thác biển Đông là một sự nhượng bộ vô lối của Việt Nam, vì biển Đông là của Việt Nam, Việt Nam phải có cái quyền khai thác như là sở hữu của mình. Còn Trung quốc muốn vào hợp tác thì làm hợp đồng như các nước, đến và ăn chia sản phẩm theo sự thỏa thuận giữa đôi bên. Chứ không thể xem biển Đông là cái chỗ chung của hai bên. Tôi cho rằng cái cách ăn nói ỡm ờ đó là một sự khiếp nhược. Coi như là ta mất một nửa tài sản chăng? Chúng tôi thấy là không thể chấp nhận được. Không thể chung nhau khai thác được.

Kính Hòa: Cũng có những tiền lệ chẳng hạn như Việt Nam và Malaysia cùng khai thác vùng tranh chấp, và việc đó khá thành công. Liệu là cũng có những vùng tranh chấp với Trung Quốc, và cũng nên suy nghĩ giải pháp này?

TS Nguyễn Thanh Giang: Phải khoanh được những vùng tranh chấp. Như có tranh chấp ở một số nơi ở Vịnh Bắc bộ đấy, mà Trung Quốc cũng lấn lướt mình. Chuyện giữa mình và Malaysia là chuyện tay đôi giữa hai bên đều giữ cái phần của mình, còn phần hợp tác là ở ranh giới. Còn thực tế vừa qua thì thấy cái sự lấn lướt của Trung Quốc. Cho nên chúng tôi nghĩ là dân Việt Nam sẽ không chấp nhận chuyện này, không tin vào cái sự sòng phẳng của Trung Quốc.

Kính Hòa: Vậy về lâu về dài làm thế nào để Việt Nam giữ được tài sản của mình ở biển Đông?

“Bài học lịch sử cho thấy rằng Trung Quốc rất không tử tế đối với Việt Nam. Không tử tế trên nhiều phương diện: chính trị, lãnh thổ, kinh tế,…
– TS Nguyễn Thanh Giang”

TS Nguyễn Thanh Giang: Bài học lịch sử cho thấy rằng Trung Quốc rất không tử tế đối với Việt Nam. Không tử tế trên nhiều phương diện: chính trị, lãnh thổ, kinh tế,… Phải hết sức dè dặt, cảnh giác trong cái chuyện làm ăn với Trung Quốc. Gần đây có tin là họ đưa đến một vạn người Trung Quốc vào Vũng Áng để làm việc. Trong khi là lao động Việt Nam không có công ăn việc làm, kể cả lao động có học vấn. Bây giờ có đến 25 nghìn lao động của ta có cử nhân và chưa có việc làm. Mà không chỉ có công ăn việc làm, mà đó có thể là những người gọi là đạo quân thứ năm của Trung Quốc, phòng khi có căng thẳng xảy ra. Cho nên tôi nói là làm ăn với Trung Quốc là hết sức khó khăn và hết sức dè chừng. Các trí thức Việt Nam gần đây đều nhắc đến chuyện thoát Trung. Tôi thì tôi nói là lúc nào cũng phải cảnh giác trước Bắc Triều.

Kính Hòa: Nhưng về lâu về dài chúng ta cũng phải ở cạnh họ…

TS Nguyễn Thanh Giang: Dạ vâng, tôi đã nói rằng là không thể quay lưng lại với Trung Quốc. Không nên đẩy họ thành kẻ thù của chúng ta mà luôn luôn giữ tình hữu nghị. Nhưng phải luôn luôn cảnh giác, vì cái bài học lịch sử nó cho thấy như thế. Đó là một sự cay đắng, đối với hàng xóm láng giềng thì lúc nào chúng ta cũng muốn hữu hảo, nhưng bài học lịch sử lẫn cái thời gian gần đây đều cho thấy là chơi với họ thì nguy hiểm lắm.

Cho nên hữu nghị thì vẫn phải hữu nghị, không nên đặt vấn đề đối chọi với họ. Cho nên tôi rất mong các nhà lãnh đạo đề cao cảnh giác với Trung Quốc, và đề cao cảnh giác với trong cả nội bộ lãnh đạo, xem có những người nào có tư tưởng thần phục Trung Quốc, dựa vào Trung Quốc để giữ lợi riêng, giữ lấy ghế của mình, thì phải loại họ khỏi thành phần lãnh đạo, ra khỏi dân tộc.

Sài Gòn còn phải chịu ngập đến bao giờ?

Sài Gòn còn phải chịu ngập đến bao giờ?

Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok
2014-08-26

08262014-inonda-in-saigo-persis.mp3

Nước ngập lút yên xe khiến phụ huynh vất vả đón con.

Nước ngập gần đến yên xe khiến phụ huynh vất vả đón con.

Photo: Minh Quan/tinmoitruong

Thành phố Hồ Chí Minh lại bị ngập nặng sau mưa lớn hồi trung tuần tháng 8 vừa qua. Tình trạng người dân thành phố phải bì bõm trong nước khi mưa lớn hay triều cường suốt nhiều năm qua vẫn chưa thể được giải quyết dù rằng Nhà Nước chi rất nhiều tiền ngân sách cho các dự án chống ngập.

Vì sao tình trạng vẫn không giảm và cần phải làm gì khác nữa?

Đây là đề tài trong chuyên mục Khoa học- Môi trường hôm nay.

Dự án đang triển khai

Một người từng làm việc trong ban chống ngập thành phố Hồ Chí Minh, nay là giám đốc Trung tâm Biến đổi Khí hậu thuộc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, ông Hồ Long Phi, cho biết một số thông tin về các dự án chống ngập được triển khai trong thời gian chục năm qua tại thành phố này như sau:

Hiện nay trong số những dự án triển khai có một dự án đã hoàn thành rồi là dự án cho khu vực nội thành, Thị Nghè. Dự án thứ hai là dự án Bến Nghé cũng coi như là xong, giải quyết được cho hai khu vực đó. Dự án thứ ba còn vướng lại khá trầm trọng là do giải tỏa đền bù. Đó là dự án Tân Hóa- Lò Gốm, hiện nơi đó đang ngập rất dữ. Lần nào xảy ra mà báo chí đưa tin là ở dự án bị kêu đó. Tất cả những điểm ngập đều nằm ở dự án đó. Hy vọng vào mùa mưa năm tới sẽ hết ngập tại đó. Nhưng những dự án ngoại thành còn lại thì gần như chưa triển khai được bao nhiêu vì ngoại thành bây giờ cũng phát triển đô thị mới dữ lắm, nhưng kinh phí thì chưa thấy. Thành ra trong những năm tới sợ tình hình như người ta nói ‘từ bên trong dời ra bên ngoài’. Thực ra không phải dời nhưng do đô thị hóa mà hệ thống cấp thoát nước không đồng bộ đi theo.

Nhưng những dự án ngoại thành còn lại thì gần như chưa triển khai được bao nhiêu ….nhưng kinh phí thì chưa thấy. Thành ra trong những năm tới sợ tình hình như người ta nói ‘từ bên trong dời ra bên ngoài’. Thực ra không phải dời nhưng do đô thị hóa mà hệ thống cấp thoát nước không đồng bộ đi theo

ông Hồ Long Phi

Lý giải cho tình trạng mưa lớn và triều cường tiếp tục gây ngập tại nhiều khu vực trong thành phố, ông Hồ Long Phi liệt kê một số nguyên nhân như sau:

Thực ra vấn đề ngập tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có nguyên nhân khí hậu và phi khí hậu. Như tôi vừa nói, nguyên nhân phi khí hậu là do chúng ta chủ yếu phát triển đô thị nhanh quá về hạ tầng đô thị nói chung; tức là tăng mặt phủ không thấm nước chiếm những không gian của nước trước đây mà lại không có hệ thống thoát nước đi theo. Đó là nguyên nhân chủ yếu hiện nay.

Nhưng nguyên nhân có tính chất khí hậu cũng rất quan trọng. Những dự án trước đây mình làm cũng tiêu tốn khá nhiều, khoảng 1 tỷ đô la rồi, nhưng những thông số thiết kế lại dựa vào dữ liệu cũ, thành ra không đáp ứng kịp với tình trạng biến đổi khí hậu. Những mong muốn, kỳ vọng của mình sau khi hệ thống đó hoạt động xong cho đến nay có thể thấy không đạt. Ví dụ lượng mưa trong thiết kế trước đây là 85mm trong 3 giờ, nhưng vừa rồi chúng ta chứng kiến trận mưa 80mm trong vòng chưa tới 40 phút. Những hiện tượng cực đoan như thế làm cho hệ thống thoát nước không thể nào ứng phó nổi.

Theo tôi nghĩ cần phải có những giải pháp mềm phụ trợ, chứ để như hiện nay thì bài toán ngập không thể nào giải quyết được.

Phê phán cách làm

Trong khi đó một kiến trúc sư giảng dạy lâu năm tại Đại học Bách Khoa thành phố Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Tài My thì cho rằng cách làm của đơn vị chức năng chống ngập cơ bản là không đúng. Ông trình bày:

Em tan trường về....

Em tan trường về….(Songmoi.vn)

Nói về hệ thống chống ngập mà cứ quan niệm giải quyết theo kiểu gọi là bao nhiêu chỗ. Ví dụ lâu rồi trên báo SGP nói rằng năm nay giải quyết được 14 hay 17 chỗ ngập. Nhưng trong đó có khoảng 4 hoặc 5 chỗ ngập lại. Họ giải quyết sai trên căn bản là mấy chỗ ngập chứ không phải trên hệ thống toàn thể thành phố

ông Nguyễn Tài My

Xem như không biết cách giải quyết thành giải quyết không đúng. Nói về hệ thống chống ngập mà cứ quan niệm giải quyết theo kiểu gọi là bao nhiêu chỗ. Ví dụ lâu rồi trên báo Sài Gòn Giải Phóng nói rằng năm nay giải quyết được 14 hay 17 chỗ ngập. Nhưng trong đó có khoảng 4 hoặc 5 chỗ ngập lại. Họ giải quyết sai trên căn bản là mấy chỗ ngập chứ không phải trên hệ thống toàn thể thành phố.

Thứ hai toàn thể thành phố chưa có hệ thống mang trên là ‘cao độ đất’, chưa có nền của đất. Tây có để lại một ít ở chỗ đường Minh Mạng… chứ không làm được hệ thống qui mô của thành phố thành ra không thể giải quyết chuyện thoát nước của thành phố. Bên cạnh đó còn có triều cường nữa nên có nhiều rắc rối.

Thừa nhận hạn chế

Sài Gòn hình thành cách đây hơn 300 năm và sau đó thành phố được người Pháp xây dựng, hệ thống cống rãnh từ thời đó đến nay bị xuống cấp trầm trọng và không thể đáp ứng như cầu của một thành phố khi mới có nửa triệu người và tăng nhanh đến cả chục triệu như hiện nay.

Còn theo ông Hồ Long Phi, trong quá trình phát triển đô thị gần đây, sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị liên quan trong khu vực và thành phố không có. Ông trình bày:

Đó là một điểm yếu của chúng ta hiện nay. Ví dụ khi nói về ngập còn một nguyên nhân nữa là lũ ở thượng nguồn. mà lũ thượng nguồn do hệ thống các hồ chứa xả ra. Để điều phối chuyện xả lũ trên lưu vực đòi hỏi sự phối hợp của nhiều ngành và giữa thượng lưu và hạ lưu. Tuy rằng có một ban chỉ đạo như vậy thật, nhưng theo tôi hoạt động còn hạn chế lắm. Cuối cùng, quanh đi quanh lại vẫn là mạnh ai nấy làm. Đó là một nhược điểm cần phải khắc phục. Nếu có những giải pháp dựa trên sự điều phối hợp lý về nguồn lực cũng như sự phối hợp ăn ý về năng lực, thì sẽ có những giải pháp rẻ hơn, sáng tạo hơn và đơn giản hơn nhiều. Nhưng trong cuộc sống không phải giải pháp hiệu quả nhất lại là khả thi nhất. Thành ra đó là một câu hỏi mở, chưa nói đến vấn đề thứ hai là sự phối hợp giữa Nhà nước và cộng đồng, cần phối hợp cao hơn nữa vì hiện nay có tư tưởng đó là chuyện của Nhà nước, không phải chuyện của mình. Thành ra không phải đơn giản để thay đổi tư tưởng đó.

Giải pháp phù hợp

Theo ông Hồ Long Phi thì cần phải thay đổi quan điểm có thể chống ngập vì thành phố Hồ Chí Minh nằm trên một vùng đất thấp và trong khu vực chịu tác động bởi triều cường. Điều này cũng được trình bày với những người lãnh đạo thành phố và họ cũng đã có những cách nhìn theo hướng đó thông qua những quyết định phù hợp. Ông Hồ Long Phi cho biết:

Giải pháp mà chúng tôi đang nghiên cứu hiện nay là hoàn trả không gian lại cho nước. Nói nôm na, chỗ đó trước đây của nước, mình chiếm chỗ của nó thì nay phải trả lại. Nếu có cách hoàn trả hợp lý thì nước có chỗ của nước, mình có chổ của mình, hai bên không xâm phạm nhau

Ông Hồ Long Phi

Giải pháp mềm nhắm vào giảm nhẹ thiệt hại do ngập hoặc giảm nguyên nhân gâp nhập chứ không phải chống ngập. Khác biệt ở chổ đó. Đa số hiện nay chúng ta ngăn cản không cho xảy ra ngập, điều đó đúng rồi nhưng nguyên nhân gây ra ngập phải điều chỉnh lại. Đồng thời nếu xảy ra ngập thì thiệt hại không đáng kể. Đó là giải pháp mềm phụ trợ. Ví dụ cống thoát nước quá tải do mưa lớn hơn theo trù tính trước đây, hay mức độ nước dâng cao hơn so mức độ dự trù thiết kế trước đây. Giải pháp khắc phục không phải làm cho đê cao hơn hay gắn máy bơm… vì chúng ta không thể nào chạy đua mãi như vậy được.

Giải pháp mà chúng tôi đang nghiên cứu hiện nay là hoàn trả không gian lại cho nước. Nói nôm na, chỗ đó trước đây của nước, mình chiếm chỗ của nó thì nay phải trả lại. Nếu có cách hoàn trả hợp lý thì nước có chỗ của nước, mình có chổ của mình, hai bên không xâm phạm nhau. Kế hoạch đó đang được chuẩn bị để trình cho thành phố để xem xét phê duyệt. Lồng ghép với kế hoạch đó là kế hoạch từ cộng đồng đi lên. Vì không gian dành cho nước thỉ có nhiều dạng khác nhau. Đừng cứ hình dung đó là một cái hồ lớn thì không có đất mà làm. Nhưng nếu có những tháp từ qui mô hộ gia đình, đến qui công cộng cho đến từng dự án phát triển dân cư, dự án công nghiệp thì hoàn toàn khả thi. Chúng ta có một lộ trình để lồng ghép vào, và chúng ta có cách hoàn trả một cách hợp lý không gian dành cho nước.

Vấn đề thứ hai việc ngập do triều thì vì đơn giản chúng ta ở chỗ thấp mà nước thì ở chỗ thấp mà chúng ta giành chổ của nước nên phải ở sao cho an toàn như khuyến cáo không nên phát triển qui hoạch tại vùng thấp. Mà cụ thể tại thành phố Hồ Chí Minh là phát triển về phía nam. Đó là những giài pháp ngăn chặn nguy cơ ngập ngay từ đầu. Nếu chúng ta không ở đó thì ngập không gây ra thiệt hại, và không có thiệt hại thì chẳng việc gì phải tránh. Phương châm quan trọng nhất là không phải chống ngập mà là giảm nhẹ thiệt hại do ngập.

Kinh nghiệm thế giới cho thấy không bao giờ chống ngập được, kể cả những nước rất giàu như Mỹ, Châu Âu vẫn có thể xảy ra ngập khi bão xảy ra vượt quá thiết kế khiến ngập thôi. Vì vậy chúng ta phải có cách ứng xử thông minh hơn.

Những ý tưởng này không mới, chúng tôi đã có báo cáo với thành phố, cơ quan chức năng cách đây một hai năm rồi, và cũng lồng ghép vào một vài qui hoạch được phê duyệt rồi. Tôi cho rằng có chuyển biến. Ví dụ trước đây, Thành phố có chủ trương tiến về phía biển, nhưng sau khi nghiên cứu các chuyên gia kết luận không nên tiến về phía biển. Gần đây chính phủ đã phê duyệt chủ trương đó. Như thế là có chuyển biến rất lớn về nhận thức, tạo điều kiện cho những hành động đi theo. Và  thành phố chấp thuận qui hoạch không gian dành cho nước, dù rằng qui hoạch như thế chưa có tiền lệ tại Việt Nam, đó là kinh nghiệm của thế giới.

Từ chuyển biến về nhận thức sang hành động còn một bước nữa, đó là bước nâng cao nhận thức cộng đồng. Nếu sử dụng biện pháp cứng đơn giản chỉ cần nguồn lực Nhà nước: tiền và công nghệ; nhưng nếu sử dụng giải pháp mềm cần có sự đồng thuận của cộng đồng vì động chạm đến nếp nghĩ trước đây, đụng chạm đến sinh hoạt, sinh kế… Nhưng tôi cho rằng đang sơ khởi đi theo hướng đó của thế giới là thích ứng chứ không chống chọi.

Kiến trúc sư Nguyễn Tài My thì cho rằng cần phải cơ cấu lại đô thị, xây dựng lại hệ thống ống cống theo mô hình thống nhất chứ không để tình trạng cày xới như hiện nay.

Còn ông Hồ Long Phi thì nêu ra biện pháp phải có sự phối hợp giữa nhà nước và người dân trong việc triển khai các giải pháp mềm phụ trợ cho những giải pháp cứng mà Nhà Nước triển khai.

Theo ông Hồ Long Phi thì phần giải pháp cứng chiến từ 70 đến 80% , còn giải pháp mềm phụ trợ là phần còn lại. Thời gian để các giải pháp cứng có thể hoàn thành nhiệm vụ là khoảng từ 10 đến 20 năm; tuy nhiên để các giải pháp mềm phát huy được tác dụng của nó phải mất cả một thế hệ người dân.

Mục Khoa học- Môi trường kỳ này tạm dừng tại đây. Hẹn gặp lại các bạn trong chương trình kỳ tới cũng vào giờ này trên làn sóng phát thanh của Đài Á Châu Tự Do.