Hoa hậu Việt bị 3 năm tù tội trồng cần sa

Hoa hậu Việt bị 3 năm tù tội trồng cần sa
June 21, 2014

Nguoi-viet.com

BOTHELL, Washington (NV) – Một hoa hậu người Việt ở tiểu bang Washington vừa bị tuyên án ba năm tù vì tội trồng và phân phối cần sa, theo báo mạng seattlepi.com, dựa trên hồ sơ Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ.

Đó là cô Trish Trâm Bùi, còn có tên Bùi Nguyễn Thị Trâm, 28 tuổi, cư dân thành phố Bothell, Washington, Hoa Hậu Phu Nhân Việt Nam Toàn Cầu 2012 (Mrs. Vietnam Global 2012).

Trish Trâm Bùi, Hoa Hậu Phu Nhân Việt Nam Toàn Cầu 2012. (Hình: Dân Huỳnh/Người Việt)

Cô bị tố cáo cùng chồng, tên Keith K. Lý, một bác sĩ về nắn xương, trồng cần sa tại ba căn nhà ở khu vực ngoại ô phía Bắc Seattle.

Cả hai bị truy tố hồi Tháng Bảy, 2012, và cô vừa bị toà liên bang tuyên án hôm Thứ Sáu. Riêng người chồng sẽ bị xử sau.

Trish Trâm Bùi đăng quang hoa hậu phu nhân do MFC Media (Media Film Company) tổ chức tại Pala Casino Spa & Resort ở San Diego, California, ngày Chủ Nhật, 25 Tháng Mười Một, 2012.

Tuy nhiên, vì đang mang thai, cựu hoa hậu người Việt được Chánh Án John Coughenour cho phép trình diện nhà tù liên bang vào Tháng Hai năm tới, một tháng sau khi sanh con.

Theo hồ sơ, công tố viên Sarah Vogel viết rằng vụ trồng cần sa này sử dụng điện một cách gián tiếp, để tránh bị công ty điện lực để ý.

Luật Sư David Gehrke, đại diện cho cô Trâm, mô tả đây chỉ là một trường hợp “trồng cần sa kiểu bắt chước.”

Hồi Tháng Hai, 2012, trong lúc lái chiếc Mercedes 2005, cô Trâm bị cảnh sát chặn lại và phát hiện một pound cần sa giấu sau ghế tài xế, cùng với $8,900 tiền mặt. Hai vợ chồng cô và đồng phạm Langhak Eung nói với cảnh sát là họ mang cần sa cho người bị bệnh sử dụng.

Sau đó, cơ quan bài trừ ma tuý King County bắt đầu theo dõi hai vợ chồng nghi can, và phát hiện hệ thống trồng cần sa trong nhà.

Tháng Năm, 2012, cảnh sát bắt được 700 cây cần sa trồng trong một căn nhà ở Renton, sau một vụ cháy vì bị chập dây điện.

Cảnh sát cũng bắt được tổng cộng 1,189 cây và 29 pound cần sa trong một căn nhà ở Shoreline, do cô Trâm làm chủ, và tại một căn nhà khác ở Marysville, theo công tố viên Sarah Vogel.

Cần sa trồng trong nhà do cô Trish Trâm Bùi làm chủ. (Hình: Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ)

Cũng theo hồ sơ toà, cô Trâm đến Hoa Kỳ bằng diện hôn nhân, nhưng ly dị người chồng trước khi có quốc tịch.

Sau đó, cô làm việc tại các sòng bài, làm người mẫu, thi hoa hậu, và bán một số lượng lớn cần sa.

Căn nhà ở Renton, Washington, một trong ba nơi trồng cần sa. (Hình: Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ)

Nghi can hiện trong tình trạng có thể bị trục xuất, vì thế, rất khó được hưởng chương trình quản chế tại gia đối với tù nhân có con nhỏ, chỉ dành cho công dân Mỹ, và có thể phải nuôi con ở trong tù. (Đ.D.)

Đánh vợ sảy thai, vẫn làm bác sĩ

Đánh vợ sảy thai, vẫn làm bác sĩ
June 22, 2014

Nguoi-viet.com

CẦN THƠ 22-6 (NV) – Dù bị khởi tố tám tháng nay về tội đánh vợ sảy thai và chờ lãnh án, một bác sĩ vẫn được làm việc bình thường tại bệnh viện đa khoa trung ương Cần Thơ.

Bệnh viên đa khoa cần Thơ, nơi xảy ra rất nhiều sai phạm nhờ quan chức y tế dung dưỡng bao che lẫn nhau. (Hình: Dân Trí)

Tờ Tuổi Trẻ hôm Chủ Nhật kể chuyện lạ mà không mấy lạ ở bệnh viện đa khoa trung ương Cần Thơ về trường hợp của ông bác sĩ tên Phạm Kha Ly, 32 tuổi, đang làm cho bệnh viện này tại khoa tiêu hóa và huyết học.

Theo nguồn tin, đúng ra, phiên tòa hình sự xử Bác Sĩ Ly diễn ra ngày 19/6/2014 phải tiến hành bình thường vì có đủ cả hai bên bị cáo cũng như người tố cáo. Nhưng thẩm phán chủ tọa phiên tòa đã bất ngờ thông báo dời lại, chưa cho biết bao giờ sẽ xử lại.

Bác Sĩ Phạm Kha Ly bị cáo buộc đã đánh vợ đến sảy thai. Theo lời khai của bà Trần Cẩm Loan, vợ ông Ly, hai người cưới nhau Tháng 12-2012.

“Do nghi ngờ bà Loan có quan hệ với người khác, ba tháng sau ngày cưới, khi được bà Loan thông báo có thai, ông Kha Ly đã mua sẵn dây xích và ổ khóa.” Tờ Tuổi Trẻ kể. “Ngày 22-3-2013, ông Kha Ly khóa cửa rào, cửa nhà, cởi hết quần áo bà và dùng dây xích khóa tay, chửi mắng, đánh đập bà rất tàn nhẫn. Một tuần sau đó bà Loan bị sảy thai.”

Đầu tháng 10-2013, cơ quan cảnh sát điều tra công an quận Ninh Kiều đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can và ngày 20-11-2013 có kết luận điều tra. Bản kết luận điều tra viết rằng “hành vi dùng lời lẽ thô tục chửi mắng, dùng dao cắt tóc, dùng tay chân đánh bà Loan (vợ) gây tổn hại sức khỏe 2% và làm bà Loan sảy thai, do bị can Phạm Kha Ly thực hiện, xâm phạm trực tiếp đến nghĩa vụ phải đối xử bình đẳng giữa vợ chồng được quy định trong Luật Hôn Nhân và Gia Đình.”

Vì vậy, vụ việc được chuyển sang Viện KSND cùng cấp đề nghị truy tố bị can theo điều 151 Bộ luật hình sự. Nhưng từ đó đến nay, Bác Sĩ Phạm Kha Ly vẫn làm việc bình thường tại bệnh viện. Bà Lâm Thị Nhàn, trưởng phòng tổ chức bệnh viện, cho biết bệnh viện không nhận được bất cứ yêu cầu hay văn bản nào từ công an hay tòa án về việc Bác Sĩ Kha Ly bị khởi tố, truy tố nên “không có lý do gì để đình chỉ công tác chuyên môn đối với anh ấy”.

Giữa năm ngoái, chính ông Đặng Quang Tâm, giám đốc bệnh viện đa khoa trung ương Cần Thơ, đã phạm nhiều tội đúng ra phải cách chức và truy tố hình sự nhưng Bộ Y Tế vẫn dung dưỡng và chỉ bắt ông này viết giấy “kiểm điểm rút kinh nghiệm” liên quan đến các quyết định trái luật và số tiền khá lớn.

Một trong những sai phạm của ông Đặng Quang Tâm là vi phạm luật đấu thầu, “tự ý mua sắm tài sản với số tiền hơn 70 tỉ đồng mà không xin ý kiến của lãnh đạo Bộ Y Tế”. Bên cạnh đó, ông còn “xét cho trúng thầu mặt hàng thuốc Harxone chưa được cấp phép mà theo kết luận của Bộ Y Tế là sai pháp luật”.

Theo tờ Dân Trí ngày 17/5/2013, dù vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong công tác quản lý bệnh viện, gây nhiều tổn hại tiền bạc hơn trăm tỉ đồng cho ngân sách nhà nước “nhưng giám đốc Phạm Quang Tâm vẫn được Bộ Y Tế dung dưỡng”. (TN)

Công hàm Phạm Văn Đồng ‘còn tranh cãi’

Công hàm Phạm Văn Đồng ‘còn tranh cãi’

Thứ hai, 23 tháng 6, 2014

Bộ Ngoại giao Việt Nam bác bỏ giá trị pháp lý về chủ quyền của Công hàm Phạm Văn Đồng

Từ tháng Năm, một văn bản ngoại giao cũ lại được Việt Nam và Trung Quốc nhắc đến trong khi quan hệ trở nên căng thẳng vì vụ giàn khoan Hải Dương 981.

Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng nhằm phúc đáp công hàm về chiều rộng lãnh hải của Trung Quốc của Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai.

Văn bản này lại được Trung Quốc nêu ra để khẳng định chủ quyền với Hoàng Sa, trong lúc Việt Nam cũng nhiều lần lên tiếng bác bỏ.

Quan điểm Trung Quốc

Trang web Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm 8/6, khi liệt kê các “bằng chứng” về việc Việt Nam công nhận chủ quyền của Trung Quốc, dẫn lại văn bản này.

Trên China Daily, một nhà nghiên cứu, Wu Yuanfu, nói Việt Nam “Việt Nam chỉ thay đổi lập trường sau khi thống nhất Bắc-Nam năm 1975 và kể từ đó luôn cố diễn giải sai lệch và chối bỏ lập trường chính thức đã được nêu rõ trong công hàm”.

Còn Trần Khánh Hồng, Viện Nghiên cứu Quan hệ Quốc tế Hiện đại Trung Quốc, lại nói văn bản cho thấy “chính phủ Việt Nam công nhận quần đảo Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ của Trung Quốc”.

Trung Quốc còn đưa ra một số luận cứ khác để nói Việt Nam trước những năm giữa thập niên 1970 đã “luôn công khai và chính thức công nhận” Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc. Nhưng như tác giả Ling Dequan viết trên China Daily, hai bằng chứng “quan trọng nhất” cho sự thừa nhận của Việt Nam là công hàm 1958 và Tuyên bố của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 09/05/1965 liên quan tới vùng chiến đấu của quân đội Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam.

Việt Nam phản bác

Sau nhiều năm tránh nhắc về Công thư 1958, Việt Nam đã nhiều lần công khai bác bỏ giá trị của văn bản này kể từ khi xảy ra căng thẳng hồi tháng Năm, và gọi đây là “công thư”.

Hôm 23/5, tại cuộc họp báo ở Hà Nội, Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia, Trần Duy Hải, nói khi văn bản của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho Trung Quốc, Hoàng Sa, Trường Sa đang được quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa.

“Việt Nam tôn trọng vấn đề 12 hải lý nêu trong công thư chứ không đề cập tới Hoàng Sa Trường Sa vì thế đương nhiên không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường Sa.”

“Việt Nam tôn trọng vấn đề 12 hải lý nêu trong công thư chứ không đề cập tới Hoàng Sa Trường Sa vì thế đương nhiên không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường Sa.”

Trần Duy Hải, Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia

“Bạn không thể cho ai thứ mà bạn chưa có quyền sở hữu, quản lý được. Vậy nên điều đó càng khẳng định công văn của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị pháp lý,” theo ông Hải.

Trong một cuộc phỏng vấn, Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ, nói: “Trong công thư đó, Việt Nam chỉ ủng hộ tuyên bố lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc thôi, không hề nhắc tới chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này.”

“Phía Trung Quốc thì luôn luôn dùng các thủ thuật, thủ đoạn để gán ghép các sự kiện lại với nhau nhằm giành lấy một sự công nhận mặc nhiên về chủ quyền ở đây.”

Một nhà nghiên cứu trong nước, thạc sĩ Hoàng Việt, cũng cho rằng văn bản này “mang một sự cam kết về mặt chính trị hơn là về pháp lý”.

“Đây cũng là một hình thức mà các nước xã hội chủ nghĩa thường hay sử dụng để thể hiện tình đoàn kết trong tinh thần anh em trong phong trào vô sản quốc tế.”

‘Một phần có lý’

Việt Nam bác bỏ tính pháp lý của văn bản

Tuy vậy, trong giới nghiên cứu người Việt ở nước ngoài, có một số ý kiến khác.

Một nhà nghiên cứu gốc Việt cho rằng Trung Quốc không hoàn toàn vô lý khi viện dẫn lá thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958, nhưng ông cho rằng đó chỉ là một nửa sự thật.

Ông Dương Danh Huy, sống ở Anh và là một người Việt nghiên cứu về tranh chấp biển đảo, nói với BBC hôm 20/6.

“Khó nói rằng lập luận Trung Quốc đã đưa ra từ thập niên 1980, mà ngày nay họ đang đưa ra với thế giới một cách mạnh mẽ, về công hàm của ông Phạm Văn Đồng và những hành vi bất lợi khác của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là hoàn toàn vô lý.”

“Sẽ chính xác hơn nếu cho rằng lập luận của Trung Quốc cũng có lý về một nửa vấn đề.”

Ông Huy nói tiếp: “Nửa đó là giả sử như năm 1974 Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Trung Quốc ra Tòa về Hoàng Sa, và Tòa phân xử, khả năng là Tòa sẽ công nhận rằng vào năm đó danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với hai quần đảo này yếu hơn của Trung Quốc.”

“Sẽ chính xác hơn nếu cho rằng lập luận của Trung Quốc cũng có lý về một nửa vấn đề.”

Dương Danh Huy

Nhưng, ông Huy cho rằng còn “một nửa khác của sự thật” mà Trung Quốc bỏ qua.

“Đó là giả sử như năm 1974 Việt Nam Cộng Hòa và Trung Quốc ra Tòa về Hoàng Sa, và Tòa phân xử, khả năng là Tòa sẽ công nhận rằng vào năm đó danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa với quần đảo này mạnh hơn của Trung Quốc.”

“Do đó, phản biện của Việt Nam phải vận dụng nửa này của sự thật, tức là phải vận dụng danh nghĩa chủ quyền mà Việt Nam Cộng Hòa đã duy trì, và cần lập luận cho rằng khi Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra đời năm 1976, quốc gia đó đã thừa kế chủ quyền này.”

Ông Huy cho biết ông đã bày tỏ quan điểm này với các nhà nghiên cứu và phóng viên trong nước. Ông cho rằng trong những thập niên qua Việt Nam cũng biết rằng lập luận về Hoàng Sa, Trường Sa cần có ba điều. Thứ nhất, những tuyên bố và hành động chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa phải có giá trị trong luật quốc tế. Thứ nhì, CHXHNCVN phải thừa kế danh nghĩa chủ quyền mà Việt Nam Cộng Hòa đã duy trì. Thứ ba, phải giảm thiểu giá trị trong luật quốc tế của công hàm của ông Phạm Văn Đồng.

Ông Huy cho rằng thông thường thì điều thứ nhất đi đôi với việc trong quá khứ Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia, nhưng cho đến gần đây truyền thông Việt Nam ít nói thẳng ra. Tuy vậy, trong năm nay đã có ít nhất ba bài trên báo Việt Nam nói thẳng trong quá khứ Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia, và một số quan chức và cựu quan chức Việt Nam trả lời phỏng vấn cũng nói rằng trong quá khứ Việt Nam Cộng Hòa là một chủ thể trong luật quốc tế có chủ quyền lãnh thổ.

Theo ông Huy, “Chủ thể trong luật quốc tế có chủ quyền lãnh thổ là quốc gia.”

Tự thiêu ở Mỹ để ‘phản đối giàn khoan’?

Tự thiêu ở Mỹ để ‘phản đối giàn khoan’?

Thứ hai, 23 tháng 6, 2014

Biểu tình phản đối giàn khoan Trung Quốc tại San Francisco, Hoa Kỳ (hình minh họa)

Tin cho hay một người gốc Việt ở bang Florida, Mỹ, hiện đang trong tình trạng nguy kịch sau khi tự thiêu, để lại thông điệp phản đối giàn khoan Trung Quốc.

Báo Bradenton Herald ở quận Manatee, tiểu bang Florida, hôm 21/6 đăng Bấm bài tường thuật vụ một người đàn ông 71 tuổi tự thiêu bất thành vào một hôm trước đó.

Tờ báo này dẫn lời giới chức địa phương nói người đàn ông không nêu danh tính đã tới cổng trung tâm cộng đồng Silver Lake nằm ở góc đường Lockwood Ridge cắt phố 59 Đông vào lúc 11:15 phút sáng thứ Sáu 20/6 và châm lửa tự thiêu.

Một cặp vợ chồng đi ngang qua đó thấy ông này nằm trên cỏ, người bốc cháy và bên cạnh là một can xăng. Họ đã dập lửa cứu người đàn ông, trong khi ông ta được nói đã kêu gào: “Tôi muốn chết, hãy để cho tôi chết”.

Sau đó ông này được cấp cứu bằng trực thăng tới bệnh viện đa khoa Tampa và hiện đang trong tình trạng nguy kịch.

Cảnh sát cho hay ông đã để lại trên bảng chỉ đường vào trung tâm cộng đồng Silver Lake hai tờ giấy “có viết tiếng nước ngoài”.

Hình chụp một tờ đăng trên Bradenton Herald cho thấy đây là tiếng Việt, được viết bằng tay với nội dung: “Hai Yang 981 phải rời khỏi VN hải phận. Anh hùng tử, chí hùng nào tử. Thu Hùng”, đi kèm chữ ký.

Hiện chưa rõ đây có phải lý do chính khiến người đàn ông tự thiêu hay không.

‘Phật tử tự thiêu’

Cách đây một tháng, một nữ Phật tử tại TP HCM cũng đã tự thiêu với một số biểu ngữ viết tay phản đối Trung Quốc.

Bà Lê Thị Tuyết Mai, Phật tử thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất không được phép hoạt động ở trong nước, đã châm lửa tự thiêu ngay trước Dinh Thống nhất ở trung tâm thành phố ngày 23/5.

Ông Lê Trương Hải Hiếu, Phó chủ tịch Ủy ban Nhân dân Quận 1 được báo Thanh Niên dẫn lời nói sau đó rằng “theo điều tra ban đầu, nguyên nhân khiến người phụ nữ này tự thiêu là do bế tắc về cuộc sống và bức xúc việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 trái phép, xâm phạm chủ quyền Việt Nam”.

Xin xem thêm:

Một người Việt ở Mỹ tự thiêu phản đối giàn khoan của TQ ở Biển Đông(VOA)

Cách đây một tháng, Bà Lê Thị Tuyết Mai, 67 tuổi, cư dân quận Bình Thạnh đã tử vong sau khi tự thiêu trước Dinh Thống Nhất để đòi Trung Quốc rút giàn khoan khỏi vùng biển Việt Nam.

Cách đây một tháng, Bà Lê Thị Tuyết Mai, 67 tuổi, cư dân quận Bình Thạnh đã tử vong sau khi tự thiêu trước Dinh Thống Nhất để đòi Trung Quốc rút giàn khoan khỏi vùng biển Việt Nam.

Xin xem thêm:

Florida: Cụ ông gốc Việt tự thiêu phản đối giàn khoan Trung Quốc (Nguoi-viet.com)

Nước nhà không bán: Lời nguyện dấn thân giải cứu tổ quốc

Nước nhà không bán: Lời nguyện dấn thân giải cứu tổ quốc

Chuacuuthe.com


VRNs (22.06.2014) – Sài Gòn – Lúc 09:10, sáng nay ngày 22.06, Bang Tran đã báo tin cho VRNs biết facebooker “Tuyến xích lô” đã bị công an, an ninh, mật vụ và đông nhân viên của các lực lượng khác bắt đi, tại công viên Vương cung thánh đường Đức Bà Sài Gòn, trước đó vài phút.

Khi anh bị các lực lượng tự nhận là chức năng bắt, trên tay anh có cầm một khẩu hiệu được viết tr6en giấy khổ A4: “Chần chừ kiện Trung Quốc là phản bội dân tộc”.

1

Trước đó hai tuần, ông Tuyến đã được cư dân mạng biết đến qua gánh hàng nước tại công viên Tao Đàn. Ông gánh nước tra xanh ra cho mọi người uống, và đính trên gánh hàng 2 khẩu hiệu: “Mất nước là chết”, và “Nước nhà không bán – chỉ mời lấy thảo”.

3

Ngay sau đó, khẩu hiệu “Nước nhà không bán” nhanh chóng được lan từ trên mạng xuống đường phố. Nhiều quán hàng bán bánh kẹo, thuốc lá đã ghi to, rõ khẩu hiệu “Nước nhà không bán”, tại Hải Phòng, Hà Nội, Sài Gòn và một số nơi khác.

2

Blogger Uyên Kha cho biết, hôm thứ bảy, trước khi bị bắt một ngày, anh Tuyến đã đứng trước bàn thờ Chúa và Tổ tiên để cầu nguyện, xác tín trách nhiệm của người Kitô hữu và công dân Việt Nam trước hiểm họa Trung Quốc xâm lăng. Anh cũng tỏ lòng cám ơn tổ tiên đã sinh ra anh, cho anh là người Việt Nam. Anh Tuyến cảm nậhn rõ, những việc mình làm rất đơn sơ, nhỏ bé vì yêu nước có thể bị nhà cầm quyền cộng sản cố tình diễn giải sai để bắt tội. Nhưng anh sẵn sàng đón nhận tình trạng xấu đó, nếu nó xảy ra. Anh xin tổ tiên cầu nguyện cho gia đình anh.

Dưới đây là video do blogger Uyên Kha quay lại được những tâm tình của anh Tuyến xích lô trước bàn thờ tại gia, và những tâm tùnh với mọi người quan tâm đến việc làm của anh.

httpv://www.youtube.com/watch?v=ia8a0tsTXRU#t=281

HD-981 trên Biển Đông : Hà Nội càng hòa dịu, Bắc Kinh càng lấn lướt

HD-981 trên Biển Đông : Hà Nội càng hòa dịu, Bắc Kinh càng lấn lướt

Tàu cảnh sát biển Trung Quốc gần khu vực hạ đặt giàn khoan dầu HD-981 trên vùng Biển Đông, thuộc thềm lục địa Việt Nam ngày 13/06/2014.

Tàu cảnh sát biển Trung Quốc gần khu vực hạ đặt giàn khoan dầu HD-981 trên vùng Biển Đông, thuộc thềm lục địa Việt Nam ngày 13/06/2014.

REUTERS/Nguyen Minh

Trọng Nghĩa

Quan hệ Việt-Trung vẫn tiếp tục căng thẳng. Các cuộc hội đàm vào hôm qua, 18/06/2014 giữa nhân vật lãnh đạo ngành ngoại giao Trung Quốc Dương Khiết Trì và các lãnh đạo cao cấp Việt Nam đã không mang lại kết quả nào. Mặc dù về hình thức, Việt Nam đã tỏ dấu hiệu nhẫn nhịn, nhưng phía Bắc Kinh vẫn tỏ thái độ cứng rắn, thậm chí còn gia tăng các động thái từng bị cộng đồng quốc tế đánh giá là « khiêu khích ».

Hành vi có thể gọi là khiêu khích mới nhất của Trung Quốc là quyết định điều giàn khoan dầu thứ hai xuống Biển Đông, trong lúc vẫn duy trì giàn khoan thứ nhất trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Thậm chí các trang mạng Trung Quốc còn nói đến ít nhất bốn giàn khoan được đưa xuống Biển Đông.

Đây là một hành động mang tính chất khiêu khích vì được tiến hành ngay vào lúc Bắc Kinh đang bị dư luận quốc tế đả kích là đã khuấy động tình hình ổn định trong khu vực từ khi cho hạ đặt giàn khoan HD-981 tại vùng Biển Đông nằm gần Hoàng Sa và ngay trên thềm lục địa của Việt Nam hồi đầu tháng Năm. Từ ngữ « khiêu khích » đã được nhiều nước, từ Hoa Kỳ đến Nhật Bản, sử dụng để chỉ hành động coi thường luật lệ quốc tế đó của Trung Quốc.

Hành động khiêu khích đó được cho là trực tiếp nhắm vào Việt Nam vì được loan báo đúng vào lúc mà lãnh đạo Trung Quốc đến Hà Nội để thảo luận về cuộc khủng hoảng nghiêm trọng phát sinh từ vụ Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, với việc đội tàu nhỏ bé của Việt Nam hàng ngày phải đương cự với đội tàu hộ tống hùng hậu của Trung Quốc, chỉ để thể hiện chủ quyền của Việt Nam trong khu vực.

Song song với chiến pháp « tung giàn khoan giành lãnh thổ » đó, Bắc Kinh vẫn tiếp tục chiến lược « ngoại giao vu khống », đổ lỗi cho Hà Nội là bên gây hấn, trong lúc căng thẳng lại phát sinh từ chính hành động của Trung Quốc.

Điều đáng nói là trong các cuộc hội đàm tại Hà Nội vào hôm qua, lẽ ra phải nhằm mục tiêu hạ nhiệt căng thẳng giữa hai bên, thì nhân vật đứng đầu nền ngoại giao Trung Quốc lại nói với phía Việt Nam là phải chấm dứt các hành động phản đối Trung Quốc. Hãng tin Anh Reuters, trong bài viết về các cuộc tiếp xúc Việt-Trung nói trên đã không ngần ngại cho là « Trung Quốc mắng Việt Nam về việc ‘thổi phồng’ vụ giàn khoan ».

Thái độ kẻ cả của Trung Quốc đã được truyền thông chính thức của nước này nêu bật. Đài phát thanh quốc tế Trung Quốc, trong bản tin tiếng Việt, khi trích tin Tân Hoa Xã về cuộc gặp Việt -Trung, đã dùng từ ngữ « chỉ rõ » khi nêu lên tuyên bố của ông Dương Khiết Trì với Ngoại trưởng Phạm Bình Minh, trong lúc dùng từ cho biết để trích phát biểu của phía Việt Nam :

« Ủy viên Quốc vụ Dương Khiết Trì chỉ rõ, đối với vấn đề trên biển hiện nay, hai bên cần phải xuất phát từ đại cục gìn giữ quan hệ giữa hai Đảng và hai nước, tránh mở rộng, làm phức tạp và quốc tế hoá vấn đề liên quan. Điều bức xúc nhất hiện nay là Việt Nam cần phải đình chỉ quấy nhiễu đối với sự tác nghiệp của Trung Quốc, đình chỉ thổi phồng bất đồng, gây ra tranh chấp mới, xử lý và khắc phục tốt hậu quả vụ bạo lực đánh đập, cướp bóc và thiêu đốt xảy ra tại Việt Nam cách đây không lâu, đồng thời bảo đảm an toàn cho các cơ quan, doanh nghiệp và nhân viên Trung Quốc tại Việt Nam. Mong Việt Nam xuất phát từ đại cục, cùng với Trung Quốc hành động theo một hướng, thúc đẩy quan hệ Trung-Việt khắc phục khó khăn, tiếp tục phát triển lên phía trước theo quỹ đạo đúng đắn ».

Trước các động thái cứng rắn kể trên, phía Việt Nam, từ Ngoại trưởng kiêm Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh đến Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, được cho là có thái độ rất hòa hoãn, nhẫn nhịn, nhưng về nội dung vẫn kiên quyết, tố cáo Trung Quốc vi phạm luật quốc tế, đe dọa ổn định khu vực và đòi Bắc Kinh phải rút giàn khoan ra khỏi vùng biển Việt Nam.

Bản tin trên trang web Bộ Ngoại giao Việt Nam cho biết là ông Phạm Bình Minh đã xác định với phía Trung Quốc như sau : “Việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Dầu khí Hải dương 981 sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam đã vi phạm luật pháp quốc tế, Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, đe dọa đến an ninh, an toàn hàng hải và hòa bình, ổn định của khu vực, làm tổn thương tình cảm của nhân dân Việt Nam và tác động tiêu cực đến quan hệ hợp tác giữa hai nước”.

Phó Thủ tướng khẳng định mạnh mẽ chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa được xác định theo Công ước Liên Hợp quốc về Luật Biển 1982 mà cả hai nước đều là thành viên.

Phó Thủ tướng Phạm Bình Minh yêu cầu Trung Quốc rút giàn khoan và tàu ra khỏi vùng biển của Việt Nam, kiểm soát tình hình không để xảy ra xung đột, đàm phán giải quyết tình hình căng thẳng hiện nay cũng như các bất đồng khác giữa hai nước trên cơ sở luật pháp quốc tế, Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 ».

Truyền thông Trung Quốc không thấy nhắc đến các tuyên bố lập trường của phia Việt Nam, mà chỉ xoáy mạnh trên những phát biều hòa hoãn của lãnh đạo Việt Nam, tựa như là phía Hà Nội đã nhận lỗi.

Nhận định chung về cuộc đối đầu Việt-Trung hiện nay liên quan đến vụ giàn khoan HD-981, có thể nói rằng Việt Nam càng nhẫn nhịn, thì Trung Quốc càng lấn lướt. Do tương quan lực lượng trên biển bất lợi, sắp tới đây khó khăn của Việt Nam được cho là sẽ tăng lên gấp bội nếu Trung Quốc tung thêm vài chiếc giàn khoan nữa vào vùng biển của Việt Nam.

Đối sách khả dĩ nhất mà Việt Nam có thể thực hiện, như nhiều nhà quan sát đã đề nghị là phải kiện Trung Quốc ra trước Tòa án quốc tế như Philippines đã làm. Đây cũng là một đề nghị của một đại biểu Quốc hội Việt Nam, ông Trương Trọng Nghĩa thuộc đoàn Thành phố Hồ Chí Minh. vào hôm nay.

Trong phiên họp sáng nay, ông Nghĩa đã bất ngờ xin phép phát biểu về Biển Đông, và kiến nghị Quốc hội đưa ra một tuyên bố, hay một nghị quyết về vấn đề này, điều mà theo ông, không thấy có trong chương trình nghị sự còn lại của khóa họp Quốc hội lần này.

Theo tường thuật của báo Thanh Niên, vị Đại biểu Quốc hội này cho rằng cần phải « vạch trần âm mưu “vừa đấm, vừa xoa”, “vừa đánh, vừa đàm”, “vừa ăn cướp, vừa la làng” của Trung Quốc », đồng thời « tiến hành mọi biện pháp bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nước ta, trong đó có biện pháp khởi kiện Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam bằng vũ lực ra các tổ chức tài phán quốc tế. »

 

UPR: Việt Nam chấp thuận 182, bác 45 khuyến nghị

UPR: Việt Nam chấp thuận 182, bác 45 khuyến nghị

Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc tại Genève - Wikimedia

Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc tại Genève – Wikimedia

Trọng Thành

Hôm qua, 20/06/2014, trong phiên họp toàn thể của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc tại Genève, trong khuôn khổ Cơ chế Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát (viết tắt là UPR) chu kỳ 2 (2014-2018), đại diện chính phủ Việt Nam chính thức thông báo chấp thuận 182 khuyến nghị về cải thiện nhân quyền của các nước, trong tổng số 227 khuyến nghị được các nước đưa ra trong phiên điều trần UPR lần trước, ngày 05/02/2014.

Đại diện Việt Nam cam kết « nghiêm túc triển khai 182 khuyến nghị UPR ». Trong khi đó, một số tổ chức xã hội dân sự quốc tế và Việt Nam bày tỏ sự nghi ngại.

Phiên họp toàn thể của các nước tham gia Cơ chế Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát dưới sự chủ tọa của Hội đồng Nhân quyền diễn ra từ 15 giờ 45 (giờ địa phương) đến 18 giờ. Báo cáo UPR của Việt Nam được thảo luận tiếp theo ba nước khác, Etria, Cộng hòa Cyprus và Cộng hòa Dominica.

Theo báo chí chính thức trong nước, cũng như ghi nhận tại chỗ, đa số đại diện các nước tham dự phiên họp khen ngợi các cam kết và thành tích nhân quyền của Việt Nam, trong khi đó, một số tổ chức dân sự quốc tế như Human Rights Watch, và đại diện các tổ chức dân sự độc lập từ Việt Nam có mặt tại chỗ, bày tỏ sự nghi ngại về thực tâm của chính quyền trong việc thực thi các khuyến nghị. Phái đoàn dân sự độc lập của Việt Nam, lần thứ hai tham dự UPR, xếp thứ 12 trong danh sách phát biểu, nhưng vì không còn đủ thời gian nên không có cơ hội trình bày được ý kiến.

Đại diện của một số tổ chức xã hội dân sự và chính phủ ghi nhận thực tế là trong số 45 khuyến nghị bị chính quyền loại bỏ, có một số khuyến nghị liên quan đến các quyền tự do căn bản, đặc biệt là các quyền chính trị (khuyến nghị 176 của Hy Lạp, 177 của CH Séc), cũng yêu cầu xóa bỏ các điều luật trấn áp nhân quyền đã bị chính phủ Việt Nam loại bỏ (khuyến nghị 157 của Canada). Trong số các khuyến nghị bị loại bỏ còn có nhiều khuyến nghị về hoãn hoặc loại bỏ án tử hình.

Theo Thông tấn xã Việt Nam, Đại sứ Nguyễn Trung Thành, Trưởng Phái đoàn đại diện thường trực Việt Nam tại Geneva, Trưởng đoàn Việt Nam khẳng định « Việt Nam sẽ nghiêm túc triển khai 182 khuyến nghị UPR cũng như các cam kết tự nguyện khác của Việt Nam, nhấn mạnh tinh thần gương mẫu, trách nhiệm của một nước thành viên Hội đồng Nhân quyền và sự coi trọng của Việt Nam đối với cơ chế UPR ».

Trưởng đoàn Việt Nam nói thêm : « Việt Nam sẽ (…) đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và phi chính phủ để triển khai thắng lợi các khuyến nghị, tăng cường rõ rệt các quyền và tự do cho người dân và đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ, thúc đẩy các quyền con người trên toàn thế giới ».

Ngày 23/06/2014 sắp tới, sẽ có phiên họp thảo luận chung về Cơ chế Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát.

 

Báo TQ: Họ Dương gọi Việt Nam ‘đứa con hoang đàng hãy trở về’

Báo TQ: Họ Dương gọi Việt Nam ‘đứa con hoang đàng hãy trở về’

Việt-Long- theo Shannon Tirzzi- The Diplomat, June 20, 2014
2014-06-20

jie-vn-pm

Thủ tướng Việt Nam thảo luận với Ủy Viên QVV Trung Quốc Dương Khiết-Trì

RFA photo

Không thấy triển vọng

Các cơ quan truyền thông ngoại quốc (kể cả The Diplomat) không thấy nhiều hy vọng về một sự khai thông cho mối quan hệ Việt Nam-Trung Quốc trong chuyến đi của Ủy viên Quốc Vụ Viện Dương Khiết-Trì sang Hà Nội trong tuần này.

Báo New York Times viết :”Không giảm căng thẳng giữa Việt Nam vá Trung Quốc”. BBC nhấn mạnh “Bế tắc trong đối thoại Trung Quốc-Việt Nam” và đề tựa của Reuters viết “Trung Quốc quở trách Việt Nam thổi phồng cuộc tranh cãi về giàn khoan ở biển Hoa Nam”

Truyền thông Trung Quốc có những phán đoán khác hẳn, nhận định lạc quan hơn nhiều.

Báo chí Trung Quốc: khai thông, thỏa thuận

Tân Hoa, ấn bản Anh ngữ, chạy đề tựa: “Trung Quốc, Việt Nam thỏa thuận giải quyết thích hợp những vấn đề song phương nhạy cảm”. Rồi thì “Bắc Kinh, Hà Nội cam kết có hành động giải quyết va chạm”, tờ Trung Quốc nhật báo nhấn mạnh.  Một đoạn video của CCTV (Truyền hình trung ương Trung Quốc) về chuyến đi của ông Dương chú trọng lời tuyên bố của ông nói rằng dù mối quan hệ Trung Quốc-Việt Nam có xấu hơn hiện nay rất nhiều, hai bên cũng đều phải nghĩ đến môt đường lối nhanh chóng giải quyết vấn đề.

Căn cứ vào bài vở của truyền thông Trung Quốc, có vẻ như những cuộc hội họp của Dương Khiết Trì với các nhà lãnh đạo Việt Nam là một bước tiến chính yếu để giải quyết cuộc khủng hoảng vì giàn khoan.

Điều đó không nói lên rằng Trung Quốc sẵn lòng hòa giải. Ngược lại, mỗi bài báo đều chứa đựng điều xác quyết thông thường của Trung Quốc rằng giàn khoan là việc riêng của Trung Quốc, và Việt Nam nên ngưng lại sự sách nhiễu bất hợp pháp đối với sự vận hành giàn khoan.

Không nói đến Việt Nam đối kháng

jie-vietnm-fm

Ủy viên Dương Khiết-Trì và Ngoại trưởng Việt Nam Phạm Bình Minh – Courtesy of asahi.com

Thay vào đó (sự hòa giải của Trung Quốc), báo chí Trung Quốc ngụ ý rằng Hà Nội đã thay đổi lập trường. Không một bài nào loan báo, như truyền thông Việt Nam và phương Tây loan tin, về việc Việt Nam tiếp tục kiên quyết đòi Trung Quốc dỡ bỏ giàn khoan. Những bài vở của Tân Hoa nhấn mạnh rằng Việt Nam và Trung Quốc đã thỏa thuận “giải quyết những vấn đề song phương một cách thích hợp”, không quốc tế hóa cuộc tranh chấp biển Hoa Nam (LND:Việt Nam gọi là biển Đông), và giữ cho tình trạng căng thẳng trên biển không gây trở ngại cho những mối quan hệ song phương rộng lớn hơn.

Tất nhiên, nếu Việt Nam thực sự thỏa thuận “giải quyết thích hợp các vấn đề song phương” theo như định nghĩa của Trung Quốc, thì cuộc khủng hoảng giàn khoan hẳn cũng chấm dứt thực sự. Thay váo đó, Hà Nội có ý kiến rất khác biệt về những gì tạo nên “cách giải quyết thích hợp”.

Theo cách diễn dịch của Việt Nam, Trung Quốc chính là phía xử sự “không thích hợp” khi xâm phạm chủ quyền lãnh hải của Việt Nam.

Đồng thanh giành lẽ phài

Bằng cách bỏ qua không đề cập tới cách diễn dịch nước đôi trong những bài phóng sự của họ, ngành truyền thông Trung Quốc tự đặt mình vào vị trí hô hoán sự phạm luật, sự “chơi xấu”, khi Việt Nam tiếp tục phản đối cái giàn khoan.

Truyền thông Trung Quốc cũng mô tả chuyến đi của họ Dương không những là một thắng lợi ngoại giao, mà còn là một thắng lợi tinh thần. Tân Hoa nhấn mạnh, rằng chuyến đi của họ Dương sang Hà Nội tự nó chứng tỏ rằng Trung Quốc chủ động tìm cách giải quyết vấn đề. Chuyến đi của họ Dương, theo Tân Hoa, là một biểu hiện cho “sự chân thành của Trung Quốc trong việc muốn giải quyết các vấn đề bằng đối thoại và (biểu hiện cho) tính đại lượng của siêu cường (Trung Hoa)”. Truyền hình trung ương Trung Quốc CCTV nói họ Dương đã đi để giúp “sớm đưa mối quan hệ Trung Quốc-Việt Nam vào đường lối thích hợp”

Giông điệu của những bài báo này tô vẽ họ Dương như một người thầy kiên nhẫn đến để xử sự với một học trò cứng đầu cứng cổ. Thái độ này hiển hiện rõ ràng nhất trong cơ quan truyền thông theo chủ nghĩa dân tộc mang tên Hoàn Cầu (viết bằng Hoa ngữ, đối tác của Global Times). Hoàn Cầu mô tả chuyến thăm của họ Dương như một món quà của Trung Quốc, nhằm tặng cho Việt Nam một cơ hội nữa để “tự kiềm chế trước khi quá muộn”. Trách nhiệm của họ Dương tại Hà Nội là để “minh định giới hạn cuối cùng cũng như những điều thuận và bất thuận” của tình hình.

Trịch thượng hết mức

Hoàn Cầu viết: Nói chuyện với Việt Nam, Trung Quốc “thúc giục ‘đứa con hoang đàng hãy trở về nhà’.” Dựa trên sự diễn dịch đó, có vẻ như họ Dương đến Hà Nội không phải để đối thoại thực sự, mà chỉ để giảng bài.

trong-jie

Sự diễn tả của truyền thông Trung Quốc, dù ra vẻ tích cực, thực ra đã được xếp đặt để chuẩn bị đầy đủ cho Bắc Kinh trong trường hợp những mối căng thẳng tiếp tục nung nấu. Mỗi bài đều nhấn mạnh vào sự sách nhiễu của Việt Nam đối với giàn khoan của Trung Quốc, và sự kiên nhẫn cùng tính cách cao thượng, khoan dung của Trung Quốc trong cách xử sự trước những sự khiêu khích ấy, bằng cách phái họ Dương sang Việt Nam để đàm phán.

Những bài báo đó cũng nhấn mạnh sự đồng thuận đạt được trong các hội nghị; những từ ngữ này sẽ được dùng chống lại Hà Nội nếu cuộc khủng hoảng tiếp diễn theo lối hiện nay. Bài vở phóng sự của truyền thông Trung Quốc gửi đi một thông điệp mạnh mẽ rằng nay tất cả tùy thuộc vào Việt Nam để đáp ứng một cách đúng đắn với những đề nghị của Trung quốc bằng cách chấm dứt sự quấy rối và phản kháng đối với giàn khoan của Trung Quốc.

Dựa vào đó, bài của Hoàn Cầu chấm dứt bằng một lời cảnh bào rằng cộng đồng quốc tế sẽ trông chừng xem Việt Nam có làm đúng lời hay không, sau cuộc họp với họ Dương.

Không có nghị quyết, đại biểu Quốc Hội sẽ ú ớ với cử tri

Không có nghị quyết, đại biểu Quốc Hội sẽ ú ớ với cử tri
June 20, 2014

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) Ông Trương Trọng Nghĩa, một luật sư và là đại biểu Quốc Hội của thành phố Sài Gòn, vừa đề nghị Quốc Hội CSVN ra nghị quyết phản đối Trung Quốc xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở Biển Ðông.

Hôm 20 tháng 6, 2014, trong khi Quốc Hội Hà Nội đang thảo luận về dự luật có tên là Luật Căn Cước, ông Nghĩa đã “mượn” diễn đàn để đưa ra đề nghị vừa kể. Tuy “lạc điệu,” có thể xem là đã “cướp diễn đàn” nhưng rất nhiều người tỏ ra đồng tình với điều ông Nghĩa vừa làm.


Ông Trương Trọng Nghĩa, người yêu cầu Quốc Hội CSVN cần ra một nghị quyết lên án Trung Quốc. (Hình: Tuổi Trẻ)

Theo tường thuật của báo chí Việt Nam, ông Nghĩa xin lỗi vì đã phát biểu lạc đề nhưng theo ông, không có gì quan trọng bằng chủ quyền quốc gia, không có chủ quyền thì các bộ luật đều vô nghĩa.

Ông Nghĩa giải thích, sở dĩ ông phát biểu lạc đề, bởi thời gian họp của Quốc hội còn quá ít, nội dung của toàn bộ kỳ họp, vốn kéo dài trong cả tháng, không đề cập gì đến việc phải bày tỏ thái độ đối với các hành động của Trung Quốc hơn một tháng qua. Trong khi theo ông, cần phải vạch trần âm mưu của Trung Quốc là “vừa đấm, vừa xoa,” “vừa đánh, vừa đàm,” “vừa ăn cướp, vừa la làng.”

Cũng vì vậy, ông Nghĩa đề nghị, Quốc Hội phải nhân danh dân chúng Việt Nam, ra một nghị quyết về biển Ðông. Nghị quyết này cho phép các cơ quan của nhà nước Việt Nam, các lực lượng vũ trang của Việt Nam, thực hiện mọi biện pháp bảo vệ chủ quyền, bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, trong đó có khởi kiện Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam bằng vũ lực ra các tổ chức tài phán quốc tế.

Ông Nghĩa nhấn mạnh, trong kỳ họp lần này, nếu Quốc hội không có tuyên bố hay nghị quyết chính thức nào về biển Ðông, chắc chắn “nhân dân sẽ rất hoang mang, thất vọng.” Khi tiếp xúc với cử tri, nếu cử tri chất vấn, các đại biểu Quốc hội sẽ bị “nghẹn.”

Sau khi tàu của Trung Quốc liên tục tấn công, đâm thủng, nhấn chìm cả tàu của cảnh sát biển, tàu của kiểm ngư lẫn tàu của ngư dân Việt Nam, chủ tịch Ủy Ban Ðối Ngoại của Quốc Hội Việt Nam đã từng gửi thư cho nghị viện các quốc gia trên thế giới đề nghị lên án Trung Quốc.

Tuy nhiên, ông Nghĩa nhận định, việc Quốc Hội Việt Nam “im hơi, lặng tiếng,” có thể sẽ khiến cộng đồng quốc tế nghĩ rằng, khi Trung Quốc xâm phạm và đe dọa chủ quyền của Việt Nam trắng trợn đến thế mà Quốc hội Việt Nam vẫn không có phản ứng chính thức nào thì việc gì nghị sĩ và dân chúng các quốc gia khác phải lên tiếng. Ðó cũng có thể sẽ là cớ để Trung Quốc tiến hành những hành động hiếu chiến và nguy hiểm hơn.

Ông Nghĩa đề nghị “lãnh đạo Ðảng, Quốc Hội, Nhà nước xem xét, chấp thuận” kiến nghị của ông. Ông Nghĩa đề nghị lấy ý kiến của các đại biểu về việc đưa ra một tuyên bố chính thức hay một nghị quyết về biển Ðông, “nếu đa số ủng hộ thì làm” và “mong các đại biểu Quốc Hội chia sẻ sự băn khoăn và ủng hộ kiến nghị.”

Trả lời báo giới ở hành lang nghị trường, ông Nghĩa nói thêm, cho đến nay, tại Quốc Hội CSVN, chuyện Trung Quốc xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở biển Ðông, chỉ được đưa ra “thảo luận tại tổ và thảo luận ở hội trường riêng, không hề có dự định nào để ra một tuyên bố chính thức hoặc nghị quyết,” bất kể rất nhiều cử tri, từ những người dân bình thường cho đến cán bộ lão thành đều cho rằng, “Quốc Hội không thể không có động thái nào chính thức.”

Cũng cần nói thêm là hồi trung tuần tháng 5, tuy giàn khoan 981 của Trung Quốc đang thăm dò dầu khí trong khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam nhưng khi kết thúc hội nghị lần thứ 9 của Ban Chấp Hành Trung Ương Ðảng CSVN khóa 11, hội nghị này chỉ ra một nghị quyết về xây dựng và phát triển văn hóa, chuẩn bị cho Ðại hội Ðảng 12, không đề cập gì đến việc Trung Quốc xâm phạm chủ quyền của Việt Nam ở biển Ðông.

Tại Ðối thoại Shangri-La diễn ra ở Singapore hồi thượng tuần tháng 6, trong khi đại diện của Nhật và Hoa Kỳ lên án Trung Quốc gây căng thẳng ở biển Ðông thì thay mặt Việt Nam, ông Phùng Quang Thanh, bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam gọi Trung Quốc là “bạn.” Ông Thanh so sánh xung đột chủ quyền Việt-Trung như “mâu thuẫn gia đình.”

Ông Thanh nói rằng: “Quan hệ giữa Việt Nam và ‘nước bạn láng giềng Trung Quốc’ về tổng thể trên các mặt đang phát triển tốt đẹp, chỉ còn tồn tại vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển Ðông và đôi khi cũng có những va chạm gây căng thẳng.” Ông Thanh “đề nghị” Trung Quốc rút giàn khoan và cùng Việt Nam đàm phán để giữ được hòa bình ổn định và quan hệ hữu nghị hai nước. (G.Ð)

 

Trung Quốc đưa thêm 4 giàn khoan tới Biển Đông

Trung Quốc đưa thêm 4 giàn khoan tới Biển Đông
June 20, 2014

Nguoi-viet.com

BẮC KINH 20-6 (NV) – Trung Quốc đưa thêm 4 giàn khoan nữa tới tìm dầu khí ở Biển Đông. Một dấu hiệu chứng tỏ Bắc Kinh gia tăng hoạt động này ở vùng đang có nhiều tranh chấp căng thẳng với Việt Nam.

Giàn khoan Hải Dương 981 được Trung Quốc đưa xuống vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam để dò tìm dầu khí. (Hình: Internet)

Lời loan báo được đưa ra khi vụ giàn khoan Hải Dương 981 vẫn còn đang gặp sự chống đối của Việt Nam ở phía nam quần đảo Hoàng Sa. Cuộc họp tại Hà Nội của ông Dương Khiết Trì, thành viên Quốc Vụ Viện Trung Quốc, hồi tuần qua không đưa tới thỏa hiệp nào. Hiển nhiên các nước ở khu vực, đặc biệt là Việt Nam, chú ý theo dõi các động thái của Bắc Kinh.

Tin tức phổ biến trên trang mạng của Cục Hải Sự Trung Quốc cho hay giàn khoan Hải Dương 2 và Hải Dương 5 được kéo tới khu vực giữa tỉnh Quảng Đông và quần đảo Pratas mà Trung Quốc gọi là Đông Sa quần đảo (Dongsha Qundao) hiện đang do Đài Loan tuyên bố chủ quyền. Giàn khoan Hải Dương 4 được kéo tới khu vực gần bờ biển Trung Quốc.

Hai ngày trước, cơ quan nói trên loan báo giàn khoan Hải Dương 9 được kéo tới khu vực rất gần vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, phía ngoài cửa vịnh Bắc Bộ, khu vực chưa hoàn tất các đàm phán phân chia giữa hai nước. Tuy nhiên, giàn khoan lần này lại còn gần bờ biển Việt Nam hơn so với HD981, gây phẫn nộ cho người Việt Nam. Tin nói rằng HD 9 chỉ cách đảo Lý Sơn của tỉnh Quảng Ngãi 140 hải lý.

Tất cả những giàn khoan nói trên đều là tài sản của công ty dịch vụ dầu khí Trung quốc (COSL), một bộ phận của Tập đoàn Dầu Khí Hải Dương Trung quốc (CNOOC). Khi được phóng viên hãng thông tấn Reuters gọi điện thoại phỏng vấn, viên chức COSL và CNOOC đều từ chối bình luận. Nhưng trên tờ Hoàn Cầu Thời Báo, Trương Quốc Tổ, Giám Đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Đông Nam Á tại đại học Hạ Môn, nói rằng việc đưa nhiều giàn khoan tới Biển Đông là “hành động chiến lược” của Trung Quốc.

“Sự gia tăng hiện diện các giàn khoan sẽ làm cho Việt Nam và Philippines căng thẳng tinh thần.” Ông ta nói.

Công ty Dầu Khí Hải Dương Trung Quốc từng loan báo họ có kế hoạch đưa 4 dự án dò tìm dầu khí xuống Biển Đông vào nửa sau của năm 2014. Bởi vậy, tin tức mới loan báo về việc di chuyển 4 giàn khoan nói trên không biết có phải trùng với tin tức cũ hay không. Tuy nhiên, họ từng cho hay cố gắng nâng sản lượng dầu khí qua các hoạt dộng dò tìm và khai thác ở ngoài khơi Trung Quốc.

Trước đây, CNOOC cho hay họ gia tăng đầu tư thêm một phần ba ngân sách cho năm 2014, tức khoảng gần $20 tỷ. Cùng với các giếng dầu khí chính yếu ở ngoài khơi đang khai thác cạn dần ở khu vực vịnh Bột Hải, phía đông Trung Quốc, giới phân tích gia cho rằng việc Bắc Kinh đẩy các giàn khoan xuống phía nam là điều khó tránh.

Từ đầu Tháng 5 vừa qua, Trung Quốc kéo giàn khoan HD981 tới phía nam đảo Tri Tôn trong quần đảo Hoàng Sa mà Việt Nam vẫn tuyên bố chủ quyền để dò tìm dầu khí. Nhà cầm quyền Hà Nội cho một số tàu Cảnh Sát Biển, Kiểm Ngư, tàu cá tới tìm cách ngăn cản nhưng chỉ vòng vòng ở xa vì bị hơn một trăm tàu đủ loại của Trung Quốc chặn đường. (TN)

Xin xem thêm:

Trung Quốc đưa 4 giàn khoan vào Biển Đông ( VOA )

Tàu Cảnh sát biển Trung Quốc gần giàn khoan Hải Dương 981 ở Biển Ðông, khoảng 210 km (130 dặm) ngoài khơi bờ biển Việt Nam, ngày 14/5/2014. Trung Quốc cung cấp cho giàn khoan đầu một đoàn hộ tống gồm 80 tàu dân sự và tuần duyên đến địa điểm nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Tàu Cảnh sát biển Trung Quốc gần giàn khoan Hải Dương 981 ở Biển Ðông, khoảng 210 km (130 dặm) ngoài khơi bờ biển Việt Nam, ngày 14/5/2014. Trung Quốc cung cấp cho giàn khoan đầu một đoàn hộ tống gồm 80 tàu dân sự và tuần duyên đến địa điểm nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.

Trung Quốc đưa 4 giàn khoan vào Biển Đông

Trần Gia Phụng: ĐÃ ĐẾN LÚC PHẢI DỨT KHOÁT

Trần Gia Phụng: ĐÃ ĐẾN LÚC PHẢI DỨT KHOÁT

Trong cuộc mít-tinh của Hiệp Hội Hữu Nghị Nhân Dân Trung Quốc tại Bắc Kinh ngày 15-5-2014, tổng bí thư đảng Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ) Tập Cẩm Bình tuyên bố rằng: “Không có gene xâm lược trong máu người Trung Quốc”.

Trong khi các báo điện tử trong nước, hoặc các blog tư nhân đưa tin nầy thì nhà nước Cộng Sản Việt Nam (CSVN), các chức sắc, Ban Khoa giáo trung ương đảng, Bộ Thông tin văn hóa, và các chuyên viên của nhà nước CS nín khe. Có lẽ họ cho lời tuyên bố của Tập Cẩm Bình là chuyện nội bộ Trung Quốc, CSVN không xía vào. Họ quên rằng từ khi nước Việt lập quốc, Trung Quốc đã bao lần xâm lược Việt Nam. Hay đó là chuyện thời quân chủ phong kiến, chẳng liên quan gì đến chế độ CS anh em giữa hai nước Việt Nam-Trung Quốc hiện nay? Thế thì người CSVN cố tình quên rằng năm 1979, CSTQ thổi kèn trên thế giới và thổi kèn ngoài mặt trận, tràn quân tàn phá sáu tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam là gì?

Gần đây hơn nữa, ngày 8-6-2014, trang web của Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố năm (05) bằng chứng CSVN đã nhượng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc. Tài liệu nầy được viết bằng tiếng Anh và được Đài Phát Thanh Quốc Tế Trung Quốc (China Radio International -CRI) dịch qua tiếng Việt. Năm bằng chứng đó là:

1) Ngày 16-5-1956, trong buổi tiếp đại biện lâm thời Đại sứ quán Trung Quốc tại Hà Nội là Lý Chí Dân, thứ trưởng Ngoại giao Bắc Việt Nam là Ung Văn Khiêm đã nói: “Căn cứ vào những tư liệu của Việt Nam và xét về mặt lịch sử, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa là thuộc về lãnh thổ Trung Quốc“. Vụ trưởng Á châu vụ Bộ Ngoại giao Bắc Việt Nam Lê Lộc còn tiếp lời: “Xét từ lịch sử, quần đảo Tây Sa và quần đảo Nam Sa đã thuộc về Trung Quốc ngay từ đời Nhà Tống”.

2) Công hàm Phạm Văn Đồng ngày 14-9-1958.

3) Tuyên bố của Bắc Việt Nam ngày 9-5-1965 về việc quân Mỹ lập khu tác chiến ở Việt Nam, có đoạn viết: “Việc Tổng thống Mỹ Giôn-xơn xác định toàn cõi Việt Nam và vùng ngoài bờ biển Việt Nam rộng khoảng 100 hải lý cùng một bộ phận lãnh hải thuộc quần đảo Tây Sa của nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoà là khu tác chiến của lực lượng vũ trang Mỹ”, đây là đe dọa trực tiếp “đối với an ninh của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và nước láng giềng”.

4) Tập Bản đồ thế giới do Cục Đo đạc và Bản đồ thuộc Phủ Thủ tướng Bắc Việt ấn hành tại Hà Nội năm 1972, ghi tên hai quần đảo quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng hai địa danh do Trung Quốc đặt là Tây Sa và Nam Sa.

5) Cuối cùng là sách Địa lý lớp chín phổ thông toàn tập của nhà xuất bàn Giáo Dục, Hà Nội, 1974, trong chương “Nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa”, mục “Điều kiện tự nhiên”, ở trang 4, có đoạn viết: “Vòng cung đảo từ các đảo Nam sa, Tây sa đến các đảo Hải Nam, Đài Loan, quần đảo Hoành bồ, Châu sơn … làm thành một bức “trường thành” bảo vệ lục địa Trung Quốc. (Hiện nay, Đài loan và các đảo xung quanh còn bị đế quốc Hoa kỳ và bọn tay sai Tưởng Giới Thạch chiếm giữ, đấy là một mối đe dọa đối với nền an ninh của Trung quốc, của Viễn đông và miền tây Thái bình dương). (Dân Làm Báo, trích ngày 13-6-2014) (Xin mời vào Google.com, dùng tiếng Việt đánh chữ khóa “Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố 5 bằng chứng về Hoàng Sa và Trường Sa”, thì có nhiều thông tin về vụ việc nầy.)

Việc Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố năm bằng chứng CSVN nhượng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc theo trong kế hoạch từng bước rất lớp lang của đảng CSTQ.

Đầu tiên, sau khi Trung Quốc cắm giàn khoan 981 ở vùng biển Hoàng Sa và bị dân chúng Việt Nam biểu tình dữ dội, đồng thời bị nhà cầm quyền CSVN lên tiếng phản đối, thì CSTQ cho người đưa ra công hàm Phạm Văn Đồng (bước thừ nhứt). Nhà cầm quyền CSVN một mặt cấm biểu tình chống Trung Quốc ở trong nước, một mặt thủ tướng CSVN lên tiếng đòi kiện Trung Quốc để vuốt ve tự ái dân chúng, thì CSTQ đưa ra vụ sách giáo khoa (bước thứ hai). Cộng sản Việt Nam vẫn còn hậm hực, chưa chịu yên, thì bộ Ngoại giao Trung Quốc bồi thêm đòn thứ ba, đưa ra năm bằng chứng kể trên.

Cách thức đe dọa của Trung Quốc từ từ theo liều lượng nặng dần dần, và ngang đây bắt đầu có hiệu lực. Trước những bằng chứng do Bộ Ngoại giao Trung Quốc đưa ra ngày 8-6-2014, lần nầy Bộ chính trị đảng CSVN đành im lặng, nhà nước CSVN im lặng, quốc hội Việt Nam do đảng CSVN kiểm soát im lặng. Các quan chức cao cấp; tổng bí thư đảng CSVN, chủ tịch nước CSVN, chủ tịch Quốc hội CSVN, thủ tướng CSVN cũng tịnh khẩu, không nói năng thêm gì nữa. Báo chí trong nước và các web trong nước có lẽ được lịnh của nhà nước CS cũng im lặng. Thật là một sự im lặng tuyệt đối từ trên xuống dưới.

Các nhà lãnh đạo đảng CSVN phải im lặng vì há miệng mắc quai, và nếu không im lặng thì CSTQ chắc chắn sẽ tung thêm ngón đòn thứ tư độc địa hơn nữa. Đó là“Kỷ yếu hội nghị đồng thuận bình thường hóa quan hệ hai nước”, ký kết tại Hội nghị Thành Đô (Chengdu), thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên (Sichuan) vào ngày 4-9-1990, giữa đại diện đảng CSVN gồm có Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Phạm Văn Đồng và đại diện đảng CSTQ gồm có Giang Trạch Dân (Jiang Zemin) và Lý Bằng (Li Peng).

Hai bên cam kết giữ bí mật nội dung văn bản nầy, nhưng nếu đảng CSVN không tôn trọng những điều đã bí mật cam kết, thì đảng CSTQ không có lý do gì mà giữ bí mật văn bản nầy nữa. Cho đến nay, người Việt Nam chưa biết nội dung văn bản Thành Đô, nhưng chắc chắn đảng CSVN đã cam kết những điều gì đó để được Trung Quốc giúp đỡ nhằm duy trì quyền lực của đảng CSVN, dầu có hại cho đất nước. Đây cũng có thể là một văn tự bán nước sau công hàm Phạm Văn Đồng, vì bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch và thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ đều rất thất vọng, chán nản, nhưng chỉ nói xa nói gần chứ không dám nói thẳng ra. Kết quả là một người bị cất chức, còn người kia xin từ chức vì không muốn liên hệ đến tội phản quốc.

Có một điều lạ nữa là ngay sau công bố ngày 8-6-2014 của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, thì khoảng gần 2 giờ sáng ngày 9-6-2014, Xí Nghiệp Bản Đồ Đà Lạt (XNBĐĐL) bị cháy nặng nề, tiêu hủy một phần ba (1/3) tòa nhà đồ sộ làm khu văn phòng, xưởng chế bản, hệ thống máy tính…

Xí Nghiệp Bản Đồ Đà Lạt thuộc Bộ Quốc phòng CSVN, số 14 đường Yersin Đà Lạt. Trụ sở xí nghiệp nầy được xây dựng năm 1939 và hoàn thành năm 1943 thời còn Pháp thuộc, tường dày, rất kiên cố. Trước năm 1975, đây là Nha Địa Dư Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa (VNCH).

Báo chí trong nước đưa tin nầy sáng 9-6-2014, và cho biết thượng tá Vũ Đình Hợi, giám đốc Cục Bản Đồ Đà Lạt, tuyên bố rằng: “Những tài liệu quan trọng liên quan đến chủ quyền, an ninh quốc gia đã được chuyển giao Bộ Quốc phòng quản lý… Sau trận hỏa hoạn mọi thứ vẫn còn nguyên vẹn. Vị trí xảy ra vụ hỏa hoạn là nơi làm việc của nhân viên, không phải nơi lưu trữ như dư luận đồn đoán…”

Ông giám đốc nói thế là đúng sách vở, chứ không lẽ ông giám đốc lại thú nhận là đã cháy nhiều tài liệu quý hiếm lưu trữ trong XNBĐĐL? Một câu hỏi được đặt ra là tại sao XNBĐĐL lại cháy ngay sau ngày Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố 5 bằng chứng bán nước của đảng CSVN, và cháy vào buổi khuya chẳng có người làm việc? Cháy do tai nạn hay do phá hoại? Ai là kẻ gây ra tai nạn hay chủ mưu phá hoại? Phá hoại để làm gì? Phải chăng phá hoại nhắm tiêu hủy tài liệu gốc về bản đồ? Liệu những tài liệu gốc về bản đồ vùng biên giới Việt Nam Trung Quốc và về bản đồ Hoàng Sa, Trường Sa có bị cháy chưa? Không ai có thể xác minh điều nầy trừ chính đảng CSVN.

Một điều đặc biệt nữa là từ năm 1960, nghĩa là hai năm sau công hàm Phạm Văn Đồng, và cùng một năm đảng Lao Động (tức đảng CSVN) tuyên bố quyết định tấn công VNCH, thì phủ thủ tướng Hà Nội nhận người do Trung Quốc gởi sang làm chuyên gia cho Cục Đo đạc và Bản đồ. Hồ sơ lưu trữ thấy có một người tên là Trương Hồng Kiên làm chuyên gia tại Cục Đo đạc và Bản đồ. Nói cách khác, từ năm 1960, chuyên viên Trung Quốc đã nằm vùng trong Cục Đo Đạc và Bản đồ ở Hà Nội. Sau đây là giấy chứng nhận của phủ thủ tướng Hà Nội:

Sự hiện diện của chuyên gia Trung Quốc tại Cục Đo đạc và Bản đồ có liên hệ gì đến việc thực hiện các bản đồ trong tập Bản đồ thế giới do Cục Đo đạc và Bản đồ thuộc Phủ Thủ tướng Bắc Việt ấn hành tại Hà Nội năm 1972, ghi tên hai quần đảo quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng hai địa danh do Trung Quốc đặt là Tây Sa và Nam Sa? Và có liên hệ gì đến sách Địa lý lớp chín phổ thông toàn tập của nhà xuất bàn Giáo Dục, Hà Nội, 1974 không? Có chuyên viên Trung Quốc khi XNBĐĐL bị cháy sáng sớm 9-6-2014?

Trở lại với công bố ngày 8-6-2014 của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, thì chúng ta cần tách bạch làm hai phần rõ rệt: 1) Phải thẩm định lại giá trị của các tài liệu nầy, ví dụ bản công bố nói rằng Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc từ thời nhà Tống là điều hoàn toàn phi lý, vì cho đến năm 1974, VNCH vẫn còn quản lý hai quần đảo nầy. Trung Quốc đem hạm đội đến đánh cướp ngày 19-1-1974. Tập Bản đồ thế giới do Cục Đo đạc và Bản đồ thuộc Phủ Thủ tướng Bắc Việt ấn hành tại Hà Nội năm 1972, và sách Địa lý lớp chin phổ thông toàn tập là của Bắc Việt Nam, chứ không phải của Nam Việt Nam tức VNCH. Trước năm 1974, Hoàng Sa và Trường Sa đều thuộc tổ chức hành chánh của VNCH và không bao giờ có tên Tây Sa và Trường Sa. 2) Dù đúng hay sai, bốn bằng chứng sau do Bộ Ngoại giao Trung Quốc đưa ra gồm công hàm Phạm Văn Đồng, tuyên bố ngày 9-5-1965 của Bắc Việt cộng sản, tập Bản đồ thế giới năm 1972, và sách Địa lý lớp chín phổ thông toàn tập năm 1974 của Bắc Việt Nam là chuyện giữa nhà nước CSVN Bắc Việt Nam với Trung Quốc, chứ không phải của nhân dân Việt Nam. Phải tách nhân dân Việt Nam ra khỏi chuyện nầy vì nhân dân Việt Nam luôn luôn xem Hoàng Sa và Trường Sa là di sản do tổ tiên để lại, là lãnh thổ Việt Nam.

Bốn bằng chứng nầy cho thấy ĐẢNG CSVN CHỦ TRƯƠNG BÁN NƯỚC CÓ KẾ HOẠCH từ thời Hồ Chí Minh cho đến ngày nay, và cũng cho thấy rằng HỒ CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CSVN CHẲNG YÊU NƯỚC mà họ chỉ lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam, hy sinh xương máu của nhân dân Việt Nam nhằm thỏa mãn cuồng vọng quyền lực của đảng CSVN và để phục vụ cho sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản, mà đại diện là Liên Xô và Trung Quốc, như Lê Duẫn đã có lần xác nhận với đám cận thần sau khi cưỡng chiếm Việt Nam Cộng Hòa: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc”.

Vì vậy, cuộc chiến tranh ba mươi năm (1946-1975) do CSVN hai lần gây ra là cuộc chiến hoàn toàn phi lý, không có chính nghĩa và chỉ là cuộc chiến ý thức hệ để thiết lập một chế độ độc tài toàn trị, và nhất là nhượng đất, nhượng biển cho Trung Quốc. Việc CSVN nhượng đảo, nhượng biển cho Trung Quốc càng làm sáng lên chính nghĩa quốc gia, dân tộc và nhân bản của các chính thể Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa, dầu các chính thể nầy chưa được hoàn hảo, nhưng luôn luôn bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ do tổ tiên để lại.

Trước đây, khi bất cứ ai tố cáo CSVN bán nước thì đảng CSVN, báo chí CSVN, và cả những người thiên tả, những kẻ ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản đều phản bác lại, cho rằng đó là luận điệu tuyên truyền chống nhà nước “cách mạng” CSVN. Bây giớ, với bằng chứng rành rành như thế nầy, thì không còn chối cãi gì nữa. Vì vậy, đã đến lúc toàn dân dân Việt Nam phải có thái độ dứt khoát rõ ràng với chế độ CSVN vì không thể để cho CSVN tiếp tục phản dân hại nước.

Trước hết, là những người yêu nước đã lên đường năm 1945, đi theo “cách mạng” vì lầm tin chủ nghĩa cộng sản, lầm tin vào đảng CSVN, đã trọn đời hy sinh vì một lý tưởng xấu, để rồi cuối cùng bị phản bội một cách trắng trợn. Những tội lỗi của chế độ CSVN có phần trách nhiệm của quý vị vì chính quý vị đã dày công xây dựng chế độ nầy. Xin quý vị ít nhất vào cuối đời, quý vị hãy lên tiếng để bày tỏ cho con cháu biết rõ sự thật, giúp con cháu khỏi bị một lần nữa lầm đường lạc lối như thế hệ quý vị năm 1945.

Những thức giả (chứ không phải là trí thức) dưới chế độ CSVN hiện nay, như những sĩ quan quân đội, những giáo sư đại học, những chuyên viên các ngành, những nhà nghiên cứu, các văn thi sĩ, các nhà bình luận, ký giả báo chí; xưa nay quý vị lơ là với tình hình đất nước, và làm thinh cộng sinh với chế độ CSVN, nay chắc chắn hơn ai hết, quý vị biết rõ CSVN bán nước, hại dân, thì quý vị còn chờ đợi gì nữa mà chưa ly khai với đảng CSVN? Quý vị tiếp tục cộng sinh với đảng CSVN là quý vị tiếp sức cho CSVN gây họa cho tương lai đất nước.

Những sinh viên thiên tả thời VNCH, ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản, ở Đại học Sài Gòn cũng như Đại học Huế, biểu tình rầm rộ chống chính thể VNCH trong thập niên 60 và 70, nay trước những bằng chứng phản quốc cụ thể của CSVN, sao quý vị không xuống đường như thời VNCH, và quý vị cũng chẳng lên tiếng tý nào, nghĩa là làm sao? Hãy can đảm tiếp nối hành động cuối đời của ông Lê Hiếu Đằng, để chuộc lại những lỗi lầm của quý vị một thời phá hoại nền tự do dân chủ VNCH .

Không ai có thể trách các thế hệ trẻ ngày nay, vì từ năm 1974, các anh chị em đã bị CSVN nhồi sọ rằng Tây Sa và Nam Sa là của Trung Quốc, các anh chị em đâu có biết Hoàng Sa và Trường Sa nằm ở đâu? Vì vậy giới du học sinh Việt Nam từ trong nước ra ngoài du học, trong các ngày gần đây đi biểu tình chống Trung Quốc sau vụ giàn khoan 981, vì lòng yêu nước của anh chị em, chứ anh chị em đâu có biết chuyện Hoàng Sa và Trường Sa. Các anh chị em cũng không biết là cái lá cờ đỏ mà các anh chị em vác trên vai đi biểu tình chống Trung Quốc, chính là lá cờ của chế độ đã nhượng Hoàng Sa và Trường Sa của tổ quốc cho Trung Quốc từ lâu rồi. Các anh chị em nghĩ sao về các bằng chứng do Bộ Ngoại giao Trung Quốc
đưa ra? Anh chị em hãy thử đặt câu hỏi với các tòa đại sứ CSVN vể các bằng chứng nầy, và thêm một câu hỏi nữa là tại sao trong nước cấm biểu tình chống Trung Quốc mà ở Hải ngoại, các tòa đại sứ CSVN lại ra lịnh du học sinh vác cờ đi biểu tình?

Các anh chị em theo dõi, quan sát sự im lặng nhịn nhục của lãnh đạo đảng CSVN trước công bố của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 8-6-2014, chắc chắn anh chị em đã hiểu nội tình rồi. Các anh chị em đừng để cho CSVN lợi dụng làm con cờ thí cho CSVN. Các anh chị em là những người ra nước ngoài học hành, hiểu nhiều, biết rộng, vậy hãy thức tỉnh và hãy đoạn tuyệt với CSVN ngay từ bây giờ để sau nầy khỏi hối hận. Các bậc cha chú, các bậc đàn anh của anh chị em đã hy sinh cho một lý tưởng xấu. Các anh chị em đừng phục vụ cho một chế độ xấu.

Tình trạng đảng CSVN ngày nay không còn có thể cứu vãn được nữa. Cứu vãn cũng vô ích. Chủ nghĩa CS đã bị dẹp bỏ từ mấy chục năn nay ở ngay đất nước của Marx, của Lenin, của Stalin. Chủ nghĩa CS bây giờ chỉ là cái vỏ bọc của những chế độ độc tài tàn bạo như Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên. Chủ nghĩa CS bây giờ ở Việt Nam chỉ gồm những tên tay sai của Bắc Kinh từ thời kẻ sáng lập là Hồ Chí Minh. Đã ký văn tự bán nước thì không còn lý do gì mà chống chế với Trung Quốc.

Nếu còn đảng CSVN thì còn làm tay sai cho Trung Quốc, còn những mật ước giữa CSVN với Trung Quốc mà nhân dân Việt Nam không biết đâu mà lường trước được. Việt Nam chúng ta muốn chấm dứt tình trạng nầy, thì nhân dân Việt Nam phải xóa sổ chế độ CSVN, để chấm dứt những cam kết bí mật của chế độ nầy với Trung Quốc.

Khi nhân dân Việt Nam không thừa nhận chế độ CSVN, chứng tỏ nhân dân Việt Nam cũng không thừa nhận những cam kết bán nước của chế độ CSVN. Lúc đó, mới có thể nói chuyện đòi đất, đòi biển trở lại. Đã đến lúc những đảng viện CSVN phải đánh giá lại đảng CSVN và ly khai đảng nầy. Đã đến lúc các thức giả trong nước phải đoạn tuyệt với chế độ CSVN để khỏi mang tội đồng lõa với phản quốc. Đã đến lúc thanh niên sinh viên Việt Nam phải tranh đấu để xóa sổ chế độ CSVN để xây dựng một tương lai tười đẹp hơn. Đã đến lúc nhân dân Việt Nam phải dứt khoát hành động! Nếu không, thời kỳ bắc thuộc đen tối đang chờ đợi Việt Nam.

TRẦNGIAPHỤNG
(Toronto, Canada)

 

Bốn nhà hoạt động dân sự Việt Nam đến LHQ vận động nhân quyền

Bốn nhà hoạt động dân sự Việt Nam đến LHQ vận động nhân quyền

Tiến sĩ Nguyễn Quang A, một người trong phái đoàn xã hội dân sự Việt Nam tại Genève. Ảnh tư liệu

Tiến sĩ Nguyễn Quang A, một người trong phái đoàn xã hội dân sự Việt Nam tại Genève. Ảnh tư liệu

Nguồn: internet

Tú Anh

Hôm nay 20/06/2014, Việt Nam phải trả lời cuộc Kiểm điểm Định kỳ Phổ quát UPR tại Hội đồng Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc ở Genève (Thụy Sĩ). Sự kiện đặc biệt lần này là các luận điểm của chính quyền Việt Nam sẽ gặp phản biện của một phái đoàn xã hội dân sự gồm Tiến sĩ Nguyễn Quang A, sinh viên Phạm Lê Vương Các, luật gia Trịnh Hữu Long và luật sư Nguyễn Thị Vy Hạnh.

Theo bản tin trên mạng của Danlambao, một phái đoàn đại diện cho 10 tổ chức xã hội dân sự tranh đấu bảo vệ quyền con người, độc lập với chính quyền và thường bị sách nhiễu, đã đến Genève ngày 19/06 để tiến hành một chiến dịch vận động quốc tế qua nhiều nước châu Âu.

Phái đoàn gồm Tiến sĩ Nguyễn Quang A, sinh viên luật Phạm Lê Vương Các, luật gia Trịnh Hữu Long từ Việt Nam và luật sư Nguyễn Thị Vy Hạnh từ Hoa Kỳ đã đến Genève ngày 19/06.

Ngày hôm nay 20/06, tại Genève,chính phủ Việt Nam phải trả lời trước Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc là đồng ý thực thi những khuyến nghị nào trong số 227 yêu cầu của hơn 100 quốc gia thành viên. Phiên họp Kiểm điểm của Việt Nam diễn ra trong vòng một giờ vào buổi trưa.

Theo nhận định của Tiến sĩ Nguyễn Quang A, mức độ cam kết của Việt Nam rất thấp, từ chối những khuyến nghị cụ thể như thả tù chính trị, tư nhân hóa báo chí, sửa đổi hệ thống pháp luật.

Sinh viên Phạm Lê Vương Các dự kiến thái độ của phái đoàn chính phủ Việt Nam sẽ phản ánh mức độ uy hiếp của Trung Quốc.

Luật sư nhân quyền Nguyễn Thị Vy Hạnh nhấn mạnh đến tác dụng của vận động quốc tế phối hợp với hoạt động tranh đấu trong nước.

Trả lời câu hỏi của RFI vào sáng nay qua điện thoại, luật gia Trịnh Hữu Long cho biết sau phần trả lời của phái đoàn chính phủ Hà Nội thì phái đoàn xã hội dân sự Việt nam sẽ có hai phút để trình bày thực trạng nhân quyền tại Việt Nam. Tuy thời lượng phát biểu ngắn ngủi nhưng phái đoàn dân sự có cơ hội thúc giục và vận động quốc tế hỗ trợ cải thiện tình hình nhân quyền tại Việt Nam.

Luật gia Trịnh Hữu Long cho biết tiếp là xã hội dân sự Việt Nam có cơ hội chứng tỏ là đã trưởng thành. Theo chương trình, phái đoàn sẽ đi qua nhiều nước châu Âu, như Thụy Sĩ, Bỉ, Ba Lan, Cộng Hòa Séc, tiếp xúc với cơ quan Liên Hiệp Quốc, Liên Hiệp Châu Âu và các tổ chức quốc tế khác.