Đám tang tù chính trị qua đời vì Aids

Đám tang tù chính trị qua đời vì Aids

Thứ hai, 7 tháng 7, 2014

Ông Huỳnh Anh Trí sau khi ra tù và biết mình bị nhiễm HIV

Đám tang ông Huỳnh Anh Trí, tù nhân chính trị từng bị giam 14 năm vừa qua đời vì bệnh Aids, được tổ chức tại TP HCM.

Ông Trí qua đời vào trưa hôm thứ Bảy ngày 5/7.

Hiện đang có cáo buộc ông Trí bị nhiễm HIV khi đang thụ án trong tù và đây là một ‘hành động cố ý’ đối với ông. Tuy nhiên, BBC không có điều kiện kiểm chứng cáo buộc này.

Ông bị chính quyền bắt vào năm 1999 cùng với người anh ruột với cáo buộc ‘Khủng bố chống chính quyền nhân dân’. Ông ra tù vào cuối năm 2013.

Kết quả xét nghiệm sau khi ra tù cho thấy ông đã bị nhiễm HIV.

Ông Trí qua đời khi mới 42 tuổi.

Cố tình gây nhiễm?

Trao đổi với BBC, linh mục Lê Ngọc Thanh, người đã gần gũi bên cạnh ông Trí vào những lúc cuối đời của ông, nói rằng ông Trí nghi ngờ mình đã bị nhà tù ‘cố tình làm cho nhiễm HIV’.

Linh mục Thanh cho biết ông Trí có đề cập đến ‘hai bằng chứng’ để chứng minh cho nghi ngờ này là “các tù nhân chính trị đều dùng chung một lưỡi lam để cạo râu cắt tóc” và “cùm chân cùng chiếc với những tù nhân bị chảy máu khi bị cùm”.

“Theo anh Trí thì không có sự chăm sóc y tế đặc biệt nào đối với những tù nhân bị nhiễm HIV’.

“Họ không bao giờ được tạo cơ hội để xét nghiệm.”

Ông Thanh cho biết trong những ngày cuối đời ông Trí ‘bình an, không sợ chết’.

“Điều anh Trí lo lắng nhất là làm sao cho những người bạn tù của mình, nhất là tù chính trị, tù tôn giáo, không bị vô tình hay cố ý làm lây nhiễm HIV,” ông nói.

Theo ông Thanh thì ông Trí ‘không hối tiếc việc mình đã làm’.

 

Ánh sáng xuyên màn đêm

Ánh sáng xuyên màn đêm

Chuacuuthe.com

tri0

VRNs (06.07.2014) – Sài Gòn – “Con thì đã xong rồi, nhưng còn các anh em trong tù thì sao?” Đó là câu hỏi của Huỳnh Anh Trí đặt ra với chúng tôi sau khi anh biết mình đã bị nhiễm HIV. Cái ngày mà tôi không thể quên : 28.05.2014.

Huỳnh Anh Trí sinh năm 1971 tại Sài Gòn. Đầu thập niên 90, anh Trí theo gia đình di cư sang Thái Lan. Năm 1999, anh tham gia vào tổ chức Việt Nam Tự Do tại Bangkok, một tổ chức có đường lối đấu tranh chống lại sự độc tài của đảng cộng sản Việt Nam.

Tháng 12.1999, Huỳnh Anh Trí bị bắt cùng với người anh ruột là Huỳnh Anh Tú (sinh năm 1968) tại Sài Gòn. Anh Trí và người anh cùng bị kết án 14 năm tù giam với tội danh “khủng bố” theo điều 79 của Bộ Luật Hình Sự .

Năm 2001, Huỳnh Anh Trí bị chuyển đến giam tại nhà tù Xuân Lộc (tỉnh Đồng Nai). Trong thời gian bị giam giữ tại đây, anh Trí đã đấu tranh với các quản giáo và giám thị trại giam để phản đối tình trạng giam giữ vô nhân đạo đối với tù nhân, đặc biệt là các tù nhân chính trị.

Năm 2005 và 2006, Huỳnh Anh Trí cùng với các tù nhân chính trị đã gởi đơn đến bộ trưởng bộ Công an lúc đó là ông Lê Hồng Anh, Ban giám thị nhà tù để phản đối quy định chỉ cho sử dụng một dao lam cạo râu, hớt tóc cho rất nhiều rất tù nhân (cả thường phạm và chính trị), điều này dẫn đến lây nhiễm HIV và các bệnh truyền nhiễm khác cho nhiều tù nhân bị giam giữ chung. Nhất là việc sử dụng cùm không sạch, sau khi người nhiễm HIV/AIDS đã cùm bị chảy máu, cho các tù nhân chính trị và Huỳnh Anh Trí đã bị lây nhiễm.

Anh Trí kể, khi bị cùm, người tù rất sợ cùm dơ. Cùm dơ là cùm đã khóa chân người nhiễn HIV/AIDS dính đầy máu, thậm chí có cả da và ít thịt, nhưng không bao giờ được tẩy sạch. Anh Trí nói: “Tôi đã hỏi bác sĩ tuyên truyền về HIV/AIDS của Tổng cục VIII rằng khi cùm dính máu người nhiễm, rồi cùm cho tôi thì tôi có bị nhiễm không? Ông bác sĩ đó trả lời : “ tôi không biết!”

Người tù muốn thoát cùm dơ thì phải biết điều, phải cắt phần tiền trong sổ cantin trại giam, có khi phải tới một triệu, cho người quản cùm thì mới được cùm sạch. Anh Trí bị cùm dơ trong cả một thời gian dài.

Chúng tôi hỏi, tại sao anh muốn kể lại chuyện anh bị nhiễm HIV/AIDS? Anh Trí cho biết là phải tố cáo những độc ác của nhà tù để bảo vệ những tù nhân chính trị. Ông Nguyễn Hữu Cầu cũng có mặt trong buổi nói chuyện đã bổ sung. “Tôi thấy một anh chuẩn bị cùm vào cùm dơ đã quỳ và bái lạy nhiều lần trung úy Giang để khỏi phải bị đưa chân vào đó”.

Kết quả xét nghiệm làm tại một Trung tâm y khoa ở Sài Gòn, ngày 28.05.2014 cho biết “Test HIV (test nhanh), kết quả phát hiện kháng thể HIV, đề nghị làm thêm Elisa HIV”. Kết quả xét nghiệm Elisa tại Viện Pasteur TP.HCM, ngày 29.05.2014, do thạc sĩ Lê Chí Thanh ký cho biết: Tỉ lệ tế bào TCD4 là 5.89%, trong khi bình thường phải là từ 29.5 – 41.9%. Số lượng tế bào TCD4 là 44.00/mm3, trong khi đó ngưỡng phải đạt từ 576 – 1254/mm3. Cơ thể của anh Huỳnh Anh Trí đã có nhiều bệnh cơ hội phát triển ngoài da và lao. Anh đã vào giai đoạn cuối của AIDS.

Một người em kết nghĩa đã đưa anh Trí đi làm các xét nghiệm kể: “Khi có kết quả, bác sĩ nói chuyện riêng với anh Trí. Anh Trí nói mình đã đoán biết và sẵn sàng đón nhận kết quả hôm nay. Bác sĩ ôm chầm lấy anh Trí và khóc. Ông nói họ đã dùng cách này để giết hại bao nhiêu người yêu nước”. Anh Trí kể, “bác sĩ cho tôi tiền và bảo ông sẽ cố gắng hết sức để cứu tôi. Tôi nói không sao đâu bác sĩ. Tôi chỉ lo cho các chiến hữu còn trong tù của tôi, vì khi ở trong tù, tôi đã chứng kiến 14 trường hợp tù chính trị bị nhiễm SIDA và chết”.

Anh Huỳnh Anh Tú, người anh trai cùng tội danh và bản án nói : “Những người tù chính trị chúng tôi phải giữ tư cách, không có chuyện xâm mình như các tù hình sự, nên không thể nói lây bệnh AIDS qua đó được”.

Khi được hỏi những ngày cuối cùng, anh Trí có ước mơ gì không? Cô Võ Thị Ánh Tuyết, sinh năm 1986, người yêu của anh Trí mới sáu tháng qua và cũng là người chăm sóc anh tận tình kể từ khi anh biết mình bị nhiễm AIDS. Cô nói: “Anh Trí muốn hai chúng tôi về quê chung sống, tôi hỏi ảnh, bây giờ mình làm đám cưới nha anh. Ảnh nói để anh khỏe rồi tính, chứ giờ lỡ có gì thì thiệt thòi cho em lắm”.

“Khi hay tin anh Trí bệnh, ba má chị Tuyết định lên thăm, thì anh Trí nói mình trẻ không đi thăm ông bà, để ông bà đi lên là không được. Anh dậy đi về An Giang thăm ba má vợ tương lai’- Người em kết nghĩa của Trí kể.

Ông bà rất muốn con gái mình chăm sóc cho anh Trí, vì xem đây là cái phước cũng như cái nghiệp của con gái mình.

Chúng tôi hỏi, tại sao cô Tuyết là đi yêu một cựu tù nhân? Cô Tuyết lắng lại một lúc lâu rồi nói: “Anh Trí là người rất tình nghĩa”.

Khi nghe anh Trí lâm trọng bệnh, nhiều người đã quen từ lâu, và nhiều người hơn chưa hề quen biết đã hỏi thăm, cầu nguyện và giúp đỡ.

Khoảng hơn 22:00g, ngày 04.07, anh Tú và cô Tuyết thấy tình trạng sức khỏe của anh đã nguy kịch, nên đã đưa anh đến Bệnh viện Nhiệt Đới, nhưng ở đây không tiếp nhận mà chỉ qua bệnh viện Phạm Ngọc Thạch. Những người thân đưa anh đến Phạm Ngọc Thạch thì ở đây không nhận với lý do không có hộ khẩu. Cấp cứu mà cũng cần có hộ khẩu nữa sao? Sau đó anh Trí bị ngất, không biết gì nữa. Các bác sĩ và nhân viên ý tế bệnh viện này đuổi anh và người nhà ra. Nhưng có một bác sĩ đến lay lay làm anh Trí tĩnh lại, nên họ chấp nhận đưa anh vào phòng hồi sức.

13:30g, ngày 05.07.2014, anh Huỳnh Anh Trí từ trần tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch.
Anh đã ra đi, gia đình xin mang xác về để lo an táng. Đến đây thì bệnh viện không cho với lý do không có ai chứng thực được là thân nhân. Tiêu chuẩn phải để xác định thân nhân là có chung hộ khẩu. Lại hộ khẩu! Anh Tú và anh Trí khi ra tù đến nhà người chị là chị Đào xin nhập hộ khẩu thì công an gây khó khăn, suốt từ cuối năm 2013 đến nay vẫn chưa có hộ khẩu thì lấy đâu ra cùng tên trong hộ khẩu để xác nhận thân nhân.

Cách thứ hai là về công an địa phương xác nhận anh Trí là thân nhân chị Đào. Chiều thứ bảy không tìm được công an, mà gia đình cũng cho rằng công an đã tìm cớ không làm hổ khẩu thì họ cũng tìm cớ không xác nhận. Thế là không còn cách nào để xác nhận người ruột thịt với anh Huỳnh Anh Trí để lãnh xác về.

Người tù thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu có mặt ngay sau khi anh Trí mất cho biết, “có mấy người cò mồi cứ đi theo hỏi hoài rằng có muốn lo không, họ sẽ lo từ A tới Z cho”. Theo ông Cầu đây là việc làm có phân công tổ chức, chứ không chỉ là một việc làm kiếm tiền của những người ăn bám vào xác chết. Ông kể, “một người đang nói thì có một bà mặc quần lửng bước tới nói, hôm nay thứ bảy là ngày lẽ, đâu phải của tụi bay đâu mà nói. Tức thì người kia bỏ đi”.

Chúng tôi vào cùng với anh Tú để thuyết phục cô điều dưỡng trưởng tên Hương rằng anh Tú và anh Trí cùng ra tù, và trên giấy quyết định ra tù có ghi rõ tên cha mẹ của hai người giống nhau, nên chắc chắn hai người này là ruột thịt, nên xin ch anh Tú lãnh xác. Cô Hương trả lời, “anh này cũng không có hộ khẩu thì làm sao, chúng tôi phải nắm người có tóc”. Giải thích và thuyết phục khá lâu, nhưng cô điều dưỡng trưởng tên Hương vẫn cứ nói rằng “chúng tôi không thể làm sai nguyên tắc”.

Sau đó chúng tôi yêu cầu gặp trực lãnh đạo của bệnh viện, cô gọi một bác sĩ xuống, có lẽ là bác sĩ phó khoa, ông này cũng xuôi theo cô điều dưỡng. Khi chị Đào mang giấy khai sanh của chị và anh Trí ra, thì ông bác sĩ này mới gọi điện thoại xin ý kiến lãnh đạo, và cuối cùng đã đồng ý cho nhận xác về.

Các linh mục DCCT, các nhân viên truyền thông VRNs, cộng tác viên phòng Công lý Hòa bình, và anh em Con đường Việt Nam cùng vài tù nhân lương tâm có mặt để tẩn liệm cho anh ngay tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch lúc 18:00. Sau đó thi hài anh Trí được đưa về quàn tại nhà nguyện xóm 2 thuộc giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, trên đường Hoàng Sa, gần ngã tư Rành Bùng Binh.

Bóng tối không che được ánh sáng, cũng chẳng làm mờ mắt người có ánh sáng trong con tim và cộng đồng như anh Huỳnh Anh Trí.

Antôn Lê Ngọc Thanh, CSsR

 

Đám cưới của chàng thanh niên trẻ bị ung thư gây xúc động cho cư dân mạng

Đám cưới của chàng thanh niên trẻ bị ung thư gây xúc động cho cư dân mạng

Chuacuuthe.com

1

VRNs (06.07.2014) -Sài Gòn- CNA cho biết, hàng triệu người xem trên toàn thế giới đã xem một video trên YouTube và gửi cho nhau. Video nói về lòng quyết tâm của một người đàn ông trẻ ở Philippines kết hôn với tình yêu của đời mình chỉ vài giờ trước khi chết do bị ung thư giai đoạn cuối.

Vào đầu năm nay, Rowden và Leizel quyết định kết hôn. Họ lên kế hoạch cho đám cưới vào ngày 08 tháng 7, nhưng Rowden, chàng trai 29 tuổi, được chẩn đoán bị ung thư thận nặng vào cuối tháng năm.

Biết rằng bệnh ung thư của anh đã vào giai đoạn cuối, ước muốn cuối cùng Rowden là kết hôn với Leizel. Cặp đôi này đã chuyển ngày và quyết định “đưa nhà thờ” về với anh tại bệnh viện, khi anh không còn có thể đi ra ngoài được nữa.

Sau 12 giờ chuẩn bị cho đám cưới, anh đã có thể thực hiện ước mơ của mình.

Rowden qua đời vào ngày 11 tháng 6, chỉ 10 giờ sau khi kết hôn với Leizel. Video thuật lại câu chuyện của họ đã được đăng trên YouTube do anh trai của anh thực hiện.

Trong vòng hai tuần, đoạn video đã được xem hơn 10 triệu lần.

Trong mô tả kèm theo video, gia đình Rowden cho biết họ muốn “cảm ơn Người Bạn Chí Cốt – Chúa Giêsu Kitô vì Người đã an bài câu chuyện đầy xúc động này. Và đã cho chúng tôi đủ thời gian để cho Rowden thực hiện điều anh muốn và Chúa đã cho anh thấy mình được yêu thương như thế nào.

Pv. VRNs

 

Chống buôn người: Việt Nam chưa đáp ứng những tiêu chuẩn tối thiểu

Chống buôn người: Việt Nam chưa đáp ứng những tiêu chuẩn tối thiểu

Nghe (16:01)

VOA

Thanh Phương

Trong bản Báo cáo Tình hình Buôn người năm 2014, vừa được công bố ngày 20/06/2014, bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vẫn xếp Việt Nam vào Danh sách loại 2 ( TIER 2 ), vì chính phủ Việt Nam bị xem là « chưa tuân thủ đầy đủ những tiêu chuẩn tối thiểu, tuy nhiên cũng đã có những nỗ lực đáng kể nhằm xóa bỏ nạn mua bán người. »

Hãng tin AFP ngày 26/06 vừa qua đã có một bài nói về nạn buôn phụ nữ Việt Nam sang Trung Quốc để làm vợ, nhằm đáp ứng nhu cầu của một quốc gia mà chính sách một con đã dẫn đến tình trạng trai thừa gái thiếu một cách trầm trọng, khiến nhiều đàn ông không kiếm được vợ. Rất nhiều phụ nữ Việt Nam vẫn tiếp tục là nạn nhân của những đường dây buôn người, nhắm vào những cộng đồng dân cư nghèo ở các tỉnh miền núi giáp biên giới Việt Trung.

AFP nêu trường hợp của một cô gái 16 tuổi, với tên được đổi là Kiab để giấu danh tính của cô. Kiab đã bị chính người anh ruột lừa bán làm vợ cho một người Trung Quốc. Sau khi sống một tháng trong « gia đình chồng », Kiab đã trốn thoát được. Cảnh sát Trung Quốc đã gởi trả Kiab về Việt Nam và hiện nay cô sống cùng với khoảng 10 phụ nữ khác trong một trại ở Lào Cai, do Nhà nước lập ra cho những nạn nhân của các đường dây buôn phụ nữ.

Theo số liệu thống kê của chính quyền Việt Nam, trong năm 2013 đã có gần 1000 phụ nữ là nạn nhân của các đường dây này, trong đó 70% là đưa sang Trung Quốc. Theo lời ông Michael Brosowski, thuộc tổ chức Blue Dragon Children ( đã giải cứu 71 phụ nữ ở Việt Nam từ năm 2007 ), các phụ nữ này bị bán với giá có thể lên tới 5000 đôla để làm vợ hoặc bán vào các ổ mãi dâm.

Trong bản Báo cáo Tình hình Buôn người năm 2014, vừa được công bố ngày 20/06/2014, bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vẫn xếp Việt Nam vào Danh sách loại 2 ( TIER 2 ), vì chính phủ Việt Nam bị xem là « chưa tuân thủ đầy đủ những tiêu chuẩn tối thiểu, tuy nhiên cũng đã có những nỗ lực đáng kể nhằm xóa bỏ nạn mua bán người. »

Bản báo cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ nhắc lại rằng Việt Nam là quốc gia xuất phát của nhiều nam giới, phụ nữ và trẻ em bị mua bán vì mục đích tình dục hoặc bị cưỡng ép lao động trong nước và nước ngoài. Việt Nam là quốc gia có nhiều nam giới và phụ nữ di cư ra nước ngoài lao động thông qua con đường tự túc hoặc thông qua các công ty xuất khẩu lao động nhà nước, tư nhân và cổ phần.

Sau đó, một số người đã bị cưỡng ép lao động trong các ngành xây dựng, đánh bắt thuỷ sản, nông nghiệp, khai thác mỏ, khai thác gỗ, chế tạo, và một số ngành khác, chủ yếu tại Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc, Lào, các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, và Nhật Bản, và ở mức độ thấp hơn là tại Trung Quốc, Thái Lan, Cambốt, Indonesia, Anh, Cộng hoà Séc, Đảo Síp, Pháp, Thuỵ Điển, Trinidad và Tobago, Costa Rica, Nga, Ba Lan, Ukraina, Libya, Ả Rập Xêút, Jordani và một số quốc gia khác ở châu Âu, Trung Đông và Bắc Phi.

Cũng theo báo cáo Tình hình buôn nguời 2014 của Bộ Ngoại giao Mỹ, phụ nữ và trẻ em Việt Nam tiếp tục bị bán sang các nước ở châu Á vì mục đích cưỡng ép tình dục, đặc biệt là Trung Quốc, Cam Bốt, Malaysia, và Nga. Nhiều nạn nhân người Việt của việc buôn bán tình dục cũng đã được tìm thấy ở Ghana. Một số phụ nữ Việt Nam sang Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Macao, Singapore hay Hàn Quốc để thành hôn với người nước ngoài thông qua môi giới, sau đó đã bị cưỡng ép phục vụ trong gia đình, hành nghề mại dâm, hoặc cả hai.

Bảo cáo nhắc lại rằng, « làm công trừ nợ, thu giữ hộ chiếu, và dọa nạt bị trục xuất là những thủ đoạn thường được dùng để bắt các nạn nhân Việt Nam phải phục vụ ». Các mạng lưới tội phạm có tổ chức của Việt Nam và Trung Quốc đã đưa những người dân Việt Nam, chủ yếu là trẻ em, sang Vương quốc Anh và Đan Mạch, buộc họ làm việc trong các trang trại trồng cần sa.

Các công ty xuất khẩu lao động Việt Nam, hầu hết là các đơn vị thành viên của các công ty nhà nước, và các nhà môi giới lao động trung gian không có giấy phép hoạt động, đôi khi đã bắt người lao động phải đóng những khoản phí vượt quá mức quy định của pháp luật để được đi xuất khẩu lao động. Kết quả là người lao động Việt Nam phải gánh chịu những khoản nợ cao nhất trong số những lao động người châu Á, và họ rất dễ rơi vào cảnh bị cưỡng ép lao động, bao gồm việc phải làm công trừ nợ.

Sau khi đến nước tiếp nhận lao động, một số người mới nhận ra rằng họ bị bắt buộc phải làm việc trong những điều kiện tồi tàn, được trả lương rất ít hoặc không được trả lương, bất chấp những khoản nợ đang đè nặng trên vai, cũng như không được tiếp cận với kênh trợ giúp pháp lý đáng tin cậy nào.

Theo bộ Ngoại giao Mỹ, báo cáo của các tổ chức phi chính phủ và của chính phủ cho thấy những kẻ buôn người ngày càng nhắm đến các nạn nhân ở những vùng sâu vùng xa, là nơi mà mức độ nhận thức của người dân và chính quyền về nạn buôn người còn thấp. Các tổ chức phi chính phủ cho biết các đối tượng mua bán người đang tăng cường sử dụng Internet để dụ dỗ các nạn nhân, dẫn đến số lượng những người Việt Nam thuộc tầng lớp trung lưu ở thành thị trở thành nạn nhân của những vụ mua bán người cũng ngày càng tăng.

Theo cuộc khảo sát năm 2012 do tổ chức UNICEF tài trợ về vấn đề bóc lột tình dục trẻ em vì mục đích thương mại, Việt Nam là điểm đến của du lịch tình dục trẻ em, mà những kẻ mua dâm chủ yếu là những người đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan, Anh, Úc, Châu Âu và Hoa Kỳ.

Xuất phát từ những thực tế nói trên, báo cáo của bộ Ngoại giao Mỹ đưa ra một số khuyến nghị với chính phủ Việt Nam, mà đầu tiên là phải sử dụng các quy định trong luật mới về Phòng chống Mua bán người để « kiên quyết » truy tố tất cả các hình thức mua bán người và kết án và xử phạt những kẻ buôn người, đặc biệt trong những vụ cưỡng bức lao động.

Trả lời phỏng vấn RFI về bản báo cáo nói trên, tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, giám đốc điều hành tổ chức BPSOS, tại bang Virginia, Hoa Kỳ, cho rằng lẽ ra bộ Ngoại giao Hoa Kỳ phải xếp Việt Nam ở thứ bậc thấp hơn, tức là hạng 3, thay vì hạng 2, vì, theo ông, chính phủ Hà Nội chưa thật sự quyết tâm bài trừ tệ nạn buôn người, thậm chí đứng đằng sau nhiều vụ buôn người. Sau đây mời quý vị theo dõi bài phỏng vấn với ông Nguyễn Đình Thắng:

TS Nguyễn Đình Thắng, Virginia, Hoa Kỳ

 

27/06/2014

 

Nghe (11:23)

 

 

 

 

Cựu tù nhân lương tâm Huỳnh Anh Trí qua đời do nhiễm HIV trong tù ?

Cựu tù nhân lương tâm Huỳnh Anh Trí qua đời do nhiễm HIV trong tù ?

Trọng Thành

Cựu tù nhân lương tâm Huỳnh Anh Trí, người vừa mãn hạn tù được sáu tháng, sau 14 năm bị giam cầm, vừa qua đời hôm nay, 05/07/2014, ở tuổi 43, tại bệnh viện Phạm Ngọc Thạch ở Sài Gòn. Ít ngày nay, có nhiều thông tin được lưu truyền về các xét nghiệm y tế cho thấy ông Huỳnh Anh Trí có thể đã bị nhiễm HIV trong thời gian ở tù, và trước khi mất, sức khỏe ông suy yếu trầm trọng do bệnh đã chuyển sang giai đoạn AIDS.

Sau sự ra đi của nhà giáo Đinh Đăng Định, ông Huỳnh Anh Trí là cựu tù nhân lương tâm thứ hai từ trần ít lâu sau khi ra tù trong năm 2014. Dư luận đặt nhiều câu hỏi về những nguyên nhân khiến ông Huỳnh Anh Trí bị mắc căn bệnh hiểm nghèo trong tù.

Về cái chết của ông Huỳnh Anh Trí và phản ứng từ phía chính quyền Việt Nam, RFI đặt câu hỏi với ông Nguyễn Bắc Truyển, thành viên Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo, người đã có thời gian cùng sống trong một trại giam với người tù lương tâm vừa qua đời.

Nguyễn Bắc Truyển, thành viên Hội Ái hữu Tù nhân Chính trị và Tôn giáo

 

05/07/2014

 

Nghe (07:32)

 

 

 

Phụ thuộc Trung Quốc vì kinh tế bị các nhóm lợi ích chi phối

Phụ thuộc Trung Quốc vì kinh tế bị các nhóm lợi ích chi phối
July 04, 2014

Nguoi-viet.com
HÀ NỘI (NV) – Thảo luận về tự chủ kinh tế, nhiều chuyên gia tin rằng sự phụ thuộc Trung Quốc về kinh tế là do kinh tế Việt Nam bị các “nhóm lợi ích” chi phối.


Dự án xây dựng cảng Vĩnh Tân ở Bình Thuận do nhà thầu Trung Quốc đảm nhận có rất nhiều tai tiếng. (Hình: Thanh Niên)

Thực tế cho thấy, Việt Nam đã trao gần như toàn bộ các hợp đồng EPC (NV: Engineering, Procurement and Construction contract – hợp đồng tổng thầu, loại hợp đồng mà nhà thầu thực hiện toàn bộ các công việc từ thiết kế kỹ thuật hoặc thiết kế bản vẽ thi công, cung ứng vật tư, thiết bị đến thi công và chạy thử rồi mới bàn giao cho chủ đầu tư) cho nhà thầu Trung Quốc: 23/24 dự án xi măng, 15/20 dự án nhiệt điện đốt than, 5/6 dự án hóa chất, 2/2 dự án chế biến khoảng sản, chưa kể các dự án giao thông, chưa kể ưu tiên cho thuê rừng và đất rừng ở biên giới.

Khi bàn về tự chủ kinh tế, ông Lê Ðăng Doanh, một chuyên gia kinh tế, tiếp tục thắc mắc tại sao lại xảy ra điều đó. Thực tế vừa kể đem lại bao nhiêu lợi ích quốc gia, bao nhiêu lợi ích cho các nhòm, các cá nhân?

Ông Doanh nhấn mạnh, Trung Quốc là “thầy” về mua chuộc, đút lót. Tình trạng kinh tế Việt Nam phụ thuộc vào Trung Quốc phải chăng là do bị các nhóm lợi ích chi phối quá mạnh.

Không chỉ giành được phần lớn các hợp đồng thông qua đấu thầu, các doanh nghiệp Trung Quốc còn đang dốc tiền mua lại các doanh nghiệp khác ở Việt Nam, chẳng hạn mua lại Công Ty CP của Thái Lan để nắm quyền chi phối toàn bộ thị trường thức ăn gia súc, gia cầm ở Việt Nam.

Theo thống kê của Hải Quan CSVN, năm 2012, Việt Nam nhập cảng các loại hàng hóa, nguyên liệu từ Trung Quốc có giá trị 28.8 tỉ Mỹ kim, trong khi Trung Quốc cho biết, năm 2012, lượng hàng hóa, nguyên liệu mà Trung Quốc xuất cảng sang Việt Nam trị giá 34 tỉ Mỹ kim. Chênh lệch giữa thống kê nhập cảng và xuất cảng giữa hai bên là 5,2 tỉ Mỹ kim và ông Doanh nhận xét, khoản chênh lệch lớn bất thường đó phải chăng là qua đường tiểu ngạch.

Ông Nguyễn Văn Thụ, chủ tịch Hiệp Hội Doanh Nghiệp Cơ Khí Việt Nam, lặp lại điều mà nhiều người từng thắc mắc, vì sao nhà thầu Trung Quốc thường xuyên không thực hiện đúng hợp đồng, chất lượng công trình và thiết bị kém, già thành công trình thường xuyên cao hơn giá dự kiến… nhưng hầu hết các dự án vẫn tiếp tục được giao cho các nhà thầu Trung Quốc và chẳng ai ngăn chặn các nhà thầu này đưa từ Trung Quốc sang những loại vật tư, phụ tùng vốn có sẵn tại Việt Nam, cũng như đưa cả lao động phổ thông sang làm việc tại các công trình mà họ là tổng thầu?

Theo ông Thụ, bởi Trung Quốc thắng thầu hầu hết các dự án ở Việt Nam nên nay, khi tổ chức đấu thầu quốc tế chỉ có các nhà thầu Trung Quốc tham gia, nhà thầu của các nước khác không muốn tham gia nữa.

Ông Thụ khẳng định, thực trạng vừa kể là do các chủ đầu tư không có lương tâm.

Ông Thụ cho biết, Hiệp Hội Doanh Nghiệp Cơ Khí Việt Nam đã gửi văn bản cho thủ tướng và chủ tịch nhà nước, đề nghị kiểm tra lại toàn bộ các dự án do Trung Quốc đang thi công dở dang để huy động doanh nghiệp Việt Nam và các nhà thầu ngoại quốc khác hoàn tất những dự án này.

Ông Doanh cho rằng, vì các nhóm lợi ích chi phối các dự án đầu tư nên đã phát sinh nhiều “sơ hở không đáng có” khiến kinh tế Việt Nam phụ thuộc vào Trung Quốc. Ông Doanh đề nghị phải minh bạch và làm rõ trách nhiệm cá nhân.

Hồi hạ tuần tháng trước, sau khi các chuyên gia kinh tế, báo giới liên tục cảnh báo kinh tế Việt Nam lệ thuộc Trung Quốc. Nếu Trung Quốc gây áp lực bằng cách cắt đứt quan hệ kinh tế – thương mại, kinh tế Việt Nam sẽ suy sụp, thông tấn xã Việt Nam đã thực hiện cuộc phỏng vấn ông ông Trương Tấn Sang, chủ tịch nhà nước Việt Nam. Trong cuộc phỏng vấn đó, ông Sang tuyên bố, không để kinh tế Việt Nam phụ thuộc Trung Quốc.

Nhân vật là chủ tịch nhà nước Việt Nam cho biết, Việt Nam theo đường lối “đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ” để “bảo đảm cùng có lợi và dứt khoát không để phụ thuộc vào bất kỳ quốc gia nào trong cả kinh tế lẫn chính trị” song nhìn nhận, “một số lĩnh vực thực hiện không đúng chủ trương này, ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế” và thừa nhận nhập siêu từ Trung Quốc “càng ngày càng lớn, liên tục” và trong đó có “các nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất.” (G.Ð)

 

VN lên án TQ tại LHQ

VN lên án TQ tại LHQ

Thứ sáu, 4 tháng 7, 2014

Tàu hai nước tiếp tục va chạm hàng ngày tại vùng biển đặt giàn khoan

Việt Nam đề nghị Liên Hiệp Quốc (LHQ) lưu hành hai văn bản về lập trường của Việt Nam về vụ giàn khoan Hải Dương – 981 và chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa.

Diễn biến mới nhất xảy ra hôm 3/7, khi Đại sứ Lê Hoài Trung, Trưởng Phái đoàn Việt Nam tại LHQ, một lần nữa gửi thư cho Tổng thư ký Ban Ki-moon.

Đại sứ Trung đề nghị lưu hành hai văn bản “như là những tài liệu chính thức của Đại hội đồng LHQ”, theo thông cáo của Bộ Ngoại giao Việt Nam.

Văn bản thứ nhất “bác bỏ toàn bộ, cả trên thực tế cũng như pháp lý” hai văn bản của Trung Quốc gửi cho Tổng thư ký Ban Ki-moon ngày 22/5 và 9/6.

Theo thông cáo của Việt Nam, văn bản gửi LHQ nói Trung Quốc “làm gia tăng căng thẳng ở Biển Đông bằng các hành động vi phạm luật pháp quốc tế”.

“Tình hình căng thẳng hiện nay xuất phát từ việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam,” Việt Nam nói.

Việt Nam cáo buộc Trung Quốc đã tấn công cả tàu thực thi pháp luật và tàu của ngư dân.

Hành động của Trung Quốc “không chỉ vi phạm quy định cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong luật pháp quốc tế mà còn là hành động vô nhân đạo đối với những người đi biển”.

Việt Nam cũng nói với LHQ rằng Trung Quốc “khước từ” các “nỗ lực và thiện chí của Việt Nam để giải quyết tình hình căng thẳng”.

Theo phía Việt Nam, từ ngày 2/5, Việt Nam đã “gửi công hàm, giao thiệp trên 30 lần ở nhiều cấp khác nhau” để phản đối Trung Quốc.

Chủ quyền Hoàng Sa

Văn bản thứ hai của Việt Nam nói Việt Nam “hoàn toàn bác bỏ” yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa.

Việt Nam cho biết trong các trao đổi gần đây, Trung Quốc dẫn ra một số “bằng chứng lịch sử”, nhưng Việt Nam nói chúng “không có nguồn gốc rõ ràng, không chính xác và được Trung Quốc diễn giải một cách tùy tiện”.

“Các ghi chép lịch sử cho thấy Trung Quốc hiểu rằng chủ quyền của họ chưa bao giờ có quần đảo Hoàng Sa,” phía Việt Nam nhấn mạnh.

“Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng hoàn toàn không nhắc gì đến chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa hay Trường Sa”

Văn bản của Việt Nam cũng bác bỏ những tư liệu gần đây được Trung Quốc dẫn ra để nói Việt Nam từng công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa.

Việt Nam nói Trung Quốc “cố tình xuyên tạc lịch sử và diễn giải sai lịch sử khi viện dẫn Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 và một số tài liệu, ấn phẩm được xuất bản ở Việt Nam trước năm 1975”.

“Công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng hoàn toàn không nhắc gì đến chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa hay Trường Sa,” văn bản nói.

Việt Nam cũng nhấn mạnh vào tháng 9 năm 1975, lãnh đạo Trung Quốc Đặng Tiểu Bình nói với lãnh đạo Việt Nam Lê Duẩn tại Bắc Kinh rằng “với nguyên tắc thông qua Hiệp thương hữu nghị để giải quyết bất đồng, sau này hai nước sẽ bàn bạc giải quyết”.

Việt Nam cho rằng đây là bằng chứng Trung Quốc nhận thức được “vấn đề chủ quyền không được dàn xếp có lợi cho phía Trung Quốc qua các phát biểu hay thỏa thuận trước đây”.

Gần đây các lãnh đạo cao cấp của Việt Nam, từ Tổng Bí thư đến Thủ tướng, đều đề cập khả năng kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế vì vụ giàn khoan.

Nhà đấu tranh Lư Văn Bảy vừa mãn hạn tù

Nhà đấu tranh Lư Văn Bảy vừa mãn hạn tù

Tường An, thông tín viên RFA
2014-07-03

tuongan07032014.mp3

2681287-305.jpg

Ông Lư Văn Bảy tại phiên tòa ngày 22/8/2011 ở Kiên Giang.

Courtesy toaan.gov.vn

Ngày 26 tháng 6 vừa qua, lại có thêm một nhà hoạt động nữa vừa được trả tự do sau 4 năm tù. Đó là ông Lư Văn Bảy, Thông tín viên Tường An gửi những thông tin về nhà hoạt động này như sau:

Chỉ thực hiện quyền tự do ngôn luận

Cùng một ngày ra khỏi tù với nhà hoạt động công đoàn Đỗ Thị Minh Hạnh là một nhà đấu tranh thầm lặng ít được biết đến hơn, đó là ông Lư Văn Bảy. Ông được giảm án 2 lần = 9 tháng và ra tù ngày 26/6 vừa qua.

Sinh năm 1952, quê tại Kiên Giang, ông Lư Văn Bảy nguyên là chuyên viên kỹ thuật không quân trước năm 1975. Sau thời gian tù cải tạo, ông về quê làm ruộng. Tháng 9 năm 1977, ông tham gia “Mặt Trận Liên Tôn” bị bắt vào tháng 12 cùng năm đó, bị kết án 6 năm tù. Mãn hạn tù giam, ông trở về nhà vào tháng 9 năm 1983.

Những tưởng sẽ an bình với cuộc đời làm ruộng, nhưng rồi, bức xúc trước sự xâm lấn ngang ngược của Trung Quốc trên lãnh hải Việt Nam, từ năm 2006 ông đã bắt đầu viết những bài viết dưới những bút hiệu khác nhau như: Chánh Trung, Nguyền Hoàng, Hoàng Trung Việt, Hoàng Trung Chánh… gửi đến các mạng truyền thông nước ngoài, có những bài ông gửi thẳng cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ Lê Công Phụng, cho Quân đội Nhân dân Việt Nam hoặc cho ông Nguyễn Cao Kỳ. Ông cho biết lý do thôi thúc ông, từ một người nông dân chỉ quen với ruộng vườn trở thành tác giả của những bài viết với chủ đề nhạy cảm như: dân chủ đa nguyên, chủ quyền lãnh hải…v.v

Tôi viết những bài, trước nhất là để lên án Trung Quốc đồng thời phản đối chính quyền Việt Nam quá mềm yếu đối với Trung Quốc.
-Lư Văn Bảy

“Tình cờ tôi đọc được trong một cuốn sách “Sự thật về chiến tranh biên giới năm 1979” do đó tôi được biết được những cảnh tàn ác của Trung Quốc, do đó lòng yêu nước của tôi, lòng thương dân tộc của tôi trỗi dậy. Tiếp theo đó là tôi coi được đoạn phim về đảo Gạc Ma, nó ngang nhiên chiếm năm 1988 và tôi cũng đã nhìn thấy cảnh 64 chiến sĩ hải quân ở đó, nó dàn hàng ngang nó bắn từng người. Còn trong nước thì hàng hoá của Trung Quốc là chất độc mà biểu tình thì không được, lên tiếng nói Trung Quốc cũng không được. Do tự do ngôn luận của tôi, tôi mới viết những bài, trước nhất là để lên án Trung Quốc đồng thời phản đối chính quyền Việt Nam quá mềm yếu đối với Trung Quốc.”

Tháng 1 năm 2008, ông bị công an tịch thu máy tính với nhiều bài vở. Sau đó ông được thả với lời hứa sẽ không viết nữa. Tuy nhiên, một thời gian sau, bức xúc trước sự xâm lấn của Trung quốc và chính sách mềm yếu của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam, ông lại tiếp tục viết dưới bút hiệu khác là Trần Bảo Việt với nội dung kêu gọi một nền Dân chủ đa nguyên, lên án Trung Quốc xâm lược, xin chút tình thương cho Người tù xuyên thế kỷ Nguyễn Hữu Cầu, người tù Trương Văn Sương… Về nội dung của những bài viết này, ông khẳng định:

“Tôi chỉ viết ra những bài về nền Dân chủ Đa nguyên thôi chứ tôi không chủ trương lật đổ chính quyền, tôi cũng không chủ trương chống đối chính quyền gì hết mà tôi chỉ thực hiện quyền tự do ngôn luận theo điều 69 của tôi là thực hiện một chế độ đa nguyên để đất nước có một sự đoàn kết toàn dân, nhưng mà chuyện thực hiện đa nguyên bây giờ ở Việt Nam lại rơi vào điều 88 là tuyên truyền chống nhà nước.”

Không muốn đất nước bị lệ thuộc

Lu-van-Bay-tranh-cua-hoa-si-Tran-Thuc-Lan-250.jpg

Chân dung tù nhân lương tâm Lư Văn Bảy qua nét vẽ của hoạ sĩ Trần Lân – Paris. Courtesy Hoạ sĩ Trần Lân.

Ngày 26/3/2011 ông lại bị bắt và trong phiên tòa kéo dài nửa ngày tại tỉnh Kiên Giang ngày 22/8/2011, ông bị kết án 4 năm tù và 3 năm quản chế với tội danh “Truyền truyền chống nhà nước XHCNVN” theo điều 88 bộ luật hình sự Việt Nam. Ông bị Thẩm phán tòa án Kiên Giang buộc tội đã viết trên 10 bài kêu gọi đa nguyên đa đảng đăng trên các mạng truyền thông hải ngoại từ năm 2007 đến 2011. Mặc dù trước áp lực của tòa án, ông Bảy đã nhận việc mình làm là không đúng với luật pháp Việt Nam nhưng ông vẫn tin rằng việc lên tiếng cho một xã hội đa nguyên là phù hợp với điều 69 về Tự do Ngôn luận của pháp luật Việt Nam. Ông bày tỏ:

“Trước phiên tòa tôi cũng nói là tôi không quen biết bất cứ một ai, tôi cũng không tham gia bất cứ một tổ chức nào mà tôi chỉ thực hiện cái quyền tự do, cái quyền của một người công dân của tôi thôi. Trong phiên tòa đó thì họ nói là tôi “Truyền truyền chống nhà nước XHCNVN”, điều 88. Họ nói tôi viết những bài lên án như vậy tức là không đi đúng theo đường lối của nhà nước, nói xấu nhà nước. Trong lúc làm việc với công an điều tra, tôi nói rằng tôi chỉ thực hiện quyền 69, trong đó có quyền tự do ngôn luận, quyền tự do chính trị. Nhưng bây giờ bắt tôi vi phạm điều 88 thì tôi cũng chịu thôi tại vì tôi quá cô đơn, tôi không có ai bênh vực, tôi chỉ bộc phát cá nhân của mình thôi. Nhưng nói đúng ra, họ đối xử với tôi cũng đàng hoàng, có sao tôi nói vậy, tôi là một phật tử. Cái quan trọng của tôi, là một con người, tôi không muốn đất nước của mình phải bị lệ thuộc, nhất là lệ thuộc một bọn bá quyền Trung Quốc.”

Qua những bài viết của ông, người ta nhận thấy ở đó một con người luôn luôn đau đáu trước vận mệnh đất nước, một người yêu nước thầm lặng và chấp nhận trả giá cho lòng yêu nước đó bằng những ngày tù tội. Thân sinh ông chết trước ngày ông ra tù 3 tháng, hậu quả của 4 năm tù là một người vợ bệnh hoạn vì tần tảo nuôi ông trong những năm tháng bị giam cầm. Vẫn không ân hận về những việc đã làm, ông nói:

Trước phiên tòa tôi cũng nói là tôi không quen biết bất cứ một ai, tôi cũng không tham gia bất cứ một tổ chức nào mà tôi chỉ thực hiện cái quyền tự do, cái quyền của một người công dân.
-Lư Văn Bảy

“Hối hận thì tôi không hối hận đâu, nhưng mà bản án quá nặng, tại vì tôi không biết bất cứ một tổ chức nào hết mà tôi cũng không tham gia một tổ chức nào hết, cũng không ai xúi dục tôi hết mà tôi chỉ bộc phát cá nhân của tôi thôi, nhưng mà cái bộc phát cá nhân của tôi mà cái bản án này thì nó quá nặng. Đối với đất nước, đối với tổ quốc, đối với nhân dân thì tội không thẹn với lương tâm của mình. Bản án 4 năm tù, tôi thấy quá nặng đối với tôi, nhưng mà tôi cũng không ân hận vì tôi đã nói lên được tiếng nói của mình mặc dầu tiếng nói của tôi quá bé nhỏ, nó không đủ sức để cảm hoá ai hết, nhưng mà đối với đất nước tôi cũng chỉ làm được thế thôi, biết sao bây giờ !”

Sau 4 năm, tình thế hình như có nhiều thay đổi, đã có những lên tiếng mạnh mẽ hơn từ phía nhà cầm quyền, mặc dù vẫn còn những ngần ngại đâu đó. Những thông tin từ báo chí nhà nước đã cho ông một chút hy vọng:

“Khi tôi ra tù, tôi nói với mấy anh công an như thế này: Trước đây khi Trung Quốc lấn lướt chúng ta mà chính phủ có những hành động như bây giờ thì tôi không ở từ. Và bây giờ tôi hy vọng rằng tất cả những lời nói của ông Nguyễn Tấn Dũng, của chủ tịch nước Trương Tấn Sang và của tất cả những nhà lãnh đạo Việt Nam là đúng sự thật. Tôi rất mong rằng những lời nói của mấy ông này không phải là lời nói suông. Tôi hy vọng rằng những lời nói này sẽ biến thành sự thật, tôi rất mừng. Nhưng nếu những lời nói đó chỉ là những lời nói suông thì nói thật, tôi không biết những gì sẽ xảy ra…”

Khi mà mọi quyền uy chỉ tập trung vào một cá nhân, khi mà một nhóm độc tài lăm le đem quê hương ra làm miếng mồi để thủ lợi. Để được an toàn, người dân chỉ còn biết thể hiện lòng yêu nước trong những giấc mơ. Từ Kiên Giang, người chiến sĩ thầm lặng gửi đến quý thính giả đài Á châu Tự do một niềm ước vọng:

“Tôi xin cám ơn tất cả những người đã quan tâm đến tôi trong thời gian tôi ở tù, và tôi gửi đến tất cả quý khán thính giả của Đài Á Châu Tư Do những lời chúc tốt đẹp và tôi mong rằng đất nước Việt Nam của chúng ta thoát khoải sự xâm lăng của Trung Quốc.”

 

Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam chính thức ra mắt

Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam chính thức ra mắt

Gia Minh, PGĐ Ban Việt ngữ RFA
2014-07-03

giaminh07042014.mp3

hnbdl0703.jpg

Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam chính thức ra mắt hoạt động vào ngày 4 tháng 7 năm 2014.

Courtesy HNBĐLVN

Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam là một tổ chức mới được hình thành và chính thức ra mắt hoạt động vào ngày 4 tháng 7 năm 2014.

Một tiếng nói độc lập

Tiến sĩ Phạm  Chí Dũng, một trong những thành viên sáng lập, có cuộc nói chuyện với Đài Á Châu Tự Do về những thông tin liên quan hội này trong ngày chính thức ra đời. Trước hết ông cho biết:

TS Phạm Chí Dũng: Ngày hôm nay là một ngày vui và theo một số anh em thì đó là ngày lịch sử của Việt Nam vì lần đầu tiên Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam ra đời.

Có thể nói đây là một tiếng nói độc lập với công luận, độc lập với các hội đoàn dân sự. Có một sự thú vị, một sự ngạc nhiên thú vị, như anh Bùi Minh Quốc nói, là ngày thành lập Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam lại rơi đúng vào ngày 4 tháng 7- ngày của Bản Tuyên Ngôn Độc lập của Hoa Kỳ năm 1776, và điều đó quá xứng đáng cho tính chất độc lập của Hội Nhà báo Độc Lập Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh chủ quyền quốc gia bị xâm phạm nghiêm trọng như thế này.

Gia Minh: Vừa qua đã có Hội Nhà Văn Độc Lập ra đời, nay có Hội Nhà Báo Độc Lập ra đời thì sẽ có những hoạt động khác với Hội Nhà Văn Độc Lập cũng như các tổ chức xã hội dân sự ra đời trong thời gian vừa qua như thế nào?

” Chúng tôi là một hội nghề nghiệp, và phục vụ cho các nhà báo, cũng như các cộng tác viên báo chí độc lập, và kể cả những nhà báo quốc doanh.
-TS Phạm Chí Dũng”

TS Phạm Chí Dũng: Chắc cũng có một số khác biệt nhất định. Trước hết chúng tôi là một hội nghề nghiệp, và phục vụ cho các nhà báo, cũng như các cộng tác viên báo chí độc lập, và kể cả những nhà báo quốc doanh muốn tham gia vào trong hội của chúng tôi.

Thứ hai chúng tôi hướng đến những hoạt động thực chất thay cho tính chất hình thức của những hội đoàn dân sự mà vẫn bị dư luận phàn nàn trong thời gian gần đây. Thực chất có nghĩa là chúng tôi sẽ hướng đến những hoạt động cụ thể như tạo ra diễn đàn tự do ngôn luận cho các hội viên. Diễn đàn này sẽ được thể hiện bằng các cuộc tọa đàm, hội thảo, hội nghị liên quan đến một số chủ đề và vấn đề nóng bỏng của đất nước như luật lập hội, luật biểu tình, luật trưng cầu dân ý, và một số vấn đề khác liên quan đến vấn đề thời sự rất nóng bỏng trong tình hình hiện nay là vấn đề truyền thông và vấn đề thoát Trung.

Hoạt động thứ hai là chúng tôi phải có ngay một trang báo để phục vụ cho nhu cầu của độc giả; và chúng tôi kỳ vọng trong 10 năm, nó phải trở thành một tờ báo có đẳng cấp quốc tế trong khu vực Đông Nam Á và ít nhất có thể sánh ngang với tờ Bangkok Post và có thể tiến lên so sánh với tờ  Strait Times của Singapore.

Đồng thời chúng tôi cũng tổ chức đào tạo cho các phóng viên trẻ vốn xuất thân từ giới blogger hiện nay. Đó là một hoạt động hết sức quan trọng vì đó là lớp kế thừa, kế cận cho lớp nhà báo lớn tuổi hiện nay.

pham-chi-dung-250.jpg

Tiến sĩ Phạm Chí Dũng, một trong những thành viên sáng lập trả lời phỏng vấn VRNs, tháng 7 năm 2014. Screen Capture.

Gia Minh: Để có thể trở thành tờ báo có thể so sánh với những tờ như Bangkok Post và Strait Times mà ông vừa mới nói, thì ai là người viết đóng góp cho tờ báo (của Hội Nhà báo Độc Lập)?

TS Phạm Chí Dũng: Hiện nay chúng tôi bắt đầu từ con số không tròn trĩnh, nhưng như anh biết để có thể tạo ra một tờ báo chuyên nghiệp và có đẳng cấp quốc tế thì phải có những cây viết và những nhà làm báo chuyên nghiệp. Mà muốn có những cây viết và những nhà làm báo chuyên nghiệp thì phải đào tạo. Có hai nguồn có thể tiếp sức cho Hội Nhà Báo Độc Lập Việt Nam và trang báo độc lập này, chúng tôi hy vọng nhất là nguồn các tay viết có kinh nghiệm từ giới báo chí quốc doanh. Đó là những người viết mà theo chúng tôi là những người có trình độ, có năng lực, có nhu cầu để thể hiện nhưng chưa có nhu cầu để thể hiện. Và chúng tôi hy vọng trong thời gian tới họ có điều kiện để tham gia và để thể hiện trên trang báo độc lập này.

Thứ hai là nguồn đào tạo từ lớp trẻ. Đây là nguồn mà báo chí Việt Nam từ lề phải lẫn lề trái đều đang thiếu hụt trầm trọng và thậm chí đang bị khủng hoảng. Chúng tôi sẽ cố gắng đào tạo.

Thứ ba, chúng tôi cố gắng gửi những người trẻ được đào tạo đi nước ngoài để học hỏi dựa vào một số tổ chức phi chính phủ quốc tế về báo chí như Tổ chức Phóng viên Không Biên giới, hay Tổ chức Bảo vệ Ký giả Quốc tế, hay Văn bút Quốc tế, hoặc Freedom House…

Chúng tôi hy vọng với tất cả những biện pháp, giải pháp như vậy, chúng tôi có thể làm cho tờ báo có tiếng nói không chỉ là tự do và độc lập mà còn nâng cao về mặt chuyên môn của nó và dần dần có thể vượt ra ngoài biên giới Việt Nam.

Không phân biệt thành phần hội viên

Gia Minh: Đó là những cây bút, như ông nói, ở trong nước. Hiện trên khắp thế giới có những người Việt Nam sinh sống, lâu nay có những người đã viết và có đưa bài lên mạng, vậy lực lượng đó có được sử dụng cho tờ báo của Hội Nhà Báo Độc Lập không?

” Theo điều lệ của hội không phân biệt người trong nước và người ngoài nước. Tất có thể trở thành hội viên, và chúng tôi dự kiến có thể xây dựng một vài chi hội của Hội Nhà báo Độc Lập VN ở nước ngoài.
-TS Phạm Chí Dũng”

TS Phạm Chí Dũng: Đó là những cây viết đáng giá nhưng chúng tôi không dám hy vọng họ tham gia vào hội một cách toàn phần. Có lẽ họ còn chờ chúng tôi hoạt động và chứng tỏ hiệu quả như thế nào. Tuy nhiên theo điều lệ của hội không phân biệt người trong nước và người ngoài nước. Tất có thể trở thành hội viên, và chúng tôi dự kiến có thể xây dựng một vài chi hội của Hội Nhà báo Độc Lập Việt Nam ở nước ngoài nếu có điều kiện. Cho tới nay đã có vài ba anh chị là nhà báo ở nước ngoài tham gia Hội Nhà báo Độc Lập. Chúng tôi hy vọng từ những người đó sẽ lan tỏa ra và sẽ thu hút một lực lượng cây viết hải ngoại đóng góp cho trang báo và cho Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam.

Gia Minh: Qua kinh nghiệm lâu nay, bao giờ có những trang web và đặc biệt bây giờ tờ báo tên Việt Nam Thời báo của Hội Nhà báo Độc lập ( Việt Nam) ra đời, đều bị sự đánh phá từ phía chính quyền; vậy hội có những biện pháp gì để có thể đưa tờ báo đến độc giả thường xuyên, không bị gián đoạn do những hoạt động đánh phá như thế?

TS Phạm Chí Dũng: Trong Ban lãnh đạo Hội đã giao cho nhà báo độc lập, linh mục An Tôn Lê Ngọc Thanh, Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn phụ trách về trang báo và cùng với anh Ngô Nhật Đăng, cũng là một nhà báo độc lập trị sự trang báo này.

Chúng tôi cũng đã tính tới những phương án kỹ thuật chặt chẽ và có mối quan hệ, liên hệ chặt chẽ với hệ thống Facebook. Và vấn đề kỹ thuật, nếu cần thiết thì anh có thể hỏi thêm linh mục An Tôn Lê Ngọc Thanh vì đây là người nắm chắc vấn đề kỹ thuật và làm sao bảo đảm trang báo không bị xâm nhập, không bị hack trong quá trình hoạt động và vẫn chó thể phục vụ được cho độc giả.

Gia Minh: Là một trong những thành viên của ban biên tập và thành viên của ban sáng lập Hội Nhà báo Độc lập, trong ngày ra mắt ông muốn nhắn gửi gi đến người đọc và người xem tại Việt Nam và trên thế giới?

TS Phạm Chí Dũng: Tôi chỉ xin nói ngắn gọn là chúng tôi sẽ cố gắng làm thế nào để Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam hoạt động một cách có thực chất và đại diện cho tiếng nói độc lập của báo giới Việt Nam, không chỉ trong nước mà còn quốc tế. Và làm thế nào để những hội viên của Hội Nhà báo Độc Lập Việt Nam trong tương lai không xa có thể và hoàn toàn có quyền tự hào rằng họ là những nhà báo độc lập đầu tiên của Việt Nam và có tiếng nói quốc tế, được quốc tế nể trọng.

Gia Minh: Cám ơn Tiến sĩ Phạm Chí Dũng, một trong những thành viên khởi xướng Hội Nhà báo Độc Lập Việt Nam, trong ngày ra mắt có những chia sẻ với khán thính giả của Đài chúng tôi.

Đan Mạch bỏ tù băng cần sa người Việt

Đan Mạch bỏ tù băng cần sa người Việt

Thứ năm, 3 tháng 7, 2014

Một tòa án ở Đan Mạch vừa ra mức án nặng cho một nhóm nhỏ tội phạm chuyên sản xuất, buôn lậu ma túy do một người gốc Việt cầm đầu, trang mạng Bấm Berlingske theo khuynh hướng trung hữu có nhiều ảnh hưởng tại Đan Mạch nói.

Theo Berlingske, chín người, gồm tám nam giới và một phụ nữ, hầu hết là người gốc nước ngoài, phải ra hầu tòa Kolding hôm 2/7 trong vụ án lớn về chất gây nghiện.

Từng bị cáo bị kết tội liên quan tới hoạt động sản xuất cần sa quy mô lớn và buôn lậu chất gây nghiện từ nước ngoài vào Đan Mạch.

Người bị cho là cầm đầu đường dây này là một người gốc Việt, 32 tuổi, thường trú tại vùng Kolding. Ông ta bị kết tội điều hành 13 trại trồng cần sa ở Jylland và Fyn, với tổng công suất cho ra được gần một tấn sản phẩm bất hợp pháp này.

Ông này có một công ty tại Kolding chuyên bán phân bón hóa học và các thiết bị làm vườn, và thực hiện hoạt động trồng cần sa thông qua công ty này.

Ông ta cũng bị kết tội buôn lậu 10kg chất amphetamines hồi tháng Giêng 2013 và 4,9kg hồi tháng Hai 2013.

Mức án dành cho bị cáo chủ chốt này là 16 năm tù và trục xuất vĩnh viễn khỏi Đan Mạch.

Hai đồng phạm là các công dân Đan Mạch, 46 và 66 tuổi, bị mức án nhẹ hơn, một người 13 năm, một người 11 năm, và cũng bị trục xuất vĩnh viễn.

Hai người đàn ông khác, cùng 27 tuổi và cùng thường trú tại Kolding, mỗi người bị tám năm tù và trục xuất vĩnh viễn.

Một người đàn ông nữa, 34 tuổi, được xác định là cư trú bất hợp pháp tại Đan Mạch, bị án tù một năm và trục xuất vĩnh viễn.

Người phụ nữ 32 tuổi chung sống với bị cáo cầm đầu đường dây bị án tù sáu năm.

Hai bị cáo cuối cùng, một công dân Đan Mạch, một công dân Hà Lan, được tha bổng.

Trung Quốc lập tòa án đặc biệt xử các vụ gây ô nhiễm

Trung Quốc lập tòa án đặc biệt xử các vụ gây ô nhiễm

Hệ quả trên môi trường của công nghiệp phát triển bừa bãi. Ảnh chụp trên một cánh đồng ở Hồ Nam, ngày 04/06/2014.

Hệ quả trên môi trường của công nghiệp phát triển bừa bãi. Ảnh chụp trên một cánh đồng ở Hồ Nam, ngày 04/06/2014.

REUTERS/Jason Lee

Thụy My

Tòa án tối cao Trung Quốc hôm nay 03/07/2014 thông báo vừa thành lập một tòa án đặc biệt chuyên xét xử các vụ án về môi trường, trong lúc Bắc Kinh đang cố gắng đưa ra những biện pháp xoa dịu công chúng hiện rất bất bình trước mức độ ô nhiễm tăng vọt.

Ba thập kỷ công nghiệp hóa nhanh chóng và bừa bãi đã gây thiệt hại nặng nề cho môi trường, khiến các lãnh đạo cộng sản phải đối phó với sự phẫn nộ của dân chúng, biểu thị qua số lượng các cuộc biểu tình ngày một tăng lên.

Các nghiên cứu mới đây cho thấy gần hai phần ba diện tích mặt đất Trung Quốc bị ô nhiễm, và 60% lượng nước ngầm bị nhiễm bẩn không thể uống được. Chưa nói đến bầu không khí bị ô nhiễm trầm trọng, thường xuyên tạo ra nạn khói mù, nhất là tại các đô thị lớn như Bắc Kinh và Thượng Hải.

Tòa án môi trường vừa được thành lập sẽ có chi nhánh ở các địa phương, chuyên phụ trách các vụ ô nhiễm không khí, nước và đất, bảo vệ hầm mỏ và các nguồn tài nguyên thiên nhiên như các khu rừng, sông ngòi…Tôn Quân Công (Sun Jungong), phát ngôn viên của tòa án đặc biệt này trong cuộc họp báo cho biết như trên.

Trịnh Học Lâm (Zheng Xuelin), chủ tịch « Tòa án môi trường » độc đáo này nói thêm : « Các tòa án muốn xử lý những vụ liên quan đến các trường hợp gây ô nhiễm nhưng lại không dám vì bị chồng chéo ». Theo ông, từ 2011 đến 2013 mỗi năm có dưới 30.000 vụ liên quan đến môi trường được đưa ra xử, so với số lượng bình quân 11 triệu vụ hàng năm. Các chính quyền địa phương thường coi tăng trưởng kinh tế là mục tiêu hàng đầu.

Thủ tướng Lý Khắc Cường hồi tháng Ba đã loan báo rằng Bắc Kinh « khai chiến » với ô nhiễm. Một loạt các biện pháp đã được đưa ra, nhưng vấn đề là việc thực thi như thế nào. Không có lịch trình tiến hành cụ thể, và các luật lệ về môi trường tuy gần đây đã cứng rắn hơn, nhưng chỉ được áp dụng một phần.

Các thị trấn biên giới Texas giúp di dân

Các thị trấn biên giới Texas giúp di dân

Nhà thờ Thiên Chúa giáo Sacred Heart, ở McAllen, Texas, cho di dân tạm trú

Nhà thờ Thiên Chúa giáo Sacred Heart, ở McAllen, Texas, cho di dân tạm trú

Greg Flakus

03.07.2014

Hàng vạn di dân từ Trung Mỹ đã vượt biên giới Mexico sang tiểu bang Texas của Mỹ trong những tháng gần đây và các nhân viên liên bang đã tăng cường những nỗ lực để thanh lọc những người không có lý lịch tội phạm và cho phép họ được ở lại với gia đình tại Mỹ trong khi chờ ngày ra tòa. Theo tường trình của Thông tín viên Đài VOA từ Houston, Texas, Greg Flakus, các cộng đồng địa phương đang ra sức giúp đỡ cho những di dân kiệt sức và đói khác này.

Tuần này, sở cảnh sát quận Hildago, Texas phát hiện tử thi rữa nát của một bé trai trong một bụi rậm gần Sông Rio Grande, phân chia ranh giới với Mexico.

Nhờ những  thông tin được viết nguệch ngoạc trên dây nịt của cậu bé, các nhân viên cảnh sát tiếp xúc với một người đàn ông tại Guatemala tự nhận là cha của nạn nhân. Cảnh sát viên Eddie Guerra nói ông này cung cấp những tin tức giúp xác định lý lịch của cậu bé.

“Một phần của lời khai của người được xem là cha của cậu bé đã chết, đã cho cho chúng tôi biết những chi tiết rõ ràng về áo quần của em này.”

Theo giấy khai sanh thì em bé xấu số này chỉ có 11 tuổi, nhưng theo các thân nhân trong gia đình thì em đã được 15 tuổi.

Trong những tháng gần đây, làn sóng di dân từ Trung Mỹ đến phía nam Texas đã tăng mạnh. Nhà chức trách liên bang câu lưu các thiếu niên không có cha mẹ đi kèm, nhưng họ đã thanh lọc và trả tự do cho hàng trăm người với trẻ em đi cùng đến các nơi khác trong nước Mỹ nơi họ có thân nhân.

Nhiều người đến trạm xe buýt tại thị trấn McAllen, Texas, nơi hiện phải vất vả đối phó với một số lượng đông đảo di dân.

Ông Teclo Garcia, phát ngôn viên của thị trấn McAllen, nói nhà cầm quyền địa phương, các nữ tu, và những người tình nguyện địa phương đang cung cấp dịch vụ tại bãi đậu xe của nhà thờ Thánh Tâm. Ông cho biết:

“Quận đã dựng các lều tạm và các sơ đang làm việc để đảm bảo là những người đến đây được nuôi ăn và chăm sóc, và những nhân viên y tế của quận đã khám sức khỏe và những di dân này sau đó lên xe buýt đi các nơi khác.”

Ông Garcia nói thành phố đã tiêu hết 58.000 đô la cho dịch vụ khẩn cấp này, nhưng ông nói thêm là cuối cùng có thể phải tốn nửa triệu đô la vào cuối năm nay nếu tình hình không được cải thiện. Ông nói:

“Trong khi chúng tôi đối phó với tình hình hiện nay, chúng tôi muốn chính phủ liên bang chịu tránh nhiệm. Chúng tôi không gây ra tình trạng này, chúng tôi chỉ muốn đối xử với mọi người một cách nhân đạo. Nhưng chúng tôi tự hỏi và chúng tôi lo ngại là không biết tình trạng này sẽ kéo dài bao lâu. Chúng tôi không muốn tiêu 500.000 đô la tiền thuế cho hoạt động này hàng năm.”

Hoạt động tại nhà thờ ở McAllen và một hoạt động khác được thực hiện cách đây vài ngày tại Brownsville được Hội Từ Thiện Công Giáo đảm trách. Bà Brenda Riojas, đại diện của hội, nói hoạt động cứu trợ do các cư dân địa phương bắt đầu.

Họ để ý thấy có nhiều người đến trạm xe buýt cần được giúp đỡ, do đó từ các thùng xe của họ, họ trợ giúp cho các di dân và khi con số người mới đến quá đông, trạm xe buýt nói rằng nơi đây không phải là nơi để làm việc này.”

Bà Riojas nói nơi tạm trú của nhà thờ cung cấp cho di dân thực phẩm, nơi tắm rửa, giường ngủ trong vài ngày và những sự trợ giúp khác trước khi họ đoàn tụ với thân nhân, đôi khi ở những nơi xa như New York hay California. Bà nói những người tình nguyện cũng cho họ những vật phẩm cần thiết để đi đường:

“Chúng tôi cũng cung cấp cho họ một hành trang đi đường. Chúng tôi muốn đảm bảo là họ có tả cho trẻ em, thức ăn cho các em bé và nước uống.”

Một số người cho rằng những trợ giúp như thế là giúp đỡ những người vi phạm luật pháp và khuyến khích thêm những người vượt biên giới bất hợp pháp. Tuy nhiên, bà Riojas nói nhà thờ và những tổ chức từ thiện khác ở nam Texas chỉ trợ giúp nhân đạo cho những người đã có mặt tại đây và cần được giúp đỡ.

Một số dân biểu, nghị sĩ Quốc hội Mỹ cũng chỉ trích việc thả những di dân bất hợp pháp và kêu gọi nhanh chóng trả họ về nước để làm nản lòng những người khác muốn đến Mỹ một cách bất hợp pháp.