Sài Gòn: Doanh trại quân đội là ‘tổng kho’ chứa hàng lậu

Sài Gòn: Doanh trại quân đội là ‘tổng kho’ chứa hàng lậu

Nguoi-viet.com

SÀI GÒN (NV) – Đó là một trong những thông tin được ông Phan Anh Minh, thiếu tướng, phó giám đốc công an Sài Gòn, tiết lộ, song ông Minh không cho biết chi tiết về vấn đề vốn rất đáng chú ý này.

Kiểm tra một kho chứa hàng lậu và hàng giả. (Hình: Thanh Niên)

Tại hội nghị tổng kết hoạt động trấn áp tội phạm trong 3 tháng đầu năm nay của công an các tỉnh, thành phố thuộc khu vực Đông Nam bộ (Sài Gòn, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh), ông Minh loan báo, vừa qua, công an Sài Gòn đã phối hợp với nhiều ngành khác như Quản Lý Thị Trường, Kiểm Lâm, Thanh Tra Y Tế, thực hiện các cuộc kiểm tra khu vực vành đai của các căn cứ quân sự quanh phi trường Tân Sơn Nhất và phát giác 132 kho chứa hàng buôn lậu.

Ông Minh nhận định, đây là kết quả đáng chú ý sau một thời gian dài bỏ ngỏ một khu vực vốn là nơi qui tụ nhiều hoạt động kinh doanh vi phạm pháp luật.

Cần nhắc lại rằng, trước đó, vào tháng 2, Ban Chỉ Đạo Chống Buôn Lậu, Gian Lận Thương Mại và Hàng Giả của Việt Nam từng loan báo, họ nghi ngờ và đang yêu cầu nhiều ngành, nhiều cấp phối hợp với nhau để kiểm tra những kho chứa hàng nằm trong các doanh trại ở Sài Gòn vì tin rằng chuỗi kho ở những khu vực đó chứa nhiều loại hàng lậu với số lượng lớn.

Vào thời điểm vừa kể, một viên phó thủ tướng CSVN tên là Nguyễn Xuân Phúc, đang đảm nhiệm vai trò Trưởng Ban Chỉ Đạo Chống Buôn Lậu, Gian Lận Thương Mại và Hàng Giả của Việt Nam, bảo rằng, có thể các gian thương đã lạm dụng hệ thống kho của quân đội để chứa hàng, chứ chưa thể khẳng định các đơn vị quân đội có liên quan hay không.

Ông Phúc nói thêm là ông ta đã yêu cầu Bộ Quốc Phòng cử thanh tra tham gia, xử lý vấn đề này và sau khi hoàn tất sẽ công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng, song đến nay, chỉ mới có phó giám đốc công an Sài Gòn, xác nhận “nghi vấn” mà ban này từng nêu là có thật.

Người ta ước đoán, tại Việt Nam, mỗi năm, thiệt hại do buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả gây ra lên tới hàng trăm ngàn tỷ đồng. Đó là chưa kể tệ nạn này khiến các doanh nghiệp Việt Nam điêu đứng, thậm chí phá sản.

Cuối tuần trước, tại một cuộc tọa đàm về buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả, ông Nguyễn Văn Cẩn, Chánh Văn Phòng Ban Chỉ Đạo Chống Buôn Lậu, Gian Lận Thương Mại và Hàng Giả của Việt Nam, cho biết, dẫu năm ngoái, Việt Nam đã phát giác 23,000, quý một năm nay, phát giác thêm 4,000 vụ nữa nhưng “kết quả vẫn chưa như mong muốn vì một số lực lượng, kể cả chính quyền một số địa phương chưa tích cực.”

Với những thông tin mà phó giám đốc công an Sài Gòn vừa tiết lộ, có thể thêm vào yếu tố khiến việc chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả của Việt Nam “chưa như mong muốn,” hàng lậu, hàng giả vẫn nhan nhản khắp nơi vì những kẻ cầm đầu đã mướn được các doanh trại làm hậu cứ. (G.Đ)

Gió mới cho ngày 30/4

Gió mới cho ngày 30/4

Đỗ Kỳ Đăng Gửi cho BBC từ thành phố Seattle, Hoa Kỳ

2015 đánh dấu 40 năm kết thúc cuộc chiến Việt Nam

Chiến tranh Việt Nam (1954-1975) là cuộc chiến huynh đệ tương tàn.

Theo tôi, ước mơ cho một cuộc sống tốt đẹp và một tương lai tươi sáng của người Việt Nam khắp ba miền đã bị lợi dụng bởi những chính trị gia với những con bài chủ nghĩa xã hội hay tự do dân chủ. Khởi đầu từ những ước muốn được thay đổi, người dân Việt đã chọn những con đường khác nhau để đi tới ước mơ đó. Nhưng những ước mơ đã bị đánh cắp. Những tương lai hứa hẹn đã được thay thế bằng những nỗi đau, những mất mát, những hận thù truyền đi nhiều thế hệ, những kỳ thị và phân biệt tồn tại qua hai thế kỷ.

Tôi là một du học sinh Việt Nam chưa đầy 18 tuổi, sinh ra trong một nước Việt Nam Xã Hội Chủ Nghĩa bởi một gia đình Việt Nam Cộng Hòa. Tôi có những người ông đứng cả hai bên chuyến tiến trong cuộc nội chiến đó. Tôi cũng có những người bà trở thành góa phụ, một mình chèo chống nuôi nấng các con. Tôi có những người bạn có bố làm công an cho chính quyền hiện tại. Tôi cũng có những người bạn có bố vượt biên và bị bắt bỏ tù.

“Đừng thay nhau giành lấy cây búa để tự làm đau mình, hãy cùng nhau tìm cách làm sao cho tương lai Việt Nam được huy hoàng.”

Ngày 30 tháng 4, tôi nên có cảm tưởng gì đây?

Ai đúng, ai sai, ai gây ra cuộc chiến, v.v. là chuyện của lịch sử. Mà lịch sử thì luôn có tranh cãi, và tranh cãi được tạo ra bởi con người. Khi người ta vẫn khư khư ôm lấy niềm tin của mình một cách tuyệt đối như một tâm linh tính ngưỡng, cuộc tranh cãi sẽ không có hồi kết. Cuộc nội chiến hai mươi năm có thể trở thành một cuộc khẩu chiến một ngàn năm. Cuối cùng chúng ta, những người Việt Nam, sẽ được gì? Nên nhớ rằng khi chúng ta lỡ tay dùng tay cầm búa đánh vào ngón tay cầm đinh thay vì cây đinh, cái tay cầm búa sẽ buông búa ra và xoa vào cái tay cầm đinh chứ tay cầm đinh không giật cây búa lại để trả thù. Đừng thay nhau giành lấy cây búa để tự làm đau mình, hãy cùng nhau tìm cách làm sao cho tương lai Việt Nam được huy hoàng.

Câu hỏi cấp thiết nhất mà chúng ta cần giải đáp là làm gì để phát triển Việt Nam thành một con hổ của châu Á và giải quyết hằng hà các vấn đề chướng tai gai mắt mà chúng ta đã nghe đi nghe lại đến phát chán từ báo đài.

Cải cách tư duy thế hệ trẻ bằng những cách làm khác?

Giới trẻ Việt Nam là chìa khóa. Giới trẻ là mục tiêu. Đa số giới trẻ không quan tâm chính trị, họ không quan tâm tự do dân chủ, không quan tâm Đảng và nhà nước, không quan tâm quyền bầu cử, không quan tâm kinh tế vĩ mô.

Giới trẻ thích thời trang, thích xem hài, thích chân dài, v.v. Vì sao? Chính trị quá chán. Chính trị là việc của những ông già thích nói, nói, nói và nói. Nói liên miên, nói chuyện trên trời dưới đất, chuyện đâu đâu, chuyện không liên quan gì tới giới trẻ cả! Nói chuyện chính trị kiểu Đảng và nhà nước thì ai cũng đã nghe đầy tai rồi. Nói chuyện kiểu khác thì nhiều bạn trẻ coi là phản động, rồi tạo ra một mớ lùm xùm chửi nhau inh ỏi trên Internet.

” Muốn đánh thức giới trẻ khỏi cảnh thờ ơ chính trị phải làm đúng cách. Thứ nhất là tin chính trị phải thiết thực. Thứ hai là phải vui và hấp dẫn. Thứ ba là càng súc tích cáng tốt. Thứ tư là phải khách quan và trung lập.”

Điều mà giới trẻ quan tâm là việc làm. Việc làm gắn liền với giáo dục và kinh tế. Nếu những vấn đề về việc làm cho nhiều đối tượng từ sinh viên đại học cho tới công nhân trẻ sẽ giúp họ quan tâm hơn về hệ thống giáo dục và nền kinh tế.

Muốn đánh thức giới trẻ khỏi cảnh thờ ơ chính trị phải làm đúng cách. Thứ nhất là tin chính trị phải thiết thực. Thứ hai là phải vui và hấp dẫn. Thứ ba là càng súc tích cáng tốt. Thứ tư là phải khách quan và trung lập.

Một điều nữa là vấn đề ăn uống, sức khỏe của Việt Nam. Đây là điều báo chí lề phải có thể làm được để giúp thay đổi tình hình. Nếu các vị cứ tiếp tục đăng và nhấn mạnh tính trầm trọng của những vấn đề về ăn uống, thực phẩm với thuốc trừ sâu quá nhiều, v.v. cùng với những lời bình luận là chính phủ thiếu những cơ quan khách quan, hiệu quả, và những luật bảo vệ người tiêu dùng như những nước khác. Giới trẻ sẽ lên tiếng và chính phủ phải hành động.

Một điều quan trọng không kém để phát triển giới trẻ là phải cải cách tư duy của họ, cho họ tiếp cận thông tin, kiến thức nhiều nguồn, và phải có hệ thống thư viện hiệu quả toàn quốc.

Phải tạo cho người Việt Nam có tư duy phê phán, phải biết sử dụng nhiều nguồn để tìm hiểu, xác minh thông tinh chứ không thể mãi nghe theo một chiều và tin ngay vào nó được. Khi nghe thông tin thì họ phải thắc mắc về nguồn thông tin, số liệu được thống kê bởi ai, khảo sát bao nhiêu người. Khi đọc một bài bình luận thì họ phải thắc mắc tác giả là ai, có trình độ chuyên môn, hiểu biết tới cỡ nào, khách quan cỡ nào.

Các nhà yêu nước nên tài trợ các khóa huấn luyện tư duy này. Các nhà dịch thuật hãy dịch những sách kinh doanh, kinh tế, khoa học, công nghệ, lối sống, tư duy từ những tác giả phương Tây càng nhiều càng tốt. Các trang báo lớn hãy tạo một mục giới thiệu sách như các tờ New York Times, Wall Street Journal, Guardian vẫn thường làm. Hãy sử dụng diễn viên, ca sĩ, danh hài để giới thiệu và bình luận sơ bộ về sách. Chúng ta cần có hệ thống thư viện toàn quốc với sách hay, sách mới cập nhật. Có thể thực hiện một thư viện trực tuyến với ebook để tiết kiệm chi phí.

Có như vậy mới truyền cảm hứng và điều kiện công bằng cho mọi người trẻ Việt Nam có thể tiếp xúc với các nguồn tri thức khác nhau để khám phá và theo đuổi đam mê của mình khắp các ngành nghề từ khoa học-kỹ thuật tới công nghệ, truyền thông, hay kinh doanh nghệ thuật.

Có như vậy thì Việt Nam mới phát triển để trở thành một nơi đáng sống, một đất nước đáng tự hào và xứng với tiềm năng của mình.

Chuyện ngày 30 tháng 4 chúng ta có thể quay lại bàn sau cũng đâu có muộn!

Giấc mơ 40 năm chưa thành

Giấc mơ 40 năm chưa thành

Tidoo Nguyễn Gửi cho BBC từ Sài Gòn

Nhiều người miền Nam lên tàu chạy trốn vào cuối cuộc chiến năm 1975

40 năm đánh dấu sự kiện quân đội Bắc Việt chiếm lĩnh và cắm cờ trên nóc Dinh Độc Lập, và cũng là 40 năm đánh dấu ngày tôi ra đời trong ngày đầu tiên của chế độ mới.

Nền giáo dục của chế độ mới dạy tôi rằng ngày 30 tháng 4 là ngày “Thống nhất đất nước”, “Ngày giải phóng miền Nam” bằng chiến thắng vẻ vang. Nhưng khi lớn lên tôi nhận thức được rằng mình phải tìm hiểu sự thật về sự kiện ngày 30 tháng 4.

Mãi cho đến đầu thế kỷ 21 tôi mới tiếp cận được với internet và tìm hiểu sự thật lịch sử qua những tài liệu bằng tiếng Anh trên những trang web nước ngoài, qua những đoạn phim tài liệu về những ngày cuối cùng của Sài Gòn được đăng tải trên Youtube. Và gần đây nhất là được xem bộ phim tài liệu đầy đủ mang tên “Last days in Vietnam”.

Vào ngày 3 tháng 4 năm 1975, khi chiến tranh đã đến hồi hỗn loạn, tổng thống Mỹ Gerald Ford tuyên bố tất cả trẻ em mồ côi Việt Nam ngay lập tức sơ tán bằng máy bay ra khỏi Sài Gòn. Ước tính có 3.000 trẻ em, bao gồm 150 trẻ sống sót trên máy bay C-5 bị rơi, đã được sơ tán ra khỏi miền Nam Việt Nam vào khoảng ngày 3 tháng 4 cho đến 26 tháng 4 năm 1975. Cuộc sơ tán đó là chiến dịch không vận trẻ em Việt Nam hay còn gọi là Operation Babylift.

Tôi đã tham gia vào những cộng đồng “Operation Babylift” trên Facebook, đọc những câu chuyện của những đứa trẻ ấy, và tìm hiểu những thông tin liên quan đến chiến dịch không vận trẻ em Việt Nam trên báo mạng. Qua đó tôi đã biết được những đứa trẻ nàyđã và vẫn tiếp tục dằn dặt với những câu hỏi : “Tại sao tôi là con nuôi?”, “Tại sao bố mẹ đẻ bỏ rơi tôi?”, “Tại sao tôi là người Châu Á duy nhất trong khi các thành viên trong gia đình là da trắng?” Cũng không ngoại trừ trường hợp có người trong số đó muốn đánh đổi tất cả để trở thành người da trắng.

Mỉa mai thay, tôi đã từng mơ ước rằng mình là một trong những đứa trẻ của chiến dịch không vận trẻ em Việt Nam, được đưa ra khỏi đất nước Việt Nam để làm con nuôi cho gia đình ở nước ngoài trong chiến dịch đó. Nếu được như vậy thì cuộc đời của tôi đã không phải chịu đựng nhiều cơn đói khát, đau đớn trong quá khứ và đầy lo âu ở hiện tại.

Những năm đầu đời của tôi cũng là những năm tháng đất nước bị “ngăn sông cấm chợ”.

Thời đấy tôi không mong ước gì hơn ngoài việc được ăn no. Bữa ăn mà tôi mơ ước chỉ cần có cơm và muối ớt. Thế nhưng cơm và muối ớt là những bữa ăn vô cùng hiếm hoi trong gia đình tôi. Hàng ngày, chúng tôi hái những quả mít non, quả chuối xanh, cắt những mụt măng sau nhà hay đi lượm mót từng hạt mít mà người ta bỏ đi để đem về luộc lên ăn. Chúng tôi ăn cả vỏ khoai mì, cây chuối non để sống. Những hôm “nguồn tài nguyên” cạn kiệt, chúng tôi không có gì để ăn đành nhịn đói ngủ qua đêm.

Cái mặc thì cũng không kém phần khó khăn như cái ăn. Quần áo cũ đứa lớn mặc không còn vừa thì đứa nhỏ hơn sử dụng lại. Tôi là con trai mà phải mặc quần áo của chị tôi. Vì vậy tôi thường là tâm điểm bị đem ra làm trò cười khi đến lớp học trong bộ quần áo của con gái. Chúng tôi không nhận được bất cứ sự trợ giúp nào từ chính phủ.

Tôi không còn mơ ước được sống ở nước ngoài mà mong ước đất nước Việt Nam có sự thay đổi lớn để lấy đi những nỗi lo của tôi và trả lại một xã hội có trật tự như miền Nam Việt Nam nói chung và như Sài Gòn nói riêng của những ngày tháng cũ.

Năm 1978, mẹ tôi chết trong nghèo khó vì không có tiền chữa bệnh, bỏ lại 6 đứa con, 3 gái và 3 trai. Tôi là con trai út trong nhà. Chúng tôi sống cùng người cha đẻ. Tuy nhiên, không phải người bố đẻ nào cũng thương con. Ông ta thường xuyên đánh đập và hành hạ tôi mà không cần lý do gì. Cho đến khi tôi 18 tuổi , thoát khỏi ngôi nhà để đến Sài Gòn sống thì mới tránh được những cơn đòn thừa sống thiếu chết của ông. Chính phủ không có bất cứ tổ chức nào để bảo vệ trẻ em bị ngược đãi.

Đất nước mở cửa đã hơn 25 năm, tôi đã đi làm cho những công ty nước ngoài. Ước mơ được ăn no của tôi đã thành hiện thực và không còn chịu đựng những cơn đau thể xác từ việc ngược đãi của người cha đẻ. Tuy nhiên, đêm đêm những cơn ác mộng vẫn ập về với hình ảnh bị hành hạ, bị đói khát. Và những nỗi lo về cuộc đời vẫn còn đó. Nếu chẳng may tôi thất nghiệp thì sẽ không có trợ cấp của chính phủ. Tôi chỉ có thể nhận được bảo hiểm thất nghiệp và trợ cấp bảo hiểm xã hội một lần vì tiền bảo hiểm đã bị trừ vào lương hàng tháng. Tuy nhiên, hiện nay bảo hiểm xã hội đang có nguy cơ vỡ quỹ, dẫn đến điều khoản vô lý của Luật bảo hiểm xã hội mới là không trả trợ cấp bảo hiểm một lần!

Ngoài ra, tôi đang đối đầu với những căng thẳng trong môi trường sống đang bị đe dọa, giao thông càng ngày càng hỗn độn, tệ nạn xã hội tràn lan, cướp giật hoành hành v.v.

Mặc dù vậy, tôi không còn mơ ước được sống ở nước ngoài mà mong ước đất nước Việt Nam có sự thay đổi lớn để lấy đi những nỗi lo của tôi và trả lại một xã hội có trật tự như miền Nam Việt Nam nói chung và như Sài Gòn nói riêng của những ngày tháng cũ.

40 năm đã đi qua, 40 năm nhìn lại với những ước mơ của tôi đã thay đổi theo thời gian. Tôi chỉ có một ước mơ hiện tại rất đơn giản mà đáng lẽ ra cuộc sống của một con người phải có. Chẳng lẽ cả đời này tôi không đạt được ước mơ ấy hay sao?

Hàng trăm người dân Hà Nội tiếp tục tuần hành đòi minh bạch việc chặt cây

Hàng trăm người dân Hà Nội tiếp tục tuần hành đòi minh bạch việc chặt cây

– Tin nổi bật, Tin Việt Nam

VRNs (13.4.2015)– Hà Nội – Sáng Chúa nhật 12/4 vừa qua, hàng trăm người dân Hà Nội tiếp tục tuần hành yêu cầu chính quyền thủ đô minh bạch dự án chặt và thay thế 6.700 cây xanh trong 3 năm (2015-2017).

Đây là lần thứ 4 người dân Hà Nội xuống đường tuần hành, sau khi giới chức thủ đô cho chặt và thay thế cùng lúc hàng trăm cây xanh hồi tháng 3/2015.

Tuy nhiên số người tham gia sự kiện có sự giảm sút so với lần trước. Những người tham gia tuần hành nói hôm 12/4, có gần 200 người tham dự, trong khi cuộc tuần hành 29/3 có tới gần 1000 người tham dự.

Việc chặt hạ cây xanh vừa qua đã vấp phải nhiều ý kiến trái chiều từ nhiều nhà khoa học, trí thức với câu hỏi “Có nơi nào duy tu bảo trì cây xanh bằng cách chặt hàng loạt?.” Đồng thời, cũng có ý kiến cho rằng chính quyền không tham vấn ý kiến người dân và các nhà khoa học khiến vụ việc trở nên thiếu minh bạch.

Trong một diễn biến khác, một nhóm luật sư đã kêu gọi những người quan tâm tham gia ký tên vào một văn bản, để yêu cầu chính quyền giải trình về vụ việc.

Người dân tuần hành phản đối việc chính quyền Hà Nội chặt cây xanh tại bờ hồ Hoàn Kiếm, sáng 12.4. Ảnh JB Nguyễn Hữu Vinh

Người dân tuần hành phản đối việc chính quyền Hà Nội chặt cây xanh tại bờ hồ Hoàn Kiếm, sáng 12.4. Ảnh JB Nguyễn Hữu Vinh

Dựa trên hiến pháp VN năm 2013, nhóm 5 luật sư này cho biết, “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận, kiến nghị” về các vấn đề trong xã hội.

Với các biểu ngữ “Tôi yêu cây”, “Cây yêu tôi”, “Yêu cầu minh bạch” v.v… đoàn người tuần hành xung quanh hồ Hoàn Kiếm, và đi tiếp một vòng nữa đến trước trụ sở UBND thành phố Hà Nội. Cũng có các tình nguyện viên theo sau để nhặt rác trên đường tuần hành.

Chính quyền thay đổi thái độ với các cuộc tuần hành?

Blogger Phạm Đoan Trang, một người tham gia tuần hành, nhận xét trên facebook cá nhân: “Cuộc tuần hành diễn ra rất tốt đẹp, khi tất cả mọi người tham dự đều giữ tinh thần ôn hòa, văn minh, lịch sự. Lực lượng công an, cảnh sát, dân phòng cũng đã cư xử theo hướng tôn trọng quyền tụ tập và biểu tình của người dân.”

Blogger này cũng cáo buộc lực lượng công quyền đã “ngăn chặn một số người từ sáng sớm để họ không ra Bờ Hồ [tuần hành]. Họ cũng liên tục gọi loa giục mọi người giải tán ‘để đảm bảo an ninh trật tự’.”

Tuy nhiên, blogger Đoan Trang ghi nhận “cách đối xử của lực lượng công quyền đối với người biểu tình đã khác rất nhiều” so với những năm trước và cho rằng, đây là “một sự thay đổi tốt từ phía chính quyền”.

Thái độ “của nhân viên công quyền về cơ bản là tốt đẹp. Tôi tin như vậy, cũng như tin chắc là nếu họ muốn giải tán đám đông, ngăn chặn mọi cuộc tụ tập, thì họ hoàn toàn có thể làm điều đó.”

Trong khi đó, blogger JB Nguyễn Hữu Vinh, một người tham gia tuần hành khác lại nhận xét, với cách hành xử của lực lượng công quyền kể trên vẫn chưa thể khẳng định là chính quyền thay đổi thái độ với các cuộc tuần hành.

Ông Vinh nói đó là chỉ là những thay đổi ở bờ Hồ Gươm, trong khi “Tôi biết một số người vẫn bị chặn ở cửa ngõ, vẫn bị theo dõi, vẫn bị rất nhiều người lạ mặt vây quanh nhà.”

“Ngay cả bản thân tôi cũng vậy, tôi bị 5-6 người vây trước ngõ từ sớm. Rồi nhiều cuộc điện thoại và hành động không bình thường trong ngày hôm đấy. Rất nhiều người bị công an, cảnh sát vào nhà đe dọa.

Ông Vinh nói tiếp: “Duy nhất có điều thay đổi là khi người ta lên tuần hành ở bờ thì không có lực lượng còi hụ [như những lần trước], không có hiện tượng công an đi hàng loạt rồi làm ầm ĩ.”

“Điều này cũng dể hiểu thôi bởi vì họ nhìn thấy hiệu quả của việc thay đổi [cách ứng xử] như thế… Trong lúc người ta căm phẫn như vậy mà việc cố tình đưa những hành động [] sẽ làm kích thích sự việc mà thôi.”

Blogger này cũng cho rằng “cách hành xử [của lực lượng công quyền] như vậy tốt cho cả hai bên, những người diễu hành cũng cảm thấy rất hài lòng.”

“[Cuộc tuần hành] rất là tốt đẹp, thể hiện ý chí và nguyện vọng của người dân đối với môi trường, cây xanh. Mọi người rất đoàn kết và rất là ôn hòa. Không có những hành động quá khích, không có sự xô xát nào.”

Nhóm vận động tuần hành cho biết thêm, mục đích của sự kiện còn nhằm thể hiện tình yêu môi trường, ‘góp tiếng nói bảo vệ cây xanh Hà Nội’, kêu gọi các bên liên quan đến việc chặt cây phải chịu trách nhiệm pháp luật và không để xảy ra những sự việc tương tự.

Đức Thiện, VRNs tổng hợp

Giám đốc bệnh viện lập hồ sơ ma, tham ô $1.35 triệu

Giám đốc bệnh viện lập hồ sơ ma, tham ô $1.35 triệu

Nguoi-viet.com

SÀI GÒN (NV) – Một ông giám đốc Bệnh Viện Bưu Điện, cùng hai trưởng phòng bị cáo buộc lập khống hơn 13,000 hồ sơ bệnh án để tham ô gần 28 tỷ đồng (khoảng $1.35 triệu) chia chác và bỏ túi riêng.

Bệnh Viện Đa Khoa Bưu Điện nổi tiếng tham ô và không cứu người. (Hình: Tiền Phong)

Hôm 12 tháng 4, 2015, báo Tiền Phong dẫn tin cho biết, ngày 10 tháng 4, Cơ Quan Cảnh Sát Điều Tra Bộ Công An đã kết thúc điều tra vụ án “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” xảy ra tại bệnh viện Đa Khoa Bưu Điện (Bệnh Viện Bưu Điện)”, thuộc Tập Đoàn Bưu Chính Viễn Thông Việt Nam (VNPT), có trụ sở chính tại quận 10, thành phố Sài Gòn.

Theo đó, cơ quan Cảnh Sát Điều Tra, Bộ Công An đề nghị truy tố ông Trương Anh Kiệt (56 tuổi), nguyên giám đốc Bệnh viện Bưu điện, cùng bà Trương Bích Nguyệt (52 tuổi), nguyên trưởng phòng tổng hợp và ông Phạm Văn Sửu (50 tuổi), nguyên trưởng phòng kế toán về tội danh “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ.”

Theo phúc trình điều tra, Bệnh Viện Bưu Điện là đơn vị tự chủ về tài chính, nguồn thu chủ yếu từ viện phí, bảo hiểm y tế và kinh phí cấp hỗ trợ của VNPT. Trong quá trình quản lý, điều hành bệnh viện, ông Kiệt, bà Nguyệt, ông Sửu đã lợi dụng các đoàn cán bộ của đơn vị thuộc VNPT đến khám rồi về trong ngày để lập khống hồ sơ, kê khống ngày điều dưỡng, điều trị nội trú.

Theo nguồn tin trên, trong năm 2009, ông Kiệt ra lệnh cho Phòng Tài Chính kê khai “khống” số giường điều dưỡng nội trú là 120 giường, tương đương hơn 4,300 lượt người và gần 15,000 ngày điều trị. Tiếp đó, trong năm 2010-2011, ba bị can tiếp tục tổ chức lập “khống” hồ sơ về người điều trị nội trú, nhằm rút 11 tỷ đồng của VNPT đưa vào quỹ lương chia cho cán bộ bệnh viện. Trong số này, ông Kiệt hưởng hơn 110 triệu đồng, bà Nguyệt nhận hơn 73 triệu và Sửu gần 73 triệu đồng.

Tin cho hay, ông Kiệt thừa nhận sai phạm khi lập khống tổng cộng hơn 13,000 hồ sơ bệnh án điều dưỡng, điều trị nội trú với mục đích rút tiền hỗ trợ của VNPT sử dụng vào các hoạt động chung của bệnh viện, chi lương, tăng thu nhập cho cán bộ và bỏ túi riêng, với toàn bộ số hồ sơ quyết toán khống gần 28 tỷ đồng, trình VNPT phê duyệt.

Bà Nguyệt và ông Sửu được xác định biết việc làm của giám đốc là sai nhưng vẫn giúp sức thực hiện và làm theo lệnh cấp trên và nhằm trục lợi cá nhân. (Tr.N)

Phim “Ride the Thunder” và nữ tài-tữ Kiều Chinh

Phim “Ride the Thunder” và nữ tài-tữ Kiều Chinh

…”Chúng ta ở đây hôm nay để nói lên sự thật về cuộc chiến Việt Nam.”

alt

Tác giả, Executive Producer phim Richard Botkin và  Co-producer Kiều Chinh tại nơi quay phim.

Tháng Tư 2015, kỷ niệm 40 Năm ngày Sàigòn và miền Nam sụp đổ. Nhân dịp tưởng niệm Tháng Tư Đen, Ride the Thunder Productions và Koster Film, LLC, sẽ trình chiếu ra mắt phim “Ride the Thunder” của đạo diễn Fred Koster vào ngày 27 tháng Ba, 2015 tại Regency Theatres, số 6721 Westminster Blvd., Westminster, CA 92683.

Truyện phim dựa theo cuốn sách cùng tên, “Ride the Thunder, A Vietnam War Story of Honor and Triumph” của tác giả Richard Botkin. Đây là cuốn phim đầu tiên thể hiện được danh dự và chiến thắng đích thực của các chiến sĩ VNCH và đồng minh Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam.

Câu chuyện chính được kể là đôi bạn chiến đấu Việt-Mỹ: Thiếu tá Lê Ba Bình, tiểu đoàn trưỡng Tiểu đoàn 3 Thuỷ Quân Lục Chiến VNCH và Đại uý John Ripley, cố vấn Mỹ. Cũng là lần đầu tại Hoa Kỳ, cuốn phim có sự tham gia của nữ diễn viên Kiều Chinh như một Co-Producer.

alt
Đạo diễn Fred Koster và các diễn viên Eric St. John, Joseph Hiếu, Pierre Cuong Nguyễn.

Sau đây là câu chuyện về cuốn phim và cuộc phỏng vấn Kiều Chinh dành cho Việt Báo.
Từ một chiến tích có thật nhìn lại cả cuộc chiến

Trận chiến “Mùa Hè Đỏ Lửa 1972” có tên tiếng Anh là Eastern Offensive, vì diễn ra đúng vào tuần lễ Phục sinh 1972. Từ giữa trưa ngày Thứ Năm 30 tháng Ba, sau những trận mưa pháo kích cả vào khu dân cư để gây hoảng loạn, hơn 30.000 quân chính qui Bắc Việt được 200 chiến xa T54 và PT-76 mở đường, tiến chiếm vùng địa đầu Quảng Trị .

Chỉ trong ba ngày, 10 trên 12 căn cứ VNCH trong vùng -hầu hết không được trang bị vũ khí chống tăng- bị tràn ngập. Sau khi tàn phá phía Bắc sông Cam Lộ-Cửa Việt, chiến xa và đại quân Bắc Việt nhắm thẳng vào tỉnh lỵ Đông Hà, nơi chỉ còn tiểu đoàn 3-Sói Biển Thuỷ Quân Lục Chiến VNCH với 735 chiến sĩ đồn trú tại căn cứ Alpha 2, do Thiếu Tá Lê Bá Bình làm tiểu đoàn trưởng, đại uý John Ripley cố vấn tiểu đoàn, thêm mấy sĩ quan Mỹ giúp liên lạc yểm trợ do Trung Tá Gerry Turley vừa được uỷ quyền chỉ huy vào giờ thứ 25.

Chỉ cần băng qua cây cầu dài 200 thước bắc qua sông Cửa Việt, chiến xa cộng sản sẽ tràn ngập tỉnh lỵ Đông Hà và thẳng tiến chiếm Huế. Cách duy nhất để chặn đường qua sông của xe tăng cộng sản là phải phá huỷ ngay cây cầu. Trung Tá Gerry Turley gọi điện cấp báo, xin phép.

Lệnh cấp trên từ hậu cứ buộc phải giữ cây cầu. Nhưng xe tăng cộng sản đã xuất hiện. Không thể chần chừ. Bât chấp hậu quả, John Ripley – Lê Bá Bình, cố vấn Mỹ và tiểu đoàn trưởng Sói Biển, được tăng cường thêm một trợ thủ là Jim Smock, tình nguyện nhận lệnh thi hành “mission impossible”.

Cầu Đông Hà là một khối bê tông cốt thép kiên cố, dưới gầm cầu dày đặc xích sắt và kẽm gai đề phòng đặc công phá hoại. Để tới được mục tiêu, bộ ba của Alpha 2 phải bắn hạ một xe tăng T54.

Ripley là người duy nhất từng được huấn luyện về chất nổ tại US Army’s Ranger School, phải lãnh phần nặng nhất. Từ chân cầu, anh đu mình lên gầm cầu giữa kẽm gai, nhận 500 ký thuốc nổ do đồng đội chuyển theo, rồi tiếâp tục đánh đu với tử thần suốt 4 tiếng đồng hồ.

alt

Đôi bạn chiến đấu Việt Mỹ Lê Bá Bình – John Ripley trong phim và ảnh thật ngoài đời.

Chất nổ được gài đúng vị trí. Bộ ba Alpha 2 về căn cứ an toàn. Đúng Chủ Nhật Lễ Phục Sinh, ngày 2 tháng Tư năm 1972, một tiếng nổ rung chuyển cả vùng. Cầu Đông Hà bị phá hủy, chiến xa cộng sản bị chặn lại bên sông.

Diễn tiến sau đó là quân lực VNCH đã từng bước dành lại chiến thắng và tái chiếm cổ thành Quảng Trị. Trung tá Lê Bá Bình lại có dịp đứng bên cổ thành. Trở về Hoa Kỳ, Đại uý John Ripley nhận nhiều huy chương cao quí và sau này trở thành một đại tá hồi hưu, Giám Đốc Viện Bảo Tàng và Quân Sử TQLC/HK. Chiếân công phá nổ cầu Đông Hà đã đi vào quân sử Hoa Kỳ, được dựng thành mô hình ba chiều để huấn luyện Thuỷ Quân Lục Chiến Mỹ.

Nhưng rồi, mọi chiến thắng có thật của các chiến sĩ Việt-Mỹ bị xoá bỏ. Số phận cuộc chiến tranh Việt Nam được Hoa Thịnh Đốn quyết định theo kiểu các chính khách phản chiến. Sau tháng Tư 1975, miền Nam sụp đổ, Trung tá Lê Bá Bình là một trong hàng trăm ngàn quân cán chính miền Nam bị cộng sản cầm tù. Sống sót sau 9 năm tù đầy, Lê Bá Bình và gia đình mới tới được nước Mỹ theo diện H.O., định cư tại miền Bắc Cali.

Phải mất đến 30 năm sau, đại tá John Ripley mới có dịp được trao cho người bạn chiến đấu năm xưa của ông huy chương Anh Dũng Bội Tinh Ngôi Sao Bạc, do Tổng Thống Bush ký tặng để vinh danh Trung tá Lêâ Bá Bình, trong một họp mặt trang trọng tại Thủ Đô Hoa Kỳ nhân dịp Lễ Độc Lập July 4, 2005.

alt
Richard Botkin và Kiều Chinh phát biểu trước giờ quay phim.

Và từ sách tới phim
Hình ảnh đôi bạn chiến đấu Lê Bá Bình-John Ripley và câu chuyện về chiến công của họ khiến tác giả Richard Botkin xúc động, thấy cần phải tim hiểu.

Là một cựu Thiếu Tá Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ (USMC), và hiện là Senior Vice President của tổ hợp tài chính Morgan Stanley, Richard đã bỏ ra 5 năm nghiên cứu về cuộc chiến, phỏng vấn hàng trăm nhân vật liên quan, và cũng đã 4 lần đến tận Việt Nam để quan sát thực địa của trận chiến tại Đông Hà, Quảng Trị, Ái Tử, Khe Sanh. Kết quả là sách “Ride the Thunder” được ấn hành năm 2009, với hơn 700 trang sách, kể lại câu chuyện về chiến công tại Đông Hà, và qua đó, nhìn lại toàn bộ sự thật về chiến tranh Việt Nam.

Trong tiến trình từ sách tới phim, cũng chính tác giả Richard Botkin đảm đương phần vụ của Executive Producer. Phim được viết kịch bản và thực hiện bởi Fred Koster, một đạo diễn từng làm nhiều phim nổi tiếng về người thật, việc thật. Đặc biệt, công việc sản xuất phim còn có sự tham gia của co-producer Kiều Chinh.

Là diễn viên gốc Việt được coi như một “legendary actress” trong suốt 40 năm gắn bó với Hollywood, Kiều Chinh cũng từng là Executive-Producer của phim “Người Tình Không Chân Dung / Warriors, Who are You”, cuốn phim đạt giải phim chiến tranh hay nhất tại Đại Hội Điện Ảnh Châu Á 1973.

Một ngày đầu tháng 5 năm 2014, trên set quay phim tại Kualoa Fishponds, Hawaii, toàn bộ ê kíp làm phim ngồi bên nhau. Không phải chuyện tiền bạc, danh tiếng hay tên tuổi. Exec. Producer Richard Botkin nói lời mở đầu, “Chúng ta ở đây hôm nay để nói lên sự thật về cuộc chiến Việt Nam.

Mục đích và lý do của cuốn phim giản dị chỉ là kể ra những sự thật nào đã diễn ra tại đó.” Tiếp theo, Co-producer Kiều Chinh nói lời chúc lành và cầu nguyện bình an cho từng người, từng ngày trong thời gian quay phim ở đây. Sau đó Đạo diễn Fred Koster chính thức bắt đầu lệnh “Action” -khởi diễn, bấm máy thu hình.

Và sách “Ride the Thunder” thành cuốn phim đánh dấu 40 lần Tháng Tư 1975-2015.
Chuyện “Ride the Thunder” và co-producer Kiều Chinh.
Kiều Chinh đang sửa soạn bay lên Bắc Cali. Ngay cuối tuần này, Thứ Sáu 13 – 3, đại hội điện ảnh Pacific Film Archive khai diễn tại Berkeley. Và hôm sau, Thứ Bẩy, là Sundance Kabuki Cinemas tại San Francisco. Sẽ phải cùng Trần Hàm xuất hiện ở cả hai nơi, khi phim “Hollow / Đoạt Hồn” được trình chiếu, vì trong phim này có vai diễn được “đặc biệt viết riêng” cho Kiều Chinh, sau vai bà nội thuyền nhân răng đen trong phim “Vượt Sóng / Journey from the Fall” do đạo diễn Trần Hàm thực hiện.

alt

Kiểu Chinh tại Hawaii, 2014.

Tập trung câu chuyện vào phim “Ride the Thunder” sắp ra mắt. Đây là cuốn phim dựng lại một câu chuyện có thật, một chiến công có thật nhưng chưa từng được kể của những chiến sĩ Thuỷ Quân Lục Chiến Việt – Mỹ và gia đình của họ, trong chiến tranh Việt Nam. Bên cạnh những tài liệu phim ảnh lịch sử giá trị được sử dụng để nhìn lại toàn bộ cuộc chiến, đây là một feature film (phim truyện) dàn dựng công phu.
Hai nhân vật chính trong phim diễn xuất bởi tài tử gốc Việt Joseph Hiếu trong vai Thiếu tá tiểu đoàn trưởng Lê Bá Bình và tài tử Hoa Kỳ Eric St. John trong vai Đại uý cố vấn Mỹ John Ripley và nhiều diễn viên Việt Mỹ xuất sắc khác như Roy Mega Tran, Pierre Cuong Nguyen, Steve Son Nguyen, Lynn Tran… Ngoài phần thu hình tại Hollywood, toàn bộ ngoại cảnh phim được thực hiện tại Hawaii.

Ê kíp phim thường trực có từ 60 tới 80 người, làm việc nhiều ngày trong khu vực phim trường mang tên Branscombe Richmond, nổi tiếng tại Hawaii. Sinh hoạt chung của cả ê kíp thân ái như trong tình gia đình.

Hàng ngày, đích thân Executive producer Richard Botkin lo “tiếp viện” cho mọi người cà phê, thức ăn. Bà con người Việt tại Hawaii dành cho đoàn làm phim nhiều cảm tình đặc biệt.

Là một co-producer cùng lo thực hiện phim từ bước đầu, Kiều Chinh đã tham gia tổ chức casting, tuyển chọn diễn viên. Không chỉ các diễn viên chính như Joseph Hiếu, Eric St. John đã diễn xuất tuyệt vời, mà các diễn viên khác, kể cả những người lần đầu đóng phim, cũng xuất sắc trong vai trò của họ.

Nữ diễn viên Lynn Tran, trong vai bà vợ của người tù Lê Bá Bình đã diễn xuất bằng những xúc động thật, nước mắt thật, vượt trên sự chờ đợi.
Được biết, cũng trong thành phần Co-producer Việt, còn có Ly Van Quy, Alan Vo Ford và Joseph Hieu.

alt

Như đã loan báo, phim “Ride the Thunder” chính thưc ra mắt ngày Thứ Sáu 27-3 tại rạp The Regency Westminster. Sau đó, ngày Thứ Bẩy 28-3, cũng tại khu vực này, tổ chức Vietnam Veteran’s of America, sẽ phối hợp cử hành nghi thức mang ý nghĩa nối kết giữa các cựu chiến binh Hoa Kỳ và Việt Nam.

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Các dự án nghi ăn hối lộ của nhà thầu Hàn Quốc bị thanh tra

Các dự án nghi ăn hối lộ của nhà thầu Hàn Quốc bị thanh tra

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) .- Bộ Giao Thông Vận Tải CSVN loan báo ra lệnh “thanh tra đột xuất” một số dự án xây dựng hạ tầng có sự tham dự của nhà thầu Hàn Quốc Posco, đang bị điều tra hối lộ.

Cao tốc Nội Bài – Lào Cai được POSCO E&C thi công gói thầu số A1, A2, A3. (Hình: VNExpress)

Chuyện thanh tra của Bộ GTVT, theo tin tức, gồm đại diện của 6 cơ quan của bộ này như thanh tra của Bộ, Vụ Tài chính, Vụ Khoa học công nghệ, Cục Quản lý xây dựng và chất lượng công trình giao thông do một ông Phó chánh Thanh tra Bộ GTVN tên Lê Văn Doãn làm trưởng đoàn.

Tất cả các bộ ngành, các tỉnh thị trên cả nước đều có cơ quan thanh tra nhưng những vụ án tham nhũng hối lộ lớn tại Việt Nam chỉ đếm trên đầu ngón tay, dù tham nhũng hối lộ được mô tả là tràn lan từ trên xuống dưới. Các vụ án tham nhũng tại Việt Nam thường do nội bộ đấu đá nhau và do dân tố cáo, không phải do các cơ quan thanh tra khui ra.

Riêng trong ngành xây dựng hạ tầng cơ sở như cầu, đường, trường học, nhà thương v.v…chỉ thấy các nước cấp viện điều tra và truy tố nhà thầu của nước họ, rồi chế độ Hà Nội bị áp lực phải bỏ tù một vài viên chức. Hà Nội chưa hề tự “thanh tra” thấy một quan tham nào ăn bẩn suốt bao năm qua từ các dự án nhận viện trợ giúp Việt Nam xóa đói giảm nghèo thường biết dưới tên tắt là ODA.

Cuối Tháng Hai vừa qua, báo chí Hàn Quốc cho hay, cuộc kiểm toán nội bộ của tập đoàn POSCO đã thấy chi nhánh POSCO E&C tham gia thầu xây dựng tại Việt Nam đã lập quỹ đen số tiền khoảng 10 tỉ won, hay khoảng $8.9 triệu mà họ tình nghi số tiền dùng để “lại quả” hay hối lộ cho các quan chức Việt Nam trong giai đoạn từ 2009 đến 2012.

Ngày 3 tháng Tư, 2015 vừa qua, báo chí Hàn Quốc nói, chính phủ nước này đang điều tra một loạt lãnh đạo cấp cao của Tập đoàn POSCO cùng công ty con – Công ty Xây dựng POSCO (POSCO E&C) để điều tra về những khoản quỹ đen bí ẩn trong hoạt động của công ty tại Việt Nam. Cái số tiền “quỹ đen” nói trên được một số viên chức bị kỷ luật khai là “lại quả cho một số nhà thầu”.

Rất có thể các số tiền “lại quả” đó khi đến tay “các nhà thầu phụ” ở Việt Nam thì lại được nộp cho các quan chức Bộ Giao Thông Vận tải CSVN. Chính phủ Hàn Quốc tình nghi giá trúng thầu đã bị đội lên để có tiền hối lộ.

Hai dự án ODA lớn mà POSCO E&C trúng thầu giai đoạn đó là đường cao tốc Long Thành – Dầu Giây và đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai. Cả hai dự án xây dựng vừa kẻ do “Tổng công ty đường cao tốc Việt Nam” của Bộ GTVT làm chủ đầu tư.

Ông Nguyễn Hồng Trường, Thứ trưởng GTVT họp báo khoe rằng các dự án vừa kể được tổ chức đấu thầu quốc tế “theo đúng những quy định đề ra”.

Ông Trường gần đây bị tai tiếng ăn hối lộ của một nhà thầu hàng trăm triệu đồng rồi lại không để cho người ta trúng thầu. Người chủ tốn tiền mà “hụt thầu” là một phụ nữ đã công bố trên internet các tin nhắn qua lại giữa ông Nguyễn Hồng Trường và bà ta đòi tiền. Dù vậy, vụ việc được Bộ GTVT cho chìm xuồng.

Hiện chính phủ Nhật đang đòi chế độ Hà Nội trả lại số tiền đã giải ngân tư vấn thiết kế cho dự án đường sắt trên cao tại Hà Nội. Chính phủ Nhật đã kết tội một số viên chức nhà thầu JTC hối lộ cho quan chức Cục Đường Sắt CSVN số tiền khoảng $800,000. Nhưng hiện mới chỉ có một số ông của Cục vừa kể đang “bị điều tra”, chưa thấy kết luận ra sao. (TN)

Lãnh đạo CSVN không phải là người Việt

Lãnh đạo CSVN không phải là người Việt

FB Trần Trung Đạo

09-04-2015

Tháng 5 năm ngoái, khi Trung Cộng đưa giàn khoan HD-981 đến sát bờ biển Việt Nam, lãnh đạo CSVN phản đối. Không chỉ phản đối riêng tại Việt Nam mà họ còn xúi giục du học sinh VN tại các nước mang cờ CS biểu tình chống Trung Cộng.

Nhiều người nghĩ rằng CSVN phản đối vì Trung Cộng xâm phạm lãnh hải Việt Nam.

Không phải. Trung Cộng xâm phạm lãnh hải Việt Nam hàng trăm lần trước đó nhưng CSVN im lặng. CSVN phản đối chỉ vì lãnh đạo Trung Cộng đã làm nhục lãnh đạo CSVN một cách công khai, lộ liễu trước dư luận Việt Nam và quốc tế, vượt qua giới hạn của những thỏa thuận ngầm giữa hai đảng. Trung Cộng rút giàn khoan và sóng gió tạm ngưng.

Trong bài “Để thắng được Trung Cộng” viết ngày 18 tháng 5, 2014, khi sự kiện HDD-981 còn nóng bỏng, tôi có viết:

“Rồi mai đây, sau trận đánh ghen HD-981 này, lãnh đạo CSVN lại lên đường sang Bắc Kinh triều cống, lại 16 chữ vàng, lại ca ngợi tình đồng chí, nghĩa anh em thắm thiết. Cơn hờn giận giữa hai đảng CS theo thời gian có thể sẽ nguôi ngoai nhưng trên các vùng biên giới, trong lòng biển Việt Nam, máu của ngư dân Việt Nam, của người lính biển Việt Nam sẽ không ngừng chảy. Dân tộc Việt Nam lại bị đảng dắt đi vòng vòng trong ngõ cụt tối tăm như đã và đang đi suốt 39 năm qua.”

Thực tế đang diễn ra đúng như vậy. Tuần này, TBT Nguyễn Phú Trọng dẫn một phái đoàn đông đảo sang triều cống Trung Cộng và lập lại lời thề trung thành với đảng mẹ.

Nhưng không phải hôm nay thôi, mà từ 1990 (Hội nghị Thành Đô), 1958 (Công hàm Phạm Văn Đồng), 1954 (Hội nghị Geneva), 1950 (Trung Cộng là nước đầu tiên công nhận VNDCCH), 1946 (Liên Xô và Trung Cộng tổ chức huấn luyện cán bộ CSVN), và nhục nhã nhất, vào ngày 30-1-1950, Hồ Chí Minh, sau khi đi bộ 17 ngày, đến chính thức triều cống Trung Cộng và tháng Tư năm đó y cũng đã dâng cho Trung Cộng bốn yêu cầu trong đó có yêu cầu Trung Cộng gởi cố vấn quân sự sang Việt Nam.

Từ phái đoàn cố vấn chính trị đầu tiên do La Quý Ba cầm đầu cho đến 1973 có đến 320 ngàn quân Trung Cộng tham chiến tại Việt Nam dưới nhiều hình thức.

Quan hệ giữa Trung Cộng và CSVN được Chu Ân Lai ví như “cùng chung máu thịt”.

Máu thịt đây dĩ nhiên không phải là máu thịt của 74 anh hùng Hải Quân VNCH bảo vệ Hoàng Sa, không phải là máu thịt của 64 thanh niên Việt Nam bị thảm sát ở Trường Sa, không phải là máu thịt của hàng ngàn ngư dân Việt Nam đã chết dưới tay hải quân Trung Cộng suốt mấy chục năm qua, không phải là máu thịt của ba ngàn thanh niên Việt Nam bị thiêu xác ở Lão Sơn, không phải là máu thịt của nhiều chục ngàn thanh niên Việt Nam đã chết trong chiến tranh biên giới 1979, và không phải là máu thịt của một phần mười dân tộc Việt khắp ba miền đã chết vì tham vọng CS hóa Việt Nam của đảng CSVN và CS Quốc Tế.

“Cáo chết ba năm quay đầu về núi” nhưng lãnh đạo CSVN thì không. Lãnh đạo CSVN sẽ quay đầu về Trung Nam Hải, Bắc Kinh, vì chúng không phải là người Việt.

‘Không nên gọi 30/4 là ngày giải phóng’

‘Không nên gọi 30/4 là ngày giải phóng’

Nam Phong Gửi tới BBC từ Huế

  • 11 tháng 4 2015

Tôi sinh ra và lớn lên sau ngày 30/04. Trong khi phần lớn đất nước chìm trong khó khăn, hết cuộc chiến này đến cuộc chiến khác, trong khi phần lớn người dân thiếu ăn, thiếu mặc, đói khổ trong giai đoạn 1980-1990, thì tôi đã sống một cuộc sống đầy đủ và sung túc, vì ông bà tôi là những đảng viên cao cấp của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ông tôi là một người chân thành và có niềm tin sâu sắc với lý tưởng cộng sản. Ông có một người chị ở phía bên kia, và sau này di tản sang Mỹ. Ông không bao giờ liên lạc với bà, và đó là nỗi ân hận lớn nhất trong những ngày cuối đời của ông.

Là một ‘hạt giống đỏ” tôi lớn lên với niềm tin chân thành về những gì được dạy dỗ, về lý tưởng cộng sản với hình mẫu Pavel Korchagin – Hình mẫu chuẩn mực cho mọi thiếu niên lớn lên dưới mái trường XHCN khi đó.

40 năm rồi, bên chiến thắng vẫn ăn mừng, vẫn diễu binh, vẫn pháo hoa…bên kia vẫn là ngày quốc hận, ngày mất nước..vết thương dân tộc vẩn rỉ máu.

Vì vậy, sự kiện 30/04 đối với tôi và các bạn tôi khi đó là một cái gì đó rất đẹp, rất anh hùng, cũng rất vẻ vang. Với thế hệ chúng tôi, Việt Nam đã đánh bại siêu cường số 1 thế giới làm “chấn động năm châu. rung chuyển địa cầu”.

Nhưng sau sự kiện bức tường Berlin, mẹ tôi trở về Việt Nam (vì là con của cán bộ cao cấp, mẹ tôi và các bác, cậu của tôi đều lần lượt học ở Đông Đức, Liên Xô, Bungari…).

Với những gì đã được chứng kiến ở nước Đức và Đông Âu, mẹ tôi không tán đồng quan điểm với ông tôi. Mẹ tôi từng kể với tôi rằng, những người bạn Đức của bà nói rằng ”Mỹ là những người bạn tốt, cả thế giới muốn chơi với nó mà người Việt Nam mày lại đuổi nó đi.”

Bà kể cho tôi về những người Đức cộng sản và không cộng sản khi thống nhất đất nước đã ôm hôn nhau như thế nào. Bà kể về những người lính biên phòng Đông Đức đã tự sát chứ nhất định không bắn vào những người phía Đông muốn chạy sang phái Tây như thế nào.

Đó là bước ngoặt trong suy nghĩ của tôi! Mỹ mà tốt à? Tại sao người ở phía Đông lại chạy sang phía Tây chứ không phải ngược lại? Thế giới của tôi bắt đầu có nhiều màu sắc hơn, không còn chỉ có hai màu, cộng sản và phản động nữa.

Những ngày tháng cuối cùng của chiến tranh chỉ là giao tranh giữa những người Việt (Trong ảnh là lính VNCH trong trận Xuân Lộc)

Tôi bắt đầu tìm đọc những tác phẩm viết về ngày 30/04/1975. Đọc những tác phẩm bị coi là “phản động” ở Việt Nam. Các tác phẩm của Dương Thu Hương, Trần Độ, Vũ Thư Hiên, Nguyễn Gia Kiểng…

Thông tin từ những tác phẩm này đã khiến tôi mở to mắt. Ngày 30/04 làm gì còn người lĩnh Mỹ nào ở Sài Gòn. Vậy sao còn gọi là kháng chiến chống Mỹ? Sao có thể gọi là “giải phóng”?

Và tôi khóc thương cho số phận dân tộc Việt. Khóc thương cho hàng triệu người Việt ở cả hai phía đã ngã xuống trong cuộc chiến “huynh đệ tương tàn”. Khóc thương cho cả triệu người Việt vĩnh viễn nằm lại gữa biển khơi.

Một ngày nào đó, 30/04 trở thành ngày thống nhất, một ngày lễ cho cả dân tộc. Tổ quốc treo cờ rủ quốc tang cho những người đã ngã xuống ở cả hai phía.

Và tôi khóc thương cho lòng yêu nước nhiệt tình nhưng ngây thơ của người Việt đã bị các cường quốc lợi dụng. Đất nước trở thành bãi chiến trường. Người Việt trở thành sỹ tốt xung phong. Việt Nam thành bàn cờ, nhưng người chơi là người Nga, người Trung Quốc và người Mỹ không phải là người Việt. Một bên chiến đấu để “giải phóng” và “nhuộm đỏ thế giới”. Một bên chiến đấu để bảo vệ “thế giới tự do”.

“Đại thắng mùa xuân” và “giải phóng miền Nam”. Đât nước thành một đống đổ nát, hoang tàn. Trường Sơn thành một nghĩa trang khổng lồ.

Những người mẹ mất con. Khăn trắng trên đầu trẻ thơ. Và một hết thương hằn sâu trong lòng dân tộc. 40 năm rồi, bên chiến thắng vẫn ăn mừng, vẫn diễu binh, vẫn pháo hoa…bên kia vẫn là ngày quốc hận, ngày mất nước… vết thương dân tộc vẩn rỉ máu.

Một ngày nào đó, 30/04 trở thành ngày thống nhất, một ngày lễ cho cả dân tộc. Tổ quốc treo cờ rủ quốc tang cho những người đã ngã xuống ở cả hai phía.

Một tượng đài nhỏ thôi, giản dị thôi nhưng tinh xảo. Và một nghĩa trang của những người lính ở cả hai phía cho thế hệ trẻ có thể tỏ lòng thành kính cho những người đã ngã xuống vì dân tộc. Hy vọng là như thế!

Còn thống nhất lãnh thổ mà không thống nhất được lòng người thì có ích gì? Nhất là khi phương Bắc, kẻ thù truyền kiếp đang trỗi dậy. Bài học mất nước của Hồ Quý Ly còn đó.

‘Con bà phước, cái bang’ Galang

‘Con bà phước, cái bang’ Galang

Nguoi-viet.com

Sông Tiền
(Bài viết cho mục Hồi Ức 30 Tháng Tư và Đời Tị Nạn)

Tôi đặt chân đến trại tỵ nạn Galang vào trưa ngày 1 Tháng Sáu năm 1990 sau đúng 2 tháng rời Việt Nam.

Ðoàn tàu chúng tôi đến trại với 655 thuyền nhân trên hai chuyến tàu định mệnh được nhập chung từ nhiều chiếc ghe vượt biển khác nhau đã đến được đất liền Mã Lai nhưng bị hải quân nước này gom lại và xua đuổi sang Nam Dương.

Hồi tưởng lại chuyến hải trình gian khổ và những ngày tháng bất ổn trong quá trình thanh lọc ở trại tỵ nạn mà cảm thấy thật thấm thía cho hai chữ thuyền nhân.


Cổng vào trại tị nạn Galang. Nơi đây nay đã thành di tích. (Hình: VOA)

Như bao thuyền nhân khác đến trại tỵ nạn sau ngày đóng cửa đảo định mệnh 17 Tháng Ba năm 1989, tất cả chúng tôi đều phải trải qua một quá trình ‘thanh lọc’ để xác định tư cách tỵ nạn chính trị của mình.

Chúng tôi đến Galang vào thời điểm thuyền nhân trôi tấp vào Mã Lai Á bị dồn đẩy sang Nam Dương ồ ạt nên số lượng thuyền nhân trên đảo từ năm 1989 không quá 3,000 người đã tăng đột biến lên hơn 14,000 trong vòng chưa đầy một năm. Tình trạng quá tải không có chỗ ở cho người tỵ nạn là một chuyện khá nhức đầu cho các nhân viên Cao Ủy và phòng kỹ thuật.

365 người chúng tôi được đưa thẳng vào Galang 2 và sống lây lất vật vạ tạm thời bên trong hội trường của văn phòng Cao Ủy và dọc theo hành lang của phòng xã hội. Nhìn cảnh những người “say sóng” nằm ngồi dọc theo hành lang các văn phòng của Cao Ủy Tỵ Nạn và toán JVA được các anh chị thiện nguyện viên của phòng xã hội và gia đình Phật Tử Long Hoa cũng như thanh niên Công Giáo trợ giúp nấu và chia nhau những tô mì gói nóng để đỡ đói qua ngày trong thời gian chờ đợi những nhân viên của phòng kỹ thuật dựng lên các barrack bằng plastic trên các nền barrack cũ của Zone F nó ám ảnh và theo tôi mãi trong những giấc mơ cho đến ngày hôm nay.

Galang, quán trọ trước cổng thiên đường đã không thật sự đến với chúng tôi, những thuyền nhân kém may mắn đã chậm chân đến trại sau cái ngày oan khiên mà Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc và chính quyền sở tại áp dụng để ngăn chặn làn sóng thuyền nhân bỏ nước ra đi tỵ nạn Cộng Sản ngày càng dâng cao. Sau những ngày dài chờ đợi và mất ngủ chúng tôi được đưa vào sống trong những barrack được lợp bằng plastic mới được dựng lên trong khu Zone F bốn bề gió lộng theo đúng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của nó.

Trải tấm chiếu Cao Ủy trên nền xi măng lòi lõm của barrack để xí chỗ xong là chúng tôi phải nghĩ đến việc sinh tồn trong những ngày dài sắp tới. Mỗi thuyền nhân được phát một đôi dép Cao Ủy, một cái mền và một chiếc chiếu, một cái tô, một cái chén và một cái ly bằng nhựa, mỗi 5 người được phát một cái lò xô nấu ăn bằng dầu, một cái can 5 lít đựng dầu hôi. Khẩu phần lương thực nghe đâu đã bị cắt giảm nên hàng tuần chúng tôi mỗi người chỉ được phát 3 gói mì, 2.8 kg gạo, 100 gram đậu xanh, 100 gram đậu nành, 100 gram đường và 100 gram đồ tươi có thể là bí rợ hay rau cải. Mỗi đầu tháng chúng tôi được cấp 9 lon cá mòi loại nhỏ, và 4 lít dầu ăn, có tháng Cao Ủy thay thế bằng ba hộp thịt hộp mà chúng tôi gọi là pa tê, khi thì 3 lon cá mòi loại lớn. Ăn cá mòi và tắm nước suối từ trên rừng chảy xuống được chứa trong những cái hộc được đào sẵn ở dưới hạ nguồn nên đã có rất nhiều người bị ghẻ ngứa, chúng tôi đã phải thức dậy thật sớm để sắp hàng lấy số ở bệnh viện Galang 2 chờ được chích thuốc vào mỗi sáng.

Với sức trẻ của tuổi minor vị thành niên, nhóm con “bà phước” không có thân nhân ở nước ngoài không cách gì chúng tôi có thể tồn tại và sống nổi với khẩu phần lương thực hạn hẹp mà Cao Ủy đã cấp phát thông qua nhà cầm quyền Indo, những người bạn của chúng tôi phải gom lại tìm cách mưu sinh để sống còn trong những ngày dài ở trại.

Có một câu chuyện làm cho tôi còn nhớ mãi là trong những ngày còn say sóng khi mới đến đảo. Tôi có theo chân mấy người bạn đi dạo ngoài chợ Galang 2 tình cờ được gặp lại dì Hai Ngọc Châu là bạn rất thân của mẹ tôi đã vượt biên và đến đảo vào năm 1987. Dì dượng và gia đình các anh chị lẽ ra đã đi định cư từ rất lâu nhưng vì dượng Hai bị bệnh phổi khá nặng nên đã bị các phái đoàn từ chối khi phỏng vấn và còn kẹt lại và đang chờ đi Pháp vào Tháng Tám năm 1990.

Mặc dù gia đình của dì lẽ ra phải đi Mỹ vì dượng Hai là cựu quân nhân của QLVNCH. Dì Hai và các anh chị đã rất thương và giúp đỡ chúng tôi rất nhiều trong khoảng thời gian này. Thấy chúng tôi tơi tả không có quần áo mặc dì mua vải nhờ chị Một và chị Bưởi là người con dâu và người quen của dì may đồ cho chúng tôi, lâu lâu dì mua thịt heo rừng và đồ ăn ngoài chợ đem vào tiếp tế cho chúng tôi.

Mặc dù đã sắp đi định cư và đã hứa cho người khác cái thùng phi đựng nước cũng như cái tủ đựng đồ, nhưng vì thấy hoàn cảnh quá thê thảm của chúng tôi mà dì Hai đã trả tiền lại cho người ta để xin lại cho chúng tôi có cái thùng phi đựng nước uống và có tủ để đựng đồ. Thật quý vô cùng những tấm lòng vàng.

“Bún, bún đây, ai ăn bún đổi cá, đổi gạo không? Num bờ chốc tê, Num bờ chốc đo ko tê,” những tiếng rao lanh lảnh ở Galang 1 và Xóm Miên ngày nào vẫn còn âm vang và là động lực mạnh mẽ giúp cho tôi vượt qua hết những khó khăn và vấp ngã sau này khi đã được định cư tại Hoa Kỳ.

Tôi đến với cái nghề bán bún và biết làm ra tiền đầu tiên trong đời từ trại tỵ nạn Galang qua chú Trung và anh Hùng cùng tàu của tôi. Cuộc sống ở trại khổ quá mà không có liên lạc được với thân nhân ở nước ngoài để viện trợ cứu đói, chú Trung và anh Hùng con của chú Tư Xị đã đột phá tìm cách làm quen với anh Nhân chủ lò bún ở gần Suối Zone F Galang 2 để xin lãnh bún đem đi bán dạo vòng quanh các barrack ở Galang 2.

Chú Trung thấy hoàn cảnh anh em con bà phước của chúng tôi thê thảm quá nên chú kêu lại hỏi thăm tụi tôi có chịu đi bán bún không rồi chú hỏi xin ông chủ lò bún cho chúng tôi lãnh bún đi bán ngoài Galang 1. Tôi, Ðức và 3 anh em Ðành, Ðạt và Chín nhận lời, thế là mấy anh em chúng tôi hàng ngày vào sáng sớm thay nhau gánh bún từ Galang 2 đem ra Galang 1 bán và đổi cá, gạo kiếm tiền mưu sinh trên đảo.

Là những công tử bột chưa nếm bụi trần gian, trại tỵ nạn Galang đã nhào nặn cho chúng tôi trở nên cứng cáp và trưởng thành hơn. Có những ngày mưa gió mà gánh bún thì còn nặng trĩu trên vai, chúng tôi len lỏi qua khỏi khu vực bệnh viện Galang 1 (lúc này đã được trưng dụng làm chỗ ở cho thuyền nhân) đi hoài mà gánh bún thì vẫn chưa vơi chúng tôi bạo gan tìm ra khu xóm Miên (vào cuối năm 1990 đã có gần 1,500 người Cambodia vượt biển đi tỵ nạn) lần đầu tiên món Num Bờ Chốc xuất hiện ở Làng Miên gánh bún ngày hôm đó được mua hết trong vòng 30. Thừa thắng xông lên sau đó anh em chúng tôi tăng số lượng bún lên gấp đôi, hàng ngày gánh ra bán thêm ngoài xóm Miên.

Chúng tôi học thêm tiếng Miên qua chị Hồng đi chung tàu. Chị Hồng là em vợ của chú Y Giang NiekDam là ‘leader’ tàu của chúng tôi, từ đó việc giao tiếp với bà con người Miên được dễ dàng hơn.

Có một câu chuyện bây giờ nghĩ lại rất là tức cười cho sự khờ khạo của tuổi trẻ chúng tôi, vì không quen ai ở ngoài Galang 1 nên chúng tôi cứ gánh hai thùng bún thật nặng đi thẳng ra xóm Miên bán trước, khi qua khỏi Cổng Chùa Quan Âm Tự đến gần khu vực Suối Miên, phần vì hai gánh bún quá nặng phần mệt nên chúng tôi quyết định chui vào một bụi cây ở gần đó giấu một thùng bún và gánh thùng bún còn lại trực chỉ xóm Miên. Trên đường về lại Galang 1 chúng tôi tấp vào lấy cái thùng bún giấu trong bụi cây, cả hai chúng tôi đã cười thật giòn và thật lâu khi nghĩ đến cảnh trở lại chỗ giấu thùng bún mà kiếm không ra vì cắc cớ có ông nào đi ngang tấp vào tè bậy mà thấy thùng bún và vác luôn về thì anh em chúng tôi chắc sẽ khóc bằng tiếng Miên luôn.

Có những người Miên thật tốt bụng khi thấy anh em chúng tôi bận quần áo tả tơi trong lúc vất vả mưu sinh đã kêu lại cho quần áo lành lặn để bận, buôn bán một thời gian thì chúng tôi bắt đầu có những mối tốt, họ đặt bún của chúng tôi hàng ngày để nấu món Bún Cá bán trong làng Miên. Anh em chúng tôi thay nhau mỗi ngày vào buổi chiều gánh bún đi bỏ mối ngoài làng Miên, khi thì 15 kg khi thì 10 kg tùy theo ngày. Thấy chúng tôi làm ăn được người chủ lò bún sinh lòng tham, anh ta tăng giá bún lên và sắm xe đạp chở bún ra ngoài làng Miên giành mối và bán sỉ với giá rẻ hơn. Bất mãn anh em chúng tôi không tiếp tục đi bán bún nữa. Sau này một số anh em trong nhóm con bà phước đã phải đi đánh bắt cá ngoài biển, bán bánh mì, bán cà rem, đào giếng mướn và một vài đứa thì làm nghề báo thư mà chúng tôi gọi đùa là những tay chuyên Bóp Cổ Thiên Hạ.

Galang là một trường đời đầy thử thách đã rèn luyện và huấn nhục chúng tôi được cứng cáp và trưởng thành hơn, từ cách đối nhân xử thế đầy tình người cho đến nhân tình thế thái bạc bẽo của cuộc đời chúng tôi đều được học từ trại Galang, có những bài học rất đắt giá và có những bài học không phải trả tiền mà chúng tôi may mắn được học qua những kinh nghiệm đau thương của bạn bè và chính cá nhân mình.

Trong những năm tháng đầu tiên ở trại tỵ nạn, chúng tôi lam lũ cực nhọc mưu sinh nhưng tinh thần thì rất vui và không có nhiều lo nghĩ cho đến khi bắt đầu có kết quả thanh lọc vào những đợt đầu tiên cho những đồng bào đến trại vào những ngày đầu tiên kể từ sau ngày đóng cửa đảo, Cao Ủy Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc và chính quyền sở tại vì muốn chặn đứng làn sóng thuyền nhân vượt biển tìm tự do nên đã tạo ra rất nhiều chuyện bất công trong vấn đề xác định tư cách tỵ nạn chính trị của thuyền nhân.

Thảm cảnh chèn ép buộc những cô gái Việt phải hiến thân để đánh đổi tấm vé công nhận là tỵ nạn chính trị xảy ra ngày càng nhiều. Nhà cầm quyền Nam Dương có toàn quyền quyết định tư cách tỵ nạn chính trị của thuyền nhân nên vô tình đã tiếp tay cho những nhân vật đang nắm vai trò sinh sát trên đảo lộng hành mặc sức chà đạp nhân phẩm và tiết hạnh của người phụ nữ Việt Nam trong khoảng thời gian khủng hoảng này.

Ðã có rất nhiều trường hợp cả gia đình phải tốn rất nhiều tiền để hối lộ các giới chức cầm quyền và họ còn bị bắt ép phải hiến dâng con gái dưới tuổi vị thành niên của họ cho những tên phó hay trưởng đảo cũng như những nhân vật coi về phần an ninh và thanh lọc.

Ðã có nhiều trường hợp lường gạt để lấy tiền của thuyền nhân khi hối lộ với chính quyền địa phương dẫn đến giết người để bịt miệng, vụ án ở Suối Chùa Kim Quang mà hai anh Sáu Koler và Nguyễn Văn Viễn là nạn nhân của những tên sát nhân này.

Bất công và đau khổ dày xéo tâm can của những thuyền nhân Galang, sau khi nhận kết quả rớt thanh lọc, anh Diệp Quang Huy đã gặp luật sư người Phi để tư vấn cho vấn đề khiếu nại của mình, bị tên Phi lùn xúc phạm, anh Diệp Quang Huy đã tẩm dầu tự thiêu ngay trước văn phòng Sơ Vấn Galang 2.

Minor Lưu Thị Hồng Hạnh đã đậu thanh lọc nhưng bị rút giấy đậu vì là minor đã phẫn uất tự thiêu ngay trong barrack của mình. Những thảm trạng của thuyền nhân thật là bi thương đã xảy ra rất nhiều vào thời điểm 1991-1996.

Giá trị của hai chữ tự do đã được đánh đổi bằng máu và nước mắt, bằng đói khát của những ngày lênh đênh trên biển, bằng sự tủi nhục của thân xác phụ nữ Việt trên biển và trong đất liền, bằng sự rẻ khinh và xua đuổi của các quốc gia tạm trú, bằng những nấm mồ hoang lạnh trên các trại tỵ nạn của không biết bao nhiêu ngàn thuyền nhân đã bỏ mình nơi rừng sâu, đảo vắng.

Và hơn hết là bằng sự đấu tranh tuyệt thực biểu tình của hơn 4,500 thuyền nhân tại Galang, hơn 2,000 thuyền nhân tuyệt thực ngất xỉu phài vào cấp cứu tại bệnh viện Galang 2, hơn 20 thanh niên đã đâm bụng tự sát không thành. Anh Phạm Văn Châu đã tự thiêu trong buổi sáng biểu tình và được đưa sang Pinang chết mất xác. Anh Lê Xuân Thọ đã tẩm dầu tự thiêu và đâm bụng chết tại chỗ biểu tình được đồng bào quàn và giữ xác trong quan tài tại chỗ biểu tình cho đến ngày cuối cùng sau khi bị cảnh sát đặc nhiệm của Indo trấn áp.

Cuộc biểu tình suốt 179 ngày đêm của thuyền nhân Galang chống cưỡng bức hồi hương và đòi hỏi công bằng cũng như quyền tự do tỵ nạn chính trị của mình là cuộc biểu tình dài nhất và bi thương nhất trong lịch sử của thuyền nhân tỵ nạn Cộng Sản Việt Nam. Là thuyền nhân vượt biển tìm tự do chúng ta không được phép quên chúng ta là ai và tại sao chúng ta đang ở khắp nơi trên thế giới này.

Galang một trời tâm sự…

Trở về trên chuyến tàu Việt Nam Thương Tín

Trở về trên chuyến tàu Việt Nam Thương Tín

Nguoi-viet.com

Nguyễn Ngọc Dung
(Bài viết cho mục Hồi Ức 30 Tháng Tư và Đời Tị Nạn)

Mùa Xuân đang về, thời tiết lý tưởng, với chồi non, nụ thắm… dễ làm người ta yêu đời hơn.

Ngày dài hơn, nắng vàng của những ngày đầu mùa Xuân làm cho tôi ngồi vào bàn, viết lại một quãng thời gian đầy biến động và thay đổi cho cả gia đình mình. Một công việc đã âm ỉ trong lòng, chưa được viết ra, như một gửi gấm đến các con cháu mình những gì đến với cuộc đời của tôi, và phần nào muốn chia sẻ với các bạn, như một lời tâm tình của một thành viên bé nhỏ trong cái tập thể “vợ những người tù cải tạo” quanh đây.

Phú Quốc – 1970. (Hình: Tác giả cung cấp)

30 Tháng Tư, 1975, lịch sử Việt Nam sang một trang mới. Tôi lấy chồng trong những ngày cuộc chiến cao độ (1970), chàng là một người lính Hải Quân, nay đây mai đó, lúc ở căn cứ hải quân mãi tận Phú Quốc, lúc đi tàu biển, rồi có khi về ngay bộ tư lệnh Hải Quân Sài Gòn và đơn vị cuối cùng, là giang đoàn ở Đồng Tâm, Mỹ Tho.

Tôi đi học, đi làm và không theo chân anh đi các vùng xa xôi như thế. Ngày 27 Tháng Tư, 1975, anh về thăm tôi 1 chút rồi trở về Long An, lúc đó là nơi anh được huy động về tiếp tay với các bạn giữ vùng 4 sông ngòi. Anh và tôi xa nhau, gặp nhau như chuyện thường ngày của các gia đình quân đội – nhất là hải quân – trong thời chiến, nào có biết rằng cũng là lần cuối gặp nhau mang hình ảnh anh trong bộ quần áo tác chiến hải quân.

Chúng tôi mất liên lạc từ đó, vài ngày sau, với lời tuyên bố đầu hàng sáng 30 Tháng Tư, 1975, tôi biết cuộc đời mình sẽ có những thay đổi rất lớn, mà chẳng biết nó sẽ như thế nào. Tôi chờ anh trở về Sài Gòn, chờ anh về nhà, tuy biết là không thể trở về với chiếc tàu, để đón gia đình hai bên và tôi. Về sau này, tôi mới biết, giang đoàn của anh được biệt phái từ Đồng Tâm, tới Nhà Bè, rồi về Long An, nằm trong Lực Lượng Đặc Nhiệm 99, gồm rất nhiều tàu bè, một mũi nhọn xung kích mạnh mẽ nhất của Hải Quân miền Nam lúc bấy giờ.

Lực Lượng Đặc Nhiệm 99 được thành lập để bảo vệ an ninh thủy trình sông Soài Rạp và sông Lòng Tào, và bảo vệ chính phủ rút về miền Tây, khi tình thế xấu.

Bến Bạch Đằng quen thuộc, gần nhà bố mẹ tôi, nay đã chẳng còn một chiếc tàu nào mang lá cờ xưa.

Chiều tối hôm 29 Tháng Tư, 1975, tôi cùng đoàn người gần nhà ra bến Bạch Đằng, mong có một cơ may nào lên được sà lan, tàu buôn hay cả ghe nhỏ để cứ đi vào một bến bờ vô định. Đi như trong giấc ngủ vật vờ, đêm xuống, bờ sông hỗn loạn, hàng kẽm gai kéo ngang, họng súng gờm sẵn sàng nhả đạn. Tên anh cũng chẳng ích gì trong việc xin 1 chỗ cho mình tôi lên tàu hải quân, ai thoát được, cứ lạnh lùng bỏ đi.

Thôi rồi, số phận mình ra sao, anh ở đâu và có an toàn?

Phi trường Tân Sơn Nhất, 4 Tháng Bảy, 1991. (Hình: Tác giả cung cấp)

Một đêm không ngủ nghe tiếng trực thăng bay liên tục, nhìn những chiến hạm không đèn trên sông Sài Gòn, tôi biết mọi hi vọng ra đi đã bị cắt đứt. Đi qua bộ tư lệnh Hải Quân, qua cầu tàu nơi có khi anh chỉ cho tôi, kia là con tàu anh đang làm việc trên đó, nay chỉ là một quãng sông đen ngòm, đe dọa và nhận chìm mọi hi vọng của chúng tôi.

Ngày qua ngày, qua lời 1 anh lính cận kề với anh ở giang đoàn, anh ta về nhà nhưng không muốn gặp mặt tôi, tôi biết anh đã dẫn đoàn ghe ra cửa biển, đón tàu khác để di tản.

Tôi vẫn phải đi làm, sáng ra phải dự các buổi gọi là “giao ban,” gặp tất cả các bác sĩ, dược sĩ, nha sĩ và ban quân quản bệnh viện. Không khí căm thù bàng bạc suốt buổi, nhiều đe dọa, chúng tôi chỉ biết nhìn nhau, im lặng, vì quanh mình chẳng biết ai là bạn ai là thù.

Bên cạnh đó, những buổi học tập tại chỗ, những bài tự khai thật nặng nề, những câu hỏi mơ hồ khiến câu trả lời nào của chúng tôi cũng không thỏa mãn được họ. Nhất là với tôi, khi tôi khai ông chồng tôi…mất tích… Thì đúng là mất tích chứ sao bây giờ, khi Tháng Năm, Sáu, Bảy, Tám 1975 không biết anh ở đâu. Họ đâu có chịu cho tôi yên với hai chữ mất tích kia, cái mất tích hàm nhiều ý nghĩa…có thể là đã chết, di tản, vô bưng hoạt động chống lại họ, hay trốn ở đâu. Họ bắt tôi lên họp, chỉ một với một, họ hạch hỏi quanh chữ “mất tích.” Tôi cũng hoang mang lắm, không biết anh sống chết thế nào.

Bức màn sắt đã trùm xuống toàn miền Nam, toàn vùng chỉ là đêm đen giữa ban ngày. Chỉ có một đường radio VOA, BBC để biết tin nước ngoài, được nghe trong sự trốn tránh che giấu. Sáng đi làm, nhìn những lá cờ đỏ trên đường, rùng mình như màu máu đang rút dần ra khỏi cơ thể tôi, ngủ dậy mới thấy đã qua được 1 ngày yên ấm, chưa bị bắt như các người lớn trong bệnh viện, nay ông bác sĩ bệnh viện trưởng, mai ông phụ tá hành chánh, mốt ông điều dưỡng trưởng.

Không khí trong bệnh viện đầy đe dọa, dò xét, ngay cả hộp đồ ăn trưa cũng được bà trưởng phòng về tiếp quản, đổ ra ngoài xem có dấu gì trong đó, hay xem bọn “ngụy” ăn uống cao lương mỹ vị gì.

Đến khoảng Tháng Tám 1975, tôi nhận được 1 điện tín gửi từ Pháp, như sau: sẽ hồi hương, cho biết ý kiến.

Bức điện tín ngắn gọn, mà thật là khó giải quyết. Tôi xin ý hai bên cha mẹ. Bố mẹ anh không biết nên bảo anh về lại Việt Nam hay bảo anh qua Mỹ, được sung sướng cho anh, thì lại khổ cho con dâu mà ông bà rất yêu quý. Bố mẹ tôi bảo anh trở về, thì thương anh bị ở tù khổ cực lắm. Ngay bản thân tôi, cũng chẳng biết sao là đúng. Biết là anh đang rất cần câu trả lời để có quyết định, về hay ở?

Sau cùng, chúng tôi đành đánh điện tín qua: “Tùy ý quyết định.” Những ngày tháng sau đó, tôi sống như một người có tội, tội đẩy anh vào nơi lao lý, biết có ngày về ?

Sau đó các đài phát thanh, VOA, BBC báo tin cho biết sẽ có một chuyến tàu mang tên Việt Nam Thương Tín sẽ đưa một số người muốn hồi hương, khoảng Tháng Mười sẽ trở về. Thuở ấy, sau bức màn sắt là một thế giới khác, bít bùng, mọi tin tức đều không thể đến với người dân. Tôi đi làm, lòng đầy hoang mang, anh có về, nếu anh về, thì có phải ở tù không? Người ở đây, còn vào tù, huống gì người đã đi, nay trở lại, mang theo những câu nghi ngờ về các anh, có phải đã mang về những công việc dọ thám, đánh phá chế độ…

Rồi được tin nghe lén, chiếc tàu mang tên Việt Nam Thương Tín (VNTT) đã chở người di tản dạo 30 Tháng Tư, 1975, nay được dùng để đưa đoàn người hồi hương. Tôi tự hỏi, liệu có anh trong đó, nếu có thì anh sẽ ra sao. Ngay bản thân tôi ở Sài Gòn, còn bị đe dọa đi kinh tế mới, vì đã được đặt tên là vợ của ngụy quân, tội ác đầy mình, cần phải cải tạo cái đầu tư sản bằng con đường lao động.

Hai bàn tay một Nha Sĩ như tôi, thay vì điêu khắc lên miếng trám cho thật đẹp, thật giống những hình dáng thật của răng, nay có lúc phải cầm cuốc đi trồng dứa (thơm) ở nông trường, cầm cuốc trồng khoai mì sau khi đã cuốc hết sân cỏ xanh mướt tốn công biết bao, ở sân trước bệnh viện Chợ Rẫy nổi tiếng ở Sài Gòn.

Có lần chúng tôi phải đi đào kinh, giẫm chân trên dòng kinh lúp xúp nước, chuyền những miếng đất được các vị bác sĩ, các giáo sư đại học Y Khoa Sài Gòn trao cho, để tạo con kênh dẫn nước phèn vào ruộng. Dòng nước váng lên những phèn, cây nào sống nổi. Sau những lần khổ cực như thế, số bác sĩ quyết chí rời bỏ nước lại càng tăng lên. Họ đã không trọng vọng nhân tài, yêu quí những vị “cứu nhân, độ thế.”

Qua những sự việc hàng ngày như thế, tôi đã có thể hình dung cuộc sống trong tù “cải tạo” của các quân nhân chế độ cũ, và nhất là các anh đã về theo chuyến tàu VNTT sẽ khổ như thế nào.

Lá thư anh gửi từ trại tù Tuy Hòa đã xác định, anh đã trở về.

Tết đầu tiên ở Hoa Kỳ, 1992. (Hình: Tác giả cung cấp)

Tôi lên phòng nhân viên của bệnh viện tôi làm việc, xin điều chỉnh tình trạng chồng mình. Chữ “mất tích” nay đổi thành một địa chỉ lạ hoắc, ở một nơi rừng sâu núi thẳm nào đó miền Trung. Tưởng rằng đã yên cho mình, tưởng rằng không còn cái cảnh gọi lên làm lại lý lịch tôi đã thuộc lòng, với lời nghi ngờ là ông chồng tôi đang ở một nơi nào, đe dọa đến an ninh của chế độ mới.

Bây giờ họ đem chồng tôi để “dụ” tôi vào một công tác mới. Họ hỏi, tôi có muốn đi thăm nuôi anh, có muốn gặp anh? Dĩ nhiên là tôi muốn lắm chứ, nhưng tôi cũng biết dè chừng cái thâm ý của họ.

Đằng sau cái đề nghị ngọt ngào đó, hẳn là sẽ có điều kiện gì đây?

Thì ra, họ muốn tôi làm một thứ “ăng ten” để tìm hiểu về một nhân vật trong bệnh viện mà họ muốn bắt. Tôi tuy còn non trẻ, nhưng cũng đã biết lưu ý kịp thời, để không mắc mưu họ, giữ an toàn cho người ấy và cả cho mình. Cuộc sống bấy giờ, là một sự đối phó, là những cẩn thận và căng thẳng. Rồi cũng qua ngày, tôi tìm quên trong công việc. Trong bệnh viện, ngày ngày có tin người này đi thoát, bạn khác bị bắt. Tôi đã tìm cho mình một hướng đi, dứt khoát ở lại với anh. Chúng tôi chưa có con, tưởng như không có điều chi ràng buộc, nhưng tình nghĩa vợ chồng sâu nặng, nhất là sự trở về của anh, thì sự dứt khoát kia trở thành một điều không lay chuyển.

Chuyến tàu VNTT về đến hải phận Vũng Tàu từ Tháng Mười, 1975, thế mà chúng tôi chỉ biết đến tin nhau qua vài lá thư, thư đầu tiên từ Tuy Hòa, ngày gửi là Tháng Hai, 1976, thư thứ hai từ Nghệ Tĩnh. Anh đã bị còng tay, giải đi thật xa, đến một nơi nghèo nhất nước, để đói khát, bệnh tật sẽ giết lần mòn nhóm sĩ quan ưu tú của quân đội. Những lá thư được rập khuôn, vài ba chữ hỏi thăm là đã hết, anh chẳng đả động gì đến chuyện đi thăm, sự cô lập trong rừng sâu, sự cô lập với dân quanh vùng và ghê sợ hơn cả là sự cách chia với gia đình.

Anh sống thế nào nhỉ?

Sự chờ đợi mỏi mòn cho đến cuối năm 1978, anh mới báo tin cho tôi đi thăm nuôi. Hai chữ “thăm nuôi” thật giản dị mà đầy ý nghĩa.

Nghĩa là có hai việc trong lần được gặp này: thăm và nuôi. Anh viết thư về, danh sách các thứ “nuôi” dài thậm thượt, với một người gọi là “khảnh ăn” như anh, mà phải liệt kê bao nhiêu món như thế, chắc chắn anh thiếu thốn ghê gớm.

Quãng đường Hà Nội vào Vinh bằng tàu chợ đã là một ám ảnh tôi cho đến bây giờ, xe lửa cho những con buôn đanh đá, cảnh hỗn loạn cho những tay cướp hoạt động, nơi những tay anh chị và đồng bọn hoành hành với những luật chơi riêng của họ. Những chị đi thăm nuôi cứ chết dí, né tránh và chịu đựng. Nói sao cho hết những nhục nhằn chịu đựng trên đường thăm nuôi.

Gia đình, năm 2015. (Hình: Tác giả cung cấp)

Lần đầu tiên gặp lại sau 3 năm xa cách, anh đã trở thành một người khác, cả người sưng phù, khuôn mặt giữ nước trông như mập ra, anh như một người khác trong bộ bà ba đen có lần tôi gửi vào theo đường bưu điện.

Vợ chồng nhìn nhau qua 1 chiếc bàn lớn, xa cách như tội nhân. Chúng tôi tội tình gì nhỉ, muốn nói bao điều, mà chỉ nói bằng ánh mắt. Giờ được thăm loáng cái đã hết, chúng tôi bịn rịn, anh ngay đây mà như một người xa lạ, gặp nhau và chia tay, chỉ yên tâm là chúng tôi vẫn còn sống, ngày mai sẽ ra sao, chẳng ai biết.

Anh quay vào trại, sống kiếp tù đày, tôi trở về lại Hà Nội đợi máy bay vào Sài Gòn. Ra đến Hà Nội mới biết các chuyến bay tạm ngưng vì chiến tranh Tháng Mười Hai, 1978 giữa Việt Nam và Cambodia, tôi kẹt ở lại, tôi đánh điện tín về bệnh viện xin nghỉ, họ không tin, cứ nghĩ tôi đã vượt biên. Sau khi có máy bay trở lại, tôi đi làm và đã bị làm khó dễ không ít với sự việc này. Đất nước đã được rêu rao là “thống nhất,” là hạnh phúc, mà sao vẫn sợ dân mình bỏ nước ra đi?

Cuộc sống ngay cả ngoài tù còn đầy rẫy khó khăn, đói ăn, thiếu mặc, thiếu tự do. Thử hỏi trong tù, nhất là người tù luôn kèm theo bốn chữ Việt Nam Thương Tín, thì khổ thế nào. Bốn chữ ấy có nghĩa là luôn nằm trong sự nghi ngờ của chính quyền, sự thương cảm của bạn bè, sự tiếc nuối có khi tức giận của những người đang tìm đường vượt biên. Riêng tôi, bị nhìn như nguyên nhân chính của sự trở về của anh.

Tôi tự giận mình, quyết định để anh trở về, như đang ở thiên đường mà lại xuống địa ngục. Nhiều khi tôi phải tự tìm ra câu trả lời, là, quyết định lúc nào, là đúng nhất vào lúc ấy, không ân hận và không tiếc gì. Hỏi rằng có ai can đảm như anh, biết trở về là tù đày mà chỉ nghĩ đến một ngày sẽ trở về với gia đình và tôi.

Nhiều bạn anh lúc còn ở Guam, đã ngăn anh trở về, nhưng các bạn mạnh miệng vì họ đang ở trong sự đầy đủ của vợ, con, cha mẹ. Anh tâm sự, có những buổi chiều ở Guam, ngồi ở bãi biển, nhìn đôi chim bay cùng nhau trong nắng xế, nhìn người ta bên cạnh vợ con, tuy chưa biết ngày mai nhưng vẫn ánh lên hạnh phúc vui vầy. Anh đã về vì chẳng có ai trong gia đình anh, gia đình tôi di tản được.

Mãi đến bây giờ, 40 năm sau ngày đau thương ấy, chúng tôi vẫn thấy quyết định quay về là đúng. Chúng tôi hãnh diện khi có người hỏi, có phải anh đã trở về trên chuyến tàu định mệnh, VNTT. Chúng tôi ngẩng cao đầu với niềm tự hào, với sự can đảm khó có của anh, vui với một kết thúc “có hậu” như bây giờ.

Anh ra khỏi tù Tháng Mười, 1982, từ xứ Nghệ Tĩnh rất xa, vào đến miền Nam là cả một lòng thương yêu của dân chúng, họ giúp đỡ, trên đường di chuyển về Sài Gòn. Hai năm sau, chúng tôi có đứa con trai đầu tiên và 3 năm sau, một đứa con trai thứ ra đời khi tôi đã ở tuổi 40. Bạn bè của anh thường lui tới thăm hỏi, nựng nịu hai cháu nhỏ nhất khóa. Chúng tôi muốn sống yên bình, nhưng thấy luôn luôn có những phân biệt, ngăn cản bước tiến của con mình từ phía chính quyền mới. Và năm 1991 bốn người chúng tôi ra đi định cư ở Mỹ trong chương trình H.O., chúng tôi phải làm lại từ đầu, bắt đầu một cuộc đời mới ở một xứ sở mới đã dang tay đón nhận chúng tôi.

Chúng tôi với tuổi thanh xuân, với thời điểm đẹp nhất cho việc tạo dựng một cuộc đời tốt đẹp, lúc ấy, đã bị cướp đi, phải bắt đầu một cuộc đời mới bằng hai bàn tay trắng. Những mất mát ấy, chẳng cách gì lấy lại được. Thật là nhiều thua thiệt, chỉ còn những an ủi là những ngày tháng cuối đời được sống bình an nơi xứ sở này, nơi chúng tôi xin nhận làm quê hương.

Anh đã từ Mỹ, trở về Việt Nam, trải qua 7 năm gian khổ, và 9 năm sau gia đình chúng tôi đã cùng nhau trở lại “thiên đường” tưởng đã đánh mất, sau 19 năm tuổi trẻ, đã qua đi vô ích, tuổi đẹp nhất của một đời người.

Qua những gian khó ban đầu ai cũng phải sống như thế, chúng tôi đã hội nhập được với “dòng chính,” các cháu học hành nên người, cuộc sống không đến nỗi kham khổ.

Để đến bây giờ, chúng tôi vẫn hãnh diện trả lời, “Vâng, chúng tôi là người của chuyến tàu VNTT, con tàu mang tên Định Mệnh, từ Guam trở về Việt Nam Tháng Mười, 1975.”

Những ngày cuối cùng của Tổng Thống Trần Văn Hương

Những ngày cuối cùng của Tổng Thống Trần Văn Hương

Huy Phương/Người Việt

Nhân cuộc phỏng vấn tác giả Trần Văn nhân cuốn sách viết về cựu Trung Tướng Ðặng Văn Quang trên đài SBTN, chúng tôi đã nhận được điện thoại của ông Trần Văn Ðính, thứ nam của Cựu Tổng Thống Trần văn Hương, nhờ chúng tôi viết lại nhiều thông tin trên báo chí chưa rõ hay nói sai, kể lại những ngày cuối cùng của Cụ Trần Văn Hương tại Saigon cũng như câu chuyện liên quan đến Tướng Ðặng Văn Quang. Ông Trần Văn Ðính năm nay đã 87 tuổi, hiện sống tại Nam California, đã là phụ tá đặc biệt cho thân phụ ông trong nhiều năm, từ 1965-1975.

Cụ Trần văn Hương và cháu nội Trần Thủy Vân (1967- 1997)
con gái ông bà Trần Văn Ðính. (Hình gia đình chụp năm 1968)

Hai người con, hai chí hướng

Theo sự trình bày của ông Trần Văn Ðính, ông bà Trần Văn Hương chỉ có hai người con trai.

1. Người con lớn là Trần Văn Dõi, sinh năm 1924 (nhiều người như các ông Hứa Hoành, Huỳnh Văn Lang đã ghi lầm là Trần văn Giỏi – vì Cụ Hương đã có một người em ruột tên Giỏi (1), và nhiều bài khảo cứu dựa theo tài liệu của Mỹ lại không bỏ dấu, mà chỉ ghi là Doi). Khi phong trào kháng chiến nổi lên, đang theo học tại trường “College de Can Tho.” ông Dõi bỏ học theo Việt Minh. Khi phái đoàn Hồ Chí Minh qua Pháp dự Hội Nghị Fontainebleau trở về tới Vũng Tàu, ông Dõi theo ra Bắc. Năm 1948, ông được gửi theo học trường Lục Quân Trần Quốc Tuấn và đổi tên là Lưu Vĩnh Châu (lấy họ mẹ), sau này tham gia trận Ðiện Biên Phủ với cấp bậc đại úy Công Binh, là đảng viên cộng sản.

Theo tài liệu, ông Dõi sau khi biết thân phụ mình là phó tổng thống VNCH, đã trình sự việc lên ông Ung Văn Khiêm là tổng trưởng Nội Vụ miền Bắc thời đó. Về phần Cụ Hương cũng đã xác nhận với tình báo Hoa Kỳ về chuyện cụ có một đứa con trai bên kia giới tuyến.

Một thời gian lâu sau khi CS vào Saigon, ông mới được phép đem gia đình (vợ tập kết và hai con, một trai một gái) vào gặp cha, và ít lâu sau dọn về ở với Cụ Trần Văn Hương tại số nhà 216 Phan Thanh Giản (sau này đổi lại Ðiện Biên Phủ). Con trai ông Dõi hiện làm việc tại Saigon và cô con gái hiện sống ở Hungary.

Sau khi Cụ Trần Văn Hương qua đời năm 1982, ngôi nhà này được chính quyền “cho phép” bán, chia cho gia đình em gái út Cụ Hương và gia đình ông Dõi. Ông Trần Văn Dõi đã qua đời năm 2011 tại quận Tân Bình, Saigon.

2. Người con thứ nhì, là Trần Văn Ðính, sinh năm 1925, chính là người sống với Cụ Trần Văn Hương, làm phụ tá đặc biệt cho Cụ từ năm 1965 cho đến trước ngày bàn giao chức vụ tổng thống cho ông Dương Văn Minh vào ngày 28 tháng 4, 1975.

Thời Ðệ Nhất Cộng Hòa, năm 1955, trước khi Cụ Trần văn Hương theo lời mời của TT Ngô Ðình Diệm ra làm Ðô Trưởng Saigon-Chợ Lớn thì ông Trần Văn Ðính đã tự túc xuất ngoại sang Anh Quốc. Ông đã học và làm việc tại Londre 3 năm, Paris (Pháp) 2 năm và Francfurt (Tây Ðức) 5 năm. Cuối năm 1964, khi Cụ Trần Văn Hương lên làm thủ tướng lần thứ nhất, ông đã được gọi về, như một người thân tín, sống gần gũi, giúp thân phụ làm phụ tá đặc biệt. Ông lập gia đình tại Saigon với một người mà ông đã từng gặp tại Paris 6 năm về trước, ông bà có hai người con, trai là Trần Bảo Danh hiện sống tại Oregon và gái là Trần Thủy Vân trong tấm hình chụp với ông nội trên trang báo này.

Ngày 21 tháng 4, 1975, sau khi ông Nguyễn Văn Thiệu bàn giao chức vụ tổng thống lại cho Cụ Trần Văn Hương, trước tình hình căng thẳng tại Saigon, Ông Trần Văn Ðính muốn thu xếp cho vợ con rời Việt Nam và ở lại bên cạnh cha, nhưng cuối cùng Cụ Hương không đồng ý đã hối thúc con trai rời Việt Nam cùng với gia đình.

Năm 2005, ông Trần Văn Ðính có về Việt Nam và có gặp anh là Trần Văn Dõi, nhưng ông cho biết anh em xa nhau đã lâu ngày, lại khác chí hướng, không mấy hứng thú để trò chuyện. Hiện nay ông bà Trần Văn Ðính đều đã già, đang sống cô đơn trong một khu mobil home thuộc thành phố Huntington Beach, vì con trai ở xa và cô con gái đã mất năm 1997 vì chứng ung thư máu.

Ông Trần Văn Ðính, 87 tuổi, thứ nam Cụ Trần văn Hương, chụp tại nhà riêng ở Huntington Beach, California. (Hình: Huy Phương)

Túng quẫn nhưng giữ trọn chí khí

Trong tiểu sử của Cựu Tổng Thống Trần văn Hương, không ai nghe nói đến cụ bà đệ nhất phu nhân cũng như trong suốt thời gian Cụ Hương làm việc trong chính phủ VNCH, không ai biết đến bà Trần Văn Hương làm gì ở đâu? Ông Trần Văn Ðính cho chúng tôi biết hai ông bà sống riêng đã nhiều năm một cách tự nhiên, vì không hợp tính, và phần Cựu Tổng Thống Trần Văn Hương không muốn có đàn bà xen vào việc nước. Chỉ trong thời gian cuối cùng ốm đau, bà Trần Văn Hương mới dọn về ở đường Công Lý và mất vào đầu năm 1975.

Chúng ta cũng đã biết trong những ngày cuối cùng của VNCH, trước khi người Mỹ quyết định bỏ mặc cho VNCH tự chiến đấu chống cộng sản, Ðại Sứ Martin của Hoa Kỳ đã chính thức gặp Tổng Thống Trần Văn Hương và mời tổng thống rời khỏi nước, nhưng Tổng Thống Trần Văn Hương đã khẳng khái trả lời: “Tôi là người lãnh đạo đứng hàng đầu, tôi tình nguyện ở lại để chia sẻ với dân chúng một phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nỗi thống khổ của người dân mất nước.”

Cụ Trần Văn Hương đã lui về căn nhà 216 đường Phan Thanh Giản, tại đây cụ sống với vợ chồng người em gái út cho đến lúc qua đời. Theo ông Trần Văn Ðính, đây là căn nhà mà năm 1969, khi rời chức thủ tướng để trao chức vụ này cho ông Trần Thiện Khiêm, không có nhà ở, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã cấp cho ông. Tuy mang số 216, đây là một căn nhà nhỏ hẹp, nằm sâu trong hẻm, sau lưng nhà của ông Trần Ngọc Liễng, loại nhà cấp cho các bộ trưởng nhưng vì nhà đã lâu năm, cũ kỹ, xuống cấp, không ở mặt tiền, bị mọi người chê nên mới còn lại. Chính Cụ Hương đã từ chối lời đề nghị cho sửa sang lại vì sợ tốn công quỹ, do đó, ngôi nhà còn yên, sau 1975, không bị CS chiếm như nhưng căn khác, nhưng báo chí CS cho rằng vì lý do nhân đạo nên ngôi nhà này không bị tịch thu.

Theo nguồn tin của CS thì sau năm 1975, Cụ Trần Văn Hương được trợ cấp tem phiếu hạng E dành cho một “cựu tổng thống Ngụy,” nhưng theo lời ông Trần Văn Ðính thì Cụ Hương không có hộ khẩu vì không làm đơn xin “phục hồi” quyền công dân như cụ đã nói: “Chừng nào những người tập trung ‘cải tạo’ được về hết, chừng nào họ nhận được đầy đủ quyền công dân, chừng đó tôi sẽ là người cuối cùng, sau họ, nhận quyền công dân cho cá nhân tôi!”

Chính vì thái độ này, mà Cụ bị CS quản chế, không hộ khẩu, làm sao có tem phiếu, ông Ðính nói. Cựu Tổng Thống Trần Văn Hương không bao giờ ra khỏi nhà, ốm đau, không những sống đạm bạc mà còn thiếu thốn. Người chăm sóc tận tình cho Cụ chính là người em rể sống với Cụ. Theo lời một người cháu Cụ kể chuyện với nhà văn Hứa Hoành, đã có lúc Cụ giao cho bà em ra chợ bán một củ sâm Ðại Hàn Cụ còn cất giữ và những bộ đồ vest để lấy tiền mua thức ăn cho cả gia đình. Cụ qua đời vào ngày 27 tháng 1, 1982 (nhằm ngày mồng Ba Tết), hưởng thọ 80 tuổi, hài cốt được hỏa thiêu.

Cụ Trần Văn Hương và một con người khí tiết, yêu nước đã hai lần làm Thủ tướng, phó tổng rồi tổng thống VNCH, đã mất đi trong một hoàn cảnh, gần như bị quên lãng.

*Kỳ Sau: Trần Văn Hương vs. Ðặng Văn Quang

Chú thích:

(1) Người em thứ sáu của Cụ Trần Văn Hương mang họ Lâm, là Lâm Văn Giỏi. Theo lời ông Trần Văn Ðính thì “ông chú này không có khai sinh, nên ông nội lấy khai sinh của người khác cho chú Giỏi đi học.”