Sai lầm khi “coi thường” thành quả VNCH

Sai lầm khi “coi thường” thành quả VNCH

Việt Nam đã để lỡ mất cơ hội phát huy những thành quả của miền Nam để lại do chìm đắm trong tư tưởng của bên thắng cuộc, theo Tiến sỹ Vũ Minh Khương

Việt Nam đã để mất cơ hội trở thành một cường quốc sau năm 1975 do coi thường các thành quả trong chính sách của Việt Nam Cộng hòa.

Nhận định trên được Tiến sỹ Vũ Minh Khương, từ Trường Chính sách công Lý Quang Diệu, Singapore, đưa ra trong cuộc phỏng vấn với BBC ngày 25/4.

Cũng theo ông Khương, chính thái độ này đã khiến cho Việt Nam “tổn thất một nguồn lực rất lớn”, không khai thác được ý chí dân tộc và “tình cảm giữa người dân hai miền”.

BBC: Ông đánh giá thế nào về các chính sách kinh tế của miền Nam trước năm 1975?

Ông Vũ Minh Khương: Tôi nghĩ chính quyền miền Nam trước đây đã có những nỗ lực rất lớn trong phát triển kinh tế, dù trong hoàn cảnh chiến tranh rất ác liệt và tâm trí của họ không dành được nhiều cho vấn đề này.

Việc hỗ trợ cho kinh tế tư nhân, hội nhập quốc tế và hỗ trợ kinh tế nội địa, theo tôi là những điểm sáng.

Tôi thì không được chứng kiến trực tiếp việc họ thực thi chính sách như thế nào, nhưng sau năm 75, tôi vào làm việc ở TP.HCM thì thấy trình độ quản lý của các cơ sở tiếp quản từ doanh nghiệp miền Nam rất tốt, kể cả từ mặt thiết bị, tính chuyên nghiệp, sổ sách, tính quy hoạch.

Rõ ràng là có dấu ấn của nỗ lực khá tốt trong việc xây dựng một nền kinh tế thị trường có hiệu quả.

BBC: Sau năm 1975 thì thái độ học hỏi những chính sách, thành quả kinh tế của miền Nam thời bấy giờ từ phía ‘thắng cuộc’ là thế nào, thưa ông?

Ông Vũ Minh Khương: Tôi thấy trong bối cảnh của miền Nam mới giải phóng thì ý thức học hỏi của Việt Nam rất hạn chế vì tâm lý là người chiến thắng. Khi đó miền Bắc nhìn nhận mọi vấn đề ở miền Nam một cách rất coi thường, đánh giá thấp, không trân trọng những gì họ đã làm được.

Đó là một não trạng mà đến nay chúng ta phải rút kinh nghiệm rất là nhiều.

Cái thứ hai là lòng thôi thúc để xây dựng một đất nước hùng cường chưa rõ, vẫn còn bị ảnh hưởng vì chiến thắng.

Bên cạnh đó, chúng ta còn nghĩ rằng vì mình là đồng minh của Liên Xô, cứ học hỏi Liên Xô, là có thể trở thành một quốc gia XHCN thành công rồi. Nỗ lực học hỏi tinh hoa của thế giới còn rất hạn chế.

BBC: Nếu như những người tiếp quản miền Nam nghiêm túc nghiên cứu về những chính sách cũ để từ đó chắt lọc và tiếp tục áp dụng thì theo ông điều đó sẽ tạo ra sự khác biệt gì?

” Tôi thấy chúng ta rõ ràng đã làm tổn thất một nguồn lực rất lớn, từ ý chí dân tộc đến tính chuyên nghiệp đã được đào tạo ở chế độ cũ, cũng như tình cảm gắn bó giữa người dân hai miền.

Tiến sỹ Vũ Minh Khương”

Ông Vũ Minh Khương: Tôi cho rằng điều đó sẽ tạo nên sự thần kỳ. Tất cả chúng ta phải thấy xót xa, khắc khoải vì mất đi một thời cơ quý giá vô cùng như thế.

Giá như với ý thức cao, chúng ta có thể tiếp thu những gì ở miền Nam, cái gì dở thì sửa chữa, cái gì tốt thì học hỏi và đặt câu hỏi vì sao họ làm được như thế.

Tôi từng làm việc ở một trung tâm tính toán và thấy tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ ở đó rất cao. Họ tận tình chỉ bảo nhau rất kĩ càng mà tôi là người mới vào, được chỉ dẫn rất rõ.

Hệ thống IBM hiện đại lúc đó còn để lại, duy trì hàng chục năm mà vẫn còn giúp cho miền Bắc rất nhiều, từ xây dựng Thủy điện Sông Đà, tới tuyển sinh và quản lý hoàn toàn hệ thống điện lực ở miền Nam, rất hiệu quả.

Cũng không hề có tham nhũng tiêu cực ở đó, tính chuyên nghiệp rất cao. Đồng lương thì khiêm nhường thôi, nhưng anh em làm việc ở đó gắn bó tình cảm lắm. Sau này thì mọi người ly tán, mỗi người đi một nơi, xuất cảnh ra nước ngoài.

Sau này nghĩ lại tôi thấy chúng ta rõ ràng đã làm tổn thất một nguồn lực rất lớn, từ ý chí dân tộc đến tính chuyên nghiệp đã được đào tạo ở chế độ cũ, cũng như tình cảm gắn bó giữa người dân hai miền.

BBC: Từ góc độ của một nhà quan sát, ông có cho rằng đã có sự thay đổi từ phía các nhà làm chính sách trong cách nhìn nhận, nghiên cứu những kinh nghiệm của miền Nam ngày trước chưa?

Ông Vũ Minh Khương: Khi nói về năng lực học hỏi thì thường người ta nhìn ở ba khía cạnh. Khía cạnh thứ nhất là khả năng tiếp thu có tốt hay không, thứ hai là sự khát khao để học hỏi cái mới, và thứ ba là cơ chế khuyến khích, tức là người chịu khó học hỏi vươn lên có được tưởng thưởng hay không.

Ở Việt Nam thì tôi thấy hạn chế nhất là lòng thôi thúc chưa được cao. Thứ hai là cơ chế tưởng thưởng người khát khao học hỏi cũng hạn chế.

Học ở chế độ cũ là một việc, học từ toàn thế giới lại càng quan trọng hơn.

Cán bộ của mình khả năng tiếp thu không yếu. Những anh em cán bộ từ Bắc chuyển vào Nam làm quản lý sau 75 thì cũng cố gắng tiếp thu những cái cũ khá nhiều.

Nếu có cơ chế khuyến khích họ mạnh mẽ khai thác những cái hay của chế độ cũ, bên cạnh đó có những nỗ lực vươn lên, thì tôi cho rằng Việt Nam có thể đạt dược những thành quả lớn hơn nhiều.

Viết cho ngày 30/4: nỗi đau nào lớn hơn?

Viết cho ngày 30/4: nỗi đau nào lớn hơn?

RFA

Nguyễn Vũ Bình, viết từ Hà Nội

Hàng năm, cứ đến ngày 30/4 là nhà cầm quyền Việt Nam lại tổ chức kỷ niệm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước bằng các lễ mít tinh, diễu hành, diễu binh, duyệt binh. Đối với đồng bào người Việt hải ngoại, và rất nhiều đồng bào miền Nam ở trong nước, đây là ngày quốc hận, là nỗi đau chưa hề nguôi ngoai.

Người ta đã nói nhiều tới nỗi đau của người dân miền Nam sau biến cố 30/4/1975 này, và đó là những sự thật hiển nhiên. Một quốc gia (Việt Nam Cộng Hòa), với chính nghĩa sáng ngời, tinh thần nhân bản đã bị cưỡng chiếm một cách đau đớn, tức tưởi. Từ sự kiện này, hàng triệu quân, dân, cán, chính của Việt Nam Cộng Hòa đã phải vào các trại cải tạo, lao tù. Hàng chục vạn người đã phải bỏ nước ra đi, vượt biên vì không thể sống nổi trên quê hương. Hàng chục ngàn người đã nằm trong bụng cá và dưới đáy biển sâu…đó là số phận, là nỗi đau của bên thua cuộc.

Tuy nhiên, ngoại trừ sự thất bại của cuộc chiến tranh (có nguyên nhân quan trọng từ việc đồng minh Mỹ bỏ rơi) mà người dân miền Nam ít nhiều có trách nhiệm, thì những nỗi đau khác, sự thống khổ, bi ai của người dân miền Nam là kết quả của những chính sách thâm độc, hiểm ác và tàn bạo của chế độ cộng sản

Nhưng ngày 30/4 cũng chính là bước ngoặt và đưa tới một nỗi đau tột cùng cho bên thắng cuộc, cho những người được mệnh danh giải phóng người khác. Rất ít người nhận ra nỗi đau âm ỉ, dồn nén và không nói lên được của hầu hết những người thắng trận năm xưa, của những thế hệ dấn thân cho đất nước, cho dân tộc luôn nghĩ mình có chính nghĩa và lý tưởng nhưng cuối cùng lại không phải như vậy.

Nỗi đau của bên thắng cuộc là nỗi đau từ từ, âm ỉ. Nó lớn lên cùng với nhận thức của chính những người trong cuộc, từ sự so sánh giữa lý tưởng và hiện thực, giữa lời nói và việc làm. Sau 30/4/75, đất nước sạch bóng quân thù, cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội….một sự vỡ mộng, bẽ bàng khủng khiếp từ từ xâm lấn tâm hồn bên thắng cuộc. Với độ lùi 40 năm sau ngày 30/4 đó, tất cả đã hiển hiện, bức tranh toàn cảnh của Việt Nam dưới sự lãnh đạo tài tình của đảng cộng sản: Sự toàn vẹn lãnh thổ không còn, đất đai, hải đảo, lãnh hải bị mất và xâm phạm nghiêm trọng; nợ gấp đôi GDP và không có khả năng thanh toán; đạo đức, nền tảng xã hội bị băng hoại và phá hủy hoàn toàn; sự dồn nén cùng cực của tất cả mọi tầng lớp nhân dân…đây phải chăng là kết quả của niềm vui chiến thắng?

Chưa hết, nỗi đau còn nhân lên gấp bội khi sự rộng mở của hệ thống Internet toàn cầu đưa tới những sự thật kinh khủng: Hồ Chí Minh bán Phan Bội Châu cho Pháp để lấy 10 vạn quan tiền; kế hoạch sửa sai có trước khi Cải cách ruộng đất diễn ra (sách Từ Thực dân tới Cộng sản – tác giả Hoàng Văn Chí)…tất cả những sự thật khủng khiếp đó được hé lộ đã khẳng định một điều.

Hóa ra, có một sự thật có hệ thống từ khi đảng cộng sản xuất hiện đã chi phối và không chế hoàn toàn dòng chảy của lịch sử Việt Nam. Sự thật này khởi nguồn từ việc cướp chính quyền, tiêu diệt toàn bộ các đảng phái không phải cộng sản; tạo ra cuộc Cải cách ruộng đất long trời lở đất; cải tạo công thương nghiệp miền Bắc; Nhân văn Giai phẩm; cưỡng chiếm miền Nam; đày đọa hàng triệu quân, dân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa; cải tạo công thương nghiệp miền Nam; hai lần đổi tiền để cướp của người dân; cướp đất đai của người dân tạo ra hàng triệu dân oan trên cả nước (thời kỳ đổi mới); đàn áp mọi tôn giáo, sắc tộc….một sự liệt kê chưa đầy đủ này đã làm câm họng tất cả những kẻ nói rằng chủ trương đường lối là đúng, thực hiện sai; bản chất là đúng, là tốt nhưng quá trình thực hiện có sai lầm; thế hệ trước là đúng, là tốt, sau này mới tha hóa, xấu xa…

Những sự thật này đã đẩy bên thắng cuộc tới tận cùng của nỗi đau: cả cuộc đời, cả sự nghiệp của họ là vứt đi, thậm chí có tội với dân tộc, với đất nước. Còn nỗi đau nào lớn hơn khi ngay từ những năm 14-15 tuổi làm liên lạc viên cho Việt Minh, cả cuộc đời cống hiến, lên tới chức vụ trưởng, thứ trưởng, bộ trưởng…khi đã về hưu, khi sự thật được phơi bày mới biết rằng mình đã bị lừa, những điều mình làm không hề đem lại điều tốt đẹp cho nhân dân, đất nước mà còn góp phần gây ra thảm họa cho dân tộc, cho nhân dân, cho đất nước.

Vậy thì, nỗi đau nào lớn hơn?

Chiến tranh Việt Nam có thực sự cần thiết?

Chiến tranh Việt Nam có thực sự cần thiết?

Nguyễn Hưng Quốc

28.04.2015

Liên quan đến biến cố 30 tháng Tư 1975, có một câu nói của một quan sát viên quốc tế mà tôi rất tâm đắc: “Không có ai chiến thắng cả. Tất cả đều là nạn nhân” (There were no winners, only victims).

Nhưng tại sao lại không có người chiến thắng?

Trước hết, không còn hoài nghi gì nữa, người miền Nam chắc chắn là những người thua cuộc và từ đó, là những nạn nhân không những của chiến tranh mà còn của hoà bình với hàng trăm ngàn người bị bắt đi cải tạo, hàng triệu người liều mạng vượt biển để tìm tự do và hầu như tất cả đều sống trong cảnh vừa lầm than vừa bị áp bức.

Mỹ cũng không phải là những kẻ chiến thắng. Nói cho đúng, họ thắng trong cuộc chiến tranh lạnh với khối xã hội chủ nghĩa bằng việc phân hoá Trung Quốc và Liên Xô đồng thời bằng cách vô hiệu hoá hiệu ứng liên hoàn, gắn liền với thuyết domino vốn là nguyên nhân chính khiến họ tham dự vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Về phương diện quân sự, họ không thắng không bại: họ đã rút quân ra khỏi Việt Nam mấy năm trước khi cuộc chiến tranh chấm dứt. Tuy nhiên, về phương diện chính trị, họ đã thất bại trong nỗ lực bảo vệ một đồng minh là chế độ Việt Nam Cộng Hoà ở miền Nam. Sau đó, về phương diện tâm lý, họ là những nạn nhân với hội chứng Việt Nam, một ám ảnh đầy day dứt trong lương tâm của những người từng tham chiến. Đó là chưa kể hơn 58.000 người lính bỏ mình tại Việt Nam cũng như hàng mấy trăm ngàn người bị thương tật trở thành một gánh nặng trong xã hội Mỹ.

Thế còn miền Bắc?

Đương nhiên họ là những người thắng cuộc. Thắng về quân sự: đánh bại được quân đội Việt Nam Cộng Hoà. Thắng về chính trị: thống nhất được đất nước sau 20 năm chia cắt. Tuy nhiên, bên cạnh những chiến thắng ấy, họ cũng gánh chịu không ít thất bại. Những thất bại ấy làm cho chiến thắng của họ trở thành một tai hoạ cho mọi người.

Trước hết, như là hệ quả của việc chà đạp lên hiệp định Paris, xua quân cưỡng chiếm miền Nam, Việt Nam phải gánh chịu sự cô lập hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Trừ Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa, họ không có một người bạn nào cả. Ngay cả với một nước đồng minh thân cận từng giúp đỡ họ cả mấy chục năm, Trung Quốc, cũng biến thành kẻ thù với hậu quả là, ngay sau chiến tranh Nam -Bắc chấm dứt, Việt Nam phải chịu đựng thêm hai cuộc chiến tranh mới: chiến tranh với Campuchia và chiến tranh với Trung Quốc.

Hệ quả của tất cả những điều vừa nêu là, về phương diện kinh tế, Việt Nam hoàn toàn kiệt quệ. Lạm phát tăng nhanh; nạn đói lúc nào cũng lởn vởn trước mắt mọi người. Trong nhiều năm, ngay cả lúa gạo, nguồn thực phẩm chính và cũng là điểm mạnh của miền Nam, cũng bị thiếu hụt nghiêm trọng. Dân chúng phải thường xuyên ăn độn hoặc ăn bo bo để thế cơm. Việt Nam trở thành một trong những quốc gia nghèo khó và chậm phát triển nhất thế giới.

Về phương diện xã hội, hầu như mọi người đều bị lâm vào cảnh khốn cùng. Mâu thuẫn giữa hai miền Nam và Bắc càng lúc càng sâu sắc. Sự thống nhất chỉ có trên phương diện chính trị và hành chính, nhưng về tâm lý, nhìn nhau, dân chúng giữa hai miền vẫn đầy những nghi kỵ và đố kỵ.

Về phương diện chính trị, dân chúng không còn chút tự do nào cả. Tự do tư tưởng: Không. Tự do ngôn luận: Không. Tự do cư trú và tự do đi lại: Không. Tất cả các quyền tự do căn bản của dân chủ, từ tự do hội họp đến tự do thành lập và tham gia vào đảng phái đều bị tước sạch.

Có thể nói, trong hơn mười năm, từ 1975 đến 1985, khi phong trào đổi mới xuất hiện, ở Việt Nam, dân chúng trong cả nước đều chia sẻ nỗi bất hạnh chung xuất phát từ việc miền Bắc thắng miền Nam. Không có gì quá đáng nếu chúng ta nói, trừ giới lãnh đạo cộng sản, tất cả mọi người đều là nạn nhân của biến cố 30 tháng Tư 1975. Không phải chỉ những người bị bắt đi học tập cải tạo hoặc bị lùa đi kinh tế mới mới là nạn nhân: Tất cả mọi người đều là nạn nhân. Không phải chỉ những người bị bỏ mình trên biển mới là nạn nhân, ngay cả những người may mắn vượt thoát và được định cư ở nước ngoài cũng là nạn nhân: họ phải xa lìa tổ quốc để sống tha hương, không lúc nào nguôi nỗi khắc khoải trông ngóng về đất nước cũ.

Nhưng nếu mọi người đều là nạn nhân, cuộc chiến tranh Nam Bắc vốn kéo dài hai mươi năm có thực sự cần thiết hay không?

Bộ máy tuyên truyền của miền Bắc trước năm 1975 cũng như trong cả nước sau năm 1975 nêu lên ba lý do chính tại sao miền Bắc phát động cuộc chiến tranh ấy: Một, để giải phóng miền Nam; hai, để phát triển chủ nghĩa xã hội sang nửa phần lãnh thổ còn chịu khổ nạn dưới ách “áp bức” của Mỹ và “nguỵ”; và ba, để đánh bại sự “xâm lược” của “đế quốc” Mỹ.

Xin nói về nguyên nhân thứ ba trước. Đó chỉ là một nguỵ biện. Việc Mỹ đổ cả nửa triệu quân vào miền Nam chỉ là để giúp miền Nam chống lại sự xâm lấn của miền Bắc. Như vậy, nó chỉ là hậu quả chứ không phải là nguyên nhân. Nói cách khác, nếu miền Bắc không mưu toan đánh chiếm miền Nam, chả có lý do gì để Mỹ đổ quân vào miền Nam cả.

Về nguyên nhân thứ hai, người ta dễ dàng nhận thấy là hoàn toàn không chính đáng. Sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước cộng sản tại Đông Âu, hầu như ai cũng biết chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với áp bức và nghèo đói. Mở rộng chủ nghĩa xã hội từ miền Bắc sang miền Nam, do đó, thực chất là việc xuất cảng áp bức và nghèo đói. Đó là một tai hoạ.

Chỉ có nguyên nhân thứ nhất là cần phân tích kỹ. Trước hết, không ai có thể phủ nhận sự cần thiết của việc thống nhất đất nước, một di sản của tổ tiên từ ngàn đời trước. Đó là một mệnh lệnh của lịch sử, của đạo lý và của tình cảm. Tuy nhiên, vấn đề là: sự thống nhất ấy có thể được thực hiện bằng cách nào và được trả bằng giá nào? Nó có cần thiết để cả nước phải trải qua hai chục năm chiến tranh tàn khốc với trên ba triệu người bị giết chết? Lịch sử cung cấp hai bài học chính:  Thứ nhất, Đông Đức và Tây Đức đã được thống nhất mà không cần phải trải qua cuộc chiến tranh nào cả. Thứ hai, Nam và Bắc Triều Tiên đến nay vẫn bị chia cắt. Nhưng sự chia cắt ấy được đền bù bằng mức phát triển cực nhanh và cực cao của Nam Triều Tiên. Sự thống nhất không sớm thì muộn, không bằng cách này thì bằng cách khác cũng sẽ xảy ra, nhưng khi nó xảy ra, Đại Hàn cũng đã có một nền tảng kinh tế và chính trị vững chắc là Nam Triều Tiên (như trường hợp của Tây Đức và Đông Đức). Ở đây, sự chia cắt không có gì đáng phàn nàn hay ân hận cả.

Chúng ta tưởng tượng: nếu miền Bắc đừng phát động chiến tranh thì tình hình chính trị Việt Nam hiện nay sẽ ra sao? Thì tất cả những tai hoạ nêu lên ở phần đầu bài viết này sẽ không có. Thì cả hai miền sẽ có hoà bình và nhờ hoà bình, sẽ được phát triển nhanh chóng. Ngay cả khi hai miền Nam và Bắc chưa được thống nhất thì, tuy về phương diện tình cảm, vẫn là một nỗi nhức nhối, nhưng trên mọi phương diện khác, đó lại là một điều may mắn.

Đánh dấu ngày 30/4: Kẻ khóc, người cười

Đánh dấu ngày 30/4: Kẻ khóc, người cười

Biểu ngữ kỷ niệm 40 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam trước Dinh Thống Nhất ở TP HCM, ngày 28/4/2015.

Biểu ngữ kỷ niệm 40 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam trước Dinh Thống Nhất ở TP HCM, ngày 28/4/2015.

 

VOA Tiếng Việt

28.04.2015

Hai ngày trước ngày kết thúc Chiến tranh Việt Nam, cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ và ở trong nước đón chờ ngày này với hai tâm trạng trái ngược hẳn nhau.

Tại sân vận động của trường trung học Bolsa Grande ở Little Saigon, nơi được coi là thủ đô của người Việt tị nạn, hàng nghìn người hôm 25/4 đã tới dự ngày được đặt tên là Quốc hận.

Trong buổi lễ này, những người tham dự đã đứng chào cờ quốc kỳ của Việt Nam Cộng hòa và hòa giọng vào bản quốc ca của chính quyền Sài Gòn cũ.

Một ngày sau đó, tại San Diego cũng tại California, nhiều người Việt đã tới Viện bảo tàng hàng không mẫu hạm USS Midway ở San Diego để tưởng niệm ngày họ gọi là “Tháng tư đen”.

Mỗi lần 30/4 về, tôi nghĩ lại cái ngày chót, tức là ngày 29/4. Coi như là ngày chót rời khỏi Việt Nam. Buồn là tại vì mình không phải như hồi xưa nữa, cảm giác giống như hồi xưa nữa, coi như mình bị mất nước. Trong lòng tôi cái ngày đó là ngày mất nước, mất chính thể”

Bà Nguyễn Kim Hoa ở California.

Bà Đỗ Thái Kiều, một người Mỹ gốc Việt sang Hoa Kỳ từ năm 16 tuổi đã tham dự sự kiện này. Bà cho biết khi ngày 30/4 đến gần, không khí trong cộng đồng “rất là xúc động và buồn tủi vì có rất nhiều kỷ niệm, nhiều người đã mất bà con họ hàng, bạn bè”.

“Chúng tôi không thích chính quyền cộng sản vì thế chúng tôi phải rời xứ sở để ra đi. Chữ hận, theo tôi nghĩ, không những tôi mà nhiều người ở đây thì thời gian trôi qua thì chữ hận bớt đi. Nhưng mà chúng tôi không bao giờ quên rằng chúng tôi đã mất xứ sở của chúng tôi, và chúng tôi mong một ngày nào đó xứ sở sẽ trở về là một xứ sở dân chủ để giúp cho dân Việt Nam ở Việt Nam có một đời sống khá hơn, độc lập và tự do hơn.”

Ông Nguyễn Khanh, phát ngôn viên của ban tổ chức sự kiện trên, nói với VOA Việt Ngữ rằng lễ tưởng niệm muốn “cho giới trẻ Việt Nam biết và hiểu rõ rằng từ đâu mà người Việt Nam có mặt ở Hoa Kỳ, và hiểu rõ hơn về những thành quả, những đóng góp của người Việt trong 40 năm.”

Trong khi đó, cùng chung tâm trạng với bà Kiều, bà Nguyễn Kim Hoa ở California, nói mỗi dịp 30/4 tới, bà cảm thấy “rất là buồn”.

Bà cũng không nghĩ nên coi đó là ngày “thống nhất đất nước” như chính quyền Hà Nội đã nói.

Một cựu quân nhân chào cờ VNCH trong buổi Lễ Tưởng Niệm Quốc Hận năm thứ 40, tổ chức tại sân vận động trường trung học Bolsa Grande, Garden Grove, chiều Thứ Bảy, ngày 25 Tháng Tư. (Ảnh: Người Việt)

Một cựu quân nhân chào cờ VNCH trong buổi Lễ Tưởng Niệm Quốc Hận năm thứ 40, tổ chức tại sân vận động trường trung học Bolsa Grande, Garden Grove, chiều Thứ Bảy, ngày 25 Tháng Tư. (Ảnh: Người Việt)

“Mỗi lần 30/4 về, tôi nghĩ lại cái ngày chót, tức là ngày 29/4. Coi như là ngày chót rời khỏi Việt Nam. Lúc đó coi như không có còn ai đi nữa ngoài những chiếc trực thăng thôi. Và tôi cùng với mấy người bạn coi như chót nhất rời khỏi Việt Nam. Buồn là tại vì mình không phải như hồi xưa nữa, cảm giác giống như hồi xưa nữa, coi như mình bị mất nước. Trong lòng tôi cái ngày đó là ngày mất nước, mất chính thể”.

Trong khi tại các nước, nhiều người Việt đánh dấu ngày 30/4 trong không khí u buồn thì nhiều buổi lễ tưng bừng với những màn bắn pháo hoa và diễu binh hoành tráng sắp diễn ra tại Việt Nam.

6.000 người sẽ tham gia diễu hành trong lễ kỷ niệm 40 năm mà chính quyền trong nước gọi là thống nhất đất nước tại TP HCM.

Ngoài việc bắn pháo hoa tại nhiều điểm, tối 30/4, chương trình văn hóa nghệ thuật đặc biệt chào mừng lễ với chủ đề “Đất nước trọn niềm vui” sẽ được tổ chức trên trục đường Lê Duẩn, trước cửa Hội trường Thống Nhất với sự tham gia của hơn 4.000 văn nghệ sỹ.

Bà Kiều nói rằng đối với người Mỹ gốc Việt cũng như người Việt ở các xứ sở tự do khác, ngày 30/4 “không phải là ngày chiến thắng, và đó chỉ là quan điểm của chính quyền Việt Nam”.

Bà cũng nói rằng những khác biệt về quan điểm như vậy sẽ “làm cho dân Việt Nam ở hải ngoại và trong nước không gần nhau được”.

CSVN kỷ niệm ‘chiến thắng’ nhưng bất an chưa từng có

CSVN kỷ niệm ‘chiến thắng’ nhưng bất an chưa từng có

Nguoi-viet.com

SÀI GÒN (NV) – Nhà cầm quyền CSVN sẽ tổ chức một cuộc diễu binh lớn kỷ niệm “40 năm chiến thắng 30 tháng 4, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” ở Sài Gòn. Tuy ăn mừng “chiến thắng” nhưng chính quyền bất an.

Sơ đồ khu vực chặn xe, cấm ra vào từ 26 tháng 4 đến 30 tháng 4 để tổ chức
cuộc diễu binh lớn kỷ niệm “40 năm chiến thắng 30 tháng 4, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.” (Hình: Tuổi Trẻ)

Theo báo chí Việt Nam, cuộc diễu binh lớn kỷ niệm “40 năm chiến thắng 30 tháng 4, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” sẽ diễn ra vào 7 giờ sáng ngày 30 tháng 4, với sự tham gia của khoảng 6,000 người. Chưa kể có khoảng 1,000 người “bảo vệ an ninh, trật tự” cho việc thực hiện cuộc diễu binh.

Nhà cầm quyền CSVN không cho biết cuộc diễu binh này ngốn hết bao nhiêu tiền nhưng người ta ước đoán ngân sách sẽ phải chi nhiều tỉ đồng, bao gồm cả việc may trang phục và tiền bồi dưỡng.

Thông tin về cuộc diễu binh đã dấy lên một làn sóng chỉ trích vì việc “ăn mừng chiến thắng” sẽ ảnh hưởng hưởng đến “nỗ lực hòa hợp, hòa giải.” Chưa kể chuyện “ăn mừng chiến thắng” diễn ra trong bối cảnh kinh tế suy thoái nghiêm trọng, ngân sách kiệt quệ và trước đó, nhà cầm quyền đã từng cam kết, hạn chế tối đa chi tiêu cho các lễ hội, hội nghị, hội thảo để tiết kiệm.

Tuy nhiên điểm đáng chú ý là dù tổ chức “ăn mừng chiến thắng” rất lớn nhưng có những dấu hiệu cho thấy chế độ hết sức bất an về nhân tâm và an ninh, trật tự xã hội.

Kẹt xe nghiêm trọng ở trung tâm Sài Gòn do chặn xe, ngăn đường. (Hình: Tuổi Trẻ)

Dẫu cuộc diễu binh chỉ diễn ra phía trước Dinh Độc Lập vào sáng 30 tháng 4, song nhà cầm quyền CSVN đã cấm ra vào những khu vực cách địa điểm diễn ra cuộc diễu binh này đến vài cây số và việc chặn xe, ngăn đường được thực hiện từ chiều 24 tháng 4.

Chuyện chặn xe, ngăn đường khiến khu vực trung tâm Sài Gòn náo loạn và sinh hoạt của dân chúng Sài Gòn bị xáo trộn.

Báo chí Việt Nam tường thuật, nhiều người cư ngụ tại những khu vực nằm bên trong “vùng cấm” bị chặn xe, ngăn đường không thể về nhà vì quên mang chứng minh nhân dân, trong khi việc “bảo vệ an ninh, trật tự hết sức nghiêm ngặt.” Những người có việc cần ra vào “vùng cấm” như đi làm, đưa con đến Bệnh Viện Nhi Đồng 2, tiến không được mà lui cũng không xong.

Dù chỉ tường thuật nhưng những phóng sự vừa kể để ngỏ mục bình luận cho độc giả nêu ý kiến. Tất cả các bình luận bên dưới những phóng sự này đều chỉ trích việc chặn xe, cấm đường trên phạm vi quá rộng, trong thời gian quá dài là vô lý, không thể chấp nhận được. Trong số đó có cả những bình luận chỉ trích chuyện “ăn mừng chiến thắng” khi dân chúng đói khổ, trẻ con thiếu chỗ học, bệnh viện thiếu giường nằm là “bất nhân” và “vô nghĩa.”

Đáng lưu ý là bộ phận quản trị trang web của các tờ báo do chính quyền Việt Nam quản lý vẫn cho hiển thị chứ không “đục bỏ” những chỉ trích này.

Không có ý kiến nào tán thành việc tổ chức diễu binh, kỷ niệm “40 năm chiến thắng 30 tháng 4, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước“

Tờ Tuổi Trẻ dẫn lời ông Nguyễn Thành Chung, giám đốc Sở Giao Thông-Vận Tải Sài Gòn, kêu gọi dân chúng “thông cảm” bởi đây là chuyện “quốc gia.”

Trên mạng xã hội, nhiều người công khai mỉa mai “chiến thắng 30 tháng 4, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” chỉ khiến Việt Nam lún sâu hơn vào đói nghèo, lạc hậu, bất công. Nhiều người khác bảo rằng, cần phải thừa nhận “cuộc chiến giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” là do ngoại bang kích động để “huynh đệ tương tàn” và cũng là lý do khiến Việt Nam lệ thuộc Trung Quốc sâu hơn, nguy cơ mất nước lớn hơn.

Những ý kiến vừa kể thật ra không mới. Điểm mới nằm ở chỗ càng ngày càng nhiều người tán thành. Đó cũng có thể là lý do xe bị chặn, đường bị ngăn trên phạm vi rộng chưa từng có và chuyện đi lại bị hạn chế trong khoảng thời gian dài cũng chưa từng có khi nhà cầm quyền CSVN tổ chức cuộc diễu binh lớn kỷ niệm sự kiện này. (G.Đ)

Giải phóng đấy, phỏng?

Giải phóng đấy, phỏng?

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

“Hoan hô giải phóng, hoan hô phỏng..!
Ruột héo gan bầm có biết không?”
(PĐ.)

30 tháng 4, ngày mà Võ Văn Kiệt, một người của “bên thắng cuộc”đã cho rằng đó là: “Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn!” Hôm nay, nhìn lại đất nước, chắc là số triệu người buồn nhiều hơn số triệu người vui.

Trang báo New York Times ngày 30 tháng 4, 1975.

Đó là ngày mà, người dân miền Nam có nhiều tên gọi: “Ngày Quốc Hận – Ngày Mất Nước – Ngày Đứt Phim – Ngày Tan Hàng – Ngày Miền Nam Sụp Đổ – Ngày Sài Gòn Thất Thủ – Tháng Tư Đen…” “Ngày Đại Hồng Thủy,” “Ngày Đại Họa” và tiếp theo là “Tị nạn và hội nhập,” “Hành Trình Đến Tự Do…” để ngậm ngùi tưởng nhớ.

Bắc Việt gọi ngày này là “Ngày Giải Phóng Miền Nam,” ngày “Thống Nhất Đất Nước” “Đại Thắng Mùa Xuân,” tổ chức ăn mừng, diễn binh, đốt pháo hoa… nhưng không bao giờ tự hỏi, chúng đã đưa đất nước này đi về đâu? Trong những cái tên, tên “Giải Phóng” phải được coi là trơ trẽn nhất, mà một số nhỏ người Việt tị nạn Cộng Sản không ở lại với “giải phóng” chạy sang đây, mà đầu còn đặc, trí chưa thông vẫn còn dùng một cách vô ý thức những câu “trước giải phóng,” “sau giải phóng!” Những người “lính cụ Hồ” luôn luôn mang theo hai chữ “giải phóng” bên mình, họ tự nhận là “giải phóng quân,” “quân đội giải phóng.”

Giải phóng được coi như là làm cho thoát khỏi sự áp bức, giam hãm, như chuyện nước Pháp và Paris bị Đức Quốc Xã chiếm đóng trong 4 năm và thế giới vẫn dùng danh từ “giải phóng Paris,” để nói đến việc De Gaulle tiến vào Paris trong những ngày cuối tháng 8, 1944. Giải phóng như chuyện Tết Mậu Thân ở Huế, quân đội VNCH chiếm lại Huế sau 23 ngày, dân chạy về phía “lính mình,” nơi có ngọn cờ vàng, mừng rỡ ứa nước mắt. Bắc Việt không thể cắt nghĩa hai tiếng “giải phóng” khi lính Việt Cộng vào đến đâu, dân chúng ùn ùn bỏ nhà chạy “giặc” ở đó. Tiếng “giặc” mà người miền Nam dùng ở đây chính là để chỉ những người mang danh “bộ đội giải phóng.”

Sau khi Hiệp Định Geneve 1954 giao miền Bắc cho Cộng Sản, đã có gần một triệu người dân Bắc di cư vào Nam, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (CSBV) đã khiếu nại cho rằng việc di cư là do cưỡng bách. Ủy Hội Quốc Tế Kiểm Soát Đình Chiến đã mở cuộc điều tra, trong số 25,000 người ủy hội tiếp xúc, không có ai nhận là họ bị “cưỡng bách di cư” hay muốn trở về Bắc cả. Sau đó, theo những ghi chép của học giả Đoàn Thêm (*):

– 4 tháng 10, 1956: 3 người liều chết bơi qua sông Bến Hải vào Nam tìm tự do.

– 19 tháng 11, 1956: 19 người dân Nghệ An dùng ghe vượt biển vào Nam.

– 8 tháng 4, 1957: 41 người dùng thuyền vượt tuyến vào Nam.

– 28 tháng 10, 1957: 2 sinh viên vượt tuyến vào Nam.

– 11 tháng 2, 1958: 14 người xuyên qua Lào đến được miền Nam.

Tiêu biểu là câu chuyện một người đã tập kết ra Bắc là nhà văn Vũ Anh Khanh, nhưng ba năm sau, ông thấy rõ bộ mặt của Cộng Sản, muốn trở lại miền Nam, ông bơi qua sông Bến Hải và bị bắn chết giữa dòng. Chúng ta chưa nói đến những người mất xác trên con sông chia cắt hai miền hay chết trước khi qua sông đến được bờ Nam. Chưa thấy có ai khùng điên bơi qua sông Bến Hải qua bờ Bắc để được hưởng độc lập – tự do – hạnh phúc!

Từ tháng 3, 1975, khi nghe tin Bắc Việt sắp giải phóng Huế rồi Đà Nẵng hàng chục nghìn người dân miền Nam đã liều chết lên tàu, ghe, thuyền, và những chiếc “sà lan” không thức ăn, nước uống, chấp nhận cái chết để tránh xa “quân đội giải phóng!” Nhưng tiếc thay, vì quân “giải phóng” lại đuổi kịp, nên không phải ai khi đến được Cam Ranh, Phú Quốc hay Sài Gòn cũng đều có cơ hội được ra đi!

Từ ngày 28, 29 tháng 4 từ các hàng không mẫu hạm của Hạm Đội Số 7 ngoài khơi Thủy Quân Lục Chiến Mỹ dùng trực thăng di tản một số người Việt, trong đó có chiến dịch Babylift. Trong tình trạng này ai cũng muốn ra đi, nên cảnh hỗn loạn xảy ra trên những bến tàu, sân bay vì không có đủ phương tiện cho những người đang chen chúc để tìm một chỗ “đứng” để ra đi. Hơn 50,000 người đã di tản từ nhiều điểm ở Sài Gòn ra đi an toàn trước khi Việt Cộng vào thành phố. Lần này không nghe Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa khiếu nại cho rằng việc di tản là do cưỡng bách.

Sau khi Việt Cộng lập chính quyền ở miền Nam, và những biện pháp trả thù, vơ vét xảy ra như chính sách tập trung quân-cán-chính vào trại tù, chính sách đánh tư sản, đổi tiền, lùa dân đi vùng “kinh tế mới,” bần cùng hóa nhân dân, kỳ thị, phân biệt “cách mạng” với “phản động” đã xô đẩy người dân miền Nam vượt biên, vượt biển tìm đến các đất nước tự do. Đây là cuộc “bỏ nước” vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam.

Theo số liệu của Cao ủy Liên Hiệp Quốc về người tị nạn, trong khoảng thời gian 1975-1995 đã có 849, 228 người vượt biên bằng đường biển và đường bộ. Nhưng sự thật con số này là con số ước tính còn xa sự thật.

“Trước đó, không một ai có thể tiên đoán được phong trào vượt biên sẽ xảy ra đến mức lớn lao như thế. Phong trào vượt biên kéo dài từ 1975 đến 1996 ngang bằng với thời gian chiến tranh từ 1954 đến 1975. Tổng số người rời bỏ đất nước bằng tất cả các cách, cộng với những người tử nạn trên đường vượt biên, lên đến khoảng gần bằng tổng số dân chúng và quân nhân Việt Nam cả Nam lẫn Bắc tử trận trong cuộc chiến từ 1954 đến 1975 (khoảng 3 triệu người).” (Theo Trần Gia Phụng)

Giải thích việc dân chúng miền Nam chạy trốn Cộng Sản trong những ngày Sài Gòn thất thủ, phe chống miền Nam giải thích rằng đó là sự “hoảng loạn” nhưng sao mãi đến 38 năm sau, chỉ riêng năm 2013, đã có gần 800 người Việt vượt biển đến Úc, và trong số này phần lớn là xuất phát từ Nghệ An-Hà Tĩnh, đất “cách mạng,” quê hương của Nguyễn Tất Thành. Mới tuần trước đây hải quân Úc đã đưa trả gần 50 thuyền nhân Việt Nam về nước sau khi chặn bắt được nhóm này ngoài khơi vùng biển phía bắc Úc hồi đầu tháng 4.

Tại sao đất nước đã “được giải phóng” gần 40 năm mà vẫn còn người liều chết ra đi tìm một nơi có tự do và cơm áo.

Trong thời gian bức tường Berlin, được Đông Đức (Cộng Sản) dựng lên từ ngày 13 tháng 8 năm 1961 đến ngày 9 tháng 11 năm 1989, khoảng 5000 người đã tìm cách vượt qua bức tường này để sang Tây Berlin. Số người bị thiệt mạng khi vượt khoảng từ 86 đến 200 người.

Từ ngày Nam Bắc Triều Tiên bị chia cắt ở vĩ tuyến 38, đã có hơn 23,000 dân Bắc Hàn đã vượt biên giới đến được Nam Hàn. Những người kém may mắn nếu không bị bắn chết trên đường di tìm tự do thì cũng đang bị giam cầm trong số 200,000 tù nhân ở các trại tù “lao cải.”

Khi Cuba ngã theo Liên Xô, thoạt đầu, từ năm 1980, nước này đã mở cửa, để cho bất cứ ai cũng có thể ra đi với giấy thông hành, gần 125,000 người Cuba đã chạy sang Mỹ. Sau khi Fidel Castro cấm cửa, đã có hàng nghìn người Cuba bằng mọi cách, vượt biển sang Hoa Kỳ, mà con dường ngắn nhất là tới Florida. Chỉ mới năm ngoái, 2014, tuần duyên Hoa Kỳ đã chặn bắt được hơn 2,000 di dân Cuba liều chết mạo hiểm tìm đường vượt biển chạy khỏi chế độ Cộng Sản.

Chế độ Cộng Sản chưa bao giờ là thiên đàng, đem tự do và hạnh phúc lại cho con người, “sông có thể cạn núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi!” Nhà văn Nguyễn Khải trong bài viết “Đi tìm cái tôi đã mất” đã miêu tả rất đúng dân tình miền Bắc sau khi “bộ đội giải phóng” vào Hà Nội tháng 10, 1954:

“Một nửa nước được độc lập nhưng lòng người tan nát vì tài sản một đời chắt chiu của họ bị nhà nước tịch thu hoặc trưng thu khiến họ trở thành người vô sản bất đắc dĩ. Tầng lớp trí thức chả có tài sản gì ngoài cái đầu được tư duy tự do thì cái đầu cũng được trưng thu luôn, từ nay họ chỉ được nghĩ, được viết theo sự chỉ dẫn của một học thuyết, một đường lối…”

“Một nửa nước” năm 1954 được đổi lại là “cả nước” năm 1975!

Vậy thì, nói chuyện, ngày 30  tháng 4, 1975 là ngày miền Bắc Cộng Sản “giải phóng miền Nam” là một chuyện hoang tưởng, trơ trẽn. Ai cần ai “giải phóng?”

Tôi xin mượn lời dân gian, nôm na, mách qué để kết luận bài này:

– “Giải phóng gì ông, phỏng giái tôi!”


(*) Ghi lại tài liệu của Viên Linh

Trung Quốc xây 3 phi trường lớn ở Trường Sa

Trung Quốc xây 3 phi trường lớn ở Trường Sa

Nguoi-viet.com

MANILA 26-4 (NV) – Trung Quốc không phải xây một mà tới ba phi trường kích thước đủ cho phi cơ quân sự cỡ lớn lên xuống tại các đảo nhân tạo đang xây dựng ở quần đảo Trường Sa.

Không ảnh chụp ngày 17/4/2015 bãi đá Xu Bi đang được xây dựng một phi trường, so sánh với tấm hình chụp ngày 6/2/2015 hoàn toàn khác hẳn. (Hình: DigitalGlobe)

Theo các tấm không ảnh được tạp chí thời sự chính trị The Diplomat ngày 25/4/2015 phân tích, chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn từ năm ngoái đến nay, Trung Quốc ráo riết tiến hành các kế hoạch xây dựng các căn cứ, doanh trại, cảng biển và cả phi trường tại 7 bãi đá ngầm cướp của Việt Nam năm 1988 hiện đã trở thành các đảo nhân tạo.

Đối chiếu những không ảnh mới nhất của tổ chức Digital Globe chụp từ đầu Tháng Hai đến giữa Tháng Tư 2015, người ta thấy chúng đang biến đổi vô cùng nhanh chóng. Điều này chứng tỏ Bắc Kinh ráo riết thực hiện mưu đồ khống chế nuốt trọn Biển Đông qua các căn cứ hải quân và không quân tầm cỡ lớn đặt tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Phần phía bắc của đảo nhân tạo Vành Khăn đang tiếp tục được bồi đắp thêm. Hình chụp ngày 13/4/2015. (Hình: DigitalGlobe)

Trước các sự phản đối suông của Việt Nam, Phi Luật Tân và các nước khác liên quan tới vấn đề Biển Đông, chế độ Bắc Kinh có dấu hiệu tiến hành thật nhanh việc xây dựng ở các bãi đá ngầm nay là các đảo nhân tạo, đặt các nước khác ở tình trạng đã rồi.

Một số nhà phân tích thời sự quốc tế từng dự báo Trung Quốc sẽ thiết lập vùng nhận diện phòng không tại Biển Đông khi các căn cứ quân sự tại Trường Sa đã hoàn tất.

Phân tích các tấm không ảnh chụp từ vệ tinh vào ngày 17/4/2015 cho thấy chỉ trong khoảng 10 tuần lễ, Trung Quốc đã biến bãi đá Xu Bi (một rạn san hô thuộc cụm đảo Thị Tứ của quần đảo Trường Sa) mà Trung Quốc gọi là Zhubi Jiao (Chử Bích Tiêu) thành một đảo nhân tạo.

Đảo nhân tạo Vành Khăn qua so sánh không ảnh chụp ở các thời điểm 17/2/2015 và 13/4/2015. (Hình: DigitalGlobe)

Dựa trên diện tích và hình thể và chiều dài của đảo nhân tạo này đang tiến hành, người ta có thể phỏng định dấu hiệu Trung Quốc xây dựng một phi đạo dài đến 3,300 mét. Nó tương ứng với chiều dài của phi đạo mà Trung Quốc đang xây dựng tại đảo nhân tạo Đá Thập của quần đảo Trường Sa.

Giới chuyên viên quân sự cho rằng một phi đạo dài tới 3,300 mét có thể đủ để cho các phi cơ quân sự chiến đấu cũng như tiếp liệu của không quân và hải quân Trung Quốc lên xuống.

Không ảnh chụp ngày 6/2/2015 chỉ thấy các hoạt động nạo hút cát đá lòng biển bồi đắp ở đá Xu Bi. Nhưng đến ngày 17/4/2015 chụp lại thì thấy diện tích mặt đất của đảo nhân tạo đã lên thành 2.27 km2. Nó chỉ nhỏ hơn đảo nhân tạo Đá Thập phần nào, được xác định khoảng 2.65 km2.

Theo tạp chí The Diplomat, sự khác biệt hoạt động giữa hai đảo nhân tạo vừa nói là đảo nhân tạo Đá Thập có cảng biển khá lớn và phi đạo đang được xây dựng. Chưa thấy cảng biển quân sự nào hiện diện ở đá Xu Bi, nhưng các hoạt động của đoàn tàu nạo hút cá đá ở khu vực phía nam của đảo này gần hoàn tất việc tạo lập một vòng quây kín từ các bãi đá ngầm thiên nhiên. Điều này cho hiểu khu này hình thành dần một cảng biển được bảo vệ bởi rạn đá ngầm thiên nhiên mà hoạt động hút cát đá bồi lấp ở cực nam sẽ tạo ra cầu cảng.

Các không ảnh hoạt động của Trung Quốc tại bãi đá ngầm Vành Khăn (Mischief reef, Trung Quốc gọi là Meiji Jiao hay Mỹ Tế Tiêu) từng được tạp chí an ninh quốc phòng Jane’s Defense đưa tin mấy tuần trước, nay đang là đảo nhân tạo diện tích khoảng 2.42 Km2 dựa trên sự do đạc không ảnh chụp ngày 13/4/2015.

Đảo nhân tạo Đá Thập thay đổi nhanh chóng khi so sánh hai tấm hình chụp ngày 14/2/2015 và ngày 17/4/2015. (Hình: DigitalGlobe)

Vài tháng trước đó chỉ là bãi đá ngầm nay hoàn toàn là đảo nhân tạo với sự hoạt động ngày đêm của đoàn tàu hút cát đá. Không ảnh mới nhất cho thấy sự hiện diện của 28 chiếc xe tải, trộn xi măng hoạt động tại đây bên cạnh hàng chục chiếc xe tải chuyên ngành xây dựng khác cũng có mặt.

Với những gì nhìn thấy, giới chuyên viên cũng cho rằng một phi đạo dài hơn 3,000 mét cũng có thể được xây dựng tại Vành Khăn trong những ngày sắp tới. Các đảo nhân tạo Xu Bi, Vành Khăn, Chữ Thập là ba trong số 7 bãi đá ngầm ở Trường Sa được Bắc Kinh làm thành đảo nhân tạo mà không ai tin rằng chúng không phải là các căn cứ quân sự.

Cướp của người làm của mình, Bắc Kinh khi bị đả kích đều ngang ngược tuyên bố “chủ quyền không thể tranh cãi” và muốn làm gì thì làm.

Khi tham dự cuộc họp ASEAN ở thủ đô Mã Lai đang diễn ra, Ngoại trưởng Phi Luật Tân Albert del Rosario báo động với các người đồng cấp của hiệp hội khu vực rằng Trung Quốc “đang củng cố sự kiểm soát thực tế tại Biển Đông.” (TN)

Ngày 30/4 gây điêu đứng cho Phật giáo VN’

Ngày 30/4 gây điêu đứng cho Phật giáo VN

Biến cố ngày 30/4 năm 1975 không chỉ là ‘bước ngoặt đau thương cho dân tộc’ mà còn ‘gây điêu đứng cho Phật giáo’, một tôn giáo đã đồng hành cùng lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc, một vị chức sắc của cao cấp của Phật giáo tại hải ngoại nói với BBC.

‘Không phát triển được’

Trao đổi với BBC Việt ngữ tại chùa Bát Nhã tại miền Nam California, Hòa thượng Thích Nguyên Trí, viện chủ chùa cho biết chính ông đã ‘chịu đựng những đau thương từ sau năm 1975 cho đến năm 1981’.

“Vì quá đau thương không thể xây dựng được Phật giáo trong nước nên tôi phải tìm đủ mọi cách ra hải ngoại làm việc để duy trì Phật giáo cho đến ngày hôm nay,”

Hòa thượng Thích Nguyên Trí nói.

Chùa Bát Nhã cũng là văn phòng thường trực của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, một giáo hội bị chính quyền trong nước cấm, tại Hoa Kỳ. Hòa thượng Thích Nguyên Trí là phó chủ tịch điều hành của văn phòng này.

“Cộng sản không bao giờ có tín ngưỡng cho nên khi họ đi vào đánh chiếm miềm Nam thì hầu hết các tôn giáo bị tê liệt, trong đó có tôn giáo gắn liền với lịch sử dân tộc là Phật giáo,” ông nói.

Theo lời ông kể lại thì chính quyền của Đảng Cộng sản chiếm được miền Nam họ đã ‘thanh lọc những vị nào thuộc Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ra một bên’ và ‘đưa vào danh sách cần phải lưu ý’.

“Tất cả những hành động từ cử chỉ đi đứng tới lui sinh hoạt trong chùa chiền gần như bế tắc,” ông nói.

Vì quá đau thương không thể xây dựng được Phật giáo trong nước nên tôi phải tìm đủ mọi cách ra hải ngoại làm việc để duy trì Phật giáo cho đến ngày hôm nay,” Hòa thượng Thích Nguyên Trí Hòa thượng Thích Nguyên Trí

“Họ không cho hoạt động bất cứ điều gì. Ngay các buổi lễ cũng không cho hành lễ. Những gia đình Phật tử hồi giờ sinh hoạt tại chùa cũng bị ngăn cấm. Tất cả những ban hộ niệm, những tổ chức Phật giáo bị tê liệt toàn bộ,” ông nói thêm.

“Ngay cả các vị lãnh đạo, các vị thầy của chúng tôi như Hòa thượng Thích Huyền Quang, Hòa thượng Thích Quảng Độ cũng không còn cách nào phát huy tinh thần của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất.”

“Chính vì vậy khi chúng tôi đặt chân lên bến bờ tự do thì điều trước hết là mở Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ở hải ngoại và ngày nay có mặt ở khắp nơi,” ông nói và cho biết từ ngày ông đặt chân đến Mỹ ông đã quyên góp được hơn một triệu Mỹ kim chuyển về trong nước làm từ thiện và xây dựng chùa chiền.

‘Chỉ có hình thức’

Nhận định về tình hình Phật giáo trong nước, Hòa thượng Thích Nguyên Trí nói ‘làm theo chiều hướng của Đảng Cộng sản chứ không theo tinh thần của Phật giáo’.

Theo lời ông giải thích thì trong thành phần lãnh đạo của giáo hội Phật giáo trong nước đều ‘đặt dưới sự chỉ đạo của Nhà nước chứ không được quyền tự bầu cử và ứng cử’.

“Vấn đề thọ giới thì là những người trong tôn giáo tự sắp xếp với nhau đưa lên hàng giáo phẩm: vị nào lên hòa thượng, thượng tọa, đại đức hoàn toàn do giáo hội bổ nhiệm và suy cử chứ Nhà nước không có quyền nhúng vô,” ông nói.

“Những ngày lễ như Lễ Phật đản, Lễ Vu Lan phải xin phép chính quyền và người họ đưa ra mới được quyền đứng ra trước quần chúng làm lễ,” ông nói thêm.

Ngay cả các Phật viện trong nước, theo lời Hòa thượng Thích Nguyên Trí, thì các tăng ni sinh đến tu học cũng bị ‘xét lý lịch cá nhân’ chứ ‘không xét theo đạo đức thế nào’.

Về đời sống của các tôn giáo trong nước hiện nay, ông nhận xét rằng ‘có phát triển’ nhưng ‘chỉ là hình thức’ vì ‘tự do không có’.

“Chẳng hạn như đối với Phật giáo Hòa hảo, vị tối tôn trọng của họ là Ngài Huỳnh Giáo chủ thì ngày lễ lộc tưởng niệm hết sức khó khăn,” ông nói thêm và cho biết Nhà nước ‘theo dõi các vị chức sắc chức sắc tôn giáo xem họ phát ngôn thế nào nếu nói trật đường lối là khó sống’.

Về phương châm của Giáo hội Phật giáo Việt Nam do chính quyền kiểm soát là ‘Đạo pháp-Dân tộc-Chủ nghĩa xã hội’, ông cho rằng do Đảng Cộng sản ‘ép buộc phải đưa chủ nghĩa cộng sản vào’ chứ ‘Đạo pháp không thể đi cùng chủ nghĩa xã hội’.

“Việc này làm thành phần trí thức hiểu biết rất đau lòng,” ông nói.

Cuộc phỏng vấn của BBC Việt ngữ với Hòa thượng Thích Nguyên Trí được thực hiện trong tháng Tư, 2015 tại Nam California.

Bị ăn quỵt tiền bôi trơn, ‘đau nhưng không dám kêu’

Bị ăn quỵt tiền bôi trơn, ‘đau nhưng không dám kêu’

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) .- “Bị ăn quỵt tiền bôi trơn: Đau lắm nhưng không dám kêu.”  ông Đậu Anh Tuấn, Trưởng Ban pháp chế, VCCI, bình luận, văn hóa “bôi trơn” và tỷ lệ “ăn quỵt” năm qua “đã giảm bớt”.

Thứ trưởng Bộ Giao Thông Vận Tải CSVN Nguyễn Hồng Trường bị tố ăn quỵt tiền bôi trơn của doanh nghiệp. (Hình: GDVN)

Hôm Thứ Sáu 24 tháng 4, 2015, báo điện tử Vietnamnet mở đầu bản tin tường thuật “Lễ công bố kết quả xếp hạng năng lực cạnh tranh cấp tỉnh” mà ông Đậu Anh Tuấn, trưởng ban pháp chế Phòng Thương Mại và Công Nghiệp Việt Nam (VCCI) , phát biểu về tình trạng nhũng nhiễu của quan chức CSVN.

Ông Đậu Anh Tuấn có thái độ lạc quan khi cho rằng nạn nhũng nhiễu vòi vĩnh ăn hối lộ của doanh nghiệp đã giảm, khác với nhận xét của một ông quan thanh tra cao cấp nói “tham nhũng ở Việt Nam ba năm qua ổn định”, nghĩa là không tăng không giảm, vẫn nghiêm trọng.

Theo chi tiết thấy nêu trong bản tin Vietnamnet nhân dịp “Lễ công bố kết quả xếp hạng năng lực cạnh tranh cấp tỉnh” thì tình trạng nhũng nhiễu không biết có  “giảm bớt” như lời ông Tuấn nói không. Chỉ thấy tờ báo mô tả là “Nếu không trả hoa hồng, 89% doanh nghiệp FDI cho biết là sẽ có chuyện bất lợi xảy ra”.

Nêu ra các con số thống kê không biết ông dựa vào đâu, mức độ khả tín đến đâu, ông Đậu Anh Tuấn được thuật lại cho hay “năm 2010, chỉ có hơn 47% doanh nghiệp FDI cho biết công việc đã được giải quyết đúng sau khi họ trả các khoản chi phí không chính thức, nhưng năm 2014, tỷ lệ này là hơn 58%.”

Theo ông này “Điều đó cũng có nghĩa rằng, một số lớn các doanh nghiệp FDI trước đây đã bị “mất trắng” (đưa hối lộ) với công chức Việt Nam (53%) một khoản tiền lớn mà không được việc gì, và giờ thì con số này giảm xuống (42%).”

Nạn doanh nghiệp bị quan chức của chế độ “quỵt tiền bôi trơn” có vẻ ngày càng khá phổ biến. Giữa nhiều kẻ cùng bôi trơn, đám quan chức có thể cầm hết rồi không trả lại tiền hối lộ cho ai dù người ta không được việc.

Ngày 9/11 năm ngoái, tờ Sài Gòn Times đưa ra một số trường hợp doanh nghiệp hối lộ để được thắng thầu, nhưng các số tiền “đi cửa sau” đã mất mà vẫn thua thầu đau đớn, hợp đồng không có.

Những vụ việc như thế “công khai hay không, chỉ là những câu chuyện kéo dài hàng ngày trên báo chí về nỗi khổ của các doanh nghiệp trong quá trình làm ăn. Việc doanh nghiệp bị hành bởi các cán bộ nhà nước biến chất có muôn hình vạn trạng”, Sài Gòn Times viết.

Việt Nam có tự do báo chí hơn nhiều nước khác?

Việt Nam có tự do báo chí hơn nhiều nước khác?

Blogger Phạm Đoan Trang

Blogger Phạm Đoan Trang

Trà Mi-VOA

24.04.2015

Bộ trưởng Thông tin-Truyền thông Nguyễn Bắc Son ngày 24/4 tuyên bố Việt Nam có nhân quyền và tự do báo chí hơn nhiều nước khác.

Truyền thông nhà nước dẫn phát biểu của ông Nguyễn Bắc Son trước cử tri xã Đại Đồng, (Thạch Thất, Hà Nội) bác bỏ những cáo giác của các tổ chức bảo vệ nhân quyền trên thế giới cho rằng Việt Nam không có tự do báo chí.

Ông Son nói ‘Đó là họ nói không đúng và nhìn nhận không đầy đủ.’

Người đứng đầu ngành thông tin-truyền thông của Việt Nam khẳng định ‘Thực ra ta có nhân quyền và báo chí ở ta tự do hơn họ rất nhiều.’

Ông Son dẫn chứng ‘hiếm có nước nào có nhiều tờ báo và truyền hình như Việt Nam hiện nay’, ‘các hội, các ngành đều có một tờ báo riêng’ ‘phục vụ nhu cầu độc giả mọi lứa tuổi’ tuy ông thừa nhận ‘báo chí là phương tiện truyền thông của đảng, nhà nước.’

Bình luận của Bộ trưởng Son gây chú ý công luận giữa bối cảnh Việt Nam trong nhiều năm liên tiếp bị các tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế liệt kê vào danh sách các nước đàn áp tự do báo chí-tự do ngôn luận nghiêm trọng nhất trên thế giới.

Blogger-nhà báo độc lập Phạm Đoan Trang từng là phóng viên và biên tập viên chuyên trang Tuần Việt Nam của Vietnamnet nay là nhà hoạt động cổ võ cho nhân quyền Việt Nam, phản hồi trước tuyên bố của Bộ trưởng Thông tin-Truyền thông:

“ Bộ trưởng nói vậy em bật cười, và em nghĩ nhiều nhà báo khác cũng bật cười. Câu nói rằng Việt Nam có tự do báo chí vì Việt Nam có nhiều báo là phép ngụy biện mà nhiều quan chức của chính quyền cộng sản dùng nhiều năm nay rồi. Vấn đề là các tờ báo đó chất lượng thế nào và bản chất hoạt động của báo chí Việt Nam thế nào thì không bao giờ các ông ấy nói đến cả. Có cả ngàn tờ báo mà chỉ có một tổng biên tập. Sự lố bịch và dối trá ấy công khai tồn tại nhiều năm nay rồi.”

Giới hữu trách Việt Nam giải thích do số lượng báo đài trong nước nhiều nên nhà nước cần phải quản lý để hoạt động hiệu quả, ‘đúng tôn chỉ, mục đích.’

Blogger Đoan Trang phản bác quan điểm này:

“Điều này thể hiện một tư duy rất kém về chính sách công, về quản trị đất nước, về chính trị và luật pháp. Em muốn nói họ dốt về chuyện quản lý đất nước, quản trị điều hành. Còn chuyện trấn áp kiểm soát thì họ khá lắm. Quản lý báo chí nên là việc của xã hội, chứ không phải việc của nhà nước. Bao lâu nay báo chí Việt Nam chỉ được kiểm soát bằng nghị quyết, nghị định của đảng. Những chuyện đụng đến chính trị thì bị xử lý, còn chuyện xâm phạm đời tư-vu khống bôi nhọ tràn lan trên mặt báo đâu thấy ai nói gì. Ở đây rõ ràng có vấn đề rất nặng về chuyện luật pháp, hành pháp, cũng như lập pháp.”

Bộ trưởng Thông tin-Truyền thông Việt Nam chỉ ra Việt Nam nằm trong 20 nước trên thế giới có luật về báo chí để nói rằng Việt Nam ‘tự do báo chí hơn nhiều nước khác.’ Tuy nhiên, giới hoạt động cho rằng các luật báo chí của Việt Nam không nhằm bảo vệ quyền tự do báo chí.

Nhà báo độc lập Đoan Trang:

“Cái họ dùng không phải là luật pháp. Nó là luật rừng thì đúng hơn, đầy mơ hồ. Ở Việt Nam thừa luật về quản lý và siết chặt tự do nhưng thiếu luật tốt để xã hội vận hành được. Những luật họ dùng hoàn toàn nhằm bảo vệ lợi ích của đảng và của công an. Luật về báo chí không bảo vệ tự do báo chí hoặc giúp nhà báo vận hành một cách chuyên nghiệp.”

Tháng 10 năm nay, chính phủ Việt Nam dự kiến trình Quốc hội dự thảo Luật báo chí sửa đổi.

Theo lời Bộ trưởng Thông tin-Truyền thông, Luật báo chí sửa đổi ‘sẽ là công cụ để công tác quản lý báo chí được thực hiện hiệu quả hơn.’

Ông Son cũng kêu gọi cử tri đóng góp ý kiến thêm ‘để công tác quản lý báo chí được làm tốt hơn.’

Giới hoạt động cho rằng Luật báo chí Việt Nam cần sửa đổi để bảo vệ quyền tự do ngôn luận-tự do báo chí của người dân hơn là bảo vệ ‘công tác quản lý báo chí’ của nhà nước.

Thành viên nồng cốt của Mạng lưới Blogger Việt Nam, Phạm Đoan Trang:

“Thấy một cảm giác rất là khó chịu. Những người với trình độ như vậy vẫn cứ giữ các vị trí như vậy, vẫn cứ phát ngôn các câu nói rất tệ hại thể hiện sự thiếu hiểu biết và thiếu tôn trọng các nhà báo như thế. Cảm thấy bực bội thôi chứ không lo ngại. Kể cả Luật báo chí có siết chặt hơn nữa thì cũng không sao vì thật ra các nhà báo Việt Nam cũng quen với việc đó rồi. Bao lâu nay  họ vẫn bị siết chặt như thế rồi. Để nói Luật báo chí cần phải sửa đổi thế nào cho phù hợp thì họ phải hiểu về báo chí và hiểu về nhân quyền. Trong lực lượng lập pháp của đảng, không có những người như vậy. Họ không có tư duy về nhân quyền hay tự do báo chí.”

Trong tuần này, Ủy ban Bảo vệ Ký giả CPJ công bố phúc trình thường niên tiếp tục liệt kê Việt Nam trong danh sách 10 nước kiểm duyệt báo chí gắt gao nhất trên thế giới.

CPJ nói  Việt Nam là một trong những nhà tù lớn nhất cho giới ký giả, với ít nhất 16 phóng viên đang bị cầm tù.

Ngày mất tự do cũng là Ngày Tìm Tự Do

Ngày mất tự do cũng là Ngày Tìm Tự Do

Nguoi-viet.com

Ngô Nhân Dụng

Quốc Hội Canada đã thông qua dự luật (Bill S-219) quy định ngày 30 Tháng Tư mỗi năm là ngày “Tìm Tự Do” (Journey to Freedom), và đạo luật đã được ban hành một tuần trước ngày kỷ niệm 40 năm dân miền Nam bị Cộng Sản cướp mất tự do.

Năm ngoái, Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải đề nghị dự luật này với tên là “Ngày Tháng Tư Ðen” (Black April Day). Khi thảo luận tại Thượng Viện, nhiều nghị sĩ đề nghị đổi tên để mang một ý nghĩa tích cực hơn và dễ được người Canada thuộc các sắc dân khác ủng hộ; do đó đề nghị đổi tên thành luật Hành Trình Tìm Tự Do. Nhiều người Việt không thỏa mãn với tên gọi không phản ảnh nỗi đau buồn và uất hận vì mất tự do. Nhưng đổi tên là một thỏa hiệp khôn ngoan để đạt mục đích muốn cả nước Canada ghi nhận phong trào vượt biển tị nạn của người Việt sau ngày 30 Tháng Tư 1975 là một biểu tượng cho khát vọng tự do của con người. Chưa một sắc dân nào ở Canada được Quốc Hội đối xử đặc biệt như vậy.

Tại các nước khác, do yêu cầu của các công dân người Việt tị nạn, nhiều thành phố hoặc tiểu bang đã biểu quyết về ngày 30 Tháng Tư, hoặc đã ghi nhận giá trị biểu tượng của lá cờ vàng ba sọc đỏ. Tại các nơi đó nhiều cử tri gốc Việt tham dự trong các cuộc bầu cử. Canada là nước đầu tiên ban hành một đạo luật hiệu lực trên toàn quốc, ghi nhớ ngày 30 Tháng Tư tượng trưng cho khát vọng tự do của loài người, dù các công dân gốc Việt chiếm khoảng 1% dân số. Người Việt ở các nước khác có thể nêu trường hợp Canada như một tiền lệ khi yêu cầu các đại biểu quốc hội noi theo gương Canada.

Cho nên việc ban hành đạo luật Hành Trình Tìm Tự Do là một thắng lợi của người Việt tị nạn khắp thế giới, không riêng ở Canada. Thắng lợi này càng nổi bật lên vì chính quyền Cộng Sản đã phản đối và ngăn cản bằng nhiều cách trước khi dự luật được đem ra thảo luận. Ngoại Trưởng Phạm Bình Minh đã gửi thư cho Bộ Ngoại Giao Canada yêu cầu Quốc Hội không thảo luận bản dự luật S-219. Nguyễn Tấn Dũng chính thức gửi thư phản đối với Thủ Tướng Stephen Harper, còn đe dọa rằng dự luật này có thể làm phương hại quyền lợi thương mại và đầu tư của Canada ở Việt Nam.

Những lời phản đối này được báo chí loan tải, các công dân Canada biết tin và theo dõi. Vì thế việc hai viện Quốc Hội Canada lần lượt biểu quyết chấp thuận bản dự luật ghi nhận ngày 30 Tháng Tư càng có ý nghĩa mạnh hơn! Một luật sư người Việt tại Canada, ông Vũ Ðức Khanh nhận xét: “Tôi nghĩ Hà Nội đang làm trò hề vì họ không hiểu luật chơi, không biết ở một nước dân chủ như Canada vận động ai.” Ở một nước tự do dân chủ ông thủ tướng không thể ra lệnh cho quốc hội như một nước độc tài đảng trị. Dù Nghị Sĩ
Ngô Thanh Hải thuộc cùng đảng với Thủ Tướng Harper nhưng trong Quốc Hội còn hai đảng lớn khác. Ðối với các vấn đề có tính cách nhân bản và lịch sử vượt trên các quyền lợi phe phái, các đại biểu chỉ bỏ phiếu theo lương tâm. Bộ Trưởng Jason Kenney, phụ trách đa văn hóa nói ông ủng hộ dự luật bởi đó là cách ghi nhớ thành tích của 60 ngàn người Việt “đã dám đánh đổi mạng sống để đi tìm tự do, và đã tìm được tự do tại Canada.”

Nhiều công dân Canada gốc Việt đã điều trần trước Quốc Hội giải thích lý do tại sao nên ghi nhận ngày 30 Tháng Tư như một ngày tưởng niệm hàng năm. Ông Lê Duy Cấn, từng là hội trưởng Liên Hội Người Việt ở Canada nhiều năm và đề xướng lập Tượng Ðài Thuyền Nhân ở thủ đô Ottawa. Ông Cấn giải thích: Sau khi Việt Cộng chiếm miền Nam, bỏ tù mấy trăm ngàn người và đầy ải những người khác lên các “vùng kinh tế mới” dân miền Nam quyết định phải chạy thoát chế độ cộng sản; một nhà báo Pháp đã nhận xét: Nếu cái cột đèn biết đi nó cũng chạy. Ðặc biệt, các người Việt gốc Hoa bị tống xuất ra biển, sống chết không cần biết. Ông nhắc tới thảm cảnh của các thuyền nhân vào năm 1978, 79 khi các nước Ðông Nam Á không chấp nhận cho họ cập bến. Tình trạng này gây xúc động cho mọi người dân Canada.

Ông Cấn kể lại, lúc đó chủ tịch Công Ðoàn Canada là ông Dennis McDermott đã nói, “Rõ ràng là vấn đề thuyền nhân Việt Nam đã lớn lên thành một cuộc khủng hoảng nhân đạo của cả thế giới. Các phản ứng duy nhất là phải hành động quyết liệt ngay lập tức. Một phong trào phát xuất từ phía người dân đã kêu gọi hành động, riêng tại thủ đô Ottawa đã có 3,000 người biểu tình thỉnh nguyện; trong một tháng có 347 nhóm đứng ra bảo trợ. Thị trưởng Ottawa lập “Dự án 4,000” để tiếp nhận bốn ngàn người tị nạn. Giáo Sư Howard Adelman ở Toronto đã sáng lập “Chiến Dịch Cứu Nạn” (Operation Lifeline). Trước làn sóng nhân đạo đó, Thủ Tướng Joe Clark quyết định nhận 50,000 người tị nạn, sau tăng lên 60,000.

Một phụ nữ Việt Nam ở Quebec, cô Anne Quách Minh-Thu đã điều trần về chuyến vượt biển tìm tự do của gia đình cô, với hai đứa con mới hai, ba tuổi. Cô nói: “Hôm nay tôi được đứng nói ở Quốc Hội này là vì cha mẹ tôi đã trốn thoát và được tị nạn ở Canada, bắt đầu một cuộc đời mới trong hòa bình, tự lực lao động để sống còn. Tôi sinh ra và lớn lên ở Canada vì lòng can trường của cha mẹ tôi và vì lòng hào hiệp của dân Canada, để hôm nay tôi được tham dự vào cuộc sống dân chủ của xứ sở này.”

Sứ quán Việt Cộng cũng tìm được người ủng hộ họ ra điều trần trước Quốc Hội. Mai Thu ở Ottawa đã phê bình rằng nước Canada có bao nhiêu nhóm người tị nạn từ khắp thế giới đến, không nên chọn một ngày riêng cho dân Việt Nam. Ông còn nghi ngờ dự luật này có thể gây chia rẽ vì chỉ có một nửa trong số 220,000 người Việt ở Canada là dân tị nạn, những người khác thì không chống chính quyền hiện nay. Giáo Sư Nguyễn Duy Vinh ở Ottawa đã phản bác, nói rằng 90% những người “không tị nạn” là những thân nhân đã được người tị nạn bảo trợ. Mai Thu cũng biện hộ rằng chính quyền Việt Nam hiện nay không còn là Cộng Sản nữa mà theo kinh tế tư bản với khuynh hướng xã hội; nhưng ông Vinh đã vạch rõ chế độ độc tài tàn bạo hiện nay vẫn còn, mà điều số 4 trong Hiến Pháp vẫn cho đảng Cộng Sản Việt Nam toàn quyền chuyên chế.

Trong bài điều trần của ông Lê Duy Cấn tại Quốc Hội Canada, ông kết luận rằng việc đưa tay đón nhận người Việt tị nạn là một chương sách sáng chói trong lịch sử Canada. Nó cho thấy tấm lòng từ bi và hào hiệp của dân tộc Canada trước những thảm cảnh của loài người khắp thế giới, trong đó có những người chạy trốn khỏi ách độc tài tàn bạo. Chương sách chói lọi này đáng được vinh danh, ghi vào lịch sử, bằng dự luật S-219.

Nhờ các cuộc điều trần trước Quốc Hội Canada, các đại biểu được nhắc nhở tới thảm cảnh của các thuyền nhân chạy trốn Cộng Sản. Một điều không ai muốn nhắc tới vì nó quá bỉ ổi, là dã tâm của đảng cộng sản Việt Nam lợi dụng cả phong trào chạy trốn chế độ tàn ác của họ để trục lợi. Vào những năm 1978, 79, cả thế giới xúc động trước làn sóng người Việt tị nạn; trong khi đó các lãnh tụ và cán bộ cộng sản đã nhân cơ hội kiếm tiền, bằng cách bán chứng chỉ công nhận là Hoa kiều, và tiền “bán bến.” Một cán bộ cấp tỉnh kiếm nhiều tiền nhất chính là Nguyễn Tấn Dũng. Thái độ tính toán lạnh lùng của Việt Cộng không qua mắt được những quan sát viên ở ngoài, như Lý Quang Diệu.

Tháng Năm năm 1979, một chiếc Anh quốc là Roach Bank cứu nhiều người tị nạn, nhưng tới Ðài Loan thì bị đó từ chối không cho lên bờ. Bà Margaret Thatcher, thủ tướng Anh đã viết thư nhờ ông Lý Quang Diệu ở Singapore can thiệp giúp, để chiếc tàu này không phải qua Hồng Kông, thuộc địa của Anh. Các nước cứ đổ lẫn cho nhau xem nước nào có bổn phận đón nhận người Việt tị nạn, ông Lý Quang Diệu đã viết trong thư trả lời: “Tôi tin rằng những tin tức về vấn đề người tị nạn qua truyền thông và qua phát ngôn viên các chính phủ phương Tây chỉ làm lợi cho chính quyền Việt Nam.” Cho nên, ông đề nghị: “Các nước này… nên tập trung vào việc vạch trần tính bỉ ổi của chính quyền Việt Nam. Phải nói, phải nhắc đi nhắc lại cho nhân dân và các nhà lãnh đạo toàn thế giới biết rằng chính quyền nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chính là những kẻ tích cực thúc đẩy cuộc di tản ồ ạt này, gây thiệt hại nặng cho các nước Ðông Nam Á.”

Nội dung bức thư này đã được nhà văn Phạm Thị Hoài dịch và công bố trên mạng. Ông Lý Quang Diệu nói với bà Thatcher rằng, “Chúng ta phải đẩy họ vào thế thủ. Các người lãnh đạo Việt Nam không phải là những thằng điên… Họ có đầu óc lạnh lùng tính toán, không hề động lòng trắc ẩn với chính đồng bào của họ, nhưng làm con tính so sánh chi phí với lời lãi thì rất nhanh. Chỉ có nguy cơ bị cộng đồng quốc tế ruồng bỏ mới khiến họ phải suy xét lại đường lối hiện tại. Từ giờ đến lúc đó, họ sẽ còn tung ra hàng ngàn người tị nạn mỗi tuần.”

Những con người “bỉ ổi, lạnh lùng, chỉ tính toán lời lỗ” sau đó quả nhiên đã “bị cộng đồng quốc tế ruồng bỏ.” Cho đến khi đất nước cùng kiệt và chế độ sắp tan rã vì cả khối cộng sản ở Châu Âu sụp đổ, họ mới thay đổi. Giờ này họ vẫn còn ngự trị trên quê hương chúng ta. Vì vậy, mỗi năm đến ngày 30 Tháng Tư người Việt Nam vẫn thấy là một ngày tang tóc. Nhưng từ năm nay, ngày 30 Tháng Tư còn có thể mang thêm một ý nghĩa mới: Ngày quyết tâm xây dựng tự do dân chủ.

Nhờ các dân biểu và nghị sĩ Canada đã lắng nghe lương tâm và lẽ phải, Dự luật S-219 đã chính thức thành đạo luật “Hành Trình Tìm Tự Do,” có giá trị tích cực với 35 triệu dân Canada, và tất cả mọi con người yêu tự do trên thế giới. Chúng ta tưởng niệm ngày 30 Tháng Tư bằng những nỗ lực cùng tất cả mọi người Việt Nam tranh đấu đòi dân chủ, cuộc Hành Trình Tìm Tự Do cho dân tộc sẽ tiến nhanh hơn.

CSVN thất bại khi chặn một đạo luật về ngày 30 tháng 4

CSVN thất bại khi chặn một đạo luật về ngày 30 tháng 4

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) – Bộ Ngoại Giao CSVN đã triệu đại sứ Canada tại Hà Nội để phản đối về đạo luật S-219. Đạo luật này xác định, 30 tháng 4 hàng năm là “Ngày hành trình tìm tự do.”

Thủ tướng Canada và Thượng Nghị Sĩ Ngô Thanh Hải chúc Tết cộng đồng Việt Nam tại Toronto. (Hình: Radio LMDCVN)

Đạo luật S-219 vừa được chính phủ Canada ban hành vào ngày 22 tháng 4, 2015.

Hai ngày sau đó, hôm 24 tháng 4, Bộ Ngoại Giao CSVN tuyên bố S-219 là “một đạo luật hoàn toàn sai trái, chứa đựng nhiều nội dung xuyên tạc lịch sử.”

Ông Lê Hải Bình, phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao, tuyên bố, việc ban hành đạo luật S-219 là “một bước lùi trong quan hệ giữa Việt Nam và Canada” và “ảnh hưởng tiêu cực tới quan hệ đang phát triển tốt đẹp giữa Việt Nam và Canada, xúc phạm tình cảm của nhân dân Việt Nam cũng như một bộ phận lớn cộng đồng người Việt tại Canada.”

Việt Nam đã tìm nhiều cách để ngăn cản S-219 từ một dự luật trở thành đạo luật nhưng không thành công. Hồi đầu tháng 2 năm nay, ông Nguyễn Tấn Dũng, thủ tướng Việt Nam từng gửi thư cho ông Stephen Harper, thủ tướng Canada, nhấn mạnh, S-219 có thể “gây tổn hại cho quan hệ Việt Nam-Canada.”

Đạo luật S-219 do ông Ngô Thanh Hải, một thượng nghị sĩ Canada gốc Việt, đề nghị và đã được thượng viện Canada thông qua hồi đầu tháng 12 năm ngoái và được Hạ Viện Canada đưa ra thảo luận hồi thượng tuần tháng 2 năm nay.

Dự luật S-219 chọn 30 tháng 4 hàng năm là ngày kỷ niệm chính thức cho sự kiện người Việt phải bỏ xứ để tìm đường tị nạn Cộng Sản và cũng là dịp để Canada kỷ niệm việc đón nhận hàng chục ngàn thuyền nhân Việt Nam đến Canada sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Trong thư gửi thủ tướng Canada, thủ tướng CSVN trình bày rằng, dự luật S-219 tạo ra một “cái nhìn méo mó về lịch sử Việt Nam.”

Trước khi ông Nguyễn Tấn Dũng gửi thư cho thủ tướng Canada, hồi thượng tuần tháng 12, sau khi Thượng Viện Canada thông qua dự luật S-219, ông Vũ Việt Dũng, một viên chức ngoại giao làm việc tại đại sứ quán Việt Nam ở Canada, từng tuyên bố với báo giới Canada rằng, dự luật S-219 sẽ “ảnh hưởng xấu tới quan hệ giữa Việt Nam và Canada, cũng như nỗ lực mở rộng quan hệ thương mại và đầu tư.”

Lúc đó, ông Vũ Việt Dũng nói thêm rằng ông Tô Anh Dũng, đại sứ Việt Nam tại Canada đã trình bày điều đó với ông John Baird, ngoại trưởng Canada bởi dự luật S-219 là một “thông điệp không đúng” gửi tới dân chúng Việt Nam và cộng đồng quốc tế.

Vào thời điểm vừa kể, ông Lê Thanh Hải, phát ngôn Bộ Ngoại Giao, tuyên bố dự luật S-219 “có những nội dung sai trái, xuyên tạc lịch sử, khơi lại quá khứ đau buồn, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam, nhằm phục vụ những mục đích chính trị cá nhân.”

Trang web globeandmail.com của Canada cho biết thêm rằng, ông Phạm Bình Minh, phó thủ tướng kiêm ngoại trưởng CSVN cũng từng gửi thư phản đối dự luật S-219 cho ngoại trưởng Canada. Tuy là một bên trong TPP và vẫn nỗ lực phát triển quan hệ thương mại với Việt Nam và các quốc gia Châu Á song dường như Canada không bận tâm tới những phản ứng vừa kể của Việt Nam.

Ông Jason Kenney, bộ trưởng Lao Động Canada, nhấn mạnh rằng, tuy tôn trọng quan hệ với “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” nhưng ông ủng hộ dự luật S-219 vì dự luật này nhằm kỷ niệm việc 60 ngàn người đã dám đánh đổi mạng sống để đi tìm tự do và đã tìm được tự do tại Canada.

Hồi Tết Âm lịch vừa qua, ông Stephen Harper, thủ tướng Canada đã đến tham dự Hội Chợ Tết 2015 của cộng đồng người Việt tại Toronto. Ngay sau đó, đại sứ quán Việt Nam tại Canada bày tỏ “sự ngạc nhiên và lo ngại về việc nhiều lá cờ vàng ba sọc đỏ của Việt Nam Cộng Hòa trước đây đã được treo cạnh các lá cờ Canada tại các địa điểm công cộng ở Toronto.”

Ông Jason Kenney, bộ trưởng Lao Động Canada, người có trách nhiệm bảo vệ yếu tố đa văn hóa ở Canada, đáp lại, cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng mà người Canada gốc Việt đã lựa chọn.

Trò chuyện với globeandmail.com, ông Ngô Thanh Hải, thượng nghị sĩ Canada, người đề nghị dự luật S-219 từng bảo rằng, dự luật S-219 không liên quan tới chính phủ hiện tại của Việt Nam, không đụng tới các quan hệ thương mại.

Khi được BBC mời bình luận về sự kiện vừa kể, ông Vũ Đức Khanh, một luật sư Canada nhận định rằng, chính quyền Việt Nam đang làm “trò hề” vì không hiểu “luật chơi,” không biết đâu là chỗ cần tác động và không thực tâm hòa giải dân tộc. (G.Đ)