Chuyện một thuyền nhân Việt mất con

Chuyện một thuyền nhân Việt mất con

Trần Nhật Phong Gửi tới BBC từ Quận Cam, California

Ông Tăng Bảo Can nói ông vẫn hy vọng sẽ tìm được lại con gái mình

Vượt biên và tới được Hoa Kỳ vào năm 1985, suốt hàng chục năm nay ông Tăng Bảo Can, hiện đang sống ở nam California, vẫn đi tìm đứa con gái bị hải tặc Thái Lan bắt đi trong hành trình lênh đênh trên biển khơi.

Cô con gái 14 tuổi của ông bị đem đi mất ngày 26/10/1984, khi con tàu chở gia đình ông cùng nhiều người khác đã tới được hải phận quốc tế.

“Đó là chuyến đi rất đau thương. Nó khiến cho tôi khóc bao phen, mà đến giờ mỗi khi có ai hỏi tới là nó vô tình gợi lại vết thương như dao khứa mỗi ngày, mỗi đêm.”

“Tôi là đàn ông, phải cố chịu đựng nỗi ám ảnh [mất con] để tranh đấu mà sống, nhưng vợ tôi bị trầm cảm cho tới tận ngày hôm nay,” ông Can nói.

Trong hành trình kéo dài năm ngày, tàu của ông đã bị cướp ba lần, và tai họa mất con xảy ra khi hải tặc nhảy lên tàu vào lần thứ tư.

“Trên chuyến tàu có bốn cô gái, hai cô 17 tuổi, hai cô 14 tuổi, trong đó có con gái tôi.”

“Khi lên tàu, chúng xô hết thanh niên ra, trong đó có con gái tôi. Tôi cố gắng ôm giữ cháu, và những lời cuối cùng cháu nói với tôi là ‘Ba đừng bỏ con, ba ơi cứu con’, vợ tôi khi còn nằm trong khoang thuyền, không biết chuyện gì đang xảy ra ở ngoài.”

“Hải tặc bắt con gái tôi cởi bỏ quần áo, mà tôi nghĩ là để chúng tìm vàng, nhẫn giấu trong người. Con gái tôi đã chống cự lại.”

Cách đây khoảng ba năm, hội thiện nguyện East Asia Missing Children Foundation được thành lập nhằm tìm kiếm những đứa trẻ bị thất lạc trong hành trình vượt biên

“Có lẽ bởi vậy nên chúng đẩy con gái tôi sang chiếc tàu của chúng. Đó là những giây phút quá hãi hùng, khi mà tôi phải chứng kiến cảnh đứa con gái yêu thương bị cướp khỏi vòng tay và ngoái lại cầu cứu.”

“Không có một chút khí giới trong tay, nhưng sự sống hay chết đối với tôi khi đó không còn quan trọng. Tôi bất chấp nỗi sợ, cố giành con gái lại từ tay một tên cướp biển có lẽ khoảng 20 tuổi, rồi bị một tên cầm giáo đâm sau lưng khiến tôi bất tỉnh.”

“Con gái tôi rất can đảm, cháu không khóc mà ngoái nhìn tôi. Tôi nhớ giọt lệ lăn tròn trên mặt cháu. Hình ảnh đó ám ảnh tôi suốt ba chục năm nay.”

Ông Can cho biết ông cùng một số người khác từng qua Thái Lan để tìm kiếm, và đã có hai gia đình may mắn tìm được con cũng bị cướp biển Thái Lan bắt đi từ khi mới được vài tháng tuổi.

Cách đây ba năm, ông Can thành lập hội South East Asia Missing Children Foundation – Hội những đứa trẻ Đông Nam Á bị mất tích, với hy vọng chưa bao giờ nguôi ngoai là mình và những người cùng cảnh ngộ sẽ tìm thấy được những đứa con đã bị thất lạc.

“Phép lạ cũng sẽ đến cho con gái tôi, đến cho gần 100 gia đình có con thất lạc [tham gia Hội]. Tôi không được hỗ trợ nhiều, nhưng tôi sẽ cố gắng đi làm thật nhiều để có tiền cho hội từ thiện này của chúng tôi,” ông Can nói.

Đức Giáo hoàng: Hãy mang chính trị vào các giáo xứ

Đức Giáo hoàng: Hãy mang chính trị vào các giáo xứ

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2015-05-10

Audio: Đức Giáo hoàng: Hãy mang chính trị vào các giáo xứ Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

000_Hkg8382406.jpg

Bức chân dung Giáo Hoàng Francis tại cổng chính của một nhà thờ ở Hà Nội hôm 15/3/2013

AFP photo

Your browser does not support the audio element.

Trong một lần trả lời về việc dấn thân của người tu sĩ trong giáo hội, Đức Giáo hoàng Phan Xi Cô nói rằng “Nếu Chúa gọi anh chị em trên con đường này thì xin anh chị em lên đường, hãy làm chính trị dù con đường này có thể làm anh chị em đau khổ”.

Giáo hội Công giáo Việt Nam đã đem giáo huấn của Đức Giáo Hoàng vào đời sống như thế nào và liệu câu hỏi người tu sĩ không nên làm chính trị có còn đứng vững hay không? Mặc Lâm phỏng vấn linh mục An Tôn Lê Ngọc Thanh, thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Sài Gòn.

Mặc Lâm: Thưa Linh mục, xin ông cho biết giáo huấn của Đức Giáo Hoàng về việc dấn thân trong đời sống chính trị có được áp dụng vào mục vụ của giáo hội Công giáo Việt Nam hay không và các tu sĩ thực hiện giáo huấn này cụ thể như thế nào?

LM Lê Ngọc Thanh: Về mặt giáo huấn chung của Giáo hội tôi xin được nói cái giáo huấn gần nhất của giáo hội đó là thông điệp “Niềm vui tin mừng” của Đức Giáo hoàng Phan xi cô vừa ban hành cách đây hơn một năm. Trong chương IV ngài nói rất rõ những việc phải dấn thân trong xã hội. Ngài chỉ ra hàng loại những vấn đề rất cụ thể và ngài bảo rằng tôi muốn một giáo hội lem luốc trên đường phố với người nghèo hơn là ẩn mình trong sự an toàn giả tạo. Và ngài bảo rằng cần phải cơ cấu lại, không phải bài giảng đâu, mà cần thiết thì phải cơ cấu lại giáo xứ để làm sao đáp ứng được nhu cầu đó và ngài nhấn mạnh rằng việc phục vụ cộng đồng, xã hội trong tư cách là một chính trị gia của giáo dân nó là một việc bác ái cao cả hơn cả bởi vì nếu việc bác ái bình thường chỉ giúp được một hai người, còn một vị chính trị gia làm việc nghiêm túc, công minh thì sẽ giúp cả một cộng đồng xã hội hàng ngày cứu giúp giáo dân.

Mặc Lâm: Có phải vì thế mà nhiều bài giảng thuộc DCCT gần đây đã không ngại nêu bật những khiếm khuyết của xã hội lẫn chính quyền và trong một chừng mực nào đó đã gây cảm hứng mới cho giáo dân. Xin linh mục cho biết những bài giảng như thế có được sự đồng thuận từ giáo hội hay không?

LM Lê Ngọc Thanh: Trước tiên thì tôi phải khẳng định rằng là bài giảng nơi tòa giảng trong nhà thờ luôn xuất phát từ lời Chúa chứ không phải tùy ý do sở thích của một linh mục hay của một nhóm một cộng đoàn riêng lẻ  nào đó. Cái đó không thuộc phạm vi tự quyết của cá nhân một linh mục hay của một cộng đoàn như Dòng Chúa cứu thế mà đây là sứ điệp của Chúa trong hội thánh được công bố hàng tuần. Chúng tôi công bố lời Chúa vì chính lời Chúa xuất phát từ trong một cộng đồng xã hội cụ thể và quay lại áp dụng cho một cộng đồng cụ thể với những vấn đề mà chúng ta không thể im lặng, với những vấn đề chúng ta không thể cho qua.

Những vấn đề mà anh em DCCT thật ra không nằm ngoài lề giáo hội mà triển khai những vấn đề của giáo hội mà có thể nhiều cha xứ khác, ở nhiều nơi khác, vì lý do mục vụ cụ thể hoặc là vì sự đơn độc khi ở một mình có thể dễ dàng bị tấn công, bị trả thù nên các ngài khôn khéo hơn, cẩn thận hơn trong cách nói công khai trên tòa giảng. Nhưng có thể nói một điều chắc chắn như thế này là ở lúc gặp gỡ và chia sẻ với giáo dân tất cả các linh mục đều nói rõ về bản chất dấn thân cho xã hội của Giáo hội Công giáo mà không ngoại trừ DCCT.

Mặc Lâm: Phản ứng của giáo dân đối với giáo huấn mới của Đức Thánh Cha có tích cực lắm hay không trong bối cảnh o ép hiện nay tại Việt Nam và sau những bài giảng sống động trong nhà thờ giáo dân có phản ứng như thế nào?

LM Lê Ngọc Thanh: Tôi lấy kinh nghiệm ở Thái Hà ở Hà Nội và Đền Đức mẹ hằng cứu giúp ở Sài Gòn để chúng ta thấy.

” Ban đầu thì giáo dân hơi sợ hãi nhưng sau khi nghe giảng xong thì giáo dân nói với chúng tôi rằng chúng con chỉ sợ rằng là đang thánh lễ hay sau thánh lễ họ sẽ vô bắt các cha.
– LM Lê Ngọc Thanh”

Ban đầu thì giáo dân hơi sợ hãi nhưng sau khi nghe giảng xong thì giáo dân nói với chúng tôi rằng chúng con chỉ sợ rằng là đang thánh lễ hay sau thánh lễ họ sẽ vô bắt các cha. Ban đầu là như vậy nhưng dần dần họ thấy và nói với chúng tôi rằng đây là điều mà họ chỉ nghe được ở đây. Họ là những người thuộc nhiều giáo xứ khác cứ canh giờ lễ đó mà đến để được hiệp thông, cầu nguyện để được nghe giáo huấn.

Tôi thấy rằng ít nhất là vào buổi lễ Công Lý Hòa bình vào 8 giờ tối Chúa nhật cuối tháng, một thánh lễ quy tụ trên 3.000 người ở tại Sài Gòn và Hà Nội cũng vậy.

Có đến 80% người tham dự là những người biết rõ và họ chủ động tìm đến để được giáo huấn theo cách như vậy chứ không phải chỉ đi lễ như một giáo dân bình thường vào ngày Chúa Nhật.

Mặc Lâm: Xin linh mục cho biết những hoạt động dấn thân, những bài giảng thiết thực với đời sống rõ ràng là đụng đến vấn đề mà nhà nước cho là nhạy cảm. Chính quyền đã có những hành động nào để ngăn chặn hay cản trở hay không?

LM Lê Ngọc Thanh: Trước đây khi chúng tôi bắt đầu những chia sẻ như vậy với giáo dân thì họ dùng những tờ truyền đơn dán vào các cột điện, gốc cây trong khu vực nhà thờ. Họ rải trong sân nhà thờ, họ rải trong khu xóm, trong quán ăn để nói xấu và lên án các cha. Họ không dừng lại ở việc lên án về nội dung bài giảng, họ bắt đầu vu khống kể cả việc dựng đứng lên họ nói đó là đời sống vô đạo đức của các cha như vậy.

Riêng đối với nhà cầm quyền thì có một lần họ đã chất vấn về tính hợp pháp của website chúng tôi, còn về tòa giảng thì họ chỉ nói với cá nhân linh mục này, với cá nhân cha kia để gây sự chia rẻ trong nội bộ của anh em chúng tôi và cũng có dùng nhóm giáo dân này nhóm giáo dân kia chống lại nhau. Nhưng có thể nói rằng là những tác động giảm dần và đến bây giờ không còn tác động gì nữa cả.

Mặc Lâm: Xin cám ơn linh mục Lê Ngọc Thanh.

Giới thiệu sách ‘Chân Dung H.O.’ trở thành một buổi hội ngộ H.O.

Giới thiệu sách ‘Chân Dung H.O.’ trở thành một buổi hội ngộ H.O.

Nguoi-viet.com

Nguyên Huy/Người Việt

WESTMINSTER, California (NV)Cả phòng sinh hoạt nhật báo Người Việt đầy kín, không còn một chỗ trống, cựu tù nhân cải tạo mang danh H.O. tấp nập đến tham dự buổi giới thiệu cuốn sách mới xuất bản của hai nhà văn Huy Phương và Võ Hương An, “Chân Dung H.O. và Những Cuộc Đổi Đời” vào chiều Chủ Nhật, 10 Tháng Năm.

Tác giả Võ Hương An (trái) giới thiệu một cựu tù Cộng Sản còn giữ được một
tấm bảng đeo ngực có chữ H.O. của cơ quan IOM khi ra phi trường
xuất cảnh đi Hoa Kỳ. (Hình: Nguyên Huy/Người Việt)

Số anh em H.O. đến tấp nập ngay trước giờ khai mạc khiến không khí buổi giới thiệu sách như một buổi hội ngộ của các cựu tù nhân “cải tạo.”

Có lẽ trong số khách tham dự có rất ít người không là H.O. nên buổi giới thiệu sách không chỉ là những mục thường có như giới thiệu tác giả, giới thiệu nội dung tác phẩm, nhận xét về tác phẩm của bạn bè thân hữu.

Buổi giới thiệu sách này lại rơi vào một buổi hội ngộ H.O. khi các diễn giả như Giáo Sư Phạm Cao Dương và ký mục gia Bùi Bảo Trúc đề cập đến vấn đề H.O. như một sự kiện lịch sử, khi tác giả Huy Phương giới thiệu đến một số H.O. tham dự, vừa từng là thân hữu của tác giả, vừa là những H.O. có những hoàn cảnh rất đặc thù trong cuộc đổi đời khốc liệt trong lịch sử dân tộc Việt Nam.

Giáo Sư Phạm Cao Dương đã nhận định sâu sắc rằng, cuốn sách là một tác phẩm của lịch sử. Nó động đến rất nhiều khía cạnh của một giai đoạn lịch sử trong đó lớp người từng là những anh hùng an dân cứu nước, “được cải tạo” thành những tên “ngụy quân” có tội “trời không dung đất không tha” phải bị giam giữ trong các “hỏa ngục đỏ.”

Sau đó, họ lại “được cải tạo” trở thành những công dân của một nước “hùng mạnh, văn minh nhất thế giới.” Sau hai lần “cải tạo,” những H.O. này đã được đi từ nơi “hỏa ngục” đến chốn “thiên đàng.” Cuộc đổi đời của họ ảnh hưởng sâu rộng đến thế hệ sau là lớp con cháu của họ. Lần “cải tạo” đổi đời thứ nhất cho con cháu họ hiểu thế nào là tự do, thế nào là Cộng Sản, thế nào là hạnh phúc, thế nào là đói khổ, thế nào là quyền sống, quyền được giáo dục, quyền được làm việc, nghĩa là quyền được làm người. Đến lần “cải tạo” thứ hai thì lớp con em đã được huấn luyện trong những lò luyện bằng đau khổ, áp bức, bất công, phi nhân trước đó, nay được bà “tiên tự do” hóa phép cho được hưởng cuộc đời mới mà tương lai nằm trong tầm tay của mình.

Đại diện cho lớp trẻ này là cô Jocelyn Nguyễn, ái nữ của ông Nguyễn Văn Đán, một cựu tù H.O. Cô phát biểu rất rành rọt và lưu loát bằng tiếng Việt dù cô đến Mỹ mới có 6 tuổi.

Cô Jocelyn Nguyễn phát biểu. (Hình: Nguyên Huy/Người Việt)

Khi được mời lên phát biểu, cô đã “Thưa các bác, các chú” rồi kể rằng khi cô cùng gia đình được ra phi trường đi Mỹ thì cả nhà đều khóc. Trong con mắt của đứa trẻ mới 6 tuổi cô đã hiểu rằng đó là những giọt nước mắt hòa trộn nhiều tâm trạng, tâm trạng lo âu có thể bị ngưng chuyến đi, bị bắt lại, có thể là tâm trạng của cha mẹ khi phải rời bỏ quê hương mà không biết có ngày trở lại hay không, tâm trạng lo âu về một tương lai chưa biết thế nào… Nay thì mọi sự đã qua, cô đã hiểu nguyên do vì đâu cô được có mặt trên phần đất thiên đàng này và cô đã không ngớt nói điều này với những bạn bè cùng thế hệ với cô.

Trước những phát biểu của thế hệ con em H.O., ký mục gia Bùi Bảo Trúc nhận định “đây là những chứng nhân của một giai đoạn lịch sử dân tộc.”

Phần văn nghệ phụ diễn không có những ca nhạc sĩ mà bằng những trình bày một vài ca khúc của các H.O. làm ở trong tù bầy tỏ tâm trạng của mình đã được thu vào các CD.

Bài “Anh Ở Đây” của nhà thơ Thục Vũ được phổ nhạc, được ban tổ chức cho phát lên. Cả hội trường hàng trăm người đã yên lặng lắng nghe để hồi tưởng lại những ngày ở trong ngục tù Cộng Sản.

Cũng thế, bài thứ hai là “Hai Hàng Cây So Đũa,” thơ Nguyên Huy, nhạc Trọng Minh, diễn tả tâm trạng của người tù được vợ con thăm lần cuối trước khi lên đường vào Biển Đông đem con đi tìm tự do.

Trở lại với tác phẩm “Chân Dung H.O. và Những Cuộc Đổi Đời” của Huy Phương và Võ Hương An, đó là một tập tài liệu khá phong phú về chương trình H.O. kể cả về tài liệu, tiến trình hình thành chương trình này và những cuộc đổi đời từ trên những đau thương đổ nát để xây dựng nên những cơ ngơi dù chưa huy hoàng nhưng cũng đã là những bệ phóng cho tuổi trẻ Việt Nam vươn cao ở xứ người.

Các diễn giả đều đưa ra nhận xét rằng tác phẩm được trình bày khúc chiết rõ rệt qua lời văn súc tích của các tác giả. Đó là một tác phẩm không chỉ để đọc mà thôi mà còn là một tài liệu, một chứng tích lịch sử cho các thế hệ sau.

Quý độc giả muốn có sách có thể liên lạc (949) 241-0488, hoặc email: xbnamviet@gmail.com.

Bài diễn văn của ông Trọng nhiều hàm ý’

Bài diễn văn của ông Trọng nhiều hàm ý’

Nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đang đấu đá để tranh quyền lãnh đạo?

Một nhà quan sát từ trong nước cho rằng bài diễn văn bế mạc hội nghị trung ương lần thứ 11 hôm 7/5 của ông Trọng nêu ra một loạt các tiêu chuẩn để được vào Ban Chấp hành Trung ương khóa tới là ‘có nhiều hàm ý’.

Hội nghị trung ương 11 đã bàn bạc về các tiêu chí lựa chọn những người vào ban lãnh đạo tối cao của Đảng trong khóa tới.

Nhiều tiêu chí

Trong diễn văn bế mạc, ông Trọng đã nêu một loạt các ‘khuyết điểm’ mà theo ông Đảng ‘kiên quyết không để lọt vào Ban Chấp hành trung ương’, trong đó có: cơ hội chính trị, tham vọng quyền lực, xu nịnh, chạy chọt, vận động cá nhân, tư tưởng cục bộ, phe cánh, lợi ích nhóm, không dám đấu tranh bảo vệ lẽ phải, mị dân, chuyên quyền, độc đoán, trù dập người thẳng thắn đấu tranh, để xảy ra tình trạng mất đoàn kết nội bộ nghiêm trọng, tham nhũng, tiêu cực lớn ở địa phương, đơn vị, không chịu nghiên cứu học hỏi, bảo thủ, trì trệ, làm việc kém hiệu quả, kê khai tài sản không trung thực, có biểu hiện giàu nhanh, nhiều nhà, nhiều đất, nhiều tài sản khác mà không giải trình rõ được nguồn gốc, bản thân và vợ, chồng, con có lối sống thiếu gương mẫu, lợi dụng chức quyền để thu lợi bất chính…

Trao đổi với BBC, Tiến sỹ Phạm Chí Dũng, một nhà quan sát chính trị từ Tp HCM, nhận định rằng ông Trọng đề cập đến tiêu chí ‘không tham vọng quyền lực’ là ‘muốn đề cập đến người vì tham vọng quyền lực mà gom góp cho cá nhân mình’.

“Tham vọng quyền lực thật ra không xấu nếu nó có thể giúp giải quyết những vấn đề cho nhân dân,” ông Dũng giải thích, “Còn tham vọng quyền lực để củng cố địa vị độc tôn cho mình để gom góp lợi ích cho cá nhân, gia đình mình thì điều đó hoàn toàn xấu.”

“Ở Việt Nam bây giờ có quá nhiều nhóm lợi ích.”

” Sắp tới còn có chuyến đi của ông Trọng đến Hoa Kỳ và nếu như ông Trọng được Tổng thống Barack Obama tiếp và thậm chí tiếp đón trọng thị thì lúc đó uy tín của ông Trọng và uy tín của người được ông Trọng đề cử (cho vị trí tổng bí thư) sẽ được nâng lên đáng kể.

Tiến sỹ Phạm Chí Dũng “

“Đối với nhiều người dân đánh giá Đảng Cộng sản chỉ là nhóm lợi ích mà thôi chứ không phải cái gì mang tính chất ý thức hệ như hồi xưa,” ông nói thêm.

Hàm ý nữa mà ông Trọng muốn đề cập tới là ‘cuộc tranh giành đấu đá nội bộ trong Đảng’, theo ông Dũng.

“Những người phe này không chấp nhận những người phe kia tham vọng quyền lực trong khi những người phe này cũng có tham vọng quyền lực,” ông nói.

Không còn giằng co?

Theo nhận định của ông Dũng thì bài diễn văn này cho thấy cuộc đấu đá nội bộ trong Đảng ‘không còn ở thế tương quan giằng co lực lượng như giữa năm trước nữa’.

“Dường như sau diễn văn kỷ niệm ngày 30/4 của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, sau Hội nghị trung ương 11 thì vấn đề tương quan lực lượng khó mà giằng co được nữa mà bên Đảng đang chiếm ưu thế,” ông Dũng nói.

“Theo nhiều người quen của tôi làm trong Nhà nước thì hiếm khi nào họ chứng kiến bài diễn văn nêu ra những từ ngữ như cơ hội, xu nịnh, mị dân của Tổng bí thư Đảng Cộng sản rõ đến như vậy,” ông nói thêm, “Điều đó làm cho người ta có cảm giác ông Trọng nếu không phải ở thế thượng phong thì cũng là đang chiếm ưu thế trong nội bộ Đảng.”

“Sắp tới còn có chuyến đi của ông Trọng đến Hoa Kỳ và nếu như ông Trọng được Tổng thống Barack Obama tiếp và thậm chí tiếp đón trọng thị thì lúc đó uy tín của ông Trọng và uy tín của người được ông Trọng đề cử (cho vị trí tổng bí thư) sẽ được nâng lên đáng kể,” ông Dũng nói.

Kiều hối

Kiều hối

Blog RFA

Nguyễn Vũ Bình

Kiều hối theo định nghĩa là số tiền của người dân một quốc gia đi làm ăn bên ngoài biên giới mang, gửi về đất nước mình. Đối với Việt Nam, đây là một số lượng tiền, ngoại tệ khá lớn, hàng năm trên dưới 10 tỷ đô-la. Theo số liệu thống kê năm 2014, lượng kiều hối về Việt Nam đạt mức 12 tỷ đô-la. Việc xác định ý nghĩa của kiều hối và những vấn đề liên quan cũng giúp hiểu thêm về nên kinh tế Việt nam hiện nay.

Với một lượng tiền trên dưới 10 tỷ đô-la một năm chuyển vào nền kinh tế, mà không cần một yêu cầu, điều kiện nào được các chuyên gia đánh giá rất cao vai trò của lượng kiều hối này. Nhà nước Việt Nam, nhận thức được tầm quan trọng của kiều hối nên đã có một chính sách kiều hối vô cùng thông thoáng và cầu thị. Số lượng không hạn chế với người gửi, mang ngoại tệ về nước. Không yêu cầu chuyển đổi ngoại tệ khi nhận tiền…Về cơ cấu kiều hối được sử dụng, theo phân tích chung nhất, trên 60% số tiền kiều hối được sử dụng vào đầu tư, mua nhà đất, gửi tiết kiệm, mở công ty. Số còn lại, gần 40% giành cho tích lũy và tiêu dùng.

Vai trò của kiều hối trong trường hợp nền kinh tế Việt nam rất đặc biệt và vô cùng quan trọng. Nền kinh tế Việt Nam, tuy bên ngoài và tuyên truyền là nền kinh tế thị trường nhưng thực chất không phải như vậy. Nó không đi theo nguyên lý của nền kinh tế thị trường, đó là sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Ở Việt nam, đất đai thuộc sở hữu toàn dân chính là yếu tố quan trọng để nói, nền kinh tế Việt Nam không theo nguyên lý kinh tế thị trường. Cơ chế thị trường quyết định các yếu tố của quá trình sản xuất cũng không được áp dụng ở Việt Nam. Những mặt hàng thiết yếu như điện, nước, xăng dầu đều do nhà nước quy định về giá cả. Điều quan trọng nhất liên quan tới vấn đề kiều hối, đó là việc nhà nước Việt Nam quyết định việc in tiền hoàn toàn không theo nguyên tắc nào của nền kinh tế thị trường.

Đối với các quốc gia đi theo nền kinh tế thị trường, việc in và phát hành tiền phải tuân thủ các nguyên tắc nghiêm ngặt về lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế. Có hai yếu tố liên quan hữu cơ với số lượng tiền phát hành đưa vào lưu thông. Đó là lượng hàng hóa sản xuất ra và số lượng ngoại tệ đang lưu hành. Ví dụ, nền kinh tế Việt Nam một năm sản xuất được 100 đơn vị hàng hóa, hiện có 50 đơn vị ngoại tệ, thì số tiền phát hành đưa vào lưu thông là 500 đơn vị. Như vậy, tỷ lệ (100 hàng hóa – 50 ngoại tệ – 500 nội tệ) sẽ là tỷ lệ để phát hành tiền đưa vào lưu thông. Đây là nguyên tắc bắt buộc, là kỷ luật sắt trong một nền kinh tế thị trường vì nếu vi phạm nguyên tắc này sẽ xảy ra tình trạng lạm phát, hoặc biến động về tỷ giá dẫn tới méo mó trong toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh, và có thể dẫn tới những đảo lộn lớn cho toàn bộ nền kinh tế. Chính vì vậy mà các nước giám sát và kiểm soát vấn đề này cực kỳ chặt chẽ. Nhưng tại Việt Nam, có thể nói, từ ngày khai sinh ra nhà nước cộng sản Việt Nam, việc in và phát hành tiền là bí mật quốc gia. Nếu như việc in, phát hành tiền tuân thủ các nguyên tắc thì không ai cần giữ bí mật cả. Trên thực tế, việc in tiền ở Việt Nam hoàn toàn tùy tiện, in liên tục và không có một giới hạn nào cả. Chúng ta đều biết, tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam trung bình từ 20-50% và kéo dài hàng mấy chục năm, có những giai đoạn còn lạm phát phi mã. Trong khi ở các nước, lạm phát trung bình và lành mạnh khoảng từ 5-7%/năm.

Nếu như trước đổi mới, hoặc trước hội nhập quy mô của nền kinh tế còn khiêm tốn và ảnh hưởng của lạm phát (tức là việc in tiền vô tội vạ) còn chưa rõ và sức tàn phá còn chưa lớn. Nhưng khi đã hội nhập, quy mô nền kinh tế đã lớn, nhất là mối quan hệ làm ăn, đối tác với các nền kinh tế trên thế giới thì lạm phát sẽ là nỗi kinh hoàng của nền kinh tế. Tuy nhiên, nếu tìm hiểu kỹ, chúng ta thấy, việc in tiền và phát hành tiền của nhà nước Việt Nam vẫn được thực hiện như cũ, có nghĩa là phát hành theo yêu cầu chính trị, khi cần sẽ in tiền ra. Điều kỳ lạ là với một nền kinh tế khủng hoảng từ năm 2008, nền sản xuất bị bóp nghẹt bởi muôn vàn quy định và hàng hóa giá rẻ từ Trung Quốc, mỗi năm có hàng chục ngàn doanh nghiệp phá sản vậy mà lượng tiền in ra và phát hành với số lượng cực lớn mà Việt Nam không bị siêu lạm phát, mặc dù tỷ lệ lạm phát đã rất cao. Đồng thời tỷ giá hối đoái cũng không hề tăng đột biến.

Câu trả lời cho việc nền kinh tế không bị siêu lạm phát, trong khi lượng hàng hóa sản xuất ở Việt Nam hoàn toàn không tương xứng với lượng tiền in ra là Việt Nam ở sát cạnh Trung Quốc, hàng năm nhập khẩu số lượng cực lớn hàng giá rẻ, chất lượng thấp, theo cả đường chính ngạch và tiểu ngạch. Theo số liệu công bố năm 2014 vừa qua, thì Việt nam công bố nhập của Trung Quốc 43,9 tỷ đô-la. Nhưng phía Trung Quốc lại công bố con số xuất khẩu sang Việt nam là 63,8 tỷ đô-la. Như vậy, lượng hàng hóa nhập khẩu cực lớn, giá rẻ chất lượng thấp đã tiêu diệt nền kinh tế Việt Nam nhưng lại giúp nhà cầm quyền Việt Nam in tiền vô tội vạ mà không bị siêu lạm phát. Điều này cũng phản ánh sự lệ thuộc của nền kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế Trung Quốc là rất lớn. Nhưng sự lệ thuộc này còn ít người nói tới.

Về câu hỏi, lượng tiền in ra và phát hành rất lớn của nhà nước Việt Nam nhưng lại không có đột biến trong tỷ giá hối đoái chúng ta tìm thấy câu trả lời trong vấn đề kiều hối, cùng với lượng ngoại tệ từ đầu tư nước ngoài FDI, từ viện trợ phát triển ODA. Đó chính là ý nghĩa lớn nhất của kiều hối đối với nền kinh tế Việt Nam. Một lượng tiền trên dưới 10 tỷ đô-la trong những năm gần đây giúp nhà nước Việt Nam in ra một số lượng tương đương lớn hơn để sử dụng và đưa vào lưu thông. Có những ý kiến cho rằng, cần kêu gọi ngăn nguồn kiều hối, đồng bào không gửi tiền về Việt Nam nữa. Tôi cho rằng việc này không thực hiện được và có lẽ không cần thiết. Chúng ta biết rằng, nhà nước Việt Nam hiện nay, toàn quyền khai thác khoáng sản và tài nguyên thiên nhiên để bán, in tiền vô tội vạ, thu thuế, phí cao nhất Đông Nam Á…tức là không còn lợi thế gì người ta không khai thác, không tận dụng vậy mà với mức chi tiêu hiện nay, tham nhũng, lãng phí đến mức độ số nợ đang gấp đôi GDP hoàn toàn không có khả năng thanh toán, trong khi nền kinh tế làm ra không đủ chi tiêu trong hiện tại. Chính vì vậy chúng ta không cần phải kêu gọi, vận động một việc rất nhỏ (và khó thực hiện được) so với tình trạng đại suy thoái và khủng hoảng của Việt Nam hiện nay./.

Hơn một chục ngân hàng của Việt Nam sẽ biến mất

Hơn một chục ngân hàng của Việt Nam sẽ biến mất

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV)Tiến trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ còn tiếp tục sôi động trong thời gian tới, với khoảng 10 ngân hàng nữa sẽ bị xóa tên khỏi thị trường.

Ngày 7 tháng 5, Dân Trí loan tin, theo nhận định của công ty chứng khoán Ngân hàng BIDV (BSC), tiến trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng ở Việt Nam sẽ còn tiếp tục sôi động trong thời gian tới, nhằm đạt mục tiêu của Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam (NHNN) là sẽ rút gọn số lượng ngân hàng thương mại (NHTM) xuống cỏn khoảng 20 trong toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam.


Ngân hàng Ðại Dương (OceanBank) sẽ biến mất khỏi hệ thống ngân hàng Việt Nam. (Hình: Dân Trí)

Theo đó, nhiều cặp đôi ngân hàng cũng sẽ tiếp tục được sáp nhập. Cụ thể như Ngân hàng Nam Á (NamABank) và Ngân hàng Xuất nhập khẩu (Eximbank); Ngân hàng An Bình (ABBank) và ngân hàng Ðông Á (DongABank); Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) và ngân hàng Phương Nam (SouthernBank)…

Trong tháng 4, 2015 vừa rồi, vấn đề tái cơ cấu hệ thống ngân hàng đã được tiến hành rất mạnh mẽ. Ðiển hình là kế hoạch cho việc sáp nhập Ngân hàng Thương mại Công thương Việt Nam (VietinBank) với Ngân hàng Thương mại Xăng dầu Petrolimex (PGBank) và Ngân hàng Thương mại Ðầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) với Ngân hàng Thương mại Phát triển Nhà Ðồng bằng sông Cửu Long (MHB).

Ngoài ra, NHNN cũng đã thông báo mua lại Ngân hàng Ðại Dương (OceanBank) với giá 0 đồng do OceanBank không có các giải pháp khả thi để tăng vốn điều lệ bảo đảm mức vốn pháp định theo yêu cầu của NHNN. VietinBank được NHNN chỉ định tham gia quản trị, điều hành OceanBank. Trước đó, NHNN cũng đã mua lại Ngân hàng Xây dựng (VNCB) với giá 0 đồng và giao Vietcombank tham gia quản trị, điều hành.

Tin cho hay, một thông tin đáng chú ý khác là chính phủ CSVN cũng đã chỉ đạo NHNN và các cơ quan liên quan nghiên cứu sửa đổi quy định theo hướng tăng tỷ lệ sở hữu tối đa 30% hiện tại của các nhà đầu tư nước ngoài tại các NHTM của Việt Nam. (Tr.N)

Công ty Google mở trường đại học đầu tiên ở châu Á

Công ty Google mở trường đại học đầu tiên ở châu Á

Google quyết định chọn Seoul bởi vì ở đó tốc độ Internet nằm trong số nhanh nhất.

Google quyết định chọn Seoul bởi vì ở đó tốc độ Internet nằm trong số nhanh nhất.

Briden Padden

Hôm nay tại Seoul, công ty Google khai trương đại học đầu tiên ở châu Á nhằm hỗ trợ cho các doanh nhân khởi nghiệp.

Google hy vọng dự án mới sẽ giúp các chương trình và ứng dụng kỹ thuật cao của Triều Tiên tiếp cận được thị trường thế giới, và giúp Google tiếp cận thêm với thị trường Triều Tiên.

So với khu cao ốc trải rộng và những khoảng trống xanh cấu thành khuôn viên chính và trụ sở tổng công ty Google tại thung lũng Silicon ở tiểu bang California, thì “Đại học Seoul, một Không gian Google” chỉ là một dự án nhỏ.

Tọa lạc trong một cao ốc văn phòng ở khu Gangnam sang trọng, trường gồm 2 ngàn mét vuông không gian dành cho văn phòng để các nhà kinh doanh Internet Triều Tiên làm việc.

Nhưng hy vọng Google đặt vào cơ sở này lớn hơn nhiều so với kích thước của nó. Công ty muốn biến nó thành nơi hun đúc sáng kiến ở châu Á.

Bà Mary Grove, giám đốc Google dành cho các nhà Kinh doanh, nói tại Đại học Seoul, các mầm non phát triển chương trình Internet  sẽ được khuyến khích, hướng dẫn và dành cho các cơ hội để lập mạng lưới, và giúp tìm các nhà đầu tư. Bầu không khí hỗ trợ mà Google cung cấp miễn phí này, theo bà, còn giúp công ty xâm nhập thị trường Triều Tiên.

Bà nói: “Google cũng có lợi khi những công ty mới ra lò thành công. Chúng tôi hiểu càng lập được nhiều công ty mới, các công ty lên mạng, sử dụng Internet, sử dụng Google, sử dụng các sản phẩm của Google. Điều đó cũng có lợi cho chúng tôi.”

Nam Triều Tiên là một trong số ít các nước trên thế giới nơi Google không phải là công cụ tìm kiếm Internet hàng đầu. Công ty Naver của Hàn quốc chiếm lĩnh thị trường đó.

Google có các cơ sở tương tự ở London và Tel Aviv, nhưng đây là dự án đầu tiên thuộc loại này ở châu Á.

Trong 3 năm hoạt động ở London, trường đại học Google đã giúp các công ty vừa khởi nghiệp thu hút trên 110 triệu đôla vốn đầu tư và tạo dựng 18 ngàn công ăn việc làm mới.

Một trong các thành viên của Trường Đại học Google ở Seoul là April Kim, người mở một công ty dịch thuật dựa vào Internet có tên là Chatting Cat.  Cô nói cô thích không gian làm việc và những khu hội nghị.

Cô nói điều hay hơn nữa là họ có thể chia sẻ thông tin và những mối quan tâm với những người vừa khởi sự kinh doanh trong khuôn viên đại học, và đây là một động cơ tích cực cho mọi người.

Google quyết định chọn Seoul bởi vì ở đó tốc độ Internet nằm trong số nhanh nhất, và một tập thể kỹ sư có trình độ học thức cao và nhiều tài năng, và ở trong số có tỷ lệ người sử dụng điện thoại thông minh cao nhất thế giới.

Ông Jung-min Lim, giám đốc Đại học Seoul nói chính phủ Nam Triều Tiên cũng tạo điều kiện dễ dàng để khởi sự các dự án kinh doanh mới.

Ông nói cách đây vài năm chính phủ Nam Triều Tiên đã dẹp bỏ nhiều luật lệ cho các cơ sở kinh doanh mới và cung cấp các chính sách ủng hộ các công ty mới.

Tổng thống Park Geun-hye có mặt tại lễ khai trương Đại học Seoul. Năm 2013, chính quyền của bà đã chuẩn chi 3 tỷ đôla để hỗ trợ cho các công ty kỹ thuật cao mới tăng trưởng và cạnh tranh trên thị trường toàn cầu.

Mỹ áp lực Việt Nam cải thiện nhân quyền để vào TPP

Mỹ áp lực Việt Nam cải thiện nhân quyền để vào TPP

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) .- Chính phủ Hoa Kỳ gây áp lực nhà cầm quyền Việt Nam phải cải thiện nhân quyền bằng hành động cụ thể để có thể tham gia hiệp định Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) hiện đang được hai bên đàm phán.

Phái đoàn Hoa Kỳ chụp hình chung với đại diện xã hội dân sự tại Việt Nam ngày 6/5/2015 trước cuộc đối thoại nhân quyền với nhà cầm quyền CSVN tại Hà Nội. (Hình của Tòa đại sứ Hoa Kỳ)

“Chính phủ Hoa Kỳ dùng cuộc đối thoại nhân quyền với Việt Nam để yêu cầu nước này có những cải thiện nhân quyền cụ thể hầu có thể gia nhập được tổ chức Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương mà Việt Nam đang đàm phán và rất mong muốn kết thúc.”

Luật sư Nguyễn Văn Đài, một luật sư nhân quyền từng bị nhà cầm quyền CSVN bỏ tù và tước quyền hành nghề hiện đang ở Hà Nội, cho nhật báo Người Việt hay như vậy trong cuộc phỏng vấn qua điện thoại hôm Thứ Sáu 8/5/2015.

Trong cuộc tiếp xúc riêng với ông Tom Malinowski, phụ tá Ngoại trưởng Hoa Kỳ đặc trách Dân Chủ, Nhân Quyền và Lao Động, một ngày trước khi phái đoàn hai nước gặp nhau, ông Nguyễn Văn Đài cho hay ông đã trình bày những khó khăn của các cá nhân và tổ chức xã hội dân sự trong các cuộc vận động dân chủ hóa đất nước.

Theo ông, luật lệ của Việt Nam có nhiều điều trái với thông lệ quốc tế. Luật hình sự có nhiều điều dùng để bỏ tù người dân trong khi hiến pháp công nhận các quyền tự do căn bản của dân. Chỉ riêng sự cấm cản người dân đi lại trong nước cũng như xuất ngoại một cách tùy tiện với những ai họ thấy không muốn cho, bất chấp luật lệ, là một trong những cái cần phải loại bỏ.

Luật sư Nguyễn Văn Đài và rất nhiều người khác vận động nhân quyền và dân chủ hóa đất nước từng bị cấm ra khỏi nhà, bị đập phá nhà, bị công an đánh đổ máu, vỡ đầu ngay trên đường phố. Một số người còn bị công an tông xe gắn máy, thương tích trầm trọng.

Ông Đài cho hay ông Malinowski đã ghi nhận các ý kiến của ông cũng như của đại diện các tổ chức xã hội dân sự và sẽ đem thảo luận với đại diện nhà cầm quyền CSVN. Dịp này, ông xác nhận sẽ thúc đẩy Hà Nội phải có các hành động chứng tỏ họ có cải thiện nhân quyền thật sự để cuộc đàm phán TPP có thể kết thúc thành công.

Song song với cuộc tiếp xúc hôm 6/5/2015 với các tổ chức xã hội dân sự của phái đoàn ông phụ tá Malinowski, một phái đoàn dân biểu Hoa Kỳ cũng đi nhiều nơi tiếp xúc với các tổ chức tôn giáo độc lập và các người bất đồng chính kiến, ghi nhận các phản ảnh của họ về sự đàn áp nhân quyền tại Việt Nam và nghe những đề nghị cần làm để người dân Việt Nam có nhân quyền thật sự.

Phái đoàn dân biểu Alan Lowenthal đã gặp một số người ở Sài Gòn như Hòa thượng Thích Quảng Độ, tăng thống Giáo hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, bác sĩ Nguyễn Đan Quế, chủ tịch Cao Trào Nhân Bản Việt Nam, thạc sĩ tin học Nguyễn Tiến Trung v.v….

Trong cuộc phỏng vấn truyền thanh của đài RFA, dân biểu Lowenthal cho hay, theo ông “sẽ không có bất cứ một hiệp định nào được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua nếu vấn đề nhân quyền chưa được cải thiện từ phía Việt Nam”.

Theo bản thông cáo báo chí của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, phái đoàn ông phụ tá Alan Molinowski đối thoại với đại diện của nhà cầm quyền CSVN hôm 7/5/2015 về nhiều mặt như tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, quyền của người lao động, người khuyết tật, cải tổ luật pháp cũng như tăng cường hợp tác đa phương về nhân quyền.

Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) hôm Thứ Sáu đưa tin về cuộc đối thoại nhân quyền vòng 19 tại Hà Nội trong đó phía CSVN, do ông Vũ Anh Quang, Vụ trưởng Vụ các Tổ chức quốc tế, Bộ Ngoại giao làm trưởng đoàn và có sự tham gia của đại diện Văn phòng Chính phủ, Bộ Công an, Tòa án Nhân dân Tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Bộ Thông tin và Truyền thông, Ban Tôn giáo Chính phủ.

TTXVN viết rằng “Hai bên đã thông báo cho nhau các nỗ lực, thành tựu, cũng như các thách thức của mỗi nước trong việc thúc đẩy và bảo đảm các quyền con người; trao đổi về tất cả các lĩnh vực quyền con người cùng quan tâm, đặc biệt tập trung vào các vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền, quá trình cải cách tư pháp, quyền tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, quyền của người lao động, quyền của người khuyết tật.”

Bản tin năm ngoái về cuộc đối thoại nhân quyền vòng 18 tại Washington DC, TTXVN viết cuộc đối thoại  “nhằm giúp hai nước tăng cường hiểu biết, thu hẹp khác biệt về lĩnh vực nhân quyền, góp phần thúc đẩy quan hệ Đối tác toàn diện Việt Nam – Hoa Kỳ”.

Năm nay không thấy còn “thu hẹp khác biệt” gì nữa mà như vẻ ngầm cho hiểu là Hà Nội “nhất trí” theo các yêu cầu của Washington. Tuy nhiên, theo luật sư Nguyễn Văn Đài, mức độ mở rộng thêm nhân quyền của nhà cầm quyền CSVN chưa biết sẽ có những gì cụ thể. Vì các dấu hiệu cho thấy họ không loại bỏ các điều luật hình sự mơ hồ như 79, 88, 245, 258 dùng để bỏ tù các người bất đồng chính kiến hoặc sử dụng mạng xã hội để bầy tỏ chính kiến cá nhân.

“Ông Malinowski hứa rằng trong cuộc đối thoại, ông sẽ thúc đẩy rất nhiều để Việt Nam phải cải thiện nhân quyền mọi mặt trong đó có cả quyền cấm cản người dân đi lại, và quyền xuất cảnh”. Luật sư Đài nói với Người Việt. (TN)

Những bà mẹ già không cô đơn

Những bà mẹ già không cô đơn

Hòa Ái, phóng viên RFA
2015-05-09

IMG_1308-622.jpgNhà dưỡng lão Woodland Hill Senior Housing ở thành phố Arlington, bang Virginia, ảnh chụp hôm 8/5/2015.

RFA PHOTO/Hòa Ái

Your browser does not support the audio element.

Ngày “Mother Day”, Lễ Mẹ ở Hoa Kỳ là dịp những người con tri ân và cảm tạ tình mẫu mẫu tử thiêng liêng. Nhân ngày Lễ Mẹ năm nay, mời quý vị cùng Hòa Ái đến thăm các bà mẹ ở tuổi gần đất xa trời trong viện dưỡng lão cũng như tìm hiểu về cuộc sống buồn vui của họ qua những tháng ngày không ở cạnh người thân.

Có bạn bè, cảm thấy vui hơn

Đặt chân đến tòa nhà dưỡng lão Woodland Hill Senior Housing ở thành phố Arlington, bang Virginia vào một buổi chiều xuân trước ngày lễ dành cho các bà mẹ trong tâm trạng ngỡ ngàng. Nhà dưỡng lão nơi đây là một tòa nhà bê tông kiên cố với hàng trăm căn hộ được bao bọc xung quanh bởi nhiều cây xanh rợp bóng mát, tiếng chim thánh thót quyện trong ánh nắng vàng ngọt của buổi chiều tà ánh trên những bông hoa nhiều màu đang khoe sắc. Tiếng cười nói rộn ràng của những cụ bà người Việt trong sảnh tiếp tân vẳng ra đến tận sân đậu xe của nhà dưỡng lão.

Nhà dưỡng lão mà người Việt ở Mỹ quen gọi là “nhà già” thường gợi lên cảm tưởng đó là một nơi rất cô đơn. Tuy nhiên, ngôi nhà già của gần một trăm cụ bà mà Hòa Ái đến thăm hoàn toàn khác biệt.

” Có gì đâu trở ngại, ở một mình thì chịu thôi. Ở đây cũng vui vì có bạn bè nhiều. Ở nhà con cháu đi làm nên có một mình thôi. Còn ở đây có bạn bè, cảm thấy vui hơn. Nói chuyện vui, có khi nói chuyện nấu ăn, đi chợ này kia nọ…
-Bà Hoa Lưu”

Những bà cụ này đến từ mọi miền trên lãnh thổ rộng lớn Hòa Kỳ. Họ khác nhau về tuổi tác, hoàn cảnh cũng như tình trạng sức khỏe nhưng họ đều có một điểm tương đồng là tận hưởng từng giây phút vui vẻ cùng nhau.

Hòa Ái may mắn tiếp xúc được với nhiều cụ bà đang ngồi hàn huyên trong sảnh tiếp tân. Nhiều cụ đang chờ con cháu ghé qua thăm, chia sẻ rằng mỗi chiều đều có người nhà đến vì con cháu đông đúc quá. Có những cụ không có người thân ở gần nhưng không thấy buồn tủi hay chạnh lòng chi cả vì các cụ rôm rả nói cười, bàn luận nhiều đề tài thật đơn giản nhưng vô cùng quan trọng đối với họ như phải uống nhiều nước, ăn nhiều trái cây, bớt ăn cơm lại, giảm đường, giảm mặn và nhớ tập thể dục đều đặn…Bà cụ Hoa Lưu, 92 tuổi, ở trong nhà già được 6 tháng, cho biết cuộc sống mới của bà ra sao:

“Có gì đâu trở ngại, ở một mình thì chịu thôi. Ở đây cũng vui vì có bạn bè nhiều. Ở nhà con cháu đi làm nên có một mình thôi. Còn ở đây có bạn bè, cảm thấy vui hơn. Nói chuyện vui, có khi nói chuyện nấu ăn, đi chợ này kia nọ…”

IMG_1311-400.jpg

Nhà dưỡng lão Woodland Hill Senior Housing ở thành phố Arlington, bang Virginia, ảnh chụp hôm 8/5/2015. RFA PHOTO/Hòa Ái.

Câu nói “ở một mình thì chịu thôi” trong âm hưởng của tiếng cười giòn tan không nói lên sự than thân trách phận. Dù 92 tuổi bà cụ Hoa Lưu vẫn có thể chăm sóc bản thân. Bà kể lại chi tiết hằng ngày tự nấu ăn. Một tuần có xe buýt chở đi khắp các chợ. Và nhà già cho thức ăn miễn phí một lần/tuần nên các cụ thường nấu và mang xuống nhà ăn tập thể để ăn chung. Cuối tuần còn được chở đi chơi đây đó, tham quan các viện bảo tàng, thăm những thắng cảnh thiên nhiên cũng như đi đến các công viên quốc gia trong thời tiết ấm áp.

Trả lời câu hỏi của Hòa Ái những chuyến đi cùng các hoạt động ngoài trời có nhiều cụ bà tham gia hay không, cụ Đính Nguyễn, 94 tuổi, cho biết rất thích tham gia nhưng bây giờ lớn tuổi nên muốn dành nhiều thời gian cho con cháu vào cuối tuần. Bà cụ Đính Nguyễn còn chia sẻ là rất vui vì mỗi ngày sáng tối đều có người chăm sóc nói tiếng Việt ở bên cạnh mình, giúp nấu ăn, giặt giũ, lau chùi và trò chuyện. Bà nói:

“Tôi giờ già rồi, chín mươi mấy tuổi, sắp trăm tuổi rồi, không còn nhớ lắm đâu. Các cô tốt với tôi lắm, nhắc nhớ ăn uống suốt. Ở đây trò chuyện, hội đàm vui lắm. Cảm ơn chính phủ Mỹ có lòng tốt với những người già.”

Đề cập đến vấn đề sức khỏe, các cụ cho biết không có gì lo lắng. Khi cần đi khám bệnh thì có nhân viên xã hội người Việt đến đưa đón và thông dịch. Dược sĩ người Việt giao thuốc đến tận nơi ở. Còn trường hợp khẩn cấp thì chỉ cần thực hành một bước đơn giản. Cụ bà Cẩm Vân, 80 tuổi, ở nhà già 20 năm, giải thích:

“Ở đây đầy đủ phương tiện. Ở trong nhà này cho mình đeo cái thẻ ‘emergency’ (thẻ cấp cứu), bất cứ lúc nào có xỉu, có gì thì mình bấm vào cái thẻ thì nhà thương chạy tới. Khỏi cần kêu ai hết, bấm cái thẻ đó thôi.”

Mong ước khi chết được bình thản

” Ở tuổi này không còn ước ao gì. Chỉ muốn khi chết không có lẫn lộn, không bị bệnh hoạn thôi.
-Bà Nguyễn Thị Vân”

Hòa Ái được các cụ nhiệt tình dắt tham quan từng căn hộ, nơi các cụ an dưỡng tuổi già. Tòa nhà được thiết kế một cách có hệ thống và tiện lợi với phòng tập thể dục, phòng giải trí đánh bóng bàn, bi-da… phòng họp mặt và còn có phòng vi tính để các cụ kết nối với xã hội bên ngoài. Mỗi căn hộ của các cụ được bày trí đơn sơ, ngăn nắp. Và những căn hộ yên ắng này luôn nhộn nhịp mỗi dịp lễ lạc như Noel hay Tết cổ truyền. Nhiều hội đoàn đến thăm hỏi với nhiều lời chúc tụng cùng những bữa ăn đầm ấm sum vầy.

Vì thuộc trong nhóm sắc dân đông nhất ở ngôi nhà già Woodland Hill Senior Housing, các cụ còn được ban quản lý ưu ái cho phép sử dụng khoảng đất trống ở sân sau, trồng dăm loại rau, vài bụi hành để nhắc nhớ về quang cảnh cùng hương vị nơi quê nhà xa lắc.

Giải đáp thắc mắc của Hòa Ái tại sao các cụ không chọn ở cùng con cháu để họ được gần gũi báo hiếu, hầu hết các cụ bà cho biết họ chọn một cuộc sống tự do, thoải mái sau khi cả đời đã tận tụy làm tròn bổn phận với người thân. Bà cụ Nguyễn Thị Vân, người cao tuổi nhất ở đây, 102 tuổi, kể lại gia đình bà có 5 đời ở Hoa Kỳ. Khi bà muốn vào nhà già ở, từ con đến chắt đều bịn rịn, níu kéo nhưng không bao lâu sau họ nhận ra quyết định của bà là đúng đắn. Lão bà Nguyễn Thị Vân chia sẻ:

“Ở tuổi này không còn ước ao gì. Chỉ muốn khi chết không có lẫn lộn, không bị bệnh hoạn thôi.”

Thỏa lòng với cuộc sống nơi xứ người ở tuổi đời gần đất xa trời, các cụ bà trong nhà già mà Hòa Ái đến thăm hầu như không ao ước gì hơn ngoài thực tại mỗi ngày đều là một ngày vui. Tuy nhiên, khi nghe đến 2 chữ “Việt Nam”, các cụ bà đều đồng thanh mong muốn một ngày về thăm lại làng quê, bà con, họ hàng thêm một lần trước khi họ vĩnh biệt cho chuyến đi cuối cùng trở về cát bụi.

Chia tay trong lưu luyến người cháu gái phóng viên không quen biết, những lão bà với gương mặt hiền lành như những bà tiên trong truyện cổ tích tươi cười dặn dò ‘nhớ giữ gìn sức khỏe và hẹn ngày gặp lại”. Hòa Ái vẫy tay tạm biệt với lòng thầm mong tất cả những bà mẹ VN trong các nhà dưỡng lão khắp nơi mỗi ngày qua đi đều không cô đơn và hạnh phúc như vậy.

Tin mừng cho Thương Phế Binh VNCH

Tin mừng cho Thương Phế Binh VNCH

Cánh Dù lộng gió (Danlambao) – Mới đây sau khi họp Thượng Viện Hoa Kỳ xong Bà Janet Nguyễn người Mỹ gốc Việt đã thông báo một tin rất mừng cho Anh Em TPB/QLVNCH còn sót lại tại VN: “Thượng Viện Mỹ đã thông qua Nghị Quyết SJR5 về việc cho phép TPB/VNCH và gia đình được đi định cư tại Hoa Kỳ. Chỉ còn chờ Hạ Viện Mỹ đang họp thông qua chuyển lên cho Tổng Thống Mỹ duyệt là chương trình HO&ODP sẽ được tiếp tục khởi động lại.

Họ là những người bị bỏ quên, bị ngược đãi sau 40 năm chấm dứt cuộc chiến. Họ là những người ngã Ngựa đã hy sinh một phần thân thể cho miền Nam được hưởng những ngày Tự Do trước năm 1975, với họ phải nói là những người bị thiệt thòi nhất, mù mắt, mất chân, tay, thương tật khắp người, có những người mấy chục năm nay vẫn nằm liệt trên giường choét cả phần lưng, mông. Đương nhiên họ trở thành gánh nặng bất đắc dĩ cho những thành viên trong gia đình.

Những người còn lê lết được thì ban ngày đi bán vé số, bán nhang, bán bàn chải, bán mọi thứ kể cả đi ăn xin để kiếm sống qua ngày, số phận họ tùy thuộc vào lòng thương hại của bá tánh giúp đỡ.

Chính họ đã từng sát cánh với những người bạn Đồng Minh chặn đứng làn sóng Đỏ trước năm 1975.

Sau khi VNCH bị ông bạn Đồng Minh thí Chốt bỏ rơi thì một số đông các cựu viên chức trong chính phủ VNCH đã bị tập trung cải tạo, bù lại họ đã được phía Mỹ can thiệp cho đi định cư cả hơn 10 năm nay rồi.

Còn các Anh Em TPB/VNCH thì bị đối xử phân biệt, CSVN coi họ như những người gây tội ác, có nợ máu với họ, tuy không còn nguy hiểm cho chế độ, nhưng họ vẫn không bao giờ quên lòng thù hận, không giúp đỡ, không hỗ trợ, không có bảo hiểm sức khỏe, mọi thứ trong cuộc sống người TPB/VNCH hầu như tự túc hết, đói khát, bệnh hoạn ráng mà tự lo lấy thân.

40 năm trở thành Công Dân loại 3 (loại 2 là người Dân thường), bị thiệt thòi, bị bỏ rơi, bị khinh bỉ, bị nhục mạ, bị phân biệt đối xử, nhưng họ vẫn cắn răng chịu đựng cho dù sống một cách cơ cực trăm bề, lây lất, lê lết kiếm ăn từng bữa. Với họ sức khỏe dù giới hạn nhưng họ vẫn cố gắng bước đi bằng chiếc nạng gỗ hay chiếc xe lăn để mong kiếm những đồng tiền ít ỏi nuôi thân và phụ giúp gia đình, bớt đi gánh nặng cho vợ con.

Mong rằng chính phủ Hoa Kỳ vì lý do Nhân Đạo thông qua Nghị Quyết này một cách nhanh chóng để vơi đi bớt phần nào đau khổ cho các Anh Em TPB/VNCH, cũng như con cháu của các Anh Em được có điều kiện qua học tập nơi đất Nước Tự Do, không còn bị phân biệt đối xử.

Đôi lời trong thánh lễ kỷ niệm 40 năm Giám mục.

Đôi lời trong thánh lễ kỷ niệm 40 năm Giám mục.

Tác giả bài viết: ĐGM. GB Bùi Tuần

Thánh lễ kỷ niệm 40 năm Giám mục của tôi hôm nay là một hồng ân lớn lao Chúa ban cho tôi.

1-

*Hồng Ân lớn lao, vì qua Lễ Thụ Phong Giám Mục trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975, tôi nhận ra sự Chúa sai tôi vào lịch sử Việt Nam, ngay trong giờ phút Quê hương bước sang một giai đoạn mới, là một ơn đặc biệt.
*Hồng ân lớn lao, vì khi nhận ra sự trùng hợp lịch sử đó là do ý Chúa, tôi đã cùng với nhiều người, góp phần vào việc xây dựng sự hòa hợp, sự yêu thương trên Quê hương Việt Nam yêu dấu.
Hôm nay, mừng 40 năm hồng ân được Chúa sai đi, tôi xin nói ba lời: Xin cảm tạ, xin tha thứ và xin cầu nguyện.
2.
Trước hết, xin hết lòng cảm tạ Chúa vì muôn ơn Chúa ban cho tôi trong suốt 40 năm qua. Ơn mà tôi coi là quý giá nhất, đó là ơn biết lo nhận ra ý Chúa và biết lo thực thi ý Chúa trong một giai đoạn lịch sử đầy chuyển biến phức tạp.
3.
Thực vậy, giai đoạn lịch sử 40 năm qua đã có nhiều chuyển biến phức tạp, trong xã hội, trong Giáo Hội, và trong chính bản thân tôi.
Chúa dạy tôi là không nên và không thể tránh được những chuyển biến phức tạp đó, nhưng hãy nhìn chúng như một thực tế mà Chúa sai tôi vào, để sống mầu nhiệm nhập thể.
4.
Ý Chúa mà tôi nhận ra là: Sống trong một thực tế phức tạp như thế, tôi phải chú ý rất nhiều đến việc đào tạo mình. Chúa soi sáng cho tôi điều đó, bằng những lo âu rất nóng, Chúa đốt lên trong tôi.
Ý Chúa còn là: Tôi phải đào tạo mình nhờ động lực nội tâm luôn khao khát thuộc về Chúa, luôn thao thức được là người trung tín trong ơn gọi được sai đi.
Ý Chúa còn là: Sự đào tạo mình nhờ động lực nội tâm như thế sẽ phải thường xuyên gặp gỡ Chúa, luôn coi ơn thánh là ưu tiên hàng đầu, luôn kiên trì phấn đấu từ bỏ mình. Tất cả ý Chúa trên đây ví như ngọn lửa nung nấu lòng tôi.
5.
Tôi đã lo nhận ra ý Chúa.
Tôi đã lo cố gắng thực thi ý Chúa. Những lo lắng đó thực là ơn Chúa. Xin tạ ơn Chúa. Nhiều người tại Việt Nam đã làm gương cho tôi về sự nhận ra ý Chúa và thực thi ý Chúa như vậy.
6.
Gương sáng gần gũi nhất của tôi là Đức Cha Cố Micae Nguyễn Khắc Ngữ.
Trong suốt mấy chục năm sống thầm lặng, Đức Cha Cố Micae luôn là con người cầu nguyện, hãm mình và đọc các tài liệu tu đức. Ngài hay nói: “Phải tận dụng mọi thời giờ để lập công đền tội, xin Chúa cứu các linh hồn”. Tôi coi nếp sống đạo đức như thế của Đức Cha Cố Micae là một gương sáng về đào tạo chính mình trong tình hình mới.
Từ đó tôi nhận ra rằng: Đào tạo chính mình như vậy là chuẩn bị cho mình một nền nhân bản chắc về nhân ái, một nền văn hoá rộng về yêu thương, một nền tu đức sâu về bác ái, để dễ làm chứng cho tình yêu Chúa trong lịch sử phức tạp hiện nay. Những chứng nhân như thế có thể ví như những hạt lúa tốt gieo vào lòng đất Quê Hương Việt Nam này. Họ sẽ âm thầm liên kết các bàn tay hợp tác. Họ sẽ âm thầm nối kết các trái tim tình nghĩa. Tất cả sẽ đều vì lợi ích chung của Nước Chúa
7.
Tôi thường sợ mình không tự đào tạo mình đủ và đúng theo thánh ý Chúa. Biết sợ như vậy là một ơn Chúa. Nên tôi hết lòng cảm tạ Chúa về ơn biết sợ đó.
8.
Cùng với lời cảm tạ trên đây, tôi xin phép nói lên lời xin tha thứ.
Tôi xin hết lòng khẩn nài ơn tha thứ, vì suốt 40 năm qua, tôi đã lỗi phận rất nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm và những thiếu sót.
9.
Lãnh vực, mà tôi xin Chúa tha thứ nhiều hơn hết, chính là lãnh vực tha thứ. Nghĩa là: Tôi đã không biết lãnh nhận sự tha thứ và tôi đã không biết cho đi sự tha thứ.
Thực vậy, trong tình yêu, việc tha thứ là rất quan trọng. Thế mà, 40 năm làm chứng cho tình yêu Chúa, biết bao lần tôi đã không coi trọng những tha thứ được dành cho tôi, từ Chúa, từ Hội Thánh, từ Quê Hương, từ các tôn giáo bạn, từ những người nghèo, từ chính cộng đoàn của tôi. Hơn thế nữa, 40 năm qua, để làm chứng cho tình yêu Chúa, bao lần tôi đã không cho đi sự tha thứ, cho dù sự tha thứ đó chỉ là lẽ công bằng.
10.
Không biết đón nhận sự tha thứ và không biết cho đi sự tha thứ, những hiện tượng đó đang có chiều hướng gia tăng. Có thể tôi cũng đang phần nào rơi vào cảnh đáng buồn đó. Do vậy, tôi đặc biệt xin Chúa tha thứ cho tôi mọi lỗi lầm thiếu sót trong lãnh vực tha thứ. Tôi cũng xin gởi lời xin tha thứ đó tới Hội Thánh của tôi, Quê Hương của tôi, cộng đoàn của tôi.
11.
Thú thực là: Tha thứ là việc không dễ chút nào. Chính vì nó rất khó, nên tôi hết lòng xin Chúa thương ban ơn giúp sức cho chúng ta, nhất là trong một tình hình mà niềm tin vào con người đang giảm sút trầm trọng.
12.
Những lời xin cảm tạ và xin tha thứ trên đây sẽ được kết thúc bằng lời xin cầu nguyện. Tôi xin các Đức Cha và tất cả anh chị em cầu nguyện nhiều cho tôi. Tôi yếu đuối lắm về mọi mặt. Xin anh chị em hãy coi tôi như một bức thư nhỏ Chúa gửi cho anh chị em. Bức thư nhỏ này chỉ mang một lời kêu gọi thân thương, đó là “Chúa Giêsu vẫn là Đấng hiền lành, khiêm nhường, giàu lòng thương xót. Người là Đấng cứu độ. Hãy tin cậy phó thác nơi Người”. Vậy, tôi xin phó thác cho Chúa Giêsu mọi lo lắng của tôi về bản thân, về Hội Thánh, về Quê Hương, về mọi người thân.
Xin khiêm nhường phó thác cho Chúa tương lai của chúng ta, một tương lai sẽ có nhiều khó khăn và nhiều bất ngờ đáng sợ, nhưng cũng có nhiều hy vọng lớn lao mang ơn cứu độ.

Xin Chúa thương xót chúng con. Amen.

Long Xuyên, ngày 30.4.2015.

Tác giả bài viết: ĐGM. GB Bùi Tuần

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Chút Lính Miền Nam

Chút Lính Miền Nam

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Cho tôi thắp một nén nhang

Khóc người đồng chí

Mà bấy lâu nay tôi cứ đinh ninh là ngụy

Tha thứ cho tôi một thế hệ bị lừa !

Lê Phú Khải

Bạn tôi, tất cả, đều là lính ráo. Chúng tôi không chỉ có chung những năm cầm súng, và một quãng đời tù mà còn chia chung rất nhiều … cố “tật!” Hễ gặp nhau là uống, và câu chuyện trên bàn rượu trước sau gì rồi cũng xoay quanh kỷ niệm về đám chiến hữu hồi còn chinh chiến: những thằng đã chết, những đứa đang vất vưởng ở quê nhà, hay lưu lạc (đâu đó) nơi đất lạ xứ người.

Thỉnh thoảng, khi (quá) vui, chúng tôi cũng hay mang những vị thượng cấp cũ ra làm đề tài giễu cợt. Hai ông huynh trưởng thường bị nhắc tới để cười chơi là Trần Hoài Thư, và Phan Nhật Nam. Lý do: cả hai vị vẫn nhất định chưa chịu giải ngũ, dù cuộc chiến đã tàn tự lâu rồi!

Trung Úy Trần Hoài Thư vẫn thản nhiên đưa quân Qua Sông Mùa Mận Chín. Đại Úy Phan Nhật Nam vẫn cứ la hét um xùm qua máy truyền tin (giữa Mùa Hè Đỏ Lửa) như thể là cái mùa Hè năm 1972 đó vẫn còn kéo dài đến bây giờ, dù hơn 40 năm đã lặng lẽ trôi, với cả đống nước sông – cùng nước suối, nước mưa, nước mắt… – đã ào ạt chẩy qua cầu và qua cống.

Sau khi cạn mấy đầy, rồi đầy mấy ly cạn (và sau màn trình diễn “một ngàn bài Bolero”) tôi hay xin “trân trọng tuyên bố cùng toàn thể các chiến hữu các cấp” rằng :

  • Ai viết cái gì tôi cũng đọc tuốt luốt, trừ hai vị thẩm quyền (nhí) này thì khỏi!
  • Sao vậy cà?
  • Bởi vì thơ với văn của hai ổng có nhiều câu mà “lỡ” đọc một là nó bị kẹt luôn trong đầu, gỡ không ra, nên tui không dám đọc thêm nữa:

Trên đầu ta mũ rừng nhẹ hẩng
Trong túi ta một gói thuốc chuồn
Bắt tù binh mời điếu thuốc thơm
Ðể thấy miền Nam lính hiền ghê gớm

Ta lính miền Nam hề, vận nước ngửa nghiêng
Ta cũng lênh đênh cùng cơn mạt kiếp
Ta trèo lên cây hỏi rừng cho biết
một nơi nào hơn ở Việt Nam ?
Có người lính nào bi tráng hơn lính miền Nam ?

Trần Hoài Thư (“Ta Lính Miền Nam”)

Nguồn ảnh:internet

Không chỉ bi tráng, bi hùng, hay bi phẫn mà (đôi khi) người lính miền Nam còn phải đối diện với lắm nỗi bi thương:

“Tôi đi vào ngôi nhà đang âm ỉ cháy, những chiếc cột lớn lỏng chỏng hỗn độn bốc khói xám… Một người đàn bà áo trắng quần đen tay ôm chiếc lẵng mây trước ngực ngồi im trên nền gạch đôi mắt nhìn thẳng ngơ ngác. Thấy chúng tôi đi vào chị ta đứng dậy, đứng thẳng người như pho tượng, như thân cây chết với đôi mắt không cảm giác. Thằng bé theo tôi cùng cùng tên hiệu thính viên lẻn ngay vào bếp kiếm thức ăn. Tôi đi đến trước chị đàn bà…

– Làm gì chị ngồi đây, không biết đang đánh nhau sao?

Im lặng, đôi mắt ngơ ngác lóe lên tia nhìn sợ hãi. Bỗng nhiên chị ta đưa thẳng chiếc lẵng mây vào mặt tôi, động tác nhanh và gọn như một người tập thể dục. Sau thoáng ngạc nhiên tôi đưa tay đón lấy… Hai bộ áo quần, chiếc khăn trùm đầu, gói giấy nhỏ buộc chặt bằng dây cao su. Mở gói, hai sợi giây chuyền vàng, một đôi bông tai.

– Của chị đây hả? – Vẫn im lặng. Nỗi im lặng ngột ngạt, lạ lùng.

– Con mẹ này điên rồi thiếu uý, chắc sợ quá hóa điên…

Tên lính xua tay đuổi người đàn bà đi chỗ khác. Lạnh lùng, chị ta xoay người bước đi như xác chết nhập tràng.

– Chị kia quay lại đây tôi trả cái này…  Tôi nói vọng theo.

Người đàn bà xoay lại, cũng với những bước chân im lặng, trở về đứng trước mặt tôi nhưng đôi mắt bây giờ vỡ bùng sợ hãi, vẻ hốt hỏang thảm hại làm răn rúm khuôn mặt và run đôi môi… Chị ta còn trẻ lắm, khỏang trên dưới hai bảy, hai tám tuổi, da trắng mát tự nhiên, một ít tóc xõa xuống trán làm nét mặt thêm thanh tú.

Tôi đưa trả chiếc lẵng mây, chị đàn bà đưa tay đón lấy, cánh tay run rẩy như tiếng khóc bị dồn xuống. Chiếc lẳng rơi xuống đất, hai cánh tay buông xuôi mệt nhọc song song thân người. Dòng nước mắt chảy dài trên má. Tôi hươi mũi súng trước mặt chị ta:

– Ngồi đây! Tôi chỉ nòng súng vào bực tam cấp. Khi nào tụi tôi đi thì chị đi theo… Tại sao khóc, nhặt vàng lên đi chứ…  Im lặng, chỉ có nỗi im lặng kỳ quái, thân thể người đàn bà cứ run lên bần bật, nước mắt ràn rụa… Từ từ chị đưa bàn tay lên hàng nút áo trước ngực…

Không! Không thể như thế được, tôi muốn nắm bàn tay kia để ngăn những ngón tay run rẩy đang mở dần những hàng nút bóp để phơi dưới nắng một phần ngực trắng hồng! Không phải như thế chị ơi… Người đàn bà đã hiểu lầm tôi…

Chị ta không hiểu được lời nói của tôi, một người Việt Nam ở cùng trên một mảnh đất. Chị ta tưởng tôi thèm muốn thân xác và đòi hiếp dâm! Tội nghiệp cho tôi biết bao nhiêu, một tên sĩ quan hai mươi mốt tuổi làm sao có thể biết đời sống đầy máu lửa và đớn đau tủi hổ đến ngần này.

Tôi đi lính chỉ với một ý nghĩ: Đi cho cùng quê hương và chấm dứt chiến tranh bằng cách góp mặt. Thê thảm biết bao nhiêu cho tôi với ngộ nhận tủi hổ này… (Phan Nhật Nam. Dấu Binh Lửa. Sài Gòn: Hiện Đại, 1969).

Ở thời điểm này, có lẽ, Phan Nhật Nam không hề biết rằng “sự ngộ nhận đớn đau tủi hổ” của dân chúng với những người lính miền Nam chả phải là “ngẫu nhiên” đâu. Nó đã được đối phương chuẩn bị rất kỹ, và tuyên truyền rất công phu – theo như nhận xét (gần đây) của giáo sư Nguyễn Văn Tuấn:

“Ngày xưa ở miền Bắc VN, tôi đoán người ta tuyên truyền nói xấu về chế độ miền Nam VN dữ lắm. Bộ máy tuyên truyền ngoài đó đã thành công gieo được vào đầu óc của người dân thường rằng chế độ Mĩ Nguỵ rất ác ôn; lính Nguỵ chỉ đánh thuê, rất ác ôn đến nỗi họ ăn gan uống máu người…”

Và đây cũng chả phải chỉ là chuyện “ngày xưa ở miền Bắc” đâu. Sau khi thắng cuộc “bộ máy tuyên truyền” vẫn tiếp tục bôi bẩn và xỉ nhục những người lính miền Nam, như thể họ vẫn còn là những kẻ thù ác độc và  nguy hiểm.

Rảnh, thử xem qua vài đoạn trong một truyện ngắn (“Chuyện Vui Điện Ảnh”) của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư. Bà viết viết về “tai nạn nghề nghiệp” xẩy đến cho một tài tử nghiệp dư, chỉ vì lỡ thủ vai một thằng lính miền Nam:

Chú Sa diễn vai thiếu úy Cón (nghe cái tên thôi cũng thấy ghét rồi), một tên ác ôn giết vợ, hãm hại vợ người, tàn sát trẻ nít, huênh hoang phá xóm phá làng, sau chết vì bị chó điên cắn…

Khi chú mặc bộ đồ rằn ri vô mình rồi, ông đạo diễn không chê vào đâu được. Long Xưởng hô máy một cái là nét mặt chú Sa lạnh như người chết, con mắt trắng dã, lừ đừ, nụ cười bí hiểm. Lúc quay cận cảnh khuôn mặt chú còn ghê nữa, da sần sùi, u uẩn như da cóc, tay chân đầy lông lá, cái răng cửa gãy chìa ra một nụ cười chết chóc với lỗ trống sâu hun hút.

Hồi đầu mọi người còn khen chú mặc bộ đồ mắc toi đó coi oai thiệt, nhưng rồi sau đó nín bằn bặt, người ta quên chú Sa ở hẻm Cựa Gà đi, chỉ còn lại thằng Cón ác ôn. Thằng Cón cưỡng hiếp vợ một cán bộ Đảng mình đang mang thai.

Tới chừng biết đứa bé kia không phải con mình, hắn xé đứa nhỏ làm hai ngay trên giường đẻ, trước mặt người mẹ, cầm bằng đã giết chị ta. Phim bạo liệt, trần trụi. Thằng Cón chết, nó cũng không chết bình thường như người ta, nó chết trong dằn vặt.

Cái mặt lạnh tanh gớm ghiếc của nó co giật méo xệch, bọt mép sùi sụt. Nó cắn vô mấy thằng lính đứng quanh nó. Điên dại tới lúc bị bắn chết. Mọi người theo dõi thằng Cón chết, vừa hể hả vừa ghê tởm…

Chú Sa vẫn tiếp tục đi về trên con hẻm hẹp te mà nghe trống vắng thênh thang. Tụi con nít nghe tiếng xe đạp chú tè tè lọc cọc thì chắc mẩm đứa nào đứa nấy mặt xanh mặt tím chạy vô nhà trốn. Tụi nó hỏi nhau: “ổng đi chưa?”, cũng tại má tụi nó nhát hoài, lì lợm, không ăn cơm là bị chú Sa ăn thịt. Rõ ràng là ấn tượng về thằng thiếu úy Cón mạnh mẽ quá sức tưởng tượng, rõ ràng là người ta bị giật mình bởi tội ác.

Bà con ngại ngần ác cảm giạt xa chú … Chú Sa thấy đây đúng là một tai nạn …

Cái “tai nạn” riêng của Chú sa chỉ xẩy ra trong phạm vi của một con hẻm nhỏ và sẽ không kéo dài lâu.  Còn hàng triệu thằng lính miền Nam thật –  cùng vợ con, thân nhân của chúng – không chỉ phải chịu đựng sự “ngại ngần ác cảm” của đám đông mà còn bị Nhà Nước Cách Mạng kỳ thị (và miệt thị) không biết đến bao giờ!

Mãi cho đến ngày 2 tháng 5 năm 2014, người ta mới nghe một viên chức ngoại giao của phe thắng cuộc, Thứ Trưởng Nguyễn Thanh Sơn, nói đôi lời tử tế:

Ngày xưa ta không thể nói là không có chính phủ Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam. Đó là chính phủ cũng được quốc tế thừa nhận chứ. Đó cũng là một nhà nước có quân đội thực thi nhiệm vụ quốc gia của họ để bảo vệ chính nghĩa theo lý tưởng của họ.

Và đó cũng chỉ là sự tử tế ngoài miệng! Ngày 12 tháng 4 vừa qua, công an quận Hoàn Kiếm đã bắt giữ và buộc tội (“gây rối trật tự công cộng”) một số thanh niên đã mặc quân phục hay áo thun màu đen có biểu tượng Quân lực Việt Nam Cộng Hoà, trong cuộc tuần hành vì cây xanh ở Hà Nội.

Các bạn trẻ mặc áo thun đen có biểu tượng QLVNCH. Ảnh: Nguyễn Lân Thắng

Hai tuần sau, sáng 27/4/2015, công an quận Hoàn Kiếm đã kết hợp với công an Nghệ An khám xét nhà của anh Nguyễn Viết Dũng (tức Dũng Phi Hổ) tịch thu quân phục lính VNCH của anh Dũng.

Việc gì mà phải hốt hoảng đến nỗi “khám nhà,” “tịch thu” và “vu vạ” tội trạng cho vài thanh niên chỉ vì y phục mà họ mặc trên người như thế? Chả lẽ cái chế độ hiện hành có thể bị rung chuyển chỉ bởi vài cái áo (“thun màu đen, có biểu tượng Quân lực Việt Nam Cộng Hoà”) sao?

Hơn nửa thế kỷ tuyên truyền lừa gạt, bôi bẩn, miệt thị những kẻ thua cuộc (bộ) chưa đủ nguôi ngoai thù hận hay sao?  Nắm trọn quyền bính của cả một nhà nước trong tay mà sao có thể hành sử một cách đê tiện, và tiểu tâm đế́n thế?

Dù thế, thời gian đã không đứng về phe thắng cuộc, và đã dần hé mở dần chân dung của những người lính miền Nam:

Cho tôi thắp một nén nhang

Khóc người đồng chí

Mà bấy lâu nay tôi cứ đinh ninh là ngụy

Tha thứ cho tôi một thế hệ bị lừa !

Năm tháng đi qua

Gần hết cuộc đời tôi mới ngộ ra

Không giọt máu Việt Nam nào là ngụy

Trừ những thằng bán nước – đi đêm

Lê Phú Khải