Trung Quốc ‘khoe’ lính và rau trên đảo Đá Thập, Trường Sa

Trung Quốc ‘khoe’ lính và rau trên đảo Đá Thập, Trường Sa

Nguoi-viet.com

BẮC KINH (NV) .- Một báo mạng của Trung Quốc phổ biến hơn chục tấm hình để khoe vài khía cạnh trên đảo nhân tạo ‘Yongshu Jiao’ tức bãi Đá Thập mà họ cướp của Việt Nam từ  cuối thập niên 1980.

Một nhóm binh sĩ nam nữ Trung Quốc chụp hình tại bia “Vĩnh Thử Tiêu” tức bãi Đá Thập của Việt Nam. Tấm bia này đã được dựng từ nhiều năm trước. (Hình: sina)

Có tất cả 17 tấm hình dưới tiêu đề “Kết quả đáng mừng trên ‘Yongshu Jiao’ : làm nhà kiếng trồng rau và cây ăn trái.”

“Yongshu Jiao” phiên âm hán Việt là Vĩnh Thử Tiêu khi còn là bãi đá ngầm trên đó, sau khi cướp của Việt Nam, Trung Quốc xây dựng một tiền đồn, rồi sau đó làm thêm bãi đáp trực thăng và một khu nhà kiếng trồng rau, tất cả trên một quy mô vài ngàn mét vuông.

Trước 1988, Trung Quốc không có hiện diện tại khu vực quần đảo Trường Sa. Cho đến năm 1988 mới đưa hải quân đến đánh đuổi một số đơn vị hải quân CSVN đang xây dựng cơ sở tại một số bãi đá ngầm. Trận tấn công tại bãi đá Gạc Ma ngày 14 tháng 3 năm 1988 đã làm 64 lính Việt Nam thiệt mạng.

Từ năm ngoái, Bắc Kinh lập kế hoạch biến 7 bãi đá ngầm ở Trường Sa thành các đảo nhân tạo tầm cỡ lớn trong mưu đồ khống chế toàn bộ Biển Đông. Đảo nhân tạo ‘Yongshu Jiao’ là một đảo lớn gồm cả phi đạo dài đến 3,000 mét mà các phi cơ quân sự cỡ lớn và chiến đấu cơ có thể lên xuống. Diện tích tổng thể của đảo nhân tạo “Yongshu Jiao” khoảng 1 cây số vuông.

Nhiều nhà bình luận thời sự tin rằng tới một lúc nào đó khi tình hình tranh chấp chủ quyền biển đảo với các nước trong khu vực biến đổi, Bắc Kinh có thể tuyên bố lập “vùng nhận diện phòng không” trên Biển Đông, thách đố chủ quyền không những của Việt Nam và Philippines mà cả Hoa Kỳ và thế giới tại hải lộ bận rộn nhất thế giới với hơn 5 ngàn tỉ đô la hàng hóa được vận chuyển mỗi năm.

Nữ binh Trung Quốc ngồi chụp hình bên luống rau được cho là tại đảo nhân tạo “Jongshu Jiao” tức Đá Thập của Việt Nam. Nhà kiếng trồng rau này không phải vừa mới xây dựng. (Hình: Sina)

Những tấm hình về “Yongshu Jiao” xuất hiện trên mạng Sina không có chú thích là được chụp lúc nào. Nhưng những gì nhìn thấy trên đó có nguồn gốc từ nhiều trang mạng khác ở Trung Quốc mà một số được Sina lấy đăng lại. Một số tấm hình có vẻ như chụp tại “Yongshu Jiao” khi nó còn là một bãi đá ngầm, chưa được ào ạt bồi đắp thành một đảo nhân tạo rộng lớn mà không ảnh thấy có cả phi đạo dài.

Một số nữ binh Trung Quốc chụp hình trước tấm bia “Vĩnh Thử Tiêu” hoặc trước luống rau. Một số tấm hình cho thấy các luống rau, cây cà chua, cà tím trong nhà kiếng, đàn heo.

Đây là những tấm hình chụp gần, không hề có dấu tích gì về các hoạt động làm đảo nhân tạo như các tàu hút cát đá lòng biển, các xe cẩu, và các xe cơ giới xây dựng cũng như lính thợ và vật liệu các loại.

Tuần trước, Bắc Kinh loan báo chương trình xây dựng đảo nhân tạo tại Trường Sa sắp hoàn tất tại một số vị trí và tiếp theo là các hoạt động xây dựng cơ sở dùng cho các nhu cầu cả dân sự và quân sự. Thật ra, người ta đã nhìn thấy phi đạo trên đảo Đá Thập, một số tòa nhà cao tầng ở đá Gạc Ma, đá Ga Ven, đá Tư Nghĩa v.v…qua các không ảnh.

Vào các ngày 17 đến 19 tháng 6, 2015 , Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao CSVN Phạm Bình Minh dẫn đầu một phái đoàn tới Bắc Kinh, họp kỳ họp lần thứ tám của “Ủy ban chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung Quốc”.

Nhà kiếng trồng rau mà sina lấy lại từ <<mil.cnr.cn>> không thấy chú thích đích xác ở đâu. (Hình: mil.cnr.cn)

Thông Tấn Xã Việt Nam (TTXVN) kể lại rằng “Hai bên cũng trao đổi về sử dụng tốt cơ chế đàm phán cấp chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc, kiên trì thông qua đàm phán, tìm kiếm giải pháp cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được; cùng kiểm soát tốt bất đồng trên biển, thực hiện đầy đủ có hiệu quả Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và sớm đạt được Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC); không có hành động làm phức tạp, mở rộng tranh chấp; xử lý kịp thời thỏa đáng vấn đề nảy sinh, duy trì đại cục quan hệ Việt Nam-Trung Quốc và hòa bình, ổn định ở Biển Đông.”

Những lời lẽ này là những từ ngữ tuyên truyền rỗng tuếch khi đối chiếu với thực tế. Trung Quốc ngang nhiên tiến hành xây dựng các đảo nhân tạo bất chấp dư luận quốc tế. Chính bộ Ngoại Giao CSVN ngày 11 tháng 6, 2015 đã trao công hàm “phản đối Trung Quốc tiến hành các hoạt động cải tạo phi pháp bãi đá Chữ Thập, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam”. (T.N)

90 năm Ngày Nhà báo Việt Nam

90 năm Ngày Nhà báo Việt Nam

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2015-06-20

90 năm Ngày Nhà báo Việt Nam Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

000_Hkg7508717-600.jpg

Một sạp báo vỉa hè Hà Nội chụp hôm 26/6/2012

AFP photo

Your browser does not support the audio element.

Chiếc dù mang tên “nhạy cảm”

Ngày Báo chí Việt Nam năm nay được cho là kỷ niệm 90 năm khi tờ báo của chủ tịch Hồ Chí Minh xuất bản tại Quảng Châu vào năm 1925. Giới làm báo Việt Nam nói gì về ngày này khi mà quyền phát biểu trung thực của họ đã bị khống chế từ nhiều chục năm qua dưới chiếc dù mang tên “nhạy cảm”?

Báo chí Việt Nam cũng tương tự với các nước thuộc khối Cộng sản trước khi sụp đổ, được định hướng theo chính sách nhất định của nhà nước và bất cứ tờ báo nào cũng phải tuân theo quy luật này nếu muốn tồn tại. Những định hướng do Ban Tuyên giáo trung ương chỉ đạo xuống địa phương đã làm nhiều tờ báo không thể viết lên sự thật đang xảy ra tại địa phương tờ báo cũng như các trăn trở của xã hội về các diễn biến tiêu cực trong chính quyền đi ngược lại với quyền lợi hay nguyện vọng người dân.

” Ngay trong lý lun dy trong các trường Văn và trường Báo chí do Ban tuyên giáo Trung ương ch đo, v mt ni dung chương trình đào to thì điu tôi trăn tr nht là tính trung thc ca nhà báo.
i tá Bùi Văn Bng”

Tờ báo bị định hướng như con ngựa thồ mang hai miếng che mắt chỉ chạy hay dừng theo giây cương của mã phu và do đó sự trung thực của tờ báo bị triệt tiêu tới mức thấp nhất. Mặc dù ngay khi ngồi tại một ngôi trường báo chí, sinh viên được dạy rằng thiên chức cao nhất của một nhà báo là sự trung thực nhưng khi trình diện để nhận việc tại bất cứ tòa soạn của một tờ báo nào thì người sinh viên ấy hiểu ra rằng sự trung thực là con dao vô hình sẵn sàng kết liễu nghề nghiệp của người làm báo tại Việt Nam.

Đại tá Bùi Văn Bồng, nhà báo quân đội, nguyên trưởng đại diện báo QDND khu vực đồng bằng sông Cửu Long cho biết những nhận định của ông về lý luận và thực tiển của việc trung thực trong báo chí, ông nói:

“Ngay trong lý luận dạy trong các trường Văn và trường Báo chí do Ban tuyên giáo Trung ương chỉ đạo, về mặt nội dung chương trình đào tạo thì điều tôi trăn trở nhất là tính trung thực của nhà báo. Nhưng khi đào tạo ra xong rồi và trực tiếp làm việc tại các tòa soạn báo và vào biên chế rồi thì người ta lại bị trói buộc. Bởi người ta muốn tính trung thực như trong lý luận báo chí mà nhà nước đã dạy thì không thực hiện được trọn vẹn hay là có tự do để mà thực hiện.

Những chủ trương đường lối, những chỉ đạo của đảng buộc người ta phải né bớt sự trung thực. Vấn đề đặt ra là tính trung thực, tính kịp thời và thời sự của báo chí… tất cả những cái đó đều phải chịu sự bảo đảm một cách chắc chắn: đó là bài báo muốn được đăng thì người ta phải coi trọng cái “tính đảng”.”

Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam chính thức ra mắt hoạt động vào ngày 4 tháng 7 năm 2014.

Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam chính thức ra mắt hoạt động vào ngày 4 tháng 7 năm 2014.

“Tính đảng” là một khái niệm buộc mọi hoạt động của người sinh hoạt tư tưởng phải tuân theo một cách nghiêm khắc. Đảng ở đây được hiểu là sự chỉ đạo tùy thời điểm và tùy vào vai trò lãnh đạo của mỗi cá nhân. Tính đảng biến thiên nhưng không vượt ra cái khung o ép mọi bài viết, hình ảnh, quan điểm đi ngược lại lợi ích của đảng chứ không phải lợi ích của người dân, kể cả lợi ích của thông tin trung thực.

“Tính đảng này nó không rõ ràng. Tính đảng đúng ra về quan điểm đường lối các mặt hay về thực hiện theo các nghị quyết đảng thì người ta vẫn luôn luôn bảo đảm được. Nhưng tính đảng buộc người ta phải viết mà uốn ngòi bút hoặc là bài báo phải vo tròn nắn vuông để nó phù hợp với sự chỉ đạo của đảng, nhất là đảng bộ đảng ủy trực tiếp quản lý tờ báo đó và sau đó là chỉ đạo chung của Ban tuyên giáo Trung ương để bảo đảm được thì rất là khó! Cái tính đảng nó cứ trùm lên hết mà khi nó đã trùm lên rồi thì các tính khác như tính chân thật, tính thời sự, tính nhân dân rồi tính dân chủ và các thứ nó bị nhạt đi hết. Nếu anh không theo tính đảng thì bài báo không được đăng mà thậm chí nhà báo còn bị phê bình hay mất biên chế không được làm trong tòa soạn nữa mà phải làm nghề khác.”

Khái niệm “nhạy cảm”

Cơ quan báo chí được hiểu là hoàn toàn được sở hữu bởi nhà nước do bài vở của họ chỉ viết theo một chiều duy nhất. Tuy nhiên không phải tờ báo nào cũng chấp nhận sự bao cấp này, tại thành phố Hồ Chí Minh hai tờ báo tiên khởi thoát ra sự khống chế ấy là Thanh Niên và Tuổi Trẻ, hai tờ báo này được xem là mạnh nhất nước khi con số ấn bản hàng ngày của nó có khi lên tới gần nủa triệu tờ. Nhà báo Nguyễn Công Khế, 23 năm làm Tổng biên tập cho tờ Thanh Niên chia sẻ:

“Phải nói rằng nghề báo ở Việt Nam gian nan nhất. Nếu như tôi để mà tồn tại được cỡ 23 năm trong vai trò Tổng biên tập thì rất gian nan. Phía chính quyền phía những người có quyền kể cả giới quản lý báo chí họ chưa đánh giá hết tác dụng tốt, nhiều mặt của báo chí. Thực ra với tâm huyết và nhiệt huyết phải nói người làm báo Việt Nam tôi nghĩ không thua bất cứ ở đâu. Ở các nước khác nếu khó khăn 1 thì người làm báo Việt Nam khó khăn 10. Điều kiện, tập quán, thể chế đều khó khăn.

” Tính đng buc người ta phi viết mà un ngòi bút hoc là bài báo phi vo tròn nn vuông đ nó phù hp vi s ch đo ca đng, nht là đng b đng y trc tiếp qun lý t báo đó và sau đó là ch đo chung ca Ban tuyên giáo Trung ương.
i tá Bùi Văn Bng”

Tờ Thanh Niên của tôi và tờ Tuổi Trẻ là hai tờ sống được bằng cái đồng tiền của chính mình từ lúc tôi xây dựng cho tới giờ này cũng như tờ Tuổi Trẻ lên trên nửa triệu bản trogn điều khó như Việt Nam mà tụi tôi làm được thì phải nói là một kỳ công. Người đọc họ đánh giá đúng và lịch sử báo chí đánh gái đúng. Phải nói thẳng về cái đối xử, vì báo nhà nước, báo đoàn thể mà, thì cách đối xử của Tổng biên tập nhiều khi bất công. Tôi nói thật, những người trong báo chính thống như vậy thì tôi nghĩ cách xử sự đối với cá nhân những người làm báo nó cũng bất công lắm.”

Tin tức là thực phẩm chính nuôi sống một tờ báo nhưng bị bóp nghẹt qua cụm từ “nhạy cảm” khiến hai chữ “báo chí” không phù hợp với định nghĩa phổ quát của thế giới. Có tờ báo liều lĩnh đăng tải tin tức về Biển Đông có lợi cho người muốn đọc tin nhưng xét thấy có hại cho chính sách đối ngoại của Việt Nam với Trung Quốc nên bị ra lệnh gỡ bỏ khỏi bản tin là điều xảy ra thường xuyên trên mọi tờ báo lớn nhỏ của Việt Nam.

Tránh viết tin vì lo nhạy cảm khiến thông tin bị nhiễu qua các tầng số chồng chéo lên nhau khiến người đọc trong nước tìm tới internet và từ đó phát sinh các chuyển biến có tính tự phát khiến nhà nước không thể tìm ra một đối sách toàn vẹn để vừa bao biện nguồn tin vừa tránh cho dân chúng không bị lạc vào những vùng tin tức sai lệch do bóp méo dù vô tình hay hữu ý. Nhà báo Võ Văn Tạo kể lại kinh nghiệm của ông về vấn đề này:

“Cái khái niệm nhạy cảm khi mà tôi chưa làm báo thì tôi đã biết cái khái niệm đó rồi mặc dù không biết từ đâu đưa ra nhưng đã có chữ “nhạy cảm”. Cái đó có lúc thì có văn bản chỉ đạo, có lúc anh em phóng viên cũng như các tòa soạn tự ràng buộc mình với chữ “nhạy cảm” đó cho nên an hem trong giới chúng tôi hay gọi đùa với nhau là “tự thiến”. Tự nhiên cứ nghĩ, à cái việc này nó có đụng chạm gì đây không hài lòng khi bị đề cập tới, trong tòa soạn hay phóng viên cũng lại hay dùng từ “nhạy cảm” với nhau có nghĩa là “né” đi không đụng chạm tới.

Hồi chiến tranh thực ra khi tôi đã trưởng thành bắt đầu đi bộ đội rồi từ hồi đó không đặt ra. Báo chí hồi đó theo tôi biết ở ngoài bắc chỉ có tuyên truyền thôi chảng có vần đề gì khác cả. Tuyệt nhiên không có một ý kiến nào, một bài viết nào phản biện với chủ trương đường lối cả. Trong chiến tranh là như thế.”

Người đọc quay lưng với báo chí chính thống để đọc báo từ các trang lề trái trên mạng phần nào nói lên hiện trạng báo chí Việt Nam trong bối cảnh bị che chắn mọi phía, đã khiến báo chí ngày một lún sâu hơn vào vũng lầy độc quyền mà không một nước văn minh nào trên thế giới chấp nhận cho nền báo chí của nước họ.

Nhiều phóng viên kỳ cựu Việt Nam cho rằng Ngày Nhà Báo Việt Nam mỗi năm ăn mừng một lần trong suốt 90 năm qua nhưng chưa khi nào các nhà báo có cơ hội ngồi lại với nhau để cùng yêu cầu một việc đơn giản và quan trọng nhất: Được phép viết sự thật, và vì vậy Việt Nam vẫn chưa có một nền báo chí đúng nghĩa.

Quảng Ngãi: Xuất hiện nhóm cướp chặn xe tải cướp tiền

Quảng Ngãi: Xuất hiện nhóm cướp chặn xe tải cướp tiền

Nguoi-viet.com

QUẢNG NGÃI (NV) – Một nhóm cướp có hung khí vừa xuất hiện ở huyện Tư Nghĩa đã chặn xe container, xe tải đập phá và hăm dọa sẽ giết chết tài xế nếu không đưa tiền mãi lộ.

Tài xế Du chỉ vết chém của băng cướp trước cabin xe container. (Hình: Người Lao Động)

Chiều 19 tháng 6, ông Huỳnh Hoàng Tích, trưởng công an xã Nghĩa Phương, huyện Tư Nghĩa xác nhận, công an huyện đang truy bắt nhóm cướp có hung khí chuyên chặn xe container, đập phá và hăm dọa sẽ giết chết tài xế nếu không đưa tiền tại đoạn đường qua cánh đồng vắng thuộc xã Nghĩa Phương.

Báo Người Lao Động dẫn lời tài xế Đinh Văn Du (40 tuổi), ở tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cho biết, khoảng 1 giờ 15 sáng 19 tháng 6, ông Du lái xe container chở trái vải từ tỉnh Hưng Yên vào Sài Gòn, khi đang lưu thông trên quốc lộ 1, đoạn qua xã Nghĩa Phương, huyện Tư Nghĩa thì bất ngờ gặp một nhóm năm người bịt mặt đuổi theo, cầm mã tấu chặn trước đầu xe.

“Tôi lập tức phanh xe lại. Nhóm này lao lên xe đạp cửa kính la hét, yêu cầu đưa hết tiền cho họ thì mới cho đi. Khi đó trên xe có ba tài xế, chúng tôi hết sức hốt hoảng định rồ ga chạy thì nhóm này vây lấy xe đập kính, thùng nước và tìm cách nhảy vào cabin. Lúc đó ba chúng tôi cầm cờ lê cố thủ trên xe. Nếu bọn cướp mở cửa xe vào thì chúng tôi chống trả,” ông Du kể.

Cùng lúc chặn xe container của ông Du cầm lái, nhóm cướp trên còn chặn thêm một xe tải chở trái vải cũng xuất phát từ tỉnh Hưng Yên. “Nhưng may mắn là công an đã có mặt tại hiện trường kịp thời, nếu không xe tải đó cũng sẽ bị nhóm này đập phá rồi,” ông Du kể.

Chứng kiến vụ việc, một người dân cho biết, “Tôi nghe tiếng hò hét ở khu vực vắng người cứ nghĩ có tai nạn nên chạy ra xem thử. Khi ra đến nơi thì thấy nhóm này đang đập phá một xe tải. Bọn chúng hét: Nếu không đưa tiền thì giết hết.”

Theo ông Tích, ít nhất có bốn xe container, xe tải chạy trên quốc lộ 1 qua xã Nghĩa Phương đã bị nhóm cướp này chặn lại đòi cướp và đập phá xe. (Tr.N)

Chiến dịch Todocabi “Tớ đố cậu biết “

Chiến dịch Todocabi “Tớ đố cậu biết “

Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok
2015-06-22

06222015-budget-transparency-people.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Trang web Todocabi ngày 21 tháng 6, 2015 cho biết đã có 11656 người tham gia chiến dịch

Trang web Todocabi ngày 21 tháng 6, 2015 cho biết đã có 11656 người tham gia chiến dịch

Trang web Todocabi

Minh bạch ngân sách là một trong những biện pháp điều hành công cần phải có. Tuy nhiên tại Việt Nam điều này lâu nay vẫn chưa được thực hiện.

Vừa qua trước phiên họp thứ 9, quốc hội khóa 13 diễn ra, một chiến dịch góp phần thúc đẩy minh bạch ngân sách Nhà nước tại Việt Nam có tên ‘Tớ đố cậu biết ( Todocabi)’ được tiến hành. Mục tiêu của nhóm là kêu gọi các bạn trẻ trong nước quan tâm ký tên vào một bản kiến nghị để gửi đến quốc hội.

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh là một trong những chuyên gia kinh tế được nhóm điều phối chiến dịch mời tư vấn. Vào ngày 15 tháng 6 vừa qua, ông dành cho biên tập viên Gia Minh cuộc nói chuyện liên quan chiến dịch Todocabi hướng đến việc thúc đẩy cộng đồng quan tâm và cùng lên tiếng về quyền lợi của bản thân trong việc minh bạch ngân sách Nhà nước.

Trước hết tiến sĩ Lê Đăng Doanh đưa ra nhận định về chiến dịch Todocabi.

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh: Đó là chương trình của những bạn rất trẻ. Các bạn ấy có chương trình ‘Tớ đố cậu biết’ để tìm hiểu về thực trạng thu- chi ngân sách của Việt Nam; mức độ công khai, minh bạch về thu chi ngân sách của Việt Nam.

Tôi thấy đó là một việc rất có ích. Tôi đánh giá cao và tôi cũng đã gặp gỡ các bạn đó và giúp đỡ cho họ. Tôi nghĩ rằng quyền của người dân biết được mức thu ngân sách thế nào và chi ngân sách vào việc gì, và những tiêu chuẩn về công khai minh bạch trên thế giới như thế nào là những điều rất quan trọng. Bởi vì những bạn trẻ là chủ nhân tương lai của đất nước. Các bạn ấy sẽ nộp thuế để nuôi đất nước này nên các bạn ấy có quyền và cần phải có hiểu biết để các bạn ấy biết thực trạng thu chi ngân sách ở Việt Nam.

” Đó là chương trình của những bạn rất trẻ. Các bạn ấy có chương trình ‘Tớ đố cậu biết’ để tìm hiểu về thực trạng thu- chi ngân sách của Việt Nam; mức độ công khai, minh bạch về thu chi ngân sách của Việt Nam

TS Lê Đăng Doanh”

Gia Minh: Qua tiếp xúc và tiến sĩ nói có giúp đỡ cho họ thì tiến sĩ thấy sự hiểu biết của họ đến đâu và sự giúp đỡ của tiến sĩ cho họ thế nào rồi?

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh: Tôi gặp các bạn ấy cách đây độ hai tháng, lúc ấy các bạn mới bắt đầu và các bạn đó có được một số số liệu ban đầu và đưa lên. Tôi thấy các bạn đó có nhiệt tình rất lớn và tôi nghĩ đó là điều rất hoan nghênh và các bạn ấy có thể tìm hiểu thêm, tôi hy vọng các bạn ấy có điều kiện để có thể học thêm để biết thực trạng thu chi ngân sách của chúng ta hiện nay như thế nào.

Gia Minh: Theo đánh giá của tiến sĩ thì thực trạng đó ra sao?

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh: Về mức thu thế trên tổng GDP thì Việt Nam là nước thu nhập trung bình thuộc nhóm thấp nhất nhưng thu ngân sách của Việt Nam hiện nay đã lên đến khoảng 23% GDP. Như vậy cao hơn mức bình quân của các nước trong nhóm. Bình quân của các nước trong nhóm chỉ độ 18% thôi. Ngay cả Trung Quốc hiện nay họ cũng thu thấp hơn Việt Nam. Họ thu khoảng 17-18% ngân sách thôi mặc dù GDP cũa họ cao hơn Việt Nam rất nhiều;  hiện nay GDP của họ vào khoảng 6.800 đô la một đầu người nếu như tôi nhớ không nhầm.

Và có một số ví dụ để chúng ta có thể so sánh: ví dụ thuế thu nhập cá nhân ở Hong Kong là 9%, thuế thu nhập cá nhân ở Singapore là 0%; nhưng thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam lũy tiến có thể lên đến 38%. Đấy là một mức thuế khá cao. Ngoài ra những mức thuế khác cũng là mức thuế cao.

Todocabi trên Facebook

Todocabi trên Facebook

” Những bạn trẻ là chủ nhân tương lai của đất nước. Các bạn ấy sẽ nộp thuế để nuôi đất nước này nên các bạn ấy có quyền và cần phải có hiểu biết để các bạn ấy biết thực trạng thu chi ngân sách ở Việt Nam

TS Lê Đăng Doanh”

Tuy vậy tình trạng thất thu và lạm thu đang còn khá phổ biến. Tình trạng thất thu và lạm thu có thể thể hiện qua con số này: tức là hộ gia đình của Việt Nam đóng góp 33,2% vào GDP nhưng tỷ lệ nộp thuế của khu vực này chỉ là 2% của tổng thu ngân sách. Như vậy có khoảng cách rất lớn. Tại sao kinh tế hộ gia đình lại nộp thuế thấp như vậy? Một điều tra gần đây trong một cuộc hội thảo cho thấy rằng các hộ kinh tế gia đình đó có thể thương thảo và có thể đút lót cho các viên chức thu thuế. Vì vậy cho nên thuế thu có thể ít đi nhưng các viên chức ( thu thuế ) kia cũng được thu một phần. Người bị thiệt hại nhiều nhất là ngân sách Nhà nước. Đó là một số điều sơ sơ có thể nêu lên được.

Còn việc chi ngân sách thì tình trạng là thiếu minh bạch và còn nhiều lãng phí cả chi thường xuyên cho đến chi đầu tư. Và mức độ công khai minh bạch của quá trình soạn thảo ngân sách, việc công bố dự toán ngân sách, cũng như việc công bố quyết toán ngân sách và có những bước điều chỉnh là rất thấp.

” Tại sao kinh tế hộ gia đình lại nộp thuế thấp như vậy? Một điều tra gần đây trong một cuộc hội thảo cho thấy rằng các hộ kinh tế gia đình đó có thể thương thảo và có thể đút lót cho các viên chức thu thuế. Vì vậy cho nên thuế thu có thể ít đi nhưng các viên chức ( thu thuế ) kia cũng được thu một phần

TS Lê Đăng Doanh”

Ví dụ như hiện nay chi thường xuyên lên đến 71% tổng số chi là một mức chi quá cao về chi thường xuyên nuôi bộ máy của Nhà nước. Đó là điều cần có điều chỉnh sớm. Tình hình thu chi ngân sách của Việt Nam hiện nay đang có cá tín hiệu khá khẩn trương. Bởi vì như năm nay, mức phải nộp nợ công, trả nợ công là 31% của chi ngân sách. Như vậy tức 71% chi thường xuyên + 31% trả nợ công, thì ngân sách đã thâm hụt 0,2%.

Toàn bộ số tiền đầu tư phải nhờ vào trái phiếu chính phủ và vay mượn. Đó là tình trạng khá khẩn trương, và tôi nghĩ Quốc hội cần phải có biện pháp để điều chỉnh tình trạng này.

Gia Minh: Trong cuộc họp quốc hội sắp kết thúc thì vấn đề có được nêu ra không và có đề cập đến những giải pháp gì không?

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh: Về thảo luận thì các đại biểu có chất vấn và có nêu lên rất nhiều vấn đề. Còn về việc kết luận và hành động thì cho đến nay tôi chưa được thấy. Tôi mong rằng đến khi kết thúc thì quốc hội sẽ có những nghị quyết về vấn đề quan trọng và cũng là rất cấp bách này.

Gia Minh: Nói một cách nôm na thì đây cũng như chuyện thu chi trong một gia đình, theo tiến sĩ cách để giải quyết tình trạng này thì ngoài việc như những nhóm người trẻ đòi hỏi quyền được biết; nhưng biết rồi thì cần phải có biện pháp ra sao?

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh: Tôi nghĩ rằng điều này sẽ giúp ích cho người trẻ là có quan tâm hơn, có trách nhiệm hơn đối với tình hình chung của đất nước. Và nó sẽ góp phần làm cho tình trạng công khai minh bạch của thu chi ngân sách của Việt Nam sẽ được cải thiện. Bởi vì nếu như người trẻ đã lên tiếng thì tôi chắc sẽ có nhiều tầng lớp khác của nhân dân cũng sẽ quan tâm.

Gia Minh: Cám ơn tiến sĩ dành cho những thông tin vừa rồi.

Báo chí và người làm báo trong một chế độ độc tài toàn trị

Báo chí và người làm báo trong một chế độ độc tài toàn trị

Song Chi.

+Nhân ngày Báo chí “cách mạng” VN 21.6.

Đặc điểm của báo chí trong một chế độ độc tài: không đặt quyền lợi của đất nước, dân tộc lên trên mà phải đặt quyền lợi của chế độ đang cai trị đất nước trên tất cả, “ông chủ” của những nền báo chí ấy không phải là nhân dân, bởi vì nó không phục vụ lợi ích của đông đảo nhân dân, nhất là những con người bé nhỏ không thể cất tiếng nói trong xã hội như tầng lớp lao động, những người nghèo, bất hạnh, phận con sâu cái kiến… mà phục vụ trước hết là giai cấp cầm quyền, sau đó là những kẻ có tiền.
Báo chí ở VN dưới chế độc tài toàn trị do đảng cộng sản nắm quyền suốt bảy thập kỷ qua, là một nền báo chí như vậy. Nó phải phục vụ cho sự tồn tại của chế độ, của đảng cộng sản, chịu sự kiểm duyệt, cầm tay chỉ việc của Ban Văn hóa Tư tưởng, Ban Tuyên giáo Trung ương.…
Ngay cả bây giờ, ở thời điểm năm 2015, so sánh với báo chí của chế độ VNCH đã bị “bức tử” từ 40 năm trước, báo chí của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa VN vẫn thua xa hàng dặm về mức độ tự do, dân chủ.
Sau ngày 30 tháng Tư năm 1975, báo chí “cách mạng” VN nhìn chung đã thừa hưởng, tiếp thu được nhiều tố chất của nền báo chí ở miền Nam, nếu so với báo chí ở miền Bắc trước năm 1975 không chỉ sặc mùi tuyên truyền đậm đặc mà còn khô cứng, nghèo nàn, đơn điệu, quê mùa từ phần trình bày, kỹ thuật in ấn, phông chữ, cung cách đưa tin, viết bài. Báo chí sau 1975 hiện đại hơn từ kỹ thuật, cho đến cung cách làm báo. Sau khi ‘đổi mới” và đời sống kinh tế có khá lên thì báo chi càng “khởi sắc” hơn với đủ loại báo ngày, tập san, nguyệt san, tạp chí, báo ảnh… đẹp đẽ bắt mắt về hình thức, và “tự do” hơn trong việc khai thác những khía cạnh đời thường của các nghệ sĩ, những người nổi tiếng, những khía cạnh vật chất của cuộc sống-một điều hoàn toàn không hề có so với báo chí miền Bắc trước năm 1975.
Nhưng sự thay đổi bề ngoài ấy không hề thay đổi cái bản chất, cái mục đích chính của báo chí trong chế độ cộng sản. Đó là phải tuyên truyền, bảo vệ chế độ, có tính định hướng rõ ràng, phải là “vũ khí” của đảng.
Chỉ có điều, báo chí bây giờ lại có thêm một khía cạnh tệ hại thứ hai là xu hướng “lá cải hóa” tràn lan, nhất là những tờ báo mạng, tập san, tạp chí, báo ảnh, phụ trương…Hoặc khai thác tỉ mỉ những yếu tố giật gân trong những vụ án cướp giết hiếp xảy ra hàng ngày trong xã hội và cả trên thế giới, hoặc chạy theo khai thác đời tư những người nổi tiếng, giới showbiz…
Hãy thử lướt qua hàng chục, hàng trăm tờ báo mạng, hoặc cầm trên tay hàng chục những tờ phụ trương, tạp chí bắt mắt bày đầy trên các sạp báo, chúng ta sẽ thực sự lo ngại, thậm chí rùng mình vì kinh hãi. Vì sao người ta có thể vô lương tâm, vô trách nhiệm đến thế khi cho ra đời những bài báo, tờ báo như vậy, và mức độ ‘lá cải’ này chỉ có tăng lên trong những năm qua chứ không hề có dấu hiệu giảm sút, mặc cho dư luận nhiều lần lên tiếng bất bình, phẫn nộ, mặc cho nhiều cuộc hội thảo của người trong nghề về tình trạng này.

Là một người cũng từng nhiều năm làm báo trong môi trường VN trước khi rời nước ra đi và bây giờ vẫn tiếp tục viết lách với tư cách một người viết tự do, tôi không lạ gì bầu không khí làm báo ở VN, những giới hạn “đèn vàng” mà người làm báo không thể vượt qua, sức ép đối với những người làm báo chân chính khi muốn viết lên sự thật, và một sức ép khác là phải bảo đảm yêu cầu có người đọc.
Trừ những tờ báo đảng như Nhân Dân, Quân đội nhân dân…báo chí VN nói chung cũng phải tự cân đối, tự thu tự chi bằng nguồn bán báo và nguồn thu từ quảng cáo, nhất là những tờ báo online chỉ sống hoàn toàn bằng quảng cáo, nên phải tính đến yếu tố “câu khách”. Từ sự thúc bách phải có người đọc, nhiều tờ báo đã chạy theo khai thác tối đa những đề tài giật gân như vừa nói trên.
Các nước tự do dân chủ cũng có báo “lá cải”, kể cả báo khiêu dâm. Nhưng ở các nước ấy có những quy định rất chặt chẽ về đạo đức nghề báo, có luật pháp rõ ràng, và nếu nhà báo vượt quá giới hạn hoặc viết ẩu, viết bậy thì cá nhân hoặc tập đoàn nào là “nạn nhân” sẽ kiện ra tòa và không chỉ phóng viên mà cả ban biên tập, chủ bút, cả tờ báo đó cũng bị phạt một cách xứng đáng. Còn ở VN, nếu một cá nhân hay một công ty nào bị một phóng viên vì lý do nào đó viết ẩu, viết sai, thậm chí vu khống, bôi nhọ, lắm khi cũng chẳng muốn kiện vì có kiện cũng chưa chắc đã được gì, mà chỉ mất thì giờ, mệt mỏi thêm. Với tâm lý ấy người ta thường đành là cho qua, và các nhà báo vô lương tâm hoặc yếu kém về tay nghề cứ vậy mà tồn tại, tiếp tục viết bậy!
Từ khi internet phát triển, rồi blog, các trang mạng xã hội và những tờ báo ngoài luồng, những tờ “dân báo” ra đời, chúng ta có thể thấy rõ ảnh hưởng của dòng báo chí ngoài luồng và các trang mạng xã hội này đối với một bộ phận người dân và ngay cả đối với báo chí “chính thống” ra sao. Nhiều người đã được “mở mắt” thức tỉnh từ khi đọc báo bên ngoài, biết được những sự thật về lịch sử, về xã hội, về chế độ mà đảng và nhà nước cố tình bưng bít, bóp méo bao lâu nay. Con số người bỏ không đọc, không tin vào báo đảng, ngược lại theo dõi thường xuyên các tờ báo bên ngoài, các trang mạng xã hội ngày càng nhiều. Ngay báo chí “chính thống” của nhà nước cũng bị tác động bởi báo ngoài luồng.
Bất cứ một thông tin dối trá, một bài viết tuyên truyền sặc mùi tuyên giáo, một hành động phản cảm hay một lời phát biểu dốt nát, ngu xuẩn của một ông quan bà nghị nào đó, những chi tiết sai sót, phi lý của một vụ án oan hay một vụ án có tính chất chính trị, một điều luật, chính sách ngớ ngẩn mới được thông qua…tất cả đều nhanh chóng bị đưa ra mổ xẻ trên các tờ “dân báo”, các trang mạng xã hội. Không chỉ một hai lần, báo chí “chính thống” phải điều chỉnh hoặc âm thầm gỡ bài khi bị báo ngoài luồng “bóc mẽ” những sự dối trá, sai sự thật.

Không ít nhà báo đang ăn lương ở một tờ báo nào đó vẫn theo dõi báo bên ngoài và nhiều khi lấy tin từ các báo, blog bên ngoài hoặc lặng lẽ thay đổi quan điểm trong một bài viết của mình. Còn các quan to quan nhỏ trong bộ máy nhà nước VN, không rõ họ có bao giờ dám đọc báo ngoài luồng không, nhưng có một điều chắc chắn là họ hiểu được “tác động” của dòng báo chí đó dối với chế độ và họ lo ngại. Ngược lại, con số blogger, nhà báo tự do bị xách nhiễu, bị hành hung, bị tống giam vào tù với những bản án cực kỳ khắc nghiệt vì những bài blog, bài báo của mình ngày càng nhiều, đã đưa VN vào trong danh sách những quốc gia bỏ tù nhà báo nhiều nhất, là kẻ thù của internet. Những blogger, nhà báo tự do ấy đã phải trả một cái giá không hề rẻ cho việc viết lên sự thật, với khao khát cung cấp những thông tin đa chiều cho người dân VN.
Họ là những anh hùng. Còn những nhà báo anh hùng khác nữa, là những nhà báo vẫn đang làm việc cho một tờ báo của nhà nước, nhưng cố gắng không trở thành bồi bút hoặc không góp phần “ xả rác” vào xã hội bởi những tin bài của mình.
Tôi vô cùng khâm phục những nhà báo tử tế, chân chính còn sót lại giữa làng báo thiếu vắng tự do dân chủ và tràn ngập những cướp, giết, hiếp, mông đùi hở hang…như ở VN.
Những nhà báo ấy đã phải xoay sở tìm cách “lách” sao cho thông tin thuộc loại “nhạy cảm” về mặt chính trị xã hội có thể đến được với người đọc, hoặc ít nhất, viết cách nào đó để người đọc có thể đọc và hiểu giữa hai hàng chữ những gì người viết thực sự muốn nói. Họ đã phài tận dụng những cơ hội hiếm hoi khi báo chí được “thả lỏng” giây lát. Ví dụ như trong mối quan hệ phức tạp và bất tương xứng giữa hai đảng, hai nhà nước Việt-Trung, đôi khi quan hệ giữa hai bên trở nên xấu đi và nhà cầm quyền VN cảm thấy cần phải để báo chí “xả” một chút, hoặc để báo chí chuyển tải thông điệp về tình trạng xấu đi đó đến nhà cầm quyền Trung Quốc. Báo chí được dịp đưa những thông tin như tàu Trung Quốc cắt cáp tàu thăm dò dầu khí VN, tàu TQ rượt đuổi, cướp bóc, đánh chìm tàu cá của ngư dân Việt, hay Trung Quốc đang cấp tập xây cất, biến các bãi đá ngầm trên biển Đông thành những hòn đảo nhân tạo và những căn cứ quân sự nguy hiểm trong tương lai như thế nào…
Những lúc ấy báo chí khởi sắc hẳn lên, nhiều bài báo mạnh mẽ lên án Trung Quốc, các nhà báo lúc ấy đang thực sự đứng về phía người dân VN, nói lên tâm trang uất ức, phẫn nộ, tình cảm thật sự của người dân VN đối với nhà cầm quyền Trung Quốc và những chinh sách bành trướng, xâm lược, mưu mô thâm độc của họ.
Tất nhiên, những lúc mở xả như vậy rất hiếm hoi và có thể lại đóng lại bất cứ lúc nào nếu nhà cầm quyền cảm thấy có thể làm cho Bắc Kinh tức giận hoặc nếu những người lãnh đạo Trung Nam Hải lại tìm được cách nào đó vừa xoa dịu vừa khống chế đám lãnh đạo cao cấp nhất của VN.
Lảm báo ở VN khốn nạn như vậy đấy.
Bên cạnh đó là rất nhiều người cũng mang danh nhà báo nhưng không hề mảy may động lòng trước hiện trạng đất nước, dân tộc cũng như viễn cảnh không mấy sáng sủa của VN trước tham vọng ngày càng rõ và quyết tâm ngày càng sắt đá của Bắc Kinh. Những dạng ấy nhiều lắm. Hoặc tiếp tục bưng bô nịnh bợ chế độ, tuyên truyền những điều dối trá về đảng và nhà nước cộng sản, về lịch sử, hiện tại và cả tương lai, điên cuồng chống lại con đường tốt đẹp hơn cho VN là thoát khỏi chế độ độc tài độc đảng lạc hậu và gây hại cho đất nước cho dân tộc như lâu nay. Hoặc chỉ chăm chăm khai thác những đề tài “cướp, giết, hiếp”, mông đùi, đời tư người nổi tiếng, cổ vũ cho lối sống chạy theo bản năng của con người, chạy theo vật chất, nhà lầu, xe hơi, thời trang hàng hiệu khi suốt ngày viết “thiếu gia” này mới tậu con xe tiền tỷ, diễn viên kia sắm nhà lộng lẫy, người mẫu nọ có bồ là đại gia tiêu tiền như nước, hoa hậu kia khoác lên người bộ cánh hàng chục ngàn USD, đeo chiếc nhẫn kim cương “khủng”…
Không ai hồ nghi gì về sức mạnh của báo chí. Sức mạnh ấy nếu được đặt vào những nhà báo chân chính có tài có đức, trong một môi trường báo chí tự do dân chủ, có thể tạo ra những thay đổi biến chuyển theo chiều hướng tích cực cho xã hội, cho đất nước. Và ngược lại. Trong một xã hội độc tài và tôn thờ đồng tiền như VN hiện nay, báo chí không thể làm tốt được chức năng tôn trọng sự thật, phục vụ lợi ích của đất nước, nhân dân, ngược lại ngày càng biến tướng và tệ hại.
Nhiều người làm báo không lương tâm khi đưa ra một vụ án chưa thực sự khởi tố, người bị tình nghi vẫn chưa bị kết tội đã thay mặt tòa kết án người ta, giết chết người ta về mặt uy tín xã hội. Có những bài báo khi viết về những vụ án hiếp dâm, đã không thèm che mặt nạn nhân hoặc có làm mờ và ghi tắt tên nhưng lại đưa những thông tin về trường học, cơ quan hoặc đưa hình ảnh nhà cửa khiến những người nào biết nạn nhân có thể dễ dảng đoán ra. Nhất là những vụ án mà nạn nhân hay người phạm tội là trẻ vị thành niên, cuộc đời vẫn còn dài trước mắt, sẽ sống ra sao sau khi vụ án đi qua.
Có những bài báo khai thác nhiều kỳ một vụ án giết người không chỉ từ lúc kẻ thủ phạm ra tay thủ ác mà cả quãng đời trước đó và sau đó trong trại giam, thông tin về cha mẹ người yêu hay vợ, chồng được đưa tuốt lên mặt báo. Hay vụ những người mẫu bán dâm, báo chí khai thác tối đa, phỏng vấn cả chồng, mẹ chồng tương lai của một người mẫu trong số đó, cuộc đời người mẫu này coi như không còn có cửa làm lại, cho dù sau khi mãn hạn tù. Và vô số những ví dụ về những cách đưa tin bài thiếu lương tâm như vậy mà chúng ta có thể bắt gặp tràn ngập trên báo chí VN.
Chưa nói đến khía cạnh lớn hơn là dối trá, bóp méo sự thật. Biết bao nhiêu sự dối trá trong suốt chiều dài nắm quyền của đảng cộng sản mà nhờ có internet, báo chí bên ngoài, người dân VN mới biết được, nhưng vẫn còn rất nhiều thông tin nằm trong bóng tối chưa bị lộ ra.
Một môi trường làm báo thiếu vắng tự do, đầy nghịch lý, những kẻ bồi bút bưng bô chế độ thì leo cao, hưởng mọi vinh quang phú quý, những người viết sự thật thì bị xách nhiễu, buộc thôi việc, hoặc bị tù; những kẻ viết tin bài vớ vẩn lá cải thì sống khỏe còn những nhà báo chân chính thì đau khổ vì không thể viết được theo đúng lương tâm mình.

Trong một môi trường như vậy, những người làm báo chỉ còn lại sự đối diện với chính mình. Rằng trước khi đặt bút viết bất cứ cái gì, tự hỏi mình bài viết ấy sẽ phục vụ cho ai, cho đất nước, nhân dân hay cho nhà cầm quyền, có lợi cho đất nước hay có hại; đối với những bài viết có liên quan đến số phận con người cụ thể, thì cuộc sống của họ sẽ ra sao sau khi bài báo được đưa ra. Nếu làm được như thế tin rằng những bài viết dối trá, bóp méo sự thật lịch sử, nhằm nịnh bợ chế độ và làm ngu dân, hay những bài viết dễ dãi khai thác phần bản năng của con người, sẽ có thể bớt đi.
Mọi vinh hoa phú quý, danh hiệu nhận được từ chế độ chả có nghĩa lý gì. Sự phán xét lâu dài của lịch sử, của nhân dân mới là sự phán xét mà không một ai có thể tránh được.

Kinh doanh ở VN: Lời hay lỗ đều phải hối lộ cho cán bộ thuế

Kinh doanh ở VN: Lời hay lỗ đều phải hối lộ cho cán bộ thuế

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI (NV) – Để tránh bị hạch sách và yên ổn sản xuất kinh doanh, các chủ doanh nghiệp ở Việt Nam buộc phải “biết điều” với cán bộ thuế.

Doanh nghiệp và người dân khi đi làm thủ tục đóng thuế phải hối lộ cho
cán bộ thuế. (Hình: Thuvienphapluat)

Ngày 21 tháng 6, Tuổi Trẻ dẫn kết quả khảo sát của trung tâm nghiên cứu phát triển hỗ trợ cộng đồng trong đề tài “nguy cơ tham nhũng trong khu vực hộ kinh doanh tại Việt Nam” cho thấy, trong 500 hộ kinh doanh được khảo sát, có 1/3 đồng ý hoàn toàn về việc thường “dàn xếp” với cán bộ thuế để phải nộp mức phạt thấp hơn và không lấy biên lai; 14% cho biết họ phải nộp thuế ít hơn nếu biếu quà cho cán bộ thuế.

Bồi dưỡng để công việc được thuận lợi, nhanh chóng, chứ không là thế nào cán bộ thuế cũng tìm ra sai phạm rồi làm khó dễ mình. Chỉ những người làm kinh doanh mới thấy được nỗi cay đắng, của hộ kinh doanh và doanh nghiệp khi bị cán bộ thuế và quản lý thị trường “hỏi thăm,” nhiều chủ doanh nghiệp đã cho biết như vậy về việc tại sao phải “lót tay” cho cán bộ thuế.

“Một năm hai lần cứ đến tháng 6 và tháng 12, chúng tôi lại được cán bộ gọi điện để… hỏi thăm sức khỏe. Và dù muốn hay không, vui hay buồn, thua lỗ hay lời to, chúng tôi vẫn phải ‘gặp’ các vị nếu không chỉ có con đường bị làm khó mà thôi,” ông Sơn, chủ doanh nghiệp nhựa ở Chợ Lớn nói.

Còn chị Ngọc, chủ một doanh nghiệp sản xuất thức ăn gia súc cho biết, “Mình muốn cán bộ thuế xông xáo thì phải “tốt” với họ. Cái nào cũng có cái giá của nó. Nếu không ‘bồi dưỡng’ khi gặp khó khăn về thuế họ không hướng dẫn nhiệt tình. Tuy nhiên, mỗi năm, lại có nhiều quy định mới, do không theo kịp nên chắc chắn doanh nghiệp cũng vướng vài sai phạm.”

Còn anh Hoàng, một chủ trang trại heo ở Long An cho biết, “Chỉ cần không ‘bồi dưỡng’ thử một lần đi rồi sẽ thấy năm đó tự dưng ‘lòi’ ra bao nhiêu sai phạm. Làm kinh doanh phải tính chuyện lâu dài, tính đến lợi nhuận nên thà bỏ ra chút ít vẫn tốt hơn là bị cán bộ ‘để ý’ doanh nghiệp của mình.”

Kết quả điều tra xã hội học cho thấy, có 63% hộ kinh doanh tại 8 tỉnh lớn như Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng, Cần Thơ… được khảo sát tin rằng, việc thông đồng, cấu kết, vòi tiền trong ngành thuế luôn diễn ra. Không ai tin rằng hiếm hoặc không diễn ra thực tế này.

Theo ông Đặng Hoàng Giang, trung tâm phát triển cộng đồng, chủ đề tài khảo sát trên thì, hộ kinh doanh đóng thuế chỉ là đóng lấy lệ, một phần để chia cho cán bộ thuế. Các hộ kinh doanh khi bị nhũng nhiễu thường không tố cáo vì họ cho rằng có tố cáo cũng không có kết quả.

Sở dĩ xảy ra tình trạng này là do thông tin về mức đóng thuế rối rắm, biểu thuế và việc áp dụng các mức thuế nào cho đối tượng nào không rõ ràng nên hộ kinh doanh không nắm được. Việc người dân không tin các khiếu nại, tố cáo của mình được giải quyết nên họ tìm cách thông đồng đút lót cho cán bộ thuế để hai bên cùng có lợi.

Trả lời Tuổi Trẻ, ông Ngô Trí Long, nguyên viện phó Viện Nghiên Cứu Thị Trường Giá Cả xác nhận: Hiện nay, thuế là một trong những mảnh đất màu mỡ cho tội phạm tham nhũng. Bằng chứng là ngành thuế luôn “hot,” mỗi khi thi tuyển luôn có hàng ngàn người xếp hàng tham gia. (Tr.N)

Cuộc sống người bán vé số ở Sài Gòn

Cuộc sống người bán vé số ở Sài Gòn

Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2015-06-19

Cuộc sống người bán vé số ở Sài Gòn Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Untitled-1.jpg

Người già cầm xấp vé số trên tay ở Sài Gòn

RFA photo

Your browser does not support the audio element.

Sài Gòn như một điểm dừng không thể đi thêm được nữa của người lao động nghèo. Mặc dù Sài Gòn đất chật người đông nhưng có vẻ như bất kì người lao động từ miến Bắc, miền Trung hay miền Tây Nam Bộ nào khi đi tìm đất hứa đều nghĩ đến Sài Gòn. Có người vào Sài Gòn để làm thuê, phụ hồ, chạy xe ôm, chạy xe ba gác, người ít vốn, không đủ sức khỏe thì đi buôn đậu phộng rang, đi bán me xoài cốc ổi, bán trái cây dạo. Và những người quá nghèo, vốn liếng duy nhất có thể cầm cược với người khác là thẻ căn cước thì họ sẽ dùng thẻ căn cước cầm cho đại lý vé số để mang vé số đi bán mỗi ngày.

Đất chật người đông, cạnh tranh khốc liệt

Việc bán vé số trên đất Sài Gòn thời kinh tế khó khăn nghe ra hết sức chật vật, cạnh tranh khốc liệt mà trong cuộc cạnh tranh này, người nghèo bao giờ cũng thua thiệt nhiều thứ. Có một điểm chung là đa phần người lao động Quảng Nam và Quảng Ngãi đều chọn nghề bán vé số trên đất Sài Gòn để sống qua ngày. Và nếu như thử dạo một vòng trên các quận Sài Gòn, dễ dàng bắt gặp người bán vé số gốc Quảng Nam, Quảng Ngãi chiếm số đông, sau đó đến người Bình Định, Phú Yên và thi thoảng gặp một vài người đến từ miệt Tây Nam Bộ.

Một người bán vé số tên Lý, đến từ Thăng Bình, Quảng Nam, chia sẻ: “Một bữa thì kiếm bảy chục, bốn chục, năm chục kiếm tiền qua bữa. Nếu mình đau thì họ cho một lon sữa hoặc Tết thì có chai dầu với gói bột ngọt. Giờ đi không nổi, xa quá mỏi chân đi không nổi bằng mấy đứa con gái nó mạnh. Buổi sáng thì ăn bánh mì năm ngàn, hoặc tô bún, nếu có tiền thì ăn mười ngàn, không có thì ăn năm ngàn, bảy ngàn giống ổ bánh mì. Buổi trưa cũng ăn cơm năm ngàn nếu họ không bán thì mua bảy ngàn. Bữa nay họ ít trúng nên họ ít mua, bán không ra, đi chết người luôn.”

Theo bà Lý, hiện nay, số lượng người Quảng Nam, Quảng Ngãi đi bán vé số trên đất Sài Gòn chiếm rất đông, họ sống tập trung ở các khu nhà trọ trong quận Tân Bình và Gò Vấp. Sở dĩ người bán vé số sống tập trung ở hai quận này vì đây cũng là hai địa điểm có người miền Trung định cư trên đất Sài Gòn nhiều nhất. Chỉ riêng khu xóm chợ Bà Hoa, Tân Bình đã có đến vài trăm người Quảng Nam, Quảng Ngãi vào trọ để bán vé số.

Cũng trong khu vực này, chiếm hầu hết là người Quảng Nam định cư, chính vì có nhiều đồng hương đi trước, đã ổn định ở nơi đây nên những lao động nghèo đã chọn đất Tân Bình và Gò Vấp như một chỗ dựa lúc sa cơ lỡ vận mặc dù tình đồng hương ở đây cũng không giúp được gì cho họ. Nhưng dẫu sao, có chung giọng nói, thói quen và quê cũ cũng giúp những người tha phương cầu thực cảm thấy ấm lòng nơi đất khách quê người.

Nhưng cũng theo bà Lý, cuộc cạnh tranh trong nghề bán vé số càng lúc càng trở nên khốc liệt, đôi khi chính các đồng hương với nhau trở thành đối thủ đáng sợ của nhau. Ví dụ như một người Quảng Nam hay Quảng Ngãi đã ổn định, có nhà cửa nơi Sài Gòn sẽ dễ dàng trụ lại trong cơn lốc kinh tế trượt dốc. Một người thất nghiệp chỉ cần bày một chiếc bàn trước cửa nhà, nhận một loạt vé số về bán và khi bán họ sẽ có chế độ ưu đãi đặc biệt cho khách hàng, sẽ hút khách gấp nhiều lần so với người đi bán dạo.

Ví dụ như trường hợp khuyến mãi một cặp vé 50 tờ, nếu trúng hai số cuối của giải đặc biệt sẽ được nhận 500 ngàn đồng. Nếu làm một phép toán kinh tế, chuyện này rất đơn giản. 50 tấm vé loại 10 ngàn đồng, người bán sẽ lãi được 50 ngàn đồng theo mức hoa hồng 10%. Và khi bán xong cặp vé 50 tấm, đại lý chỉ cần gọi điện thoại cho số đề, ghi hai số cuối của cặp vé vừa bán theo diện đầu đuôi hoặc theo diện đuôi chừng 20 ngàn đồng.

Nếu tối đó xuất hiện hai số cuối trong giải đặc biệt, đại lý vé số sẽ trúng đề được từ bảy trăm ngàn đồng nếu ghi đầu đuôi đến một triệu bốn trăm ngàn đồng nếu chỉ ghi số đuôi. Như vậy, vẫn lãi được 30 ngàn đồng từ hoa hồng mà vẫn dư được 200 ngàn đồng hoặc 400 ngàn đồng nếu xuất hiện hai số đuôi, sau khi đã thanh toán giải thưởng cho khách.

Chính nhờ lợi thế ngồi tại chỗ, bán cặp lớn và thu hút được những khách hàng chịu chơi bởi số lượng vé nhiều, phong phú, khác xa với người đi bán dạo chỉ có lèo tèo một đến hai trăm vé, trong đó gánh cả tiền thuê phòng trọ, tiền ăn, tiền tích lũy phòng khi đau ốm, tiền gửi về giúp đỡ gia đình ngoài quê. Nói theo cách gì, người bán vé số dạo cũng không thể nào cạnh tranh nổi với các điểm bán cố định.

Thu nhập ngày càng teo tóp

veso-400.jpg

Một người bán vé số đang mời khách. RFA photo

Một người bán vé số tên Nhường, đến từ Quảng Ngãi, hiện trú ngụ tại Gò Vấp, Sài Gòn, chia sẻ: “Tuổi già mà đi bán vé số là bất đắc dĩ vì cuộc sống mà phải làm, chứ nắng thế này đi đau đớn lắm. Vì không có con cháu, không có nhà cửa nên phải ở nhờ nhà họ. Bữa trưa gặp dọc đường thì ăn đại một miếng.”

Theo ông Nhường, việc đi bán vé số mỗi ngày, nếu nói lãng mạn một chút là đánh cược sự may mắn cho một ai đó thì cũng là việc đánh cược sự may mắn và sức khỏe của bản thân với nắng mưa, với xe cộ ngược xuôi và với bản thân mỗi ngày thêm mệt mỏi, rời rạc, hết muốn sống.

Nhưng con người, một khi còn thở thì còn phải biết lăn lê ngoài đời để kiếm ăn. Mặc dù với tuổi đời thuộc vào dạng “cổ lai hy” nhưng ông không có nơi nương tựa, nếu nghỉ bán vé số cũng không có gì để ăn, không có chỗ để ở. Ông có mệt cũng phải bước ra đường mà mời từng tấm vé số. Nếu bỏ cuộc về quê, cái nghèo sẽ chào đón ông trong vòng vài ngày, sau đó cái đói ghé đến, thậm chí chết không có tiền mua quan tài. Chính vì vậy, ông phải nỗ lực mỗi ngày để dành dụm, tích lũy phòng khi nhắm mắt xuôi tay, hàng xóm có cái để mua giùm ông chiếc quan tài.

Hiện tại, mỗi ngày ông Nhường đi bộ từ mười đến hai chục cây số, dạo qua các quán cà phê, quán cơm ở các quận Gò Vấp, Tân Bình, có khi xuống đến quận Thủ Đức rồi lại quay về đại lý trả vé số thừa trước bốn giờ chiều. Dù mệt cỡ nào ông cũng phải có mặt tại đại lý lúc bốn giờ kém. Nếu về không kịp, số vé thừa ông phải tự ôm lấy và đền tiền cho nhà nước.

Có ngày đi bán chỉ kiếm được hai chục ngàn đồng, cũng có ngày mưa gió, không thể bán được, ông chỉ cầu trời bán cho được mười tờ quanh quẩn chỗ quán cà phê gần phòng trọ và đội mưa đến đại lý trả vé. Có được mười ngàn, ông sẽ mua được một gói mì tôm loại rẻ và hai ổ bánh mì không. Như vậy đã đủ một bữa ấm lòng. Trường hợp trời không mưa mà bán ế thì ông sẽ đến quán cơm từ thiện giá hai ngàn đồng để ăn. Cũng có bữa ông được hàng cơm cho cơm để ăn.

Ông Nhường nói rằng đâu chỉ riêng ông già cả, khó khăn phải bươn chải trên đất Sài Gòn này mà hầu hết những người già không nơi nương tựa, chưa đủ tám mươi tuổi để nhận mỗi tháng 180 ngàn đồng của nhà nước hằng tháng, thì đều phải bươn bả ngược xuôi, đều phải chật vật kiếm ăn qua ngày giữa đất Sài Gòn. Dù sao ông cũng cám ơn Sài Gòn đã mở rộng vòng tay cưu mang ông và những người cùng khổ giống như ông!

Nancy Nguyễn và những hoạt động cho nhân quyền Việt Nam

Nancy Nguyễn và những hoạt động cho nhân quyền Việt Nam

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2015-06-19

Nancy-Nguyen.jpg

Nancy Nguyễn và Mặc Lâm tại RFA hôm 18/6/2015.

RFA photo

Chắc nhiều người trong chúng ta còn nhớ khi phong trào đòi bầu cử tự do tại Hongkong nổ ra vào tháng 9 năm ngoái với biểu tượng là những chiếc dù màu vàng bung ra rộng khắp trên nhiều con đường của thành phố thì ngay những ngày đầu tiên ấy đã xuất hiện một cô gái người Việt đến từ California cùng chung với sinh viên Hongkong biều tình đòi quyền tự do bầu cử và ứng cử.

Cô gái ấy là Nancy Nguyễn, hôm nay có mặt tại phòng thu của Đài ACTD nhân dịp cô cùng phái đoàn nhân quyền của người Việt hải ngoại về thủ đô Washington để trình bày trước các vị dân cử Hoa Kỳ về tình trạng nhân quyền Việt Nam. Mặc Lâm có cuộc trò chuyện cùng cô.

Mặc Lâm: Chào Nancy, rất ngạc nhiên khi biết Nancy có mặt tại thủ đô trong dịp này, trong thời gian gần đây Nancy đã xuất hiện nhiều trên những diễn đàn chính trị hải ngoại đặc biệt rất quan tâm tới vấn đề dân chủ nhân quyền cho Việt Nam, Nancy có thể chia sẻ một ít về các hoạt động của mình và tại sao lại dấn thân vào lĩnh vực rất khó khăn này so với lứa tuổi của Nancy?

” Trong tất cả những tình huống như vậy mà Việt Nam lại xây tượng đài Khổng Tự thì đó là vấn đề sai về thời điểm. Đây có thể gọi là sỉ nhục đối với quốc thể của Việt Nam vào thời điểm này.
– Nancy Nguyễn”

Nancy Nguyễn: Dạ hoạt động thì không có gì nhiều, Nancy chỉ hỗ trợ những đoàn thể, tổ chức để họ có thêm nhân sự phục vụ cho những công việc có mục đích chung. Giống như ngày hôm nay Nancy tới Washington để hỗ trợ với TS Nguyễn Đình Thắng, BPSOS để cùng vào Quốc hội giải trình những vấn đề về nhân quyền, tự do tôn giáo cũng như luật Lao động Việt Nam.

Lý do mà Nancy dấn thân vào con đường này thì căn nguyên gốc rễ rất xa xôi vì khi qua tới bên đây mình cảm thấy rất ngạc nhiên vì sao người Việt của mình lại dễ thương đến mức đó. Mình nghĩ chuyện đó khó tin lắm nhưng mất một thời gian rất lâu khoảng thời gian từ 2 tới 3 năm thì mình mới bắt đầu nhận ra được và chấp nhận chuyện Humanities thật sự tồn tại vì ở Việt Nam nó gò mình dữ lắm. Khi chấp nhận sự tồn tại về tình người thì mình nghĩ phải làm một cái gì đó cho đất nước của mình.

Mặc Lâm: Vâng đó là vấn đề Việt Nam. Nancy từng qua Hongkong trong cuộc biểu tình của sinh viên bên đó thì ngày hôm nay có một tin vui cho người dân Hongkong đó là cuộc họp của các nhà lập pháp đã bỏ phiếu bác bỏ quy tắc bầu cử của đảo quốc. Đây phải nói là một thành công của phong trào cây dù trước đây. Nghe tin này Nancy có vui không?

Nancy Nguyễn: Rất là vui. Khi Nancy rời Hongkong rồi thì các bạn Hongkong vẫn gửi tin nhắn, vẫn liên lạc thường xuyên họ kể những chuyện bên đó và họ rất buồn. Có nhiều bạn khóc quá trời, họ nói chúng tôi không biết phải làm gì bây giờ, họ không cho chúng tôi biểu tình thì chúng tôi đi shopping! Nancy cũng nói là các bạn ráng lên tuy các bạn có thể bị bắt nhưng hạt mầm dân chủ nó đã nằm trong đất rồi thì các bạn ấy nói rằng các bạn cần những lời như vậy để mà tiếp tục phấn đấu…hai đứa nhiều khi ngồi khóc với nhau…vì vậy khi nghe tin họ đã đạt được thành quả nhất định thì đó là một cái tin rất vui.

Mặc Lâm: Là người hoạt động dân chủ nhân quyền có lẽ Nancy theo dõi xã hội của Việt Nam rất sát phải không?

” Dạ hoạt động thì không có gì nhiều, Nancy chỉ hỗ trợ những đoàn thể, tổ chức để họ có thêm nhân sự phục vụ cho những công việc có mục đích chung.
– Nancy Nguyễn”

Nancy Nguyễn: Dạ, cũng có theo dõi hàng ngày.

Mặc Lâm: Có một vấn đề liên quan tới văn hóa đang bị dư luận phê phán rất gắt gao đó là tỉnh Vĩnh Phúc trích ngân sách 271 tỉ để xây văn miếu thờ Khổng Tử và trước đó thì UBND tỉnh đã có hẳn một phái đoàn sang Trung Quốc để học tập rút kinh nhiệm. Là người trẻ và sống ở hải ngoại Nancy nghĩ gì trước câu chuyện này?

Nancy Nguyễn: Thưa nói cho công bằng, là một người trẻ sống ở hải ngoại thì Nancy rất open về vấn đề xây các tượng đài hay những biểu tượng vể văn hóa. Thành ra nếu chỉ nhận xét riêng những biểu tượng văn hóa như tượng đài Khổng Tử thì đối với những người lớn lên ở nước ngoài thì rất bình thường, tuy nhiên cái không bình thường ở đây có lẽ là vấn đề thời điểm. Ở Việt Nam trong tình trạng giàn khoan đã quay trở lại trong hải phận cùng với tình trạng ngư dân Việt Nam vẫn còn bị bắt bớ đòi tiền chuộc, thậm chí bị giết chết. Ngược lại khi Việt Nam mình bắt ngư dân Trung Quốc đánh bắt cá gần bờ của mình thì chỉ trả họ về mà thôi. Trong tất cả những tình huống như vậy mà Việt Nam lại xây tượng đài Khổng Tự thì đó là vấn đề sai về thời điểm. Đây có thể gọi là sỉ nhục đối với quốc thể của Việt Nam vào thời điểm này.

Số tiền 271 tỉ thì khó có thể justified và số tiền đó thì Quốc hội cần phải giải trình cho người dân Việt Nam. Tuy nhiên chúng ta cũng biết rõ đây là một số tiền lớn có thể sử dụng vào những công trình phúc lợi khác của xã hội, giống như xây cầu cho các em đi học, hoặc xây thêm nhà cửa cho người dân thế nhưng chính quyền đã chọn dùng số tiền 271 tỉ đó để xây tượng Khổng Tử vào lúc này thì có lẽ cần phải xem xét lại.

Mặc Lâm: Xin cám ơn Nancy.

httpv://www.youtube.com/watch?v=xTZxDXxlVU0

Chia sẻ về chiến dịch vận động tự do tôn giáo và nhân quyền cho VN

Chia sẻ về chiến dịch vận động tự do tôn giáo và nhân quyền cho VN

Hòa Ái, phóng viên RFA
2015-06-20

cao-dai-622

Phóng viên Hòa Ái (bìa phải) trao đổi cùng ông Lê Phú Hữu, đến từ bang Texas và cô Đinh Ngọc Tuyết, đến từ bang Kentucky tại trụ sở RFA hôm 19/6/2015.

RFA

Cuộc tổng vận động cho VN diễn ra tại thủ đô Washington DC từ ngày 17 đến ngày 19 tháng 6. Vào sáng thứ Sáu, 19 tháng 6, tại văn phòng đài ACTD, Hòa Ái được dịp đón tiếp và trao đổi với 2 trong số hàng trăm người Việt quy tụ về đây trong lần vận động này, đó là ông Lê Phú Hữu, đến từ bang Texas và cô Đinh Ngọc Tuyết, đến từ bang Kentucky.

Tự do tôn giáo là điều kiện trong Hiệp định TPP

Hòa Ái: Xin phép được chào ông Lê Phú Hữu và cô Đinh Ngọc Tuyết. Trước tiên, câu hỏi xin dành cho cô Ngọc Tuyết, được biết cô là một trong những người về thủ đô Washington DC hàng năm để vận động cho VN thì kết quả của cuộc vận động lần này có sự khác biệt so với những lần trước như thế nào, thưa cô?

” Tôi thấy trong lần vận động này đồng bào của mình rất có ý thức về Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương TPP. Ở Hạ Viện và Thượng Viện lúc nào họ cũng nhắc đến vấn đề đó.
-Đinh Ngọc Tuyết”

Đinh Ngọc Tuyết: Tôi thấy trong lần vận động này đồng bào của mình rất có ý thức về Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương TPP. Ở Hạ Viện và Thượng Viện lúc nào họ cũng nhắc đến vấn đề đó. Khi tất cả các phái đoàn đến nói chuyện với các vị Dân biểu và các vị Thượng Nghị sĩ thì họ đã biết nhiều về vấn đề TPP và TPA, nhất là ngày hôm qua họ đã bỏ phiếu để thông qua TPA. Đây là luật để trao quyền cho Tổng thống có thể đàm phán nhanh. Điều Ngọc Tuyết thấy có một  kết quả khả quan vì đây là lần đầu tiên trong lịch sử của Quốc hội Hoa Kỳ mà chúng ta có thể cài vào được một tu chính án do Thượng Nghị sĩ James Lankford của bang Oklahoma. Do một số anh em, nhất là anh Phạm Hữu Quang đã dẫn đầu 1 phái đoàn người Việt tại Oklahoma làm việc rất sát với vị Thượng Nghị sĩ này và Thượng Nghị sĩ này đã đưa được vào chính thức tu chính án để chúng ta để chúng ta có thể chắc chắn rằng tự do tôn giáo phải là một là 1 điều kiện tiên quyết trong Hiệp định TPP.

Tình hình đạo sự chưa được tiến bộ

Hòa Ái: Thưa ông Lê Phú Hữu, Hòa Ái được biết lịch trịch chiều nay ông cùng nhiều người Việt khác đến gặp Ủy Hội Hoa Kỳ về Tự do Tôn giáo Quốc tế cũng như Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ thì chiều hôm nay, ông sẽ trình bày với họ điều gì?

Lê Phú Hữu: Kính thưa quý khan thính giả đài ACTD, năm nay sẽ nhắc nhở lại và lưu ý những hiện tượng mặc dù có sự nhắc nhở của LHQ, của Hoa Kỳ nhưng VN vẫn còn vi phạm. Chẳng hạn như trong cuộc sinh hoạt tôn giáo tháng 4 vừa rồi thì Hội đồng Chưởng quản, công cụ của Đảng Cộng sản đã dung phương pháp đàn áp đối với những người đấu tranh đòi quyền độc lập, bảo tồn chánh pháp chuyên chính của đạo. Đó là mục đích của chúng tôi sẽ thông báo cho toàn thể nhơn sanh cũng như khán thính giả của đài ACTD trên thế giới biết được tình hình đạo sự chưa được tiến bộ.

Hòa Ái: Được biết ông cũng là một trong những người tham gia nhiều lần trong những cuộc vận động cho VN trong các năm qua, ông nhận thấy chính giới Hoa Kỳ có lắng nghe tiếng nói của cộng đồng VN hay không?

” Mục đích của chúng tôi sẽ thông báo cho toàn thể nhơn sanh cũng như khán thính giả của đài ACTD trên thế giới biết được tình hình đạo sự chưa được tiến bộ.
-Lê Phú Hữu”

Lê Phú Hữu: Qua quá trình trước năm 2012 chúng tôi cũng đã từng đến Washington DC để đi đấu tranh. Tuy nhiên sau thời gian từ năm 2012 có một sự phối hợp giữa tôn giáo nói chung và Cao Đài nói riêng đối với BPSOS thì chúng tôi thấy có một sự tiến bộ về nhân lựu tuổi trẻ và kết quả của cuộc vận động ảnh hưởng đến Quốc hội cũng như Bộ Ngoại Giao, bên Hành Pháp. Đó là điều chúng tôi rất vui mừng, nhất là tuổi trẻ càng ngày càng tích cực đóng góp vào vận mạng để mang lại sự tụ do, độc lập và nhân quyền, tín ngưỡng cho VN.

Hòa Ái: Thưa cô Ngọc Tuyết, như ông Lê Phú Hữu nhấn mạnh đến giới trẻ, chắc là cô thuộc thế hệ 1.5, xin cô chia sẻ vì sao riêng bản thân cô cũng như những người trẻ lại nhiệt tình để tham gia vào các cuộc vận động cho VN như vậy?

Đinh Ngọc Tuyết: Tôi nghĩ rằng 40 năm đã trôi qua và thế hệ thứ nhất là thế hệ của cha mẹ và ông bà của mình đã tới ngày lớn tuổi. 40 năm nay đất nước chìm ngập trong sự đàn áp của Đảng CSVN và tôi thấy đất nước VN đi xuống, đạo đức suy đồi. Chính vì thế tuổi trẻ ngày hôm nay, nhất là thế hệ trẻ 1.5, thế hệ của Ngọc Tuyết đây, có thể là thế hệ gạch nối giữa thế hệ cha ông thứ nhất và thế hệ sinh sinh trưởng ở Mỹ, thế hệ thứ 2 như thế hệ con của Ngọc Tuyết. Thế hệ thứ 2 rất giỏi về tiếng Anh và họ tham gia nhiều vào dòng chính của Mỹ nhưng sự nối kết của họ với nguồn gốc VN và với người VN của mình thì chưa được liên kết mạnh.

Cho nên trách nhiệm của thế hệ 1.5 là làm cầu nối. Vì thế hệ 1.5 có thể nói thông thạo cả 2 thứ tiếng, tiếng Việt và tiếng Anh, có thể giúp nối được nhịp cầu để tre già măng mọc. Thế hệ thứ nhất đã lớn tuổi, họ có những kinh nghiệm có thể truyền lại nhưng họ không còn sự nhiệt huyết và năng lực để tiếp tục làm việc thì thế hệ 1.5 sẽ tiếp tục gánh vác những trách nhiệm đó và truyền lại những kinh nghiệm quý báu từ thế hệ thứ nhất và từ đó hình thành 1 cộng đồng làm việc chung với nhau để giúp thay đổi tiến trình, mang lại tự do tôn giáo, tự do ngôn luận và quyền làm người, quyền con người và nhất là đem luồn gió tự do dân chủ về cho đất nước VN, nơi đồng bào chúng ta đang còn sống rất đau khổ dưới chế độ Cộng sản.

Hòa Ái: Xin cảm ơn thời gian của 2 vị đã đến đài và chia sẻ cùng với quý khán thính giả của đài ACTD.

httpv://www.youtube.com/watch?v=ihbfobvBF9Q#t=291

KHỎI CHỨNG BẠI LIỆT NHỜ TÌNH PHỤ TỬ BAO LA

KHỎI CHỨNG BẠI LIỆT NHỜ TÌNH PHỤ TỬ BAO LA

Sr.Jean Berchmans Minh Nguyệt

Bà Alessandra York là phụ nữ Hoa Kỳ.  Với mái tóc vàng óng ánh, với đôi mắt tinh anh và với dáng đi uyển chuyển, bà là biểu tượng cho mẫu phụ nữ tự tin, yêu đời và thành công trong cuộc sống.  Nhưng sỡ dĩ bà được như thế là nhờ đức kiên nhẫn, lòng can đảm và tình thương bao la của hiền phụ.  Sau đây là chứng từ của bà về người Cha đáng kính.

Mùa hè năm 1949 – tôi lên 8 tuổi – Hoa Kỳ trải qua thời kỳ đau thương.  Đây đó trên toàn nước bị bệnh dịch tê bại trẻ con hoành hành.  Tại nhiều thành phố, nhà thương không còn chỗ để tiếp nhận các trẻ em đáng thương.  Người ta phải đặt thêm giường trên các hành lang.

Tôi là một trong số các trẻ em bị bệnh này.  Chứng bệnh ban đầu làm cho tôi không nuốt được.  Tiếp đến: cổ, hai chân và cánh tay phải hoàn toàn bị tê liệt.  Tôi được chở đến nhà thương.  Các bác sĩ nói với Cha Mẹ tôi là tôi không thoát ra được chứng bệnh hiểm nghèo này.

Bệnh tê bại từ từ lan rộng sang các phần thân thể khác.  Nhưng phần bị nặng nhất là các đốt xương nơi cổ, khiến tôi không thể nào nhấc đầu lên khỏi chiếc gối.

Các bác sĩ giải thích cho Cha Mẹ tôi hiểu rằng, nếu theo một lối chữa trị thích hợp, có lẽ tôi sẽ đi đứng và sử dụng được cánh tay phải, nhưng tôi phải mang một vòng bao quanh cổ và phải theo học nơi trường dành cho các trẻ em tàn tật.

Ý nghĩ rồi đây tôi sẽ trở thành một đứa trẻ tàn tật, luôn luôn tùy thuộc người khác và là đối tượng cho lòng xót thương, khiến thân phụ tôi không thể nào chấp nhận được.  Ba tôi lục lọi tìm đọc tất cả sách nói về chứng bại trẻ em.  Ba tôi cũng thăm dò ý kiến các bác sĩ và y tá.  Sau cùng, Ba tôi thấy rằng, cần phải đưa tôi ra khỏi nhà thương càng sớm càng tốt để bắt đầu các buổi thực tập hầu tôi có thể sử dụng lại tứ chi.  Trong khi chờ đợi, Ba nói với tôi:

– Con phải làm tất cả những gì các bác sĩ và y tá bảo con làm, và phải làm cho tận lực!

“Phải làm cho tận lực”, là điều Ba vẫn hằng nhắn nhủ tôi, và hôm nay, Ba tôi trịnh trọng nhắc lại.

Thời gian sau đó, tôi thấy các trẻ gái lần lượt rời nhà thương trên xe lăn.  Ba nói với tôi:

– Con cũng sẽ rời nhà thương, nhưng không phải trên xe lăn mà bằng hai chân của con!

Ba tôi không bao giờ nói:

– Nếu con được khỏi bệnh,

nhưng luôn luôn nói:

– Khi nào con khỏi bệnh.

Từ tuổi lên 3, tôi theo học các khóa dạy vũ cổ điển.  Nhớ lại các bài học, tôi tận dụng các hiểu biết để tìm ra phương pháp giúp tôi ngồi yên trên giường được hai ba phút.  Tôi cũng tìm cách giữ cho đầu thăng bằng.  Các bác sĩ không thấy gì là đặc biệt, nhưng Ba tôi thì thật vui mừng, như thể là tôi sắp lành bệnh đến nơi!

Tôi rời nhà thương, nhưng vẫn chưa đi được.  Thay vì đẩy tôi trên xe lăn, Ba tôi quyết định bồng tôi trên đôi tay người.

Tôi học đánh dương cầm từ tuổi lên năm.  Khi về đến nhà, Ba tôi ngồi trước đàn và đặt tôi ngồi trên đầu gối của người.  Giữ cho tôi được thăng bằng xong, Ba tôi để hai bàn tay tôi trên các phím đàn.

Nhưng tay phải của tôi cứ buông thõng xuống, trượt ra khỏi các phím đàn.  Thấy thế Ba tôi nói:

– Không sao cả:  Thế nào con cũng chơi đàn trở lại.  Rồi con sẽ thấy!

Ba tôi mời bác sĩ đến tận nhà tập cho tôi sử dụng các bắp thịt.  Chính Ba tôi cũng bỏ bớt việc làm để đứng ra tập luyện cho tôi.  Từ từ tôi có thể đi đứng được, giữ cho đầu thăng bằng và chơi được vài nốt đàn.

Mùa thu năm sau, tôi trở lại trường học và trở lại với môn dương cầm và môn vũ cổ điển.

Khi bước vào bậc trung học, tôi là thiếu nữ bình thường như bao thiếu nữ khác.  Ba nói với tôi:

– Con sắp gặp số đông học sinh không biết gì về chứng bệnh của con.  Vậy con đừng nói với ai cả.  Bệnh tật đã qua rồi.

Tôi tuyệt đối nghe theo lời khuyên của Ba.  Ngay cả giờ đây, chỉ trừ ít người thân và bạn bè, còn lại không ai biết tôi từng bị bệnh tê liệt.

Ba tôi qua đời vào năm 61 tuổi.  Nhưng trước đó, Ba hãnh diện đưa tôi vào nhà thờ ngày tôi lãnh nhận Bí Tích Hôn Phối.  Sau đó, Ba sung sướng khi thấy tôi xuất hiện trên màn ảnh truyền hình.  Rồi Ba cảm động đọc các tác phẩm tôi viết về sức khoẻ và về sắc đẹp.  Nói tóm lại, Ba chứng kiến tất cả thành công của tôi, và nhất là Ba tôi biết rằng, tôi là phụ nữ tự tin, hạnh phúc và ngẩng cao đầu khi góp mặt với đời.

Tất cả thành công tôi đạt được là nhờ công ơn trời biển của hiền phụ tôi.  Người không đầu hàng trước căn bệnh hiểm nguy của tôi và cùng tôi chiến thắng căn bệnh.  Suốt đời, tôi ghi ơn Ba tôi.

… “Giờ đây, chúng ta hãy ca ngợi những vị danh nhân, cũng là cha ông chúng ta qua các thế hệ. THIÊN CHÚA đã sáng tạo nên nhiều người con hiển hách là các vĩ nhân từ những thưở xa xưa: Có những người cai trị đất nước mình và là những con người nổi danh về quyền lực.  Có những người lãnh đạo dân bằng các lời chỉ dẫn, bằng tài dạy dỗ dân chúng và những lời giáo huấn khôn ngoan.  Có những người sáng tác những điệu nhạc du dương, viết ra những bài thơ bài phú.  Có những người giàu sang, lắm quyền nhiều thế, sống bình an hòa thuận trong nhà.  Hết thảy đều được người đương thời khen ngợi, được vẻ vang trong lúc sinh thời. Trong các vị, có những người lưu danh hậu thế cho người đời ca ngợi tán dương” (Sách Huấn Ca 44, 1-8).

Sr.Jean Berchmans Minh Nguyệt

(”Reader’s Digest SELECTION”, Juin/1992, trang 49-53). (radio Vatican)

Quảng Ninh: Xây trường học 10 tỷ rồi bỏ hoang

Quảng Ninh: Xây trường học 10 tỷ rồi bỏ hoang

Nguoi-viet.com

QUẢNG NINH (NV)Nằm trên ngọn đồi ngay trung tâm thành phố Hạ Long, thế nhưng trường trung học cơ sở Cao Xanh xây chưa được chục năm đã bị bỏ hoang 2 năm nay do xuống cấp nghiêm trọng.


Trông bề ngoài ngôi trường rất bề thế, vững chãi. (Hình: VNEpxress)

Theo tin ngày 18 tháng 6, 2015 của VNEpxress, trường cấp 2 Cao Xanh, kinh phí xây dựng 10 tỷ đồng, có quy mô 3 tầng, gồm 15 phòng học, một khu nhà hiệu bộ, đáp ứng được cho 500 học sinh và giáo viên đưa vào sử dụng năm 2008, nhưng nay đã ngừng hoạt động gần 2 năm, với cổng khóa chặt, khuôn viên không một bóng người.

Những người dân ở xung quanh cho biết, nhiều năm trước khu vực này từng là nơi khai thác than lậu, nhiều hầm than đào sâu vào lòng núi. Trong đó, có cả khu đồi mà trường cấp 2 Cao Xanh xây dựng.

Mô tả của VNExpress, xung quanh móng ngôi trường bị nứt hở rộng 5-7 cm. Tường và trần nhà xuất hiện rãnh nứt rộng từ tầng 1 lên đến tầng 3. Khu vực tầng 1 của ngôi trường có nhiều vết nứt kéo dài. Tại các cột chịu lực chính, các vết nứt chằng chịt đan chéo vào nhau. Tại khe co giãn giữa 2 khối nhà xuất hiện tình trạng lún, xô lệch rộng 6 đến 7 cm; kính của nhiều phòng học vỡ bắn tung tóe. Do bị bỏ hoang lâu ngày, cỏ mọc cả trên hành lang lát gạch.


Cây dại mọc lên cả hành lang do bị bỏ hoang lâu ngày. (Hình: VNEpxress)

Ông Ðỗ Văn Lộc, tổ trưởng tổ dân phố 34, phường Cao Xanh cho biết, ngôi trường này đưa vào sử dụng từ năm 2008, chỉ một năm sau hiện tượng lún, nứt xuất hiện. Từ năm 2013, do lo sợ tình trạng lún nứt ảnh hưởng tới sự an toàn của học sinh, phụ huynh đã phản đối yêu cầu các cơ quan chức năng cho chuyển toàn bộ học sinh về địa điểm khác cách chỗ cũ gần 4 cây số.

Trả lời về hướng xử lý với công trình 10 tỷ đồng này, ông Trần Trọng Trung, phó chủ tịch thành phố Hạ Long cho biết: “Sắp tới chính quyền thành phố sẽ chi nhiều tỷ đồng để tu sửa và bàn giao cho đơn vị khác sử dụng, tránh lãng phí. Còn về nguyên nhân vì sao trường nhanh chóng bị xuống cấp, phải có thẩm định của chuyên gia mới xác định được,” ông Trung nói. (Tr.N)

Chiến Hữu

Chiến Hữu

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

“Tôi nhân danh sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hoà xin hứa sẽ trở lại với đồng bào.”

Trung úy Đỗ Lệnh Dũng

Tưởng gì chớ sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hoà, cấp bực làng nhàng, như ông Dũng, tôi quen cả đống.  Bạn cùng khoá độ vài trăm, cùng đơn vị khoảng vài chục, và cùng trại (tù) chắc … vài ngàn!

Tôi đã nghe vô số thằng kể lại những giờ phút cuối cùng của đơn vị mình, nhưng chưa thấy ai bị lâm vào hoàn cảnh bi đát – và giữa lúc thập tử nhất sinh – vẫn “tuyên bố” một câu (ngon lành) dữ vậy.  Cỡ Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu (vào giờ phút chót) cũng chỉ âm thầm … đào ngũ thôi, chứ chả hề có mở miệng nói năng gì ráo trọi – với bất cứ ai.  Còn Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ thì ồn ào hơn chút đỉnh, cho nó đã miệng, rồi cũng chuồn êm – không lâu – sau đó.

Trường hợp của Đỗ Lệnh Dũng thì hơi khác.  Cách hành xử của ông cũng khác.  Bảnh hơn thấy rõ. Coi:

Đúng nửa đêm 24/11/1974, trái đạn 82 ly đầu tiên rót vào trong vòng đai Đồng Xoài.  Với đại pháo và T-54 yểm trợ, hai trung đoàn của Sư Đoàn 7 của Bắc Quân – sử dụng chiến thuật tiền pháo hậu xung –  đã chiếm được chi khu này, vào rạng sáng 7/12/1974.

Buổi chiều cùng ngày, trong khi đang cùng những quân nhân còn sống sót tìm cách thoát khỏi vòng vây, trung úy Đỗ Lệnh Dũng (bỗng) thấy một đoàn người – toàn là đàn bà và trẻ con nhếch nhác, với tay nải hòm xiểng, lôi thôi, lếch thếch – nằng nặc đòi đi theo toán quân của ông, để trốn ra khỏi vùng đất (sắp) được … hoàn toàn giải phóng.

Tháng 6, 1965: Đồng Xoài, Vietnam. Nguồn: AP/Horst Faas

Trước nguy cơ dân chúng có thể bị thiệt mạng oan uổng trong lúc giao tranh, và để thuyết phục mọi người nên ở lại nhà cho được an toàn, trung úy Dũng đã dõng dạc nói với mọi người:

Tôi nhân danh sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hoà xin hứa sẽ trở lại với đồng bào.”

Và Đỗ Lệnh Dũng đã trở lại thực, chỉ vài ngày sau, như là một … tù binh!  Ngay sau đó, ông bị đấu tố trước Toà Án Nhân Dân Huyện Đôn Luân (một tên gọi khác, mỹ miều hơn, của Đồng Xoài) rồi bị đưa từ Nam ra Bắc –  theo đường mòn Hồ Chí Minh – để … học tập cải tạo. Gần muời năm sau, năm 1982, Đỗ Lệnh Dũng lại được chuyển trại từ Bắc vào Nam (chắc) cho dễ thăm nuôi.

Cuộc đời rõ ràng (và hoàn toàn) không may của trung úy Đỗ Lệnh Dũng đã được ghi lại bởi nhà văn Lê Thiệp bằng một cuốn sách, dầy đến bốn trăm trang, lấy tên của chính ông làm tựa. Tác phẩm này được nhà xuất bản Tiếng Quê Hương viết lời giới thiệu như sau:

“Đỗ Lệnh Dũng không chỉ là câu chuyện về chiến tranh, dù nhân vật chính là một chiến binh mất tích giữa chiến khu D sau một trận đánh dữ dội. Đây là câu chuyện về những oan khiên khắc nghiệt mà người dân Việt Nam phải trải gần trọn thế kỷ qua cho đến ngày nay.”

“Nhân vật chính giã từ cha mẹ khi tròn 18 tuổi và lúc được gặp lại cha mẹ thì đã gần tới tuổi ngũ tuần.  Thời gian xa cách là lửa đạn, là những ngày lê gót trên con đường mòn vượt rừng núi Trường Sơn từ Nam ra Bắc, là những năm tháng đoạ đầy tại những trại tù …”

“Dù chỉ là một góc cạnh giữa muôn ngàn góc cạnh của một thời bão táp, câu chuyện vẫn là bằng cớ vô giá về thảm trạng con người bị tước đoạt trọn vẹn tuổi trẻ, tình yêu gia đình và mọi điều kiện an bình của cuộc sống.”

Cuốn Đỗ Lệnh Dũng đã được ra mắt tại thành phố San Jose, California.  Hôm đó, tôi được hân hạnh nhìn thấy Trung Úy Dũng và Thiếu Tá Đặng Vũ Khoái – chỉ huy trưởng Chi Khu Đôn Luân – người mà không mấy ai tin là còn có thể sống sót, sau khi đơn vị này bị tràn ngập bởi địch quân.

Thiếu tá Khoái cho biết nhờ tác phẩm này mà trong thời gian qua, một số những người lính năm xưa – đang tản mát khắp năm Châu – đã tìm lại được nhau.  Và ông nghẹn ngào khi giới thiệu với mọi người, vài quân nhân khác của đơn vị hiện (cũng) đang có mặt trong buổi ra mắt sách.

Ảnh: NXB Tiếng Quê Hương

Tôi ngồi ở cuối hội trường, không nhìn được rõ nét mặt của những nhân vật này nhưng có thể đoán được rằng mắt họ đều ngấn lệ.  Tôi cũng là một cựu chiến binh, cũng có cái may mắn lớn lao còn sống sót sau cuộc chiến vừa qua, và thoát thân được đến một nơi an bình nên cảm thông (thấm thía) tình cảm xúc động này.

Trong giây phút đó chắc chắn mọi người đều cảm thấy an ủi và ấm lòng, trước cảnh trùng phùng bất ngờ (và khó ngờ) đến thế.  Cái cảm giác sung sướng vì sự may mắn (hiếm hoi) của mình đã theo tôi suốt cả buổi chiều hôm ấy, và đã cùng với tôi đi vào giấc ngủ.

Nửa khuya, tôi thức giấc. Tôi vẫn luôn thức giấc vào giấc đó.  Và đó cũng là lúc mà tôi hay lò dò trở về … chốn cũ!  Như một công dân “part – time” của nước Hoa Kỳ, tôi chưa bao giờ sống hết mình và hết tình nơi quê hương mới.  Hơn nửa đời lưu lạc, tôi vẫn cứ sống mộng mị –  theo kiểu “ngày ở / đêm về” – như thế.

Tôi thường trở về Đà Lạt.  Đây là nơi mà tôi đã lớn lên, và đã ướp đẫm tuổi thơ (cũng như tuổi trẻ của mình) bằng rất nhiều đặc sản của núi rừng: nuớc hồ Xuân Hương, sương mù, phấn thông vàng, mùi cỏ khô của Đồi Cù, cùng với hàng trăm loại hương hoa man dại.

Có dạo, tôi hay trở về những đồi trà, đồi bắp, đồi khoai mì – bao quanh trại cải tạo Tân Rai –  ở Blao.  Tôi cùng lũ bạn tù cứ đi trong nắng sớm, trên những con đường mịn màng (thơm nồng mùi đất) sau một đêm mưa.  Cũng có khi tôi về lại Sài Gòn, ghé thăm một người bạn đồng đội, chỉ vừa mới biết sơ, qua một bài báo ngắn – của ký giả Bùi Bảo Trúc:

“Sáng nay mở e-mail ra đọc, tôi nhận được từ một người không hề quen biết, không kèm theo một giòng chữ nào, bức hình một người đàn ông mà tôi cũng chưa gặp bao giờ.  Hình chụp người đàn ông đang ngồi trên giường có trải chiếu, đằng sau là bức tường loang lổ, hoen ố những vết đen mốc.  Ông có một bộ ria, tóc dầy và đen, một mắt to, một mắt nhỏ mà tôi nghĩ là bị hư, chỉ còn một con.  Ông không còn chân tay.  Hai chân bị cụt trên đầu gối.  Và hai tay cụt ở trên khuỷu tay, gần nách.”

“Trong hình có ghi tên ông.  Ông tên là Thìn, Nguyễn Văn Thìn.  Năm sinh được ghi là 1952.  Hàng chữ phía dưới cho biết ông là thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa.  Đơn vị cuối của ông là Trung Đoàn 49, Sư Đoàn 25 Bộ Binh.  Cấp bậc của của ông là Trung Sĩ Nhất.  Ông sinh năm 1952, tuổi Thìn nên tên cũng là Thìn.  Ông không còn chân tay.  Từ 30 năm nay, ông không có chân, cũng không có tay.”

“Ông làm sao sống nổi qua bằng ấy năm không có hai chân mà cũng không có cả hai tay.  Tôi tưởng tượng, không khó khăn lắm, cũng vẫn thấy ra được những khó khăn của ông.  Trong một chế độ thân thiện với ông, ông cũng đã vô cùng bất hạnh vì thiếu con mắt, thiếu hai tay, lại thiếu luôn cả hai chân.  Huống chi trong một khung cảnh không thân thiện nếu không muốn nói là thù nghịch, thì ông còn khổ biết là bao nhiêu nữa.  Tôi không dám tưởng tượng thêm ra những chuyện khác trong đời sống hàng ngày của ông, nếu đó có thể gọi được là một đời sống.”

Thương binh Nguyễn Văn Thìn. Nguồn: OntheNet

Người bạn đồng đội luôn luôn nhìn tôi với đôi mắt u buồn và lắc đầu ra dấu, như có ý nói là đừng đến thăm nhau nữa: “muộn mất rồi.”  Mãi sau này tôi mới biết là … muộn thật!  Trong những trang sổ tay cũ, khi viết về trung sĩ Nguyễn Văn Thìn, cách đây khá lâu, tôi đã có dịp phổ biến địa chỉ của ông: nhà số 9/8 đường Bông Sao, phường 5, quận 8, Sài Gòn.

Độ một tháng sau, có độc giả báo cho tôi biết là họ đã gửi quà về biếu ông Thìn nhưng không còn … kịp nữa.  Ông bạn của tôi đã qua đời, vài tuần, trước đó!

Có đêm thì tôi về miền Trung, phần quê hương khốn khó mà trước đây tôi chưa bao giờ có dịp ghé qua, để thăm một đồng đội khác:

“Tôi phải vượt đường xa tít tăp từ Huế tìm đến nơi 1 anh Thương Binh mù hai mắt, cụt 2 tay lẫn 2 chân gần Lăng Cô … Tôi nhìn thấy anh Dương Quang Thương nằm xấp ngay ngạch cửa.  Tôi lên tiếng chào, anh bật ngồi dậy hỏi tôi là ai?”

“Qua những phút giây trao đổi, tôi thấy anh khóc, những dòng nước mắt lăn ra từ hai hố mắt sâu thẳm ấy làm tôi phải khóc theo.  Nghe tiếng người lạ, vợ anh từ sau hè chạy lên trên tay còn cầm nắm rau dền hoang vừa mới ngắt về để lo bữa ăn chiều, chị chào hỏi tôi rồi rót nước mời tôi uống …”

“ Thoạt đầu tôi chỉ nói tôi là người mang tiền và thuốc tây đến cho anh do bà con từ bên Úc đóng góp gửi về. Tôi gởi anh 100 đô Úc và 5 hộp thuốc tây.  Anh đã rưng rưng khóc lần nữa và cảm ơn nhiều lắm đến bà con ở Úc và Hội. Sau một hồi tâm sự anh nhắn gửi lời cảm ơn đến người điều hành Hội mà gia đình anh thường thư từ qua lại nhiều năm nay.  Tôi xúc động quá và cho biết là: Thưa anh chị chính tôi đây…  Nghe đến đó anh quờ quạng hai cái cùi tay còn lại lết thật nhanh về hướng tôi và ôm lấy tôi mà khóc.”

“ Vợ anh cũng khóc.  Tôi cũng khóc.  Người chạy xe ôm cũng khóc theo…  Sự hy sinh của anh quá lớn, hai mắt, hai tay và hai chân cho tổ quốc còn cá nhân chị đã hy sinh cả cuộc đời cho những người mà cả tổ quốc phải tri ân.  Chị đã khóc nhiều lắm vì những khó khăn đè nặng thân phận của người phụ nữ ốm o gầy còm cố vươn vai suốt hơn ¼ thế kỷ gánh gồng, ẵm bồng tắm rửa, đút ăn và những cơn lũ lụt khủng khiếp phải cõng chồng chạy tìm sinh lộ… Ra tới đầu ngõ, tôi và anh xe ôm vẫn còn khóc… “(Nguyễn Cảnh Tân, “Nỗi Sầu Riêng Hay Cái Đau Chung,” Việt Luận, 27 Oct. 2006).