Nhiều người Cuba có thể bị trục xuất khi Hoa Kỳ-Cuba tái lập ngoại giao

Nhiều người Cuba có thể bị trục xuất khi Hoa Kỳ-Cuba tái lập ngoại giao

Nguoi-viet.com

MIAMI, Hoa Kỳ (AP) – Với việc Hoa Kỳ và Cuba đang tiến gần đến việc hoàn toàn tái lập quan hệ ngoại giao, kể cả việc mở lại tòa đại sứ sau 54 năm gián đoạn, số phận của hàng chục ngàn người Cuba đang bị lệnh trục xuất của Sở Di Trú Hoa Kỳ đang ngày càng bất định hơn.

Báo giới xúm đông tường trình sự kiện cột cờ của Cuba tại tòa nhà Cuban Interest Section ở Hoa Thịnh Đốn, vào trung tuần Tháng Sáu, 2015, để chuẩn bị cho việc hai nước Hoa Kỳ-Cuba tái lập quan hệ ngoại giao. (Hình: AP Photo/Pablo Martinez Monsivais, File)

Hiện có tới 25,000 người Cuba đang sống ở Hoa Kỳ đã bị lệnh trục xuất, theo cơ quan thi hành chính sách Di Trú và Quan Thuế (ICE).

Họ gồm những người bị coi là mối đe dọa cho an ninh quốc gia hay có tiền án hình sự trầm trọng và được coi là thành phần ưu tiên trục xuất.

Dù rằng phía Hoa Kỳ rất muốn đưa trả họ về Cuba, những người này cho đến nay vẫn còn ở đây vì chính quyền Cuba của Chủ Tịch Raul Castro chưa cho phép họ trở về. Hiện chưa rõ là chính sách của Cuba về vấn đề này sẽ có thay đổi hay không.

Từ nhiều thập niên nay, việc trục xuất về lại Cuba đã gặp khó khăn vì không có quan hệ ngoại giao và vì chính quyền Cuba không cung cấp giấy chiếu khán cho phần lớn những người bị trục xuất.

Thỏa thuận trục xuất năm 1984 gồm có 2,746 người từng đến Hoa Kỳ năm 1980 trong chiến dịch ào ạt ra đi Mariel Boatlift. Năm đó, Chủ Tịch Nhà Nước Cuba Fidel Castro, nhằm tạo khó khăn cho Washington, bất ngờ loan báo sẽ cho phép bất cứ ai muốn rời khỏi quốc gia này được tự do lên thuyền ra đi.

Có khoảng 125,000 người Cuba đến Florida trong thời gian từ Tháng Tư tới Tháng Mười năm 1980.

Hồ sơ ICE cho thấy có 1,999 người trong danh sách này đã bị trả về Cuba, với khoảng 1,093 người kể từ năm 2001 tới nay. ICE là cơ quan có nhiệm vụ truy tìm và bắt giữ người ở Hoa Kỳ bất hợp pháp cũng như những người được lệnh phải ra khỏi nước.

Tính tới cuối Tháng Ba, có hơn 35,000 người Cuba có lệnh trục xuất và có thêm 2,300 người Cuba khác đang chờ đợi phải ra tòa di trú và có thể bị trục xuất. ICE cho hay trong số này, có khoảng 25,000 người bị coi là có ưu tiên trục xuất vì có hành vi phạm pháp. (V.Giang)

Lần đầu tiên có hai phụ nữ tranh cử tổng thống ở Đài Loan

Lần đầu tiên có hai phụ nữ tranh cử tổng thống ở Đài Loan

Nguoi-viet.com

ĐÀI BẮC, Đài Loan (AP) – Hai đảng lớn nhất ở Đài Loan đã đều đề cử một phụ nữ đại diện họ ra tranh cử tổng thống trong kỳ bầu cử năm 2016, một hành động lịch sử cho thấy sự chấp nhận khả năng lãnh đạo của phụ nữ ở quốc gia này.

Bà Hung Hsiu-chu, một cựu nhà giáo và hiện là phó chủ tịch Quốc Hội, vẫy cờ
sau khi bà được Đảng Quốc Dân Đảng Đài Loan đề nghị ra tranh cử tổng thống.
(Hình: AP Photo/Chiang Ying-ying)

Quốc Dân Đảng Đài Loan, hiện đang là đảng cầm quyền, hôm Chủ Nhật đề cử bà Hung Hsiu-chu, một cựu nhà giáo và hiện là phó chủ tịch Quốc Hội, đại diện họ ra tranh cử tổng thống. Bà Hung, người ủng hộ có quan hệ thân thiện với lục địa Trung Quốc, sẽ đối đầu với bà Tsai Ing-wen, chủ tịch đảng đối lập Dân Chủ Cấp Tiến (DDP), với lập trường dè dặt hơn trong quan hệ với Bắc Kinh. Bà Tsai hiện được coi là có thế thượng phong theo các cuộc thăm dò dư luận trước ngày bầu cử vào Tháng Giêng năm 2016.

Mối quan hệ với Trung Quốc hiện đang ngày càng trở thành một vấn đề quan trọng trong cuộc bầu cử tới. Cử tri Đài Loan cho đến nay chưa hề bỏ phiếu cho phụ nữ lên làm tổng thống hay có cơ hội chọn lựa hai phụ nữ đại diện cho cả hai đảng lớn tại quốc gia này.

Bà Joana Lei, giám đốc điều hành cơ quan nghiên cứu Chunghua 21st Century Think Tank ở Đài Loan, nói rằng một số phụ nữ trẻ hơn vẫn còn gặp khó khăn khi vào vai trò lãnh đạo ở Đài Loan, nhưng xã hội này chấp nhận các phụ nữ lớn tuổi hơn, từ 50 trở lên, vì truyền thống lịch sử đã có từ ở lục địa.

Phụ nữ này điều hành 10 bộ chính quyền cũng như một số công ty hàng đầu ở Đài Loan. Có tới 1/3 dân biểu quốc hội Đài Loan là phụ nữ, so với 13% ở Nhật và 16% ở Nam Hàn, theo lời ông Sean King, phó chủ tịch công ty Park Strategies, một công ty tư vấn có trụ sở đặt tại New York.

Ở các quốc gia khác tại Á Châu, bà Park Geun-hye đắc cử tổng thống Nam Hàn hai năm trước đây và bà Sheikh Hasian hiện là thủ tướng Bangladesh. Philippines đã từng có hai tổng thống là phụ nữ.

Quốc Dân Đảng của bà Hung bị mất 9 ghế thị trưởng và quận hạt trong kỳ bầu cử địa phương hồi Tháng Mười Một vừa qua vì cử tri cáo buộc chính phủ của Tổng Thống Mã Anh Cửu quá thân thiện với chính quyền lục địa trong khi không quan tâm đến khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn trong nước. Ông Mã không được tái tranh cử lần tới vì đã ở hai nhiệm kỳ. (V.Giang)

Thông tấn xã Đức: Đại Tướng Phùng Quang Thanh qua đời

Thông tấn xã Đức: Đại Tướng Phùng Quang Thanh qua đời

Nguoi-viet.com

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Đại Tướng Phùng Quang Thanh, ủy viên Bộ Chính Trị Đảng CSVN kiêm bộ trưởng Quốc Phòng, vừa qua đời tại Pháp hôm Chủ Nhật, 19 Tháng Bảy, hãng thông tấn DPA của Đức trích lời một giới chức quân sự cho biết như vậy.

Đại Tướng Phùng Quang Thanh. (Hình: commons.wikimedia.org)

Trong khi đó, tại Việt Nam, chưa thấy một cơ quan truyền thông nào đưa tin về vụ này.

Ông Thanh, 66 tuổi, qua đời tại bệnh viện Georges Pompidou ở Pháp, sau khi được chữa trị bệnh ung thư phổi, DPA trích nguồn tin quân sự nói, nhưng không cho biết danh tánh nguồn, vì người này không được phép nói với truyền thông.

Trước khi bị bệnh, ông Thanh, cũng là phó bí thư Quân Ủy Trung Ương, được coi là một ngôi sao sáng trong Đảng CSVN, theo DPA.

Trong thời gian qua, có nhiều tin đồn về sức khỏe của ông Thanh, sau khi ông đột ngột vắng mặt tại một số sự kiện quan trọng, ví dụ như cuộc họp của chính phủ và đại hội toàn quân.

Lần cuối cùng ông Thanh xuất hiện trước công chúng là vào ngày 19 Tháng Sáu, lúc được ông Jean-Yves Le Drian, bộ trưởng Quốc Phòng Pháp, tiếp đón tại Paris.

Hôm 9 Tháng Bảy, Giáo Sư Phạm Gia Khải, thành viên Ban Bảo Vệ, Chăm Sóc Sức Khỏe Trung Ương, nói với BBC rằng ông Thanh “đã được xuất viện sau khi được giải phẫu một khối u trong phổi, nhưng ông vẫn tiếp tục ở lại Pháp để đợi được kiểm tra.”

Trong cuộc phỏng vấn trước đó với BBC ngày 2 Tháng Bảy, Giáo Sư Khải cho biết ông Thanh được chuyển sang Pháp từ ngày 24 Tháng Sáu để giải phẫu khối u trong phổi.

Theo dự trù, ông Thanh có thể được đưa lên nắm chức chủ tịch nước sau Đại Hội Đảng CSVN lần thứ 12 được tổ chức vào năm tới, DPA trích nguồn tin quân sự cho biết như vậy. (Đ.D.)

Bản tin được đăng tại đây: http://www.dpa-international.com/news/asia/vietnam-defence-minister-dies-in-france-after-cancer-treatment-a-46003499.html

Chúng ta không còn là lọai người ở tỉnh lẻ nữa.

Chúng ta không còn là lọai người ở tỉnh lẻ nữa.

( We are no longer provincial )

Đòan Thanh Liêm

Vào đầu năm 1916, Tổng Thống Woodrow Wilson đã bắt đầu công việc vận động thuyết phục Quốc Hội là nước Mỹ cần phải tham gia giúp đỡ Liên minh Anh Pháp trong cuộc Đệ nhất chiến tranh thế giới khởi sự từ năm 1914. Ông phát biểu một câu đã thành nổi danh như sau : “Chúng ta không thể còn là một dân tộc ở tỉnh lẻ nữa” (nguyên văn tiếng Anh : “We can no longer be a provincial nation” ).Tức là ông muốn xác nhận rằng nước Mỹ đã là một cường quốc với trách nhiệm trong công cuộc bảo vệ tự do và hòa bình trên khắp thế giới, chứ không còn là một quốc gia nhỏ bé, mà tự cô lập khỏi cộng đồng nhân lọai được nữa.

Câu nói này cũng có thể áp dụng cho người Việt đang sinh sống ở trên 60 quốc gia tiến bộ khắp thế giới hiện nay. Nhất là đối với lớp người trẻ là con em chúng ta đang vào lớp tuổi 30-40 đã trưởng thành chững chạc rồi, mà lại tiếp thu được một nền giáo dục văn minh với trình độ khoa học kỹ thuật phát triển cao độ tại các nước Âu Mỹ, thì rõ rệt là các em đã có một nhãn quan rộng rãi, thông thóang rất nhiều so sánh với thế hệ cha bác của mình.Đó là điều làm chúng ta thật vui mừng, vì như người xưa vẫn thường nói : “Hậu sinh khả úy”, và “Con hơn cha, nhà có phúc” vậy.

Vì được sinh sống trong một môi trường văn hóa xã hội tiền tiến như vậy, nên chúng ta dễ hấp thụ được những cái hay, cái đẹp của thế giới hiện đại. Nhờ vậy, mà số trên 3 triệu người Việt hải ngọai có thể đóng góp phần trí tuệ này vào công cuộc xây dựng và phát triển cho quê hương đất nước Việt nam của mình. Chứ không phải chỉ có sự chi viện kinh tế vật chất cho bà con ruột thịt ở quê nhà, như là đóng vai trò của một thứ “con bò sữa”. Cụ thể mà nói, thì chúng ta cần phải có được cái suy nghĩ tòan cuộc, cái viễn kiến sâu xa (global thinking/global vision) về tình hình các sự việc của tòan bộ thế giới ngày nay, cũng như của nước Việt nam nhỏ bé của mình trong khuôn khổ của cái thế giới ấy. Đúng như lời của Tổng Thống De Gaulle vào năm 1964-65 đã nhắn nhủ thanh niên sinh viên nước Pháp là : “Các bạn cần phải có một tầm nhìn vũ trụ (vision cosmique)”. Và còn hơn thế nữa, chúng ta lại có thể mời gọi, thuyết phục được các bạn bè quốc tế rất đông đảo, hùng hậu của mình, để cùng nhập cuộc liên đới với chúng ta trong sự nghiệp tranh đấu cho tự do, dân chủ và nhân quyền của Việt nam, trong tinh thần ôn hòa, bất bạo động vốn là xu thế thời đại trong thế giới văn minh hiện nay.

Với ý hướng đó, trong bài viết này, tôi xin được trình bày về kinh nghiệm cụ thể rằng: “Phát triển Xã hội Dân sự chính là phương cách hiệu quả nhất để đi tới được một nền Dân chủ Tham gia” (Participatory Democracy). Như ta đã biết, XHDS là một trong ba khu vực cấu tạo thành cái không gian xã hội mà mỗi người chúng ta sinh sống trong một miền địa lý nhất định. Định nghĩa này có thể ghi vắn tắt thành một công thức như sau:

Không gian xã hội  =  Nhà nước + Thị trường kinh tế + Xã hội Dân sự.

( The Social Space   =  The State   + The Marketplace   + The Civil Society).

Cả ba khu vực này đều tồn tại song hành với nhau trong tư thế của sự cộng đồng sinh tồn (Coexistence), tức là không một khu vực nào lại tìm cách thay thế hay lọai trừ đơn vị kia.

Thông thường, thì ta có XHDS trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia, hay trong một đơn vị hành chánh nhất định. Nhưng với xu thế tòan cầu hóa ngày nay, thì đã có nhiều tác giả đề cập đến các khía cạnh của một thực thể lớn rộng hơn nữa, đó là “Xã hội Dân sự Tòan cầu” (Global Civil Society), mà thành phần đơn vị cụ thể là các Hội Hồng Thập Tự, Hội Hướng Đạo, Phong Trào Green Peace (Bảo vệ Môi sinh), Tổ chức Ân Xá Quốc Tế (Amnesty International), các Tổ chức Nhân đạo như Ford, Rockefeller, Bill Gates Foundation  v.v… Cũng tương tự như tổ chức Liên Hiệp Quốc (The United Nations = UN ), được khai sinh từ sau thế chiến thứ hai, thì cũng được coi như là một thực thể chính trị bao gồm mọi quốc gia trên thế giới ngày nay. Ta sẽ bàn chi tiết về XHDS Tòan cầu trong một dịp khác, vì bài này tập chú vào hiện tình XHDS tại Việt nam trong bối cảnh của phong trào phát triển về Dân chủ và Nhân quyền của thế giới ngày nay.

Trong vòng 30-40 năm nay, ý niệm về XHDS đã được phát triển phổ biến khắp nơi trên thế giới, qua môi trường hàn lâm đại học, cũng như qua các phương tiện truyền thông báo chí, và nhất là thông qua sự lớn mạnh của hàng triệu các tổ chức phi chánh phủ (NGO = Non-Governmental Organisations), các tổ chức từ thiện nhân đạo, các nhóm họat động xã hội dựa trên cơ sở một niềm tin tôn giáo (Faith-based social action groups) v.v… nhan nhản tại khắp các quốc gia trên thế giới, thì vai trò của XHDS lại càng được chú ý và được đề cao, cổ võ. Đặc biệt, kể từ khi chế độc độc tài tòan trị cộng sản bị xụp đổ tại Đông Âu và tại chính Liên Xô kể từ 20 năm nay, thì vấn đề “Phục hồi và Xây dựng lại XHDS tại các quốc gia cựu cộng sản này” lại càng được đặt ra một cách sôi nổi cấp thiết.

Xu thế chung tại các quốc gia “hậu cộng sản” này là : Quần chúng nhân dân dành lại được cái quyền chủ động của mình trong mọi lãnh vực chính trị, xã hội, kinh tế cũng như về mặt văn hóa, tâm linh. Cụ thể là các hội thiện nguyện về nhân đạo từ thiện cũng như về y tế, giáo dục và tôn giáo v.v… đã được phục hồi để cho các tư nhân được thỏai mái tham gia sáng kiến và hành động, mà không còn bị quyền lực của Nhà nước o ép, kiềm chế gắt gao như dưới chế độ cộng sản nữa. Và đây mới chính là sự thể hiện cái “Quyền Tự quyết, Quyền Tự Làm chủ” của người dân đối với xã hội và đất nước của mình. Kết quả là tại hạ tầng cơ sở của các xóm làng, các khu phố, người dân đã nô nức, phấn khởi hợp tác với nhau để tham gia vào công việc cụ thể và thiết thực, nhằm cải tiến môi trường sinh họat tại địa phương nhỏ bé của chính mình. Và xuyên qua những công tác cải tiến dân sinh cụ thể như thế, người dân càng thêm gắn bó thân mật với nhau và nhờ vậy mà xã hội được phát triển trong tình thân ái, tương trợ và liên đới giữa các thành viên với nhau hơn mãi. Tình trạng “Gắn bó xã hội” (Social Cohesion) này lại càng làm phong phú thêm cái nguồn” Vốn Xã hội” (Social Capital) của tòan thể cộng đồng. Nói cho gọn lại, thì XHDS trong giai đọan hậu cộng sản này đang đóng trọn vẹn cái vai trò làm “Đối tác với Nhà nước” (Counterpart) trong công cuộc xây dựng và phát triển xã hội ngay từ cấp hạ tầng cơ sở tại nông thôn cũng như tại môi trường đô thị.

Mặt khác, vì có tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, tự do nghiệp đòan… là những nhân quyền căn bản như đã được ghi rõ trong Bộ Luật Quốc Tế về Nhân Quyền (The International Bill of Human Rights), nên XHDS đã có thể đóng trọn vẹn một vai trò khác nữa, đó là vai trò làm “Đối trọng” (Counterbalance) đối với Nhà nước, khiến cho chánh quyền không thể vượt quá giới hạn, lạm dụng quyền hành, tự tung tự tác, như dưới thời cộng sản chuyên chế độc tài được nữa. Tại Đông Âu hiện nay, giới sĩ phu trí thức, giới hàn lâm đại học, giới văn nghệ sĩ, cũng như giới lãnh đạo tinh thần của các tôn giáo, thì đều có điều kiện thỏai mái để góp phần phê phán, sửa sai đối với chánh quyền. Tiếng nói của họ được coi như “Tiếng nói Lương tâm” (The voice of conscience) của cả một dân tộc. Nhờ vậy, mà xã hội có thể tránh được bao nhiêu điều sai lầm tệ hại, thất nhân thất đức như đã xảy ra đầy rẫy dưới thời cộng sản, hay dưới thời độc tài phát xít Đức quốc xã trước đây. Kinh nghiệm này rất có ích cho quê hương chúng ta.

Tại Việt nam gần đây, tiếng nói phản biện về chuyện Nhà nước cộng sản đã để cho Trung quốc sang khai thác quặng bâu-xít ở miền cao nguyên, hiện đang gây một tiếng vang lớn trong dư luận quần chúng khắp nơi, cả ở trong cũng như ở ngòai nước. Đó là một dấu hiệu đáng mừng là giới sĩ phu trí thức đã mạnh dạn dấn thân nhập cuộc với tòan thể dân tộc trong việc bảo vệ môi sinh, bảo vệ lẽ sống còn của các sắc tộc thiểu số vốn xưa nay vẫn sinh sống tại miền rừng núi, với sắc thái văn hóa riêng biệt, đặc trưng của mình. Cũng như việc các thanh niên sinh viên đã dũng cảm chống lại việc Trung quốc xâm lấn Hòang Sa, Trường Sa và phần đất ở biên giới phía bắc của Tổ quốc ta. Mặc dầu bị chính quyền Hanoi đã thẳng tay đàn áp thô bạo, giới thanh niên này vẫn kiên trì theo đuổi công cuộc tranh đấu nhằm bảo vệ sự tòan vẹn của lãnh thổ Việt nam. Đây chính là điều rất tích cực góp phần tạo ra khí thế lạc quan, phấn khởi cho việc xây dựng tương lai của xứ sở. Và người ở hải ngọai như chúng ta cần phải hết lòng yểm trợ thật hiệu quả cho sự nghiệp tranh đấu và xây dựng trường kỳ như thế.

Nói vắn tắt lại, chúng ta cần phải chuyển giao cho thế hệ trẻ cái ngọn lửa nồng nàn của tình yêu thương chân thật và liên đới với đồng bào ruột thịt của mình, nêu cao tinh thần bảo vệ Nhân phẩm và Nhân quyền của người dân. Tình yêu thương đó phải được diễn tả cụ thể bằng hành động thiết thực, như tìm cách chấm dứt tệ nạn buôn người (Human Trafficking), đòi hỏi công bằng xã hội cho hàng triệu dân oan hiện đang bị mất nhà, mất đất tại khắp các miền nông thôn hẻo lánh, hỗ trợ cho các nhà tranh đấu cho Dân chủ, Nhân quyền mà đang bị chính quyền cộng sản sách nhiễu, bắt bớ giam cầm trong các nhà tù… Chúng ta cũng phải tận tâm chăm sóc cho các nạn nhân của thiên tai bão lụt, của bệnh tật ngặt nghèo như bênh phong cùi, bệnh HIV/ Aids…, góp phần nâng đỡ các học sinh, sinh viên thuộc các gia đình nghèo túng để các em có điều kiện tiếp tục việc học v.v…Các lọai việc này hòan tòan nằm trong phạm vi tầm tay của chúng ta, trong lãnh vực xã hội dân sự. Có ra  tay nhập cuộc cụ thể và tích cực như thế, thì ta mới thực sự góp phần vào việc tạo ra được một sự chuyển biến rõ rệt trong xã hội được. Như người Mỹ thường nói : That makes a difference, a change. ( Điều đó tạo ra sự khác biệt,sự chuyển biến).

Bài viết này được thành hình là nhờ ghi lại chi tiết câu chuyện tại bữa tiệc Mừng Xuân Kỷ sửu của Hội Luật gia Việt nam, được tổ chức vào ngày Chủ nhật 8 Tháng Ba 2009, nhằm đúng vào Ngày Quốc tế Phụ nữ, tại thành phố Milpitas, gần San Jose California. Tác giả xin gửi lời cảm ơn đặc biệt đến Thẩm phán Phan Quang Tuệ, Luật sư Ngô Văn Quang trong Ban Chấp Hành Hội Luật gia là hai vị đã gợi ý ra đề tài cho buổi nói chuyện này. Và như đã thưa ở trên, người viết xin hẹn sẽ khai triển chi tiết hơn về đề tài Xã hội Dân sự Tòan cầu trong một dịp khác nữa, bởi lẽ bài viết này đến đây thì đã quá dài rồi./

California, Mùa Xuân Kỷ sửu 2009.

Đòan Thanh Liêm

Mục sư Rick Warren và sự Nhập cuộc của tín đồ tôn giáo.

Mục sư Rick Warren và sự Nhập cuộc của tín đồ tôn giáo.

Bài của  :  Đoàn Thanh Liêm

Tại nước Mỹ kể từ sau khi thế chiến thứ hai chấm dứt, thì có nhiều vị mục sư nổi danh với ảnh hưởng rất lớn lôi cuốn được số đông quần chúng khắp nước Mỹ và cả ở ngoại quốc nữa. Trong số này, phải kể đến mục sư Billy Graham, mục sư Martin Luther King và mục sư Rick Warren.

Billy Graham sinh năm 1918 là một vị giảng thuyết lôi cuốn đến hàng trăm triệu người khắp nước Mỹ và cả trên thế giới. Luther King là vị lãnh đạo kiệt xuất của phong trào tranh đấu dân quyền  (civil rights movement) của người Mỹ gốc Phi châu trong các thập niên 1950-60. Rick Warren là một tác giả cuốn sách “The Purpose Driven Life” (Cuộc sống có mục đích) bán chạy nhất, đến trên 30 triệu cuốn trong vòng có 6-7 năm.

Trong bài này, tôi xin viết về mục sư Rick Warren là người trẻ tuổi nhất, sinh năm 1954 tại San Jose và là người sáng lập nhà thờ Saddleback Valley Community Church tọa lạc tại thành phố Lake Forest trong Quận Cam, miền Nam California liền sát với khu Little Saigon của người Việt chúng ta. Trong bài sau, tôi sẽ viết riêng về mục sư Billy Graham. Còn về mục sư Luther King, thì đã có quá nhiều người biết đến rồi, nên tôi thiết nghĩ khỏi cần viết gì thêm về ông nữa.

1 / Tóm lược tiểu sử của Rick Warren.

Rick Warren là con của một vị mục sư và chính bản thân ông cũng đã hiến dâng trọn cuộc đời mình cho việc rao giảng Tin Mừng của Chúa Cứu thế theo truyền thống của phái Tin Lành Southern Baptist. Ông tốt nghiệp bậc cử nhân tại California Baptist University ở Riverside, bậc cao học về Thần học tại Southwestern Baptist Theological Seminary ở Fort Worth, Texas và bậc tiến sĩ về mục vụ tại Fuller Theological Seminary ở Pasadena, California.

Ông thừa nhận mục sư Billy Graham, giáo sư Peter Drucker và mục sư Jimmy Warren người cha của ông là những vị trong số những cố vấn đáng tin cậy nhất của mình (mentor).

Năm 1975, sau khi được truyền chức mục sư, Rick Warren làm lễ thành hôn với Kay Lewis sinh trưởng ở San Diego trong một gia đình có người cha cũng là một vị mục sư. Hai ông bà có 3 người con hiện đều đã trưởng thành và 4 cháu nội ngoại. Cả hai người cùng hợp tác trong việc truyền đạo và phát triển cộng đoàn tín hữu từ con số vài trăm người lúc mới thành lập tại Saddeback trong thành phố Lake Forest vào năm 1980 lên đến con số trên 20,000 tín hữu vào năm 2005. Với số tín đồ thường xuyên tham dự thánh lễ và các sinh họat rất đa dạng hàng tuần đông đảo như vậy, Saddleback Valley Community Church đã trở thành một “Megachurch” đứng hàng thứ 8 trong số trên 1,200 “đại giáo đoàn” của toàn nước Mỹ hiện nay. Megachurch là một hiện tượng tiêu biểu cho phong trào phát triển tôn giáo rất mạnh mẽ, lôi cuốn được hàng triệu tín đồ của các giáo hội Tin lành trong vòng 50 năm qua tại nước Mỹ và cả tại Đại Hàn.

Song song với việc phát triển cơ sở mục vụ này, Rick còn đóng góp rất tích cực vào việc đào tạo, hướng dẫn cho trên 400,000 mục sư và giới chức lãnh đạo hội thánh trên toàn thế giới, dựa theo tinh thần đã được phác họa trong cuốn sách xuất bản lần đầu năm 1995, được bán rất chạy, với nhan đề là “The Purpose Driven Church”.

Rick Warren lại còn nổi danh hơn nữa với cuốn sách được xếp vào loại bán chạy nhất (bestseller), mà hiện đã lên đến 30 triệu cuốn, đó là cuốn sách có nhan đề “The Purpose Driven Life”. Người viết sẽ giới thiệu chi tiết hơn về hai cuốn sách này trong một dịp khác.

Với số lợi tức thu nhập thật lớn lao do việc bán sách, vào năm 2005 Rick Warren đã hoàn lại cho nhà thờ toàn bộ số lương bổng  ông nhận được trong 25 năm với cương vị một mục sư. Và còn hơn thế nữa, ông tiếp tục đóng góp cho nhà thờ 90% số lợi tức thâu nhập của mình, thay vì số 10% mà người tín đồ thường đóng góp vào công quỹ của hội thánh, được gọi là “tithe” (thập phân).Và ông bà tiếp tục sống thanh đạm trong căn nhà nhỏ bé, với cái xe cũ kỹ, chứ không hề có một biểu hiện xa hoa nào của một gia đình triệu phú thường tình.

Nhưng điều đáng ghi nhận hơn cả về vị mục sư danh tiếng này, chính là việc ông đã tổ chức cho các tín đồ và các bạn hữu thân tín của mình tham gia dấn thân nhập cuộc với các dự án hết sức lớn lao về xã hội, y tế, giáo dục và phát triển có tầm vóc toàn cầu. Ta sẽ xem xét công việc này trong các mục tiếp theo đây.

2 / Sự gắn bó với Phi châu : Khởi sự ở Rwanda.

Sau mấy năm chuẩn bị, Rick Warren đã bắt đầu một loạt chương trình hành động của “đại giáo đoàn Saddenback” được mệnh danh là PEACE plan tại nước Rwanda là nơi có cuộc diệt chủng kinh hoàng vào năm 1994, tàn sát đến gấn một triệu sinh mạng trong một quốc gia với dân số chỉ có 9 triệu người. Chữ PEACE này ngoài ý nghĩa là Hòa bình, lại chính là chữ viết tắt của khẩu hiệu gồm 5 mục : Promote Reconciliation, Equip servant-leaders, Assist the poor, Care for the sick, Educate the next generation (Phát triển công cuộc Hòa giải, Trang bị cho người lãnh đạo-phục vụ, Giúp đỡ người nghèo khó, Chăm sóc người bệnh tật, Giáo dục thế hệ tương lai).

Vào năm 2005, tức là 11 năm sau vụ diệt chủng, Rwanda vẫn còn là một quốc gia vào loại nghèo nhất trên thế giới với 90% dân chúng có thu nhập chưa tới 2 dollars mỗi ngày. Ngay từ lúc đặt chân tới đây, Warren liền phát động ngay một chương trình hành động cấp thời gồm nhiều phương diện y tế, xã hội, giáo dục và nhất là cả kinh tế. Ông dẫn các giám đốc xí nghiệp, các doanh gia từ trong số các thành viên của cộng đoàn Saddenback đến tiếp súc và làm việc với giới doanh nghiệp và nhân viên chánh phủ Rwanda để tìm cách xây dựng nền kinh tế của xứ sở này. Họ chú trọng vào công việc đào tạo huấn luyện cho các nhà doanh nghiệp nhỏ tại các làng quê hẻo lánh, cho đến cả việc yểm trợ các dự án xây dựng hạ tầng cơ sở rất lớn lên đến nhiều triệu dollar. Điển hình như  dự án xây dựng đường sắt dài 720 miles nối liền Rwanda với Tanzania và Burundi, chi phí lên đến 2.5 tỷ mỹ kim vừa do 3 nước đó ký kết vào tháng Tư năm 2009.

Rick Warren rõ ràng là có tầm nhìn xa và có uy tín để kết hợp được cả giới lãnh đạo chánh quyền, giới doanh nghiệp tư nhân, cũng như giới lãnh đạo tôn giáo ở hạ tầng cơ sở tại những xóm làng hẻo lành, để cùng nhau thực hiện được rất nhiều dự án cụ thể về y tế đại chúng, từ việc lo chăm sóc cho hàng vạn người mắc bệnh HIV/AIDS, cho bao nhiêu trẻ mồ côi cha mẹ đã chết vì căn bệnh hiểm nghèo này, cho đến việc cấp vốn cho các gia đình nghèo túng để giúp họ phương tiện tự lực mưu sinh, để khỏi phải lệ thuộc mãi vào sự bố thí của người khác.

Phái đòan do Rick Warren hướng dẫn đã được chính Tổng thống Rwanda là Paul Kagame và tòan thể chánh phủ tín nhiệm và hợp tác rất chặt chẽ; nhờ vậy mà sau mấy năm làm việc chung với nhau, thì quốc gia này đã gặt hái được những thành quả rất đáng khích lệ về nhiều mặt kinh tế, xã hội cũng như văn hóa, ngọai giao.

3 / Quần chúng tín đồ các tôn giáo là một nguồn tiềm năng vô biên.

Trong nhiều dịp được mời tham gia các diễn đàn quốc tế như ở New York, Washington DC, ở Davos Thụy sĩ v.v…, Rick Warren đã luôn luôn trình bày rất thẳng thắn đại để như thế này :  “Trên thế giới ngày nay, chúng ta có đến trên 2 tỷ người tín đồ Thiên chúa giáo gồm Công giáo, Tin lành, Chính thống giáo, trên 1.5 tỷ người tín đồ Ấn độ giáo và Phật giáo và trên 1 tỷ người tín đồ Hồi giáo. Khối quần chúng tín đồ lớn lao như thế đó là một nguồn tài nguyên vô biên, mà cho đến nay chưa được mấy ai trong các tổ chức quốc tế chú trọng đúng mức để động viên thuyết phục họ cùng bắt tay dấn thân vào việc giải quyết những khó khăn bế tắc trầm trọng có tầm vóc tòan cầu. Riêng cá nhân tôi là một mục sư Thiên chúa giáo, thì với khả năng hạn hẹp của mình, tôi đã cùng với các tín đồ của nhà thờ Saddenback phát động kế hoạch PEACE để góp phần vào công cuộc phục vụ bà con đang gặp khó khăn ở nhiều nơi, cụ thể như ở Rwanda. Và tôi cũng ước mong quý vị tất cả nên chú ý đến cái khối tiềm năng vĩ đại này, hầu đề ra được những giải pháp tốt đẹp cho thế giới chúng ta đang gặp bao nhiêu bế tắc khủng hỏang ngày nay…”

Dịp khác, ông còn gợi ra hình ảnh tôn giáo là cái chân thứ ba để cùng hợp với khu vực nhà nước và khu vực tư nhân để tạo được thế đứng vững chắc cho tòan bộ chiếc ghế của thế giới ngày nay. Với uy tín sẵn có, Warren có dịp thường xuyên trao đổi và hợp tác với các nhân vật có tầm vóc họat động rộng rãi tòan cầu, điển hình như cựu Tổng thống Bill Clinton, cựu Thủ tướng Tony Blair …

Trong mùa tranh cử Tổng thống Mỹ năm 2008, Warren đã mời được cả hai ứng cử viên John McCain và Barak Obama cùng đến Saddenback để trình bày với cử tri về lập trường của mỗi người trước những vấn đề hệ trọng của đất nước. Và mục sư Warren lại còn được mời đọc lời kinh cầu nguyện trong buổi lễ nhậm chức của Tổng thống Obama tại thủ đô Washington vào đầu năm 2009.

Tạp chí US News and World Report xếp hạng Rick Warren là một trong “25 vị lãnh đạo hàng đầu của nước Mỹ” vào năm 2005. Tạp chí Time thì gọi ông là một trong “15 nhà lãnh đạo thế giới đáng kể nhất trong năm 2004” và cũng là một trong “100 nhân vật có ảnh hưởng nhất trên thế giới” vào năm 2005. Còn báo Newsweek trong năm 2006, thì gọi ông là một trong “15 nhân vật đã làm cho nước Mỹ trở thành vĩ đại”.

Tuy được tung hô khen tặng như vậy, Warren vẫn luôn giữ được sự khiêm cung đạo hạnh của một tu sĩ. Ông thường xuyên cầu nguyện và bày tỏ sự tin tưởng tuyệt đối vào sự dẫn dắt của Thiên chúa trên bước đường phục vụ tha nhân. Niềm xác tín và lòng nhiệt thành của ông đối với sứ mệnh rao giảng lời Chúa như vậy đã lôi cuốn, thuyết phục được hàng triệu tín đồ cũng như các mục sư khác cùng nhau dấn thân nhập cuộc vào những chương trình cụ thể, thiết thực nhằm chống lại nạn nghèo đói và bệnh tật, mở mang về giáo dục cho lớp người bị gạt ra ngòai lề xã hội và bảo vệ môi sinh trên phạm vi tòan cầu.

Tư tưởng cũng như hành động của mục sư Rick Warren quả thật là rất gần gũi với lập trường của Hội đồng Giám mục Công giáo Châu Mỹ La tinh (CELAM) đã được xác định từ lâu, đó là “Sự Chọn lựa của Giáo hội đối với Người Nghèo khổ” ( Church’s Option for the Poor) vậy./

California đầu tháng Mười 2010

Đòan Thanh Liêm

TẠI SAO KHÔNG CÓ HÔI CỦA Ở NHẬT ?

TẠI SAO KHÔNG CÓ HÔI CỦA Ở NHẬT ?

Lúc gian khó mới tỏ lòng người, lấy lửa thử vàng, vàng vẫn còn nguyên vẹn. Khi trận động đất sóng thần năm 2011 xảy ra, người Nhật Bản đã cho tất cả các dân tộc trên thế giới một bài học sâu sắc về đạo đức và những chuẩn tắc làm người.

Ở nhiều quốc gia trên thế giới mỗi khi có thiên tai đến là người ta lại chứng kiến những cảnh rối ren, hỗn loạn, cướp giật, hôi của tràn lan. “Nhưng ở xứ sở “mặt trời mọc” ( Nhật Bản ) thì lại khác. Nơi ấy, hàng vạn người đã mất hết nhà cửa, và thậm chí mất hết người thân… vậy mà họ vẫn lặng lẽ xếp hàng nhận từng nắm cơm trắng, cuộn mình trong những chiếc chăn mỏng thành hàng, thành lối trong chỗ trú nạn. Không hỗn loạn, không tranh cướp, không một ai tích trữ, không một ai kêu than. Có chăng chỉ là những dòng nước mắt lặng lẽ như lặn vào sâu thẳm”.

Cảnh tượng truyền thông thế giới ghi nhận không phải là cảnh tượng hỗn loạn, cướp giật, hôi của, mà là cảnh đoàn người trật tự xếp hàng chờ hàng cứu trợ. Dù khi tới phiên mình có thể lương thực đã hết nhưng họ vẫn kiên nhẫn xếp hàng. Nhiều câu chuyện kể lại có nhiều người đã nhường khẩu phần của mình cho người khó khăn hơn.

Tại một cửa hàng khác đã tan hoang vì động đất, người ta thấy một máy ATM và nhiều thùng lương thực bên trong vẫn còn nguyên vẹn, mặc dù xung quanh không có ai bảo vệ.

Tờ Telegraph ghi nhận: Hàng hóa dù rất khan hiếm, lương thức thiếu thốn, như không hề có tình trạng đầu cơ tăng giá bán – các siêu thị giảm giá 20% và các chủ máy bán nước tự động phát không nước uống cho mọi người – tất cả cùng đoàn kết để tồn tại.

Du học sinh Việt Nam tại Nhật Bản chia sẻ: “Không thấy cảnh cướp bóc, chen lấn, xô đẩy nơi mua thức ăn hay trong ga điện ngầm đang tắc nghẽn. Mọi người xử sự rất bình tĩnh dù ai cũng đều căng thẳng và lo lắng. Giá cả thị trường Nhật Bản cũng không nhân dịp này mà tăng.”

Anh Hà Minh Thành một người Việt ở Nhật Bản đã gửi mail kể một câu chuyện như sau: “Tối hôm qua em được phái tới một trường tiểu học phụ giúp hội tự trị ở đó để phân phát thực phẩm cho các người bị nạn. Trong cái hàng rồng rắn những người xếp hàng em chú ý đến một đứa nhỏ chừng 9 tuổi, trên người chỉ có chiếc ao thun và quần đùi. Trời rất lạnh mà nó lại xếp hàng cuối cùng, em sợ đến phiên của nó thì chắc chẳng còn thức ăn. Nên mới lại hỏi thăm. Nó kể nó đang học ở trường trong giờ thể dục thì động đất và sóng thần đến, cha của nó làm việc gần đó đã chạy đến trường, từ ban công lầu 3 của trường nó nhìn thấy chiếc xe và cha nó bị nước cuốn trôi, 100% khả năng chắc là chết rồi. Hỏi mẹ nó đâu, nó nói nhà nó nằm ngay bờ biển, mẹ và em của nó chắc cũng không chạy kịp. Thằng nhỏ quay người lau vội dòng nước mắt khi nghe em hỏi đến thân nhân. Nhìn thấy nó lạnh em mới cởi cái áo khoác cảnh sát trùm lên người nó. Vô tình bao lương khô khẩu phần ăn tối của em bị rơi ra ngoài, em nhặt lên đưa cho nó và nói: “Đợi tới phiên của con chắc hết thức ăn, khẩu phần của chú đó, chú ăn rồi, con ăn đi cho đỡ đói.”

Thằng bé nhận túi lương khô của em, khom người cảm ơn. Em tưởng nó sẽ ăn ngấu nghiến ngay lúc đó nhưng không phải, nó ôm bao lương khô đi thẳng lên chỗ những người đang phát thực phẩm và để bao lương khô vào thùng thực phẩm đang phân phát rồi lại quay lại xếp hàng. Ngạc nhiên vô cùng, em hỏi nó tại sao con không ăn mà lại đem bỏ vào đó. Nỏ trả lời: “Bởi vì còn có nhiều người chắc đói hơn con. Bỏ vào đó để các cô chú phát chung cho công bằng chú ạ”.

Em nghe xong vội quay mặt đi chỗ khác khóc để mọi người không nhìn thấy. Thật cảm động. Không ngờ một đứa nhỏ 9 tuổi mới học lớp 3 đã có thể dạy em một bài học làm người trong lúc khốn khó nhất. Một bài học vô cùng cảm động về sự hy sinh.”

Câu chuyện này được rất nhiều báo chí trong nước đăng tải, gây xúc động mạnh mẽ, xem đây là điều huyền hoặc diễn ra tại Nhật Bản.

Một câu chuyện khác đăng trên blog của cô gái lấy tên Shopia. Chuyện kể về bạn của Sophia, cùng với mẹ và đứa em trai 2 tuổi bị mắc kẹt trong cơn sóng thần và đang tìm mọi cách để trèo lên ban công tòa nhà gần nhất. “Họ không ngừng kêu cứu, và một người đàn ông đã nhìn thấy họ từ ban công căn nhà phía sau. Rồi người đàn ông đó ngay lập tức nhảy khỏi ban công xuống nước, giúp bạn tôi, mẹ cô ấy và cậu em trai trèo lên ban công vào căn nhà. Nước lúc đấy càng ngày càng mạnh, không thể đứng vững được nữa. Trong hoàn cảnh đó, người mẹ đã kiên quyết để hai đứa con mình lên trước rồi người đàn ông xa lạ đứng dưới đỡ bà lên. Khi chỉ còn người đàn ông ở bên dưới, và người mẹ đang nắm chặt tay ân nhân để kéo lên, “bất chợt một chiếc ôtô ( trong hàng trăm chiếc ) bị nước cuốn tràn tới đúng hướng người đàn ông đó. Mọi người ở bên trên gào thét, nhưng rồi đột nhiên, người đàn ông ấy giật khỏi tay mẹ bạn tôi, để bà ấy không bị kéo theo xuống nước. Chiếc ô tô đâm vào ông ấy và cuốn ông hất đi.”

Trước đó, họ là những con người hoàn toàn xa lạ, có gia đình riêng, có cuộc sống riêng… nhưng khi thảm họa bất ngờ ập đến, đứng trước những lựa chọn giữa sự sống và cái chết, họ có thể chấp nhận tặng cả cuộc sống cho nhau. Những câu chuyện ấy ngày nay tưởng chừng chỉ có trong trí tưởng tượng thì lại xảy ra ở Nhật Bản.

Truyền thông thế giới đều ngả mũ thán phục kỳ tích Nhật Bản

Ông Ed West viết trên tờ Telegraph: “Tinh thần đoàn kết của người Nhật thật mạnh mẽ. Sức mạnh của xã hội Nhật Bản có lẽ gây ấn tượng còn hơn cả sức mạnh công nghệ của họ.”

Còn tổng biên tập báo Bangkok Post Pichai Chuensuksawadi không thể tin được đã phải thốt lên: “Chẳng phải đã bao nhiêu lần chúng ta thấy cảnh hôi của, cướp giật và bạo lực sau một thảm họa thiên nhiên đó sao ?”

Giáo sư Gregory Pflugfelder chuyên nghiên cứu văn hóa Nhật Bản tại Đại học Columbia ( Mỹ ), nhận định: “Hôi của đơn giản là không xảy ra ở Nhật Bản. Tôi thậm chí còn không chắc rằng trong ngôn ngữ Nhật Bản có từ nào để mô tả chính xác hành động này.”

Nhà phân tích Ed West đặt câu hỏi trên tờ Telegraph: “Tại sao không có hôi của ở Nhật Bản ?” Trang web tìm kiếm Google cho thấy có 2.770.000 người đã đặt ra vấn đề tương tự như ông West.

Điều gì tạo nên kỳ tích Nhật Bản ?

Sau trận động đất gây sóng thần ở Nhật Bản, thế giới lao vào tìm hiểu xem điều gì đã tạo nên kỳ tích ở Nhật Bản, và họ đã tìm được câu trả lời: Đó là đức tin và giáo dục đạo đức.

– Đức tin

Đa số người Nhật theo Thần Giáo, Phật Giáo. Ngoài ra Nhật Bản cũng chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng Nhân Nghĩa Lễ Trí Tín của Nho Giáo ( do Khổng Tử đề xướng ). Với những ai sống ở các quốc gia bị ảnh hưởng bởi thuyết vô Thần thì khi nói đến “đức tin” họ chỉ phì cười, đơn giản bởi vì họ không còn tin nữa, mà không nghĩ rằng bản thân mình đã bị học thuyết vô thần tẩy não cắt đứt mất mối liên hệ với cội nguồn văn hóa truyền thống dân tộc, đến mức không còn hiểu tin để làm gì.

Còn tại các nước khác như Nhật Bản thì “đức tin” đó là tự nhiên và đã ăn sâu vào trong tiềm thức của mỗi người. Người Nhật đã sử dụng “đức tin” của mình khi đối mặt tất cả những vấn đề trong cuộc sống, kể cả những tình huống hiểm nguy nhất.

Một dân tộc có “đức tin” thì dân tộc đó vẫn còn có chuẩn mực đạo đức, nếu một dân tộc không còn “đức tin” thì càng ngày càng sa đọa, đạo đức tụt trên dốc lớn.

Một dân tộc không có “đức tin”, lại còn bị ảnh hưởng của học thuyết đấu tranh thay cho văn hóa cổ truyền dân tộc, thì con người sẽ đấu tranh với nhau, người với người xem nhau như thù địch, bằng mặt không bằng lòng, không thể đoàn kết.

– Giáo dục lấy đạo đức là cốt lõi

Nhật Bản trở thành một nước có nền giáo dục tiên tiến là nhờ thực hiện tiêu chí “con người = đạo đức”, đề cao tính tự lập và tinh thần kỷ luật. ( Hình bìa sách giáo khoa Đạo Đức của học sinh Nhật ).

Tư tưởng của người Nhật vẫn còn mang đậm dấu ấn văn hóa cổ truyền của dân tộc mình. Tinh thần kế thừa và phát triển văn hóa cổ truyềnlà một trong những mục tiêu chủ yếu nhất trong giáo dục, đạo đức là cốt lõi là điều mà một học sinh phải biết đến đầu tiên.

Giáo dục Nhật Bản vận hành theo nguyên lý “mỗi người học sẽ trở thành một cá nhân hoàn thiện đạo đức”. Phương châm của người Nhật là: “Cần phải nhắm tới thực hiện xã hội ở đó từng công dân có thể mài giũa nhân cách bản thân…”

Trẻ em Nhật Bản ngay từ mẫu giáo đã được giáo dục những quy tắc ứng xử căn bản. Trẻ em được dạy khi gặp tình huống nào phải xin lỗi hay cảm ơn, và áp dụng ngay trong cuộc sống hàng ngày. Vì thế mà trẻ em đã biết những gì tốt đẹp nên làm, và những gì không nên làm từ rất sớm.

Trẻ cũng được thực hành thói quen giúp đỡ người khác như phục vụ đồ ăn cho các bạn.

Khi học tiểu học, trẻ em được giáo dục nhân cách và tính sáng tạo, ứng xử văn minh.

Bìa sách giáo khoa Đạo đức của học sinh Nhật. Ảnh Nguyễn Thị Thu – kilala

Bìa sách giáo khoa Đạo đức của học sinh Nhật. Ảnh Nguyễn Thị Thu – kilala

Không nên làm những điều xấu như chơi xấu bạn, ăn cắp, vẽ bậy... Ảnh Nguyễn Thị Thu – kilala

Không nên làm những điều xấu như chơi xấu bạn, ăn cắp, vẽ bậy… Ảnh Nguyễn Thị Thu – kilala

Luôn quan tâm giúp đỡ người xung quanh. Ảnh Nguyễn Thị Thu – kilala

Luôn quan tâm giúp đỡ người xung quanh. Ảnh Nguyễn Thị Thu – kilala

Sách giáo khoa môn đạo đức là rất quan trọng, các giáo viên luôn nhắc nhở học sinh rằng: “Bất kỳ ở đâu, bất kỳ khi nào, bao nhiêu lần đi nữa các em hãy giở cuốn sách đạo đức, để suy nghĩ xem trong cuộc sống điều gì là quan trọng nhất đối với chúng ta, và hãy phát huy nó trong đời sống của bản thân mình.”

Lên cấp 2 trẻ được học cách ứng xử với những lời phê bình, tôn trọng người khác và tôn trọng sự thật.

Đạo đức là môn học bắt buộc và được chú trọng, nhưng lại không có giáo trình thống nhất, điều này giúp giáo viên linh động sáng tạo được các bài giảng riêng phù hợp với học sinh. Trong đó văn hóa cổ truyền của dân tộc luôn là kho tàng quý giá được các giáo viên vận dụng vào các bài giảng và thực hành. Học sinh sớm học các tình huống ứng xử khác nhau, mỗi tình huống đều vận dụng đạo đức để xác định mình nên hành xử thế nào cho đúng.

Trẻ em Nhật Bản được giáo dục lao động từ những công việc vừa sức. (ảnh: Internet)

Trẻ em Nhật Bản được giáo dục lao động từ những công việc vừa sức. (ảnh: Internet)

Hiệu quả có được từ giáo dục đạo đức

Do được giáo dục đạo đức từ nhỏ rất kỹ về lý thuyết, đặc biệt về thực hành, liên hệ thực tiễn, tham gia nhiều hoạt động ngoại khóa, học sinh được thực hành hành vi đạo đức ở mọi lĩnh vực nên hành vi đạo đức được hình thành ở mọi học sinh.

Không có hiện tượng quay cóp, ăn cắp, bạo lực học đường. Học sinh thể hiện tình yêu thương, kính trọng thầy cô, tình thân ái với bạn bè đúng mức. Các hành vi vi phạm đạo đức của học sinh là ít và cá biệt chứ không nổi cộm.

Ở ngoài xã hội, học sinh Nhật luôn là người ứng xử có văn hóa. Người Việt Nam hay nước ngoài đến Nhật Bản có thể thấy có nhiều cây ăn trái chín trĩu quả, hay những cây hoa cảnh khoe sắc hấp dẫn ở công viên, ở hai bên đường đi. Nhưng không hề có ai có suy nghĩ hái những bông hoa hay trái cây đó cả.

“Đức tin” và giáo dục đạo đức đã tạo nên một kỳ tích Nhật Bản, một kỳ tích mà bất kỳ một nhà giáo dục hay một nhà lãnh đạo nào trên thế giới cũng đều ngưỡng mộ và mong muốn.

NGỌN HẢI ĐĂNG, từ Đại Kỷ Nguyên Việt Nam

Từ EPHATA 650

Dân gánh đủ phí, cán bộ trốn việc đi chơi golf

Dân gánh đủ phí, cán bộ trốn việc đi chơi golf

Mi An

Nhiều xã ở Can Lộc (Hà Tĩnh), dâ phải góp tiền nuôi cán bộ thôn, xã. Có hộ không chịu nổi, đã phải bỏ ruộng bỏ nhà đi tha phương cầu thực.

Bà Lê Thị Hương xóm Văn Minh xã Thường Nga khóc khi kể khổ với nhà báo.Ảnh: Báo Nông nghiệp Việt Nam.   

Bà Lê Thị Hương xóm Văn Minh xã Thường Nga khóc khi kể khổ với nhà báo.

Ảnh: Báo Nông nghiệp Việt Nam.

Nếu như giải báo chí quốc gia có một giải riêng cho “loạt bài điều tra buồn nhất trong năm”, có lẽ tôi xin đề cử ngay loạt bài “Gánh nặng quê nghèo” của các nhà báo Hoàng Anh- Thiện Nhân ở báo Nông nghiệp Việt Nam, vừa khởi đăng những ngày gần đây.

Tất nhiên, không giải báo chí nào có cái giải buồn đó cả, nhưng rõ ràng, đọc loạt bài này, chắc nhiều độc giả giống như tôi, nghẹn ngào, uất ức đến trào nước mắt vì những gánh nặng phi lý mà hệ thống cán bộ xã, thôn ở huyện Can Lộc (Hà Tĩnh) đang trút lên người nông dân.Nếu như giải báo chí quốc gia có một giải riêng cho “loạt bài điều tra buồn nhất trong năm”, có lẽ tôi xin đề cử ngay loạt bài “Gánh nặng quê nghèo” của các nhà báo Hoàng Anh- Thiện Nhân ở báo Nông nghiệp Việt Nam, vừa khởi đăng những ngày gần đây.

Ròng rã suốt 10 năm nay, người dân xã Thường Nga không hề được thụ hưởng chính sách miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp như Nghị quyết của Quốc hội mà trái lại, họ còn phải đóng góp nhiều khoản thu nặng nề do cán bộ xã tự đặt ra.

Cái phí này gọi là “thu theo hạng đất”, các ông cán bộ chia đất ruộng của dân ra thành nhiều hạng, rồi ấn định mỗi loại đất phải nộp số kg thóc tương ứng sau khi thu hoạch. Năm nay, dân xã Thường Nga còn phải nộp Quỹ giao thông thủy lợi phục vụ sản xuất, có hộ lên tới ngót 1 triệu đồng, xã chỉ thu trong 3 ngày, chậm ngày nào sẽ bị phạt thêm 5%.

Còn ở xã Thanh Lộc thì sao, “Trong phương án thu các loại quỹ năm 2015, xã Thanh Lộc xây dựng một loại quỹ có tên là “Quỹ hành chính phúc lợi”. Chủ tịch UBND xã Lê Văn Nhiếu thẳng thắn thừa nhận, mục đích thu loại quỹ này nhằm chi trả chế độ cho những người hoạt động công tác ở xã, ở thôn không nằm trong đội ngũ cán bộ tịnh biên”- bài báo viết.

Theo điều tra của các PV NNVN, chỉ riêng trong tháng 6/2015, xã Kim Lộc đã phải chi trả hơn 62.000.000 đồng cho đội ngũ cán bộ, giúp việc ngoài biên chế. Trong số đó có những chức danh nghe khá lạ tai như “bảo vệ di tích quốc gia”, “bảo vệ di tích cấp tỉnh”…

Thú thật, đọc loạt bài điều tra, tôi hoa cả mắt với những con số đóng góp của các hộ dân, nhức cả đầu với chiêu bài đặt ra các ban bệ ở cấp thôn, xóm để bắt dân đóng tiền nuôi, vì diện “cán bộ” này không nằm trong diện được trả lương bằng ngân sách nhà nước.

Tâm sự với nhà báo, nhiều nông dân đã khóc ròng, bởi họ không biết làm thế nào, bán hết toàn bộ số thóc thu được cũng không đủ 2 khoản thu của xóm và của xã. Không nộp thì bị phạt 5%, cắt hết mọi giao dịch giấy tờ, đọc tên ra rả trên loa phóng thanh.

Trong khi người dân cùng cực như thế, thì đối lập là hình ảnh ông Trần Văn Hữu-  Chủ tịch xã Kim Lộc ngồi trong phòng máy lạnh chạy ro ro nhưng vẫn thở than với nhà báo: “Mới chỉ đạt được khoảng 70% so với chỉ tiêu, cán bộ xã, thôn đang tiếp tục vận động các hộ dân còn lại”.

Nếu quan tâm, bạn đọc có thể tìm đọc loạt bài “Gánh nặng quê nghèo” này để thấy nông dân ở Can Lộc đang khổ sở thế nào.

Trộm nghĩ, thường những người lành lặn chân tay, đầu óc minh mẫn thì mới được chọn làm cán bộ, vậy thì tại sao những cán bộ này lại vô liêm sỉ tới mức chọn cách sống ký sinh trên hạt thóc nhọc nhằn đẫm mồ hôi nước mắt của người dân như vậy?

Xin đề nghị các cán bộ xã, thôn ở huyện Can Lộc nên học tập ông Thiều Kim Quỳnh- Phó Tổng giám đốc Tổng công ty điện lực miền Bắc. Trên báo Thanh Niên số ra ngày 15/7/2015, có một mẩu tin cho biết, ông Quỳnh bị tố cáo “thường xuyên đi chơi gofl trong giờ hành chính” và có bản sao nhật ký sân golf Vân Trì (Hà Nội) để chứng thực điều này.

Tuy nhiên, trong giải trình, ông Quỳnh chỉ thừa nhận “thỉnh thoảng đi chơi golf trong giờ làm việc” và vẫn được xếp loại hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vào các năm 2013-2014.

Thay vì bắt dân cõng phí nuôi mình, các cán bộ xã, thôn ở Can Lộc nên học hỏi lấy kinh nghiệm làm sao để vẫn có thể vừa đi chơi golf, vừa hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ như bác lãnh đạo EVN kia.

Thế mới là người cán bộ tài giỏi.

M.A

Nguồn: http://baodatviet.vn/van-hoa/nguoi-viet/dan-ganh-du-phi-can-bo-tron-viec-di-choi-golf-3277563/

Hướng đạo Việt Nam và những hy vọng trong tương lai

Hướng đạo Việt Nam và những hy vọng trong tương lai

Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok
2015-07-19

RFA

07192015-vn-scout-jambor-2015.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Tại hè Cổ Loa 2015. Đạo Sài Gòn từ 28 tháng 6, 2015 tại đèo Nước Ngọt Bà Rịa

Tại hè Cổ Loa 2015. Đạo Sài Gòn từ 28 tháng 6, 2015 tại đèo Nước Ngọt Bà Rịa

giupich.org

Tại hè Cổ Loa 2015. Đạo Sài Gòn từ 28 tháng 6, 2015 tại đèo Nước Ngọt Bà Rịa

giupich.org

Cả ngàn hướng đạo sinh tham gia sinh hoạt Trại họp bạn Hướng đạo Việt Nam có tên Hợp Lực- Đồng Tiến 2015 trong mấy ngày qua tại một số khu vực ở miền nam, sau khi nơi dự định diễn ra trại chính ở Đồng Nai bị ngăn chặn. Đây là sinh họat nhằm kỷ niệm 85 năm Hướng Đạo Việt Nam, kỷ niệm 50 năm ngành Kha Việt Nam.

Nhân dịp này Gia Minh trình bày một số thông tin liên quan hoạt động của Hướng Đạo tại Việt Nam trong những năm từ sau 1975 đến nay và mong mỏi được chính thức phục hoạt của Hướng Đạo Việt Nam.

Hoạt động không chính thức

Hình ảnh sôi nổi- tháo vát của những Hướng đạo sinh cả nam lẫn nữ, từ các bạn trẻ ở độ tuổi thanh thiếu niên đến trung niên, không lạ gì đối với nhiều người trên thế giới lâu nay và cả ở Việt Nam trong những năm trước 1975 tại miền nam.

Tuy nhiên sinh hoạt của những nhóm Hướng đạo như thế không còn được tự do sau khi lực lượng miền bắc tiến vào tiếp quản miền nam. Mặc dù không được tự do như trước, các nhóm ở miền nam vẫn duy trì sinh hoạt trong vòng hạn chế của cơ quan chức năng.

Một Huynh trưởng Hướng đạo, ông Phạm Thanh Hiệp, người tổ chức cho Hướng đạo sinh hoạt công khai tại Sài Gòn giới thiệu lại tình hình Hướng đạo trong nước lâu nay như sau:

“ Sau năm 75 ngưng sinh hoạt; nhưng những anh em Hướng đạo Công giáo vẫn còn sinh hoạt trong Nhà thờ chui. Năm 1987 tôi là người tập hợp sinh hoạt hướng đạo công khai; những lần như vậy đều bị dẹp hết dưới danh nghĩa của Hội Liên hiệp Thanh niên. Hoặc là những sinh hoạt dưới danh nghĩa câu lạc bộ theo hình thức hướng đạo đều bị Nhà nước không cho. Nhưng sau đó phát triển dần dần, có thể dùng từ ‘chui mà hoạt động công khai’. Và Nhà nước không thấy có gì nguy hại nên để cho hoạt động, và nó phát triển.”

Mặt pháp lý

Một cựu hướng đạo sinh, luật sư Nguyễn Lệnh, trình bày về mặt pháp lý chiếu theo luật pháp Việt Nam trong việc sinh hoạt của những hội đoàn như Hướng đạo Việt Nam:

“ Thực ra hệ thống pháp luật Việt Nam cho đến hiện nay có rất đầy đủ dành cho các tổ chức muốn thành lập hội , trong đó cụ thể như hội Hướng đạo Việt Nam đã có mặt trên đất nước Việt Nam một cách hợp pháp từ năm 1946 cho đến năm 1975. Tuy nhiên,  sau khi thống nhất đất nước, trong hệ thống văn bản pháp luật của Việt Nam chưa được áp dụng một cách rõ ràng. Do đó cho nên việc thực hiện đó cũng gây khó khăn cho việc xin tái lập hoặc xin sinh hoạt bình thường của Hội Hướng đạo Việt Nam.

Logo Trại họp bạn Hướng đạo Việt Nam có tên Hợp Lực- 2015

 

” Sau năm 75 ngưng sinh hoạt; nhưng những anh em Hướng đạo Công giáo vẫn còn sinh hoạt trong Nhà thờ chui. Năm 1987 tôi là người tập hợp sinh hoạt hướng đạo công khai; những lần như vậy đều bị dẹp hết dưới danh nghĩa của Hội Liên hiệp Thanh niên. Hoặc là những sinh hoạt dưới danh nghĩa câu lạc bộ theo hình thức hướng đạo đều bị Nhà nước không cho

ông Phạm Thanh Hiệp”

Hơn nữa bên cạnh đó có một hệ thống các văn bản của tổ chức đảng chỉ đạo việc sinh hoạt của Hội Hướng đạo Việt Nam. Chính các văn bản của tổ chức đảng này là nguyên nhân chính khiến cho việc xin tái lập Hội Hướng đạo Việt Nam mà trước đây đã có nhiều Huynh trưởng gởi thư, văn bản, đơn đến các tổ chức chính quyền, tổ chức Nhà nước và cả tổ chức đảng để xin nhưng vẫn chưa được. Người duy nhất được có câu trả lời chính thức là ông Đăng Văn Việt, người đã gửi đơn đến Bộ Văn hóa- Thể thao và Du lịch và được chính thức trả lời qua văn bản của thứ trưởng Bộ Văn hóa- Thê thao và Du lịch. Đó là văn bản đầu tiên đứng về trách nhiệm cơ quan thẩm quyền Nhà nước chính thức trả lời lý do vì sao mà chưa cho phép Hội Hướng đạo Việt Nam trước đây được tái sinh hoạt, trong đó có viện dẫn cả lý do từ một văn bản của Ban Bí thư Trung ương chưa cho phép Hội Hướng đạo Việt Nam được sinh hoạt trở lại.”

Yêu cầu phục hoạt

Như phát biểu của cựu hướng đạo sinh luật sư Nguyễn Lệnh, thì một người từng tham gia Hướng Đạo Việt Nam từ thời kỳ đầu mới thành lập, ông Đặng Văn Việt, người còn được mệnh danh là ‘con hùm xám đường số 4, vào đầu tháng 3 năm 2011 gửi một thư đến lãnh đạo chính quyền Hà Nội xin khôi phục lại sinh hoạt Hướng đạo.

Câu trả lời của cơ quan chức năng khiến ông Đặng Văn Việt vô cùng thất vọng. Ông cho biết:

“ Chưa có một hồi âm nào gọi là ‘hưởng ứng’ cả, mà gần như người ta muốn bảo vệ Đoàn Thanh niên, không ai đụng chạm đến, thứ hai muốn Đoàn Thanh niên độc quyền lãnh đạo thanh niên trong toàn quốc, thành ra không muốn có Hướng đạo làm thêm cho việc này nữa. Cho đến bây giờ tôi vẫn kiên trì chờ đợi những quan điểm mới, những suy nghĩ mới, tư tưởng mới của những nhà lãnh đạo có đầu óc tiên tiến hơn.

Theo tôi phong trào Hướng đạo là phong trào quốc tế và nhân đạo, mang đầy tính nhân đạo và nhân văn nên không hề có tổn hại gì cho một đất nước mà chỉ có lợi cho đất nước; không có tổn hại gì cho chính quyền đương thời. Nên việc cấm đoán Hướng đạo là một việc phi lý. Một việc làm không hợp với xu thế của thế giới cũng như không hợp với lòng người. Tôi nghĩ trước sau gì thì Hướng đạo cũng được cho hoạt động lại bình thường. Tôi kiên trì quan điểm ấy. Mong rằng sắp đến những người lãnh đạo của Nhà nước có một tí cấp tiến trong đầu óc không có lý do gì để ngăn cản Hướng đạo hoạt động cả. Vì Hướng đạo chỉ là một phong trào quần chúng của những người yêu nước trẻ muốn hoạt động cho lợi ích của xã hội, cho lợi ích của đồng bào toàn quốc.

” Chưa có một hồi âm nào gọi là ‘hưởng ứng’ cả, mà gần như người ta muốn bảo vệ Đoàn Thanh niên, không ai đụng chạm đến, thứ hai muốn Đoàn Thanh niên độc quyền lãnh đạo thanh niên trong toàn quốc, thành ra không muốn có Hướng đạo làm thêm cho việc này nữa

ông Đặng Văn Việt”

Nếu nó có hại, có cản trở thì nên cho biết lý do để ngăn chặn; trái lại không có cản trở gì, không có làm tổn hại gì mà không cho hoạt động là một chuyện hoàn toàn phi lý.

Đây là hoạt động trên cả thế giới chứ đâu phải có nhà nước nào quản lý mới hoạt động được đâu. Chỉ có nhà nước cộng sản không yêu Hướng đạo, không ủng hộ Hướng đạo… Nếu không cấm Hướng đạo hoạt động bình thường như trước đây thì lợi cho đất nước bao nhiêu, lợi cho lãnh đạo, chính quyền Nhà nước này bao nhiêu; thế nhưng cho đến bây giờ họ không chịu làm. Thật là đáng tiếc!”

Một người trong ban tổ chức Trại họp bạn Hướng Đạo Việt Nam Hợp lực- Đồng tiến 2015 khi được hỏi về sinh hoạt lớn này đã từ chối trả lời vì cho rằng đây là chuyện nhạy cảm.

Trên trang facebook có tên Hướng Đạo Việt Nam, nhiều chia sẽ động viên rằng dù không được làm lễ khai mạc trại nhưng một số hoạt động vẫn được diễn ra và nhiều đoàn cũng tiến hành sinh hoạt tại các địa điểm khác nhau. Họ nhắc nhau hướng đạo sinh trong khó khăn vẫn vui tươi, trong nỗi buồn sẽ có niềm vui khác… anh em vẫn tiếp diễn Hợp Lực trên mọi miền quê hương Việt Nam.

Có nên học Y Khoa vì Mỹ sẽ thiếu bác sĩ trầm trọng?

Có nên học Y Khoa vì Mỹ sẽ thiếu bác sĩ trầm trọng?

Nguoi-viet.com
Thiên An/Người Việt (tổng hợp)

Bạn muốn làm bác sĩ.

Ừ, thì còn gì tốt hơn là việc mỗi ngày đi làm được tận tay chăm sóc cho sức khỏe và sinh mạng của biết bao người. Rồi thì thu nhập cao. Rồi thì gia đình sẽ tự hào. Và nhất là khi ngành Y đang rất cần bạn, theo một báo cáo của Hiệp Hội Các Đại Học Y Khoa (AAMC) dự đoán năm 2025, Hoa Kỳ sẽ thiếu hụt đến hơn 100,000 bác sĩ.

Hoa Kỳ có thật sự thiếu đến hơn 100,000 bác sĩ trong 10 năm tới?
(Hình: Getty Images)

Trong những năm gần đây, nhiều trường mới về Y, và cả Nha, Dược, Nhãn Khoa… liên tục xuất hiện. Cũng dễ hiểu, vì mất cả chục năm trời mới đào tạo được một bác sĩ. Để phục vụ cho nhu cầu lớn của 2025, người ta phải hành động từ bây giờ.

Nếu ngành bác sĩ thực sự là ước mơ mà bạn sẽ theo đuổi bất kỳ giá nào, thì chẳng có lý do gì cản trở được bạn.

Nhưng nếu bạn còn đang phân vân giữa những sở thích nghề nghiệp, thì hãy đừng vội tin vào dự đoán của hiệp hội AAMC.

Nhiều chuyên gia đang bày tỏ lo ngại về con số quá lớn mà AAMC đưa ra, mặc dù nhu cầu bác sĩ dễ dàng giải thích được được, như việc già đi của thành phần tuổi “baby boomer” đông đảo và  luật cải tổ y tế “Obamacare” tạo điều kiện cho tất cả mọi người có bảo hiểm.

Nhìn vào lịch sử, đây chẳng phải là lần đầu tiên Hoa Kỳ được dự đoán là sẽ thiếu hụt bác sĩ. Trong những năm 1960 và 1970, cũng vì sợ thiếu bác sĩ mà Mỹ đầu tư để tăng gấp đôi lượng sinh viên y khoa. Kết quả, số bác sĩ những năm 1980 trở nên quá dư thừa so với mức cần thiết. Ngược lại, cũng có lúc Mỹ dự đoán sẽ thừa bác sĩ, nhưng hóa ra sau đó lại bị thiếu hụt.

Với các nhà kinh tế và làm luật, “dư còn hơn thiếu,” họ có thể mở các chương trình để AAMC có thể đào tạo thêm thật nhiều bác sĩ. Nhưng đối với các bạn trẻ, việc chọn ngành học có thể là quyết định cả tương lai của một người. Điều này càng đúng hơn với nghề bác sĩ.

Cái giá để trở thành một bác sĩ là gì thì còn tùy câu trả lời của từng cá nhân, nhưng nói chung sẽ bao gồm: những năm học miệt mài với điểm số phải gần như hoàn hảo, những sinh hoạt ngoại khóa để phát triển kỹ năng xã hội, những tuần luyện thi MCAT và viết bộ hồ sơ xin nhập học để vượt qua tỉ lệ 50% sẽ trúng tuyển, sau khi may mắn được nhận học là khoảng chục năm nữa ở giảng đường đại học Y khoa, số nợ trung bình khoảng $200,000 một khi ra trường, những năm thực tập gian khổ, và sau đó là công việc hằng ngày chẳng dễ dàng và những bài thi định kỳ để giữ bằng hành nghề sau khi đã là bác sĩ… Chẳng ai lại muốn mình chọn lầm nghề.

Vì vậy, khi đọc dự đoán của AAMC là sẽ thiếu hụt đến hơn 100,000 bác sĩ trong 10 năm tới nên cần tăng việc đào tạo thêm hàng ngàn bác sĩ mỗi năm, thì các bạn trẻ cũng nên tìm hiểu thêm ý kiến từ phía phản bác báo cáo của AAMC.

Một số chuyên gia lập luận rằng Hoa Kỳ sẽ không cần mở thêm thật nhiều trường Y và tăng số sinh viên Y, với nhiều lý do. Thứ nhất, việc đào tạo bác sĩ nhiều hơn trong những năm qua càng tăng thì số bác sĩ tại những nơi thành thị và đã có quá nhiều bác sĩ, còn những vùng hẻo lánh cần bác sĩ thì vẫn cứ thiếu bác sĩ. Thứ hai, dân số đông và già nhanh, chỉ các ngành chăm sóc sức khỏe cho người lớn tuổi là thực sự cần thêm bác sĩ. Thứ ba, kỹ thuật y tế ngày càng tiến bộ giúp cho mỗi bác sĩ phục vụ được nhiều bệnh nhân hơn. Và thứ tư, hệ thống y tế có thể thay đổi để cách phục vụ bệnh nhân được hiệu quả hơn, như dựa thêm vào y tá, dược sĩ hay các bác sĩ nhập cư, để giữ hoặc giảm tỉ lệ bệnh nhân/bác sĩ.

Một bên yêu cầu mở thêm trường và nhận thêm sinh viên, một bên mạnh mẽ phản đối. Tuy vậy, có những con số thực tế mà hai bên đều đồng ý. Sau đây là một vài thông tin tổng hợp (*) mà các học sinh sinh viên yêu thích ngành Y có thể tham khảo.

Có nên chọn nghề dựa theo dự đoán nhu cầu công việc trong tương lai?
(Hình minh họa: Getty Images)

1. Theo thống kê, cứ ba bác sĩ ở Mỹ thì có một người trên 65 tuổi. Theo khảo sát, 60% bác sĩ nói sẽ có một lượng lớn bác sĩ nghỉ hưu trong ba năm tới.

2. So với các bác sĩ chuyên khoa, nhu cầu của bác sĩ đa khoa (bác sĩ gia đình) tăng cao hơn. Mức thu nhập cao hơn của bác sĩ chuyên khoa là một trong những lý do giải thích nhiều bác sĩ ra trường không chọn đa khoa.

3. Trong số các chuyên khoa, các khoa về giải phẫu và ung thư cần nhiều bác sĩ. Số bệnh nhân ung thư của Mỹ được dự đoán mức tăng cao nhất. Hiện tại, ở các vùng hẻo lánh, bác sĩ chuyên khoa về ung thư đã thiếu hụt. Lãnh vực giải phẫu cũng tương tự.

4. Thành phần “baby boomers” sinh từ 1946-1964 chiếm đến khoảng 20% dân số hiện đang già đi, kéo theo nhu cầu chăm sóc sức khỏe và chữa bệnh cho người lớn tuổi trong 10 năm tới.

5. Về mặt địa lý, nhu cầu bác sĩ tại các vùng hẻo lánh ít người ngày càng tăng cao. Hiện tại thì nhiều vùng trên nước Mỹ đã thiếu bác sĩ, như Arizona, Idaho, Illinois, Montana, North Dakota, South Carolina, South Dakota, Alabama, Missourii, Wyoming, New Mexico, trầm trọng nhất là Louisiana và Mississippi.

6. Về thành phần dân số, thống kê cho thấy các bác sĩ sau khi ra trường có xu hướng trở về những cộng đồng mà họ xuất xứ. Do đó, nhu cầu bác sĩ là cao nhất cho các cộng đồng thiểu số có ít người theo ngành bác sĩ.

7. Về nơi làm việc, khảo sát cho thấy các bác sĩ trẻ ít muốn làm việc cho chính phủ và quân đội.

8. Hiện có 18 tiểu bang cho phép y tá được định và chữa một số bệnh. Giới y tá được cho là sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết gánh nặng y tế của Mỹ trong thời gian tới.

9. Khảo sát cho thấy khoảng 1/3 các bác sĩ nói sẽ không khuyên người khác theo ngành Y, với lý do là sự thiếu cân bằng về công việc và đời sống, cũng như về công sức và thu nhập.

10. Tỉ lệ thành công của các đơn xin vào trường Y hiện là 44.5%.

(*) Nguồn:

AAMC, Health Affairs, The Annals of Family Medicine, Medicus Firm, và Becker’s Hospital Review.

Liên lạc tác giả: vu.an@nguoi-viet.com

‘Mồm loa mép giải’

‘Mồm loa mép giải’

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Thành ngữ “mồm loa mép giải” của Việt Nam có nghĩa là “to tiếng và lắm lời, nói át cả người khác.” Một định nghĩa khác gay gắt hơn là “lắm mồm, ngoa ngoắt, đanh đá, luôn lấn át người khác, bất chấp cả đúng hay sai!”

Những cái loa phóng thanh ở phố phường Hà Nội.
(Hình: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)

Thành ngữ này làm chúng ta nhớ đến cái loa.

Loa và cái mã tấu là hai dụng cụ đáng sợ nhất thời Việt Minh. Ở những vùng “xôi đậu,” nửa đêm nghe giọng nói oang oang qua chiếc loa giấy kết tội Việt gian là sáng ra, thế nào cũng thấy một xác người bị cắt họng hay mất đầu nằm ngoài ngõ. Ba mươi năm từ mã tấu đến AK, rồi tên lửa, cái loa cũng thay hình đổi dạng, từ thời thô sơ làm bằng giấy bồi đến thời hiện đại, loa sắt có đường kính 1.7 m, có công suất từ 500w đến 600w do Liên Xô và Trung Cộng viện trợ.

Trong một bài trước, chúng tôi khi viết bài cái cột đèn có nhắc tới một vật gắn liền, đè đầu cưỡi cổ cái cột đèn, làm khổ lỗ tai, nhức đầu thiên hạ là cái loa.

Nói về loa, tài liệu trong nước cho biết loa thường gắn thành cụm (chùm), mỗi cụm thường có hai đến ba loa, các cụm loa đặt cách nhau từ 400 đến 600 mét.

Mỗi xã có từ 12 đến 20 cụm loa, ở các huyện thị trên toàn quốc có trung bình từ 300 đến 400 loa. Cả nước có 698 huyện, nên tổng số loa trong cả nước là 279,000 cái.

Theo tài liệu của Giáo Sư Nguyễn Văn Tuấn nêu ra, thì trong cả nước Việt Nam hiện nay có 900,000 cái loa (http://press.anu.edu.au/wp-content/uploads/2013/11/Vietnam.pdf.) Hệ thống loa tiếp cận dân số hơn 58 triệu người (chiếm 67.1% dân số Việt Nam). Như vậy cứ hai người dân xã hội chủ nghĩa thì có hơn một người phải chịu cảnh đày đọa tra tấn của cái loa phóng thanh mỗi ngày.

Con số loa nêu ở trên còn ít ỏi nếu so với loa thời nay. Xã Tả Phời, thuộc thành phố Lào Cai, theo quy định của Bộ Thông Tin và Truyền Thông, toàn phố đã lắp đặt 380 cụm loa, với tổng số 900 loa công cộng, chuyển âm thanh từ 85% 2010 lên 90% năm 2014, 100% (theo Nghị Quyết Đại Hội Chi Bộ 2010-2015). Loa trong XHCN không những sắp đặt san sát, mà năng suất của loa càng ngày càng lớn đủ sức làm cho người dân chảy máu tai.

Thời gian trước năm 1975, ở bờ Bắc Bến Hải, Cộng Sản Bắc Việt đã lắp đặt những chiếc loa có công suất 500W với đường kính rộng đến 1.7m và bổ sung thêm 20 loa loại 50W, bốn loa loại 250W của Liên Xô.

Bắc Việt lấy lý do “đài địch” ở bờ Nam, Tháng Tám, 1963, quyết định xây dựng một mạng lưới loa dày đặc dọc theo tuyến bờ bắc sông Bến Hải. Bốn cụm loa 500W được mọc lên (mỗi cụm gồm 20 loa nén loại 25w), thêm ba cụm loa cực mạnh ở Hiền Lương, mỗi cụm loa 1,000w gồm 40 loa loại 25w. Tại mỗi cụm, loa được gắn vào một dàn sắt kiên cố hình chữ nhật đứng trên hai trụ bê tông cốt thép cao 11 m, hướng miệng loa sang bờ Nam. Họ khoe là mỗi lần hệ thống loa cất lên “giống như sấm rền, làm cả một vùng sông nước cứ sôi lên ùng ục!” Như vậy chưa đủ, Bắc Việt xây thêm trạm tiếp âm lớn đặt ở ngã ba Hiền Lương với hai máy khuếch âm 10,000W. Vĩnh Linh còn có một xe lưu động có máy nổ riêng, gắn loa 180W và loa đại có công suất 500W do Trung Cộng sản xuất.

Hệ thống loa là để tuyên truyền nhắm về phía Nam, nhưng ai nghe?

Truyền thông miền Bắc nói rằng “đêm đêm, nhân dân bờ Nam ngóng về phương Bắc, lặng lẽ lấy ảnh Bác Hồ được cất giấu kỹ ra xem và cầu mong lực lượng vũ trang miền Bắc tấn công tiêu diệt hết lũ xâm lược…” hay “những ngày lễ tết, đoàn văn công trung ương từ miền Bắc vào thường ghép thuyền, dựng sân khấu bên mép sông để biểu diễn cho nhân dân xem, người dân mà cả lính miền Nam cũng đổ ra bờ sông để ngóng vọng sang thưởng thức. Nội dung tin, bài rất phong phú, đa dạng… hấp dẫn đến mức cảnh sát bờ Nam đến giờ đài Vĩnh Linh phát sóng là lẳng lặng bấm nhau trốn ra nơi vắng để nghe,” và “một số cảnh sát ngụy háo hức đứng xem văn nghệ,” và “nghe tiếng loa vang lên, mặc dù bị lính ngụy ngăn cản, đồng bào bờ Nam vẫn đổ xô đứng dọc bờ sông Bến Hải hoan hô, reo hò: ‘Bà con ơi, o Nhạn, eng Tích chưa chết. Đài Vĩnh Linh còn. Quốc gia nói láo!’”

Thậm chí “lợi dụng lúc pháo sáng của ta bắn sang, bà con các xã ven sông như Trung Sơn, Xuân Mỹ, Bạch Lộc… hô nhau chạy ùa ra sông, lội bộ sang bờ Bắc” … “một số binh lính ngụy ngồi trên một xe quân sự chạy thẳng qua cầu Hiền Lương để cố vượt sang phía ta, song chiếc ô tô bị cảnh sát ngụy bắn thủng lốp và tất cả xuống xe chạy bộ, đều bị chúng bắt lại, tống vào nhà tù…”

Đúng là miệng lưỡi XHCN: “Xạo Hết Chỗ Nói!”

Những ai đã từng đi du lịch Dubai, Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất, một xứ theo Hồi Giáo, dù ở đâu, trong khách sạn sang trọng hay ngoài đường phố, mỗi ngày ba lần, đều phải chịu cảnh tra tấn bằng cách phải nghe kinh Koran qua những chiếc loa mà công suất không kém loa Hà Nội.

Trong một bài viết về cái loa, Giáo Sư Nguyễn Văn Tuấn ở Úc đã phát biểu, “Tôi nghĩ cái loa phường ở Việt Nam cũng là một loại nghi thức tôn giáo, nhưng chỉ có khác là nó rè và cũ mèm hơn cái loa bên Saudi Arabia.”

Du khách đến Hà Nội cũng phải chịu cảnh tra tấn tương tự bằng những chiếc loa chõ mồm vào cửa sổ khách sạn, oang oang vào lúc 5 giờ sáng, và những du khách đã đi nhiều nơi, ngạc nhiên vì họ đã gặp loại tuyên truyền này “ở Moscow năm 1956 thì nay nó xuất hiện (hay tồn tại) ở một quốc gia Đông Nam Á vào năm 2014.”

Người ta không hiểu vì sao trong một thời đại văn minh như hiện nay, Việt Nam còn cần đến cái loa sắt kiểu này? Một cái loa không đem lại kiến thức gì cho con người mà chỉ nhồi nhét vào tai của người dân, theo ký giả Michael Totten, một ký giả người Mỹ thường viết về Việt Nam, “những loại ‘rác rưởi’ (bullshit) bất kể người dân có thích hay không!”

Nếu nay mai, chế độ Cộng Sản tàn mạt trên đất nước Việt Nam, thì thể chế mới, xin làm ơn dẹp hết 900,000 cái loa, đem bán ve chai, vì quả cái loa, nó là một điều gì ám ảnh, một ám ảnh khôn nguôi về cái bóng ma Cộng Sản, từ thời Việt Minh cho đến hôm nay.

TRỞ VỀ CỐ HƯƠNG

TRỞ VỀ CỐ HƯƠNG

Phương-Vũ Võ Tam-Anh

Được tin chị tôi đau nặng, tôi vội vã bay về Việt Nam mà lòng áy náy tưởng chừng như đang đi vào lòng địch. Trước ngày lên máy bay, ông sui tôi đến cho hay là có người trong toà đại sứ VC báo rằng họ đã đọc hết những bài viết của tôi, kể cả cuốn sách mới in xong chỉ phổ biến trong vòng thân mật. Người này còn thêm rằng những hình chụp các cuộc biểu tình ở Paris không thấy có mặt tôi (chỉ vì đơn giản là tôi không ở Paris) nên kết luận rằng tôi không có hành động chống đối cụ thể do đó được cấp visa về Việt Nam trong ba tháng. Trở ngại ban đầu được trót lọt. Ngồi trên máy bay mà tôi cứ hình dung đến một Hà Nội diễm kiều trước năm 54, khi tôi vào học y khoa Hà Nội. Phố Hàng Ngang, Hàng Đào ngày xưa với những cô gái kiêu sa lịch thiệp đang lờ mờ hiện ra trong trí nhớ. Con đường Cổ Ngư mộng mơ với những hàng cây sà mình xuống mặt hồ Trúc Bạch như để in dấu gót chân thướt tha của trai thanh gái lịch Hà thành vào những buổi chiều cuối tuần ấm áp…

Qua cái ải kiểm soát Nội Bài dù sao tôi cũng không khỏi hồi hộp khi nhìn những cặp mắt lầm lừ của đám công an súng sính trong bộ áo màu cứt ngựa, nhất là sau khi lật qua lật lại tấm hộ chiếu rồi trao lại cho tôi như còn tiếc rẻ một cái gì. Có lẽ tôi cũng chỉ tưởng tượng và tự nổ một mình thôi, chứ hạng cắc ké như tôi thì phiền hà chi cho đáng, vì hình như lúc này nhà nước đang còn bận lo đấu đá nhau coi bộ hấp dẫn hơn. Tuy vậy tôi vẫn cứ lo nơm nớp vì biết đâu mấy ông cao hứng đuổi tôi trở lại Pháp như nhiều vị đi trước hù dọa thì hóa ra mất toi tiền máy bay mà vừa không được gặp bà chị gần chín chục tuổi như mục đích và . nguyện tha thiết của tôi. Không lẽ nhà nước lại để đánh rơi mấy ngàn đô la “kiều hối” mà tôi mang về để lo cho bà chị?

Khi ra khỏi sân bay Nội Bài thì tôi mới hoàn hồn. Như vừa qua được một trở ngại (dù chỉ trong tưởng tượng), tôi vui vẻ khen với thằng em ra đón tôi:

– Sân bay này khá đấy, có tầm vóc quốc tế, ai xây vậy?

Thằng em nhanh nhẩu:

– Ta đấy.

Tôi như bị dị ứng với chữ “ta”, nhưng cũng khen:

– Bốn mươi năm hoà bình có khác, nhưng ai thiết kế?

Thấy tôi có vẻ hoài nghi, thằng em xuống giọng:

– Đúng ra thiết kế và công trình là do kỷ sư Nhật, ta chỉ phụ thôi.

Tôi buộc miệng:

– Ta làm thợ vịn mà được như vậy là giỏi lắm rồi…

Để cho không khí nhẹ hơn, tôi bèn đổi sang chuyện hỏi thăm gia đình. Thằng em cho biết chị tôi  vừa mới “nhập viện”.

Tôi nghĩ bụng: quái, ở cái xứ Việt Nam này có biết bao là Viện, nào là Viện Dưỡng Lão, Viện Bào Chế, Viện Uốn Tóc, Viện Thẩm Mỹ, Viện Ung Bướu, Viện Mồ Côi, Viện Kiểm Sát Nhân Dân và gần đây lại có thêm Viện Khổng Tử v.v… thì không biết chị tôi đã nhập viện nào? Hoá ra chỉ có đơn giản là chị tôi mới vào nằm nhà thương. Sau đó tôi biết thêm nhiều chi tiết: lúc đầu chị tôi được đưa vào “trạm trung chuyển” (tức trạm chuyển tiếp) ở bệnh viện Hoàn Mỹ, nhưng ở đây không đúng “tuyến” nên phải “điều” qua bệnh viện Đa Khoa Đà Nẵng, hiện đang nằm ở “khu yêu cầu” của “khoa Nội Tổng Hợp”.

Sau cái chuổi văn chương tân tiến đó thì tôi có được một khái niệm lờ mờ về con đường bệnh hoạn của chị tôi, nhưng tôi lại thấy rất rõ ràng về triệu chứng hiện tại của tôi, xây xẩm mặt mày, choáng váng, nhức đầu… Tôi nhờ thằng em đưa đến một nhà thuốc tây, nhưng nửa đường tôi lại đổi ý vì nghĩ rằng bệnh của tôi chắc không chửa bằng thuốc được, nên vào một hiệu sách lớn nhất Thủ Đô ở phố Trường Tiền để kiếm một cuốn tự điển may ra giải cứu được chứng nhức đầu của tôi.

Tôi hí hửng tìm được cuốn Tự Điển của cụ Đào Duy Anh và may mắn không phải sốt ruột xếp hàng chờ đợi để trả tiền như mỗi lần mua sách ở mấy tiệm sách Fnac hay Vỉrgin. Ở đây thì vắng như chùa Bà Đanh. Ở chốn ngàn năm văn vật này, người dân thích chen chúc ở mấy tiệm phở tiệm cà phê hơn là ở mấy tiệm sách (những biển ngữ “Hà Nội Ngàn Năm Văn Vật” được treo đầy khắp phố phường trong dịp Tết sắp đến). Nhưng tôi lại thất vọng thêm một lần nữa vì sách của cụ Đào Duy Anh đã viết trước năm 1975 nên không có những danh từ huyền bí mà tôi cần phải tra cứu trong mấy ngày ở Việt Nam.

Trên đường tới sứ quán Pháp để thông báo sự có mặt của tôi tại Việt Nam theo đề nghị của bộ Ngoại Giao, tôi có dịp đi ngang qua Hàng Ngang Hàng Đào, những âm thanh rất gần gủi với Hà Nội, như dội lại trong tôi lòng rạo rực của sáu mươi năm về trước. Tôi cố tìm lại cái hình ảnh bẽn lẽn của mấy cô gái Trưng Vương năm xưa dưới những mái tóc hình dấu phết dịu  dàng, thì nay chỉ thấy lại những khuôn mặt cứng đơ, dấu kín trong chiếc khẩu trang bí ẩn, mái tóc mượt mà thì như đang vùng vẫy trong chiếc nón bảo hộ nặng nề láng bóng, đang chen nhau lòn lách trên những chiếc Honda như mắc cưỡi. Không hiểu vì mãi mê cái hoạt cảnh đó hay vì nhát gan mà tôi không dám qua đường.

Ảnh của Llewelling King

Đi qua đường là một khổ nạn. Không như con dâu tôi (người Pháp) phải mướn một chiếc taxi để qua đường, còn tôi thì theo triết lý của thằng em là muốn qua đường thì phải nhắm mắt lại mà bước tới, còn hể mở mắt thì cả ngày cũng không qua được, ở đây xe tránh mình chứ không phải mình tránh xe. Tôi đem triết l. đó ra áp dụng, tuy hơi rợn người nhưng lại hiệu nghiệm. Đến Đà Nẵng, tôi vọt ngay vào bệnh viện. Trước kia tôi cũng có làm việc ở bệnh viện, nhưng cái “khu yêu cầu” làm tôi điên đầu tôi không biết là khu gì vì chưa hề nghe tới. Vì nôn nóng, tôi cũng đếch cần tìm hiểu . nghĩa của cái khu đó là gì mà chỉ nhờ người dẫn tới khu đó và vui mừng ôm chầm lấy chị tôi giữa đám con cháu bao quanh. Đến đây tôi mới vỡ lẽ là “khu yêu cầu” chỉ có nghĩa đơn giản là “phòng riêng”, tôi như đang ở một nước lạ mà mình không biết tiếng.

Ở Việt Nam nằm bệnh viện có nghĩa gần như mướn một phòng khách sạn mà có được bác sĩ khám, còn mọi dịch vụ khác như cơm nước, vệ sinh, thuốc men… là mình phải lo lấy, vì vậy lúc nào cũng phải có người nhà bên cạnh, không những để lo săn sóc người bệnh mà còn để trả tiền trước cho mỗi dịch vụ y khoa như xét nghiệm, X quang, siêu âm v.v…, mà phần lớn không ăn nhập gì với bệnh tình lúc đó. Chị tôi, một bà già gần chín chục tuổi đang hôn mê và bị chảy máu đường ruột ào ào thì được bs phán cho đi “siêu âm tim” và “nội soi”. Bác sĩ chuyên khoa nội soi chờ phải cầm chắc biên nhận đã thanh toán ba triệu VND rồi mới bắt tay vào việc.

Bệnh viện đã chấp hành nghiêm chỉnh câu phương châm “tiền bạc đi trước, thầy thuốc đi sau”, mặc dầu ở đầu trại có tấm bảng lớn sơn bốn chữ đỏ “Bệnh Viện Văn Hoá”!

Vào lúc nửa khuya, vì máu đường ruột ra nhiều quá nên phải đưa chị vào khu cấp cứu cách ly với bên ngoài. Tôi cũng theo đám người nhà để chen lấn nằm la liệt trước cửa phòng để nghe ngóng tin tức và nhất là để chờ gọi đến tên mà thanh toán khoảng tiền cho mỗi dịch vụ y khoa như truyền máu, thở oxy, xét nghiệm v.v. .. mà trong kia chị tôi đang chờ được thi hành nếu trả tiền xong. Được hai hôm thì bác sĩ trưởng khu cấp cứu khuyên người nhà đưa chị tôi về để lo hậu sự vì nhà thương đã “chạy”, tình trạng hoàn toàn tuyệt vọng, hôn mê, sốt cao, có triệu chứng viêm màn ruột và máu vẫn tiếp tục chảy trong đường ruột…

Vào lúc nửa khuya, chúng tôi đưa chị về nhà mà ruột gan tơi bời. Trong sự tuyệt vọng tột cùng, nhưng còn nước còn tát nên chúng tôi vẫn tiếp tục điều trị như ở bệnh viện (chị có một rể bác sĩ và một dâu y tá), chỉ khác một điều là dùng được những thuốc tôi đã mang từ Pháp về mà khi còn ở bệnh viện, chúng tôi có đề nghị nhưng bị từ chối. Ở VN bác sĩ của bệnh viện chỉ được phép điều trị với những thứ thuốc trong một danh sách nhất định có bán ở bệnh viện mà thôi. Điều đáng nghi ngờ là bệnh viện có dùng nhiều kháng sinh mà triệu chứng nhiểm trùng càng ngày càng nặng, phải chờ đến sau khi dùng kháng sinh tôi đem về từ Pháp mới thấy hiệu nghiệm.

Rồi từ đó, bệnh tình chị tôi thuyên giảm rõ rệt như một phép lạ. Nếu có phép lạ chăng là ở sự khác biệt giữa “thuốc nội” và “thuốc ngoại”, thứ mà người dân ráng tìm cho được không phải vì óc vọng ngoại mà chỉ để cứu mạng sống của người thân. Một tháng sau, tôi từ giả chị tôi với một nụ cười phấn khởi.

Nhớ lại khi mua giấy máy bay để về Việt Nam tôi vô cùng bối rối vì tôi phải làm trái với . định và sợ rằng khi trở lại Pháp sẽ vô cùng đau buồn vì e rằng chị tôi khó qua khỏi s ố mệnh. Thế nhưng không ngờ tôi lại được đi lang thang để có những nhận xét ngộ nghĩnh về cách sống của bà con nơi quê nhà.

Bức hình tôi chụp được bên ngoài hàng rào bệnh viện Đà Nẵng, nơi chị tôi (và cả ông vua Đà Nẵng Nguyễn Bá Thanh) nằm điều trị cho thấy còn có người vô tình mang bệnh tiểu đường hay lại cố coi thường hay thách thức cái “hoành tráng” của toà nhà hành chánh chọc trời đồ sộ ngay phía trước? Cơn bệnh này còn lây nhiễm đến cả thủ đô Hà Nội, nơi có con đường Trần Nhật Duật, hay còn gọi là đường Gốm Sứ, dài 4km dọc theo sông Hồng, gồm những bức tranh khảm ghép công phu tốn kém, coi như một kỳ quan nghệ thuật, một kiêu hảnh của chốn ngàn năm văn vật thì cũng được người dân thủ đô chiếu cố một cách “vô tư”.

Một sung sướng khác của dân mình là rất nhàn rỗi. Với 3 triệu công chức phục vụ cho 90 triệu dân thì lấy đâu ra việc mà làm, vì vậy ngày Tết được nghỉ những chín ngày tha hồ mà du hí.

 

Một anh taxi lái ngược đường vui vẻ khoe với tôi là sẽ không bị phạt vì giờ này mấy chú công an giao thông bận đi đón con ở trường thì lấy ai mà phạt. Anh taxi thoải mái ra mặt nhưng tôi thì lại lên ruột.

Vào giờ làm việc mà mấy tiệm cà phê vẫn đông nghẹt, toàn người trẻ, họ thích la cà ở đây hơn là ngồi trong thư viện. Một bà mẹ than phiền là đã cẩn thận đưa rước con đúng giờ giấc ở trường nhưng cuối cùng cũng phát giác ra là cậu quí tử vẫn trốn học… rất đúng giờ.

Nhà chị tôi có một đứa cháu 13 tuổi mà tôi chưa bao giờ gặp mặt trong bửa cơm tối vì vào giờ đó nó phải đi học, nó học 7 tiếng mỗi ngày, 4 tiếng với cô giáo ở trường, 3 tiếng học thêm với chính cô giáo đó. Như một thông lệ, trong giờ chính thức cô giáo chỉ dạy…chiếu lệ, còn giảng dạy đúng chương trình thì phải đợi vào giờ học thêm để cô kiếm chút tiền còm, nếu không cô sẽ…đói.

Nguyên tắc đó được một nhóm bạn trẻ mặc những chiếc áo có in mấy chữ “du học sinh.net” mà tôi gặp trong một chyến du lịch ở Campuchia xác nhận như vậy. Họ còn cho tôi biết thêm là phần lớn du học sinh đều nhắm mục đích chính là để… ở lại nước ngoài.

Trong số những tự do mà dân mình được hưởng phải kể đến tự do giao thông mà gần đây ký giả Mỹ Llewelling King gọi đó là một kỳ quan giao thông. Tất cả những quy luật trên thế giới đều vô hiệu với Việt Nam đưa đến cho người lái xe cái cảm giác… tứ khoái.

Khoái thứ nhất là được “U turn” bất cứ lúc nào ở đâu, ngay cả nơi có bảng cấm hay trên đường một chiều.

Khoái thứ hai là coi đèn xanh đèn đỏ như… “ne pas”.

Khoái thứ ba là đi ngược chiều, ngay cả trên xa lộ. Tôi bắt gặp được hai lần có xe chạy ngược chiều trên đoạn đường “cao tốc” từ Nội Bài về Hà Nội, được trang trí như là một tủ kính bày hàng nhằm loè du khách đến thăm Hà Nội.

Khoái thứ tư là được “vô tư” chen lấn, không có ưu tiên phải trái, mạnh ai nấy đi và được bóp còi thoải mái…Ngay cả con tàu “Thống Nhất” xuyên Việt cũng chen chúc qua các phố phường chật hẹp như chốn không người, giữa những chùm giây điện dọc ngang chằng chịt.

Trên đường đi Angkor Wat phải ghé qua Saigon, khi tôi bước xuống hôtel, mọi người la ó nhìn tôi như nhìn người từ hành tinh khác, không phải vì tôi ăn mặc kỳ dị mà chỉ vì tôi mang theo trên người cái máy chụp hình và cái điện thoại di động. Ở tuổi tôi đi trên đường phố Saigon mà mang những thứ đó là một cách tự sát. Khi trở lại Saigon tôi muốn về ngay Đà Nẵng thì các bạn trẻ cùng đi tours khuyên tôi không nên đứng đón taxi một mình với hành l. trên tay vì đó cũng là một hình thức tự sát khác (vì tôi còn yêu đời nên không muốn tự sát trong mấy ngày liên tiếp) nên phải nhờ anh hướng dẫn theo tôi lên taxi ra tận phi trường Tân Sơn Nhất. Trên taxi tôi thường nghe chửi bới chế độ, không biết là thật tình hay cò mồi nên tôi không dại gì mà hùa theo. Dân mình hay có óc châm biếm, như để mô tả cái xã hội được rêu rao là dân làm chủ thì người dân lại h. lộng về 3 thứ chợ ở Hà Nội đẳng cấp khác nhau bằng mấy câu:

Tôn Đản là của vua quan,

Nhà Thờ là của bầy tôi nịnh thần,

Vỉa hè là của nhân dân anh hùng…

Tuy thỉch châm biếm nhưng con người sống dưới chế độ cộng sản lại mất đi cái tính khôi hài dí dỏm của người Việt, nếu có khôi hài thì lại rẻ tiền, kiểu Hoài Linh, mà có khi còn thô tục nữa. Ở Hà Nội, ngay bên cạnh Trung Tâm Văn Hoá Ca Múa Âu Cơ trên đường Huỳnh Thúc Khang (lớn thứ hai sau Nhà Hát Lớn) thì lại có nhà hàng ăn với bảng hiệu đồ sộ “Chim To Dần” để cho các bà đi ngang phải đỏ mặt.

Về Việt Nam mà không ăn phở là một thiếu sót, tuy nhiên tôi cũng chưa tìm được cái hương vị tuyệt vời như ở Berlin hay ở Sydney. Sau mấy ngày lục lạo, tôi may mắn được bước vào một tiệm phở lịch sử đã đứng vững từ nửa thế kỷ nay và còn in dấu vết trong lòng người Hà Nội để nhớ lại thời kỳ bao cấp kinh hoàng. Trong thời đó, tiệm phở gà số 2 đường Nam Ngư này đã làm một cuộc cách mạng và đã thách thức với chính quyền cách mạng vì đã phá rào để bán phở “có người lái” nghĩa là có thịt trong tô phở, trong khi cả nước đều phải ăn phở không người lái nghĩa là không có thịt. Ngay cả khách sạn Phú Gia lớn nhất Hà Nội cũng chỉ được bán phở không thịt, ba chữ “không người lái” trở thành những chữ cấm kỵ châm biếm chế độ. Một cựu biên tập viên báo Nhân Dân than thở với tôi rằng anh ta đã bị công an bắt đứng nghiêm để đọc 100 lần chữ “phở không có thịt” vì anh ta đã vào tiệm mà ngang nhiên gọi một “tô phở không người lái”.

Sở dĩ bà chủ tiệm phở Nam Ngư làm ăn được là vì đã lợi dụng sự sơ hở của chế độ. Lúc đó nhà nước quản l. ba loại súc vật: trâu (để đi cày), bò (nói là bị Mỹ dội bom chết), heo (thì để làm nghĩa vụ đóng thuế), chỉ có gà là thoát khỏi tầm tay nhà nước, nên bỏ một miếng thịt gà vào tô phở không thể coi là hành động chống đối.

Tuy làm ăn khắm khá nhưng bà chủ Nam Ngư vẫn giữ nguyên trạng tiệm phở từ hồi mới mở tới nay, với những cái bàn con và những chiếc ghế nhựa thấp lè tè, kể cả cái thau nước rửa bát bên lề đường, như để nhắc nhở người dân Hà nội rằng dấu vết của thời bao cấp đang còn đó. Trong khi bao cấp kinh tế chỉ liên quan tới thể xác, thì ngày nay bao cấp chính trị nguy hiểm hơn, lại bao gồm luôn cả tinh thần. Khốn nạn thay cho người dân Việt, không biết còn phải chịu đựng cho tới bao giờ.

Paris, Tết Ất Mùi 2015

Phương-Vũ Võ Tam-Anh