Nhỏ bé thì mới đẹp đẽ .

Nhỏ bé thì mới đẹp đẽ .

( Small is beautiful )

Đòan Thanh Liêm

is beautiful”, đó là nhan đề của một cuốn sách xuất bản năm 1973. Tác giả là một kinh tế gia đã từng làm việc lâu năm tại Cơ quan quản lý về ngành than đá của nước Anh (National Coal Board NCB), tên là E F Schumacher. Ngay khi ra mắt công chúng, cuốn sách đã gây được tiếng vang lớn khắp thế giới, và cho đến nay sau trên 30 năm thì đã lưu hành được đến trên một triệu đơn vị, đó là chưa kể các ấn bản được dich ra nhiều thứ tiếng khác nữa.

Vào năm 1973 đó, tôi chỉ mới được đọc có một bài giới thiệu về cuốn sách này, trong đó có câu nguyên văn như sau khiến tôi nhớ mãi : “Small is beautiful, Simple is beautiful, Non-violent is beautiful too”. Mãi đến năm 1979-80, thì cụ Nguyễn Hiến Lê mới được ngưới cháu làm ở Liên Hiệp Quốc tại Geneva về thăm và mang cho bản dịch tiếng Pháp mà vẫn để nguyên nhan đề bằng tiếng Anh theo như nguyên tác, chứ lại không dịch ra tiếng Pháp : “Small is beautiful”. Cụ Nguyễn xem xong và cho tôi mượn đọc cuốn sách thật là hiếm mà có được ở Việt nam vào thời gian đó. Không những tôi đã say mê đọc, mà còn chuyển cho một vài người bạn thân thiết khác cùng đọc nữa. Rồi tôi lại có dịp đến trao đổi với cụ Nguyễn về nội dung cuốn sách này; nhờ vậy mà tôi vỡ lẽ ra được nhiều điều mới lạ mà tác giả đã gợi ra cho người đọc nào có sự chú tâm và đồng cảm với quan điểm của mình.

Đáng chú ý nhất là trong cuốn sách có một chương dài chừng 10 trang nhan đề là “Buddhist Economics” (Kinh tế học Phật giáo). Tác giả Schumacher viết rất gọn gàng khúc chiết, diễn giải một cái nhìn rất khác lạ đối với công chúng ở các nước Âu Mỹ.

Từ mấy tháng nay trước sự hỏang lọan cực kỳ rối ren đen tối phát sinh từ cuộc khủng hỏang kinh tế tài chánh của nước Mỹ và nhiều nơi trên thế giới, tôi đã tìm đọc lại cuốn sách này nơi ấn bản năm 1999 kỷ niệm 25 năm ngày xuất bản đầu tiên năm 1973 như đã ghi ở trên. Và với thêm nhiều tài liệu được cập nhật hóa liên quan đến tác giả và tác phẩm, tôi bèn nảy ra ý nghĩ là phải trình bày với chi tiết thật sáng sủa, mà gọn gàng về tư tưởng của tác giả Schumacher với các bạn đọc người Việt nam chúng ta.

Để cho vấn đề trình bày được thêm mạch lạc sáng tỏ, người viết xin chia ra thành 3 phần được diễn trình trong 3 bài như sau :

Bài 1/  Thân thế và sự nghiệp tác giả E F Schumacher

Bài 2/  Giới thiệu cuốn sách “Small is beautiful”

Bài 3/   Kinh tế học Phật giáo (dịch nguyên văn từ chương “Buddhist Economics”)

Nhân tiện người viết cũng xin ghi lời tưởng nhớ với niềm ngưỡng mộ chân thành và lòng biết ơn sâu sắc đối với cụ Nguyễn Hiến Lê, là một học giả đã góp phần rất lớn lao trong công trình xây dựng văn hóa nước nhà, dưới chế độ tự do ở miền Nam Việt nam hồi trước năm 1975. Cụ sinh năm 1912 (suýt soát với tuổi của E F Schumacher) ở Hanoi, và đã từ trần vào năm 1984 ở Saigon. Và năm 2009 này là kỷ niệm 25 năm kể từ ngày Cụ từ giã chúng ta.

Bài 1  —   Ernst  Friedrich  Schumacher  (1911 – 1977)

Thân thế và Sự nghiệp

1/  Sơ Lược Tiểu sử

E F Schumacher sinh tại thành phố Bonn, nước Đức năm 1911 (cùng năm xảy ra cuộc Cách Mạng năm Tân Hợi ở Trung quốc, lật đổ vương triều nhà Mãn Thanh). Thân phụ là Giáo sư Hermann Schumacher chuyên dậy về môn Kinh tế học tại nhiều trường Đại học ở Đức, kể cả tại thủ đô Berlin vào hồi đầu thế kỷ XX. Thân mẫu là Bà Edith Zitelmann, một tài năng về tóan học. Trong chỗ thân mật E F thường được gọi là Fritz. Với cha mẹ như vậy, nên người ta không ai ngạc nhiên về sự thông minh xuất chúng của Fritz là một học sinh luôn luôn đứng vào hàng đầu trong các lớp học. Lại nữa, Fritz còn được thụ giáo với các bậc đại sư nổi danh khắp thế giới như Joseph Schumpeter gốc Áo quốc, như John Maynard Keynes bên Anh quốc v.v…

Là một sinh viên xuất sắc, nên Fritz đã được học bổng Rhodes Scholar để theo học tại Đại học Oxford hồi đầu thập niên 1930, và lại được tiếp tục theo học tại Mỹ trong ngành kinh tế tài chánh. Sau thời gian ngắn làm việc tại Đức, Fritz không thể chấp nhận đường lối độc tài phát xít của Hitler, nên đã sang làm việc bên Anh quốc ít lâu trước khi thế chiến thứ hai xảy ra năm 1939. Lúc đầu khi mới nổ ra cuộc chiến, vì là công dân Đức nên Fritz cũng bị đối xử rất ngặt nghèo như là kẻ thù địch và bị xếp vào lọai người bị cô lập  trong một trại tập trung rất khắc nghiệt. Nhưng sau ít lâu, thì cũng được các bạn hữu giải thóat ra khỏi tình trạng quản chế này và được trao phó cho công viêc thích hợp với khả năng chuyên môn của một kinh tế gia.

Chiến tranh chấm dứt, Fritz nhờ đã có quốc tịch Anh, nên được phái sang Đức với nhiệm vụ làm cố vấn kinh tế cho phái bộ Anh đặc trách về vấn đề bình định và tái thiết trong khu vực thuộc quyền quản lý của quân đội nước Anh tại Đức. Vì được chứng kiến tận mắt những tàn phá mất mát của bà con ruột thịt với mình, nên Fritz đã ngày đêm miệt mài tìm cách xây dựng lại hệ thống quản lý và phân phối ngành năng lượng, chủ yếu là than đá vốn là huyết mạch của sự phục hồi kỹ nghệ tại nước Đức, cũng như tại tòan bộ các nước thuộc miền Tây Âu châu. Sau đó ông trở về lại nước Anh và nhận chức vụ cố vấn kinh tế cho cơ quan National Coal Board (NCB), đây là công việc ông làm trong nhiều năm nhất (gần 20 năm) cho đến khi về hưu vào năm 1970.

Về đời sống gia đình, Fritz  đầu tiên cưới bà vợ người Đức là Anna Maria Petersen vào năm 1936. Anna Maria thường được gọi là Muschi trong chỗ thân mật gia đình và bạn hữu. Hai vợ chồng rất gắn bó với nhau và đã trải qua những năm khốn khó giữa thời chiến tranh bên nước Anh. Họ có với nhau 5 người con. Nhưng không may, Muschi bị bệnh ung thư và mất sớm vào năm 1960, lúc chưa đày 50 tuổi. Sau đó, thì Fritz tục huyền với bà Vreni Rosenberger, người Thụy sĩ. Cuộc hôn nhân thứ hai này đem lại cho Fritz thêm 3 người con nữa. Bà Vreni là người chăm sóc tận tình cho Fritz vào thời cuối đời, đặc biệt là cho lũ con riêng của Fritz mà còn rất nhỏ tuổi, khi người mẹ của chúng là bà Muschi qua đời. Và rốt cuộc, chính Fritz Schumacher cũng đã kiệt sức vì làm việc quá nhiều, và đã qua đời trên chuyến đi diễn thuyết tại Thụy sĩ vào năm 1977 lúc mới có 66 tuổi.

Chi tiết về cuộc đời và họat động của Fritz Schumacher đã được người con gái lớn là Barbara Schumacher Wood ghi lại khá đày đủ trong cuốn tiểu sử xuất bản năm 1984, với nhan đề là  :   “ E F Schumacher , His Life and Thought “. Nhờ tham khảo cuốn sách này, mà người viết có thể cống hiến cho bạn đọc những chi tiết lý thú.

2/  Hành trình tư tưởng của Fritz Schumacher.

Có thể nói Fritz là một nhân vật xuất chúng cả trong hành động cụ thể, cũng như trong công cuộc tìm kiếm giải pháp tốt đẹp có tầm vóc tòan cầu trước những khó khăn bế tắc của thế giới hiện đại. Như đã trình bày ở phần trên, thông qua việc học hỏi và làm việc tại các quốc gia tiền tiến như Đức, Anh và Mỹ trong hơn 60 năm, ông đã được tiếp cận với các luồng tư tưởng, với các nhân vật ngoại hạng, cũng như tham gia vào các hoạt động ở tầm mức cao nhất trên thế giới. Và cùng với một trí tuệ thông minh vượt trội và sức làm việc cần mẫn, say sưa miêt mài trong nhiều năm, ông đã đạt tới tình trạng “ngộ ra được’ một đường lối phải noi theo để góp phần xây dựng tốt đẹp nhất cho thời đại ngày nay. Ông đã đi khắp năm châu, bốn biển, nhất là Phi châu, châu Mỹ la tinh , Ấn độ, Miến điện để nhận diện được sự phức tạp của hòan cảnh sinh họat văn hóa xã hội và cả mặt tâm linh của nhiều sắc dân với truyền thống lịch sử rất khác biệt với nhau.

Lúc còn trẻ, vì hăng say làm việc và nghiên cứu với tinh thần lạc quan khoa học, ông như người vô thần, không chú tâm gì đến khía cạnh tâm linh của con người. Nhưng sau này, nhờ quan sát tại chỗ ở nhiều quốc gia trên thế giới, ông đã chú trọng đến ảnh hưởng của tôn giáo trong các nền văn hóa. Đặc biệt ông rất khâm phục chủ trương “Bất bạo động” của Thánh Gandhi bên Ấn độ và lối sống thanh thóat của người Phật tử tại Miến điện. Và đến cuối đời, thì ông gia nhập đạo công giáo.

Bởi vậy mà suy nghĩ của Schumacher càng thêm chín mùi hơn với khía cạnh nhân bản và nhân ái, vượt thóat được thái độ kênh kiệu, tự cao tự đại và tự mãn thường thấy nơi những người quá say mê với thành tựu khoa học kỹ thuật, cũng như về kinh tế của các nước Âu Mỹ. Càng tìm hiểu nơi các nền văn hóa cổ truyền bên ngoài thế giới Tây phương, ông càng có thái độ khiêm tốn, phục thiện và mở rộng tâm hồn để đón nhận những luồng tư tưởng khác lạ mà lại rất phong phú của nhân lọai. Có thể nói Schumacher luôn luôn nhất quán trong việc đề cao khía cạnh đạo đức nhân bản trong lề lối tổ chức sinh họat kinh tế xã hội cho con người trong thế giới ngày nay. Ông luôn nhắc nhủ, cảnh giác cái thái độ tự phụ của các nhà lãnh đạo các cường quốc chỉ biết đến khoa học, đến năng suất kinh tế thương mại, mà sao lãng vấn đề lương tâm và trách nhiệm liên đới của các quốc gia là thành viên trong cộng đồng nhân lọai.

Cụ thể Schumacher phê phán nhà bác học Einstein rằng : Vì ông ta quá mức đề cao thuyết tương đối (Relativity), thì đâm ra chối bỏ cái tiêu chuẩn đạo đức vốn có giá trị tuyệt đối. Cũng vậy, lý thuyết của Freud coi rằng con người hành động là do sự ẩn ức của sinh lý bị dồn ép, thì không còn phải chịu trách nhiệm gì về việc làm xằng bậy của mình nữa. Như vây là sự vô trách nhiệm. Schumacher cũng phê phán Karl Marx về lý thuyết định mệnh lịch sử, thì con người cũng không còn chịu trách nhiệm cá nhân của riêng bản thân nữa. Ông cũng cực lực lên án chủ trương gieo rắc hận thù của người macxít, vì đó là nguyên nhân của các vụ tàn sát kinh hòang trong thế giới cộng sản. Ta sẽ có dịp xem xét chi tiết hơn về tư tưởng của Schumacher khi đọc tác phẩm chính yếu “Small is beautiful” là đề tài sẽ được trình bày trong bài sau.

3/  Ảnh hưởng của tư tưởng Schumacher

Báo New York Times đã xếp cuốn “Small is beautiful” là một trong 100 cuốn sách có ảnh hưởng nhất trên thế giới (the most influential books) kể từ sau thế chiến 2. Tác giả đã được mời đi diễn thuyết tại nhiều nơi trên thế giới và được nhiều vị nguyên thủ quốc gia tham khảo ý kiến, trong đó có cả Tổng Thống Jimmy Carter của nước Mỹ. Tại nhiều nước, đặc biệt là ở Anh và Mỹ, các thân hữu ái mộ ông đã lần hồi thành lập “Hiệp hội E F Schumacher” (E F Schumacher Society) nhằm nghiên cứu, khai triển và phổ biến tư tưởng của ông. Và còn rất nhiều các tổ chức và các nhóm khác đã chịu ảnh hưởng của tư tưởng của ông, mà điển hình như “ Institute for Community Economics”, “Council on Economic Priorities”, “Friends of the Earth”, “Greenpeace”, “Worldwatch Institute”, “Soil Remineralization Network”, “Global Warming Network” v.v…

Ta có thể lược kê ra các đề tài được Schumacher nêu ra ngay từ thập niên 1960 và hiện nay vào thế kỷ XXI vẫn còn tính cách thời sự cấp bách, mà được quần chúng cũng như giới trí thức hàn lâm rất quan tâm.  Điển hình một số các đề tài đó như sau  :

  • Phê phán các hệ thống tổ chức quá mức (overorganised systems) làm phá họai tinh thần con người, cũng như cả hành tinh trái đất.
  • Đề cao sự quan trọng của “mức thang nhân sinh” (human scale) trong việc tổ chức sinh họat kinh tế xã hội.
  • Ý niệm về “kỹ thuật với bộ mặt nhân bản” (technology with human face), về “kỹ thuật thích hợp” (appropriate technology) cho từng quốc gia, có tính cách đơn giản, bất bạo động và có thể kiểm sóat được (controllable).
  • Ưu tư về sự mau cạn kiệt (rapid depletion) các tài nguyên thiên nhiên, khiến đưa tới sự phá hủy môi sinh.Cần cảnh giác về việc sử dụng quá mức các lọai tài nguyên không thể tái tạo (non-renewable resources) như than đá, dầu khí, gas…
  • Sự quan trọng của việc phục hồi lại cái hệ thống giá trị về một lối sống tốt đẹp, một xã hội an hòa (good life, good society) thay vì cứ để bị mê hoặc bởi các lọai lợi ích ngắn hạn nhất thời.
  • Sự cần thiết phải trở về với “Bốn Nhân Đức Nền Tảng” (Four Cardinal Virtues), đó là : Sự Khôn ngoan, Công lý, Dũng cảm và Tiết chế ( tiếng latin : Prudentia, Justitia, Fortitudo, Temperantia)  …

Đại khái các đề tài này đã luôn luôn được đưa ra thảo luận trong các cuộc hôi thảo, các buổi nói chuyện trao đổi giữa nhiều nhóm, nhất là giới sinh viên Đại học, các tổ chức tôn giáo… Và các lọai ý kiến xuất phát từ các cuộc gặp gỡ này hiện vẫn được chuyển tải thường xuyên trên các phương tiện truyền thông đại chúng, nhất là trên internet.

Sức thu hút của tư tưởng Schumacher đối với nhiều người, đó là do sự chính xác của lý luận và phân tích tình hình xã hội của ông được thể hiện rõ ràng qua sự kiểm chứng đối chiếu với thực tiễn sinh động tại nhiều nơi trên thế giới ngày nay. Cụ thể như : Các nhà máy phát điện với kích thước quá lớn đã lần hồi bị thay thế bởi các đơn vị nhỏ bé hơn, bởi lẽ các nhà máy với quy mô vừa phải thì mới có hiệu quả chắc chắn, vũng bền hơn. Cũng như các nhà máy điện nguyên tử không còn được xây dựng ào ạt sau các vụ rì rỏ tại “Three Miles Island” ở Mỹ và nhất là sau tai nạn thảm khốc Chernobyl ở Liên Xô vào thập niên 1980, sau khi Schumacher đã qua đời năm 1977.

Nhân tiện cũng nên ghi nhận chủ trương của tác giả “Small is beautiful” cũng có nhiều nét tương đồng với quan điểm của nhà tư tưởng đương thời và cũng nổi danh khác, đó là Karl Popper gốc từ Áo quốc (1905-1994), là một vị giáo sư lâu năm của Đại học London School of Economics cũng ở nước Anh. Đó là chủ trương “Piecemeal Social Engineering” ( “Xây dụng xã hội từng mảnh một “, như đã được trình bày khá chi tiết trong tác phẩm nổi danh của ông với nhan đề là : “The Open Society and Its enemies “), mà nhà tỉ phú George Soros là một môn đệ hiện đang theo đuổi áp dụng thông qua tổ chức “Open Society Institute OSI” do ông sáng lập, có trụ sở chính tại New York, và chuyên chú về công cuộc phục hồi tại các nước Đông Âu trong giai đọan hậu cộng sản từ 20 năm nay. Người viết mong sẽ có dịp trình bày chi tiết hơn về cặp đại sư Karl Popper và môn sinh George Soros này trong một dịp khác, cũng như đã viết về vị đại sư cũng rất nổi danh khác của nước Pháp là Raymond Aron (1905-1983) vào đầu năm 2008 vừa qua./

California, Tháng Tư 2009

Đòan Thanh Liêm

( Bài 2   : Giới thiệu tác phẩm “Small is beautiful”). (tiêp theo)

Làm Báo, Làm Dáng & Làm Đĩ

Làm Báo, Làm Dáng & Làm Đĩ

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Không phải ngẫu nhiên mà lực lượng báo chí nước ta đã vinh dự được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Sao Vàng, Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều phần thưởng cao quý khác. Thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, tôi nhiệt liệt chúc mừng và biểu dương những đóng góp to lớn của báo chí cả nước cũng như của Hội Nhà báo Việt Nam.

T.B.T Nguyễn Phú Trọng (09/08/2015)

Mấy tháng trước, có đận, báo chí trong nước đồng loạt và khẳng khái lên tiếng bênh vực một người dân ở Sài Gòn vì tấm biển quảng cáo quán ăn của ông ta bị nhân viên Phường I tịch thu mà “không hề có văn bản, không có ý kiến từ cơ quan chức năng có thẩm quyền.” Đầu tháng này, báo giới lại đồng tình lên tiếng chỉ trích việc “thi hành pháp luật cứng ngắc” của công an phường Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai (Hà Nội) khi họ tịch thu bình trà đá miễn phí dành cho người nghèo do người dân khu phố đặt dưới một gốc cây.”

Thành quả: cả tấm biển quảng cáo và thùng nước đều đã được trả lại cho khổ chủ. Không những thế, ông Nguyễn Quang Hiếu, Chủ Tịch UBND quận Hoàng Mai còn “đánh giá công an phường Thịnh Liệt thu thùng trà miễn phí của người dân là hơi thái quá, cần rút kinh nghiệm.”

Chưa hết, Luật sư Nguyễn Văn Hậu ( Phó Chủ Tịch Hội Luật Gia TPHCM) cũng cho rằng “hành động tịch thu bình trà đá miễn phí cho người nghèo là vô tâm và đụng chạm tới những giá trị nhân văn đang ngày càng ít trong xã hội, nên lập tức gặp phải phản ứng dữ dội.”

Ảnh: vnexpress

Những phản ứng “dữ dội” kể trên khiến tôi thốt nhớ đến một câu danh ngôn quen thuộc (“Tội lỗi lớn nhất của chúng ta là im lặng trước cái ác và cái xấu.”) và không nén được một tiếng thở dài. Báo giới ở Việt Nam – rõ ràng – chỉ ồn ào trước những cái xấu cùng cái ác nho nhỏ, ở phạm vi phường xã mà thôi. Còn những tội ác tầy trời khác thì họ nhất loạt … làm thinh!

Xin đơn cử vài thí dụ:

“Tối 10-9-1975, ‘tin chiến thắng’ liên tục được báo về ‘Đại bản doanh’ của Trung ương Cục đóng tại Dinh Độc Lập… Các đoàn đưa ra những con số chi tiết: hàng chục triệu tiền mặt, hàng chục ký vàng, cả ‘kho’ kim cương, hàng vạn mét vải và cả một cơ sở chăn nuôi gồm ‘7.000 con gà, thu hoạch 4.000 trứng mỗi ngày’ ở Thủ Đức…

Trong buổi giao ban của Thường vụ Trung ương Cục vào lúc 7 giờ tối ngày 10-9- 1975, tại Dinh Độc Lập, với sự có mặt của ông Phạm Hùng, bí thư Trung ương Cục, ông Nguyễn Văn Trân, ủy viên thường vụ, cùng các lãnh đạo Quân quản như Nguyễn Võ Danh, Phan Văn Đáng…, ông Mai Chí Thọ cho rằng các đoàn, các đội chỉ mới bắt được đối tượng, mới nắm được tài sản nổi chứ chưa lấy hết tài sản chìm.”

(Huy Đức. Bên Thắng Cuộc, tập I. OsinBook, Westminster, CA: 2013).

Xin xem thêm vài con số nữa về tài sản (cả nổi lẫn chìm) của đám nạn nhân thuộc bên bại cuộc:

  • “Những gì mà Cách mạng lấy được của ‘nhà giàu’ trên toàn miền Nam được liệt kê: ‘Về tiền mặt ta thu được 918,4 triệu đồng tiền miền Nam; 134.578 Mỹ Kim [trong đó có 55.370 USD gửi ở ngân hàng]; 61.121 đồng tiền miền Bắc; 1.200 đồng phrăng (tiền Pháp)…; vàng: 7.691 lượng; hạt xoàn: 4.040 hột; kim cương: 40 hột; cẩm thạch: 97 hột; nữ trang: 167 thứ; đồng hồ các loại: 701 cái. Trong các kho tàng ta thu được: 60 nghìn tấn phân; 8.000 tấn hoá chất; 3 triệu mét vải; 229 tấn nhôm; 2.500 tấn sắt vụn; 1.295 cặp vỏ ruột xe; 27.460 bao xi măng; 644 ô tô; 2 cao ốc; 96.604 chai rượu; 13.500 ký trà; 1000 máy cole; 20 tấn bánh qui; 24 tấn bơ; 2.000 kiếng đeo mắt; 457 căn nhà phố; 4 trại gà khoảng 30.000 con và một trại gà giá 800 triệu; 4.150 con heo; 10 con bò, 1.475.000 USD thiết bị tiêu dùng; 19 công ty; 6 kho; 65 xí nghiệp sản xuất; 4 rạp hát; 1 đồn điền cà phê, nho, táo rộng 170 hecta ở Đà Lạt’ (Sđd, trang 80-81).
  • Tại Sài Gòn, 28.787 hộ tư sản bị cải tạo, phần lớn bị ‘đánh’ ngay trong bốn ngày đầu với 6.129 hộ ‘tư sản thương nghiệp’, 13.923 hộ ‘trung thương’. Những tháng sau đó có thêm 835 ‘con phe’, 3.300 ‘tiểu thương ba ngành hàng’, 4.600 ‘tiểu thương và trung thương chợ trời’ bị truy quét tiếp. Theo ông Huỳnh Bửu Sơn, người trông coi kho vàng của Ngân hàng, trong đợt đánh tư sản này, Cách mạng thu thêm khoảng hơn năm tấn vàng, chưa kể hạt xoàn và các loại đá quý. Có những gia đình tư sản giấu vàng không kỹ, lực lượng cải tạo tìm được, khui ra, vàng chất đầy trên chiếu.” (Sđd, trang 90).

Những “chiến thắng” và “chiến lợi phẩm” tương tự cũng đã được ghi nhận, ngay sau khi… “Cách Mạng cướp được chính quyền,”  ở miền Bắc Việt Nam:

“Năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho tiến hành “cải tạo xã hội chủ nghĩa” trên toàn miền Bắc, các   nhà tư sản Việt Nam buộc phải giao nhà máy, cơ sở kinh doanh cho Nhà nước… Trong thời kỳ khôi phục kinh tế, 1955-1957, nền kinh tế miền Bắc phát triển ngoạn mục, chủ yếu nhờ vào lực lượng tư nhân: Công nghiệp tư bản tư doanh tăng 230%; cá thể, tiểu chủ, tăng 220,2%. Tư bản tư doanh và tiểu chủ, cá thể tạo ra một lượng sản phẩm chiếm 73,7% tổng giá trị công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ở miền Bắc.

Nhưng ‘Công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư doanh’ bắt đầu ở miền Bắc vào tháng 9-1957 đã gần như triệt tiêu hoàn toàn kinh tế tư bản tư nhân, tiểu chủ và cá thể bằng cách tước đoạt dưới các hình thức ‘tập thể hoá’ hoặc buộc các nhà tư sản phải đưa cơ sở kinh doanh của họ cho Nhà nước với cái gọi là công tư hợp doanh.

Chỉ hai năm sau cải tạo công thương nghiệp tư doanh, ở miền Bắc, tài sản của các nhà tư sản teo dần trong khi lực lượng quốc doanh bắt đầu chiếm tỉ trọng cao trong nền kinh tế. Văn kiện Đảng ghi ngắn gọn: ‘Đến cuối năm 1960, 100% hộ tư sản công nghiệp và 97,2% hộ tư sản thương nghiệp được cải tạo.’ Con số đó đủ để nói lên chính sách đối với tư nhân của chế độ miền Bắc.” (Sđd, tập II, trang 204 – 207).

Nói tóm lại là tài sản của người dân, ở cả hai miền Nam/Bắc, đều đã bị “tước đoạt” một cách trắng trợn trong suốt “tiến trình cách mạng” qua một loạt những trận “đánh” được mệnh danh là Cải Cách Ruộng Đất, Cải Tạo Công Thương Nghiệp, Cải Tạo Xã Hội Chủ Nghĩa, Tập Thể Hoá, Đổi Tiền …

Tuy “cách mạng” đã thành công nhưng cái “tiến trình” này chưa biết bao giờ mới chấm dứt. Đảng và Nhà Nước vẫn thản nhiên cướp đoạt, và vẫn tiếp tục khiến cho hàng trăm ngàn gia đình người dân phải lâm vào cảnh vong gia thất thổ với chủ trương “đất đai là sở hữu của toàn dân.”

VOA nghe được vào hôm 13 tháng 8 năm 2015 phát đi một bản tin (“Cô Bé 14 Tuổi Đi Tìm Công Lý Cho Ba Mẹ Và Anh Trai”) buồn bã:

Sự việc liên quan tới gia đình em Nguyễn Mai Thảo Vy (ngoài cùng bên trái) rộ lên hồi tháng Tư vừa qua trong vụ phản kháng cưỡng chế đất đai ở huyện Thạnh Hóa, Long An. Ảnh và chú thích: VOA

Một bé gái mất nhà, có cả cha mẹ và anh trai rơi vào vòng lao lý vì chống lại lực lượng thu hồi đất mà em cho là bất công, nói em chỉ mong trở lại cuộc sống bình thường và đang làm tất cả những gì có thể để gia đình được đoàn tụ.

Sự việc liên quan tới gia đình em Nguyễn Mai Thảo Vy rộ lên hồi tháng Tư vừa qua trong vụ phản kháng cưỡng chế đất đai ở huyện Thạnh Hóa, Long An.

Hơn một chục người bị bắt, trong đó có ba mẹ của em Vy, và 4 tháng sau, mới đây, ngày 6/8, anh trai của em là Nguyễn Mai Trung Tuấn, 15 tuổi, đã bị bắt theo “lệnh truy nã”.

Vy kể với VOA Việt Ngữ: “Con cảm thấy mình giống như là bước vào con đường cùng không có lối thoát. Con tưởng cuộc đời con chấm hết rồi. Không còn cha mẹ, không còn nhà cửa. Tinh thần của con rất là suy sụp.

Cháu Nguyễn Mai Trung Tuấn. Ảnh từ Dân Luận

Chính sách thu hồi đất đai hiện nay đã  đẩy bao nhiêu triệu người “vào con đường cùng không có lối thoát” như thế ? Tuy thế, báo giới ở đất nước này chỉ “phản ứng dữ dội” khi bất công xẩy ra ở cấp phường xã, và chỉ liên quan đến những tài sản nho nhỏ (như tấm biển quảng cáo, hay thùng nước đá) của người dân mà thôi.

Vậy mà cũng có Hội Nhà Báo Việt Nam, với cả chục lần Đại Hội. Đó là hội của những người làm dáng, chứ không phải là làm báo. Dù vậy, không ít qúi ông và bà phóng viên và ký giả của TTXVN vẫn chưa bao giờ dám làm dáng cả, họ chỉ chuyên làm đĩ (whorespondent) mà thôi.

Trung Quốc thăng tướng cho 4 sĩ quan chống Việt Nam

Trung Quốc thăng tướng cho 4 sĩ quan chống Việt Nam

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình chụp ảnh với các sĩ quan quân đội tại Bắc Kinh. (Ảnh chụp từ trang web của Xinhua).

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình chụp ảnh với các sĩ quan quân đội tại Bắc Kinh. (Ảnh chụp từ trang web của Xinhua).

VOA Tiếng Việt

18.08.2015

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình mới thăng cấp thượng tướng cho 10 sĩ quan cấp cao của nước này, và 4 nhân vật trong số đó từng tham gia vào việc hoạch định các chiến dịch quân sự chống Việt Nam. Giới quan sát trong nước cho rằng Hà Nội cần phải lưu ý đề phòng việc thăng hàm này.

4 sĩ quan này là ông Lưu Việt Quân, 60 tuổi, người đứng đầu quân khu Lan Châu thuộc tỉnh Cam Túc; ông Triệu Tông Kỳ, 60 tuổi, người đứng đầu quân khu Tể Nam, tỉnh San Đông; ông Lí Tác Thành, 61 tuổi, người đứng đầu quân khu Thành Đô thuộc tỉnh Tứ Xuyên và ông Vương Ninh, 60 tuổi, người đứng đầu lực lượng cảnh sát vũ trang.

Việc phong tướng này diễn ra trong bối cảnh quân đội Trung Quốc đánh dấu 88 năm ngày thành lập, củng cố vị thế lực lượng quân sự lớn nhất trên thế giới.

” 4/10 vị tướng mới đây, trong đó có những người họ cho là có công chống Việt Nam thì như vậy thể hiện chiến lược của họ rồi. Rất rõ rồi, chứ không còn mơ hồ gì nữa…Đó cũng là hình thức để dằn mặt Việt Nam.”

Tiến sỹ Nguyễn Nhã, chuyên viên nghiên cứu về quan hệ Việt-Trung, nhận xét.”

Nhận định về đợt thăng cấp này, ông Dương Danh Dy, cựu quan chức ngoại giao hiện nghiên cứu về quan hệ Việt-Trung, nói:

“Quân đội Trung Quốc mấy chục năm nay không có chiến tranh rồi. Cho nên bây giờ Trung Quốc rất cần những anh có thực tế chiến đấu, đề bạt những anh đã kinh qua thực tế chiến đấu, đặc biệt là với Việt Nam. Những thằng mà đã chiến đấu với Việt Nam thì ít nhất là nó cũng hiểu quân đội mình hơn. Nó hiểu mình hơn những thằng khác. Đề bạt 4 thằng chống Việt Nam, chứng tỏ nó [Trung Quốc] coi trọng chuyện chiến đấu với Việt Nam sắp tới. Nó nhằm vào cuộc chiến đấu với Việt Nam. Đấy là điều mà Việt Nam phải chú ý”.

Đích thân ông Tập Cận Bình, người đồng thời là Chủ tịch Quân ủy Trung ương của Trung Quốc, tham gia buổi lễ phong tướng cho 10 sĩ quan cao cấp.

Báo chí Việt Nam cũng đưa tin về đợt thăng tướng tập thể này, nhưng không nhắc tới mối liên hệ giữa 4 trong số các tướng lĩnh này với cuộc xung đột với Việt Nam.

Tiến sỹ Nguyễn Nhã, người cũng nghiên cứu về quan hệ Việt – Trung, cho rằng việc phong tướng của quốc gia láng giềng của Việt Nam cho thấy một “chiến lược” nhất định. Ông Nhã nói:

“4/10 vị tướng mới đây, trong đó có những người họ cho là có công chống Việt Nam thì như vậy thể hiện chiến lược của họ rồi. Rất rõ rồi, chứ không còn mơ hồ gì nữa. Họ vẫn cho rằng là đối với Việt Nam thì phải xử, phải phát triển vấn đề quân sự, trong đó có vấn đề phong tướng. Đó cũng là hình thức để dằn mặt Việt Nam.”

Giới quan sát cho rằng động thái của Trung Quốc cho thấy rằng Việt Nam vẫn nằm trong tầm ngắm của Bắc Kinh, nhất là khi quan hệ giữa hai nước láng giềng vấp phải nhiều sóng gió thời gian qua.

Tán đồng ý kiến của ông Nhã, nhà nghiên cứu Dương Danh Dy cho rằng việc Việt Nam hiện nay là “đối tượng tác chiến của quân đội Trung Quốc là điều rõ ràng”. Ông nói:

“Đối với Nga hay Ấn Độ, nó [Trung Quốc] cũng có thể nghiên cứu. Nhưng trước mắt mũi nhọn của nó [Trung Quốc] là chĩa vào Việt Nam vì những chuyện như biển Đông, biên giới trên bộ hay nhiều chuyện khác nữa. Lúc nào có thể gây chuyện với Việt Nam là nó gây chuyện. Chiến tranh biên giới, lúc nào Trung Quốc muốn là cũng có thể gây chuyện với Việt Nam được. Còn với Ấn Độ, với Nga, với nước lớn, Trung Quốc phải tính toán.”

”  Trước mắt mũi nhọn của nó [Trung Quốc] là chĩa vào Việt Nam vì những chuyện như biển Đông, biên giới trên bộ hay nhiều chuyện khác nữa. Lúc nào có thể gây chuyện với Việt Nam là nó gây chuyện.

Cựu quan chức ngoại giao Dương Danh Dy nói.”

Trong tổ chức quân đội Trung Quốc hiện nay, thượng tướng là cấp hàm cao nhất. Ngoại trừ tướng Trương Sĩ Ba (63 tuổi), Hiệu trưởng Đại học Quốc phòng, 7 thượng tướng còn lại đều có tuổi đời nhỏ hơn ông Tập (62 tuổi). Hai người còn lại có cùng tuổi đời với Chủ tịch Trung Quốc.

Mới đây, tin cho hay, Trung Quốc đã yêu cầu Brazil giúp phát triển một chương trình chiến tranh du kích cho Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Hoa (PLA), Đại tá Alcimar Marques de Araujo Martins, chỉ huy Trung tâm Huấn luyện Chiến tranh Du kích Brazil cho biết:

Ông Alcimar cho tờ Janes’s Defence Weekly biết như vậy hôm 10/8. Theo tạp chí về quốc phòng này, PLA cảm thấy cần phải tăng cường khả năng mở chiến tranh du kích vì có đường biên giới dài, nhiều cây cối với các nước láng giềng như Việt Nam và Ấn Độ, hai quốc gia hiện có tranh chấp lãnh thổ với Bắc Kinh.

Đại tá Alcimar Marques de Araujo Martins được trích lời nói: “Họ đã yêu cầu chúng tôi cử người sang huấn luyện phát triển chương trình chiến tranh du kích ở Trung Quốc”.

Tuy nhiên, quan chức quân sự này không nói rõ là Bắc Kinh đã yêu cầu bao nhiêu người cố vấn và khi nào thì chương trình sẽ bắt đầu.

Trung tâm huấn luyện chiến tranh du kích của Brazil đã huấn luyện gần 6.000 binh sĩ, trong đó có 500 người nước ngoài, kể từ khi được thành lập năm 1965.

Dù chưa có con số thống kê cụ thể, chiến tranh biên giới Việt-Trung năm 1979 đã làm hàng chục nghìn binh sĩ ở cả hai phía bỏ mạng.

Quan hệ Việt Nam và Trung Quốc thời gian qua trở nên căng thẳng vì các hành động lấn lướt của Bắc Kinh ở biển Đông.

Mới đây, báo Kommersant có trụ sở ở Moscow cho rằng “quân đội Việt Nam đang chuẩn bị các lực lượng đặc biệt để có thể tấn công các cơ sở Trung Quốc trong khu vực”.

Bài báo viết rằng cũng như các cuộc diễn tập quân sự đã được quân đội Việt Nam tiến hành từ năm 2004 đã cho thấy, máy bay chiến đấu SU-22 của Không quân Việt Nam sẽ được dùng để phát động cuộc tấn công đầu tiên chống các mục tiêu trên biển bằng tên lửa không đối địa AS-10.
Các chiến đấu cơ này có thể tấn công các tàu hải quân Trung Quốc từ độ cao 2.500 tới 3.000 mét.

Việt Nam chưa lên tiếng thừa nhận hay phản đối các thông tin mà tờ báo của Nga nêu ra.

Tỷ phú Trump dẫn đầu cuộc đua ứng viên tổng thống đảng Cộng hòa

Tỷ phú Trump dẫn đầu cuộc đua ứng viên tổng thống đảng Cộng hòa

Ứng cử viên tổng thống đảng Cộng hòa Donald Trump tại New York, ngày 17/8/2015.

Ứng cử viên tổng thống đảng Cộng hòa Donald Trump tại New York, ngày 17/8/2015.

18.08.2015

Kết quả cuộc thăm dò chính trị mới đây ở Mỹ cho thấy ông trùm tỷ phú bất động sản Donald Trump rõ ràng đang dẫn đầu cuộc đua để được đảng Cộng hòa đề cử làm ứng viên tranh cử Tổng thống.

Cuộc thăm dò do CNN/ORC công bố hôm nay cho thấy ông Trump được 24% số cử tri đã đăng ký của đảng Cộng hòa trên toàn quốc ủng hộ, dễ dàng bỏ xa đối thủ gần nhất là cựu Thống đốc bang Florida, ông Jeb Bush, con trai của cựu Tổng thống Geogre Bush và là em trai của cựu Tổng thống George W.Bush, người được 13% ủng hộ.

Vẫn theo kết quả cuộc thăm dò này, không ai trong số 15 ứng cử viên còn lại trong cuộc đua đạt được tỷ lệ ủng hộ hai con số.  Bác sĩ giải phẫu thần kinh Ben Carson đã hồi hưu được 9%.

Thượng nghị sĩ Marco Rubio của bang Florida và Thống đốc Scott Walker của Wisconsin mỗi người được 8%. Những người khác đạt được tỷ lệ nhỏ hơn.

Cuộc khảo sát của CNN/ORC thăm dò ý kiến  1 ngàn cử tri được thực hiện trong vài ngày qua, một tuần sau khi diễn ra cuộc tranh luận giữa các ứng viên đảng Cộng hòa. So với một cuộc thăm dò hồi tháng 7, tỷ phú 69 tuổi Donald Trump lên được 6 điểm.

Tỷ lệ ủng hộ của các đảng viên Cộng hòa dành cho ứng viên trực ngôn này cũng gia tăng, với 58% hiện giờ cho biết có cái nhìn ưu ái đối với ông Trump, so với tỷ lệ 50% cách đây 1 tháng.

Cuộc thăm dò cho thấy đảng Cộng hòa ủng hộ quan điểm của ông Trump hơn quan điểm của các ứng viên khác trong lĩnh vực cải thiện kinh tế, chính sách di dân nghiêm ngặt hơn, và chính sách bài trừ các phần tử nổi dậy Nhà nước Hồi giáo ở Trung Đông.

Các cuộc khảo sát khác cho thấy ông Trump dẫn đầu hai tiểu bang đầu tiên sẽ tổ chức cuộc tranh đua dành quyền được đảng Cộng hòa đề cử là Iowa và New Hampshire. Tuy nhiên, đối thủ của ông Trump lưu ý rằng còn hơn 5 tháng nữa mới diễn ra bỏ phiếu và rằng trong những năm trước, các ứng viên tranh đua để được đảng đề cử chớm ghi điểm tốt trong các cuộc thăm dò lại nhanh chóng bị mất sự ủng hộ khi cử tri đi bỏ phiếu.

Dân chủ hóa sẽ bớt đút lót tham nhũng

Dân chủ hóa sẽ bớt đút lót tham nhũng

Nam Nguyên, RFA
2015-08-18

Sức khỏe của cộng đồng doanh nghiệp thể hiện tình trạng nền kinh tế. Việt Nam được các chuyên gia cho rằng nếu bớt được tình trạng nhũng nhiễu thì lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ tăng lên và nâng cao năng lực cạnh tranh cho họ.

Nhiêu khê sinh nhũng nhiễu

Có thể nói nạn hối lộ, đút lót là đầu cuối của thể chế, khi thể chế thiếu công khai minh bạch, thủ tục hành chính nhiêu khê thì đẻ ra các chi phí bôi trơn.

Các chuyên gia kinh tế nhiều lần nêu ra vấn đề, làm thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt Nam khi mà kết quả điều tra cho thấy, để kiếm được 1 đồng lợi nhuận thì doanh nghiệp phải sử dụng 1 đồng đút lót bôi trơn. Điều này được TS Lê Đăng Doanh nêu ra trong Diễn đàn Kinh tế mùa Xuân 2015 tổ chức ở Vinh hồi tháng 4 vừa qua. Gần đây ngày 8/8/2015 tại cuộc hội thảo ở Đà Nẵng, chuyên gia Phạm Chi Lan cũng đã lập lại điều này.

“ Trước đây mức độ tham nhũng nhũng nhiễu được coi là thông thường là 30%.  Sau đó được nâng lên thậm chí có lúc tới 50%.
TS Phạm Chí Dũng, TP.HCM”

Trao đổi với chúng tôi, Phó Giáo sư Tiến sĩ Ngô Trí Long từ Hà Nội nhận định:

“Một đồng lợi nhuận phải bỏ ra 1,02 đồng chi phí  bôi trơn. Tất cả những hệ lụy, những mặt trái, mặt tiêu cực này xã hội đều đã nhìn thấy và chính phủ cũng tỏ quyết tâm giải quyết vấn đề này. Nhưng thực tế giải quyết được đến đâu thì phải chờ xem, có biến lời nói thành hành động có kiên quyết hay không.”

Có vẻ như tình trạng kinh tế tụt hậu của Việt Nam so với các nước Đông Nam Á khác bắt nguồn từ nhiều vấn đề, như không thực sự có kinh tế thị trường, tài nguyên nguồn lực quốc gia được ưu tiên cho doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là chính đất đai. Tuy vậy các chuyên gia cho rằng doanh nghiệp Việt Nam nói chung không phát triển lên được, do tình trạng tham nhũng hối lộ trầm kha và là bi kịch của đất nước.

TS Phạm Chí Dũng, Chủ tịch Hội nhà báo độc lập một tổ chức tự phát không phụ thuộc chính quyền, nhận định:

“Trước đây tôi chỉ nghe mức độ tham nhũng nhũng nhiễu được coi là thông thường là 30%. Tỷ lệ này thường được áp dụng trong xây dựng cơ bản từ vốn ngân sách nhà nước và được coi là bình thường, có nghĩa là cứ 100 đồng thì phải cắt ra 30 đồng để coi là hoa hồng, lại quả, hối lộ cho một số quan chức. Sau đó tỷ lệ 30% đó được nâng lên thậm chí có lúc tới 50% và đáng chú ý là tỷ lệ này chừng mực nào đó lại được áp dụng vào trong lãnh vực tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA.”

Đút lót, hối lộ: Chuyện thường ngày ở huyện

Đút lót hối lộ trở thành một chuyện thường tình, không một doanh nghiệp nào ở Việt Nam lại không từng sử dụng phí bôi trơn. Đút lót từ chuyện nhỏ tới chuyện lớn vì mọi thủ tục quá rườm rà và để công việc có thể chạy được doanh nghiệp phải chấp nhận đút lót.

Có những chuyện không thể nào hiểu nổi, một thí dụ nhỏ là một doanh nghiệp xuất khẩu muốn xuất khẩu 1 container hàng ra nước ngoài, chủ doanh nghiệp đã lên danh mục phí bôi trơn tới từng chi tiết.

Ngay cả đi thuê container để vô hàng cũng phải hối lộ cho nhân viên phụ trách ở cảng để không phải chờ đợi, được giao container tốt, rồi hải quan kiểm hóa, kết thúc hồ sơ thông quan… mỗi khâu đều có phí bôi trơn thì công việc mới chạy.

Tại Hội thảo Đà Nẵng ngày 8/8/2015, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan dẫn kết quả điều tra đáng tin cậy đã nói, ở Việt Nam trung bình cứ 1 đồng lợi nhuận thì doanh nghiệp phải mất 1,02 đồng bôi trơn. Giả dụ nếu bớt tham nhũng được 50% thì doanh nghiệp được tăng lợi nhuận 50%. Báo chí trích lời bà Phạm Chi Lan nói rằng, đó là lý do doanh nghiệp Việt Nam ngày càng nhỏ đi so với trước.

“ Bài toán này Việt Nam đang xử lý và đang giải quyết, nhưng xử lý đến đâu và giải quyết có hiệu quả hay không thì phụ thuộc vào sự quyết tâm, quyết liệt và sự nghiêm minh của pháp luật và của nhà cầm quyền.
TS Ngô Trí Long, Hà Nội”

Cần phải dân chủ hóa

Trả lời chúng tôi Phó Giáo sư Tiến sĩ Ngô Trí Long nhận định, điểm chính là vấn đề cải cách đổi mới thể chế, cải cách thủ tục hành chính, cải cách bộ máy hành chính, cơ cấu đội ngũ cán bộ và những thủ tục hành chính. Hiện nay do thủ tục hành chính phức tạp gây ảnh hưởng môi trường đầu tư, vì vậy đã làm cho những chi phí bôi trơn hay, phí hay lệ phí tăng lên, những mặt đó là tiêu cực.

Trong hai năm 2014 và 2015, trọng tâm của chính phủ trong thời gian này là cải thiện môi trường đầu tư. Năm 2014 cố gắng bằng ASEAN-6 và 2015 cố gắng cải thiện môi trường đầu tư bằng ASEAN-4, tức nhóm 4 nước phát triển nhất của ASEAN. Phó Giáo sư Tiến sĩ Ngô Trí Long nhấn mạnh:

“Chính phủ đưa ra những biện pháp hết sức cụ thể nhưng thực tế triển khai và kết quả thực hiện cũng chưa là bao, cần phải giải quyết sao cho có hiệu quả hơn. Hay nói cách khác là lời nói và hành động phải đi đôi với nhau và có sự kiểm soát, giám sát một cách chặt chẽ và phải có chế tài thực sự nghiêm minh xử lý những vấn đề còn nhũng nhiễu gây ra những chuyện không tốt đối với hoạt động của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó đây là một trong những biện pháp rất tốt để giải quyết vấn đề vấn nạn tham nhũng hiện nay. Bài toán này Việt Nam đang xử lý và đang giải quyết, nhưng xử lý đến đâu và giải quyết có hiệu quả hay không thì phụ thuộc vào sự quyết tâm, quyết liệt và sự nghiêm minh của pháp luật và của nhà cầm quyền Việt Nam.”

Một chuyên gia Cơ quan phát triển quốc tế của Hoa Kỳ (USAID) ông  Olin McGill từng nhận định là thu nhập đầu người của Việt Nam đáng lẽ có thể tăng gấp 5 lần. Nhưng Việt Nam không đạt được điều này là vì điều hành không hiệu quả. Theo lời ông McGill, thủ tục xuất nhập khẩu ở Việt Nam không thông thoáng, với lượng thời gian kéo dài 21 ngày như hiện nay, ước tính Việt Nam đang thất thoát khoảng 15% tổng kim ngạch thương mại hằng năm.

Ví dụ nhỏ của ông McGill đủ làm mọi người giật mình. Nếu môi trường kinh doanh ở Việt Nam được cải thiện, thì tất nhiên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được nâng cao. Môi trường kinh doanh tốt thường được thể hiện ở những nước có nền dân chủ pháp trị. Xem ra con đường cải tổ ở Việt Nam vẫn còn dài dằng dặc.

Lá thư hai mươi năm và mô hình không muốn phát triển

Lá thư hai mươi năm và mô hình không muốn phát triển

Kính Hòa, phóng viên RFA
2015-08-17

08172015-20y-lett-an-not-will-to-develop-model.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt

Cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt

File photo

Bức thư hai mươi năm trước

Một số báo xuất bản tại Việt nam cho đăng tải bức thư của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt gửi Bộ chính trị đảng cộng sản Việt nam 20 năm trước đây. Trong bức thư này ông Kiệt đề nghị đảng cộng sản nên nhìn nhận tình hình thế giới lúc ấy khác đi với thời chiến tranh lạnh, tức là không theo quan điểm cổ điển của những người cộng sản rằng thế giới này chia thành hai phe tư bản và xã hội chủ nghĩa.

Một nội dung quan trọng khác mà ông Kiệt gửi đến các đồng chí của ông đang nắm giữ quyền lực là không nên duy trì sự ưu đãi cho nền kinh tế phi thị trường.

Tuy nhiên tờ báo không viết thêm về số phận chính trị của ông Kiệt sau khi gửi bức thư này.

Tiến sĩ Lê Đăng Doanh viết trên trang Diễn Đàn của nhóm trí thức tại Pháp về bước ngoặt của cuộc đời ông Kiệt sau bức thư đó. Ông Kiệt đã bị các đồng chí phê phán kịch liệt, đã phải từ chức Thủ tướng. Ngoài ra một số người liên quan đến bức thư, trong đó có nhà bất đồng chính kiến Hà Sĩ Phu bị bắt và kết án trong cái mà ông Lê Đăng Doanh gọi là một làn sóng đàn áp và khủng bố.

Trong bức thư được viết cách nay gần một thế hệ, ông Kiệt còn kêu gọi việc thực thi dân chủ trong đảng của ông cũng như trong xã hội.

Blogger Trần Minh Khôi nhận định về bức thư này:

Nếu những điều ông Kiệt đề nghị trong lá thư gởi Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam hai mươi năm trước được thực hiện thì đất nước Việt Nam ngày nay đã tốt đẹp hơn rất nhiều. Và điều tốt đẹp nhất là Đảng Cộng sản đã không còn giữ độc quyền cai trị. Đối với những lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tương lai đất nước chưa bao giờ quan trọng bằng sự tồn vong của Đảng. Điều này đúng hai mươi năm trước và vẫn đúng lúc này.

Nhận xét của Trần Minh Khôi không biết có giống với ý muốn của ông cố Thủ tướng gửi gắm trong bức thư hay không, vì ngoài những điều ông Kiệt đề nghị về sự kỷ luật, về việc dân chủ hóa đảng của ông, người ta không thấy đề cập đến sự thay đổi thể chế chính trị, mà chỉ có chuyện cải cách kinh tế, người ta cũng không thấy ông đề cập đến ý thức hệ Mác Lê nin, mà trong đó vai trò lãnh đạo duy nhất của đảng cộng sản là điều không thể bàn cãi.

“ Nếu những điều ông Kiệt đề nghị trong lá thư gởi Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam hai mươi năm trước được thực hiện thì đất nước Việt Nam ngày nay đã tốt đẹp hơn rất nhiều. Và điều tốt đẹp nhất là Đảng Cộng sản đã không còn giữ độc quyền cai trị

Blogger Trần Minh Khôi”

20 năm sau bức thư của ông Kiệt, giới trí thức Việt nam công khai lên tiếng chỉ trích chủ nghĩa Mác Lê Nin. Một trong những người đó là Giáo sư Nguyễn Đình Cống, ông cho rằng bản chất của chủ nghĩa này là một sự ngụy biện, và nếu đeo đuổi nó, người ta sẽ chịu những hậu quả tai hại:

Một con người sống bằng dối trá và lừa đảo sẽ đến lúc bị mọi người thấy rõ và xa lánh. Một học thuyết dựa chủ yếu vào ngụy biện sớm muộn cũng bị phát hiện và tẩy chay. Một chính quyền phải dùng đến ngụy biện trong hành xử sẽ mất lòng tin của dân, mất lòng tin của các nước. Dù cho người ta có đón tiếp đại diện của bạn một cách trọng thị, có ký kết với bạn hiệp ước về quan hệ đối tác toàn diện hay đối tác chiến lược thì ngoài những cái bắt tay chào hỏi xã giao, trong lòng họ vẫn canh cánh một tinh thần cảnh giác là đang quan hệ với một người dối trá đáng khinh bỉ.

Ông Nguyễn Đình Cống có ý muốn nói đến những mối quan hệ ngoại giao nồng ấm lên trong thời gian gần đây giữa nước Việt nam cộng sản và các quốc gia phương Tây, về nguyên tắc là những kẻ đối đầu ý thức hệ với đảng cộng sản Việt nam.

Tác giả Vũ Ngọc Yên viết trên trang blog Bauxite Việt nam:

Trong thời gian qua dư luận rất kinh ngạc khi thấy giới lãnh đạo Đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam tích cực mở rộng hợp tác với Mỹ và Âu châu trên mọi bình diện. Dư luận đánh giá các hoạt động này chỉ là những tính toán chiến lược tìm ngõ thoát cho chế độ độc đảng trước những áp lực nội và ngoại hầu có thể tiếp tục trụ được.

Một người bán hàng rong trên phố đầy cờ đảng ở TPHCM

Một người bán hàng rong trên phố đầy cờ đảng ở TPHCM

Nói chung, Đảng Cộng sản hy vọng qua các Hiệp định thương mại, sẽ tạo được niềm tin ở quốc tế và tính chính danh cầm quyền vốn đã không tồn tại từ nhiều thập niên qua.

Còn trang Bauxite Việt nam bình luận về việc bầu cử trong chế độ do đảng cộng sản lãnh đạo từ trước đến nay như sau:

Đảng nói rất hay về dân chủ. Nhưng đồng thời Đảng bao giờ cũng cố gắng tối đa để siết chặt “dân chủ” trong bàn tay sắt của mình. “Đảng cử dân bầu” là một trong những biện pháp để làm điều đó. Nói cho cùng, có chế độ toàn trị nào mà không sợ dân chủ thực chất? Xóa “Đảng cử dân bầu” là đặt Đảng vào sự thử thách thực sự, buộc Đảng phải lo lắng đến phản ứng của người dân. Duy trì “Đảng cử dân bầu” thì yên chí lớn: tất cả những vị trí lãnh đạo đều một tay Đảng sắp xếp. Quyền lực ở đấy mà quyền lợi cũng ở đấy.

Lời bình của Bauxite Việt nam có ý nói rằng cũng có chuyện bầu cử ở Việt nam nhưng chỉ do đảng cộng sản dàn dựng mà thôi, qua câu nói đảng cử dân bầu đầy mỉa mai.

Bản chất của chế độ và mô hình không muốn phát triển

Blogger Nguyễn Vũ Bình viết bài Bản chất và Hiện tượng.

Trong bài này ông cho rằng có những ý kiến biện minh cho những điều không tốt trong xã hội Việt nam hiện nay chỉ là hiện tượng chứ không phải là bản chất. Những ý kiến này nói rằng bản chất của chế độ cộng sản hiện nay ở Việt nam vẫn là tốt đẹp.

Nguyễn Vũ Bình phản bác điều này. Ông cho rằng nếu liên tục có những điều tệ hại xảy ra thì không thể nói là bản chất của chế độ là tốt đẹp được. Ông dẫn chứng là từ lúc đảng cộng sản Việt nam thống trị nền chính trị Việt nam cho đến nay, liên tục có những điều tệ hại xảy ra, đó là: Cải cách ruộng đất, Đàn áp nhân văn giai phẩm, Thảm sát Mậu thân, Cải tạo tư sản tại miền Nam.

Hãy nghe cây bút Nguyễn Đình Ấm mô tả cảnh tượng tàn phá văn hóa ở quê ông:

Từ sau cải cách ruộng đất chính quyền phát động phong trào phá đình chùa. Vào các buổi tối, thanh thiếu niên đốt đuốc tuần hành rầm rập hô đả đảo địa chủ rồi ban ngay đi phá đình, chùa, miếu. Những pho tượng cổ sơn son thiếp vàng cớ lớn tượng quan âm nghìn mắt, nghìn tay bị xà beng bật lên khênh vứt xuống sông Lô, các tượng gỗ mít nhẹ hơn bị mang về bổ củi đun, mùi sơn khét lẹt.

“ Đảng nói rất hay về dân chủ. Nhưng đồng thời Đảng bao giờ cũng cố gắng tối đa để siết chặt “dân chủ” trong bàn tay sắt của mình. “Đảng cử dân bầu” là một trong những biện pháp để làm điều đó. Nói cho cùng, có chế độ toàn trị nào mà không sợ dân chủ thực chất?

Lời bình của Bauxite VN”

Một điều quan trọng mà các blogger nhận xét về những hành động của đảng cộng sản từ khi lên cầm quyền đến nay là tất cả những sai lầm đó đều được thực hiện nhân danh danh Nhân dân. Điều mà Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn cho là một sự ngụy biện nhân danh số đông. Ngoài ra ông còn cho rằng để thực hiện các chính sách của mình từ trước đến nay đảng cộng sản thường đưa ra những hy vọng, và ông gọi họ là những người buôn bán hy vọng. Và điều mà ông ngạc nhiên là vẫn có người tin vào những món hàng hy vọng đó.

Điều Giáo sư Tuấn ngạc nhiên cũng là điều một tác giả trên trang blog Triết học đường phố đặt ra là sau bao nhiêu tệ hại của sự độc tài, tại sao đảng cộng sản vẫn nắm quyền? Tác giả tự trả lời rằng đảng cộng sản cầm quyền đã nắm hai lĩnh vực cần thiết để cho người ta không thắc mắc về quyền lực của họ, đó là giáo dục và báo chí. Ngoài ra tác giả này còn đưa ra một điều quan trọng nữa mà theo đó những người cộng sản đặt nền móng chế độ của mình, đó là gieo rắc sợ hãi trong toàn xã hội.

Trong một tinh thần xã hội như vậy, mô hình kinh tế Việt nam vẫn tiếp tục được khẳng định là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với các đại công ty quốc doanh làm động lực, một mô hình được Tiến sĩ Vũ Hồng Lâm gọi là của những người cộng sản thực thi chủ nghĩa tư bản.

Nói về mô hình này, bà Phạm Chi Lan trích dẫn lời nhận định của một nhà quan sát từ Ngân hàng thế giới, rằng mô hình hiện tại của Việt nam không phải là của một quốc gia kém phát triển, cũng không phải của một quốc gia đang phát triển, càng không phải đã phát triển, mà đó là một mô hình Không chịu phát triển.

Tác giả Võ Xuân Sơn nói rằng ông và nhiều người Việt nam khác không muốn mô hình đó:

Chúng tôi, người dân Việt nam, đâu có ai muốn cái mô hình “đặc biệt nhất thế giới”, mô hình không chịu phát triển. Nhưng họ, những kẻ không muốn đất nước này phát triển, những kẻ chỉ muốn trục lợi cá nhân, làm giàu cho cá nhân mình, cho gia đình mình bằng cách ăn cắp tiền của dân, đục khoét ngân sách, vắt cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, làm mất khả năng phát triển của cả nền kinh tế nước nhà, chỉ có những kẻ đó là muốn duy trì cái mô hình quái gở như vậy mà thôi.

Và trong những ngày tháng tám có nhiều kỷ niệm lịch sử không chỉ của Việt nam mà của cả thế giới, người Việt nam không khỏi chạnh lòng so sánh đất nước mình với các quốc gia khác.

Ông Nguyễn Văn Đực Phó giám đốc một công ty địa ốc nhìn sang Singapore, đảo quốc nhỏ bé vừa kỷ niệm 50 năm ngày độc lập, xuất ý làm một bài thơ ngắn đầy mỉa mai:

Năm mưoi Quốc Khánh nước Sing
Từ hòn đảo nhỏ mà : lên đỉnh Rồng
Bảy mưoi Quốc Khánh nước RỒNG
Từ đất nước lớn mà : không có gì ….
Quý hơn độc lập tự do

Người khác thì nhìn sang Nhật bản, đất nước chịu thảm họa nguyên tử cách đây 75 năm:

Hơn 40 năm qua từ ngày đất nước thống nhất, thế hệ ông cha làm được gì vẻ vang cho đất nước? Chỉ có thể kể ra nhiều việc làm xấu, làm nhục, làm cạn kiệt nguồn lực đất nước. Nước Nhật bại chiến bị tàn phá bởi bom nguyên tử, sau 40 năm trở thành cường quốc kinh tế trên thế giới. Nước ta chiến thắng oanh liệt nhưng sau hơn 40 năm vẫn là nước nghèo, ngửa tay xin vay tiền giá rẻ của thế giới. Kết quả ấy, thế hệ nào phải gánh chịu trách nhiệm?

Le lói ánh sáng cuối đường hầm?

Có phải tất cả đều là một màu đen?

Dự án 1400 tỉ đồng xây dựng quảng trường cùng tượng ông Hồ Chí Minh tại tỉnh Sơn La bị nhiều chỉ trích đã được Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu phải báo cáo.

Người ta cho rằng nhà cầm quyền đã phải để ý đến dư luận xã hội, đến một quyền lực mà nhà văn Bùi Minh Quốc gọi là quyền lực thứ hai, quyền lực truyền thông.

Ông Quốc đặt tên quyền tự do ngôn luận trong xã hội hiện tại của Việt nam là quyền lực thứ hai với lý do là xã hội này hiện nay vẫn chưa có tam quyền phân lập như các quốc gia phát triển bình thường, trong đó tự do ngôn luận là đệ tứ quyền. Ông nhận xét về cộng đồng những người Việt nam sử dụng mạng xã hội để thực hiện quyền lực thứ hai đó là từ chổ chỉ phát triển tự phát, những người Việt nam đã dùng mạng xã hội ngày càng có trách nhiệm hơn.

Quyền lực từ mạng xã hội đã góp phần làm cho nhà cầm quyền xem xét lại quyết định 1400 tỉ đồng mất lòng dân.

Từ đó, blogger Kami nhận định rằng đã có một xu hướng đa nguyên đáng mừng trong xã hội Việt nam. Điều làm le lói tia hy vọng bên cạnh thảm trạng mô hình Không muốn phát triển mà nhiều blogger nói đến trong tháng tám này.

Đừng trách người ta đối xử tệ

Đừng trách người ta đối xử tệ

Người Việt

Lê Diễn Đức

Chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tạo ra một lực lượng khổng lồ những con người khốn khổ, luôn muốn vươn ra ngoài để thoát cảnh cùng cực, cứu mình và gia đình trước khi “cứu quốc!”

Trong thập niên 90, sau khi chế độ Cộng Sản sụp đổ, tất cả các nước trong khối Liên Xô cũ gánh chịu một nền kinh tế suy kiệt, hàng hóa tiêu dùng thiếu thốn nghiêm trọng. Người Việt sang đây đã xây dựng nên những chợ trời nổi tiếng, cung cấp hàng, đặc biệt là quần áo, giày dép giá rẻ. Những người có vốn nhập hàng từ Thái Lan, Hồng Kông, Đài Loan… về bán, một vốn bốn lời. Từ quần áo jeans đến quần lót “bà bô,” đều bán chạy như tôm tươi và lãi suất cao. Từ khoảng năm 2000, hàng Trung Quốc chiếm ưu thế cạnh tranh hơn do giá cả thấp.

Đất lành chim đậu, cơ hội kiếm tiền và thoát nghèo đã tạo nên một làn sóng di dân từ các tỉnh miền Bắc sang Nga và các nước Đông Âu. Thoạt đầu, nghiên cứu sinh, sinh viên du học, hoặc những người thuộc diện “hợp tác lao động” ở lại, tìm cách lôi kéo người trong gia đình, họ hàng qua. Sau này hình thành những đương dây chuyển người. Họ được lo thị thực du lịch qua Nga, sang tới Nga số thì ở lại luôn, sống bất hợp pháp; số thì từ Nga đi tàu hỏa về phía biên giới phía Tây và lội bộ băng rừng vượt sang Tiệp và Ba Lan. Một số tiếp tục vượt biên qua Đức xin vào trại tị nạn. Thời gian này, Ba Lan, Tiệp chưa gia nhập Liên Minh Châu Âu, đường biên giới còn lỏng lẻo là điều kiện tốt cho những băng nhóm chuyển người. Có những cuộc hành trình gian nan, phải nằm dài ở Moscow chờ ngày ra đi, rồi bị kẹt trong rừng, hoặc qua tới Ba Lan hay Tiệp thì bị cảnh sát bắt giam. Có trường hợp cô gái bị ép làm tình với bọn cầm đầu nhóm đưa người, khi gặp được người thân thì cười ra nước mắt, bụng vác bầu mà không biết cha của đứa bé là ai!

Trong giai đoạn này Nga và Ba Lan là điểm hội tụ lớn nhất của người Việt. Vào năm 2000, ước tính cả Ba Lan có khoảng 60-70 ngàn người Việt, trong đó đến hai phần ba số người không có giấy tờ cư trú hợp pháp.

Nhu cầu ở lại hợp pháp ngày càng cao gắn với công chuyện làm ăn, vì thế người ta chi tiền lo giấy tờ bằng mọi giá, trong bối cảnh tồn tại vấn nạn hối lộ cho quan chức công quyền. Lấy vợ, lấy chồng giả, khai man dưới tuổi 18 để ăn theo cha mẹ… trở nên phổ biến. Lắm người sau khi cưới, được cấp thị thực cư trú ba tháng, nhưng không xin gia hạn được tiếp nên “bỏ” luôn vợ hoặc chồng. Một thời gian sau, khi “chạy” được thị thực nhân đạo, phải đi tìm trở lại để hợp thức hóa. Trăm chuyện trần ai!

Đã có lần tôi cùng một cô gái lội tuyết giữa mùa đông đi gõ cửa từng nhà trong một làng quê để dò thông tin của người “chồng” cũ của cô vì cô ta không nhớ rõ anh chàng ấy ở đâu! Những người chồng Ba Lan đa phần là dân ít học, nghiện rượu, thất nghiệp, nên khi biết được cô gái Việt Nam cần thì mè nheo, vòi vĩnh tiền, nhưng cũng có người tử tế. Trong những năm ấy, ở vùng Slupsk có đến hơn 30 cặp chồng vợ Ba lan-Việt Nam! Câu chuyện bị báo chí phát hiện và làm rùm beng.

Dịch vụ làm giấy tờ cư trú nở rộ! Kèm theo nó là nạn giả mạo giấy tờ, từ hộ chiếu mới đến các loại khác từ tòa đại sứ, giấy chứng nhận đã ly dị, giấy khai sinh giả gửi từ Việt Nam qua. Có những phần tử dính tội phạm hình sự từ Bulgaria hay Đức chạy qua Ba Lan, sẵn sàng chi tiền đổi tên họ với hộ chiếu mới. Nhân viên phụ trách lãnh sự của tòa đại sứ được mùa. Người ta nói ông H., một viên chức lãnh sự tại Ba Lan, đã kiếm không dưới một triệu đô trong nhiệm kỳ của mình.

Người Việt kiếm những đồng tiền đầu tiên của mình bằng đủ thứ mánh mung như buôn lậu dược phẩm, đồng hồ điện tử, lao động chui, trấn lột, khai man thu nhập, chuyển người lậu, hàng hóa nhập về giảm giá trị hóa đơn và hối lộ hải quan để trốn thuế, chuyển tiền mặt không qua hệ thống ngân hàng, buôn bán hóa đơn VAT (giá trị gia tăng) giả, v.v.. Không ít vụ bị bắt.

Trong bài thơ “Chợ Đời” của tôi viết có đoạn:
… Giữa cái chợ đời cạnh tranh khốc liệt

Người ta bán buôn mọi tình cảm con người

Quan chức bán chữ ký

Cảnh sát, quan tòa bán cán cân công lý

Nhân viên thuế vụ bán nguồn thu ngân

Vì quốc tịch, định cư người ta mua vợ, mua chồng

Mua họ, đổi tên để trẻ thơ thành con kẻ khác

Sự thật trớ trêu không thể nào tin được

Người ta mua cả cha cho đứa con chưa kịp ra đời

Khung giá hình thành, dịch vụ lên ngôi!
Vì thế báo chí truyền thông Ba Lan không dưới một lần nói đến người Việt như là một thế giới ngầm, khép kín. Xin thị thực vào Ba Lan cực kỳ khó khăn.

Trong mắt nhà chức trách đây là một cộng đồng chăm chỉ nhưng chẳng mang lại lợi ích gì đang kể cho xã hội Ba Lan, nhưng là hang ổ của tội phạm. Cầm hộ chiếu Việt Nam đi qua cửa biên phòng Ba Lan hay Nga luôn có cảm giảm lo lắng vì con mắt thiếu thiện cảm và đầy ngờ vực của biên phòng. Hành lý của người Việt rất dễ bị lật tung lên khám xét. Phải là người đi lại nhiều như tôi mới ngấm đau nỗi nhục này.

Từ khi Ba Lan đã gia nhập Liên Minh Châu Âu năm 2005, công chuyện làm ăn kiếm sống của người Việt khó khăn hơn, mọi thứ dần dần đi vào trật tự, quy củ, nhưng người Việt xin thị thực vào Ba Lan vẫn khó hơn cả xin đi Mỹ, Đức, Pháp…

Năm 1995, Việt Nam gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á và từ hơn chục năm nay, người Việt được qua các nước trong khối Asean du lịch ngắn ngày không cần thị thực nhập cảnh. Trong cao trào lấy chồng và hợp tác lao động, người Việt qua lại Nhật, Đài Loan hay Hàn Quốc khá đông đảo.

Tôi không biết các loại tội phạm hình sự như ở Ba Lan hoặc Đông Âu có tái diễn trong các nước Châu Á này hay không, nhưng một tệ nạn khác nổi bật làm mất mặt người Việt, đó là nghề mại dâm và ăn cắp vặt.

Bản tin của BBC tiếng Việt ngày 18 tháng 7 năm 2013 viết:

“Việt Nam là nước có con số đông phụ nữ kiếm sống bằng nghề bán thân xác trong nhóm phụ nữ nước ngoài làm nghề này ở Malaysia vào năm ngoái, hãng thông tấn Bernama của Malaysia đưa tin. Kết quả thống kê này dựa trên con số 3,456 người Việt Nam trong tổng số 12,434 phụ nữ nước ngoài hành nghề mại dâm bị bắt giữ ở Malaysia vào năm ngoái. Theo cảnh sát sở tại, con số gần 1/3 phụ nữ bị bắt giữ là người Việt Nam cho thấy các phụ nữ đến từ quốc gia này ‘đang chiếm lĩnh ngành kinh doanh thân xác tại Malaysia,’ hãng tin Malaysia đưa tin hôm 16/7.”

Nhiều đường dây bán dâm có người Việt tham gia đã bị phát giác, khiến giới chức Singapore đau đầu” là tiêu đề của tờ Giaothông.vn. Trong khi đó, tờ Straits Times của Singapore cho biết hoạt động của gái mại dâm người Việt tại Singapore đã trở nên rầm rộ và tai tiếng ngay từ những năm 2003-2004, khi nhiều cô gái tìm tới các quán rượu tại khu vực Joo Chiat chào mời khách.

Bài “Rúng động những vụ ăn cắp của người Việt tại Nhật Bản” trên tờ Đời sống và Pháp luật ngày 9 tháng 3 năm 2014 viết:

“Theo cơ quan cảnh sát quốc gia của Nhật, số người Việt bị bắt vì ăn cắp đồ siêu thị ngày càng tăng cao, chiếm tới 40% những vụ người nước ngoài ăn cắp tại đây. Riêng trong tháng một đầu năm nay, quận Fukuoka đã bắt 5 nhóm trộm cắp người Việt.”

Tình trạng người Việt ăn cắp ở Nhật đã trở thành hiện tượng thường xuyên đến mức báo chí, truyền hình Nhật phải đưa tin. Người Nhật treo cả những tấm áp phích nơi công cộng cảnh báo người Việt ăn cắp.

Rồi người Việt ăn cắp hàng cũng được báo chi nói đến ở Thái Lan, Đức, Thụy Điển và gần đây là Thụy Sĩ

Cộng đồng người Việt sang làm ăn, sinh sống ở Nga và Đông Âu hầu hết là người miền Bắc, cũng như người Việt qua Malaysia, Singapore, Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc.. chủ yếu sau năm 2000, là công dân của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Đây là những “con người mới” của “thời đại Hồ Chí Minh rực rỡ!”

Điều này trái ngược với cộng đồng người Việt tị nạn Cộng Sản. Họ liều chết ra đi tìm tự do, sang xứ người với hai bàn tay trắng, thế hệ người Việt đầu tiên đã phải lao động cật lực, làm những công việc phổ thông nặng nề, dành dụm để tạo tương lai cho con em họ. Thế hệ thứ hai đã nhập vào dòng chính của nước sở tại, thành đạt trong mọi lãnh vực nghiên cứu, khoa học, kỹ thuật, chính trị. Tất nhiên, nơi nào cũng có tội phạm nhưng số người phạm pháp này chỉ là những cá nhân đơn lẻ không gây tai tiếng cho cả cộng đồng, là nơi mà lá phiếu của họ có tầm quan trọng trong các cuộc bầu cử ở địa phương.

Mới đây Singapore đã không cho hàng chục cô gái Việt nhập cảnh tại sân bay, thậm chí có cô còn viết trên Facebook là bị đối xử như súc vật, âu cũng không lấy gì làm lạ. Sang nước người ta mà bê nguyên cái thứ văn hóa lưu manh “xã hội chủ nghĩa” qua thì đừng trách người ta đối xử tệ.

Người đời có câu “Tiên trách kỷ hậu trách nhân,” là vậy!

Chóp bu CSVN về hưu được lấy luôn “xe công”

Chóp bu CSVN về hưu được lấy luôn “xe công”

Người Việt

HÀ NỘI (NV) .-“Tứ trụ triều đình” khi về hưu được lấy luôn “xe công” mà các ông vẫn sử dụng khi còn đương chức, một quy định quyền lợi khá đặc biệt không biết có ở các nước khác hay không.

Điều 3 của Quyết định cho “tứ trụ triều đình” lấy luôn “xe công” về nhà xài riêng dù đã nghỉ hưu. (Hình: chụp lại từ Facebook)

Điều 3 của Quyết định cho “tứ trụ triều đình” lấy luôn “xe công” về nhà xài riêng dù đã nghỉ hưu. (Hình: chụp lại từ Facebook)

Theo một “Quyết định” mới được ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký ngày 4/8/2015 thì bốn ông thường được gọi “tứ trụ triều đình” là tổng bí thư đảng CSVN, chủ tịch nước, thủ tướng và chủ tịch Quốc hội, sau khi nghỉ hưu, được mang theo về với mình chiếc xe hơi vẫn dùng khi còn đương chức, và cái xe đó “không quy định mức giá cụ thể”.

Điều này nằm ở điều 3 Chương II về “Tiêu chuẩn, định mức, chế độ trang bị, sử dụng xe ô tô phục vụ công tác” của bản Quyết Định mang số 32/2015/QĐ-TTg “Quy định tiêu chuẩn, định mức và chế độ quản lý, sử dụng xe ô tô trong cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ”.

Cái xe của các ông “tứ trụ triều đình” không quy định giá cụ thể nên có thể là Mercedes, Lexus, Acura,  Rolls Royce hay một thứ xe xịn gì khác trong khi những ông bà ở những vị thế trong đảng và nhà nước CSVN thấp hơn đều có quy định cụ thể. Những người này được ấn định là được quyền sử dụng xe công  chỉ trong thời gian còn ở chức vụ đó và giá chiếc xe tối đa cũng được ấn định.

Cũng vì vậy mà những năm qua người ta thấy có nhiều lời tố cáo một số ông bà có chức có quyền của chế độ đã “mua xe công vượt tiêu chuẩn” và cũng có những lời đe dọa thu hồi, nhưng “hô hào nhiều, xử phạt ít” như một bản tin trên báo điện tử VNExpress trước đây.

Cái quyết định số 32 do ông thủ tướng Dũng ký ban hành nói trên không những tham chiếu “Luật tổ chức chính phủ”, “Luật ngân sách nhà nước”, “Luật quản lý tài sản nhà nước” mà còn tham chiếu cả “Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ngày 26/11/2013”.

Thỉnh thoảng, người ta vẫn thấy báo chí tại Việt Nam, từ trung ương đến các tỉnh thị địa phương vẫn đăng tải các bản tin về học tập “gương chống tham ô lãng phí” của ông Hồ, hay những phiên họp về thực hiện “phòng, chống tham nhũng, lãng phí”.

Các đảng bộ khắp các tỉnh thị đều phải “tổ chức học tập, quán triệt  đến toàn thể Cán bộ, đảng viên, CCVC Văn phòng UBND tỉnh, xây dựng chương trình hành động cho toàn khoá. chỉ đạo sát sao việc nghiên cứu, học tập và chấp hành các quy định của Đảng và Nhà nước về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí.”

Như cái “quyết định” nói trên mà ông Nguyễn Tấn Dũng ký thì “tứ trụ triều đình” được mang xe công “không quy định mức giá cụ thể” về nhà xài riêng vĩnh viễn, không được coi là tham nhũng.

Người ta chỉ thấy quyết định đó quy định “chế độ quản lý, sử dụng xe ô tô” cho các quan chức tại “các cơ quan, tổ chức, đơn vị, ban quản lý dự án và công ty nhà nước” mà các tốn kém “tổ chức hạch toán và công khai chi phí sử dụng…”

Không thấy nói tiền xăng, tiền sửa chữa bào trì xe, tiền thuế xe “không quy định mức giá cụ thể” ai sẽ trả khi ‘tứ trụ’ về hưu. Mục này thấy không được đề cập trong “Quyết định”.

Lạm dụng xe công rất phổ biến tại Việt Nam. Các quan lấy xe công đi chợ, đi lễ hội thấy báo chí chụp bảng số xe phơi trên mặt báo khá nhiều. Thậm chí xe cứu thương được dùng làm xe cho quan y tế đi họp. (TN)

Thoát khỏi Việt Nam bằng ‘đầu tư-định cư’

Thoát khỏi Việt Nam bằng ‘đầu tư-định cư’
Nguoi-viet.com
HÀ NỘI (NV) – Dường như càng ngày càng nhiều người giàu có muốn thoát khỏi Việt Nam theo con đường “đầu tư để định cư” và dường như nhu cầu đó đang giúp các công ty cung cấp dịch vụ này hốt bạc.

Một hội thảo giới thiệu “đầu tư-định cư” tại Hoa Kỳ được giới thiệu
trên YouTube. (Hình: Tuổi Trẻ)

Hoa Kỳ có nhiều loại visa cấp cho ngoại kiều. EB-5 là một trong những loại visa mà nhiều người giàu có ở Việt Nam mong sẽ nhận được. EB-5 bắt đầu được cấp từ năm 1990 nhằm thu hút đầu tư của ngoại quốc vào Hoa Kỳ, tạo thêm việc làm cho dân chúng Hoa Kỳ.

Muốn nhận EB-5, ngoại kiều phải đầu tư vào Hoa Kỳ tối thiểu là 500,000 đến một triệu Mỹ kim vào những khu vực đã được xác định (thường là nông thôn hoặc những vùng có tỉ lệ thất nghiệp cao), tạo ra ít nhất 10 chỗ làm việc toàn thời gian. Ngoài ra, vốn đầu tư phải sạch, có nguồn gốc rõ ràng.

Nếu hồ sơ xin đầu tư vào Hoa Kỳ được duyệt, ngoại kiều sẽ được hưởng quy chế thường trú (được cấp “thẻ xanh”) tạm thời – có giá trị hai năm. Hết hai năm, nếu dự án đầu tư được xác định là minh bạch, có hiệu quả, ngoại kiều mới được hưởng quy chế thường trú vĩnh viễn. Năm năm sau có quyền xin nhập tịch.

Giống như Trung Quốc, trong thập niên vừa qua, giới giàu có tại Việt Nam, bao gồm cả các viên chức chính quyền và những doanh nhân chuyên hối mại quyền thế để trở thành “đại gia” đang tìm đủ cách để thoát khỏi Việt Nam, định cư tại ngoại quốc một cách hợp pháp thông qua con đường “đầu tư.”

Úc, Canada từng là những mục tiêu mà giới này nhắm tới nhưng nay, Hoa Kỳ đã trở thành mục tiêu mới.

Tờ Tuổi Trẻ vừa có một phóng sự tường thuật về phong trào xin EB-5 tại Việt Nam. Theo đó, đang có hàng chục công ty mời chào dịch vụ môi giới EB-5, kèm theo lời hứa chắc chắn sẽ có EB-5.

Phóng sự của tờ Tuổi Trẻ cho biết, các cuộc hội thảo về “đầu tư-định cư” được tổ chức liên tục ở Hà Nội, Sài Gòn và được quảng bá như là một kiểu “đầu tư thông minh,” “đầu tư một lần quyền lợi vĩnh viễn cho thế hệ tương lai.”

Hoa Kỳ hiện là nơi hấp dẫn nhất, với số vốn đầu tư cần có vào khoảng 500,000 Mỹ kim. Kế đó là Canada yêu cầu về tài sản phải khoảng 300,000 dollar Canada (CAD) và phải “tặng” thêm ít nhất 220,000 CAD. Muốn định cư tại Úc thì suất đầu tư tối thiểu phải là 5 triệu Úc kim. Những công ty cung cấp dịch vụ môi giới “đầu tư-định cư” còn mời chào “đầu tư-định cư” ở Chypre, Caribbean…

Đáng chú ý là ngoài vốn đầu tư, những người Việt muốn ra ngoại quốc định cư theo con đường “đầu tư-định cư” phải trả cho các công ty cung cấp dịch vụ môi giới một khoản phí lên tới vài chục ngàn Mỹ kim. Chẳng hạn muốn xin EB-5, họ phải trả 40,000 Mỹ kim cho luật sư và 50,000 Mỹ kim cho cái gọi là “phí quản lý dự án.”

EB-5 sẽ là một con đường đưa giới giàu có tại Việt Nam, bao gồm cả các viên chức chính quyền và những doanh nhân chuyên hối mại quyền thế để trở thành “đại gia” đang tìm đủ cách để thoát khỏi Việt Nam, đến Hoa Kỳ? Câu trả lời là chưa chắc.

Trò chuyện với tờ Tuổi Trẻ, bà Tiffany Murphy, trưởng phòng lãnh sự của Đại Sứ Quán Hoa Kỳ tại Việt Nam, xác nhận, số người Việt “đầu tư-định cư ở Mỹ” đang tăng.

Theo bà Murphy thì lệ phí phải nộp chỉ 1,500 Mỹ kim/hồ sơ và Hoa Kỳ không chọn bất kỳ công ty nào giúp những người có nhu cầu thực hiện thủ tục xin EB-5 như nhiều công ty cung cấp dịch vụ môi giới “đầu tư-định cư” tự giới thiệu.

Bà Murphy lưu ý, thời gian duyệt xét hồ sơ xin visa EB-5 thường là phải năm năm. Mỗi năm, tổng số visa loại EB-5 không thể vượt quá mức 10,000 và với mỗi quốc gia, tổng số visa không thể vượt quá 7% số đơn.

Bởi thời gian chờ đợi trung bình lên tới năm năm nên số vụ kiện cáo vì bị lừa gạt hình như chưa có. Tuy nhiên theo ghi nhận của tờ Tuổi Trẻ thì ít nhất cũng có một trường họp là bà Lê Tấn Thị Việt Thanh, 45 tuổi, ngụ ở quận 6, Sài Gòn, Công Ty GSVN Lá Chắn và Màu Xanh Việt Nam, đòi hoàn lại số tiền mà công ty này đã nhận để giúp bà và gia đình đến định cư tại Canada (39,000 Mỹ kim và 8,400 CAD).

Hồi tháng 4 năm 2013, tòa án án Việt Nam đã buộc Công Ty GSVN Lá Chắn và Màu Xanh Việt Nam phải hoàn rả cho bà Thanh 974 triệu đồng. Tuy nhiên bản án không thể thi hành bởi công ty vừa kể “không có tài sản để thi hành án.”

Theo tờ Tuổi Trẻ thì Công Ty GSVN Lá Chắn và Màu Xanh Việt Nam nay đã đổi tên thành Công Ty Di Trú Quốc Tế IMG. Đại diện của IMG vừa “khoe” với phóng viên của tờ Tuổi Trẻ là nếu nhờ Đại Sứ Quán Hoa Kỳ giới thiệu công ty tư vấn định cư tại Mỹ thì chắc chắn họ sẽ giới thiệu đến IMG vì IMG rất có uy tín! (G.Đ)

Điều tra 25 tiệm nail tại Connecticut, phạt $100,000

Điều tra 25 tiệm nail tại Connecticut, phạt $100,000
Nguoi-viet.com

CONNECTICUT (NV) – Bộ Lao Động tiểu bang Connecticut cho biết sau một cuộc điều tra bất ngờ tại 25 tiệm nail trên khắp tiểu bang, có 23 tiệm đã bị ra lệnh đóng cửa. Tổng số tiền phạt lên đến $100,000.

Bộ lao động Connecticut điều tra các tiệm nail. (Hình: Chris McGrath/Getty Images)

Bộ Trưởng Bộ Lao Động  Sharon M. Palmer cho biết rằng kết quả cuộc điều tra cho thấy các chủ tiệm nail trong các thành phố  Branford, Darien, Hartford, New Haven, Southport, Stamford vàWestport đã trả nhân viên dưới mức lương tối thiểu là  $9.15/giờ  và số tiền phải hoàn lại cho nhân viên là $47,350.

Đợt thanh tra 25 tiệm nail không thông báo trước này của bộ lao động xảy ra vào ngày 3 Tháng Tám, là  kết quả của những  khiếu nại của nhân viên về tình trạng lương lậu bất hợp pháp và vấn đề vệ sinh dưới tiêu chuẩn của những tiệm nail trong vùng.

Theo Giám Đốc về Lương Bổng và Tiêu Chuẩn Công Sở Gary Pechie, các điều tra viên báo cáo rằng các nhân viên tại các tiệm nail này đã bị trả dưới mức tối thiểu đã được ấn định cho một giờ và không được trả tiền làm thêm ngoài giờ. Một số khác thì được trả bằng tiền mặt và không có sổ sách.

Thông cáo báo chí cũng cho biết sau khi nộp phạt, chỉnh sửa lại tiêu chuẩn vệ sinh và thanh toán sòng phẳng với nhân viên, 23 tiệm này đã được phép hoạt động lại.

Ông Pechie ghi nhận rằng sau cuộc điều tra và phạt vạ này, đã có thêm nhiều nhóm chủ tiệm nail đã tiếp xúc với bộ lao động. Điều này dẫn đến việc bộ lao động sẽ phải cung cấp thêm thông tin và tài liệu hướng dẫn về luật lệ tiểu bang về ngành nail.

Các chủ tiệm nail trong tiểu bang Connecticut, nếu có thắc mắc về luật lệ hiện hành về lương bổng, xin gọi số  860-263-6790 hoặc vào trang web www.ct.gov/dol .Nếu nhân viên cảm thấy mình không được trả lương đúng mức cũng có thể làm đơn khiếu nại tại trang web này. (ĐG)

Vì sao chúng ta bị đối xử tệ?

Vì sao chúng ta bị đối xử tệ?

VietTuSaiGon

RFA

Trong một lần cà phê và trò chuyện ở Sài Gòn, nhà thơ Khúc Duy có kể cho tôi nghe một câu chuyện mà anh đọc được: Có một anh chàng vốn rất lương thiện, chỉ biết lo làm ăn và tìm cách hoàn thiện bản thân với cái nhìn cuộc đời rất xanh và lạc quan. Đùng một cái, anh ta bị vu khống, rồi bị ghép án oan, bị kết tội mười năm tù. Anh bắt đầu ngày tháng hoang mang và bi kịch của mình. Anh bắt đầu nguyền rủa cuốc sống trong những ngày ngồi tù.

Và rồi đùng một cái, mới ba năm, anh được thả ra, được minh oan, được đền bù danh dự và thiệt hại với một số tiền tương đối lớn. Anh bắt đầu thực hiện việc trả thù cuộc đời, anh đặt câu hỏi: “Kẻ nào đã đẩy ta vào tù?”. Và anh bỏ suốt quãng đời còn lại, gần bốn mươi năm cùng với số tiền có được nhờ đền bù danh dự để tìm kẻ đã hại anh. Nhưng anh vẫn không tìm ra được kẻ thù.

Đến ngày cuối cùng trong cuộc đời của anh, trên giường bệnh, anh gọi một người hàng xóm thân quen lại để thủ thỉ, anh nói rằng: “Tiếc quá, tôi đặt sai câu hỏi rồi! Giá như lúc đó tôi đặt câu hỏi ‘vì sao tôi được ra tù?’ thì tôi chỉ mất có ba năm trong tù, đằng này tôi đặt câu hỏi ‘vì sao tôi bị vào tù?’ nên suốt cuộc đời còn lại của tôi chưa bao giờ hết ngục tù. Tiếc thật!”.

Câu chuyện ngụ ý rằng cuộc đời này sẽ ra sao và sẽ đi đến đâu là do cách anh đặt câu hỏi về nó, với nó. Nếu anh đặt một câu hỏi thông minh, tử tế thì phần trả lời thông minh, tử tế phía sau sẽ là phần cuộc đời và số phận của anh. Cuộc đời tốt hay xấu tuy thuộc vào cách anh đặt câu hỏi và giải quyết với nó.

Không hiểu vì sao mấy ngày nay, sau khi đọc bản tin về việc cảnh sát Singapore đối xử tệ với những phụ nữ Việt Nam trong vấn đề nhập cảnh vào nước họ, rồi liên tưởng đến những tấm bảng ghi bằng tiếng Việt đại ý người Việt Nam phải ăn hết món mình đã gắp trong tiệc buffet và không được trộm cắp, xả rác bừa bãi… Chung qui là người viết nội dung này không mấy thiện cảm nếu không muốn nói là e dè, tránh trớ người Việt như một thứ dịch hủi nào đó. Phải công tâm để nhìn thẳng vào vấn đề mà nói như vậy!

Tự dưng, tôi lại nhớ đến câu chuyện kể trong một buổi cà phê của nhà thơ Khúc Duy, cách đây chừng 15 năm thì phải! Câu chuyện này mặc dù không liên quan gì mấy đến chuyện người Việt bị đối xử tệ ở nước ngoài nhưng nó khiến tôi phải suy nghĩ rất nhiều về cách đặt câu hỏi về số phận riêng chung cũng như định vị danh phận người Việt chúng ta trước thế giới bao la rộng lớn này. Phải chăng chúng ta đã đặt sai câu hỏi về thế giới và chúng ta đã giải quyết sai câu hỏi về lịch sử cũng như thân phận dân tộc để đi đến cái kết của ngày hôm nay?

Rất có thể điều đó đã xảy ra, chúng ta đã đặt câu hỏi và giải quyết câu hỏi bị sai. Dân tộc chúng ta có bề dày lịch sử chiến tranh cũng giống như nước Nhật, nhưng người Nhật, chính phủ Nhật đã biết đặt câu hỏi về tương lai của họ và biết nhìn nhận sự thất bại, sự nghèo nàn của quốc gia để cho con cháu của họ trả lời câu hỏi này bằng hiện tại quật cường. Và Hàn Quốc, Singapore hay nhiều nước khác cũng vậy, họ biết cách đặt câu hỏi và giải quyết câu hỏi trong tiến trình vận động của thế giới.

Họ không như chúng ta, tự ma mị mình bằng “rừng vàng biển bạc, tài nguyên phong phú”, bằng “người Việt Nam anh hùng, thông minh và giỏi giang” và bằng nhiều mỹ từ khác để nói về người Việt. Kết cục của sự ma mị này chính là chúng ta tự đánh lừa mình, đánh lừa tương lai của cả một dân tộc, quốc gia. Thay vì chúng ta nhìn vào sự lạc hậu của mình, hỏi vì sao chúng ta lạc hậu để mà nỗ lực học hỏi các nước tiến bộ, chúng ta lại xem mình là người thông minh, là “đỉnh cao trí tuệ”. Và kết cục của nó là một thứ đỉnh cao của tội ác và lòng dối trá.

Thay vì chúng ta thấy mình nghèo, được “điểm nhãn” cho cái nghèo hiện hình để mà xua nó bay đi bằng kiếm pháp dân chủ, tiến bộ, chúng ta lại khư khư ôm thứ lý luận mù mờ và tự dối lừa mình để dẫn đến hệ quả là nhiều thế hệ giỏi trộm cắp, toa rập nhưng rất dở làm kinh tế. Bằng chứng của việc này là nếu như không dựa vào thế lực đảng, không tàn phá tài nguyên, môi trường và không tùng xẻo quĩ đất để thổi phòng cái bong bóng bất động sản, liệu Việt Nam có được mấy tay nhà giàu và có được mấy kẻ nổi tiếng giàu có, “đại gia” như hiện tại?

Và tư duy lười biếng, hưởng thụ, trộm cắp, mánh khóe vặt, toa rập, đội trên đạp dưới đã đẩy chúng ta đến chỗ không sản xuất được một con ốc cho nên hình nhưng có những ông chủ có thể chơi ngông bằng cách đổi cả một khoản tiền tương đương với tài sản lớn của một người dân nước giàu có chỉ để đổi một con ốc. Cách chơi ngông này chỉ cho thấy chúng ta đã mất hết khả năng hoạch toán kinh tế và lương tri chúng ta cũng đã bị hỏng đến độ phung phí mồ hôi, xương máu và nỗi khổ của người khác một cách vô tư. Bởi chúng ta chưa bao giờ đủ sâu sắc để nhìn thấy mồ hôi và nước mắt của người khác dính trên đồng tiền mình đang cầm trên tay. Cũng như chúng ta chưa bao giờ đủ tự trọng để nhận ra là sự giàu có của chúng ta có nguồn gốc ăn cắp thiên nhiên, ăn cắp của nhân dân và ăn cắp của tổ tiên.

Chúng ta quen với việc ăn cắp giống như người thiểu số quen với đường rừng và ngư dân quen với tôm cá. Chính vì vậy, chúng ta tự đẩy căn tính dân tộc đến chỗ ăn cắp và lười biếng, cầu toàn và hèn nhát. Bởi khi sự ăn cắp thành bản chất, chúng ta rất dễ dàng ăn cắp bất cứ nơi đâu và ăn cắp bất cứ thứ gì bắt mắt… Cho đến lúc bị bắt, chúng ta vẫn cứ kêu trời vì nghĩ mình oan, mình không biết nên mới ăn cắp! Và sau khi chúng ta bị vạch tội ăn cắp, thay vì ăn năn, hối cãi, phản tỉnh, chúng ta vẫn xem như không có gì xảy ra và tiếp tục đứng lên đảm nhận những công việc mẫu mực, chúng ta tự xem mình là gương mẫu!

Mãi cho đến khi thế giới nhìn chúng ta như một thứ man di mọi rợ. Chúng ta lại trách tại sao thế giới chúng quanh đối đãi tệ với người Việt? Trong khi đó, câu hỏi xác đáng cần đặt ra là: Chúng ta đã sống như thế nào mà thế giới phải e dè, kinh hãi và coi thường chúng ta đến vậy?

Câu chuyện những phụ nữ Việt Nam, những cô gái Việt Nam sang Singapore bị hất hủi, bị đối xử tệ lại khiến chúng ta chỉ biết trách người khác tệ nhưng chúng ta cũng chẳng tỏ ra thương tình hay chia sẻ với các phụ nữ bị xử tệ. Trong khi đó, có bao giờ chúng ta tự hỏi chúng ta đã làm gì, đã mang đến đất nước văn minh này loại gió gì mà chúng ta bị ngăn chặn như một trận gió độc? Và tại sao những phụ nữ Việt Nam lại chọn con đường bán dâm ở nước ngoài mặc dù đây là con đường nguy hiểm và tủi nhục?

Câu hỏi này không chỉ riêng người dân tự hỏi, và người dân cũng không bao giờ tự hỏi và tự trả lời nổi những câu hỏi như thế này. Mà nhà cầm quyền phải có trách nhiệm đặt câu hỏi và trả lời câu hỏi kịp thời trước khi chúng ta bị tuột xuống hố sâu, trước khi các chính khách của nước văn minh phải bụm mũi trước các nguyên thủ Việt Nam!

Đổi tù chính trị lấy thương mại và ngoại giao

Đổi tù chính trị lấy thương mại và ngoại giao

Kính Hòa, phóng viên RFA
2015-08-17

08172015-politi-pris-for-buis.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Ngày 25 tháng 3 năm 2015 tổ chức Bảo Vệ Ký Giả Quốc Tế (CPJ) mở chiến dịch "Tháo còng báo chí” (Press Uncuffed ), Tạ Phong Tần được nêu tên trong danh sách 9 người trên khắp thế giới

Ngày 25 tháng 3 năm 2015 tổ chức Bảo Vệ Ký Giả Quốc Tế (CPJ) mở chiến dịch “Tháo còng báo chí” (Press Uncuffed ), Tạ Phong Tần được nêu tên trong danh sách 9 người trên khắp thế giới

RFA files

Vào đầu tháng tám năm nay, tin từ gia đình của người nữ tù nhân chính trị Tạ Phong Tần cho biết là cơ quan công an Việt nam đã tiếp xúc với bà với lề đề nghị bà làm đơn xin đi Hoa Kỳ để được trả tự do. Tin này cùng với những thông tin về đợt đặc xá sắp tới nhân ngày quốc khánh Việt nam 2/9, làm nhiều người hy vọng là sẽ có một số tù nhân chính trị được thả trước thời hạn.

Hy Vọng

Luật sư Nguyễn Văn Đài, một cựu tù chính trị nhận xét những diễn biến xung quanh đợt đặc xá nhân ngày 2/9 năm nay:

Ngày hôm 15 vừa rồi thì ông Phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, Chủ tịch hội đồng đặc xá trung ương đã ngồi cùng với một ban liên ngành gồm Bộ công an, Tòa án tối cao, Mặt trận Tổ quốc, và Bộ tư pháp. Thì theo luật về đặc xá thì các cơ quan này họ sẽ tư vấn cho hội đồng đặc xá trung ương những trường hợp đặc xá đặc biệt. Ở đây chúng ta hiểu những trường hợp đặc xá đặc biệt là họ không có căn cứ trên tiêu chuẩn nào cả. Tức là có thể người đó không có nhận tội, không chịu cải tại, hay cái việc mà họ đánh giá hạnh kiểm, lao động trong trại là kém.

Việc ân xá đặc biệt nằm trong hai lý do. Một là vì lý do nhân đạo, hai là vì các mối quan hệ quốc tế của họ mà họ sẳn sàng đặc xá những tù nhân như vậy. Thì đây là trường hợp đầu tiên mà truyền thông chính thống Việt nam đưa tin về những trường hợp đặc xá đặc biệt.”

Tuy nhiên theo ghi nhận của anh Nguyễn Anh Tuấn, thành viên của tổ chức dân sự Voice thì chuyện đặc xá đặc biệt đã từng được truyền thông chính thống trong nước đề cập đến. Đó là vào năm 2013 khi ông Chủ tịch nước Trương Tấn Sang sang thăm Hoa Kỳ.

Xung quanh chuyện có thả tù nhân chính trị vào ngày 2/9 tới đây hay không, Luật sư Nguyễn Văn Đài đề cập đến chuyện Bộ chính trị, cơ quan quyền lực nhất Việt nam đã họp vào lúc ông Bộ trưởng Bộ Công thương Vũ Huy Hoàng đang ở Hawaii để đàm phán về Hiệp ước đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương:

Những cái chuyện này từ xưa đến nay rất hiếm khi xảy ra, bởi vì khi Bộ chính trị đã họp, để ủy thác một vị Bộ trưởng việc đàm phán với Hoa Kỳ, thì chắc chắn nó liên quan đặc biệt đến những vấn đề chính trị, những vấn đề nhân quyền.”

“ Việc ân xá đặc biệt nằm trong hai lý do. Một là vì lý do nhân đạo, hai là vì các mối quan hệ quốc tế của họ mà họ sẳn sàng đặc xá những tù nhân như vậy. Thì đây là trường hợp đầu tiên mà truyền thông chính thống Việt nam đưa tin về những trường hợp đặc xá đặc biệt

Luật sư Nguyễn Văn Đài”

Theo ông Đài thì ông hy vọng là sắp tới đây các tù nhân chính trị như bà Tạ Phong Tần, nhạc sĩ Việt Khang, ông Phạm Minh Vũ,… và một số người nữa sẽ được trả tự do.

Nhà báo Trương Duy Nhất, cũng là một người tù chính trị vừa được trả tự do trong năm nay cũng hy vọng là những người như ông Đài đề cập cùng với ông Trần Huỳnh Duy Thức sẽ được trả tự do. Ông nhận xét rằng trong chuyến thăm Việt nam vừa qua, ông John Kerry Ngoại trưởng Mỹ có lên tiếng về vấn đề nhân quyền, và vì thế ông Nhất rất hy vọng là người nữ tù chính trị Tạ Phong Tần sẽ được trả tự do.

“Khi Ngoại trưởng Hoa kỳ đã nêu tên thì những sức ép, những động thái đối với chính phủ Việt nam tất nhiên có đủ sức mạnh để chị Tần có thể đi.”

Nhưng một cựu tù chính trị khác là ông Nguyễn Tiến Trung lại có một nhận định tương đối khác:

“Theo Trung thì sẽ có một số trường hợp tù nhân chính trị được thả. Nhưng mà một số người được quốc tế chú ý đặc biệt như chị Tạ Phong Tần, hay anh Trần Huỳnh Duy Thức thì sẽ khó khăn hơn nhiều tại vì nhà nước Việt nam muốn các anh chị ấy ra nước ngoài chứ không phải ở trong nước, cho nên là nếu các anh chị ấy không muốn rời Việt nam thì Trung nghĩ là khó được đặc xá trong đợt này.”

Nhà báo Trương Duy Nhất lại cho rằng điều đó không thành vấn đề, ông chứng minh bằng trường hợp người tù chính trị Nguyễn Văn Hải Điếu Cày, một người bạn tù của ông được trả tự do sang Hoa Kỳ:

“Trước khi anh Hải Điếu cày đi thì Bộ công an họ cử một đoàn vào làm việc cũng theo như cái kiểu họ làm việc với chị Tạ Phong Tần bây giờ. Họ bảo anh ấy làm một cái đơn xin ra tù trước thời hạn, nhưng mà đời nào anh ấy làm! Rồi cuối cùng anh ấy cũng đi.”

Vô hiệu hóa và đổi chác

Trong lịch sử tù chính trị ở Việt nam trong vài chục năm trở lại đây đã có nhiều trường hợp người tù bước thẳng từ trại giam ra sân bay để đi ra nước ngoài, như ông Đoàn Viết Hoạt, Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Văn Hải,… Nói về việc này, anh Nguyễn Anh Tuấn tự đặt mình vào vị trí của nhà cầm quyền Việt nam:

“Mình cứ tưởng tượng mình là nhà nước thì mình sẽ chọn ai. Thứ nhất trong bối cảnh hiện nay sẽ chọn những người nào mà phía Mỹ gia tăng áp lực. Những người đó có thể là Trần Huỳnh Duy Thức, Tạ Phong Tần, Bùi Thị Minh Hằng, hoặc Anh Ba Sàm, tức là các trường hợp phía Mỹ người ta gia tăng áp lực nhiều. Một phương án nữa, ưu tiên của họ nữa là sẽ chọn những người mà họ tin rằng sau khi ra tù thì sẽ không còn tranh đấu gì được nhiều, ví dụ như hồi năm ngoái, trường hợp Đinh Đăng Định, khi đó đang bệnh tật, thì họ nghĩ rằng cho ra tù thì không sớm thì muộn cũng qua đời thôi, không thể đóng góp gì được nhiều nữa.”

“ Trường hợp anh Hải Điếu cày, rồi trước đây là trường hợp Cù Huy Hà Vũ, rồi anh Nguyễn Tiến Trung, những trường hợp này khi trả tự do thì đồng thời lúc đó lại có những thỏa ước giữa Việt nam và Mỹ

nhà báo Trương Duy Nhất”

Ông Nguyễn Tiến Trung cũng chia sẻ quan điểm này khi nói về những người tù bước thẳng từ trại giam ra sân bay quốc tế:

“Theo Trung thì có lẽ họ sợ những người đó có một sự ảnh hưởng lớn trong xã hội, hay họ sợ những người có thể trở thành lãnh tụ của phong trào dân chủ, nên không thể để trong nước mà phải trục xuất ra nước ngoài.”

Trở lại vấn đề công luận lâu nay nói rằng chính quyền Việt nam đổi chác số phận những người tù chính trị để lấy những quyền lợi thương mại, ngoại giao, nhà báo Trương Duy Nhất có nhận xét:

“Cái đó có đúng hay không thì phải hỏi các quan chức chính phủ, tôi không thể trả lời cái điều đó được. Nhưng mà sự việc nó xảy ra là như thế này: từ xưa đến giờ, một số nhân vật, một số vụ án nổi cộm, có hiệu ứng, ví dụ như trường hợp anh Hải Điếu cày, rồi trước đây là trường hợp Cù Huy Hà Vũ, rồi anh Nguyễn Tiến Trung, những trường hợp này khi trả tự do thì đồng thời lúc đó lại có những thõa ước giữa Việt nam và Mỹ!”

Chính quyền Việt nam chưa bao giờ công nhận chuyện đổi chác như vậy. Tuy nhiên trong bộ luật về đặc xá hiện hành, được ra đời vào năm 2007, có điều số 21 về những trường hợp đặc xá đặc biệt, điều này nói rằng những trường hợp đặc xá đặc biệt là để đáp ứng yêu cầu về đối nội, đối ngoại của Nhà nước.

Như vậy những lời bình luận về việc nhà nước Việt nam đổi tù chính trị lấy lợi ích ngoại giao bấy lâu nay không phải là không có cơ sở.

Trả lời chúng tôi rằng liệu khi nào thì chuyện này sẽ chấm dứt, Luật sư Nguyễn Văn Đài trả lời:

Việc này không phụ thuộc vào chính quyền cộng sản Việt nam, cũng không phụ thuộc vào Hoa kỳ. Mà việc này kết thúc khi nào là phụ thuộc vào nội tại phong trào dân chủ Việt nam. Khi phong trào dân chủ Việt nam tự mình đứng lên, đủ sức mạnh gây áp lực chính phủ Việt nam không được bắt người một cách tùy tiện, không chà đạp công lý và Hiến pháp nữa, thì lúc đó mới chấm dứt. Còn nếu như chúng ta, phong trào dân chủ Việt nam còn rất là yếu, phải trông chờ vào sức ép của Mỹ, EU hay là các nước khác thì chuyện mặc cả này sẽ tiếp tục diễn ra trong thời gian tới.”

Còn người cựu tù nhân chính trị trẻ tuổi Nguyễn Tiến Trung thì nói rằng nếu việc độc quyền cai trị của đảng cộng sản Việt nam vẫn còn tiếp tục thì việc đổi chắc đó sẽ không chấm dứt.