Tại sao chúng ta nghèo?

Tại sao chúng ta nghèo?

Nguyễn Hưng Quốc

Trong cuộc gặp gỡ với 40 doanh nhân trẻ vào chiều 12 tháng 8 vừa qua, sau khi nghe những lời than thở về những bất cập trong các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tại Việt Nam của họ, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam đặt câu hỏi: “Tại sao chúng ta tốt mà vẫn cứ nghèo?” Rồi ông nhấn mạnh: “Nhất định phải đổi mới mạnh mẽ hơn.”

Trong câu hỏi của Vũ Đức Đam có một nhận định chính xác: Việt Nam nghèo. Chúng ta không những nghèo hơn các nước phát triển trên thế giới mà còn nghèo hơn hầu hết các quốc gia trong khu vực. Trong khu vực, chỉ giới hạn trong khối ASEAN, chúng ta nghèo hơn Singapore, Brunei, Malaysia, Indonesia, Philippines, Miến Điện và Thái Lan, đã đành. Chúng ta còn có nguy cơ bị hai nước láng giềng vốn thường bị xem là nghèo hơn và yếu hơn, Campuchia và Lào, qua mặt.

Nhưng toàn bộ câu hỏi của Vũ Đức Đam, “Tại sao chúng ta tốt mà vẫn cứ nghèo?” lại sai.

Sai ở nhiều điểm.

Thứ nhất, cách đặt vấn đề sai. Chuyện tốt hay xấu không có quan hệ gì đến chuyện giàu nghèo. Để giàu, người ta cần óc sáng kiến, năng lực lao động, sự cần cù cùng với một số điều kiện thuận lợi và may mắn nữa chứ không dính líu gì đến tính cách hay đạo đức. Trên thế giới, không ai đặt vấn đề như vậy với các tỉ phú hay với các cường quốc kinh tế.

Thứ hai, sai ở mệnh đề “chúng ta tốt”. Cái gọi “chúng ta” ở đây là ai? Là những người tham dự cuộc hội thảo ư? Căn cứ vào đâu để khẳng định họ tốt? Rộng hơn, “chúng ta” đây là người Việt Nam nói chung chăng? Lại càng mơ hồ. Không có dân tộc nào là tốt cũng như không có dân tộc nào là xấu. Dân tộc nào cũng bao gồm những người tốt và những kẻ xấu. Một sự khái quát hoá, cho dân tộc này tốt hơn những dân tộc kia không những sai lầm về logic và thực tế mà còn dễ có nguy cơ dẫn đến những thái độ kỳ thị chủng tộc, điều mà giới học thuật Tây phương cho là cấm kỵ.

“Chúng ta” ở đây là đảng Cộng sản hiện đang cầm quyền chăng? Khẳng định như thế không những sai mà còn là sai lầm một cách lố bịch. Từ sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản tại Liên Xô và Đông Âu, khi những sự tàn ác của các đảng Cộng sản ở những nơi ấy bị vạch trần, người ta thấy rõ là không có chế độ cộng sản nào là tốt cả. Tất cả đều giả dối, độc tài và tàn bạo. Số nạn nhân bị giết chết hoặc đoạ đày cho đến chết dưới tay của Stalin và Mao Trạch Đông còn nhiều hơn tổng số người bị giết chết dưới tay phát xít Đức trong chiến tranh thế giới lần thứ hai. Riêng ở Việt Nam, chế độ cộng sản cũng đã gây ra biết bao nhiêu tang thương, từ các chiến dịch cải cách ruộng đất ở miền Bắc đến các phong trào đánh tư sản mại bản và xua người dân đi kinh tế mới ở miền Nam, từ các vụ thảm sát ở Huế trong Tết Mậu thân đến các trại cải tạo sau năm 1975. Đó là chưa kể đến cuộc chiến tranh kéo dài cả hai mươi năm mà họ gây ra đã khiến cho ít nhất ba triệu người bị mất mạng ở cả hai miền. Như vậy là tốt ư?

Nếu cái nghèo của Việt Nam hiện nay không xuất phát từ chuyện tốt hay xấu, nó xuất phát từ đâu? Câu trả lời, thật ra, với đa số người dân Việt Nam, khá hiển nhiên: do chế độ Cộng sản. Điều này đúng không những chỉ ở Việt Nam mà còn ở phạm vi toàn thế giới: Có quốc gia cộng sản nào thực sự giàu có? Rõ nhất là ở những quốc gia bị chia đôi: Đông Đức nghèo hơn hẳn Tây Đức; Bắc Hàn thua xa Nam Hàn. Riêng tại Việt Nam, trước năm 1975, điều kiện sinh sống ở miền Nam cũng bỏ xa miền Bắc.

Nhưng điều gì khiến chế độ Cộng sản làm kiềm hãm sự phát triển đất nước? Có ba lý do chính: các chính sách sai lầm, tham nhũng và độc tài.

Trước phong trào đổi mới, các chính sách sai lầm về kinh tế và xã hội, đặc biệt cái gọi là chính sách giá – lương – tiền, đã biến Việt Nam thành một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới. Lạm phát tăng cao. Dân chúng bị ngập chìm trong đói khổ, không có đủ cơm ăn; trong nhiều năm liền, phải ăn bột mì và bo bo do Nga viện trợ. Sau thời đổi mới, được ít nhiều cởi trói, kinh tế phát triển khá nhanh, nhưng không nhanh đủ để giúp Việt Nam tiến bộ so với các quốc gia láng giềng. Các đại công ty hay tập đoàn kinh tế quốc doanh liên tục thua lỗ, có khi bị phá sản, để lại những gánh nợ nặng nề kéo dài tận đến các thế hệ mai sau. Ngay trong cuộc gặp gỡ với các doanh nhân trẻ ngày 12 tháng 8 vừa qua, trước mặt Vũ Đức Đam, nhiều người cũng lên tiếng phê phán các chính sách sai lầm của chính phủ khiến công việc làm ăn của họ gặp rất nhiều khó khăn. Những sự sai lầm trong chính sách này khiến các nỗ lực gọi là đổi mới tại Việt Nam chỉ là những sự vá víu, lẩn quẩn, từ cái sai này đến cái sai khác theo kiểu tổng kết của dân gian: “Sửa sai rồi lại sửa sai / Sửa thì cứ sửa, sai thì cứ sai.”

Nguyên nhân thứ hai làm kiềm hãm sự phát triển kinh tế tại Việt Nam là tham nhũng. Tham nhũng thể hiện ở hai khía cạnh: Một là, mọi quyết định về kinh tế đều không xuất phát từ lợi ích chung mà chỉ tập trung vào quyền lợi của một số cá nhân. Phong trào xây tượng đài hoặc các công trình kiến trúc ào ạt ở Việt Nam là một ví dụ: Người ta xây dựng như vậy không phải vì công việc ấy thực sự cần thiết mà chỉ vì, với những công trình xây dựng ấy, người ta có thể kiếm chác để bỏ tiền vào túi mình. Lớn hơn, chính sách đề cao vai trò của các công ty quốc doanh mặc dù hiệu quả kinh tế của chúng rất kém cũng xuất phát từ cùng một lý do: để dễ chia chác quyền lợi. Hai là, với tệ nạn tham nhũng, người ta khai khống và rút ruột các công trình xây dựng để cuối cùng, tất cả các công trình xây dựng đều có kết quả cực kém: Nhiều con đường mới xây xong đã lún; nhiều công trình mới dựng xong đã bị đổ, v.v… Hậu quả của nạn tham nhũng tràn lan này là cán bộ càng lúc càng giàu trong khi đất nước thì càng lúc càng nghèo nàn và kiệt quệ.

Nguyên nhân thứ ba và cũng là nguyên nhân quan trọng nhất là độc tài. Giành độc quyền lãnh đạo, chế độ Cộng sản loại trừ hai yếu tố quan trọng nhất cho sự phát triển. Một là, loại trừ những trí tuệ và tài năng không nằm trong hệ thống đảng trị. Hai là, nó cũng loại trừ sự minh bạch và cùng với nó, sự phản biện của các trí thức độc lập. Hậu quả của cả hai sự loại trừ này là, một, chính quyền chỉ quy tụ được những kẻ bất tài, hoặc phần lớn là những kẻ bất tài; và hai là, nó mất khả năng tự điều chỉnh và đổi mới thực sự.

Nói một cách tóm tắt, để trả lời cho câu hỏi của ông Vũ Đức Đam, “tại sao chúng ta nghèo?”, chúng ta có thể khẳng định dứt khoát: Chúng ta nghèo, cứ nghèo mãi là vì sự thống trị độc tài và độc đoán của đảng Cộng sản. Biện pháp khắc phục, do đó, không phải là “đổi mới” mà là dân chủ hoá.

Một bài học hiển nhiên trên thế giới: Không có quốc gia dân chủ thực sự nào mà nghèo cả.

Cựu TT Jimmy Carter ‘không lo lắng’ khi chống chọi với ung thư

Cựu TT Jimmy Carter ‘không lo lắng’ khi chống chọi với ung thư

Cựu Tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter.

Cựu Tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter.

Cựu tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter cho hay những cuộc thử nghiệm một khối u ở gan của ông cho thấy ông bị chứng ‘ung thư hắc bào’ thường là một hình thức ung thư da, đã di căn từ gan lên đến não.

Ông Carter cho biết: “Thoạt đầu, tôi nghĩ nó chỉ giới hạn ở gan và phẫu thuật đã hoàn toàn cắt bỏ khối u, vì thế tôi rất an tâm.” Nhưng ông Carter nói sự lạc quan của ông đã thay đổi ngay sau đó trong ngày khi một cuộc thử nghiệm khác phát hiện những khối u trong não. “Tôi sực nghĩ tôi chỉ còn sống vài tuần nữa thôi, nhưng tôi cảm thấy thoải mái một cách không ngờ. Tôi đã sống một cuộc đời đầy đủ, tôi có hàng ngàn bạn bè…Vì thế mà tôi thoải mái không ngờ, thoải mái hơn nhiều so với vợ tôi.”

Báo chí khắp thế giới đã đồn đại nhiều về tình trạng sức khỏe của ông Caarter sau khi có thông báo ngày 12 tháng 8 là ông đang chống chọi với bệnh ung thư.

Người vợ đã chung sống 69 năm với ông, cựu đệ nhất phu nhân Rosalynn Carter, ngồi ở hàng ghế đầu hôm thứ năm tại thính đường Trung tâm Carter ở Atlanta khi vị tổng thống thứ 39 của Hoa Kỳ trả lời nhiều câu hỏi về sức khỏe của ông, và về quan điểm của ông khi bắt đầu một chương trình xạ trị, và hóa trị để chống chọi với căn bệnh ung thư.

“Rõ ràng là tôi thực sự không thể nói trước tôi sẽ cảm thấy ra sao, những tôi sẽ phải tùy thuộc rất nhiều vào các vị bác sĩ về vấn đề điều trị.”

Quyết định của ông Carter công khai thảo luận các vấn đề sức khỏe của ông là điều hiếm thấy nơi các vị cựu tổng thống. Nhưng ung thư đã từng là một chẩn đoán biết trước được đối với các thành viên khác trong gia đình ông.

Thân phụ ông, người anh em trai của ông và hai người chị em gái đã chết vì căn bệnh này, và chính thân mẫu ông cũng đã bị bệnh vào lúc cuối đời. Ông Carter viết về những cuộc chống chọi với căn bệnh này của gia đình ông trong cuốn sách mới nhất có tựa đề “Một cuộc sống toàn vẹn.” Ông đã hoàn thành một chuyến đi quảng bá cho cuốn sách vào tuần lễ ngay trước khi các bác sĩ cắt bỏ khối u ở gan của ông.

Cựu Tổng thống Carter nói ông biết về khối u này ngay sau khi ông phải cắt ngắn chuyến đi thanh sát bầu cử của Trung tâm Carter đến Guyana hồi tháng 5, sau khi bị cảm lạnh. Ông đã hoãn cuộc giải phẫu gan cho đến sau chuyến đi ra mắt sách.

Trong một cuộc phỏng vấn đặc biệt với đài VOA nhân chuyến đi đó, Tổng thống Carter đã suy ngẫm về cuộc đời lâu dài của ông, và vì sao ông viết cuốn sách.

“Điều tôi cố gắng làm trong cuốn sách là nói lên những điều tôi chưa từng kể trước đây. Như việc tôi suýt chết trên một chiếc tàu ngầm, và cả những bài học tôi đã học được, một số có tính cách rất tiêu cực vào lúc đó, và một số rất tích cực.

Ông Carter nói một trong những nguyên tắc chỉ đạo của ông trong cuộc đời là một điều mà một giáo viên trung học của ông ở Plains, bà Julia Coleman đã dạy cho ông, mà cũng là điều ông nhắc đến trong bài diễn văn nhậm chức.

“Thích nghi với thời thế thay đổi, nhưng hãy suy nghĩ theo những nguyên tắc không thay đổi, đó là một thái độ cơ bản khác đã nhiều lần đem lại lợi ích cho tôi.”

Trước mặt các phóng viên tại Trung tâm Carter, Tổng thống Carter suy ngẫm thêm về “cuộc đời toàn vẹn” của ông và nói ông không hối tiếc gì về thời kỳ rất dài sau khi làm tổng thống của ông. 4 năm ông trải qua tại Tòa Bạch Ốc lại là một vấn đề khác.

“Tôi ước gì đã phái thêm một chiếc máy bay trực thăng để cứu các con tin.” Đó là lời ông Carter, người mà nhiệm kỳ tổng thống một phần đã gắn liền với vụ các con tin Mỹ bị giam giữ ở Iran, và sứ mạng đi giải cứu họ đã bị thất bại. “Tôi nghĩ có thể tôi sẽ tái đắc cử. Nhưng nếu tôi phải chọn phục vụ thêm 4 năm hay chọn Trung tâm Carter, tôi nghĩ tôi sẽ chọn Trung tâm Carter.”

Tuy Tổng thống Carter có nhiều hy vọng là chế độ điều trị của ông sẽ giúp kéo dài đời sống củ ông, căn bệnh của ông diễn ra vào một thời điểm mà Trung tâm Carter đang tích cực tham gia vào nhiều nỗ lực nổi bất trên khắp thế giới, trong đó có việc chuẩn bị cho một sứ mạng thanh tra bầu cử ở Myanmar, và nỗ lực xóa bệnh xán Guinea trên toàn cầu, mà hiện giờ chỉ còn chưa đầy một tá các ca bệnh, phần lớn là ở Chad và Nam Sudan.

Việc điều trị bệnh ung thư cho Tổng thống Carter cũng diễn ra trước dự án công tác thường niên “Jimmy and Rosalynn Carter về môi trường cho nhân loại, dự trù vào tháng 12 này ở Nepal đã hứng chịu nạn động đất. Các dự án thiện nguyện thường niên của ông với cơ quan xây dựng nhà từ thiện này được nhiều người chú ý và là một trong những phần được biết đến nhiều nhất về thời gian sau khi làm tổng thống của ông.

Cuộc điều trị theo kế hoạch của ông có thể khiến ông không tham gia được vào dự án đó và các công việc khác của Trung tâm Carter, nhưng ông vẫn tỏ ra lạc quan.

Ông nói, “Hãy hy vọng vào điều tốt nhất, chấp nhận những gì sắp đến. Tôi nghĩ tôi đã được hưởng nhiều ơn phước như bất cứ con người nào trên thế giới này.”

Tổng thống Carter bắt đầu tiến hành xạ trị vào chiều nay. Ông cho biết ông vẫn dự định tham gia buổi thuyết giảng ngày chủ nhật vào cuối tuần này tại giáo hội của ông ở thị trấn quê nhà là Plains.

Thăm nhà Nguyễn Viết Dũng, người treo cờ VNCH ở Nghệ An

Thăm nhà Nguyễn Viết Dũng, người treo cờ VNCH ở Nghệ An

Nguoi-viet.com

Minh Văn/Người Việt

NGHỆ AN (NV) – Cánh cổng khép hờ hững, khu vườn đang tu sửa với những đất đai lổn nhổn, ngay cả ngôi nhà cũng còn sơn dở, mọi thứ dường như bê trễ, dở dang. Thấy có người đi vào trong sân, đàn chó xộc ra sủa nháo nhác.

Chúng tôi đến thăm nhà Nguyễn Viết Dũng sau hơn ba tháng anh bị bắt tại Hà Nội, với tội danh “gây rối trật tự công cộng.”


Một bức họa vẽ hình Nguyễn Viết Dũng được lan truyền trên Internet.

Thời gian không ngừng trôi, căn nhà của anh ở xã Hậu Thành, huyện Yên Thành vẫn yên bình và rợp bóng cây, nhưng tin tức về người anh hùng của chúng ta thì bặt vô âm tín. Vậy là cha mẹ xa con, anh em ly biệt trong nổi mong chờ mà chưa có lời giải đáp.

May quá, mẹ Dũng có ở nhà. Nhận ra khách quen, chị ra đón và mời chúng tôi vào chơi.

Rót mấy cốc nước chè xanh mời khách xong, mẹ Dũng ngồi xuống ghế trong tâm trạng lo lắng, đôi mắt quầng thâm bởi nhiều đêm mất ngủ vì thương nhớ con. Chị biết chúng tôi đến chơi là để hỏi thăm tin tức về Dũng và động viên gia đình như mọi lần.

Với một giọng buồn rầu, chị kể:

– Anh nhà (bố của Dũng) đã ba lần ra Hà Nội để thăm con nhưng vẫn không được gặp, cho nên không biết sự thể ra sao cả. Cảm thấy bất lực, anh tìm thuê luật sư nhưng khó khăn vất vả lắm, người ta đòi nhiều tiền, vả lại còn sợ vì không muốn tham gia vào những vụ án “nhạy cảm”…

Tôi cảm thông với chị:

– Thời buổi này, những người luật sư có tâm và vì công lý hiếm lắm, ngoài ra họ còn sợ bị chính quyền đàn áp nữa.

Rồi tôi kể tên những luật sư vì bào chữa cho các nhà đấu tranh dân chủ mà bị sách nhiễu và tước thẻ hành nghề.

Chị mỉm cười chua chát, tiếp lời:

– Nghe nói có Luật Sư Võ An Ðôn là người dám xả thân đấu tranh cho công lý, hôm nọ anh nhà đã lặn lội vào tận Phú Yên để tìm. Cũng may là gặp được ông tại nhà riêng. Luật sư có tác phong giản dị và nhiệt huyết lắm, ông hứa là sẽ ra Hà Nội để bào chữa miễn phí cho vụ án của Dũng…

Chị ngừng một lúc, vẻ mặt xúc động, rồi chắp tay như thể cầu nguyện:

– Ơn Trời! Vậy là cũng gặp được những người có tâm cứu giúp. Coi như số Dũng vẫn còn may mắn!…

Rồi chị nhìn ra ngoài sân, như mong ngóng một điều gì đó xa xăm. Dạo này sắp vào Thu, thời tiết xứ Nghệ đã trở nên mát mẻ, mây kéo về xám xịt bầu trời, những hạt mưa đang lắc rắc rơi trên vườn cây trước nhà. Người bạn gái đi cùng tôi, sau khi lắng nghe câu chuyện của chị, cũng tỏ ra cảm thông cho hoàn cảnh lắm, khuôn mặt cô luôn lộ vẻ xúc động.

Chân dung Nguyễn Viết Dũng

Còn nhớ năm ngoái – đúng ngày 30 tháng 4, 2014 – Nguyễn Viết Dũng là người đầu tiên ở Nghệ An treo cờ vàng ba sọc đỏ ngay trước nhà mình.


Bà Hồng, mẹ Nguyễn Viết Dũng. (Hình: Minh Văn)

Hành động đó nhắc nhở cho người dân không được quên lá cờ di sản của dân tộc, đồng thời phản đối cái gọi là ngày “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” mà nhà cầm quyền vẫn hằng tuyên truyền bấy lâu nay.

Sau đó thì công an huyện đã phối hợp với địa phương đến nhà còng tay Dũng rồi giải ra ủy ban xã. Dũng và cô em gái của mình đã đấu tranh gay gắt, trước lý lẽ xác đáng của hai anh em, họ buộc phải thả Dũng về nhà sau đó.

Chị Hồng – mẹ Nguyễn Viết Dũng – cho biết, cả nhà lo lắng mong chờ tin tức từng ngày. Anh chị chỉ có mỗi Dũng là người con trai duy nhất, lại là anh cả trong gia đình. Dưới Dũng còn ba em gái nữa, cô thứ hai lấy chồng và đi dạy trong huyện. Hai con gái út thì một cô đang đi làm tận Thái Nguyên, một cô đang đi học ở Vinh (thành phố Vinh-Nghệ An).

Trong lúc trò chuyện, chị cố tươi cười để chúng tôi yên lòng, nhưng tôi hiểu đằng sau đó là nỗi buồn vô hạn của một người mẹ vô cớ bị người ta bắt đi đứa con trai yêu quý của mình.

Không giấu được nỗi bức xúc trong lòng, chị xua tay:

– Nói thật là gia đình chị không còn ai tin tưởng vào cái gọi là “tự do,” “dân chủ” ở cái đất nước này nữa cô chú ạ!

Nỗi lòng của một người mẹ, tôi hiểu lắm chứ, ai cũng thương, cũng yêu những đứa con mà mình rứt ruột đẻ ra và nâng niu chăm sóc tháng ngày.

Rồi trong nỗi nhớ con, chị kể cho chúng tôi những kỷ niệm về Dũng khi còn đi học phổ thông.

“Dũng là một đứa ngoan và sáng dạ, nó sống tình cảm lắm. Còn nhớ hồi lớp 6 lớp 7 gì đó, có hôm đi học về, nó chào tôi rồi lại đạp xe vòng trở ra, lại đi vào và chào lần nữa, cứ như thế cho đến khi tôi phải phát cười lên mới thôi. Nó muốn trêu cho tôi cười, để động viên mẹ.

Cả nhà ai cũng hy vọng vào khả năng học tập của Dũng, mong sẽ có nhiều thành tựu, vì nó học rất giỏi. Cái lần nó bị trường Bách Khoa đuổi học (năm 2006) vì có tham gia các phong trào chính trị gì đó, anh và chị lo lắng lắm. Chị hỏi Dũng có muốn thi và học vào một trường nào khác không, nó suy nghĩ rất lung rồi nói rằng, tương lai của con sẽ do con quyết định. Từ đó nó lựa chọn con đường đấu tranh dân chủ cho đến nay. Gia đình thì cho rằng những việc Dũng làm là đúng, và cũng ủng hộ để nó vượt qua, dẫu biết rằng khó khăn nguy hiểm. Cũng phải có những người đấu tranh như vậy, nếu không thì đất nước này sẽ đi đến đâu, không lẽ lại phải chịu đựng bất công như vậy mãi hay sao?…”

Chị còn muốn kể nhiều nữa, vì những dòng hoài niệm về đứa con yêu của mình thì có bao giờ dứt. Tôi thực sự cảm thông cho tình cảm một người mẹ, và càng cảm phục hơn cái ý chí bảo vệ lẽ phải của chị.

Ngoài trời mưa vẫn rơi, ánh mắt chị lại hướng về chốn xa xăm, có lẽ là nơi mà đứa con trai yêu quý của mình đang bị người ta bắt giam một cách bất công vô cớ. Quả thực không một ai có thể hiểu Dũng bị bắt vì lý do gì, và tại sao người ta lại có thể bỏ tù một người vô tội mà không có bằng chứng nào cả?

Trong niềm thương nhớ con, chị Hồng nói như người mộng du:

– Dũng muốn có sách ngoại ngữ và những sách nó yêu thích để đọc trong tù, nhưng bên an ninh người ta chỉ cho đọc báo công an và báo đảng mà thôi. Gia đình đang nhờ bạn bè tìm giúp sách cho Dũng, không biết công an họ có cho gửi vào không nữa?…

Chuồng chim Bồ Câu trước nhà lúc này rộn lên những tiếng cúc cu gọi bạn. Người ta vẫn nói rằng, Bồ Câu là giống chim biểu tượng cho đoàn tự do và đoàn tụ. Ngay cả loài chim cũng được như vậy, nhưng cả hai thứ đó đều thiếu đối với những con người trong ngôi nhà mà chúng tôi đang ngồi đây.

Một cuộc cách mạng vô nghĩa

Một cuộc cách mạng vô nghĩa

Blog RFA

Lê Diễn Đức

19-08-2015

H1

Vào ngày 17 tháng 8 năm 1945, công chức Hà Nội được lệnh của Khâm Sai Phan Kế Toại tổ chức một cuộc mít tinh ở trước Nhà Hát Lớn Hà Nội.

Hàng ngàn người với lá cờ vàng ba sọc đỏ (có sọc giữa dứt quãng, cờ Quẻ Ly) xuống đường mừng ngày độc lập, sau khi Đế quốc Nhật Bản tuyên bố “trao trả độc lập cho Việt Nam”.

Hoàng đế Bảo Đại trong ngày 11 ttháng 3 năm 1945 đã tuyên bố độc lập và thành lập chính quyền mới, với chính thể quân chủ lập hiến do Trần Trọng Kim làm Thủ tướng. Tên nước được gọi là Đế quốc Việt Nam.

Bỗng nhiên một lá cờ đỏ sao vàng rất lớn được thả từ ban công của nhà hát xuống, một người leo lên khán đài cướp micro để hô khẩu hiệu ủng hộ Việt Minh và hát bài Tiến Quân Ca. Cuộc biểu tình của công chức biến thành cuộc biểu tình của Mặt Trận Việt Minh.

Nhạc sĩ Tô Hải, một người còn sống ở Sài Gòn, nhân chứng sống cho sự kiện ấy, mô tả lại, như thế.

Hai ngày sau, tức là 19 tháng 8, Việt Minh đứng ra tổ chức một cuộc mít-tinh lớn, cũng ở trước nhà hát Lớn Hà Nội. Sau đó, đoàn người đến chiếm phủ Khâm sai đại thần. Khâm Sai Phan Kế Toại đầu hàng, cờ quẻ Ly bị hạ xuống, cờ đỏ sao vàng được kéo lên.

Sau khi Việt Minh cướp được chính quyền tại Hà Nội và nhiều nơi khác, Thủ tướng Đế quốc Việt Nam Trần Trọng Kim ở Huế nộp đơn xin từ chức.

Ngày 22 tháng 8, Việt Minh gửi công điện yêu cầu Bảo Đại thoái vị. Bảo Đại chấp nhận và tuyên bố “Đáp ứng lời kêu gọi của Ủy ban cách mạng, tôi sẵn sàng thoái vị. Trước giờ quyết định này của lịch sử quốc gia, đoàn kết là sống, chia rẽ là chết. Tôi sẵn sàng hy sinh tất cả mọi quyền lợi, để cho sự đoàn kết được thành tựu, và yêu cầu đại diện của Ủy ban (Việt Minh) sớm tới Huế, để nhận bàn giao”.

Hoàng đế Bảo Đại lúc bấy giờ đã nói một câu nổi tiếng: “Trẫm muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước bị trị”.

Thế là cách mạng tháng 8 thành công! Một cuộc cách mạng không có xung đột vũ trang, chẳng có tên thực dân Pháp hay phát xít Nhật nào trên đường phố Hà Nội, không một người chết. Việt Minh đã cướp chính quyền dễ như trở bàn tay, bằng lợi dụng được tình thế giao thời hỗn loạn của lịch sử khi phát xít Nhật đã đầu hàng đồng minh vô điều kiện và đang lúng túng chờ quân đồng minh tới giải giáp.

Và chỉ sau khi Hoàng đế Bảo Đại thoái vị, Hồ Chí Minh cùng với các nhà lãnh đạo khác của Đảng Cộng Sản Việt Nam mới từ Tân Trào trở về Hà Nội và ngày 2 tháng 9 độc tuyên ngôn độc lập. Nhà nuớc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ra đời.

Mặc dù tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi, mang tiếng là Chính phủ thân Nhật, bù nhìn, nội các của Thủ tướng Trần Trọng Kim đã làm được những quan trọng như :

– Thả hàng ngàn tù chính trị bị Pháp giam giữ trước đó bao gồm đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương và các đảng phái quốc gia, đồng thời cho phép các tổ chức, hội đoàn chính trị được hoạt động công khai.

– Tuyên bố nước Việt Nam đôc lập, và hủy bỏ Hiệp ước Bảo hộ 1884 (Hòa ước Patenôtre).

–  Thống nhất về mặt danh nghĩa, đưa đất Nam Kỳ trở lại với nguồn cội Việt Nam.

– Thay chương trình học bằng tiếng Pháp chuyển sang học bằng tiếng Việt. Hành chánh được cải tổ với việc dùng chữ Việt trong tất cả các giao dịch của chính phủ…

Việt Minh là tên gọi tắt của Việt Nam Độc lập Đồng minh, liên minh chính trị do Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập ngày 19 tháng 5 năm 1941 với mục đích “Liên hiệp tất cả các tầng lớp nhân dân, các đảng phái cách mạng, các đoàn thể dân chúng yêu nước, đang cùng nhau đánh đuổi Nhật – Pháp, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập”.

Ngày 11 tháng 11 năm 1945, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố tự giải tán để đối phó với chủ trương tiêu diệt đảng của Pháp, Trung Hoa Dân Quốc và các đồng minh của họ, nhưng thực chất vẫn nắm vai trò lãnh đạo. Đến tháng 3 năm 1951 khi Việt Minh bị giải tán và Đảng Cộng Sản trở lại đúng với vị trí của họ.

Mục đích của Việt Minh trong sáng, rõ ràng đã đánh đúng vào lòng yêu nước, tinh thần chống Pháp, Nhật, nên tập hợp được lực lượng quần chúng đông đảo. Khi Pháp trở lại Đông Dương, Việt Minh tiếp tục cuộc vận động, lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc kháng chiến 9 năm và làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ.

Theo Hiệp định Geneva 1954, Việt Nam bị chia thành hai phần, từ vĩ tuyến 17 trở ra thuộc miền Bắc Cộng Sản, từ vĩ tuyến 17 trở vào thuộc Việt Nam Cộng Hoà.

Đảng Cộng Sản Việt Nam giành độc quyền cai quản trên toàn miền Bắc, thực hiện Cải cách Ruộng đất vô nhân đạo làm chết oan hàng trăm ngàn người, bắt nông dân vào hợp tác xã nông nghiệp, thực thi chính sách kiểm duyệt, quản lý hộ khẩu, phân phối lương thực, chất đốt, cải tạo công thương, v.v… Một nhà nước không được dân bầu ra thông qua bầu cử tự do như Cương lĩnh của Việt Minh đã xác định.

Một chế độ bạo lực và khủng bố ngự trị trên toàn miền Bắc. Tất cả những tiếng nói bất đồng chính kiến hay phản kháng chế độ đều bị vùi dập và đàn áp dã man. Một bộ máy tuyên truyền, giáo dục khổng lồ của chế độ sử dụng hết công suất nhồi sọ con người ngay từ khi còn bé.

Giờ đây người ta mới hiểu ra rằng, tại sao ngay từ cuộc cách mạng tháng Tám, Việt Minh đã lấy cờ đỏ sao vàng làm quốc kỳ. Rõ ràng đây một cuộc khởi nghĩa cướp đoạt quyền lực và tiếm quyền có ý thức nhằm áp đặt hệ thống chinh trị cộng sản chuyên quyền.

Cũng với chế độ này, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Đảng Cộng Sản Việt Nam nhuộm đỏ toàn quốc. Với chiêu bài đánh đuổi ngoại xâm, họ đã đưa dân tộc vào một cuộc chiến đẫm máu và dai dẳng và cưỡng chiếm miền Nam.

Cụ Lê Hiền Ðức, một người đi theo cách mạng từ lúc còn nhỏ, một công dân chống tham nhũng nổi tiếng, đã viết bài “Phản cách mạng đã rõ ràng” sau khi chứng kiến vụ cưỡng chế đất đai của nông dân Văn Giang, Hưng Yên:

“Cuộc cách mạng mà lớp người chúng tôi đã tham gia 60-70 năm trước nay đã bị phản bội một cách trắng trợn, triệt để. Công hữu, sở hữu toàn dân chỉ là chiêu bài để tư hữu hoá, tư nhân hoá, biến của chung thành của riêng”.

“Ðảng Cộng Sản và Nhà nước CHXHCN Việt Nam thừa nhận ở Việt Nam, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về đất đai rất tròng tréo, rắc rối, có nhiều thiếu sót và mâu thuẫn nhau. Nhưng ai là tác giả của chúng? Chính là họ. Ai được hưởng lợi từ chúng? Cũng chính là họ”.

Ông Huỳnh Nhật Tấn, cựu Phó giám đốc Trường Đảng tỉnh Lâm Đồng, đã phải cay đắng nói: “Tôi có lỗi với dân tộc. Chính cái hăng hái, nhiệt huyết của tôi đã góp phần dựng nên chế độ độc tài hiện nay, đã vô tình đem lại sự đau khổ hiện nay“.

Công nhân, giai cấp mà ĐCSVN gọi là đội quân tiên phong, trở thành lực lượng bần cùng của xã hội, bị các ông chủ tư bản bóc lột nặng nề, đồng lương không đủ sống, điều kiện làm việc khắc khổ.

Cuộc cách mạng tháng Tám trở nên vô nghĩa và mục đich của nó bị đảo ngược. Những kẻ cầm quyền mặc sức tham nhũng, ăn chặn. Bằng đồng tiền ăn cắp và ăn cướp, họ sống xa hoa trên sự nghèo đói của người lao động. Bất công, bất bình đẳng và suy thoái đạo đức xã hội nghiêm trọng, tệ hại còn hơn chế độ thực dân cũ.

Giống như đất nước Ba Lan sau Chiến tranh Thế giới II, thoát hiểm hoạ phát xít Đức thì bị hoạ cộng sản chụp xuống. Chế độ cộng sản dối trá, tàn nhẫn, tước đoạt quyền tự do của con người đến mức sau khi lật đổ nó vào năm 1989, Hiến pháp dân chủ cấm mọi hình thức tuyên truyền và hoạt động của chủ nghĩa Cộng sản.

Tất cả những điều tôi phân tích trên đây tương tự như nhận định của luật sư Nguyễn Văn Đài (trên trang Facebook), một nhà hoạt động dân chủ, đang sống ở Hà Nội:

“Làm cách mạng để xây dựng lên chế độ độc đảng toàn trị, không có tự do, dân chủ và nhân quyền. Đó là một cuộc cách mạng vô nghĩa và thất bại. Bởi chúng ta đã thay thế sự cai trị văn minh của giặc ngoại xâm bằng sự cai trị độc ác, tàn bạo, tham lam của giặc nội xâm”.

VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC

VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC

Nguyễn Đình Chiểu
(Chỉnh đọc theo bản Nôm và Quốc ngữ xưa của Nguyễn Văn Sâm 2013)
.
Hỡi ơi!

Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ.
Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn, tên nổi như phao;
Một trận nghĩa đánh Tây, tuy rằng mất, tiếng vang như mõ.
.
Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn; riêng lo nghèo khó.
Chẳng quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chĩn biết ruộng trâu, ở trong làng hộ.

Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa;
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói Mọi như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu;
Hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó.

Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen nầy xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi, chuyến nầy nguyện ra uy bộ hổ.
.
Khá thương thay:
Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh;
Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.
Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn;
Chín chục trận binh thơ, đâu chờ bày bố.
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi;
Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu, nón gõ.
Hỏa hổ đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia;
Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém đặng thằng quan hai nọ.
Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống thúc, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho Ma-tà Ma-ní hồn kinh;
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng pháo nổ.
Những lăm lòng nghĩa lâu dùng;
Đâu biết xác phàm vội bỏ.
Một chắc sa trường rằng chữ hạnh, nào hay da ngựa bọc thây;
Trăm năm âm phủ ấy chữ quy, nào đợi gươm hùm treo mộ.
Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng lụy nhỏ.
Chẳng phải án cướp, án gian đày tới, mà làm binh đánh giặc cũng cam tâm;
Vốn không giữ thành, giữ lũy bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số.
.
Bỡi nghĩ rằng:
Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta;
Bát cơm manh áo của đời, mắc mớ chi ông cha nó.
Vì ai khiến quan quân khó nhọc, ăn tuyết nằm sương;
Vì ai xui đồn lũy tan tành, xiêu mưa ngã gió.
Sống làm chi theo quân t ả đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi ở lính Ma tà, chia rượu chát, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh;
Chẳng thà còn mà chịu chữ hàng Tây, ở với man di rất khổ.
.
Ôi thôi thôi!
Chùa Lão Ngộ năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm;
Đồn Lang Sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ.
Đau đớn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong nhà;
Não nồng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
.
Ôi!
Một trận khói tan;
Ngàn năm tiết rõ.
Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm cho bốn phía mây đen;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đỏ.
Thác đặng trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen;
Thác mà ưng đình miếu để thờ, tiếng hay trải muôn đời ai cũng mến.
Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia;
Sống thờ vua, thác cũng thờ vua, lời dụ dạy đã rành rành, một chữ ấm đủ đền công đó.
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân;
Cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ.
.
Hỡi ôi!Thương thay!
Ai ôi! Thảm thay!.

 

Sắp có trường đại học Harvard tại Việt Nam

Sắp có trường đại học Harvard tại Việt Nam

Khuôn viên của trường Đại học Harvard ở Cambridge, Massachusetts, Hoa Kỳ

Khuôn viên của trường Đại học Harvard ở Cambridge, Massachusetts, Hoa Kỳ

20.08.2015

Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vừa cấp 2,5 triệu đôla cho trường đại học danh tiếng Harvard để chuyển chương trình giảng dạy về chính sách công của trường này tại Việt Nam thành một trường đại học độc lập, phi lợi nhuận, chi nhánh của trường đại học tại Mỹ ở TP HCM.

Trường đại học mới, có tên Fulbright University Vietnam, được mở rộng ra từ chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright hiện tại, vốn là một chương trình thạc sĩ về chính sách công do trường đại học Harvard lập ra vào năm 1994 cùng với Trường đại học Kinh tế TP.HCM. Một phần kinh phí của chương trình học bổng Fulbright là do Phòng Giáo dục và Văn hóa của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ tài trợ.

Trường đại học mới của Harvard, sẽ được xây dựng tại Khu Công nghệ cao TP HCM và dự kiến khai trương vào tháng 9/2016, bao gồm 3 trường là trường Quản lý và Chính sách công, trường Kỹ thuật và Khoa học Ứng dụng và trường Fulbright đào tạo các chương trình cử nhân khoa học xã hội và nhân văn.

Tờ The Crimson trích lời phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ Elaine Clayton cho biết chương trình thạc sĩ về Quản lý và Chính sách công dự kiến sẽ bắt đầu cho sinh viên ghi danh vào học kỳ Mùa Thu năm 2016.

Trường đại học của Harvard đã được Việt Nam cấp phép vào năm ngoái nhưng các nhà quản lý vẫn đang tìm kiếm kinh phí cho dự án này. Mục tiêu gây quỹ là 100 triệu đô-la và sẽ tuyển sinh 2.000 sinh viên trong 5 năm đầu tiên. Tính cho đến lúc, đã có 40 triệu đô-la cam kết tài trợ cho trường.

Các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ nói trường đại học mới của Harvard tại Việt Nam là một bước phát triển quan trọng trong mối quan hệ ngoại giao và hợp tác giáo dục giữa hai nước. Chương trình học bổng Fulbright được lập ra một năm trước khi Hoa Kỳ và Việt Nam chính thức bình thường hóa quan hệ vào năm 1995.

Trong chuyến thăm Việt Nam hôm 6/8, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry cũng nói việc có được trường đại học Fulbright Việt Nam là một điều phi thường và ông cam kết sẽ hỗ trợ hết lòng để biến điều này sớm thành hiện thực.

Theo The Crimson, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, Thời báo Kinh tế Sài Gòn.

Nữ sinh Việt Nam bị bắt ở Nhật vì bỏ rơi con mới sinh

Nữ sinh Việt Nam bị bắt ở Nhật vì bỏ rơi con mới sinh

Nữ sinh Việt bị cảnh sát Nhật bắt giữ vì bị cáo buộc bỏ rơi con gái mới sinh.

Nữ sinh Việt bị cảnh sát Nhật bắt giữ vì bị cáo buộc bỏ rơi con gái mới sinh.

Cảnh sát Nhật Bản đã bắt giữ một thiếu nữ người Việt bị tình nghi bỏ rơi con trên phố sau khi sinh.

Người phụ nữ họ Trương đang theo học tại một trường dạy nghề ở Tokyo, thủ đô Nhật Bản và làm việc bán thời gian vào buổi tối.

Truyền thông Nhật Bản trích dẫn lời cảnh sát cho biết, cô gái 21 tuổi này đã tự sinh nở một mình trước cửa một căn nhà ở Tokyo. Khi đó, cô đang trên đường về nhà từ nơi làm việc vào lúc 2 giờ sáng ngày 6/8.

Một người đưa thư đã phát hiện ra em bé sơ sinh 4 giờ sau đó và đưa bé gái này vào bệnh viện.

Trong đoạn video được đăng tải trên NTVNews, người phụ nữ trẻ với gương mặt phờ phạc và lo lắng bị cảnh sát dẫn đi. Nơi bé gái bị bỏ rơi trước cửa một ngôi nhà nhỏ và nằm ở vị trí khá khuất, ít người qua lại.

Bé gái sơ sinh hiện đang được chăm sóc và bảo vệ.

Người mẹ trẻ nói với cảnh sát rằng cô đã che giấu việc mình mang thai và không có tiền để nuôi đứa trẻ.

Thời gian qua đã xảy ra nhiều vụ việc liên quan tới sinh viên người Việt ở Nhật Bản. Tháng trước, một nam sinh viên 21 tuổi cũng bị bắt vì thực hiện vụ tấn công mạng qua phương thức Tấn công từ chối dịch vụ (DoS).

Nhiều người Việt khác cũng bị bắt vì trộm cắp trong các siêu thị ở Nhật Bản, khiến giới hữu trách phải viết biển cảnh cáo cấm ăn cắp vặt bằng tiếng Việt.

Theo TBS, NTVNews, Thanh Nien News

Chủ nhà kho bị nổ ở Thiên Tân đã móc nối để có chứng nhận an toàn

Chủ nhà kho bị nổ ở Thiên Tân đã móc nối để có chứng nhận an toàn

  • VOA

Truyền thông nước Trung Quốc cho biết các ông chủ có quan hệ lớn của kho chứa hóa chất bị cháy nổ ở thành phố Thiên Tân thuộc miền đông bắc Trung Quốc đã móc nối với các giới chức để có giấy phép an toàn.

Tin tức về cáo buộc tham nhũng này xuất hiện hôm thứ Tư, và chắc chắn sẽ khiến cho công chúng thêm phẫn nộ về vụ cháy nổ đã làm ít nhất 114 người thiệt mạng và mấy trăm người bị thương.

Cựu giám đốc Sinochem, ông Vu Học Vĩ và ông Đổng Xã Huyên, con trai của một giám đốc công an đã qua đời, là hai cổ đông lớn của Công ty Kho vận Quốc tế Thụy Hải, tức là công ty sở hữu nhà kho Thiên Tân, nơi vụ nổ xảy ra.

Trả lời phỏng vấn Tân Hoa Xã, ông Đổng và ông Vu thừa nhận đã dùng quan hệ riêng với các giới chức địa phương để có được “các chứng nhận an tòan về cháy nổ và môi trường.”

Ông Đổng nói: “Tôi có quan hệ riêng với công an và phòng cháy.  Khi cần có chứng nhận kiểm tra an toàn phòng cháy, tôi đến gặp các giới chức cơ quan phòng cháy ở cảng Thiên Tân, đưa hồ sơ cho họ và họ cấp chứng nhận an toàn cho tôi.”

Theo Tân Hoa Xã, ông Đổng và ông Vu cũng tìm cách che giấu việc họ làm chủ công ty bằng cách để tên bạn bè và người thân trên danh sách cổ đông thay vì tên của chính họ.

Hai người này nằm trong số 10 giới chức Ruihai bị cảnh sát câu lưu, trong lúc giới hữu trách điều tra nghi vấn về các tiêu chuẩn an toàn yếu kém có thể đã góp phần gây ra vụ cháy nổi.

Tờ Nhân dân Nhật báo hồi tuần trước nói rằng công ty Ruihai hoạt động không có giấy phép làm việc với các hóa chất nguy hiểm nhờ vào một lỗ hổng trong quản lý của chính quyền.

Hôm thứ Ba, cơ quan theo dõi chống tham nhũng của Trung Quốc nói rằng người đứng đầu cơ quan giám sát an toàn của Trung Quốc đang bị điều tra về việc cho phép những công ty hoạt động với các hóa chất độc hại mà không cần giấy phép.

Vụ cậu bé ‘muốn làm Bộ trưởng Giáo dục’ tiếp tục gây tranh cãi

Vụ cậu bé ‘muốn làm Bộ trưởng Giáo dục’ tiếp tục gây tranh cãi

VOA

Em Vũ Thạch Tường Minh phát biểu trong buổi hội thảo ra mắt sách Văn và Tiếng Việt lớp 6 của nhóm Cánh Buồm tại Hà Nội hôm 12/8. (Ảnh chụp từ clip trên youTube).

Em Vũ Thạch Tường Minh phát biểu trong buổi hội thảo ra mắt sách Văn và Tiếng Việt lớp 6 của nhóm Cánh Buồm tại Hà Nội hôm 12/8. (Ảnh chụp từ clip trên youTube).

Tuyên bố “giáo dục Việt Nam bây giờ con thấy là quá thối nát rồi” của một cậu bé học lớp Tám vẫn gây ra các phản ứng trái chiều trên mạng xã hội.

“Giáo dục Việt Nam không cần cải cách gì nữa, giáo dục Việt Nam cần được cách mạng. Đó mới là điều các vị trong Bộ Giáo dục nên làm. Còn nếu bây giờ các vị không làm thì đến khi nào con thành Bộ trưởng Bộ Giáo dục con sẽ làm”, em Vũ Thạch Tường Minh, 14 tuổi, nói như vậy trong buổi hội thảo ra mắt sách Văn và Tiếng Việt lớp 6 của nhóm Cánh Buồm tại Hà Nội hôm 12/8.

Trong khi phe ủng hộ em Minh cho rằng em có suy nghĩ già dặn, nói hộ những trăn trở của nhiều người, thì phe bên kia lại cho rằng em “bị mớm lời” và “được tung hê quá mức”.

Về sự chú ý của dư luận mấy ngày qua, nhà giáo Phạm Toàn, người sáng lập nhóm gồm các nhà nghiên cứu với mong muốn cải tiến sách giáo khoa ở Việt Nam, nói với VOA tiếng Việt:

“Em ấy phát biểu một cách hồn nhiên, nhưng bây giờ có những người lại bảo là chúng tôi bố trí. Em bé ấy có nhận thức của nó rất tốt. Ai thông minh thì nhận ra mà ai hằn học thì nhìn thấy cái khác. Thế thôi. Ngay cả những người ác ý nói rằng chúng tôi bố trí thì họ cũng hết lý rồi. Thế còn em bé nó có một câu nói rất hay, tức là Bộ Giáo dục không cần dùng toàn bộ bộ sách này, nhưng mà nên dùng tinh thần ấy, cách làm ấy. Nhưng mà ai thông minh thì mới thấy được ý hay còn ai không thích những ý hay thì cũng đành thua thôi. Ý của nhóm Cánh buồm là không tham gia vào các cuộc thảo luận đấy. Chúng tôi quá thiếu thời giờ để làm nhiều việc.”

Ông Hoàng Anh Tú, một người làm báo ở Việt Nam, viết trên trang Facebook: “Khi cậu bé 14 tuổi nói rằng Giáo Dục Việt Nam thật là thối nát thì em đã thành một Lê Văn Tám về kể cả nghĩa đen lẫn nghĩa xám!

Nghĩa đen là em đã trở thành ngọn đuốc sống làm bùng lên cái ‘kho khốn khổ’ mang tên Giáo Dục Việt Nam!”

Nhà báo này nói tiếp: “Em khiến rất nhiều người lớn hả hê! Nhưng về nghĩa xám, em rất có thể trở thành một huyền thoại tự sướng, không có thật, như chính anh Lê Văn Tám khi mà truyền thông đang tung hô em!!!”

Trong khi đó, một bạn đọc tên Long của VOA Việt Ngữ viết: “Tôi rất mừng vì có một thế hệ trẻ đã nhận ra và bất mãn với nền giáo dục cộng sản. Hy vọng Việt Nam sẽ trở nên tốt đẹp hơn cho cả dân tộc và trong cái nhìn của bạn bè thế giới”.

Theo nhà giáo Phạm Toàn, các bình luận “chọc ngoáy” trên mạng quanh ý kiến của em Tường Minh thì số đông là của “dư luận viên”.

Về tin tức cho biết gia đình của cậu bé đã viết thư yêu cầu nhóm Cánh buồm bảo vệ con mình, ông Toàn nói thêm:

“Đầu óc nó như thế bây giờ ai tẩy đi được hộ? Nói chung gia đình và bọn tôi không sợ gì cả. Thằng bé này rất bình thường và rất bản lĩnh. Nó giỏi đấy. Chúng tôi nói đùa với nhau rằng bây giờ làm thế nào để tẩy cho cái não của nó đừng tiến bộ nữa. Chả việc gì phải bảo vệ nó cả. Ai làm gì nó? Tự nó tự vệ được ấy mà. Không sợ đâu.”

VOA Việt Ngữ đã liên lạc với một thành viên của gia đình em Minh để hỏi xem cuộc sống của em bị tác động ra sao sau khi đoạn ghi âm lời nói mạnh mẽ của em lan truyền trên mạng, nhưng thành viên này nói là “không muốn đào sâu” vụ việc.

Người Công giáo đi tiên phong trong nổ lực cứu cấp tại Thiên Tân Trung Hoa.

Người Công giáo đi tiên phong trong nổ lực cứu cấp tại Thiên Tân Trung Hoa.

Trần Mạnh Trác


Những tình nguyện viên Công Giáo là những người đầu tiên đã ứng phó với vụ nổ khủng khiếp trong đêm thứ tư tại khu công nghiệp cuả hải cảng Thiên Tân, nằm ở vùng đông bắc cuả thành phố Bắc Kinh cuả Trung Quốc. Vụ nổ đã gây thiệt mạng cho ít nhất là 114 người và gây thương tích cho hơn 700 người nữa. Đó là chưa kể đến 70 người đang mất tích, mà hầu hết là những nhân viên cứu trợ đầu tiên, đang đối phó với vụ nổ thứ nhất thì thình lình một vụ nổ thứ hai do phản ứng hoá học xẩy ra.

Ngay sáng hôm sau vụ nổ, Trung tâm Dịch vụ Xã hội cuả Giáo Phận Thiên Tân đã huy động 60 tình nguyện viên Công Giáo để hỗ trợ cho chính quyền địa phương trong nỗ lực cứu hộ và cứu trợ. Họ nhận nhiệm vụ phân phối nước uống, quần áo và các vật dụng đến các khu định cư tạm thời. Họ hiểu rõ công việc tình nguyện này là nguy hiểm, có nhiều nguy cơ bị ô nhiễm hóa học, nhưng đã không ngần ngại đi vào các khu vực bị phá hủy, và chính quyền đã xử dụng họ thành nhiều nhóm nhỏ, cắt cử họ đến các trại cứu trợ và các bệnh viện.

  • Nhà thờ St Joseph, Thiên NTân

Một linh mục ‘chui’ đã nói với cơ quan thông tấn cuả Công Giáo là UCANews rằng ngay sau vụ nổ, người Công Giáo đã tụ tập và cử hành Thánh Lễ để cầu nguyện cho “người chết, người bị thương và gia đình của họ.” “Đây là điều duy nhất mà chúng tôi có thể làm,” vị linh mục nói.

Tại nhà thờ St Joseph ở trung tâm thành phố Thiên Tân, Cha Xứ (được chính quyền nhìn nhận) là LM Zhang Liang cũng đã kêu gọi giáo dân đóng góp và đưa các anh chị em trong ca đoàn đi hiến máu.

Hôm Chuá Nhật, Đức Thánh Cha Phanxicô đã đề cập đến thảm hoạ tại Thiên Tân. Ngài dâng lời cầu nguyện cho nạn nhân và những người bị ảnh hưởng, và ban phép lành cho mọi người đang tham gia vào công tác cứu trợ.

KINH – TẾ – HỌC PHẬT – GIÁO

KINH – TẾ – HỌC   PHẬT – GIÁO

Đoàn Thanh Liêm

‘Chánh Nghiệp’ là một trong tám ‘con đường tu’ rất căn bản và quan trọng của ‘Bát Chánh Đạo’ nhằm giúp người tu dứt được những nguyên nhân xa gần của mọi khổ đau trong đời sống thường ngày. Đức Phật đã thuyết giảng đề tài này ngay sau khi Ngài thành đạo, rồi tiếp tục suốt 45 năm hoằng pháp, kể cả những ngày cuối đời                                                    

“Chánh nghiệp”  là những nghề nghiệp, việc làm chân chính, ngay thẳng, dựa vào chính sức lực của tim óc và bắp thịt của mình để mưu cầu cuộc sống. Vì thế, ta có thể nói rằng đạo Phật đã có một hướng đi đúng đắn làm nền tảng cho bộ môn Kinh-Tế-Học Phật-Giáo.

Tại những quốc gia mà đa số dân chúng tin theo đạo Phật thường bảo rằng họ muốn gìn giữ đức tin theo chánh pháp của Phật giáo. Ở Miến Điện, người dân thường nói rằng “Chúng tôi không thấy có sự đối nghịch nào giữa giá trị tôn giáo và sự tiến bộ của kinh tế cả. Sự an lạc của ‘thân’ và sự thanh tịnh của ‘tâm’ vẫn thường trợ duyên cho nhau mà không hề có tương phản nào” hoặc là “Chúng tôi có thể kết hợp những giá trị tôn giáo và truyền thống tâm linh với những lợi ích có được từ  kỹ thuật tân kỳ rất thành công.” hay là “Người dân Miến Điện chúng tôi có bổn phận phải biết dung hợp một cách hài hòa giữa ‘mộng’ và ‘thực’ trong đức tin của mình, và suy nghĩ đó vẫn luôn luôn mang lại kết quả viên mãn.

Cũng thế, có những  quốc gia khác lại cho rằng họ có thể theo mẫu mực thiết lập kế hoạch phát triển kinh tế hiện đại, và rồi sẽ mời gọi các kinh tế gia từ những quốc gia tân tiến đến hướng dẫn họ phác họa chương trình có tầm cỡ để phát triển kinh tế theo những loại như ‘Kế Hoạch Ngũ Niên’ chẳng  hạn. Và không ai có thể ngờ rằng phương cách sống theo đạo Phật, mà ta có thể gọi là kinh tế học Phật giáo, giống như nếp sống duy vật chất hiện đại, lại có thể mang đến sự thăng tiến như thế.

Ngay cả những kinh tế gia, cũng như hầu hết mọi chuyên gia khác, vẫn thường loay hoay trong cái mù quáng có tính siêu hình của mình mà cứ  cho đó là khoa học của sự thật tuyệt đối cố định, và không được định hình từ trước. Có một số vị lại cho rằng những  luật kinh tế đều không mang ‘tính siêu hình’ hay ‘tính giá trị’ như định luật của trọng lực. Tuy vậy, chúng ta cũng không nên bận tâm đến những cuộc tranh cãi về phương pháp luận mà chỉ nên suy gẫm về một số điều căn bản nhất rồi thử nhìn sự việc bằng cặp mắt của một kinh tế gia hiện đại và một kinh tế gia phật giáo để xem sự thể như thế nào.

Gần như ai cũng đồng ý rằng sức lao động của con người chính là cội nguồn căn bản của mọi sự giàu có trên đời. Trong khi đó thì những  kinh tế gia lại cho rằng ‘sức lao động’ hay việc làm lao công chỉ đáp ứng phần nào nhu cầu rất bình thường của con người. Còn đối với một chủ nhân ông của thời kỳ hiện-đại-hóa thì phải giảm đến mức tối thiểu sức lao động này, và nếu cần thì làm triệt tiêu luôn, để làm giảm giá thành sản phẩm. Nhưng với cách nhìn của người công nhân thì đó là sự bất công, vì khi lao động , con người đã hy sinh thời gian rảnh rỗi và sự thoải mái của đời mình để đổi lấy đồng lương, coi như là một đền bù cho sự hy sinh, mất mát đó.

2

Vì thế nên người chủ chỉ muốn có sản phẩm ra khỏi nhà máy mà chỉ phải sử dụng thật ít sức lao động của thợ thuyền, còn giới công nhân thì mong được làm việc để lãnh lương và không phải lo bị thất nghiệp.

Trong thực tế, không dễ gì áp dụng một trong hai phương cách trên và phải loại bỏ phương cách kia, mà nên dung hòa bằng cách biết sử dụng  máy móc ở một mức độ thích hợp nhằm giảm bớt công việc nặng nhọc cho người lao động, như thế năng suất lao động sẽ tăng lên và sản phẩm sẽ xuất xưởng nhiều hơn. Đồng thời cũng nên áp dụng chế độ khen thưởng để khích lệ tinh thần làm việc. Phương pháp chia việc ra từng phần nhỏ để tăng thêm việc, và tạo thêm công ăn việc làm cho nhiều người có ít tay nghề. Sự thật thì cách vận hành này cũng đã được áp dụng từ thời xa xưa.

Khi sắp xếp lao động , người phật tử thường nhìn đến ba phương diện : trước tiên là tạo cơ hội cho công nhân thi thố tài năng, thứ đến là giúp cho mỗi người cùng cộng tác với  các đồng nghiệp để tự xóa dần tính vị kỷ,(chấp ngã), và sau cùng là mang đến nhiều phúc lợi để cuộc sống được an lạc trong tự tại. Và như thế, phương cách này nên được áp dụng liên tục và mãi mãi.

Nếu sự tổ chức công việc mà luộm thuộm, không hợp lý, không gây được hứng khởi, mà chỉ tạo căng thẳng tinh thần, dễ gây ra bất đồng, mất đoàn kết và đưa đến bạo động, nghĩa là chỉ tạo điều kiện cho tội lỗi phát sinh. Nếu người chủ thiếu lòng từ bi, chỉ quan tâm đến sản  lượng mà không để ý gì đến đời sống vật chất cũng như tinh thần của người thợ là đã cố ý hay vô tình làm thui chột ý thức muốn hướng về chân, thiện, mỹ của họ. Mọi cố gắng  đem sự thoải mái vào việc làm sẽ giúp cho người thợ thấy cuộc sống có ý nghĩa hơn. Đó là những yếu tố rất cần thiết cho thực tế cuộc sống có đạo lý.

Cũng từ nhận thức đó, người phật tử đã thấy rõ sự khác biệt giữa việc sử dụng máy móc như công cụ phục vụ con người, làm thăng hoa cuộc sống,  và việc dùng con người làm nô lệ cho máy móc. Để làm sáng tỏ ý nghĩa này, Ananda Coomaraswamy , một người rất am tường về nét đặc thù của nét hiện đại phương Tây và nét cổ truyền phương Đông đã phân tích : “Một người thợ thủ công giỏi bao giờ cũng thấy được sự khác biệt giữa một chiếc máy và một dụng cụ cầm tay. Cái khung cửi dệt thảm được chuẩn bị một cách cẩn thận, giúp cho người thợ khéo tay, sử dụng thật tài tình các ngón tay của mình đê luồn lách đưa từng sợi chỉ màu khác nhau  với con thoi tay để có thể dệt một tấm thảm đạt đến tuyệt đỉnh của nghệ thuật, diễn tả hết nét đẹp tuyệt vời của văn hóa dân tộc anh, mà chiếc máy dệt tân kỳ thì không làm sao diễn đạt được nét tuyệt mỹ ấy.” Từ cách suy nghĩ này ta có thể phân biệt được kinh tế học Phật giáo và kinh tế học hiện đại. Người phật tử thấy được cái tinh túy của  văn minh nhân loại trong sản phẩm hơn là chấp chặt vào sản lượng trong văn minh cơ khí hóa. Tính cách nhân bản này, thực sự đã hình thành từ khi con người đã biết sản xuất. xác định được nhân cách và nhận thức chuộng sự tự do muốn chọn cho mình một phương cách sản xuất. Một triết gia, cũng là một nhà kinh tế người Ấn Độ Ông J.C.Kumarappa đã đúc kết rằng :

3

“Nếu mọi người biết quí trọng đúng mức đặc tính của việc làm, thì sẽ thấy  ra giá trị cao hơn trong tương quan nhân quả của việc và sản phẩm, giống như sự liên hệ giữa sức khỏe của cơ thể con người và thực phẩm được hấp thụ. Nhận thức đó sẽ nuôi dưỡng và tạo duyên cho con người sáng suốt hơn, thăng tiến khả năng sản xuất của mình, hun đúc thêm tinh thần cầu tiến và cũng biết tự chế lòng ham muốn thấp hèn để luôn luôn có chỗ đứng xứng đáng trong mọi giai tầng của công việc. Đồng thời, khả năng thi thố cũng được nâng cao để thể hiện tư cách, phẩm giá của mình.”

Nếu một người bị mất việc, thì anh ta sẽ rất lo lắng và thất vọng, vì không những chỉ mất đồng lương, mà còn thiếu cả nguồn sống từ vật chất đến tinh thần là những giá trị khó có gì thay thế được. Một kinh tế gia thời nay có thể tính toán hết sức chuẩn xác làm sao để mọi người đều có việc làm cố định và được hưởng lương, hoặc một cách kinh tế hơn, là  bảo đảm được đồng lương trong khi việc làm có thể thay đổi, biến động theo tình thế, v.v.. Tiêu chuẩn căn bản của sự thành công trong kinh doanh hiện nay vẫn là tổng sản lượng hàng hóa phải xuất xưởng trong một thời gian qui định.

“Nếu mức độ tiêu thụ hàng hóa bị giảm sút nghiêm trọng, thì sẽ khó tránh được tình trạng phải sa thải công nhân ở những mức độ khác nhau, hoặc vừa phải hoặc ào ạt” như giáo sư Gaibraith đã viết trong tạp chí The Affluent Society, và hơn thế nữa: “Nếu vì sự ổn định của lợi nhuận mà phải chấp nhận sa thải công nhân thì phải cung cấp đủ nhu yếu phẩm cho những người bị mất việc, để họ có thể giữ được mức sống bình thường, như một biện pháp cần thiết không thối thoát được”.

Theo cách nhìn của người phật tử thì họ cũng thấy được trong thực tế thì còn nhiều người vẫn coi trọng sản phẩm hơn giá trị con người, và số lượng hàng hóa được tiêu thụ vẫn quan trọng hơn phẩm chất của sản phẩm mang tính sáng tạo. Nghĩa là đã xem nhẹ cái tài hoa khéo léo của người thợ, hay nói một cách khác, là hạ thấp giá trị nghệ thuật của người thợ đi, để tôn vinh cái gì ô uế, xấu xa theo thị hiếu thường tình. Điều quan trọng hơn hết trong quan niệm kinh tế của phật giáo là làm sao cho mọi người đều có công ăn việc làm ổn định để kiếm sống. Đó không phải là một cường điệu trong sự tạo việc làm, hoặc sự gia tăng tối đa sản lượng. Khi những  người phụ nữ của gia đình phải đi tìm việc ở các văn phòng hay những nhà máy thì đó là chỉ dấu thất bại nghiêm trọng của kinh tế. Cụ thể như là phải nhìn thấy các bà mẹ đang làm việc trong xưởng máy và bỏ các đứa con của mình  chạy chơi rong ngoài đường phố là không hợp lý một chút nào trong ánh mắt của nhà kinh tế phật giáo. Còn đối với các kinh tế gia thời hiện đại thì bất kỳ ai là người thợ giỏi thì đó là người chiến sĩ can trường của mặt trận sản xuất.

4  Trong khi những người ham sống xa hoa, mong muốn có nhiều  hàng hóa để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng, thì người phật tử chân chính chỉ nghĩ đến sự giải thoát khỏi những vướng mắc vật chất thường tình. Dựa vào con đường “Trung Đạo” của Phật giáo, người phật tử sẽ không thấy có gì là khúc mắc trong sự an lạc của tự thân . Sự giàu có không có chỗ đứng trong sự giải thoát, mà đó chỉ là vướng víu trở ngại mà thôi. Họ không cho hưởng thụ vật chất là thú vui, mà đó chỉ là những thèm muốn của dục vọng thấp hèn. Nét căn bản của kinh tế  phật giáo là tính giản dị và tinh thần bất bạo động. Từ cách nhìn của một  người làm kinh tế  phật giáo thì tính mầu nhiệm trong cách sống đạo hạnh có thể làm toát ra sự hợp lý của từng mẫu mực – có khi với những phương tiện bé nhỏ đến bất ngờ lại có thể mang đến các kết quả mỹ mãn thật tuyệt vời.

Đối với một kinh tế gia hiện đại thì điều này thật là khó hiểu. Ông ta thường đo lường mức sống thường ngày bằng số lượng hàng hóa tiêu thụ hằng năm của một người, và cho rằng bao giờ một người biết tiêu thụ nhiều thì đời sống của anh ta phải tốt hơn so với một người ít biết tiêu thụ.

Một kinh tế gia phật giáo thì nghĩ khác, và cho rằng sự tiêu dùng phung phí là không hợp lý, vì như thế là trái với sự quân bình của con người. Mục tiêu mà người phật tử phải đạt được chính là sự an lạc tối thượng của thân tâm, và đó phải là kết quả của sự hưởng thụ có chừng mực. Vì thế, nếu ta chỉ cần quần áo để mặc đủ ấm đối với thời tiết và đủ đẹp khi được nhìn thì hà tất phải chạy theo thời trang để phải vứt bỏ đi một cách uổng phí những quần áo không còn hợp thời nữa. Như thế, ta sẽ có đủ thời gian, sức khỏe và phương tiện để chăm sóc làm đẹp cuộc sống tinh thần, nghệ thuật và tâm linh. Thật là không kinh tế chút nào khi chúng ta phải mất nhiều thời gian, công sức và tiền bạc để nuôi dưỡng những kỹ nghệ may mặc tây phương trong khi còn quá nhiều người nghèo trên khắp địa cầu không có đủ mảnh vải để che thân và cần sự giúp đỡ, chia xẻ của chúng ta.  Kinh tế học phật giáo đã nghiên cứu một cách có hệ thống nhằm chấm dứt mọi nhu cầu xa xỉ bằng ý thức “tri túc “ và “thiểu dục”.

Một mặt khác thì kinh tế học hiện đại lại quan niệm rằng sự tiêu thụ là cứu cánh tối thượng và cũng là mục tiêu chính của mọi sinh hoạt xã hội, nên phải sử dụng nhiều đất đai,cũng như sức lao động và vốn liếng để làm phương tiện phát triển sản xuất.

Nói tóm lại, tùy vào cách nhìn của hai nền kinh tế phật giáo và hiện đại, ta thấy được sự dị biệt tùy thuộc ở giá trị tinh thần và vật chất của hai quan niệm này về sự tiêu thụ hàng hóa. Từ đó, ta cũng biết được áp lực đè nặng trên vai của người dân tại hai nước Miến Điện và Hoa Kỳ khác biệt như thế nào. Một nơi thì mọi người được sống thanh thản, còn nơi kia thì sự  căng thẳng cứ triền miên, mặc dù ở Miến Điện tỉ lệ sử dụng máy móc thay cho sức người lao động so với Hoa Kỳ thì thật là khiêm tốn.

Ai cũng biết rằng tính bất bạo động có liên hệ rất mật thiết với cách sống giản dị, nên khi nhu cầu tiêu dùng ở mức độ vừa phải thì ta sẽ thấy tinh thần được thảnh thơi, bớt được nhiều nỗi lo toan, chạy vạy cho có đủ phương tiện tiền bạc nhằm thỏa mãn ý thích.  Như thế là đáp ứng được ý lời Phật dạy: “luôn tránh điều xấu ác, làm nhiều điều thiện lành,

và giữ tâm thanh tịnh “

5

Củng vì tài nguyên thiên nhiên ở khắp mọi nơi đang cạn dần, và nếu mọi người đều tự bớt nhu cầu tiêu dùng thì sẽ giúp làm giảm thiểu được những tranh giành, cướp giật đầy tính bạo hành mà ta thường thấy xảy ra ở những quốc gia, dân chúng đang sống dựa vào nền kinh tế  toàn cầu.

Mọi nền sản xuất khởi đi từ tài nguyên của địa phương nhằm thỏa mãn nhu cầu của dân chúng cùng sống trong vùng, thì đó là phương cách rất thích hợp với quan điểm kinh tế Phật giáo. Nếu phải tùy thuộc vào nguồn hàng hóa nhập từ một nơi xa xôi, và được sản xuất bởi những người xa lạ thì đó là những trường hợp ngoại lệ và chỉ được áp dụng  rất giới hạn trong  cộng đồng phật giáo.

Chính vì kinh tế gia hiện đại chấp nhận một sự tốn kém khi để một người phải di chuyển thật xa từ nhà đến nơi làm việc, và cũng không hợp với tiêu chuẩn của nếp sống cao, nên kinh tế gia phật giáo đã thấy ra đó là một sự thất bại khi phải dùng nhân sự đến từ một nơi xa xôi để thỏa mãn theo ước muốn của họ, thay vì sử dụng những người sống trong vùng lân cận.

Thống kê kinh tế hiện đại thường dựa vào sự tăng trưởng của các con số ‘tấn hàng hóa’ hoặc ‘dặm đường vận chuyển’ tính trên đầu người của dân số mỗi quốc gia. Phương pháp này được xem như là tiêu chuẩn của sự phát triển kinh tế, thì những số liệu thống kê này lại trở thành chỉ dấu của sự tàn hại các mẫu mực nhận thức về nhu trong cuộc sống của người có đức tin Phật giáo .

Một nhận định rất nổi cộm về sự khác biệt giữa hai nền kinh tế này đối với việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên của trái đất. Bertrand de Jouvenel, một triết gia về chính trị rất nổi tiếng người Pháp đã định hình “Con người Tây phương” theo lời mô tả rõ ràng của một kinh tế gia hiện đại là:

Ông ta có khuynh hướng không kể bất kỳ thứ gì là phí tổn,  mà chỉ chú tâm vào sự nỗ lực của con người, ông ta có vẻ như không màng đến tài nguyên mà mình đã phí phạm, và tệ hại hơn nữa, là có bao nhiêu sinh linh mà ông ta đã hủy diệt. Ông ta tỏ vẻ như không cần biết rằng nếp sống của con người  là một phần lệ thuộc vào một hệ thống kinh tế gồm nhiều hình thái của đời sống. Vì thế giới này như bị chi phối bởi những thành phố mà ở đó người ta bị tách ra từ hình thái nào đó của đời sống không phải là tính người, và cảm giác về những gì là sở hữu của hệ thống kinh tế coi như là đã mất hẳn. Điều này đưa đến những hệ quả rất tệ hại không lường trước được trong cách hành xử đối với những thứ mà con người phải rất cần đến, giống như đối với nước uống và cây rừng vậy .

6

Hơn nữa, đức Phật cũng truyền dạy  mọi người nên đối xử từ bi  không những chỉ đối các sinh vật như loài người và động vật mà  cả với cây cỏ nữa. Mỗi phật tử nên phát tâm thường xuyên trồng thêm cây và chăm bón  cho  đến khi cây có đủ sức tự lớn mạnh. Nhìn vào sự kiện này, người phật tử có thể xác định tính độc lập của nền kinh tế, nghĩa là không cần sự trợ giúp nào từ bên ngoài mà vẫn có thể tự phát triển. Có nhiều  quốc gia ở vùng đông nam Á châu (và cả một số các vùng khác trên thế giới) vẫn bị chậm tiến một cách tủi hổ vì coi thường việc trồng cây gây rừng.

Còn kinh tế học hiện đại thì không để ý vào sự dị biệt giữa những vật liệu tái sinh được và không tái sinh được, mà chỉ lo tính cho quân bình và đủ số lượng của những vật liệu ấy bằng cách dùng trị giá của đồng tiền để chi trả. Vì thế, khi phải sử dụng những loại nhiên loại có thể thay thế cho  nhau như than đá, dầu hỏa, cây rừng, hoặc sức nước, thì các kinh tế gia hiện đại chỉ nói đến trị giá tương đương của từng loại để phân biệt. Và dĩ nhiên loại nào rẻ nhất sẽ được ưu tiên dùng đến, vì nếu không là như thế thì chẳng hợp lý và kinh tế chút nào! Theo quan điểm của kinh tế gia phật giáo thì dĩ nhiên không phải là như thế, vì  sự khác biệt giữa hai loại nhiên liệu không tái sinh được như dầu hỏa hay than đá và tái sinh được như cây rừng hay sức nước thì không thể được xem xét quá giản dị như thế. Đối với loại nhiên liệu không tái sinh được thì chỉ nên dùng khi thực sự cần thiết, và phải hết sức cẩn trọng vì lý do cần được bảo tồn. Sử dụng bừa bãi và lãng phí loại nhiên liệu này là một hành động mang tính bạo động. và để chu toàn việc gìn giữ tính bất bạo động trên trái đất này là điều khó  đạt được. Bổn phận của mỗi con người là phải hướng đến mục đích lý tưởng là làm bất cứ việc gì cũng không được bạo động.

Chính như một kinh tế gia hiện đại ở Âu châu có thể không nghĩ rằng nếu tất cả tài sản nghệ thuật đã bán sang Mỹ với giá hấp dẫn thì không phải là một động thái thành công về kinh tế. Còn kinh tế gia phật giáo thì nhấn mạnh rằng nếu dân chúng chỉ sống dựa vào những loại nhiên liệu không tái sinh được như dầu hỏa hay than đá thì cũng như là sống bám vào tư bản thay vì dựa vào thu nhập của chính mình. Nếp sống ấy sẽ không bao giờ được thường xuyên ổn định mà phải được điều chỉnh sao cho được thích hợp một cách tạm thời. Vì nếu những nguồn nhiên liệu như than đá, dầu hỏa và khí đốt được khai thác quá đáng và phân bố không đều đặn trên toàn cầu, thì ắt hẳn đó là một hành động có tính  bạo  lực đối với thiên nhiên và sẽ không tránh đưa tới sự bạo động giữa con người.

Riêng sự kiện này thôi cũng là chất liệu cho những quốc gia phật giáo phải suy nghĩ. Cho dù họ không quan tâm gì đến những giá trị tôn giáo và tâm linh trong truyền thống của  mình, họ vẫn rất mong được ôm cả chủ nghĩa duy vật của kinh tế học hiện đại càng nhanh càng tốt. Trước khi cởi bỏ được quan niệm kinh tế học phật giáo, vì đó chỉ là một giấc mơ muốn ‘trở về cố hương’ không hơn không kém, thì họ cũng rất muốn sẽ đi được trên  con đường phát triển của nền kinh tế hiện đại, và rồi sẽ dẫn họ đến một nơi mà họ muốn tới.

Dẫn chứng ở phần cuối của tác phẩm đáng khích lệ của mình là quyển ‘The Challenge of Man’s Future ‘giáo sư Harrison Brown ở viện kỹ thuật California đã đánh giá rằng:

7

Như chúng ta thấy một cách căn bản rằng xã hội công nghiệp thì không còn ổn định nữa, mà phải bị biến dạng thành một hình thái mang tính nông nghiệp, và trong  đó,  những điều kiện cho tự do cá nhân cũng không còn chỗ đứng với khả năng tránh được những tình trạng bị áp bức bởi một hình thái tổ chức chặt chẽ với sự kiểm soát độc đoán. Thật vậy, khi  chúng ta quan sát tất cả những khó khăn có thể hăm dọa sự sống còn của nền văn minh công nghiệp, mà ta đã biết từ trước, thì thật là không dễ gì tìm ra phương cách để vẫn giữ được sự ổn định của nó cho đến cuối và bảo toàn được sự tự do cá nhân như một dung hợp hài hòa.

Cho dù hiện tượng này đã không còn nữa trong cách nhìn dài hạn, nhưng ta vẫn phải đối diện với vấn đề tức thời là liệu “sự hiện đại hóa”- vẫn đang tồn tại bất chấp những giá trị tôn giáo và tâm linh- có còn thực sự sản sinh được những hệ quả chấp nhận được hay không. Những khối lượng được thấy được thì thật là kếch xù, nhưng hậu quả thì cũng thật là khủng khiếp – nền kinh tế nông thôn thì đã sụp đổ, tình trạng thất nghiêp thì lan tràn khắp mọi thành phố và quốc gia, còn sự tăng trưởng tính vô sản thành phố thì không có khả năng nuôi dưỡng được con người cả phần thể chất lẫn cả tâm hồn nữa.

Dù cho ai còn tin tưởng rằng sự tăng trưởng kinh tế là quan trọng hơn những giá trị tôn giáo và tâm linh, thì dưới ánh sáng của cả kinh nghiệm thực tiễn trong hiện tại và viễn ảnh tương lai dài hạn, việc nghiên cứu kinh tế học phật giáo vẫn rất cần được quan tâm. Vì đó không phải là việc chọn lựa giữa “sự lớn mạnh hiện đại” và “sự trì trệ cổ điển”, mà là vấn đề tìm ra một con đường đúng cho sự phát triển. Đó chính là con đường “Trung Đạo” giữa sự thờ ơ của các “sứ giả duy vật” và sự bất động của các “nhà tồn cổ”. Hay nói một cách ngắn gọn là tìm cho ra con đường của“Chánh Nghiệp”.

Bài 2 – Giới thiệu sách “Small is Beautiful”

Bài 2  –  Giới  thiệu  sách  “Small  is  Beautiful”

Tác  giả  : E F Schumacher

( xuất bản lần đầu : Năm 1973)

Đòan Thanh Liêm.

Như đã có dịp trình bày nơi bài 1 trước đây, cuốn sách “Small is Beautiful” đã được tờ New York Times xếp vào lọai “100 cuốn sách có ảnh hưởng nhất” kể từ sau thế chiến hai ( the most influential books). Và sau 30 năm kể từ khi ra mắt độc giả, thì đã lưu hành được tới trên một triệu cuốn riêng về ấn bản tiếng Anh; đó là chưa kể đến các bản dịch ra nhiều ngôn ngữ khác trên thế giới. Tác giả Schumacher là một kinh tế gia đã từng làm việc lâu năm trong ngành quản lý về than đá tại Anh quốc, đặc biệt trong lãnh vực thống kê, nên ông đã đưa ra những số liệu khá vững chắc và khả tín để minh họa cho lý luận của mình. Xuyên suốt qua gần 300 trang sách, tác giả đã lần lượt trình bày suy nghĩ và tìm kiếm của mình trong suốt 40 năm vừa học tập, làm việc, trao đổi và nghiên cứu của mình về những vấn đề căn bản của nhân sinh trên phạm vi tòan cầu. Người đọc có thể thấy tác giả đã gửi gấm vào tác phẩm tất cả tài năng trí tuệ và tấm lòng tha thiết nóng bỏng đối với cuộc sống của con người, mà phần đông đang là nạn nhân khốn khổ của cái đường lối sai lầm vì coi nhẹ giá trị đạo đức nhân bản và nhân ái của giới điều hành guồng máy kinh tế tại chính các quốc gia tiền tiến trong thế giới hiện đại. Có thể coi cuốn sách là “lời cảnh báo” về mối nguy cơ trầm trọng đang đe dọa cuộc sống của nhân lọai ngày nay, và đồng thời tác giả cũng khơi mào cho việc tìm kiếm một lối thóat khả dĩ cho con người, đặc biệt là cho hàng tỉ con người kém may mắn (underpriviledged) trong các quốc gia được liệt kê vào lọai “ đang phát triển” ( developing countries)

Nhan đề chính của cuốn sách là “Small is Beautiful” lại được kèm theo câu phụ diễn cho thêm rõ ý nghĩa nữa : “ Economics as if People Mattered”, xin tạm dịch là “Kinh tế học Dân Vi Quý”. Và riêng trong ấn bản năm 1999, thì lại còn kèm theo nhiều bình luận của các thức giả đương thời được in bên lề các trang sách nữa. Bài giới thiệu này chủ yếu dựa vào ấn bản năm 1999, nhân kỷ niệm 25 năm ngày ra mắt ấn bản đầu tiên năm 1973.

Sách được trình bày thành 4 phần trong 19 chương như sau  :

Phần 1  :  Thế giới hịên đại      (Chương 1-5)

Phần 2  :  Tài nguyên               (Chương 6-10)

Phần 3  :  Thế giới thứ ba         (Chương 11-14)

Phần 4  :  Tổ chức và Sở hữu   (Chương  15-19).

Nói chung thì sau trên 30 năm, các luận đề do Schumacher nêu ra trong cuốn sách vẫn còn giữ được tính cách thực tiễn khách quan và được coi như những gợi ý rất sâu sắc cho sự thảo luận và tìm kiếm của giới hàn lâm, cũng như của công chúng có sự quan tâm đến vấn đề sinh tử của con người trong bối cảnh văn hóa xã hội của thế kỷ XXI hiện nay.     Nhằm trình bày sáng sủa, gọn gàng tư tưởng của tác giả, người viết xin được tóm gọn trong mấy luận điểm chính yếu được lựa chọn như sau đây :

1/  Hai triệu ngôi làng trong thế giới thứ ba  :  Làm sao mà phát triển?

Schumacher đưa ra con số hai triệu ngôi làng trong thế giới thứ ba mà gồm các quốc gia đang phát triển, với bình quân mỗi làng có 1000 người. Như vậy là trong 2 triệu ngôi làng, thì có đến 2000 triệu người (2 tỉ), tức là tương đương với dân số ở mức nghèo túng trên thế giới vào thập niên 1960 lúc tác giả viết cuốn sách này. Tình trạng sinh sống của người dân tại các vùng quê như ở Ấn độ đã được Schumacher rất lưu tâm quan sát, tìm hiểu và cố gắng đưa ra một phương thức kiến hiệu và hợp lý, hợp tình nhất để gây ra được một “khí thế phát triển” (development mood) thật là sinh động tại hạ tầng cơ sở các địa phương đó.

Từ sau thế chiến 2, các quốc gia Âu Mỹ giàu có đã đề ra các chương trình viện trợ khi thì đa phương thông qua Liên Hiệp Quốc, khi thì song phương nhằm giúp đỡ các nước nghèo thóat được cảnh bần hàn khốn khổ. Nhưng Schumacher đã chỉ ra là hầu hết cái lối viện trợ kiểu này không đem lại kết quả bao nhiêu, bởi lẽ là những chuyên gia viện trợ đã không nắm bắt được tâm lý và hòan cảnh phức tạp của đa số quần chúng nông dân vừa ít học, vừa bị giới trung gian khai thác lợi dụng. Và hơn nữa, các kỹ thuật áp dụng lại không thích hợp với hòan cảnh văn hóa xã hội và tâm linh truyền thống tại miền nông thôn địa phương. Vì thế mà Schumacher đã mạnh dạn đưa ra những đường hướng quyết liệt là : “ Viện trợ tốt nhất là thứ viện trợ trí tuệ (Intellectual aid), viện trợ kỹ năng hữu ích (gift of useful knowledge), chứ không phải là quà tặng vật chất. “ Lối viện trợ như vậy mới làm cho người nhận sớm trở thành tự lập và không còn bị lệ thuộc vào nguồn cung cấp mãi của thứ “con bò sữa” như vẫn thường xảy ra. Phương thức này vừa ít tốn phí, mà vừa kích thích được cái mầm mống tự cường, tự túc vẫn có sẵn trong tiềm thức của lớp người dân vốn có lòng tự trọng, tự tin ở khả năng của bản thân mình. Đây mới đích thực là cách thức hay nhất để thực hiện được chủ trương “Giúp dân để người dân có thể tự giúp bản thân họ” ( Helping the people to help themselves).

Muốn đảy mạnh phong trào như vậy, thì phải lôi cuốn được các tổ chức thiện nguyện phi-chánh phủ (non-governmental voluntary agencies) ở cả hai phía quốc gia bên viện trợ cũng như bên nhận lãnh (donor/recipient countries); chứ không thể hòan tòan do hai bên chánh phủ độc quyền đứng ra hành động bao biện như từ bao lâu nay. Phương thức này, nói theo ngôn ngữ hiện nay, thì là : “Phải vận động Xã hội Dân sự từ cả hai nước cùng dấn thân nhập cuộc vào tiến trình phát triển và xây dựng tòan diện và điều hòa này” (total and harmonized development). Nhờ vậy mà cả một tập thể cộng đồng như được kích thích gây men ngay trong nội tâm sâu kín của mình (Mass fermentation and mobilization), để tạo ra được một thứ “năng động nhóm” (group dynamics) nhằm tiến hành được một sự phát triển bền vững lâu dài tại địa phương (self-sustaining community development).

Xin trích nguyên văn một đọan cuối của “ Chương 13 : Two million villages ” như sau :  “Phát triển kinh tế chỉ có thể thành công nếu nó được tiến hành như một phong trào quần chúng rộng rãi dấn thân vào công cuộc tái thiết (a broad, popular movement of reconstruction), tập trung chủ yếu vào việc tận dụng sự hăng say phấn khởi, sự tài trí và sức lao động của tất cả mọi người trong công đồng…Sự thành công chỉ có thể đạt tới là do quá trình phát triển bao gồm cả trình độ giáo dục, tính tổ chức và cả tính kỷ luật của tòan thể các thành viên trong cộng đồng. Thiếu một yếu tố nào kể trên, thì chỉ là gặt hái sự thất bại mà thôi “ ( trang 171).

2/   Đi tìm lọai kỹ thuật thích hợp nhất (Appropriate Technology AT)

Với tinh thần thực dụng, Schumacher chủ trương cần phải phát triển lọai “kỹ thuật trung gian” để thích hợp với hòan cảnh kinh tế xã hội tại các nước đang phát triển. Ông dành hẳn Chương 12 cho đề tài này với nhan đề như sau :   “ Social and Economic Problems Calling For The Development Of Intermediate Technology ” (Những Vấn Đề Xã Hội và Kinh Tế Đòi Hỏi Phải Phát Triển Lọai Kỹ Thuật Trung Gian). Tác giả viện dẫn hai lý do chính yếu sau đây  :  Thứ nhất là kỹ thuật quá tân tiến thì lại tốn phí, nên các nước nghèo không thể áp dụng phổ biến rộng rãi khắp nơi được. Thứ hai là trình độ văn hóa kỹ thuật của dân chúng miền quê không thể dễ dàng thích nghi với cái kỹ thuật quá tinh vi, phức tạp do các nước phát triển đề xuất ra. Do đó mà cần phải tìm kiếm cho ra được lọai “kỹ thuật thích hợp” mà thường cũng được gọi là “kỹ thuật trung gian” (Intermediate Technology), tức là thứ kỹ thuật đứng giữa lọai kỹ thuật lạc hậu cổ truyền  (mà rất rẻ tiền) với kỹ thuật hiện đại (mà rất là đắt tiền).

Tác giả lại có kinh nghiệm thực tiễn về chủ trương này, khi ông cùng với một số bạn hữu thành lập hẳn một Nhóm riêng biệt để nghiên cứu và thử nghiệm lọai kỹ thuật này tại Luân Đôn vào năm 1965 gọi là “The Intermediate Technology Development Group” ( ITDG). Cụ thể như : Nếu dùng kỹ thuật cao cấp như máy gặt liên hợp (combine harvester), thì phải tốn phí hết 70,000 dollar cho một người làm việc (workplace); như vậy thì các nước nghèo khó mà có thể tạo ra đủ công ăn việc làm cho cả triệu người được. Nhưng nếu sử dụng lọai kỹ thuật trung gian chỉ tốn kém có 700 dollar cho một người lao động, thì với số tiền 70,000 nói trên ta có thể tạo ra việc làm cho cả 1000 người. Và rõ ràng đây là thứ kỹ thuật thích hợp nhất cho các nước nghèo của thế giới thứ ba vậy. Cho đến nay ITDG đã phát triển và phổ biến khá rộng rãi tại nhiều nước trên thế giới, cả ở khu vực tiền tiến cũng như khu vực đang phát triển.

Cũng vì nhằm tạo ra thật nhiều công ăn việc làm ổn định hầu đáp ứng nhu cầu rất lớn cho nhiều khu vực nông thôn và các thị trấn nhỏ bé, mà việc nghiên cứu kỹ thuật trung gian này phải được thực hiện trong quy mô của một miền bao gồm nhiều cộng đồng nông thôn và đô thị nhỏ, chứ không thể làm theo cái lối khép kín, hạn hẹp trong môi trường quá hạn chế được. Do đó Schumacher đã khẳng định rằng “ Nếu mục tiêu của sự phát triển là giúp đỡ cho những người cần được giúp đỡ nhất, thì “ Mỗi một Miền hay Quận hạt trong một quốc gia phải có riêng một chương trình phát triển cơ hữu của mình.” Cụ thể như tại nướcThụy sĩ chỉ có chưa đày 6 triệu dân số, mà họ lại chia ra thành 20 quận hạt (cantons), mà mỗi đơn vị lại là một quận hạt phát triển riêng thích hợp với điều kiện đặc thù của mình (development district). Và chính nhờ vào sự “Phân quyền” (Decentralisation) như vậy, mà cả quốc gia này luôn giữ được sự phát triển điều hòa, ổn định trong một nền dân chủ mà mọi người dân đều có cơ hội tham gia vào công việc điều hành của cộng đồng nơi mình sinh sống (Participatory Democracy).

3/  Vấn đề Cạn kiệt Tài nguyên Thiên nhiên ( Depletion of Natural Resources)

Là người làm việc lâu năm trong ngành than đá, nên Schumacher rất chú trọng đến tình trạng sự dụng bừa bãi phí phạm về tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt trong các nước văn minh tiền tiến Âu Mỹ. Cụ thể là về dầu khí, than đá và nhất là rừng cây. Bằng những con số thống kê chính xác, tác giả đã nêu lên các sự thao túng, lạm dụng và ích kỷ của các nước giàu có trong việc xài hoang phí các tài nguyên thiên nhiên. Schumacher phân biệt rất rõ rệt hai lọai tài nguyên : lọai tái tạo được và lọai không tái tạo được (renewable/non-renewable resources). Ông còn chỉ rõ ra là :  Thiên nhiên luôn luôn hào phóng trong việc cung cấp cho con người những tài nguyên dồi dào phong phú, để mà khai thác đáp ứng nhu cầu sinh họat của nhân lọai. Nhưng thật  đáng buồn là con người trong mấy thế kỷ gần đây đã dùng khoa học kỹ thuật để mà khai phá quá mức đến độ tàn phá thiên nhiên một cách vô tội vạ, tạo ra cảnh cạn kiệt mau chóng các tài nguyên thiên nhiên (rapid depletion/exhaustion), tạo ra một sự mất quân bình giữa con người với thiên nhiên, cũng như giữa hiện tại với tương lai, và cả giữa con người với con người nữa. Ông còn nói rõ là : Phải coi thiên nhiên như một “ nguồn vốn” (Capital) và nhờ biết khai thác khôn khéo, chừng mực đối với thiên nhiên mà con người kiếm ra được các “ lợi tức” (Income). Và như vậy, thì chỉ được quyền sử dụng lợi tức trong việc thanh thỏa các nhu cầu chính đáng của mình; chứ không được tiêu xài vào cái nguồn vốn chỉ có giới hạn nhất định nào đó mà thôi. Schumacher đã rất nghiêm khắc phê phán cái sự kiêu căng, tham lam quá độ và nhất là cái thái độ bạo hành của con người đối với thiên nhiên, cũng như giữa con người đối với nhau nữa. Ông đề cao chủ trương “Bất bạo động, Bất hại “ (Non-violence, Ahimsa) của thánh Gandhi cũng như của Đức Phật, mà ông có dịp khảo sát tại Ấn Độ và Miến Điện. Những suy ngẫm này ông đã ghi rõ ràng trong Chương 4 nhan đề là  : “Buddhist Economics” ( Kinh tế học Phật giáo) mà chúng tôi sẽ dịch nguyên văn ra Việt ngữ được trình bày với đày đủ chi tiết trong một bài sau.

Cũng trong dòng chảy suy nghĩ đó mà Schumacher đã dành hẳn một Chương 9 với nhan đề : “ Nuclear Energy – Salvation or Damnation ?” (Năng lượng Hạt nhân – Sự Cứu Rỗi hay là Án Phạt?) để bàn về cái lợi hay cái hại của năng lượng hạt nhân. Tác giả kiên quyết chống lại việc sử dụng lọai máy phát điện nguyên tử vì lý do chất thải của lọai máy này chứa nhiều chất phóng xạ rất nguy hiểm lâu dài cho nhiều thế hệ sau này. Và may thay, do các biến cố “rò rỉ tại nhà máy điện hạt nhân Three Miles Island” ở Mỹ và nhất là tai nạn thảm khốc Chernobyl ở Liên Xô, mà việc xây dựng bừa bãi các nhà máy hạt nhân này mới bị kìm hãm lại. Rõ rệt là Schumacher là một vị tiền phong đóng góp rất lớn cho phong trào bảo vệ môi sinh trên khắp thế giới từ mấy chục năm gần đây.

4/   Phải Định Hướng lại cho Khoa Học và Kỹ Thuật ( The Re – Orientation of Science and Technology).

Hơn ai hết, Schumacher là người luôn luôn cảnh giác về tính kiêu căng ngạo mạn và ngoan cố của giới khoa học ngày nay, nhất là trong ngành kinh tế học là lãnh vực họat động chuyên môn suốt cả cuộc đời của ông. Bàng bạc trong cuốn sách này, ta thấy tác giả luôn đề cao sự khiêm tốn, tinh thần nhân ái và nhân bản trong việc đề ra đường lối họat động cụ thể mà thiết thực, nhằm vào việc “Cải thiện thế giới” (World Improvement). Ta có thể thấy lời cảnh giác này đã có từ mấy trăm năm trước qua nhà hiền triết Rabelais ở Pháp mà dịch ra tiếng Anh là : “ Science without conscience is the ruin of the soul” (Khoa học mà không có lương tâm thì chỉ là sự suy đồi của tâm hồn).

Tác giả đề cao tinh thần bao dung, đơn sơ, hòa ái của thánh Gandhi và nhất là của Phật Tổ, mà ông rất say mê nghiên cứu học hỏi trong thời gian làm việc ở Ấn Độ và Miến Điện. Nếu ta chú ý đến môi trường tôn giáo mà ông vẫn sinh họat tại nước Đức cũng như ở nước Anh, nhất là khi về già ông đã gia nhập đạo công giáo nữa, thì ta lại càng khâm phục cái thái độ thành tâm cầu thị, khiêm nhu và quý trọng của ông đối với Phật giáo và Thánh Gandhi ở Á châu. Ông đặc biệt đem thêm khía cạnh phẩm chất (qualitative aspects) và đạo đức (ethics) vào trong môn Kinh tế học là môn học mà các chuyên viên kinh tế thường chỉ chú trọng đến khía cạnh định lượng mà thôi (quantification). Tác giả luôn nhắc nhủ các nhà khoa học là phải tìm kiếm sự minh triết (wisdom) vốn đã ăn rễ sâu trong truyền thống đạo đức văn hóa trong các xã hội phương đông, mà thường bị người phương tây vì quá say mê và kiêu hãnh với tiến bộ khoa học, kỹ thuật vất chất nên đã xem thường. Vì thế ông mới gọi đó là môn “Siêu kinh tế học” (Meta-Economics).

Nói vắn tắt lại, các luận đề Schumacher đưa ra trong cuốn sách “Small is Beautiful” này hiện vẫn còn được thảo luận, khai thác rộng rãi trên tòan thế giới. Lọat bài viết ngắn ngủi này chỉ nhằm giới thiệu sơ lược về tư tưởng độc đáo, can đảm, mà lại rất táo bạo dứt khóat của Fritz Schumacher. Cuốn sách này là đúc kết kinh nghiệm họat động và suy nghĩ tìm kiếm trong suốt cuộc đời của tác giả, với tấm lòng tha thiết phục vụ cho nhân quần xã hội, đặc biệt đối với lớp đa số quần chúng kém may mắn nhất trên thế giới ngày nay. Bạn đọc có thể tham khảo thêm trên internet, để có số liệu cập nhật hóa rất đày đủ và phong phú về các đề tài mà Schumacher đã gợi ra trong cuốn sách thời danh này.

Người viết mong ước giới trẻ Việt nam, ở trong cũng như ở ngòai đất nước, để tâm theo dõi sự phát triển của lọai tư tưởng đày tính nhân bản và nhân ái tương tự như thế này, mà hiện đang có sức rất thuyết phục, quyến rũ cho cao trào tranh đấu bảo vệ nhân phẩm, nhân quyền và cả bảo vệ môi sinh đang dâng cao khắp thế giới ngày nay trong thế kỷ XXI. Và cũng mong được sự tiếp tay trong việc đào sâu và phổ biến trào lưu tư tưởng tiến bộ này từ nơi các bậc thức giả trong những tổ chức chuyên về văn hóa khoa học, cụ thể như : Viện Việt Học, Lê Văn Duyệt Foundation, Hội Khoa Học Kỹ Thuật, Hội Chuyên Gia Việt nam, Các Viện Nghiên Cứu thuộc các Tôn Giáo Việt nam v.v…

California, Mùa Phật Đản Kỷ Sửu 2009

Đòan Thanh Liêm

( Bài 3  :  Kinh Tế Học Phật Giáo – Buddhist Economics)

(bản dịch tòan bộ Chương 4)