Trường Trung Học Cộng Đồng Quận 6 Sài gòn: Những chuyện mà ít người nói đến

Trường Trung Học Cộng Đồng Quận 6 Sài gòn: Những chuyện mà ít người nói đến

Hồi tưởng của Đoàn Thanh Liêm

(Bài 3)

*     *     *

Trường Trung học Cộng đồng Quận 6 là một trường rất nhỏ, chỉ bắt đầu khai giảng lớp học đầu tiên vào cuối năm 1968 trong căn nhà tiền chế đơn sơ với vài ba phòng học. Rồi sau năm 1975 chẳng bao lâu, thì trường lại bị cho giải thể và học sinh được phân tán đi các trường khác. Vì thế mà ngày nay, ngọai trừ một số rất nhỏ cựu học sinh đã từng theo học tại trường, thì ít có ai còn biết đến sự hiện hữu của cơ sở giáo dục này nữa.

Là một người có tham gia trong việc vận động thành lập của trường, tôi xin ghi lại một số chuyện ngộ nghĩnh xung quanh cái ngôi trường nhỏ bé vừa “sinh sau đẻ muộn” – mà lại cũng “yểu mệnh vắn số” này. Xin lần lượt trình bày câu chuyện qua mấy mục như sau.

I – Lai lịch về cơ sở vật chất của ngôi trường.

Vào  năm 1966,  ông Mai Như Mạnh Quận trưởng Quận 6 có sáng kiến mời một số nhà doanh nghiệp tại địa phương cùng họp lại với nhau để thiết lập một cơ sở nhằm trưng bày và quảng cáo cho những sản phẩm công kỹ nghệ được sản xuất trong quận. Ông nói : “Trước đây, tôi có dịp đi tham quan tại Đài Loan và Nhật Bản, tôi thấy nơi nào họ cũng có những trung tâm trưng bày sản phẩm kỹ nghệ như thế…” Ý kiến này được nhiều người hoan nghênh và đưa đến việc cấp tốc xây dựng một ngôi nhà tiền chế trên khu đất trống nằm sát cạnh bến xe Chợ Lớn mới ở góc đường Phạm Đình Hổ và Trương Tấn Bửu.

Nhằm lôi cuốn giới tiêu thụ đến quan sát tại phòng trưng bày này, ban tổ chức dự định khai trương cơ sở vào dịp Tết Đinh Mùi đầu năm 1967 kèm theo với một số gian hàng bán hàng hóa thông dụng và đồ ăn, nước uống v.v…Tất cả các gian hàng này được dựng lên bên cạnh phòng trưng bày sản phẩm và được gọi với cái tên chung là Khu Chợ Tết. Và vì cái danh xưng “Chợ Tết” này, mà sóng gió nổi lên dữ dội từ một phiên họp của Hội Đồng Đô Thành ở trung tâm Sài gòn. Các nghị viên tới tấp phản đối chuyện tổ chức “Chợ Tết”, họ coi đây là một thứ “Hội Chợ” (Foire) nhằm kiếm tiền bỏ túi cho cá nhân. Đó là một thứ việc làm “bất hợp pháp” vì không có giấp phép đặc biệt của cơ quan có thẩm quyền v.v…

Cuối cùng, thì Bác sĩ Văn Văn Của là Đô trưởng vẫn đến khu Chợ Tết để cắt băng khánh thành – như vậy là đã mặc nhiên coi là việc này không có chi là trái luật và để bà con cứ tiếp tục vui chơi nhân dịp đón xuân mới.

Tuy vậy, do có sự chỉ trích của các nghị viên thành phố như đã nói ở trên, mà sau đó giới chủ nhân các công ty xí nghiệp ở địa phương – mà phần đông là người gốc Hoa – đâm ra chán nản không còn thiết tha gì với chuyện tiến hành hòan tất trung tâm trưng bày sản phẩm công kỹ nghệ nữa. Vì thế mà trong suốt năm 1967, khu nhà tiền chế rộng tới 5 gian với sườn sắt, mái và vách đều được che bằng tôle vẫn còn để im lìm trống vắng không được sử dụng vào việc gì nữa cả.

Mãi đến khi chiến cuộc mở rộng hồi Tết Mậu Thân năm 1968, thì bà con các nơi có chiến trận mới đổ xô vào lánh nạn tại khu nhà tiến chế này. Và từ đó mà nơi đây đã biến thành một trại tạm cư cho các nạn nhân chiến cuộc phải bỏ nhà cửa ở các khu vực kế cận trong suốt hai đợt tấn công liên tục của bộ đội cộng sản xuất phát từ tỉnh Long An vào thành phố.

Sau khi chiến sự lắng đọng, bà con lại kéo nhau trở về nhà mình và trả lại khu nhà tiền chế lại cho chính quyền địa phương. Nhờ thế mà Chương trình Phát triển chúng tôi mới nghĩ đến chuyện sử dụng khu nhà đó để làm trường sở cho Trường Trung Học Cộng Đồng Quận 6. Thành ra, khu nhà này tuy không còn được sử dụng cho mục tiêu kinh tế thương mại như dự trù lúc ban đầu nữa, thì nay lại được biến thành một cơ sở giáo dục. Đó cũng là một cách phục vụ lợi ích chính đáng của cộng đồng địa phương mà thôi.

2 – Chuyện vận động xin phép mở trường với Bộ Giáo Dục.

Dân số trong quận 6 vào năm 1967 có đến trên 250.000 người. Vì thế mà vào năm 1970, chính quyền phải thiết lập thêm một đơn vị mới nữa là quận 11 bằng cách chia bớt lãnh thổ của quận 6 sang cho quận mới này. Dân số quá đông như vậy, nên cần phải mở thêm trường học, đặc biệt là trường trung học cho các học sinh trong quận. Đó là mối quan tâm nóng bỏng của các phụ huynh mà chúng tôi không thể nào xem nhẹ được.

Với kinh nghiệm thu thập được từ chuyện vận động thành công để thành lập được trường trung học cộng đồng ở quận 8 từ mấy năm trước – nên lần này anh chị em trong chương trình phát triển chúng tôi cũng lại hướng dẫn đại diện phụ huynh học sinh mang thư thỉnh nguyện đến trình bày với các giới chức có thẩm quyền tại Bộ Giáo Dục để xin được phép mở trường ở quận 6. Chúng tôi còn phải nhờ đến các vị Nghị sĩ, Dân biểu và cả đến giới truyền thông báo chí để họ cùng lên tiếng kêu gọi tiếp tay với các phụ huynh tại quận 6 để xin cấp trên cho thiết lập trường trung học trong quận.

Mà nhờ đã có sẵn cơ sở vật chất là khu nhà tiền chế cộng với một số bàn ghế mới đóng sẵn, nên ban vận động (gồm đại diện các phụ huynh và đại diện chương trình phát triển) mới dễ thuyết phục được cấp lãnh đạo ở Bộ Giáo Dục thỏa thuận cấp giấy phép cho trường được thành lập. Chúng tôi phải cam kết với Bộ Giáo Dục rằng : Địa phương chúng tôi chịu trách nhiệm hòan tòan về việc xây dựng nhà cửa và trang bị bàn ghế cho tòan bộ các lớp của trường.  Đổi lại về phần mình, thì Bộ Giáo Dục chỉ phải cử các thầy cô giáo đến trường để lo việc giảng dậy mà thôi.

Và cuối cùng, nhờ sự thúc đảy đặc biệt nhiệt tình của Giáo sư Lê Thanh Minh Châu lúc đó giữ chức vụ Phụ Tá Bộ Trưởng Giáo Dục đặc trách về kế hoạch, mà trường trung học cộng đồng quận 6 được giấy phép thành lập và bắt đầu khai giảng mấy lớp học đầu tiên kể từ niên khóa 1968 – 69.

Giáo sư Nguyễn Đức Tuyên được bổ nhiệm là vị Hiệu trưởng tiên khởi của trường. Với kinh nghiệm lâu năm trong ngành giáo dục, Hiệu trưởng Tuyên đã kiên trì cùng với tập thể các thầy cô giáo thiết lập được một nền nếp trật tự ngăn nắp cho ngôi trường mới mẻ và khiêm tốn này. Và với quy chế công lập, nên học sinh không phải đóng học phí như ở các trường tư thục. Mà phụ huynh chỉ phải góp một lệ phí là một số tiền rất nhỏ – để dùng vào việc bảo trì trường lớp, tân trang sửa chữa bàn ghế mà thôi.

Sau mấy năm, thì giáo sư Tuyên lại thuyên chuyển đi nơi khác và giáo sư Võ Văn Bé được bổ nhiệm vào chức vụ Hiệu trưởng thay thế giáo sư Tuyên. Và giáo sư Bé tiếp tục giữ nhiệm vụ này trong ít lâu sau năm 1975 trước khi xin nghỉ việc ra khỏi ngành giáo chức để tham gia vào ngành chế biến hóa chất.

Vì đây chỉ là một trung học đệ nhất cấp – tức là chỉ dậy có 4 lớp từ lớp 6 đến lớp 9 – nên học sinh học hết lớp 9 ở trường này, thì phải chuyển lên học tiếp lớp 10 ở một trung học đệ nhị cấp mà cụ thể ở quận 6 là trường Mạc Đĩnh Chi cũng là một trường công lập.

3 – Mối liên hệ của Trung Học Cộng Đồng với Chương Trình Phát Triển.

Mới gần đây, có một em cựu học sinh của trường Lương Văn Can tức Trung Học Cộng Đồng Quận 8 có hỏi tôi đại khái như thế này: “Em là dân ở quận 8, hồi trước năm 1975 em theo học ở trường Lương Văn Can, mà vì còn nhỏ tuổi em cũng không biết gì về mối liên hệ của trường đó với chương trình phát triển quận 8 ra sao. Xin thày vui lòng giải thích cho em với…”

Tôi đã giải thích cho em đại lược như thế này: “Chương trình Phát triển chúng tôi họat động trong cả 3 quận 6,7 và 8 trong 6 năm từ năm 1965 đến năm 1971. Bắt đầu ở quận 8 trước nhất từ năm 1965, sau đó kể từ năm 1966 thì nới rộng phạm vi họat động sang quận 6 và 7. Chúng tôi chủ trương phát triển về mọi mặt như chỉnh trang gia cư, cải thiện môi trường, chăm sóc y tế -ưu tiên cho bà con tại các khu xóm ngõ bình dân lao động. Và đặc biệt là mở mang giáo dục cả về phổ thông cũng như về huấn nghệ v.v…

Riêng về 2 trường trung học cộng đồng ở quận 6 và quận 8, thì chương trình chúng tôi góp nhiều công sức để vận động xin Bộ Giáo Dục cho phép thành lập và chúng tôi yểm trợ trong việc xây cất trường sở cũng như trang bị bàn ghế lúc ban đầu. Nhưng khi cơ sở trường học đã hòan tất và các giáo sư do Bộ Giáo Dục cử về bắt đầu giảng dậy ở trường, thì chương trình chúng tôi đã hòan tất trách nhiệm trong việc vận động rồi. Và từ lúc đó trở đi, chúng tôi không thể can dự vào sự điều hành của nhà trường nữa.”

Nghe tôi giải thích như thế, em hiểu ngay và nói với tôi như thế này: “Có thể ví như chương trình là một công ty xây dựng, sau khi xây xong ngôi nhà rồi, thì công ty trao căn nhà đó cho sở hữu chủ để họ tòan quyền sử dụng – mà nói theo ngôn ngữ hiện nay, thì đó là phương thức “Chìa Khóa Trao Tay.

Nhân tiện, tôi cũng xin nhắc lại là vào hồi thập niên 1960, thì thủ tục xây dựng một trường học mới đòi hỏi Bộ Giáo Dục phải tham khảo trước với Bộ Tài Chánh để xem đã có ngân sách dành riêng cho ngôi trường đó chưa. Do đó mà Bộ Giáo Dục không thể dễ dàng tùy tiện để mở thêm trường mới được. Vì biết rõ tình trạng bế tắc bị động như vậy của Bộ Giáo Dục, nên chương trình chúng tôi dựa vào “cái thế chủ động của quần chúng nhân dân” mà phát động “Đi Bước Trước” – tức là địa phương quận 6 và 8 chúng tôi tự nguyện đứng ra xây cất trường sở và đóng bàn ghế sẵn trước.Và Bộ chỉ có mỗi một việc là cử giáo sư về dậy học mà thôi.

Và đó là nguyên do chính yếu của sự thành công trong việc thuyết phục được giới lãnh đạo của Bộ Giáo Dục chấp thuận cho thành lập Trung Học Cộng Đồng Quận 8 từ năm 1966 và Trung Học Công Đồng Quận 6 từ năm 1968.

4 – Để tạm kết thúc.

Vì chưa được thông tin đày đủ về sinh họat của các cựu học sinh Trung học Cộng đồng Quận 6, nên tôi hy vọng các bạn trẻ này sẽ bổ túc cho bài viết bằng những tư liệu và hình ảnh liên hệ đến “trường xưa, bạn cũ” – để giúp cho bà con độc giả hiểu biết thấu đáo hơn về một cơ sở giáo dục của địa phương quận 6 mà đã xuất hiện cách nay trên 47 năm rồi. Mong lắm thay.

San Jose California, Tháng Chín 2015

Đoàn Thanh Liêm

Aki Tanaka – Một người bạn của “Tự Lực Văn Đoàn”

Aki Tanaka – Một người bạn của “Tự Lực Văn Đoàn”

Mặc Lâm, biên tập viên RFA

Aki Tanaka – Một người bạn của “Tự Lực Văn Đoàn” Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

1052670_562697663776915_300149667-622.jpg

Cô sinh viên người Nhật Aki Tanaka
Courtesy photo

Your browser does not support the audio element.

Không có gì lạ trong nền giáo dục Việt Nam

Ngày 9 tháng 1 năm 2007, trong trò chơi “Ai là triệu phú” trên đài Truyền hình VTV3 Hà Nội, do MC Lại Văn Sâm điều khiển, người được mời lên chiếc “ghế nóng” tham dự chương trình là cô Nguyễn Thị Tâm, 27 tuổi, giảng viên trường Đại học Sư phạm thành phố Thái Bình.

Câu hỏi nguyên văn như sau: “Trong tứ trụ của Tự Lực Văn Đoàn: Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng; ai là người không phải anh em ruột với ba người kia?”

Cô giảng viên Đại học Sư phạm suy nghĩ một lát rồi nói:

– Tự Lực Văn Đoàn, tôi chưa nghe nói đến bao giờ cả. Hình như đó là một gánh cải lương. Còn Nhất Linh chắc chắn là một nghệ sĩ cải lương. – Riêng Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng… tôi không biết ba ông này có phải nghệ sĩ cải lương như Nhất Linh không.

– Vậy chị kết luận ai không phải anh em ruột với ba người kia?

– Tôi đề nghị cho tôi được hưởng quyền trợ giúp, gọi điện thoại cho người thân.

– Chị muốn gọi cho ai?

– Cho anh Nam, một bạn đồng nghiệp cũng dạy trong trường. Anh Nam là người đọc rất nhiều sách, kiến thức rất rộng, chắc chắn anh ấy biết.

Phòng máy liên lạc với người tên Nam đang chờ sẵn ở nhà để trợ giúp, “cứu bồ” cho cô Tâm.

Cô Tâm lập lại câu hỏi như chương trình đã hỏi: “Trong tứ trụ của Tự Lực Văn Đoàn…”, “Anh cho em biết Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng, ai không phải là anh em ruột với ba người kia…” Đầu dây có tiếng trả lời rất lớn và dứt khoát, nghe rõ mồn một:

– Hoàng Đạo, Hoàng Đạo không phải là anh em ruột với Nhất Linh, Thạch Lam và Khái Hưng.

– Chắc chắn không anh?

– Chắc trăm phần trăm.

– Ba mươi giây của chị đã hết. Xin chị cho biết câu trả lời.

– Tôi tin vào kiến thức của người bạn đồng nghiệp của tôi. Tôi trả lời, Hoàng Đạo không phải anh em ruột với ba người kia.

– Chị quyết định như thế?

– Vâng, câu trả lời của tôi là phương án B, Hoàng Đạo.

– Sai. Giải đáp của chúng tôi là phương án D, Khái Hưng. Khái Hưng không phải anh em ruột với Nhất Linh, Hoàng Đạo và Thạch Lam. Hoàng Đạo tên thật là Nguyễn Tường Long, sinh năm 1906, em ruột nhà văn Nhất Linh, anh ruột nhà văn Thạch Lam. Như vậy phần thưởng của chị từ năm triệu đồng còn lại một triệu đồng. Nhưng không sao, chúng ta lấy vui làm chính. Xin cám ơn chị đã tham dự chương trình.

Câu chuyện về cô giáo giảng viên trường Đại học sư phạm thành phố Thái Bình thật ra không có gì lạ trong nền giáo dục Việt Nam bởi lẽ chương trình giáo dục không hề có bốn chữ Tự Lực Văn Đoàn mặc dù đây là một nhóm tác giả quan trọng bậc nhất trong nền văn học hiện đại của Việt Nam. Điều làm cho Tự Lực Văn Đoàn bị gạt ra khỏi dòng văn học là chủ trương chính trị của nó. Nguyễn Tường Tam, thủ lãnh của nhóm cũng là một chính khách với quan điểm chính trị đi ngược lại hoàn toàn quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam.

1177319793-400.jpg

Tự Lực Văn Đoàn

Tự Lực Văn Đoàn chủ trương đổi mới văn học, nâng cao dân trí, chống cường quyền phong kiến, bài thực dân, trong đó không quên những người cùng khổ và bị áp bức dưới bất cứ hình thức nào. Sức mạnh của Tự Lực Văn Đoàn bắt đầu từ sự ủng hộ của trí thức tiểu tư sản sau đó lan rộng trong quần chúng bình dân và ảnh hưởng trực tiếp tới nền báo chí An Nam đang có xu hướng hòa nhịp cùng đời sống đô thị.

Chẳng những tại miền Bắc Tự Lực Văn Đoàn bị cấm xuất hiện nhưng sau năm 1975 ngay cả khi hai miền Nam Bắc đã hoàn toàn thống nhất thì số phận của nó cũng không may mắn gì hơn, vẫn bị vùi dập, che dấu và cấm đoán ngay trong từng tù sách gia đình. Những tên tuổi như Nhất Linh, Thạch Lam, Khái Hưng, Hoàng Đạo… hoàn toàn biến mất trong mái trường xã hội chủ nghĩa, mãi tới hơn hai mươi năm sau một vài tác phẩm của họ mới được in lại từ những chiếc máy in của nhà nước với nội dung bị cắt xén cho vừa với tầm nhìn của cách mạng vô sản, vốn bất đồng với các tác giả này.

Aki Tanaka

Vậy mà từ nước Nhật xa xăm, lại xuất hiện những con người yêu văn hóa Việt Nam trong đó Tự Lực Văn Đoàn được nhắc tới như một dấu son của nền văn học Việt.

Một trong những người ấy là cô sinh viên Aki Tanaka.

Từ Tokyo, Aki Tanaka đã lặn lội tới Việt Nam, tìm hiểu về Tự Lực Văn Đoàn với mục đích học chữ Việt để rồi mê đắm nó đến nỗi bỏ hơn 13 năm theo dõi, nghiên cứu, viết tham luận rồi luận án về Tự Lực Văn Đoàn. Aki đã bay sang Hoa Kỳ nơi có khá nhiều tư liệu lẫn thân nhân của các tác giả để từ đó thấy yêu mến thêm nhóm tác giả đặc biệt này.

Mặc Lâm có duyên may gặp Aki Tanaka tại California trong lần cô sang Mỹ tìm kiếm thêm tư liệu về nhà văn Khái Hưng, người mà Aki Tanaka đặc biệt yêu thích. Cuộc phỏng vấn ngắn nhằm mang cô sinh viên người Nhật này tới gần với người Việt Nam hơn bởi cô đáng được người Việt mở lòng ra đón nhận như một người bạn chân thành của văn hóa Việt.

Aki Tanaka, trước tiên cho biết thời gian đầu cô tới Việt Nam:

Aki Tanaka: Khoảng năm 2000 khi sang Việt Nam tôi đã gặp ông Huy Tưởng thì ông ấy nói nếu Aki muốn học tiếng Việt thì nên tìm đọc Tự Lực Văn Đoàn để biết được tiếng Việt chính xác cho nên tôi đã tìm mua các cuốn sách về Tự Lực Văn Đoàn. Ban đầu thì tôi không hiểu hết, chỉ hiểu sơ sơ thôi nhưng mà đã cảm thấy tác phẩm của Tự Lực Văn Đoàn rất hay cho nên tiếp tục mua sách Tự Lực Văn Đoàn. Ước mơ của tôi là muốn nghiên cứu về Tự Lực Văn Đoàn nhưng lúc đó cảm thấy là điều thực tế chỉ là ước mơ thôi.

Mặc Lâm: Aki vừa nói là tìm mua những cuốn sách Tự Lực Văn Đoàn trong nước, không biết là sách cũ đã được in từ xưa hay những cuốn vừa được in lại trong nước?

Aki Tanaka: Tôi chỉ mua được sách tái bản thôi lúc đó không để ý là sách của nhà nước in hay sách cũ nó có gì khác nhau hay là sự khác biệt như thế nào cho nên chỉ mua được sách tái bản thôi.

Mặc Lâm: Sau này khi nghiên cứu sâu về Tự Lực Văn Đoàn thì Aki có thấy sự khác biệt nào giữa bản in gốc và bản in đã được in lại sau năm 1975 và nếu có thì những khác biệt ấy có quan trọng không?

Aki Tanaka: Dạ có. Tôi có học với thầy giáo người Nhật thì thầy này sử dụng sách cũ là sách trước 75 còn tôi thì cầm sách tái bản mới. Cuốn tôi thất vọng nhất là cuốn Đời mưa gió. Khi hai người đọc chung với nhau thì chúng tôi phát hiện sách tái bản và sách gốc nó khác biệt nhau. Tôi thấy nếu mình nghiên cứu văn học Việt Nam mà có sự khác biệt quá nhiều như thế này, mà mình là người phân tích mà tài liệu sai thì rất nguy hiểm cho việc nghiên cứu của mình.

Mặc Lâm: Khi Aki sang Mỹ để tìm gặp thân nhân những người trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn thì Aki đã gặp được ai và câu chuyện gặp gỡ ấy như thế nào?

Aki Tanaka: Hai năm trước có một buổi hội thảo về Tự Lực Văn Đoàn tại Mỹ lúc đó gia đình con cháu của nhóm Tự Lực Văn Đoàn tập họp lại cho nên lúc đó tôi gặp được nhiều người nhưng lúc đó tôi không có dịp nói chuyện nhiều với họ. Tháng Ba năm nay tôi có dịp thăm riêng ông Nguyễn Tường Triệu là con nuôi của ông Khái Hưng và Nguyễn Tường Thiết là con trai út của ông Nhất Linh. Tôi đã thăm được hai người này.

Mặc Lâm: Về ông Nguyễn Tường Thiết là con ruột thì đã đành rồi riêng về ông Nguyễn Tường Triệu là con nuôi của Khái Hưng thì Aki có nắm vững những nhận định hay lời kể lại của ông Triệu có chính xác và phù hợp với những gì Aki tìm hiểu không?

Aki Tanaka: Aki cũng biết được sơ sơ thôi vì lúc ông Khái Hưng mất thì ông Triệu còn rất nhỏ cho nên ông Triệu không biết gì nhiều. Tuy nhiên ông Triệu có cung cấp một số tài liệu cho Aki.

Mặc Lâm: Trong khi nghiên cứu Tự Lực Văn Đoàn và có dịp gặp gỡ hay thông qua tư liệu thì tác già nào trong nhóm làm cho Aki ấn tượng và yêu thích nhất?

Aki Tanaka: Tôi rất thích ông Khái Hưng. Lý do ông là người có tư tưởng sâu sắc nhất trong Tự Lực Văn Đoàn cho nên đọc tác phẩm của ông thì thấy rất hay.

Mặc Lâm: Nhưng rất nhiều người cho rằng ông Nhất Linh là người lãnh đạo của nhóm và là linh hồn của Tự Lực Văn Đoàn … Aki thấy thế nào về tác phẩm của ông?

Aki Tanaka: Theo tôi thì Nhất Linh là một người hành động, ông có cái ý tưởng cách mạng tuy nhiên so với ông Nhất Linh thì ông Khái Hưng là người suy nghĩ và theo sự tìm hiểu của tôi thì ông Khái Hưng không quan tâm mấy đến chính trị.

Mặc Lâm: Trong một thời gian khá dài sống ở Việt Nam Aki quan sát và thấy giới trẻ Việt Nam, đặc biệt là sinh viên khoa văn họ có chú ý tới Tự Lực Văn Đoàn hay không?

Aki Tanaka: Tôi thấy họ không chú ý đâu. Tôi nói chuyện với bạn bè đồng nghiệp với cái ý là tôi thích Tự Lực Văn Đoàn nhưng bạn bè đồng nghiệp của tôi lại không biết Tự Lực Văn Đoàn là ai nữa! Bây giờ ở Việt Nam không giảng dạy tác phẩm của nhóm này cho nên không ai biết, không được ai quan tâm đến.

Mặc Lâm: Có một thời gian rất dài Aki đã sang Mỹ tiếp xúc với người viết văn hay hoạt động văn hóa…Aki thấy họ có còn tha thiết khi nói về Tự Lực Văn Đoàn nữa hay không hoặc thời gian đã quá lâu khiến họ dần dần quên Tự Lực Văn Đoàn luôn, không giống như cách đây 40 năm?

Aki Tanaka: Do tôi tiếp xúc với nhiều người làm văn nghệ cho nên họ thường bảo rất còn quan tâm tới Tự Lực Văn Đoàn và họ muốn bảo tồn tác phẩm của nhóm này cho con cháu để sau biết được việc làm của nhóm Tự Lực Văn Đoàn cho đời sau. Tôi cảm thấy như vậy

Mặc Lâm: Aki cũng có bạn bè người Nhật yêu mến văn hóa Việt Nam trong số họ có ai nghiên cứu về Tự Lực Văn Đoàn như Aki hay không?

Aki Tanaka: Thầy cũ của tôi đã nghỉ hưu rồi ông ấy hồi trước cũng có nghiên cứu về Tự Lực Văn Đoàn trong trường đại học của tôi và ông cũng đã dạy Tự Lực Văn Đoàn cho sinh viên Nhật. Nhưng bây giờ vị giáo sư mới không quan tâm tới Tự Lực Văn Đoàn nên không dạy nữa cho nên sinh viên không biết gì về Tự Lực Văn Đoàn nữa

Mặc Lâm: Một lần nữa xin cám ơn Aki Tanaka rất nhiều và hy vọng những công trình nghiên cứu của Aki về Tự Lực Văn Đoàn sẽ mang lại nhiều kết quả mong đợi.

Câu chuyện về tính lương thiện

Câu chuyện về tính lương thiện

Nguoi-viet.com

Tạp ghi Huy Phương

Người ta định nghĩa “lương thiện” là tốt lành, không vi phạm đạo đức, pháp luật. Các phát biểu về lương thiện, có lời của nhà văn Nhất Linh: “Muốn cho người ta dễ có lòng thiện thì làm thế nào cho người ta khỏi nghèo khổ.” Một nhân vật khác là E. Rueys thì cho rằng: “Khi giàu làm người lương thiện không gì dễ bằng, khi nghèo nàn làm được người lương thiện mới khó!” Nói như vậy có khác chi cho rằng phần đông người nghèo ít lương thiện hơn người giàu có.

Người ta căn cứ vào chuyện một cô người Mexico đến dọn dẹp nhà cửa cho một người chủ Việt Nam đã lấy trộm một cái nhẫn kim cương mà người chủ quên bỏ đầu giường, hay chuyện những đứa trẻ đi lượm bao ny-lông ngày trước ở quê nhà đánh cắp một đôi dép hay vơ một cái áo đang phơi trên cây sào. Nhưng cũng không phải vậy, mà trong xã hội này người ta cho rằng kẻ nghèo hèn đều đi ăn cắp và người giàu, có một cuộc sống tốt lành, kiểu nói “bần cùng sinh đạo tặc.” Ðó chính là lý do những chính trị gia như Lý Quang Diệu của Singapore, để cải tạo xã hội, phải làm cho dân chúng được cơm no, áo ấm, ai cũng giàu có.

Chúa Jesus thì nói: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn một người giàu vào nước Thiên Chúa (Mt. 19,24).” Người ta có thể hiểu câu nói này theo cách: Người giàu khó là một người lương thiện.

Hiện nay, nạn cướp giật điện thoại cầm tay xẩy ra thường ngày ở Việt Nam, thì một người bán vé số nghèo nàn, lượm được một cái “iPhone 6 plus” đem giao lại cho người mất, trong khi hàng triệu cán bộ lợi dụng chức, quyền, là những người giàu, dựa vào đảng, lương vài trăm đô la nhưng có nhà, xe, đất hàng triệu đô la, nhờ sự thiếu lương thiện, nói rõ là bất lương: “Con ơi nhớ lấy câu này, cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan!”

Một chị bán ve chai nhặt được số tiền 5 triệu Yen ($4,200) lập tức có những kẻ kém lương thiện, đến làm phiền, có người hăm dọa đòi anh chị chia số tiền nhặt được. Một phụ nữ đến nhận vơ đó là tiền của chồng bà đang lao động ở Nhật, gửi về cho mình, bà cất giấu trong thùng loa cũ rồi quên. Một người khác đem sổ đỏ “dỏm” đến cầm.

Một ông giám đốc ở Hà Nội khuyến khích sự lương thiện của người bán ve chai, đề nghị chị đem trả số tiền này lại cho chính phủ Nhật, vì giấy bạc này do Nhật in ra, là thuộc quyền sở hữu của chính phủ Nhật! Theo ông này, phải trả lại tiền cho nước Nhật để “nâng cao hình ảnh thân thiện, nhân văn của người Việt Nam đối với đất nước Nhật nói riêng và bạn bè quốc tế nói chung.” Trong khi bao nhiêu đứa cướp giật, ăn cắp, buôn lậu làm xấu mặt Việt Nam ở đất nước Nhật, thì ông quan chức này đề nghị chị bán ve chai, hy sinh, dùng tính lương thiện của mình để cứu vãn cái mặt Việt Nam. Mặc dầu ông có hứa là sẽ vận động thiên hạ gây quỹ, đóng góp lại cho chị, nhưng đó là chuyện “cái mồi in bóng dưới nước.”

Hy vọng các quan chức Việt Nam từ đây về sau, ai cũng có lòng lương thiện cho dân đỡ khổ, nhưng xúi người khác lương thiện có lẽ dễ hơn chính mình phải lương thiện.

Chúng ta dạy trẻ em phải lương thiện trong khi, hơn 20 con heo đất của học sinh tại Trà Vinh để giúp học sinh nghèo bị người lớn ngành giáo dục “rút ruột” 20 triệu đồng. Chúng ta dạy trẻ sống công chính trong khi chúng ta có những “tên” hiệu trưởng như Sầm Ðức Xương sống bằng nghề “ma cô.”

Trong một xã hội như hiện nay, dạy cho con lương thiện, có nghĩa là đưa con vào con đường chết đói, vì đời này: “Thẳng thắn, thật thà thường thua thiệt, lọc lừa lươn lẹo lại lên lương!”

Nói về nghề lương thiện, không biết ở Việt Nam người ta sắp xếp cao thấp thế nào về mức độ lương thiện qua các ngành nghề. Tuy nhiên, tạm thời chúng ta hãy cho nghề lương thiện nhất là nghề bán ve chai, có muốn bất lương cũng khó lòng. Và nghề nào là nghề phi đạo đức nhất? Cứ nhìn tài sản của đám viên chức chính phủ và Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản Việt Nam, hoàn toàn không tương xứng với số lương bổng hàng tháng, chúng ta sẽ thấy rõ bọn sâu mọt chuyên đục khoét ngân khoản, tài nguyên đất nước và bóc lột “nhân dân” đến mức nào.

Viện Gallup ở Mỹ không thăm dò tính lương thiện qua giai cấp giàu nghèo mà qua nghề nghiệp. Ðứng đầu lương thiện nhất là ngành y, nhưng bác sĩ y khoa lại được xếp sau y tá, dược sĩ và bác sĩ thú y.

Ðược xếp đồng hạng sau đó là kỹ sư, giảng viên và linh mục (tỉ lệ tin cậy đều là 58%). Ít lương thiện hơn là cảnh sát và chuyên gia tâm lý.

Tệ hơn hết, người Mỹ cho rằng nghề bán xe hơi (car saleman) là nghề khó tin nhất, chung chiếu với nghề bán xe hơi là nghề quảng cáo, nghề bảo hiểm y tế và nhân viên bán bảo hiểm (tỉ lệ tin cậy từ 13% đến 12%). Các chính trị gia cũng được xếp hạng thiếu lương thiện như tỉ lệ tin cậy đối với các dân biểu chỉ có 14%, thượng nghị sĩ là 15%. Ðiều này có lẽ dân chúng thấy rõ hơn vào các mùa bầu cử.

Còn nghề ký giả thì không thấy cuộc thăm dò của Gallup nhắc đến.

“Nhà báo nói láo ăn tiền,” là một câu nói khá hàm hồ và ác cảm của ai đó đối với nghề báo. Phải chăng đó là loại nhà báo chuyên tường thuật các đại hội đảng hay tổng kết thi đua “sống và làm việc theo gương Hồ Chủ Tịch.” Thật tình, nguyên tác của nghề báo là viết sự thật, dù ở đâu, do đó đây cũng là một nghề “dễ chết” nhất. Ở Việt Nam hiện nay đã có bao nhiêu nhà báo vì nói sự thật, đã bị cho thôi việc, cầm tù hay bị ám hại.

Ủy Ban Bảo Vệ Ký Giả cho biết, trên thế giới, chỉ tính từ năm 1992 cho đến 2011 đã có khoảng 850 ký giả bị giết, nhiều nhất là vì lý do chính trị, chiến tranh, tham nhũng, nhân quyền và tội phạm, trong đó, 39% bị giết trong khi hành nghề vì lý do chính trị. Riêng tại Mỹ và Canada kể từ năm 1976, có ít nhất 15 vụ ký giả bị giết khi đang làm công việc của mình, trong số 15 người này có năm người gốc Việt. Những ký giả này không phải là nhà báo nói láo, mà nói quá thật theo quan điểm của mình, những sự thật làm mất lòng người khác.

Nhưng nghề “viết” cho phép kèm theo chữ “lách.” Và cũng nên thông cảm rằng, đôi khi không dám viết sự thật, không phải là vì thiếu lương thiện.

Chí Phèo đã từng lớn tiếng trước mặt Bá Kiến: “Tao muốn làm người lương thiện!” “Không được! Ai cho tao lương thiện?”

Ðôi khi làm người lương thiện không dễ!

HÃY BỚT NHỎ NHEN, XẢO TRÁ ĐI!

HÃY BỚT NHỎ NHEN, XẢO TRÁ ĐI!

Nguyễn Thanh Giang

5-9-2015

Lướt web hôm nay thấy có ba chuyện buồn …cười:

1) Ngày 1 tháng 9 vừa qua người ta đến gắn huy hiệu 75 tuổi Đảng cho cụ Nguyến Trọng Vĩnh. Cụ đáp từ: “Tôi gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1939. Những đảng viên cộng sản như tôi hồi đó là đối tượng khủng bố, ruồng bắt của Nhà nước thực dân Pháp. Tuổi Đảng của tôi năm nay là 76 chứ không phải là 75. Việc trao tặng này lẽ ra phải thực hiện từ năm ngoái chứ không phải để sang năm nay …”.

Đại tá Nguyến Đăng Quang kể lại như sau: Sau khi Chi bộ 14 (nơi cụ Vĩnh sinh hoạt) biết cụ Vĩnh bị gây khó khăn trong việc nhận Huy hiệu 75 năm, Chi bộ đã họp 2 buổi để bàn và ra Nghị quyết về việc này. Cả 2 lần Nghị quyết đều có sự tán thành 100% của số đảng viên chi bộ có mặt (Chi bộ 14 có trên 80 đảng viên thì có gần 40 đảng viên là Giáo sư, Tiến sỹ và cán bộ trung cao cấp đã nghỉ hưu). Tất cả đều nhất trí kiến nghị lên Đảng bộ Phường, Đảng bộ Quận và Đảng bộ Thành phố phải trao Huy hiệu 75 năm tuổi Đảng cho lão đồng chí Nguyễn Trọng Vĩnh.

Chi bộ 14 sau đó bị Đảng ủy cấp trên phê phán là vô nguyên tắc vì đã đưa kiến nghị vượt cấp! Nhưng chính họ không hiểu hoặc đã cố tình vi phạm quy định của Đảng là phải trả lời bằng văn bản các kiến nghị của cấp dưới, song họ cố ý lờ đi, buộc Chi bộ 14 phải gửi lên cấp trên tiếp theo, và Chi bộ 14 dự kiến sẽ gửi tiếp kiến nghị này lên Trung ương Đảng nếu Thành ủy Hà Nội cố tình không trao Huy hiệu 75 năm cho lão đảng viên Nguyễn Trọng Vĩnh!

Câu chuyện này chứng tỏ có những chi bộ đã “diễn biến” tốt, trong khi cấp trên nói chung còn rất lú. Thế mà người ta luôn luôn nói: Cấp trên của Đảng bao giờ cũng sáng suốt, chỉ ở dưới thực hiện sai. Chủ nghĩa Mác Lenin rất tuyệt vời, Liên Xô sụp đổ là do làm không đúng.

2) Cũng sáng 1 tháng 9 có cuộc đối đáp giữa anh Phạm Lê Vương Các với lãnh đạo trường Đại học Kinh Doanh & Công Nghệ Hà Nội như sau:

“Thầy hỏi: ‘Em có biết cô Y bên Cục An ninh không’? Tôi trả lời rằng biết vì tôi đã làm việc với cô Y mấy lần.

Rồi Thầy cho biết, bên Tổng Cục an ninh có báo cáo về trường hợp của tôi rồi Thầy nói thẳng thừng: “Em nên nghỉ học ở trường này đi, rút lại hồ sơ và kiếm trường khác mà học”.

Tôi choáng váng mặt mày, tim đập thình thịch, 2 hàm răng bắt đầu run lên và va vào nhau, lỗ tai bắt đầu nóng lên… Tôi im lặng nhìn đăm chiêu ra ngoài cánh cửa, phải mất 2 đến 3 phút sau tôi mới lấy lại bình tĩnh và hỏi: “Thầy cho em biết lý do?”

Thầy nói: “Trường này đào tạo đa ngành, nên đào tạo ngành Luật không tốt bằng mấy trường khác đào tạo chuyên về Luật. Em nên kiếm những trường chuyên về Luật, học ở đó thì sẽ tốt cho em hơn”.

Tôi thở dài… sau một lúc im lặng suy nghĩ tôi đã trả lời rằng: “Em sẽ không rút hồ sơ và sẽ tiếp tục học ở trường này. Vì em đã nhập học được một tuần rồi, nên không thể thay đổi lựa chọn được nữa, vì đã quá muộn.”

Thầy trả lời lại là chưa muộn đâu, bây giờ vẫn còn có thể được, nhưng tôi vẫn giữ nguyên quyết định của mình.

Thầy bắt đầu hơi lớn tiếng và đi thẳng vào vấn đề: “Ai cũng có lý tưởng của riêng mình, em có lý tưởng tự do dân chủ, còn chúng tôi có lý tưởng Cộng sản. Trường này do những người Cộng sản lập ra, và sẽ đào tạo ra những con người thuộc về chế độ chính trị Cộng Sản này.”

Tôi cũng lớn tiếng trả lời: “Khi dự tuyển vào trường này em không thấy chỗ nào giới thiệu trường này là do những người Cộng Sản lập ra, mà trường này là trường Dân lập. Em cũng không quan tâm và không cần biết trường này do Cộng Sản hay Tư Bản lập ra.. Và em cũng nói cho thầy biết, chức năng cao cả của giáo dục không phải là để đào tạo ra những con người thuộc về chế độ chính trị. Mà là đào tạo ra những con người tự do trước chế độ chính trị”.

Thầy: “Nếu không đào tạo ra những con người của chế dộ chính trị thì cũng đào tạo ra những con người để phục vụ cho chế độ chính trị. Giáo dục của Anh, Pháp, Mỹ cũng đào tạo ra những con người để phục vụ cho chế độ chính trị của nó, và giáo dục cũng Việt Nam cũng vậy”.

Tôi: “Giáo dục của họ sinh viên được tự do lựa chọn tư tưởng. Còn các trường đại học ở Việt Nam thì không. Vì các trường đại học của họ được tự trị mà thế lực chính trị không thể can thiệp được, ít nhất về mặt tự do nghiên cứu, học thuật. Còn ở Việt Nam thì không. Thầy xem tất cả trường đại học nào ở Việt Nam mà không có chi bộ Đảng Cộng Sản trong đó không, cho dù đó là trường Dân lập? Và điều đó có cần thiết không?”

Thầy trả lời là cần thiết, và còn cho biết, không chỉ trong các trường đại học có chi bộ Đảng mà còn có cả An ninh để quản lý và theo dõi sinh viên nữa, nên không phù hợp cho tôi theo học trường này.

Một lúc sau Thầy nhẹ giọng: “Tôi biết em đi học Luật để làm gì. Dù An ninh không ép nhà trường phải cho em thôi học vì nhà trường cũng có sự độc lập riêng. Nhưng An ninh đã thông báo về trường, thì nhà trường phải…”.

Tôi hỏi lại: “Giả sử an ninh gây sức ép để trường buộc em thôi học thì nhà trường căn cứ vào đâu để ra quyết định buộc em thôi học?”

Không đợi Thầy trả lời, tôi nói tiếp: “Em nói cho Thầy biết, nhà trường chỉ có thể buộc em thôi học khi em có những hành vi vi phạm phạm luật qua một bản án xét xử của Tòa án. Cơ quan An ninh không có chức năng xét xử mà họ chỉ là cơ quan điều tra. Họ điều tra và báo cáo như thế nào là việc của họ, nhà trường đừng để họ làm thay công việc của Tòa án và xem họ như là Tòa án” ”.

Thật là đĩnh đạc, thông minh và bản lĩnh. Đúng là hậu sinh khả úy, là mầm mống tốt để xây dựng xã hội dân chủ. Nếu Phạm Lê Vương Các bị đuổi học đề nghị các nhà nước dân chủ cho em được tỵ nạn chính trị và bà con ta hãy chung tay tạo điều kiện để em hoàn thành được chương trình đại học luật.

3) Nhà văn Nguyễn Đông Thức viết trên Facebook hôm 2/9: “Báo Tuổi Trẻ có mời tôi viết một bài trong cuốn ‘Chuyện nghề – Chuyện người’, nhân kỷ niệm 40 năm thành lập. Trong phần liệt kê các tên tuổi văn chương sau 1975 xuất hiện từ những ngày đầu trên Tuổi Trẻ, tôi nhắc hàng loạt tên, trong đó có nhà thơ Đỗ Trung Quân, tác giả của những bài thơ ‘Quê hương, Phượng hồng, Những bông hoa trên tuyến lửa’… Ông cũng đã có hơn 12 năm làm phóng viên Tuổi Trẻ …Nhưng khi in sách, cái tên Đỗ Trung Quân trong bài viết của tôi đã… biến mất”.

Chắc không có chỉ thị cụ thể từ cấp trên để giải quyết riêng trường hợp này nhưng vì chủ trương của Đảng đã ngấm vào máu, khoét vào đầu các công bộc nên họ rắp tâm biến mình thành kẻ xảo trá, ty tiện sẵn sàng vứt bỏ lương tâm, bất chấp sự thật và công lý một cách thật bỉ ổi.

Từ lâu, tôi đã chứng nghiệm điều này. Tôi đã có bằng Tiến sỹ từ 1982, luận án của tôi có trong lưu trữ Thư viện Quốc gia, công trình nghiên cứu của tôi đã được tổ chức CCOP của Liên Hợp Quốc mời trình bầy tại một Hội thảo Quốc tế năm 1982, nhưng trong cuốn “Tiến sỹ Việt Nam hiện đại” do nhà xuất bản Văn hóa Thông tin ấn hành tháng 9 năm 2004 người ta cố tình bỏ sót tên tôi. Tập thơ “Những Mẩu Quặng Dọc Đường” của tôi do Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn ấn hành năm 2014 bị Cục Xuất bản bắt thu hồi. Không phải vì Thơ ở trong tập có vấn đề mà cấp trên bắt phải vứt bỏ các bài bình thơ in trong đó. Những bài bình luận này là của những tác giả nổi tiếng: nhà thơ Thanh Thảo, phó Chủ tịch Hội đồng Thơ Việt Nam, nhà thơ Định Hải, nhà thơ Ngô Văn Phú …. Các bài bình đều không mắc tội gì, kể cả tội “sai lập trường” của Đảng, ngoại trừ cái tội khen thơ và tư chất con người Nguyễn Thanh Giang.

Trời ơi, biết bao giờ xã hội ta mới thoát ra được khỏi cái vũng nhầy nhụa của xảo trá, ty tiện hỡi cái đảng của giai cấp công nhân này!

Hà Nội 4 tháng 9 năm 2015

Nguyễn Thanh Giang

Mobi: 0984 724 165

Việt Nam 40 mươi năm chưa qua khỏi cánh đồng?

Việt Nam 40 mươi năm chưa qua khỏi cánh đồng?

TuanVietNam

Nguyễn Minh Nhị, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh An Giang

5-9-2015

Bốn mươi năm thống nhất đất nước, 30 năm đổi mới cơ chế quản lý, mà chúng ta đi không qua khỏi cánh đồng là do tư duy và nền quản trị quốc gia có những vấn đề chưa tương thích?

Lời tựa bài này là niềm tự hào và cũng là nỗi buồn nặng trĩu tâm tư của người viết vì đã có đủ thời gian nếm trải. Tự hào là vì ông cha ta khôn ngoan mở mang bờ cõi về phương Nam, để lại cho con cháu làm chủ cánh đồng lúa nước rộng lớn và tốt thuộc hàng đầu Đông Nam Á. Còn nỗi buồn hay nói đúng ra là lời tự thán là ta đi 40 năm mà chưa thoát ra khỏi “cánh đồng nông nghiệp” và vẫn là nước nghèo, đang phát triển!

Tư duy tầm thế kỷ 19-20

Cách đây ít lâu, tôi đọc báo Tuổi Trẻ, Lao Động, Người Lao động…thấy đăng phát biểu của Chủ tịch QH Nguyễn Sinh Hùng, Bộ trưởng Bùi Quang Vinh, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Ksor Phước, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Phan Trung Lý…về tình hình kinh tế đất nước nói chung, nông nghiệp nói riêng thấy gần đúng với… sự thật.  Gần đúng vì theo tôi, là một người gần như suốt cuộc đời “bám” sản xuất nông nghiệp, đời sống nông dân, tôi thấy bức tranh nông nghiệp nông thôn còn không ít  gam xám.

Như Chủ nhiệm Ủy ban An ninh quốc phòng Nguyễn Kim Khoa nói “Chúng ta cứ vẽ bức tranh đẹp quá mà thực ra QH hay nhà nước đều cần bức tranh tả chân”. “Muốn đánh giá đúng tình hình phải xuống nông thôn xem đồng bào sống thế nào” – như ông vừa mới đi xuống 17 tỉnh, ba quân khu mới trở về.

Việc Đoàn thanh niên cách đây ít lâu đi bán “giải cứu” dưa hấu, hành tím cho dân là câu chuyện thật rất nhân văn nhưng cũng đượm u buồn. Bộ trưởng Kế hoạch & Đầu tư nói: “Các nước tái cơ cấu cao, còn ta thì chậm, cho nên 06 tháng cuối năm 2.015 gặp nhiều thách thức, khó duy trì mức 6,5%  nếu không có giải pháp đột phá”. Vậy mà hàng ngày đọc báo nghe đài, thấy hội nghị nào từ các Bộ xuống tỉnh, huyện, xã cũng nói “tái cơ cấu” rất hay, bây giờ vậy là sao? Chính phủ và các Bộ đang “bàn chuyện giải cứu nông sản” thì giải cứu sao đây?

Bởi đây là vấn đề tích tụ dài lâu từ cơ chế quản lý chứ không phải do một cá nhân nào, cho dù là những người đứng đầu của hệ thống chính trị đất nước tài ba lỗi lạc đi nữa.

10 năm (1975-1985) ta phải “dò đường”, đi trên ruộng nhà mà đói là do chúng ta luẩn quẩn chưa thoát ra khỏi tư duy bao cấp. 30 năm đổi mới, cả nước đi trên hai chân mà ta tự hào là “tam nông”, nghĩa là nông dân làm nông nghiệp và xây dựng nông thôn. Đây là đường lối xuyên suốt qua tất cả các kỳ đại hội và trong các báo cáo về kinh tế xã hội bao giờ cũng bắt đầu từ “sản xuất nông  nghiệp”.

Từng thời kỳ, nhất là những kế hoạch 05 năm sau đổi mới, chọn nông nghiệp làm đột phá vì nông nghiệp luôn luôn là nền tảng kinh tế. Nhưng điều đáng nói, nó hình thành cái nếp tư duy bất biến “nông nghiệp” theo truyền thống “trọng nông”. Giai cấp thì coi trọng cố nông- bần nông, kinh tế thì hạn điền và hộ sản xuất, văn hóa thì làng xã, hành chính là hộ khẩu, nhân tài – cán bộ là huyết thống… Nghĩa là tư duy và cách làm vẫn ở tầm thế kỷ 19 – 20.

Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI là “đến năm 2020 nước ta phải trở thành nước có thu nhập trung bình và cơ bản trở thành một nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại”. Chỉ còn 05 năm nữa thôi, nhưng hiện nay ta chỉ mới đạt 2.000 USD/ người, trong khi những nước đạt 5.000 USD/ người, các nhà kinh tế vẫn cho là chưa thoát cái “bẫy thu nhập trung bình”.

Công nghiệp ô-tô, ta đã bỏ qua chiếc La Dalat những năm trước 1975 và chiếc Mê-Công những năm 1990 đã tự sản xuất để đi làm thợ lắp ráp cho Toyota, Hyundai… Ngay như công tác xóa đói giảm nghèo sau 30 năm thừa gạo, dư cá mà vẫn còn chương trình “xóa đói giảm nghèo” và tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng vẫn còn cao. Nhất là ở ngay vựa lúa- cá Đồng bằng Cửu Long mà chỉ sánh bằng với Tây Nguyên.

Và năm nào cũng vậy, kể cả 2014 vừa rồi tuy không có thiên tai lớn như các năm trước nhà nước vẫn phải cứu đói cả vạn tấn gạo cho các tỉnh miền ngoài. Ông Ksor Phước còn chỉ cách thống kê: “Các đồng chí thử lấy lượng gạo Thủ tướng quyết định cứu đói hàng năm chia ra xem bao nhiêu hộ đang trong tình trạng phải chờ cứu”.

Dân là gốc

ĐBSCL là vựa lúa của cả nước. Ảnh: SGGP

Cái gì cũng có giới hạn: Ở lâu trong tối dễ mờ mắt, trong ánh sáng chói lâu cũng dễ bị lòa mắt. Từ thiếu đói vụt cái VN ta xuất khẩu gạo, rồi cá tra, cà phê, cao su, hồ tiêu, hạt điều… đều vào loại tốp đầu thế giới. Việc đầu tư xây dựng điện đường trường trạm, nhà ở mái ngói mái bằng, xe máy, ô tô… cho đến đầu những năm 2.000 đem lại sự đổi đời thấy rõ. Chúng ta có quyền tự hào về sự đổi thay diện mạo cuộc sống đó.

Tự hào là chính đáng, nhưng tự hào mà quên mất những khiếm khuyết của cơ chế quản lý, cùng những bất cập, non kém của ngành nông nghiệp nên mới dẫn đến không ít hệ lụy. Ông Lý Quang Diệu ngay ngày đầu lập quốc đã thấy viễn cảnh không xa Hồng Công sẽ về Trung Quốc nên âm thầm xây dựng Singapore thay vị trí ấy của Hồng Công.

Ông thành công, nhưng ông cũng thấy trước vai trò trung chuyển các dịch vụ tài chính, hàng hải của Singapore sắp giảm, ông chuyển qua thu hút giáo dục, y tế… Những chuyến đi sau khi thôi chức Thủ tướng, cho đến trước khi qua đời không lâu ông vẫn còn làm việc này cho đảo quốc. Đó là tấm gương có tầm nhìn xa và không thỏa mãn thành quả.

Muốn tái cơ cấu kinh tế, trước hết phải tái cấu trúc mô hình hệ thống quản trị trên tinh thần dân chủ, lấy “dân là gốc”.

Nguyên phó Thủ tướng Vũ Khoan có lần đã nói, đại ý: “Suy thoái kinh tế thế giới thì đâu cũng bị ảnh hưởng, nhưng tại sao Lào và Campuchia không khó khăn như ta”.

Bốn mươi năm thống nhất đất nước, 30 năm đổi mới cơ chế quản lý, mà chúng ta đi không qua khỏi cánh đồng là do tư duy và nền quản trị quốc gia có những vấn đề chưa tương thích?

Còn nguyên nhân kinh tế trực tiếp là do con đường huyết mạch xuyên Việt (QL 1A) chưa xong và cảng cho cánh đồng “vựa lúa” chưa có cho tàu một vạn tấn thì làm sao cả nước thoát nghèo? Người viết đã kinh qua từ xã đến tỉnh suốt 40 năm làm nông nghiệp và sống với nông dân để viết ra ra những lời tâm huyết này.

BÀI GIÁO LÝ CỦA ĐTC PHANXICÔ VỀ CẦU NGUYỆN TRONG GIA ĐÌNH

BÀI GIÁO LÝ CỦA ĐTC PHANXICÔ VỀ CẦU NGUYỆN TRONG GIA ĐÌNH

Tác giả:  Phaolô Phạm Xuân Khôi

“Nếu tình yêu đối với Thiên Chúa không thắp lên ngọn lửa, thì tinh thần cầu nguyện không sưởi ấm thời gian được.… Một tâm hồn được tình yêu đối với Thiên Chúa cư ngụ biến ngay cả một tư tưởng không lời, hay một lời khẩn cầu trước một ảnh thánh, hoặc một nụ hôn gửi đến nhà thờ, thành lời cầu nguyện.”

Dưới đây là bản dịch bài Giáo Lý của ĐTC Phanxicô được ban hành ngày 26 tháng 8 năm 2015 trong buổi Triều Yết Chung tại Quảng trường Thánh Phêrô.  Hôm nay ĐTC tiếp tục chu kỳ Giáo Lý về Gia Đình.  Ngài giải thích về tầm quan trọng của việc Cầu Nguyện trong gia đình.

* * *

Anh chị em thân mến, chào anh chị em!

Sau khi suy nghĩ về cách các gia đình sống thời gian nghỉ lễ và làm việc, giờ đây chúng ta xét đến thì giờ cầu nguyện. Lời than phiền thông thường nhất của các Kitô hữu về thì giờ là: “Tôi đáng lẽ phải cầu nguyện nhiều hơn…; tôi muốn làm điều ấy, nhưng tôi thường không có thì giờ.”  Chúng ta thường xuyên nghe thấy lời than ấy.  Sự hối tiếc này chắc chắn là chân thành, bởi vì tâm hồn con người luôn luôn tìm cách cầu nguyện, ngay cả khi không ý thức điều ấy; và nếu không tìm được nó thì không thấy bình an.  Nhưng để chúng gặp nhau, chúng ta phải vun trồng trong tâm hồn mình một tình yêu “nồng nàn” với Thiên Chúa, một tình yêu trìu mến.

Chúng ta có thể đặt ra một câu hỏi rất đơn giản.  Thật tốt khi hết lòng tin vào Thiên Chúa, thật tốt khi hy vọng Ngài giúp chúng ta lúc gặp khó khăn, thật tốt khi cảm thấy có bổn phận phải cảm tạ Ngài.  Rất tốt.  Nhưng chúng ta có yêu Chúa, dù một chút không?  Suy nghĩ về Thiên Chúa có làm cho chúng ta cảm động, ngạc nhiên và mềm lòng không?

Chúng ta hãy nghĩ đến công thức của điều răn trọng nhất, là điều răn nâng đỡ tất cả các điều răn khác: “Ngươi hãy kính mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết sức ngươi” (Đnl 6:5; x Mt 22:37).  Công thức này sử dụng ngôn ngữ mãnh liệt của tình yêu, đổ dồn vào Thiên Chúa. Đấy, tinh thần cầu nguyện sống trước hết ở đây.  Và nếu nó ở đây thì nó ở luôn mãi và không bao giờ đi ra nữa.  Chúng ta có thể nghĩ về Thiên Chúa như là cái vuốt ve giữ cho chúng ta được sống, mà trước đó không có gì không?  Một cái vuốt ve mà không có gì, ngay cà cái chết, có thể tách chúng ta ra được không?  Hay có phải chúng ta chỉ nghĩ rằng Ngài là Đấng cao cả, Đấng Toàn Năng, đã tạo nên mọi sự, là vị Thẩm Phán kiểm soát mọi hành động của chúng ta?  Đương nhiên, tất cả là sự thật.  Nhưng chỉ khi Thiên Chúa là tình thương mến trên tất cả các tình thương mến của chúng ta, thì ý nghĩa của những lời này mới trở nên trọn vẹn.  Khi ấy, chúng ta cảm thấy hạnh phúc, dù hơi “bối rối”một chút, vì Ngài nghĩ đến chúng ta và đặc biệt yêu thương chúng ta!  Đó không phải là điều cảm động sao?  Không cảm động sao khi Thiên Chúa vuốt ve chúng ta bằng tình yêu của một người Cha?   Thật quá đẹp!  Ngài đã có thể đơn thuần làm cho người ta nhận biết Ngài là Đấng Tối Cao, ban hành các giới răn của Ngài và chờ đợi kết quả.  Nhưng thay vào đó, Thiên Chúa đã và đang làm hơn điều này một cách vô cùng.  Ngài đồng hành với chúng ta trên đường đời, che chở và yêu thương chúng ta.

Nếu tình yêu đối với Thiên Chúa không thắp lên ngọn lửa, thì tinh thần cầu nguyện không sưởi ấm được thời gian.  Như Chúa Giêsu nói, chúng ta có thể đọc nhiều lời “như dân ngoại làm”; hoặc thậm chí phô trương các nghi lễ của mình, “như những người Biệt Phái đã làm” (Mt 6:5.7).  Một tâm hồn được tình yêu đối với Thiên Chúa cư ngụ biến ngay cả một tư tưởng không lời, hay một lời khẩn cầu trước một ảnh thánh, hoặc một nụ hôn gửi đến nhà thờ, thành lời cầu nguyện.  Và tốt đẹp thay khi các bà mẹ dạy những đứa con nhỏ của họ gửi một nụ hôn đến Chúa Giêsu hay Đức Nữ Trinh Maria.  Có biết bao nhiêu sự dịu dàng trong việc này!  Khi ấy trái tim của trẻ em biến thành một nơi cầu nguyện.  Và đó là một hồng ân của Chúa Thánh Thần.  Đừng bao giờ quên cầu xin hồng ân này cho mỗi người chúng ta!  Bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa có cách nói đặc biệt của Ngài trong tâm hồn chúng ta, “Abba” – “Cha ơi”, Ngài dạy chúng ta nói “Cha ơi” như Chúa Giêsu đã nói, một cách nói mà chúng ta không bao giờ có thể tự mình tìm ra được (xem Gl 4: 6).  Chính trong gia đình mà chúng ta học cầu xin hồng ân này của Chúa Thánh Thần và trân quý nó. Nếu anh chị em học nó với cùng một sự bộc phát như khi anh chị em học cách gọi “cha ơi” và “mẹ ơi”, thì anh chị em đã học được nó mãi mãi.  Khi điều này xảy ra, thời gian cho toàn thể cuộc sống gia đình được bao bọc trong cung lòng của tình yêu Thiên Chúa, và chúng ta tự nhiên tìm được thì giờ cầu nguyện.

Như chúng ta biết rõ, thì giờ của gia đình là thì giờ phức tạp và eo hẹp, bận rộn và bận tâm.  Nó luôn luôn ít, không bao giờ đủ, có quá nhiều điều để làm. Ai đã có gia đình sớm học được cách giải một phương trình mà ngay cả các nhà toán học vĩ đại cũng không làm sao mà giải nổi: người ta làm gấp đôi trong vòng hai mươi bốn giờ!  Có những bà mẹ và những người cha có thể thắng giải Nobel vì việc biến 24 giờ thành 48 giờ này:  Tôi không biết họ làm điều ấy thế nào, nhưng họ tra tay và làm!  Có quá nhiều công việc trong một gia đình!

Tinh thần cầu nguyện dâng thì giờ cho cho Thiên Chúa, ra khỏi sự ám ảnh của một cuộc sống luôn thiếu thì giờ, tìm thấy sự bình an nơi những điều thiết yếu, và khám phá ra niềm vui của những món quà bất ngờ.  Hai vị hướng dẫn tốt cho việc này là hai chị em cô Martha và Mary, được đề cập trong bài Tin Mừng mà chúng ta vừa nghe; hai cô đã học được từ Thiên Chúa sự hài hòa của các nhịp điệu trong gia đình: vẻ đẹp của ngày lễ nghỉ, sự thanh thản của công việc và tinh thần cầu nguyện (x. Lc 10:38-42).  Cuộc viếng thăm của Chúa Giêsu, Đấng mà họai cô yêu mến, là ngày lễ của hai cô.  Tuy nhiên, là một ngày mà cô Martha đã học được rằng công việc tiếp đãi khách, dù quan trọng, nhưng không phải là tất cả, mà việc lắng nghe Chúa, như cô Maria, lại là điều thiết yếu, là “phần tốt nhất” của thì giờ.  Cầu nguyện phát sinh từ việc lắng nghe Chúa Giêsu, từ việc đọc Tin Mừng.  Anh chị em đừng quên đọc một đoạn Tin Mừng mỗi ngày. Cầu nguyện phát sinh từ lòng tin tưởng vào Lời Chúa.  Chúng ta có lòng tin tưởng này trong gia đình của mình không?  Chúng ta có sách Tin Mừng trong nhà không?  Chúng ta có đôi lúc mở nó ra để đọc với nhau không?  Chúng ta có suy niệm về nó khi đọc kinh Mân Côi không? Tin Mừng được đọc và suy niệm trong gia đình giống như một bánh bổ dưỡng nuôi tâm hồn mọi người.  Vào buổi sáng và buổi tối, và khi chúng ta ngồi vào bàn ăn, chúng ta học cách cùng nhau đọc một lời cầu nguyện, rất đơn sơ: chính là Chúa Giêsu đến giữa chúng ta, như Người đã đến với gia đình các cô Martha, Maria và Lazarô.  Có một điều mà tôi giữ mãi trong lòng vì tôi đã nhìn thấy trong thành: có những trẻ em đã không học làm Dấu Thánh Giá! Nhưng anh chị em, bậc cha mẹ, hãy dạy con con cái mình cầu nguyện, làm Dấu Thánh Giá: đây là một nhiệm vụ cao quý của các bà mẹ và các người cha!

Trong lời cầu nguyện của gia đình, trong những lúc mạnh mẽ cũng như những khi khó của nó, chúng ta được Chúa trao phó cho nhau, để mọi người trong gia đình được tình yêu của Thiên Chúa che chở..

Phaolô Phạm Xuân Khôi chuyển ngữ

http://giaoly.org/vn/

Nguyên bản: http://w2.vatican.va/content/francesco/it/audiences/2015/documents/papa-francesco_20150826_udienza-generale.html

Tác giả:  Phaolô Phạm Xuân Khôi

Phó tổng thư ký Thanh Niên online bị cách chức và thu thẻ nhà báo

Phó tổng thư ký Thanh Niên online bị cách chức và thu thẻ nhà báo

Nguoi-viet.com

SAIGON, Việt Nam (NV) – Ngày 4 Tháng Chín, Thứ Trưởng Bộ Thông Tin Và Truyền Thông CSVN Trương Minh Tuấn đã ký quyết định số 1485/QĐ-BTTTT về việc thu hồi thẻ nhà báo của ông Đỗ Văn Hùng, nguyên Phó Tổng Thư Ký Tòa Soạn Báo Điện Tử Thanh Niên.

Nhà báo Đỗ Hùng. (Hình: Facebook)

Quyết định nêu rõ: “Thu hồi Thẻ nhà báo mang số hiệu IBT 00209, thời hạn 2011-2015 của ông Đỗ Văn Hùng được cấp tại Báo Thanh niên, vì ông Đỗ Văn Hùng đã bị xử lý miễn nhiệm chức vụ Phó Tổng thư ký toà soạn Báo điện tử Thanh niên.”

Cũng theo quyết định này, “Báo Thanh niên có trách nhiệm thu hồi Thẻ nhà báo của ông Đỗ Văn Hùng nộp về Bộ Thông tin và Truyền thông (qua Cục Báo chí) trước ngày 18 tháng 9 năm 2015.”

Quyết định này ngoài yêu cầu “Báo Thanh Niên và ông Đỗ Văn Hùng chịu trách nhiệm thi hành quyết định” thì cũng đồng thời gửi tới “Ban Tuyên Giáo Trung Ương, A87 Bộ Công An.”

Quyết định thu hồi thẻ nhà báo của ông Đỗ Văn Hùng. (Hình: Facebook)

Trước đó, Tổng Biên Tập Báo Thanh Niên đã ký quyết định số 65/QĐ-TN ngày 3 Tháng Chín về việc xử lý miễn nhiệm chức vụ Phó Tổng Thư Ký Tòa Soạn Báo Điện Tử Thanh Niên đối với ông Đỗ Văn Hùng.

Báo chí trong nước cũng chỉ loan tin ông Đỗ Văn Hùng bị cách chức và bị thu hồi thẻ nhà báo theo quyết định của Bộ Thông Tin Và Truyền Thông CSVN.

Tuy nhiên, giới nhà báo trong nước cho rằng ông Đỗ Văn Hùng “gặp nạn” do một đoạn ngắn trên Facebook cá nhân của ông Hùng.

Ông Đỗ Văn Hùng, thường được biết với tên Đỗ Hùng, và là facebooker Mít Tờ Đỗ.

Ngày 2 Tháng Chín, trên Facebook của mình, ông Hùng đăng tải một status “toàn dấu sắc”, nhan đề “Quốc khánh”, chơi chữ và có tính chất trào phúng:

“Lúc ấy, Thế chiến (thứ mấy tớ đéo nhớ), Đế quốc đánh với Phát xít. Phía Phát xít, Thống chế chết. Đám tướng tá, lính lác đánh đấm kém, chết hết đéo sót mấy mống. Phía Đế quốc thắng lớn. Thế chiến kết thúc.

Chớp lấy cái thế ấy, bác Ái Quốc, tướng Giáp với mấy chú, mấy mế xứ Pác Bó vác cuốc, vác giáo mác, vác súng ống xuống đánh phát xít, đánh Pháp, cướp lấy khí giới, cướp thóc, chiếm bốt, cứ thế đánh tới bến.

Đánh tới cuối tháng 8, bác Ái Quốc thắng lớn. Bác ấy với các chú kéo xuống Giáp Bát, chiếm phố, chiếm lấy bốt phát xít, chiếm hết. Hết đánh đấm, bác ấy nói: ‘Các chú thắng phát xít, thắng Pháp, quá xuất sắc.’

Tới tháng 9, bác ấy xuống phố bố cáo quốc khánh. Bác ấy nói: ‘Đất nước hết chiến đấu, hết đói kém. Phát xít cút. Đế quốc Pháp cút. Các mế, các chú, các cháu bé hết khóc lóc. Thế giới bác ái…’

Nói tới đó, bác Ái Quốc thắc mắc: ‘Bác nói thế các chú, các mế, các cháu có thấy quá lí nhí?’

Bá tánh phía dưới đáp: ‘Chúng cháu thấy bác nói rất lớn. Nói thế quá tốt!’

Tướng Giáp đứng kế đó thét lớn: ‘Quyết chiến quyết thắng!’

Bá tánh đáp: ‘Quyết thắng! Quyết thắng!’

Hết!

(Chúc các bác Quốc khánh sướng nhé!)”

Status nhan đề “Quốc khanh” trên Facebook của nhà báo Đỗ Hùng. Hiện status này đóng. (Hình: Facebook)

Status này được đăng tải trên Facebook cá nhân của ông Đỗ Văn Hùng. Chỉ một tiếng sau, nó đã được trang Facebook của dư luận viên là “đơn vị tác chiến điện tử” tha về, rỉa rói, xâu xé như:

“Nguyễn Dược: Nhà báo gì mà thô tục thế”

“Nguyễn Thu Trang: Các nhà báo phải có cái đầu ít ra là bình thường mới làm được nghề… Hôm nọ có bác gửi cho mình cái ảnh chụp status của nhà báo Đỗ Hùng. Đọc xong thấy anh rấy có cái đầu không bình thường… Nói xấu Bác Hồ là mình ghét”

“Hiền Anh: Không có tâm và tuyên truyền bậy bạ thì cầm bút sao nổi? Thể hiện sự không hiểu biết… Chửi cái gì cũng được nhưng nói xấu Bác là mình cực ghét…”

Trong khi đó, một số facebooker thì:

“Tuyet Anh Jethwa: Đọc bao nhiêu cái quyết định trên mạng chả tìm được cái nào nêu rõ lý do vì sao bị thu thẻ??? Không thẻ càng khỏe viết”

“Dũng Quang Lương: Không nêu lý do và tội danh, sao bị thu thẻ nhà báo nhỉ???”

“Nguyễn Thông: Hùng chơi Facebook, bởi là đứa thông minh, hài hước, dí dỏm nên những status y phát lên đều gây cười, tiếng cười thoải mái. Y không chừa thứ gì, miễn là có thể cười, từ chuyện ăn thịt chó, đi xe đạp, đến chuyện quốc sự. Tôi có lần nhắc y, gì thì gì, cũng cần lơ đi vài thứ, nhưng cứ lâu lâu lại thấy y xé rào. Chỉ cốt cười. Và lần này thì tai vạ. Đụng đến cụ Hồ, đến thần tượng của họ, đến cả Tuyên ngôn độc lập thì họ không thể tha. Chỉ trong ba ngày từ khi Hùng đăng status lên Facebook, nhà chức việc có ngay quyết định kỷ luật cách chức Phó tổng thư ký tòa soạn, tước thẻ nhà báo, do đích thân thứ trưởng Bộ Thông tin – Truyền thông ký. Lần này thì khiếu hài hước đã hại Hùng, bạn nghề mà tôi rất trân trọng, quý mến.” (Q.D.)

Thất nghiệp và nghèo đói làm gia tăng đội ngũ cửu vạn

Thất nghiệp và nghèo đói làm gia tăng đội ngũ cửu vạn

Nhóm phóng viên tường trình từ VN
2015-09-04

Thất nghiệp và nghèo đói làm gia tăng đội ngũ cửu vạn Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

cuu-van-622.jpg

Cửu vạn đợi hàng để chở – Với mỗi kg hàng kéo thuê thế này họ sẽ được trả hai ngàn đồng.

RFA PHOTO

Your browser does not support the audio element.

Nạn buôn lậu không phải mới có; nhưng vấn đề mà chúng tôi muốn nói ở đây là đội ngũ cửu vạn đã gia tăng một cách bất thường bởi nạn thất nghiệp và nghèo đói. Điều này dẫn đến tình trạng cửu vạn liều lĩnh, chấp nhận mọi nguy hiểm để kiếm đủ tiền mua gạo mỗi ngày. Đây cũng là cơ hội để dân buôn lậu hoành hành, chèn ép cửu vạn và chấp nhận mất hàng nếu bị bắt vì lấy số nhiều làm lãi. Có thể nói rằng biên giới Việt – Lào ở Khe Sanh, Hướng Hóa, Quảng Trị là cái ổ buôn lậu lớn hiện nay.

Mất mùa và thất nghiệp

Những trận gió Lào gay gắt cùng lổn ngổn các công trình xây dựng mọc lên từ những đám ruộng đã đẩy người nông dân lùi dần vào thất nghiệp và chán chường. Nếu như các công trình xây dựng, các dự án đã dần cắt nhỏ, thu hẹp đám ruộng của người nông dân thì gió Lào cùng cái nóng như thiêu như đốt, khô hạn đã làm cho người nông dân hoàn toàn tuyệt vọng trên đám ruộng của họ. Họ buộc phải chọn tha phương cầu thực hoặc lây lất giữa quê nhà.

Người được cấp hai sào lận. Bây giờ người ta dồn điền đổi thửa, mình còn ruộng ít hơn. Gió Lào mình cũng ít sợ so với nước lụt, sợ không phơi được lúa. Nhưng gió Lào cũng ghê lắm, gió mà không mang hơi nước, cây cối khô hết…
-Chị Hồ Thị Lùng

Chọn công việc nặng nhọc, nguy hiểm như khuân vác hàng lậu, còn gọi là cửu vạn cũng là một phương cách cứu đói của các nông dân mất ruộng hoặc mất mùa. Đặc biệt là các nông dân, thợ rừng đồng bào thiểu số Vân Kiều, Pa Kô. Chị Hồ Thị Lùng, dân tộc Vân Kiều, hiện trú ở Hướng Nghiệp, Hướng Hóa, chia sẻ: “Người được cấp hai sào lận. Bây giờ người ta dồn điền đổi thửa, mình còn ruộng ít hơn. Gió Lào mình cũng ít sợ so với nước lụt, sợ không phơi được lúa. Nhưng gió Lào cũng ghê lắm, gió mà không mang hơi nước, cây cối khô hết…”

Theo chị Lùng, hiện nay, số lượng người đồng bào thiểu số tham gia làm cửu vạn, bốc hàng thuê cho các chủ buôn lậu tại Khe Sanh, Hướng Hóa có thể lên đến hàng ngàn người. Họ không đồng loạt làm việc mà luân phiên theo thứ tự trong tuần. Bởi quá nhiều cửu vạn nhưng có ít chủ buôn lậu nên các chủ buôn chia làm ba phiên để cửu vạn khỏi bị thiệt thòi.

Nghĩa là trong một tuần có sáu ngày, bỏ ngày đầu tuần vì đây là ngày công an biên phòng và bộ đội biên phòng giao ban, họ sẽ làm việc gắt gao. Những ngày khác, cứ mỗi nhóm được làm việc hai ngày, sau đó đến nhóm khác, ba nhóm chia nhau làm việc trong sáu ngày. Mỗi ngày, nếu bốc vác cật lực người ta sẽ kiếm được từ 150 ngàn đồng đến 200 ngàn đồng. Đối với nông dân nghèo, quen chịu khổ, hai trăm ngàn đồng là một con số mơ ước. Chính vì vậy không ai bỏ qua cơ hội này.

cuu-van-400.jpg

Ngày càng nhiều người dân nơi đây làm cửu vạn thồ hàng lậu vì mất mùa dẫn đến đói, nghèo. RFA PHOTO.

Như vậy, nếu chia đều trong một tháng, mỗi cửu vạn sẽ kiếm được một triệu sáu trăm ngàn đồng nếu siêng làm việc và mọi chuyện suông sẻ. Thời gian còn lại, người ta sẽ đi hái măng rừng hoặc kiếm củi rừng để bán thêm. Tính ra thu nhập cao hơn rất nhiều so với việc bám đám ruộng khô cằn mà không biết cuối mùa sẽ ra sao.

Trường hợp không may mắn, nếu như bị bắt hàng, mất hàng do bỏ chạy, chủ hàng sẽ trừ tiền để đền hàng, thường thì chủ hàng chịu 50% và cửu vạn chịu 50% giá trị gùi hàng. Nếu mất hàng, có khi tiền khuân vác cả tháng chỉ đủ để bù vào gùi hàng. Chính vì vậy mà bằng mọi giá, cửu vạn phải băng rừng, luồn lách để mang hàng về đúng điểm tập kết. Bởi mỗi ký lô hàng khuân vác chỉ được trả từ hai ngàn đồng đến ba ngàn đồng. Trung bình, một người siêng năng, khỏe mạnh, mỗi ngày phải gùi đủ một trăm ký lô hàng lậu băng rừng về đến điểm tập kết thì kiếm được hai trăm ngàn đồng.

Với một phụ nữ quen làm việc trong rừng, quen vác củi và chịu đựng mưa nắng, chị Lùng nói rằng mỗi lần gùi, chị có thể gùi được từ bốn chục đến năm chục ký lô hàng. Thường là hàng điện tử hoặc các loại nhu yếu phẩm, nếu là thuốc lá thì không thể gùi được khối lượng như vậy vì hàng nhẹ, kềnh càng, mỗi lần gùi có thể hai chục hoặc ba chục ký lô. Nhưng bù vào, hàng thuốc lá lậu được trả đến bốn ngàn đồng trên mỗi ký nên dân cửu vạn rất ưa được khuân vác thuốc lá.

Khối lượng hàng lậu khổng lồ

Một cửu vạn khác tên Hồ Văn Tính, người dân tộc Pa kô, chia sẻ thêm: “Gió Lào thì từ tháng tháng Ba đến tháng Sáu, nó làm khô hết ruộng nương, rừng rẫy. Bữa nay bắt đầu mùa mưa rồi đây. Năm nay thì mưa cũng mưa bình thường chứ chưa mưa lụt to như mấy năm đâu, bởi mùa mưa mới bắt đầu…”

Gió Lào thì từ tháng tháng Ba đến tháng Sáu, nó làm khô hết ruộng nương, rừng rẫy. Bữa nay bắt đầu mùa mưa rồi đây. Năm nay thì mưa cũng mưa bình thường chứ chưa mưa lụt to như mấy năm đâu, bởi mùa mưa mới bắt đầu…
-Ông Hồ Văn Tính

Theo ông Tính, nếu tính khối lượng hàng hóa mỗi ngày tuồn qua đường rừng, xuyên về Việt Nam có thể lên đến hàng chục tấn, thậm chí vài chục tấn. Bởi lấy số lượng cửu vạn nhân với số lượng hàng hóa của anh ta/chị ta khuân vác được thì sẽ biết ngay lượng hàng lậu đi vào Việt Nam mỗi ngày.

Ông Tĩnh cho biết thêm là hàng hóa tuy từ bên Lào tuồn sang Việt Nam nhưng lại có gốc gác Trung Quốc là chủ yếu. Hầu hết hàng hóa Trung Quốc sản xuất tại một số điểm bí mật ở các vùng thôn quê tại Lào đều được đưa sang Việt Nam theo cửa khẩu Quảng Trị. Nghĩa là không như trước đây, hàng hóa Trung Quốc sản xuất tại Trung Quốc. Hiện tại, một số đầu nậu, nhà sản xuất hàng lậu của Trung Quốc sang Lào thuê mặt bằng, thuê nhân công để sản xuất một số mặt hàng như trứng gà, vỏ lốp xe, bàn ủi, linh kiện điện tử và đặc biệt là đồ chơi trẻ em.

Trong dịp Tết Trung Thu này thì người ta sản xuất bánh Trung Thu và đồ chơi trẻ em nhiều nhất. Ngày nào cửu vạn cũng chuyển sang Việt Nam từ vài tấn đến hàng chục tấn bánh Trung Thu do các chủ người Trung Quốc sản xuất tại đất Lào. Và số lượng đồ chơi trẻ em được chuyển sang Việt Nam thì nhiều vô kể, không thể kiểm soát được.

Theo ông Tính, hầu hết hàng hóa Trung Quốc không có nhãn mác, không có xuất xứ rõ ràng đều có địa điểm sản xuất tại đất Lào, khác xa với người ta tưởng là Trung Quốc sản xuất các loại hàng này tại Trung Quốc. Đương nhiên không loại trừ số lượng hàng hóa khổng lồ từ Trung Quốc cũng không có nhãn mác tuồn sang Việt Nam. Nhưng hiện tại, có vẻ như hàng hóa Trung Quốc sản xuất trên đất Lào, không có nhãn mác chảy sang Việt Nam theo đường hàng lậu đang phát triển cao, khó mà kiểm soát được số lượng cũng như mức độ nguy hiểm của nó.

Và cũng theo ông Tính, hầu hết nông dân nghèo khổ ở các huyện trong tỉnh Quảng Trị đều đổ xô về Hướng Hóa để làm cửu vạn chứ không riêng gì các nông dân của các tộc người thiểu số hoặc các nông dân bị mất đất mới tham gia công việc này mà hầu hết những người có thu nhập thấp đều tìm đến làm cửu vạn. Bởi nghề khuân vác, cửu vạn như một lối thoát của nạn thất nghiệp, mất đất và mất mùa tại đây. Cái nghèo đã đưa chân người nông dân đến với công việc này!

Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam.

Một xã hội ổn định với những khối ung thư tiềm ẩn

Một xã hội ổn định với những khối ung thư tiềm ẩn

Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok
2015-09-03

09032015-cover-up-instability.mp3 Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

Những người dân oan có mặt tại Hà Nội bắt đầu xuống đường diễu hành biểu tình lớn, kéo vào trung tâm TP Hà Nội với sự tham gia của gần 1000 người phản đối bản án của bà Cấn Thị Thêu.(tháng 11, 2014)

Những người dân oan có mặt tại Hà Nội bắt đầu xuống đường diễu hành biểu tình lớn, kéo vào trung tâm TP Hà Nội với sự tham gia của gần 1000 người phản đối bản án của bà Cấn Thị Thêu.(tháng 11, 2014)

File photo

Chính quyền Hà Nội luôn cho rằng xã hội Việt Nam hiện đang rất ổn định, đặc biệt mỗi khi xảy ra những bất ổn ở những nước trong khu vực như đánh bom, biểu tình quần chúng…

Thực chất có đúng thế không hay đang có rất nhiều mầm mống bất ổn trong nước?

Những vụ ‘chém giết’

Vào mấy tháng gần đây truyền thông trong nước loan tin một số vụ thảm sát được mô tà là ‘kinh hoàng’ như vụ giết chết 6 người trong một gia đình tại Bình Phước; rồi vụ cả 4 người trong một nhà bị giết giữa rừng ở Nghệ An, chuyện thảm sát ở Khe Sanh, Quảng Trị; rồi ở huyện Chư Prong tỉnh Gia Lai mới hôm ngày 23 tháng 8, hung thủ dùng dao chém chết 4 người và làm bị thương 3 người…

Dân tiếp tục kêu oan

Hiện nay tại Hà Nội nhiều người dân từ các địa phương khắp nơi trên cả nước thường xuyên tập trung với những biểu ngữ kêu oan về những hành xử của chính quyền địa phương đối với họ trong nhiều năm qua.

Một cựu tù nhân bị bắt và bỏ tù khi quay lại cảnh cưỡng chế trái luật của cơ quan chức năng, bà Cấn Thị Thêu, cho biết lý do vì sao họ phải liên tục đến các cơ quan công quyền trung ương tại Hà Nội để khiếu kiện:

“ Họ cướp hết đất của chúng tôi, chúng tôi đi kiếu kiện 7 năm trời theo đúng chính sách, pháp luật của nhà nước; nhưng họ cứ ‘dưới đùn lên, trên đùn xuống’ không giải quyết cho chúng tôi. Chúng tôi không còn cách nào nữa: đòi một ngày không được, chúng tôi phải đòi hai ngày, 1 tháng không được, phải đòi 2 tháng… Chúng tôi sẽ tiếp tục đi đòi cho đến khi nào họ trả lại quyền lợi cho chúng tôi, chúng tôi mới dừng đấu tranh.

Họ cướp hết đất của chúng tôi, chúng tôi đi kiếu kiện 7 năm trời theo đúng chính sách, pháp luật của nhà nước; nhưng họ cứ ‘dưới đùn lên, trên đùn xuống’ không giải quyết cho chúng tôi

bà Cấn Thị Thêu

Chúng tôi nghĩ họ thể hiện bản chất ăn cướp của họ: cướp hết đất của chúng tôi, đẩy chúng tôi vào cảnh nghèo đói, cùng quẩn; này họ cho rằng chúng tôi đi như thế là mất cảnh quan đô thị, mất vệ sinh. Điều đó theo tôi cho thấy họ không suy nghĩ gì đến người dân chúng tôi cả, họ chĩ lo vơ vét cho đầy túi tham của họ, bỏ mặc người dân sống đói nghèo, lay lắt! Đó là điều mà chúng tôi căm thù, lên án họ.

Chúng tôi mong muốn những bà con trong và ngoài nước cùng chúng tôi lên án những hành vi, hành động phi pháp của nhà nước Việt Nam gây ra tội ác, đẩy chúng tôi đến cảnh phải khổ thế này: bị tù oan sai, bị đánh đập, bị mất hết tư liệu sản xuất. Chúng tôi mong muốn tất cả bà con giúp đỡ nhân dân chúng tôi.”

Nhiều lần cơ quan chức năng các địa phương đã đến tại thủ đô đưa người dân về lại quê quán của họ. Cơ quan chức năng cho rằng người dân đi khiếu kiện là gây mất vẻ mỹ quan của thành phố, gây bất ổn xã hội. Tuy nhiên ngày càng có nhiều người vì bị đối xử bất công, vụ việc của họ không được giải quyết theo đúng pháp luật của chính quyền Hà Nội đưa ra nên họ cho rằng chính hành xử của cơ quan công quyền mới là nguyên nhân dẫn đến những bất ổn trong xã hội.

Người dân biểu tình phản đối Trung Quốc lấn chiếm lãnh hải cũng bị đánh đập bắt bớ

Người dân biểu tình phản đối Trung Quốc lấn chiếm lãnh hải cũng bị đánh đập bắt bớ

Nhận định thực tế

Ông Vũ Văn Luân, tổng thư ký Liên chi hội Nuôi trồng thủy sàn Nước lợ huyện Tiên Lãng, người được cựu tù nhân Đoàn Văn Vươn ủy quyền đứng đơn một số vụ kiện khi ông này đang ở trong tù, đưa ra nhận định về nguyên nhân dẫn đến những bất ổn tại Việt Nam như sau:

“Theo như Mác nói, một xã hội phát triển phải có những yếu tố: dân chủ và phân chia quyền lực. Dân chủ để phản biện và phân chia quyền lực để giám sát. Nhưng xã hội Việt Nam không học theo Mác nên sự độc quyền cực lớn: độc quyền nhà nước và tham nhũng. Việt Nam đang rơi vào 2 cái ‘bẫy’ này.

Tôi khẳng định nếu không có báo chí tư nhân thì không có tiếng nói phản biện của người dân trong xã hội này. Nếu không có tiếng nói phản biện thì không thể nào tìm được một hình ảnh và một gương lãnh đạo tốt cho xã hội.”

Còn theo cựu tù nhân lương tâm, mục sư Nguyễn Trung Tôn ở Thanh Hóa, thì sự ổn định hiện nay ở Việt Nam chỉ là giả tạo:

Khi nói đến bất ổn xã hội có thể bằng cách đánh giá này, đánh giá kia; nó không chỉ thể hiện trên bề nổi mà có thể là những tảng băng ngầm, như những khối ung thư tiềm ẩn trong lòng xã hội

mục sư Nguyễn Trung Tôn

“ Khi nói đến bất ổn xã hội có thể bằng cách đánh giá này, đánh giá kia; nó không chỉ thể hiện trên bề nổi mà có thể là những tảng băng ngầm, như những khối ung thư tiềm ẩn trong lòng xã hội. Ví dụ như khi người dân đến ủy ban nhân dân xã, công an xã để làm việc, trong tâm thức, suy nghĩ của họ luôn ẩn chứa sự sợ hãi vì công quyền Việt Nam nhiều khi làm việc không căn cứ trên cơ sở pháp luật. Vừa dùng luật pháp vừa dùng luật rừng; khi nào không dùng được luật pháp, họ sử dụng đầu gấu, luật rừng để ép người dân phải đồng thuận, chấp nhận vào một số điều họ không đồng ý.

Đó là sự bất ổn xã hội trầm trọng, nó như một khối ung thư, một căn bệnh cực kỳ nguy hiểm và có thể bùng phát bất cứ lúc nào. Không phải là nổ bom chỗ này, bắn giết người chỗ kia mà cho là bất ổn mà khi ý thức của người dân đầy đủ thì họ khắc phục được những hậu quả đó, xã hội vẫn phát triển và người dân vẫn bảo đảm được những quyền lợi chính đáng của họ.

Còn ở Việt Nam, tuy rằng họ dùng tất cả mọi biện pháp để trấn áp không để những vụ việc xảy ra trên mặt bề nổi, nhưng lại âm thầm cho phép sự ra tay của xã hội đen làm cho bất ổn xảy ra âm thầm, ngấm ngầm và triệt tiêu đi tinh thần, ý chí của người dân; làm cho người dân trở nên những người luôn mang trong mình sự sợ hãi. Thậm chí triệt tiêu đi ý thức tranh đấu làm cho người ta trở nên nhu nhược.

Đó là sự bất ổn có thể giết chết cả một thế hệ, một dân tộc trong tương lai.”

Một người từ Quảng Nam, mục sư Lưu Văn Kiều, cũng có nhận định về tình hình hiện nay ở Việt Nam:

“ Thực ra đây là sự im lặng trước cơn bão. Khi gặp những người nông dân ‘dốt chữ’ mới nghe họ nói, nghe họ phản ứng như thế nào về chính quyền, về đảng cộng sản, về cuộc sống hiện tại thì mới thấu được tình hình. Nên như tôi nói đây là sự yên lặng trước cơn bão. Chắc chắn sẽ bùng phát. Đã là một lò thuốc súng rồi thì vấn đề chỉ cần có một ngòi nổ. Theo tôi nghĩ phải có một phong trào, bắt đầu từ tự phát. Sự tự phát không làm được gì nhưng nó khích lệ tinh thần của một số con người, một số sự kiện mà khi có sự kiện xãy ra rồi thì với ‘điểm nóng’ đó vô tình những sự kiện trước đó khích lệ cho họ và sẽ có một ngòi nổ lớn.”

Nhiều người trong nước thừa nhận họ rất bất an trong tình hình hiện nay. Tất cả mọi thành phần đều là đối tượng của những mối đe dọa hiện diện tại nhiều nơi; trong khi đó chính quyền luôn nhắc rằng ‘đa nguyên, đa đảng’ và dân chủ như những quốc gia khác là ‘quá trớn’; như thế sẽ dẫn đến những vụ đánh bom, phá hoại chứ không ‘bình lặng’ như ở Việt Nam.

Mỹ vinh danh 2 nữ tù nhân lương tâm Việt Nam

Mỹ vinh danh 2 nữ tù nhân lương tâm Việt Nam

Nhà hoạt động Tạ Phong Tần là một trong hai nữ tù nhân lương tâm được Bộ Ngoại giao Mỹ vinh danh.

Nhà hoạt động Tạ Phong Tần là một trong hai nữ tù nhân lương tâm được Bộ Ngoại giao Mỹ vinh danh.

Trà Mi-VOA

04.09.2015

Hai nữ tù nhân lương tâm đang bị Việt Nam cầm tù được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vinh danh trong chiến dịch kêu gọi phóng thích 20 phụ nữ trên thế giới can đảm dấn thân vì nhân quyền.

Hai nhà hoạt động Tạ Phong Tần và Bùi Thị Minh Hằng có tên trong chiến dịch được phát động suốt tháng này. Qua đó, từ nay đến trước Hội nghị Bắc Kinh +20 ở New York vào hôm 27/9, mỗi ngày Bộ Ngoại giao Mỹ sẽ lần lượt vinh danh từng người trong danh sách để đánh đi một thông điệp tới các chính phủ độc tài rằng nếu muốn tăng cường sức mạnh cho phụ nữ như những gì đã cam kết với quốc tế, hãy thôi giam cầm những phụ nữ đi đầu cho nhân quyền.

Trong lời tuyên bố phát động chiến dịch, Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc, Samantha Power, nhấn mạnh:

“Mỗi ngày từ nay đến trước hội nghị Bắc Kinh +20, chúng tôi sẽ chia sẻ câu chuyện về từng người trong số 20 phụ nữ này với chi tiết đầy đủ. Chúng tôi sẽ nêu rõ tên tuổi, lai lịch, lý do họ bị bắt giam một cách bất công, cùng tên các chính phủ đã tước bỏ tự do của họ, các chính phủ cử đại biểu tới dự hội nghị Bắc Kinh +20 ở New York”.

Bà Tạ Phong Tần là người số 12 và bà Bùi Thị Minh Hằng số 19 trong danh sách bao gồm 20 nhà hoạt động nữ nổi bật của nhiều nước từ châu Á tới châu Phi.

Riêng tại Châu Á, ngoài Việt Nam, những nước có các nhà hoạt động nữ được vinh danh đến từ Miến Điện, Trung Quốc và Bắc Triều Tiên.

“ Mỗi ngày từ nay đến trước hội nghị Bắc Kinh +20, chúng tôi sẽ chia sẻ câu chuyện về từng người trong số 20 phụ nữ này với chi tiết đầy đủ. Chúng tôi sẽ nêu rõ tên tuổi, lai lịch, lý do họ bị bắt giam một cách bất công, cùng tên các chính phủ đã tước bỏ tự do của họ, các chính phủ cử đại biểu tới dự hội nghị Bắc Kinh +20 ở New York.

Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc Samantha Power.”

Nhà hoạt động Phong Tần, nguyên là một nữ công an, bị tuyên án 10 năm tù vào năm 2012 về tội danh ‘tuyên truyền chống nhà nước’. Bà là một trong những sáng lập viên của Câu lạc bộ Nhà báo Tự do vào năm 2007 cổ súy cho quyền tự do bày tỏ quan điểm. Bà được biết đến qua trang blog Công lý Sự thật, với các bài viết phơi bày bất công xã hội, phản ánh vi phạm nhân quyền và vấn đề chủ quyền dân tộc trước họa xâm lăng của Trung Quốc.

Bà Bùi Thị Minh Hằng là nhà hoạt động được nhiều người biết đến từ các cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm lấn Hoàng Sa – Trường Sa. Kể từ đó, bà trở thành mục tiêu thường xuyên bị hành hung, bắt bớ và giam cầm. Năm 2014, bà bị Tòa án Nhân dân Đồng Tháp kết án 3 năm tù với cáo buộc ‘gây rối trật tự công cộng’ sau loạt các hoạt động của bà cổ súy cho tự do tôn giáo và nhân quyền trong nước.

Cô Quỳnh Anh, con gái bà Hằng, chia sẻ cảm nghĩ khi nghe tin mẹ mình được Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vinh danh:

“Bọn em cảm thấy rất lớn lao, rất vinh dự khi mẹ em là một trong hai nữ tù nhân lương tâm được nhắc tới. Đối với gia đình em, như thế là đủ. Nhưng đối với đất nước Việt Nam, em nghĩ điều này còn cần nhiều hơn nữa vì hiện nay ở Việt Nam có rất nhiều tù nhân lương tâm. Không chỉ mẹ em và cô Tạ Phong Tần là nữ tù nhân lương tâm, còn rất nhiều người nữa cũng cần được nhắc đến”.

Cô Tạ Minh Tú, em gái nhà hoạt động Tạ Phong Tần, cho biết tình trạng của bà Tần hiện nay:

“Hiện giờ chị Tần bị nhốt chung phòng với 2 tù nhân hình sự. Trong phòng rất kín, không có chỗ thông gió nên chị không ngủ được, cũng không được ra ngoài. Một tuần được mở cửa phòng ra 1 lần để ra trước sân thôi chứ không được ra ngoài lao động”.

Cả hai nhà hoạt động Phong Tần và Minh Hằng từng tuyệt thực nhiều lần trong trại giam để phản đối các điều kiện đối xử khắc nghiệt và ngược đãi.

Con gái bà Minh Hằng chia sẻ thêm về những khó khăn này:

“Đối với tù nhân lương tâm, rất khó khăn, nói chung khó khăn trong tất cả mọi điều. Tù nhân thường, người nhà họ có thể dùng tiền hay các mối quan hệ để lo lót để có thể có được những điều tốt nhất cho người thân của họ trong tù. Còn những tù nhân lương tâm, hoàn toàn không thể làm những điều đó. Họ khắt khe và tìm mọi cách o ép vì luật nằm trong tay họ. Có những điều luật rất mập mờ. Ví dụ về quy chế thăm nuôi, luật quy định được thăm gặp ‘đến 1 giờ’, có nghĩa là cũng có thể là 5, 10 phút hay 1 tiếng cũng là ‘đến một giờ’. Như gia đình em, thường chừng 15 – 20 phút là họ bắt em phải đi ra”.

“ Với tư cách con của một tù nhân lương tâm, em hy vọng duy nhất một điều là Việt Nam không còn tù nhân lương tâm nữa. Tù nhân lương tâm là những người xứng đáng được ghi nhớ, được biết ơn. Họ là những người đi đầu khởi xướng đòi tự do dân chủ cho đất nước.

Cô Quỳnh Anh – con gái bà Minh Hằng.”

Khi được hỏi nguyện vọng của gia đình hiện nay, cô Quỳnh Anh cho biết:

“Với tư cách con của một tù nhân lương tâm, em hy vọng duy nhất một điều là Việt Nam không còn tù nhân lương tâm nữa. Tù nhân lương tâm là những người xứng đáng được ghi nhớ, được biết ơn. Họ là những người đi đầu khởi xướng đòi tự do dân chủ cho đất nước”.

Thân nhân của nhà hoạt động Tạ Phong Tần cho rằng kêu gọi ngoại giao không thôi chưa đủ, cần các áp lực mạnh mẽ hơn để buộc Việt Nam phải thực hiện cam kết về quyền con người.

Cô Tạ Minh Tú:

“Nguyện vọng của gia đình là chị Tần được ra ngoài để trị bệnh vì hiện giờ chị ấy bị 4 thứ bệnh. Bộ Ngoại giao Mỹ kêu gọi tự do cho chị, nhà cầm quyền Việt Nam có nghe hay không thì không biết được. Còn phía Hoa Kỳ cần kêu gọi và xử trí thế nào vì Việt Nam đã ký với Liên Hiệp Quốc về Công ước nhân quyền, Hoa Kỳ phải có áp lực buộc họ phải thi hành”.

Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc Samantha Power cho biết vinh danh 20 nữ tù nhân này là một thông điệp mà Hoa Kỳ muốn gửi tới bản thân các nhà hoạt động và gia đình của họ rằng thế giới không quên những đóng góp hy sinh của họ thăng tiến cho quyền con người và rằng Mỹ sẽ tiếp tục áp lực các chính phủ phải phóng thích họ vô điều kiện.

Hà Nội phủ nhận có tù nhân lương tâm và gọi đó là những người phạm pháp bị xử lý theo pháp luật Việt Nam, khơi dậy những lời kêu gọi yêu cầu Việt Nam cải thiện luật nội địa phù hợp với các chuẩn mực nhân quyền căn bản chung của quốc tế.

Hà Văn Thịnh – Khi dối lừa là… sự thật!

Hà Văn Thịnh – Khi dối lừa là… sự thật!

Dân Luận

Hà Văn Thịnh

3-9-2015

Đọc những bản tin về Lễ diễu binh nhân Kỷ niệm 70 năm ngày Quốc khánh (tôi không xem TV), không thể tin ở mắt mình: Một sĩ quan Quân y, đeo quân hàm trung tá (trên ve áo), sinh năm 1993(!), ngực gắn đầy huân, huy chương các loại? Cái tức chỉ mới ở cấp độ… vừa vừa. Thế nhưng, đọc tiếp, thấy ông Trung tướng Võ Văn Tuấn, Phó Tổng tham mưu trưởng, trả lời báo chí rằng, tuy là thiếu úy, nhưng theo quy điịnh, phải đeo hàm trung tá cho… thống nhất (Motthegioi.vn; 09:55, 3.9.2015) thì sự uất nghẹn lên đến tận cùng! Thì ra, để đảm bảo tính THỐNG NHẤT, DUY NHẤT, người ta có thể đạp đổ mọi giá trị?

Chưa bàn đến chuyện cộng đồng mạng đang xôn xao: Thiếu úy Quân y Phạm Trúc Sơn Quỳnh là… sinh viên trường Đại học Thương mại (vì chưa kiểm chứng được); chỉ xin luận về cái việc giả dối luôn được coi là sự thật, nó nguy hại và mang tính “truyền thống” khủng khiếp đến mức nào.

Thứ nhất, xin hỏi ông trung tướng rằng, từ cổ chí kim, ở bất kỳ quốc gia nào (không kể mấy nước XHCN), có chuyện quân hàm, huy chương, được đeo một cách tùy tiện để diễu qua diễu lại trước mắt hàng triệu con người như thế hay không? Ở đây, công khai trước mắt toàn dân tộc mà lại ủ mầm dối trá thì người dân biết tin vào ai? Không lẽ, dối trá, tùy tiện lại trở thành quy định của ta? Làm sao để có quân lệnh như sơn, làm sao việc tôi hay ai đó đeo quân hàm thì bị bắt ngay lập tức mà trong diễu binh lại coi là bình thường?

Những tấm huy chương đó do một cô gái trẻ đeo, chẳng lẽ cũng lại là quy định? Nếu đúng thế thì đó là sự sỉ nhục đối với những người vào sinh ra tử để có được chúng? Xét về tuổi, sinh năm 1993, đeo được quân hàm thì chỉ có thể tốt nghiệp trung cấp y-dược; tức là… y tá hay hộ lý, dược tá vì, chưa thể tốt nghiệp đại học y – dược 6-7 năm. Sự kệch cỡm và trơ tráo là không thể chối cãi. Có lẽ, đây là cách tốt nhất để vả vào mặt hàng loạt sĩ quan cấp tá khác, có phải vậy không?

Thứ hai, báo chí cho biết có 70% trong đội ngũ nữ “quân y” đã có gia đình; vậy, căn cứ vào đâu để đề nghị cấp bằng khen cho một cô gái còn son trẻ? “Động tác” chuẩn, đẹp, tập luyện cả đêm ngày…; chỉ là sự tư biện trắng trợn. Bốn tháng trời tập có mỗi đi đều, vung tay cho đúng thỉ chỉ có ai đó thiểu năng mới không làm được. Còn tập đêm, tập ngày chỉ là do kém mà thôi. Tại sao không đặt ngược câu hỏi rằng 70% của 200 người , tức là trên dưới cả trăm phụ nữ có con mọn không cần tập như thế vẫn đi đúng, đẹp chẳng kém gì? Nói rằng cô thiếu úy – trung tá đẹp hơn về vòng 1 hay gương mặt thì còn khả dĩ, chứ cho rằng đẹp hơn trong một khối 200 người thì quả là sự phỉ báng tư duy: Đẹp hơn có nghĩa là khối đó có hàng trăm người không đẹp bằng – tức là đi đều sai, chào không đúng, cũng đồng nghĩa là khối nữ quân y diễu binh thất bại. Nếu quả là vậy thì “khối trưởng” có gì đáng tặng bằng khen? Một đất nước mà cái gì cũng GIẢ, từ cấp bậc đến huân chương, danh hiệu anh hùng, đẹp, chuẩn…, là phải hiểu sao đây?

Thứ ba, riêng chuyện bố của cô thiếu úy – bà trung tá, là sĩ quan (cao cấp – vì ít khả năng có chuyện con dám đeo quân hàm cao hơn bố, trong khi quy định, thượng tá là cán bộ cao cấp) ở Tổng cục Hậu cần, đủ để biết cái “thị trường” sao – vạch là hình như có vẻ đúng? Biết bao nhiêu phụ nữ (trong số 140 người) trong khối quân y vừa là con dân đen, vừa nuôi con nhỏ xứng đáng hơn mà không được khen? Thì ra, khen hay chê không phải do tài năng, phẩm hạnh mà có phải là CCCC hay không mà thôi. Phải chăng chính ông trung tướng đang ngầm khẳng định cho cái ‘chân lý’ không có ai chịu nổi là vì mục tiêu thống nhất, duy nhất, các vị muốn làm gì thì làm, diễn ra sao thì diễn?

Thứ tư: tôi được biết các tàu bệnh viện, xe cứu thương trên thế giới đều in dấu chữ thập đỏ trên nóc, 4 phía để đối phương không bắn nhầm (quy định quốc tế, xem ảnh chụp tàu bệnh viện Mỹ vừa đến Đà Nẵng). Thế, tại sao bác sĩ, y tá quân đội ta, cô nào cũng cầm AK (trừ chỉ huy là súng ngắn), mặt đằng đằng sát khí? Họ ra trận để cứu người hay bắn người? Nếu họ bắn rồi bị bắn chết thì lấy ai cứu thương binh; hoặc giả, để thương binh… chết luôn?

Trên đây là 3 câu hỏi xin ông trung tướng trả lời. Nếu tôi sai (cầu mong là thế – vì, tôi sai thì đất nước được nhờ), là do kiến thức hạn hẹp, không hiểu hết cái ý thâm, nghĩ ngắn rõ ràng như của các ông. Tuy nhiên, bài này rất tình cờ được viết trong ngày kỷ niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh từ giã cõi đời (suốt mấy chục năm trời, thế hệ chúng tôi thắp hương vào ngày… 3.9!), nên có liên tưởng về “truyền thống” dối trá đắng cay. Xin kể ông nghe.

Thuở đó, tôi cũng như nhiều học sinh lớp 7, lớp 8 khác, đã khóc Bác rất chân thành – khóc dàn dụa đến hết nước mắt theo đúng nghĩa đen của từ này. Sau đó, chúng tôi lùng, tìm để học thuộc nhiều bài thơ viết về nỗi đau “tả” cái đau đớn thật sự của hàng triệu con người. Tất nhiên, cũng có bài thơ không hay (thậm chí là phản động) như bài Bác ơi của Tố Hữu. Tố Hữu kể rằng ngày Bác mất, ổng đang bỏ đi chơi đâu đó: Chiều nay con chạy về thăm Bác. Rồi, ổng miêu tả ổng đang lần mò, rình rập nhà bác; không thèm thắp cho người chết một đốm nến tàn: Con lại lần theo lối sỏi quen… Phòng lạnh, rèm buông, tắt ánh đèn…

Tạm không bàn đến những câu thơ dở mà hãy nói đến những câu thơ hay, trong đó có những câu này (tôi quên tên tác giả, nhờ bạn đọc tìm dùm):

Hôm nay, tháng Chín, ngày ba
Bác mất
Từ đó
Những bình minh khổ đau
Những hoàng hôn nước mắt
Lên đường cùng chúng ta…

Lại xin không bàn về cái tài tiên tri của nhà thơ; quả là từ khi đó đến giờ, có không ít khổ đau và nước mắt đã “lên đường”; mà chỉ xin nhấn mạnh rằng, mấy chục năm sau, tôi nghe đính chính rằng thực ra Bác mất ngày 2.9 chứ không phải ngày 3. Thật là đau đớn cho ông nhà thơ nọ vì nếu là ngày 2 thì không thể vần với chữ ta ở câu sau. Thành thử đành phải vất vào sọt rác cái chữ “hay”.

Rồi, tôi còn được biết rằng, Bác viết trong Di chúc là cuộc kháng chiến chống Mỹ kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa; nhưng Đảng ta đã quyết định xóa bỏ “20 năm”(!)

Tất cả đều nhằm mục đích… thống nhất?

Đến đây thì hẳn là ông trung tướng đã buộc phải đồng ý với tôi rằng, khi người ta có thể sửa cả di chúc, tức là, hoàn toàn có thể dối lừa mọi chuyện?

Bước khởi đầu của dối trá (tạm tính là khởi đầu) tai họa đó, cứ nghĩ là do… chiến tranh, không làm rối loạn lòng dân, nên nghe đôi khi, cũng xuôi xuôi. Bây giờ, tra trốc, mốc trọ rồi tôi lại còn nghe thêm lý ‘trấu’ là do thống nhất, từ ông, thì quả là hết thuốc chữa.

Các ông cứ nghĩ dối trá ‘cho vui’, dân ngu khu đen chẳng biết, chẳng dám nói gì thì quả đúng là khủng khiếp…

Viết bài này, mong các ông đọc và bớt dối trá đi cho người dân đỡ khổ, đỡ đau. Đừng đưa “quy định” ra để lấp liếm: Tôi từng biết có người cấp bậc đại úy làm trưởng phòng CSGT trong khi cấp trung tá là phó phòng (nghe đâu bây giờ sắp thay đổi).

Xin lưu ý các ông là lần diễu binh sau (kỷ niệm 80 năm, nếu có) đừng cho bất kỳ cô bé mặt búng ra sữa nào đeo lon trung tá, bởi như thế là làm tái phát vết thương chiến tranh của hàng triệu cựu chiến binh đang buộc phải lặng im dù bị sỉ vả đắng cay!…

Huế, 3.9.2015

Xác bé trai tị nạn 3 tuổi trôi vào biển Thổ Nhĩ Kỳ làm rúng động thế giới

Xác bé trai tị nạn 3 tuổi trôi vào biển Thổ Nhĩ Kỳ làm rúng động thế giới

Nguoi-viet.com

MUGLA, Thổ Nhĩ Kỳ (NV) – Hình ảnh bé Aylan, 3 tuổi, chết đuối cùng với bà mẹ và nhiều người  khác khi tìm cách vượt biển qua Hy Lạp, trôi vào bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ được phát tán nhanh chóng và rộng rãi trên mạng truyền thông xã hội, tạo một áp lực lớn lên giới lãnh đạo Âu Châu về thái độ thờ ơ với dân tị nạn.

Cảnh sát Thổ Nhĩ Kỳ lập biên bản trước khi mang xác của bé Aylan Kurdi, 3 tuổi, ra khỏi bãi biển nghỉ mát Bodrum. (Hình: AP/DHA)

Galip, 5 tuổi, anh trai của bé Aylan, và bà mẹ Rehan, 35 tuổi, nằm trong số 12 người, bị thiệt mạng khi hai chiếc tàu tị nạn bị lật trong khi tìm cách tiến đến đảo Kos của Hy Lạp.

Người cha đau khổ của hai em bé chết đuối đã nhận diện xác họ hôm Thứ Năm và chuẩn bị đưa cả ba về quê nhà ở Kobani, Syria, theo tin của Reuters.

Ông Abdullah Kurdi khóc òa khi từ nhà xác ở Mugla, Thổ Nhĩ Kỳ, bước ra, nơi thi thể của đứa con trai ba tuổi Aylan của ông tấp vào bờ biển hôm Thứ Tư.

Bức ảnh tấm thân bé nhỏ trong chiếc áo thun màu đỏ, quần cụt xanh, mặt úp xuống, với nước biển liên tục vỗ chung quanh, xuất hiện trên báo chí truyền hình khắp thế giới, gây phẫn nộ lẫn cảm thông trong bối cảnh các nước phát triển không có hành động giúp đỡ nào đối với dân tị nạn.

Gia đình ông Abdullah từng tìm cách xin qua Canada sau khi trốn khỏi thành phố Kobani bị chiến tranh tàn phá, một tiết lộ làm cho chính quyền bảo thủ Canada phải lúng túng.

Ông Abdullah nói, nay Canada đề nghị cho ông vào quốc tịch sau khi chứng kiến những gì xảy ra với gia đình ông, nhưng lần này ông từ chối.

Ông Abdullah có người em gái là Teema Kurdi, cư dân của Vancouver. Hồi Tháng Sáu, khi ở trại tị nạn, gia đình ông có nộp đơn xin được bảo lãnh sang Canada đoàn tụ với người em nhưng bị bác do rắc rối giấy tờ với chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ.

Ông Abdullah cho biết, hai lần ông trả tiền cho chủ ghe để đi qua Hy Lạp nhưng cả hai chuyến đều không thành công.

Sau cùng ông quyết định tìm một chiếc thuyền và tự chèo lấy. Trong chuyến đi, thuyền bị nước vào, mọi người hốt hoảng làm thuyền mất thăng bằng và lật úp.

Ông Abdullah kể: “Tôi chụp lấy tay vợ tôi thì hai đứa con lại vuột khỏi tay tôi. Mọi người kinh hãi la hét trong đêm tối. Tôi không còn nghe được tiếng vợ con tôi nữa.”

Những cái chết của gia đình của em Aylan nằm trong số hàng triệu cái chết của người tị nạn trên đường trốn chạy sự hủy diệt tàn phá hiện đang diễn ra tại Syria và Iraq. Nhưng, ít nhất là cho đến giờ, hình ảnh thân xác bé nhỏ của  em chết giạt vào bờ, là biểu tượng mạnh mẽ nhất về thảm cảnh của người tị nạn từ khu vực này. (TP)