Bị phạt 5 triệu vì blog cá nhân

Bị phạt 5 triệu vì blog cá nhân

Blogger Đoàn Hữu Long bị xử phạt 5 triệu đồng, đồng thời buộc phải gỡ những thông tin không được phép đăng tải trên Trang Thông tin điện tử cá nhân theo quy định.

Blogger Đoàn Hữu Long bị xử phạt 5 triệu đồng, đồng thời buộc phải gỡ những thông tin không được phép đăng tải trên Trang Thông tin điện tử cá nhân theo quy định.

Hòa Khánh

11.09.2015

Một blogger ở Vũng Tàu cho biết ông vừa nhận quyết định của thanh tra Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt 5 triệu đồng vì nội dung đăng trên blog cá nhân.

Hôm 10/9, blogger Đoàn Hữu Long, chủ nhân của trang http://doanhuulong.blogspot.ca/, cho biết:

Quyết định số 02/QĐ-XPVPHC của Thanh tra Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xử phạt vi phạm hành chính đối với ông về hành vi “vi phạm một trong các quy định về quản lý thông tin điện tử trên mạng đối với các trang Thông tin điện tử không phải xin phép, quy định tại điểm đ, khoản 1 Điều 64 Nghị định số 74/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện”.

Ngoài số tiền bị phạt, Quyết định của thanh tra còn nêu rõ: “Biện pháp khắc phục hậu quả: Xóa bỏ các bài đăng vi phạm trên trang thông tin điện tử”.

Trên blogpsot, ông Long có chủ trương tập hợp các bài viết về kinh tế Việt Nam.

Hôm 10/9, các nội dung hiển thị trên trang này là dẫn link bài của các trang báo điện tử trong và ngoài nước về thị trường bất động sản Vũng Tàu, tình hình nợ xấu ngân hàng, thực trạng kinh tế – xã hội và cuộc chiến quyền lực tại Việt Nam…

‘Tội trích dẫn thông tin trên blog’

Trao đổi với chúng tôi hôm 10/9, Thanh tra Nguyễn Tấn Trung Thuận, người ký Quyết định nêu trên, xác nhận:

“Ông Long bị xử phạt vì theo quy định của pháp luật, blogger không được trích dẫn nội dung báo chí trên blog. Các nội dung sai phạm trên blog của ông Long do PA83 kết luận và bản thân ông Long cũng thừa nhận sai phạm của mình”, ông Thuận nói.

Cùng ngày, luật sư Trần Vũ Hải nói với chúng tôi rằng các blogger “nên bình tĩnh và nghiên cứu pháp luật kỹ hơn”.

“Khi nhận quyết định xử phạt, blogger cần xem xét việc đó có đúng thủ tục tố tụng. Nếu cần thì blogger phải tiến hành phản đối, khiếu nại để bảo vệ quyền lợi bản thân”.

‘Giới hạn quyền tự do ngôn luận’

Trả lời phỏng vấn của chúng tôi hôm 10/9, ông Long cho biết:

“Tôi cho rằng Quyết định xử phạt tôi là ‘giọt nước tràn ly’ của một chuỗi sự kiện tôi viết blog từ năm 2012 và bị an ninh mời làm việc nhiều lần”.

Ông Long nói thêm: “Tuy không đồng ý khi nhận quyết định xử phạt, nhưng

tôi chấp hành và không muốn rầy rà vì mang tiếng chống đối an ninh. Dù vậy, tôi đề nghị sửa đổi hoặc áp dụng linh hoạt hơn các điều luật xử phạt blog cá nhân, cởi mở hơn đối với quyền tự do ngôn luận của người dân.
Theo tôi, Việt Nam bị tụt hậu bi đát như ngày nay, có nguyên nhân sâu xa và chủ yếu từ việc giới hạn quyền tự do ngôn luận. Trên thế giới không có quốc gia nào cấm cản tự do ngôn luận mà phát triển lành mạnh. Việc phát triển kinh tế tỷ lệ thuận với quyền tự do ngôn luận, chứ không phải ngược lại”.

Ông đang đề nghị giảm nhẹ mức phạt vì “đang thất nghiệp, không có lương và thu nhập lại bị phạt tiền”.

Ông cũng cho biết mình sẽ “hạn chế cập nhật blog tối đa, tự kiểm duyệt cực kỳ nghiêm ngặt nội dung đăng tải để tránh bị xử phạt lần nữa”.

Trước đó, tháng 7/2015, ông Long đã từng bị Cục An ninh mạng triệu tập thẩm vấn trong bốn ngày tại trụ sở công an thành phố Vũng Tàu.

“Họ yêu cầu khai báo mật khẩu blog và facebook để in tài liệu điều tra.
Tôi phải ký xác nhận vào hàng chục bài viết in ra từ blog và các tin nhắn trên facebook”, ông Long viết trên blog cá nhân.

Sau đó, ông đã phải ‘tự nguyện’ xóa 712 bài viết trên blog.

Tháng 6/2013, ông bị công ty Trực thăng Miền Nam, Sân bay Vũng Tàu, cho thôi việc sau 18 năm công tác tại đây.

Dù quyết định thôi việc không nói rõ lý do nhưng ông cho rằng nguyên do thật sự ‘liên quan đến nội dung trên blog cá nhân’.

Trên trang blog cá nhân, ông Long tự giới thiệu về bản thân như sau:
“Lập blog ‘Báo Hoa Sen’, http://baohoasen.blogspot.com, đăng tải 1.400 bài viết về kinh tế – chính trị, đã bị cơ quan An ninh -Bộ Công an bắt vào tháng 5/2012 và thu giữ blog ‘Báo Hoa Sen’.

Liên quan đến việc xử phạt blogger, năm 2012, ông Nguyễn Xuân Diện, một trong những người tham gia biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội năm 2011 cũng từng đã bị Thanh Tra Sở Thông Tin và Truyền Thông thành phố Hà Nội ra ‘Quyết định xử phạt hành chính trong việc quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet, thông tin điện tử trên Internet’.

Bản quyết định đòi ông Diện nộp phạt 7,5 triệu đồng nhưng ông khước từ nộp phạt.

Chúng ta đang học để ngu

Chúng ta đang học để ngu

“Dân trộm dăm ba trăm ngàn thì bị tù mấy năm trời, thế mà quan tham nhũng trăm triệu, chục tỉ nặng thì cách chức, cho tù vài năm còn bình thường thì đứng lên nhận khuyết điểm, bị khiển trách rồi mọi việc đâu lại vào đó. Dân có đánh chết người thì nhẹ cũng 10-20 năm tù nặng thì chung thân tử hình, ấy thế mà công an, quan chức làm chết người thì xét công trạng rồi thì nặng lắm cũng vài năm ba năm tù còn bình thường cứ mấy năm án treo, cách chức”.

Triết học Đường phố

Joseptuat

12-9-2015

 

 

 

 

 

 

 

Photo: Đại Học Y Dược TPHCM

Một bộ phận dân chúng Việt Nam hiểu được quyền của mình, trách nhiệm của nhà nước trong xã hội nhưng số này còn ít lắm. Dân Việt Nam mình vẫn còn nhiều, nhiều người ngu ngơ về quyền lợi của mình trong xã hội, và vẫn mù quáng tin tưởng vào nhà nước như thời phong kiến dân tin vua là con thiên tử.

Ở cái thời đại này rồi mà nhiều người vẫn còn chấp nhận cái chân lý “yêu đảng là yêu nước”, nó giống như thời kì lạc hậu ngày xưa “yêu vua là yêu nước” vậy. Lòng yêu nước đã bị lợi dụng để duy trì quyền lực cho một dòng họ theo cái tục cha truyền con nối ở thời phong kiến, và nay nó dùng để duy trì sự cai trị vô lý của một đảng phái.

Các cụ ta ngày xưa đã mổ xé văn hoá Hán tộc ảnh hưởng như thế nào đối với xã hội Việt Nam, nhưng tưởng nó đã không còn mấy đậm nét trong sinh hoạt xã hội Việt Nam ngày hôm nay. Ơi thế mà nó có mất đi đâu, nó chỉ biến dạng theo một cách khác kể từ khi cộng sản nắm quyền mà thôi.

Người Hán chấp nhận Vua là trung tâm của xã hội như vẫn từng hô hào họ là trung tâm của thiên hạ. Người Việt dù có kiến cường chống phương bắc tới đâu thì vẫn bị lệ thuộc họ trong nhiều cách khác nhau. Điều dễ nhận thấy là trong triết lý giáo dục của người Việt Nam từ xưa cho tới nay. Dân Việt tại sao dễ chấp nhận quyền cai trị độc tôn của đảng cộng sản như vậy? Tại sao thích kiểu yên ổn chuyên chính của chính quyền như vậy? Xét kỹ thì nhận ra rằng đó là do ảnh hưởng của văn hoá Trung Hoa, nó ngấm vào máu, vào tận xương tuý và được truyền lại từ vô thức của xã hội lên từng gia đình và cá nhân.

Dân trí thấp không phải là ở chỗ đất nước có bao nhiêu người biết đọc, biết viết mà là ở chỗ còn bao nhiêu người tôn thờ nền quân chủ. Có người đã nói Việt Nam bây giờ chỉ là sự phát triển của chế độ phong kiến theo máu mũ ngày xưa. Vẫn chỉ là chế độ lấy nhân trị, tức là xã hội dù có luật pháp thì tính nghiêm minh phù thuộc vào quyết định, cảm tình của con người.

Dân trộm dăm ba trăm ngàn thì bị tù mấy năm trời, thế mà quan tham nhũng trăm triệu, chục tỉ nặng thì cách chức, cho tù vài năm còn bình thường thì đứng lên nhận khuyết điểm, bị khiển trách rồi mọi việc đâu lại vào đó.

Dân có đánh chết người thì nhẹ cũng 10-20 năm tù nặng thì chung thân tử hình, ấy thế mà công an, quan chức làm chết người thì xét công trạng rồi thì nặng lắm cũng vài năm ba năm tù còn bình thường cứ mấy năm án treo, cách chức.

Có người vi phạm luật pháp nghiêm trọng báo chí, nhà nước tung lên là bị kỷ luật, bị xử phạt nghiêm minh nhưng thực tế thì di chuyển công tác, có khi lại còn nhận chức vụ cao hơn trước khi phạm luật.

Nói ra để thấy, cái xã hội Việt Nam ngày hôm nay có khác mấy cái thời lạc hậu, man rỡ thời phong kiến ngày xưa đâu. Cụ Phan Châu Trinh ngày trước đã từng nói “chúng ta đã thua thế giới văn minh gần một thể kỷ về văn hoá, kinh tế, khao học kỷ thuật”, đó là cụ so sánh Việt Nam với Pháp, Anh, Nhật, Mỹ chứ bây giờ Việt Nam mình còn để cả Lào, Campuchia vượt mặt về nhiều mặt. Chả mấy chốc mà họ sẽ không để ta sau lưng mấy chục năm đâu.

Dân đen đã mù mờ về quyền công dân của mình trong xã hội đã đành, kể cả tầng lớp tri thức cũng đâu khá hơn là mấy. Ngày trước học là để thi khao cử với hi vọng kiếm chút công tước cho dòng họ nở mày nở mặt. Phục vụ đất nước cũng chỉ là trung thành tuyệt đối với vua, chứ đâu mấy ai nghĩ tới chuyện đem công bằng, bác ái đến cho tầng lớp dân đen đâu. Cái câu “một người làm quan cả họ được nhờ” chả phải là lý tưởng và mục đích của tri thức Việt Nam ngày xưa sao. Cái thói học với mong muốn kiếm chút bổng lộc từ triều đình đã đưa đất nước tụt quá xa so với thế giới. Tri thức thay vi nâng cao hiểu biết cho dân thì lại xem những gì mình có, mình học như là cái quyền để cưỡi lên đầu lên cổ người khác. Ấy là tôi nói về thời phong kiến ngày xưa, còn bây giờ nền giáo dục có khác nhau là mấy so với trước đây đâu, có khi nó còn tệ hơn chứ nói gì tốt với đẹp.

Nhìn hàng trăm, hàng nghìn tiến sĩ, thạc sĩ bám đít lũ quan tham, nhóm lợi ích để cầu danh, cầu lợi, cầu nhà, cầu xe là nhận thấy cái gọi là tri thức Việt Nam cũng chỉ là một lũ cộng nô. Ngay xưa học mà không đi đôi với thực tế thì gọi là hũ nho, ngày nay học để làm tôi mọi cho lũ quan to, bụng phệ dù trong đầu bọn tham ô câu chữ viết chấm phẩy còn không xong, thì tri thức không là cộng nô, hũ bại là còn gì.

Dân đen là thế, tri thức cũng không nhờ cậy được gì, thế còn chính quyền thì sao?

Nói ra thì nói là phản động, là bôi xấu lãnh đạo nhưng thực tế thì bọn họ cũng đâu khá hơn là mấy. Cái bọn này còn tệ hơn đám tri thức rơm kia, vì bọn chúng có trong tay quyền lực, được đi đây đó, hiểu biết thực tế nhiều hơn dân đen, ấy thế mà tụi nó lại đi làm Hán nô cho ngoại bang. Không đổ lội hết quan chức bây giờ là thân Trung Cộng, nhưng có mấy vị tại to mặt lớn mà không bám đít nhà Hán. Cái khác biệt lớn nhất của chính quyền hiện nay so với thời phong kiến là đây.

Quan chức phong kiến có thể vì lợi mà hà hiếp dân chúng, chứ ít khi vì lợi mà nhu nhược, bán đất, bán biển, bán rừng cho nhà Hán, ấy thế mà cái thời đại cộng sản bọn họ không chỉ tham lam, độc ác với dân mà còn nhu nhược, hèn nhát và đê tiện trước mặt ngoại bang. Bọn họ chơi chính trị theo kiểu đĩ điếm, sẵn sàng ăn nằm với bất kì ai nếu họ đem lại lợi ích cho mình.

Trước thì bám đít Liên Xô xem Trung Cộng là kẻ thù, gọi là phản động nên Trung Cộng nó xua quân đánh dọc các tỉnh biên giới bắc Việt Nam, đẩy hàng trăm nghìn con dân Việt chết vì mình. Đến khi Liên Xô sụp đổ thấy quyền lợi bị lung lay thì khúm núm, quỳ lại xin Trung Cộng chống lưng, và để thoả mản cái danh vọng quyền lực thì đi đến cái “hội nghị thành đô” chấp nhận nhường đất, nhường biển để làm chư hầu cho Trung Cộng.

Tri thức thì cộng nô, còn chính quyền lại là Hán nô thì thử hỏi đât nước mình là cái gì đây?

Cả một chăng đường lịch sử dài gần mấy ngàn năm, có cả một nền văn hiến lâu đời nhưng thứ hỏi xem có mấy ai biết hình hài đất nước mình như thế nào? Dân đen thì nghĩ phục tùng chính quyền, tôn thờ lãnh tụ là yêu nước. Tri thức thì khôn ranh hơn, yêu nước là yêu cái chức vụ của mình, cố làm sao đừng để nó lung lay là coi như yêu nước. Còn chính quyền thì toàn một lũ vừa tham, vừa thâm, vừa ác nên yêu nước là phải nhất quyết duy trì chế độ đến tính mạng dân đen cuối cùng. Đất nước là vậy đó, chỉ là nồi cơm, cái ghế và danh vọng của từng người, từng nhóm nhỏ nào đó. Thế mà nhiều kẻ vẫn hô hào lòng yêu nước, giảng dạy về lòng yêu nước, và bỏ tù những ai dám thể hiện lòng yêu nước.

 

 

 

 

 

 

 

Có viết trăm bài viết, kể trăm câu chuyện thì cũng chỉ là lập lại lời của tiền nhân trước đây. Các bậc tiền nhân có tâm, có tài đã mổ xé rất chi tiết, đã chỉ ra đâu là nguyên nhân khiến Việt Nam mãi mãi chỉ lết theo đít những nước phát triển chậm. Phương pháp cũng đã được nêu ra làm thể nào để đưa đất nước thoát khỏi cảnh “không chịu phát triển”, trong đó người viết ấn tượng về chủ trương “Khai dân tri”, “Chấn dân khí” và “Hậu dân sinh” của cụ Phan Châu Trinh. Không gì bền vững và ổn định cho bằng sự thay đổi tận căn các nguồn lực của đất nước, và chỉ có một con đường duy nhất là “học”.

Hồ Chí Minh, con người muôn mặt

Hồ Chí Minh, con người muôn mặt

Song Chi.

RFA


Trong cuộc đời hoạt động “cách mạng” của mình, ông Hồ Chí Minh có rất nhiều tên gọi, bút danh khác nhau. Bài “Sưu tầm tên gọi, bí danh và bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua các thời kỳ” đăng trên trang báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, đã kê khai ông Hồ có khoảng 175 tên gọi, bí danh, bút danh, ngoài ra “Hiện vẫn còn khoảng 30 tên gọi, bí danh, bút danh được cho là của Hồ Chí Minh, nhưng chưa có cơ sở để khẳng định chắc chắn hoặc chứng minh cụ thể Bác đã dùng vào thời gian nào, trong trường hợp nào, nên vẫn chưa thể công bố chính thức”.
Từ lâu, cũng chính nhờ đảng và nhà nước này công bố, mà người dân mới biết Trần Dân Tiên, người viết cuốn tiểu sử “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” xuất bản lần đầu tiên tại Trung Hoa năm 1948 và tại Paris năm 1949 (theo Wikipedia) chính là Bác Hồ. Trong một cuốn tiểu sử khác, “Vừa đi đường vừa kể chuyện” xuất bản lần đầu năm 1950, Hồ Chí Minh lấy bút danh là T. Lan, đóng vai một chiến sĩ trong đoàn tùy tùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đi hành quân, vừa đi vừa hỏi chuyện Chủ tịch và ghi chép lại. Như vậy ông Hồ chỉ có 2 cuốn gọi là “tiểu sử” được phổ biến rộng rãi, in ra nhiều thứ tiếng, thì cả hai đều do chính ông Hồ viết ca tụng mình.
Việc ông Hồ từng làm việc cho đảng cộng sản Liên Xô và đảng cộng sản Trung Quốc, nhận tiền của Liên Xô và Trung Quốc là chuyện chả phải mới mẻ gì. Chỉ cần ngay trong bài này cũng thấy.
Chẳng hạn, làm việc cho đảng cộng sản Liên Xô:
“Chen Vang, 1923. Ngày 13 tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật rời Paris đi Liên Sô, Tổ Quốc Cách Mạng. Ngày 16 tháng 6 năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến nước Đức. Tại đây, Nguyễn được cơ quan đặc mệnh toàn quyền Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghiã Sô Viết Liên Bang tại Berlin cấp cho giấy đi đường số 1829. Trong giấy này Nguyễn Ái Quốc mang tên Chen Vang.”
Làm việc cho Trung Quốc:
“Hồ Quang, 1938. Hoạt động ở Trung Quốc cuối năm 1938. Nhờ quan hệ Liên Sô và Trung Quốc nên Nguyễn Ái Quốc qua Trung Quốc dễ dàng. Tại Lan Châu thủ phủ tỉnh Cam Túc, Tây Bắc Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc mang phù hiệu Bát lộ quân, quân hàm thiếu tá và giấy tờ mang tên Hồ Quang.”
Lý Thụy cũng là một bí danh của ông Hồ.
“Lý Thụy, 1924. Nguyễn Ái Quốc dùng bí danh Lý Thụy trong thời gian hoạt động ở Trung Quốc.”
Có một dạo trên nhiều trang blog, trang mạng xã hội xôn xao trước thông tin Lý Thụy, tức ông Hồ bán Phan Bội Châu cho Pháp. Và thông tin đó từ đâu ra, từ thế lực thù địch nào? Không, từ cuốn “Thành ngữ-Điển tích-Danh nhân Từ điển” của tác giả Trịnh Vân Thanh do NXB Văn học, Hà Nội phát hành năm 2008.
Ở trang 742, trong mục nói về Phan Bội Châu, các nhà soạn sách đã viết việc Phan Bội Châu bị bắt như sau:
“Năm 1925, nghe theo lời của Lý Thụy và Lâm Đức Thụ Phan Bội Châu gia nhập vào tổ chức “Toàn thể giới bị áp bức nhược tiểu dân tộc”, nhưng sau đó Lý Thụy và các đồng chí lập mưu bắt Phan Bội Châu nộp cho thực dân Pháp để:
1. Tổ chức lấy được một số tiền thưởng (vào khoảng 15 vạn bạc) hầu có đủ phương tiện hoạt động.
2. Gây một ảnh hưởng sâu rộng trong Việc tuyên truyền tinh thần ái quốc trong quốc dân.”

Tất cả những chuyện này nhiều người cũng đã biết.
Tôi nhắc lại chỉ là vì gần đây được biết thêm cái bút danh Trần Lực của ông Hồ Chí Minh khi viết cái truyện ngắn “Giấc ngủ mười năm”. Trên trang báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam đăng toàn bộ truyện ngắn này, và cho biết: “Giấc ngủ mười năm” viết năm 1949, Tổng bộ Việt Minh xuất bản tại Việt Bắc năm 1949. In trong sách “Hồ Chí Minh, Truyện và ký” của Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 1985″.
Trong bài “Cha đẻ của văn học viễn tưởng Việt Nam” đăng trên website Viet-Studies, nhà văn, dịch giả Ngô Tự Lập tìm cách chứng minh ông Hồ Chí Minh là cha đẻ của thể loại văn học viễn tưởng VN qua hai truyện ngắn “Con người biết mùi hun khói” “Giấc ngủ mười năm”.
Ở đây tôi không tranh cãi về văn phong, bút pháp của truyện “Giấc ngủ mười năm”, cũng không tranh cãi truyện này hay hay dở, nhưng điều làm tôi cảm thấy rờn rợn là những đọan mô tả tội ác của Pháp.
Đoạn đó như sau:
“Người ta nói dân ở gần mặt trận ai cũng hăng. Có gì lạ đâu. Tây nó ác quá. Chúng bắt được đàn bà con gái, thì 7 tuổi đến 70 nó chẳng từ ai. Năm bảy thằng tranh nhau hiếp. Hiếp không chết, thì nó chặt đầu, móc mắt, mổ bụng, rạch trôn. Có khi chúng bắt con trai hiếp mẹ, cha hiếp con gái, cho chúng nó coi và cười. Không nghe thì chúng giết cả nhà.
Có khi bắt được đàn bà có thai, chúng nó trói lại như trói lợn, rồi đánh đố với nhau. Thằng thì đoán chửa con trai. Thằng thì đoán chửa con gái. Rồi chúng nó mổ bụng người đàn bà chửa, móc đứa con trong bụng ra coi. Thằng nào đoán trúng thì được tiền hoặc thuốc lá.
Có khi chúng nó bắt đàn bà, trói chân, trói tay lại, lột truồng hết áo quần rồi cho chó con bú cụt cả đầu vú. Người đàn bà vô phúc van khóc chừng nào, thì Tây reo cười chừng ấy.
Bắt được người già và thanh niên, chúng nó chọc tiết, chôn sống, chặt đầu, phanh thây, hoặc treo thòng lòng trên cành cây, chất củi thui. Có khi chúng nó bắt ăn thuốc viên, nói là thuốc chữa bệnh. Nuốt xong chừng mấy phút đồng hồ thì trợn mắt lăn ra chết, cả mình mẩy tím bầm.
Trẻ con thì chúng nó bắt bỏ trong chum, nấu nước sôi giội vào. Hoặc trói 2, 3 em lại một bó, quấn rơm và giẻ chung quanh, rồi chúng nó tưới dầu xăng đốt.”

Tôi cảm thấy rờn rợn, không phải vì tội ác của Pháp (một người có nhận thức, hiểu biết bình thường nào cũng chẳng tin nổi những điều này là có thực) mà chính vì cái cách mô tả, cái khả năng tưởng tượng ra những tội ác kiểu như vậy và việc tuyên truyền bất chấp sự thật của những người cộng sản, như họ cũng đã từng tuyên truyền Mỹ ngụy ăn thịt người.
Cho đến nay, Hồ Chí Minh đối với rất nhiều người dân VN vẫn là thánh sống, là tượng đài không dễ gì bị lật đổ. Không chỉ trong những người còn tin tưởng vào đảng, vào chế độ, ngay nhiều người có tư tưởng chán ghét chế độ này, vẫn luôn luôn nói rằng “Nếu còn ông cụ, mọi chuyện sẽ khác, nếu còn ông cụ đất nước không thể như thế này” và mọi sai lầm, đổ đốn của đảng và nhà nước này là chỉ từ khi ông cụ mất, thậm chí mãi về sau này, chứ còn giai đoạn đầu thì không thế v.v…Nắm được điều đó, đảng và nhà nước cộng sản vẫn tiếp tục bám vào cái bóng của ông Hồ, từ việc phát động phong trào học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cho tới những tượng đài Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục được xây lên ở khắp nơi…
Rồi đây lịch sử sẽ được viết lại, nhiều sự thật sẽ được đưa ra ánh sáng. Tôi vẫn luôn tin rằng cuộc đời thật, chân dung thật của nhân vật Hồ Chí Minh sẽ còn có nhiều, nhiều “bất ngờ” hơn nữa, ngoài vô số những “bất ngờ” đã hé lộ dần trong thời gian qua, bất chấp việc đảng và nhà nước cộng sản VN cố công bưng bít, tô vẽ thành huyền thoại. Chỉ có điều, cho đến giờ phút này hình như vẫn chưa có người Việt nào chịu khó bỏ công ra viết những cuốn sách công phu như cuốn “Mao Trạch Đông ngàn năm công tội” của tác giả Tân Tử Lăng, Trung Quốc hay cuốn “Những điều chưa biết về Mao” (“Mao-an unknown story”) của hai tác giả Jung Chang và Jon Halliday. Được biết, hai vợ chồng tác giả, cô Jung Chang và ông Jon Halliday đã bỏ ra gần 10 năm trời để viết, đã đi về Trung Quốc hàng mấy chục chuyến để thăm lại tất cả những vùng mà ông Mao Trạch Đông đã đi qua cũng như đã đi nhiểu nơi trên thế giới để gặp hàng trăm người từng biết, từng gặp Mao Trạch Đông khi còn sống hầu có được những tài liệu sinh động nhất, chân thực nhất, và cuối cùng họ đã hoàn tất tác phẩm đồ sộ này.
Tin rằng nếu ai đó bỏ công sức ra để viết về nhân vật Hồ Chí Minh cũng sẽ gặt hái được kết quả rất đáng công và chân dung của nhân vật Hồ Chí Minh có lẽ còn muôn mặt, muôn màu không kém, thậm chí hơn cả chân dung thật của Lenin hay Mao Trạch Đông

Bao giờ mới hết phong bì trong bệnh viện?

Bao giờ mới hết phong bì trong bệnh viện?

Anh Vũ, thông tín viên RFA
2015-09-12

Bao giờ mới hết phong bì trong bệnh viện? Phần âm thanh Tải xuống âm thanh

000_TS-Hkg9725958.jpg

Một bệnh viện nhà nước ở Hà Nội ngày 17 tháng 4 năm 2014.

AFP PHOTO

Your browser does not support the audio element.

Năm 2012, Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến đã tuyên bố dứt khoát nói không với việc người nhà bệnh nhân đưa phong bì cho y bác sĩ tại các bệnh viện công. Vậy đến nay tình trạng này ở trong các bệnh viện thế nào?

Do điều kiện dịch vụ y tế hạn hẹp?

Việt Nam hiện nay là một trong những quốc gia mà ở đó người dân muốn chữa bệnh phải mất tiền, người dân khi muốn khám chữa bệnh phải trả phí dịch vụ hoặc thông qua bảo hiểm y tế. Cho dù trước đây, hệ thống y tế ở Việt Nam được bao cấp hoàn toàn cho đến giữa những năm 80.

Do điều kiện dịch vụ y tế của nhà nước hạn hẹp, không đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh của người dân, nên việc người dân phải có phong bì để lót tay cho các nhân viên y tế mỗi khi đến bệnh viện công là tình trạng phổ biến.

Chuyện đưa phong bì là có thật, vì cách ứng xử của bác sĩ luôn tỏ ra không hài lòng, hôm rồi tôi phải chờ bác sĩ đến hơn một tiếng song không thấy bác sĩ đâu cả. Nghe người ta bảo là phải biết đưa phong bì.
-Chị Phương Anh

Tháng 12/2012 người đứng đầu ngành y tế, Bộ trưởng Nguyễn Thị Kim Tiến đã phát biểu trước Quốc hội rằng “Bệnh nhân và người nhà dứt khoát không đưa phong bì và nếu thấy bác sĩ, điều dưỡng nào nhận thì chụp ảnh và gửi lại cho chúng tôi.”

Tuy vậy trên thực tế hiện nay cho thấy, tại các bệnh viện công tình trạng bệnh nhân đưa phong bì để cảm ơn y bác sĩ đã trở thành một thứ luật bất thành văn.

Chị Phương Anh ở Hà nội cho biết:

“Chuyện đưa phong bì là có thật, vì cách ứng xử của bác sĩ luôn tỏ ra không hài lòng, hôm rồi tôi phải chờ bác sĩ đến hơn một tiếng song không thấy bác sĩ đâu cả. Nghe người ta bảo là phải biết đưa phong bì.”

Tâm trạng chung của người nhà bệnh nhân là phải có qùa cáp, phong bì để cảm ơn bác sĩ; đây là điều bắt buộc phải có cho dù gia cảnh của họ cũng hết sức khó khăn.

Nói về lý do vì sao phải đưa phong bì cho y bác sĩ, chị Thuận ở Vĩnh Yên giải thích:

“Vì tôi thấy mọi người đưa (phong bì) thì tôi cũng đưa, cũng vì nếu đưa phong bì thì bác sĩ sẽ quan tâm đến con mình hơn, còn không đưa thì sợ bác sĩ sẽ chăm sóc không tận tình đối với con mình.”

000_Hkg9725957-305

Khoa nhi tại một bệnh viện nhà nước ở Hà Nội ngày 17 tháng 4 năm 2014. AFP PHOTO.

Ông Xuyến quê ở Thanh hóa, đang trông con hiện điều trị ở một bệnh viện Trung ương tiếp lời:

“Nói chung là phải bán dần mọi thứ đi để lo chữa bệnh cho cháu, vì dù sao cũng phải cho một chút quà gọi là để gửi cảm ơn các bác sĩ.”

Sự thiếu thân thiện của bác sĩ đối với người bệnh, là nguyên nhân khiến cho người nhà bệnh nhân nghĩ cần phải lót tay phong bì cho các y bác sĩ. Từ Hà nội, ông Nguyễn Hòa, một lãnh đạo bệnh viện đã nghỉ hưu nói với chúng tôi:

“Tôi cũng có biết, chuyện bác sĩ vòi vĩnh là có, song là rất ít. Cái chính là vì quan hệ giữa bác sĩ và bệnh nhân bây giờ như là cái máy, tại mình không có thì giờ thăm hỏi bệnh nhân nên quan hệ 2 bên nó xa.”

Đáng chú ý, đến tháng 3/2013 cũng chính bà Bộ trưởng Bộ Y tế lại cho phép bác sĩ nhận phong bì, với điều kiện là chỉ sau khi đã điều trị xong cho bệnh nhân, vì thấy rằng “Hành vi đưa phong bì sau điều trị là hành động tỏ lòng biết ơn của người bệnh với y, bác sỹ. Đây là việc làm cần trân trọng”. Điều này được dư luận cho rằng làm cho vấn nạn phong bì trong bệnh viện ngày càng trầm trọng hơn.

Khó có thể giải quyết?

Theo báo Đất Việt, báo cáo mới nhất của Tổ chức Hướng tới Minh bạch (TT) – cơ quan đầu mối của Tổ chức Minh bạch Quốc tế tại Việt Nam (TI) cho biết: hiện tượng phong bì, vốn đã trở nên phổ biến và tràn lan tại nhiều bệnh viện. Giá trị các khoản tiền đưa theo phong bì dao động từ 50.000 đồng đến 5 triệu đồng, một số trường hợp ngoại lệ có giá trị tới vài chục triệu đồng.

Một cán bộ Cục Quản lý Khám chữa bệnh, Bộ Y tế không muốn nêu danh tính thừa nhận, đây thực sự là một vấn nạn, song khó có thể giải quyết được sớm vì liên quan đến nhiều vấn đề. Ông cho biết:

Những người thầy thuốc như chúng tôi cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm, khi người ta coi rằng vào bệnh viện chỉ cần đưa cho chúng tôi vài đồng bạc lẻ thì sẽ mua chuộc được nhân viên y tế. Đó là một điều bất nhẫn đối với người bệnh và với cả nhân viên y tế.
-Một cán bộ y tế

“Những người thầy thuốc như chúng tôi cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm, khi người ta coi rằng vào bệnh viện chỉ cần đưa cho chúng tôi vài đồng bạc lẻ thì sẽ mua chuộc được nhân viên y tế. Đó là một điều bất nhẫn đối với người bệnh và với cả nhân viên y tế. Đây chính là điều thiệt thòi đối với người bệnh và tôi coi rằng nó ảnh hưởng tới y đức.”

Với thu nhập của các y bác sĩ hiện nay không đủ sống, thì việc nhận phong bì nhằm để đảm bảo cuộc sống của gia đình họ là điều bắt buộc. Bác sĩ Bính công tác tại một bệnh viện tại Hà nội bày tỏ:

“Không nhận phong bì thì bác sĩ rất khó sống, tôi biết có nhiều người vì không nhận phong bì đã phải bỏ nghề hay làm nghề khác. Hoặc vừa làm nghề mà vẫn phải làm gia sư, làm bệnh viện tư bên ngoài, thậm chí làm cả lao động phổ thông bên ngoài để có thu nhập đủ sống cho gia đình.”

Ông Bính kêu gọi sự cảm thông của xã hội, vì việc có hay không có phong bì cũng không hề ảnh hưởng tới chất lượng khám chữa bệnh của các y bác sĩ:

“Xã hội và mọi người cũng cần hiểu và thông cảm đối với chúng tôi, vì chúng tôi cũng phải chịu rất nhiều áp lực. Chuyện nhận phong bì có chăng thì nó chỉ ảnh hưởng đến thái độ của bác sĩ, còn về mặt chuyên môn thì tôi nghĩ rằng không có bác sĩ nào vì không có phong bì thì khi mổ chỉ cắt một nửa cả.”

Khi được hỏi, nhà nước cần có giải pháp gì để giải quyết tình trạng người bệnh phải đưa phong bì lót tay cho các y bác sĩ?

Thang lương của ngành y quá thấp, mỗi tháng chỉ khoảng 3-4 triệu đồng so với khối lượng công việc quá lớn, lại thêm trách nhiệm, áp lực tâm lý đó là những điều vô cùng bất hợp lý, đó là nguyên nhân chủ yếu. Bác sĩ Nguyễn Hòa khẳng định:

“Tôi nói thẳng cũng có người nghĩ không tốt, nhất là khi đã thương trường hóa ngành y tế rồi thì khó có thể phân biệt người thầy thuốc chạy theo đồng tiền và người thầy thuốc không chạy theo đồng tiền. Theo tôi chủ trương hiện nay đã đi lệch và không đúng. Hơn nữa ngành y có mức lương thấp, có lẽ chỉ hơn nông nghiệp. Học rất nhiều mà lương thì rất thấp, tôi không hiểu sao lại như vậy?”

Bên cạnh vấn đề quá tải của bệnh viện công, với mỗi giường bệnh có 2-3 bệnh nhân, thì việc người nhà bệnh nhân luôn phải có các phong bì để lót tay khi khám chữa bệnh là điều có thật trong các bệnh viện ở Việt Nam. Phải chăng đây là do sự thiếu quan tâm của nhà nước trong việc đầu tư ngân sách thỏa đáng cho lĩnh vực y tế? Nhiều người nêu vấn đề tại sao ở các bệnh viện của tư nhân hay của nước ngoài ở Việt Nam thì hoàn toàn không có hiện tượng đưa phong bì cho bác sĩ và nhân viên bệnh viện. Đó có lẽ là câu trả lời rõ ràng nhất.

Chú viết báo tếu quá dám mó chúng nó

Chú viết báo tếu quá dám mó chúng nó

Ngô Nhân Dụng

Nguoi-viet.com

Nhà báo Ðỗ Hùng vừa mới bị một thứ trưởng bộ Thông Tin Truyền Thông (4T) rút thẻ nhà báo vì viết trên trang facebook của mình một bài “tếu.” Tếu nghĩa là đùa cợt, nói chơi để cười cho vui. Chỉ viết tếu thôi mà bị mất chức phó tổng thư ký, mất thẻ là mất cả quyền làm nghề viết báo, cúi đầu nhận lỗi mất luôn cả danh dự.

Cái tội chính của nhà báo Ðỗ Hùng, tức Mít Tờ Đỗ, là tếu. Cái óc hài hước này rất quý, loài người mà không biết cười thì chẳng khác gì đười ươi. Mít Tờ Đỗ nghĩ ra một trò tếu, kể một chuyện toàn bằng dấu sắc. Thích quá nhịn không được, bèn đưa vào facebook cho bạn bè đọc chơi. Thế là mang vạ!

Điều tội nghiệp cho nhà báo này, là ngay trong lúc tếu anh ta vẫn cố giữ “đúng lập trường” của một đảng viên cộng sản! Anh không hề chỉ trích mà chỉ ca tụng Đảng! Nếu quý vị chưa đọc đủ chuyện này thì tôi xin dẫn ra mấy câu trong bài của Ðỗ Hùng để coi có thể nào gán cho anh ta là “chống cộng” hay không: “Lúc ấy, Thế chiến (thứ mấy tớ đéo nhớ), Đế quốc đánh với Phát xít. Phía Phát xít, Thống chế chết. Đám tướng tá, lính lác đánh đấm kém, chết hết đéo sót mấy mống. Phía Đế quốc thắng lớn. Thế chiến kết thúc. Chớp lấy cái thế ấy, bác Ái Quốc, tướng Giáp với mấy chú, mấy mế xứ Pác Bó vác cuốc, vác giáo mác, vác súng ống xuống đánh phát xít, đánh Pháp, cướp lấy khí giới, cướp thóc, chiếm bốt, cứ thế đánh tới bến.”

Đỗ Hùng làm đúng bổn phận một đảng viên, đã ca tụng những công trạng đảng, như “bác Ái Quốc, tướng Giáp” … “đánh Phát xít, đánh Pháp,” dù đó là những chuyện không có thật. Thực ra ai cũng biết trước ngày 19 tháng Tám năm 1945 Nhật đã đầu hàng rồi; còn quân lính, sĩ quan Pháp còn đang bị Nhật nhốt trong tù. Các bác ấy chỉ cướp lấy quyền trong tay chính phủ Trần Trọng Kim, chính phủ độc lập đầu tiên của nước Việt Nam kể từ thời Pháp thuộc. Nhưng là một đảng viên nên Ðỗ Hùng vẫn cứ ca tụng “các bác” theo đúng sách lịch sử đảng. Đỗ Hùng “giữ lập trường” rất kỹ, tránh không nhắc cả đến tên nước Mỹ. Ai cũng biết Mỹ đã đánh thắng Nhật Bản, nhưng Hùng viết rằng “Phía Đế quốc thắng lớn,” làm như Nhật Bản không phải là một đế quốc. Đỗ Hùng khen đảng mà lại muốn tếu viết toàn dấu sắc, tưởng quá lắm cũng như làm Thơ Bút Tre mà thôi! Ấy thế mới chết!

Một độc giả Người Việt, ông hay bà ký tên ClassicalMood đã nhại lối văn tếu này để tỏ lòng thông cảm với Đỗ Hùng: “Chú bốc máu, thiếu lý trí nói quá gáy nó giáng chức…. Nếu đám hiếu chiến nó nuốt sống, chú hết hí hoáy. Nhớ đến chết tránh chiếu ánh sáng cái trái hướng tới cái tốt; chớ mó máy lý thuyết, giáo phái, gái gú chắc chắn chú sống tới lúc chết.” Một vị độc giả khác, DukeVan còn giải thích: “chính cách viết thấu cáy thách đố đó mới giết chết chú viết báo xấu số, dám chống đối đám dốt nát” Và nhân đó khen: “Các chú viết báo trí thức khá lắm, khí phách lắm. Các chú có chức, có tiếng thế chứ, dám quyết chí tố Bác lí nhí lấp liếm quốc khánh, “móc” chú Giáp thấp kém. Viết thế đám cán ngố Pác Bó dốt nát tức ói máu muốn chết.”

Cái kiếp nhà văn, nhà báo phải sách cặp đi hầu các “cán ngố” rất tội. Vì đám cán ngố không biết tếu! Cán Trương Minh Tuấn, thứ trưởng bộ 4T sung sướng công bố rằng Đỗ Hùng đã ăn năn hối lỗi: “Hùng thừa nhận và cam kết (từ nay) chỉ sử dụng facebook để từ thiện, nghiệp vụ báo chí và không đề cập các vấn đề nhạy cảm, đã thừa nhận những sai phạm từ 2014, chấp nhận mọi hình thức kỷ luật.” Nhờ thế còn giữ được một chỗ ngồi ké trong toà báo. Theo Bích Minh, trong bài “Cuộc đấu đá ngầm đằng sau vụ nhà báo Ðỗ Hùng bị tước thẻ” trên trang mạng Viet Studies, thì nhà báo Ðỗ Hùng gặp nạn chỉ vì Thứ Trưởng Trương Minh Tuấn muốn lập công đánh báo chí, hy vọng sẽ được cất nhắc. Anh bị dùng như “một ‘xác chết’ được đạp xuống để Tuấn 4T tiến lên cao hơn trên bậc thang quyền lực.”

Đỗ Hùng đã bị Quan 4T cấm không cho cười! Dù chỉ cười trong đám bạn bè. Đúng là cười trong đám bạn bè, không ra công chúng. Bởi vì facebook dù gọi là “mạng xã hội” nhưng vẫn là một cõi riêng tư; không phải nơi công cộng như trên một tờ báo bán ra, ai coi cũng được.

Facebook là một mạng lưới của những người quen biết nhau, một nhóm riêng, tự nguyện gia nhập, không phải của cả “xã hội.” Viết trên facebook, người ta chỉ cốt nói riêng với một số bạn bè có liên lạc với mình, không viết cho cả “xã hội,” cho bàn dân thiên hạ đọc.  Người nào dịch “social network” là “mạng xã hội” đã dịch sai nghĩa; rồi mọi người cứ nhắm mắt dùng theo, lâu ngày quên cả cái nghĩa “riêng tư.” Chữ “social” đứng trước chữ network chỉ có nghĩa là “giao du,” đem dịch là “xã hội” tức là làm sai nghĩa gốc. Như một “asocial event” có nghĩa là một cuộc tập họp, tiệc tùng, vân vân, không phải công việc của cả xã hội. Ai không hiểu đúng nghĩa đó, mở tự điển coi rồi ghép hai chữ lại, dịch đại là “biến cố xã hội” là … giết cả chữ nghĩa. Từ “civil society” mà dịch là “xã hội dân sự” cũng vậy, chỉ ghép hai nghĩa dễ thấy trong tự điển mà thôi; mất luôn nội dung quan trọng nhất của civil society là cách gọi chung những tổ chức của các công dân tự do, tự nguyện và độc lập.

Viết trên facebook cũng giống như ngồi uống cà phê với nhau, tha hồ nói tếu, tha hồ chọc ghẹo, có khi vui đùa chửi nhau, văng tục ra cũng chẳng ai “để bụng.” Vì ai cũng biết, đó là chỗ riêng tư, nghe rồi bỏ qua. Nếu có ai vào facebook của một người rồi đem chuyển cho người khác, thì cũng giống như người ta thuật lại một câu nói tếu trong quán cà phê, ai cũng biết nghe qua rồi nên bỏ!

Nhưng các quan cộng sản không có thói quen nghe qua rồi bỏ. Họ đã được đào tạo trong một xã hội mà người dân có bổn phận lén nghe hàng xóm nói, rình mò coi hàng xóm ăn món gì, để báo công an lập công! Ai lỡ nói gì là họ ghim lấy trong đầu để có dịp là “mách bu” cho nó chết. Ngày xưa mấy văn nô tố cáo Trần Dần đã dùng chữ “Người” để nói về con người chung chung, thế là đủ chết, vì “phạm húy.” Chế độ cộng sản không chấp nhận một “không gian tư nhân.”

Tội của Đỗ Hùng là do cái tính tếu. Nhưng trong một chế độ do các ông “Nghiêm Văn Túc” cầm quyền thì không được tếu tự do! Trong chế độ cộng sản, óc hài hước cũng bị hạn chế giống như khi mua gạo, phải có tem phiếu. Ai cũng vẫn có thể mất hộ khẩu trong “làng tếu.” Tếu trên lề bên phải thì được, bước chệch một bước là bị chúng nó thiến! Vua Hài Liên xô Yakov Smirnoff kể rằng mỗi năm một diễn viên hài hước phải nạp trước các đề tài và câu chuyện cho Sở Kiểm duyệt, rồi suốt năm chỉ được nói trong vòng cái “giáo án” đó mà thôi. Nếu trong lúc đang diễn trên sân khấu mà có khán giả la lối chê bai, anh chỉ có thể hẹn: “Yêu cầu sang năm đồng chí trở lại đây, tôi sẽ có câu trả lời được sở kiểm duyệt chuẩn y!” Vua hài Smirnoff cho biết ông có thể kể chuyện cười về loài vật, về tôm cá, hay về các bà mẹ chồng, mẹ vợ; nhưng không được đụng tới chuyện chính trị, nhà nước, tôn giáo, và tính dục.

Thí dụ, Smirnoff kể chuyện cô anh kiến kết hôn với một anh voi. Sau đêm động phòng, chú rể lăn ra chết. Cô dâu khóc: “Anh ơi, từ nay suốt đời em sẽ chỉ lo đào hố chôn anh!” Chuyện tếu về kiến với voi thì được, không cấm. Nhưng thử nghe một câu chuyện khác. Một khách hàng đi mua xe hơi Lada. Sau khi thu tiền, người bán hẹn: “Hai mươi năm nữa, chúng tôi sẽ có xe, mời ông tới lấy.” Khách hỏi: “Thưa đồng chí, lúc mấy giờ?” “Ông này lạ, 20 năm nữa kia mà? Hỏi giờ trước làm cái gì?” “Thưa đồng chí, vì sáng hôm đó tôi đã có hẹn. Ông thợ sửa ống nước hẹn tới lúc 10 giờ!” Câu chuyện này thì bị cấm. Nó thuộc về một “vấn đề nhạy cảm,” theo lối nói của các cán ngố ở Liên xô thời 1950 – 1990, và Cán ngố Trương Minh Tuấn bây giờ.

Nhưng không ai có thể đoán trước tất cả những gì là nhạy cảm, cái gì không nhạy! Có lúc cái máu tếu nổi lên, quên hết cả. Trong thời còn chế độ cộng sản, Đông Đức là nơi sung túc nhất Đông Âu, thực phẩm đủ no. Ba Lan thì dân được nói tếu nhiều hơn nhưng đói hơn (vì con bò sữa Ba Lan có cái vú rất dài, bên Nga vẫn vắt sữa). Có một con chó Ba Lan đi trên đường qua Đông Đức kiếm mẩu xương, thấy có con chó Đông Đức đang đi ngược chiều. Nó hỏi: Sang bên tớ làm gì? Có cái chó gì mà ăn đâu? Con chó Đông Đức đáp: Tớ no bụng! Nhưng lâu lâu cũng muốn sủa mấy tiếng cho nó sướng miệng chứ!

Đấy, cái nhu cầu muốn nói cho sướng miệng nó làm hại một nhà báo! Đỗ Hùng ngứa miệng quá, quên mất mình đang làm công chức được đảng trọng dụng, phạm ngay cái tội mà ngày xưa nhà văn Chu Tử (báo Sống, xuất bản ở Sài Gòn từ năm 1966) gọi là “mó dế ngựa.” Sờ một cái sẽ bị ngựa nó đá cho. Mó dế chó thì chắc chắn bị nó cắn tay.

Đỗ Hùng đã “phấn đấu vào đảng,” đã đạp lên trên bao nhiêu đồng đảng khác để leo lên được cái ghế phó tổng thư ký, có cơ hội “thắt cà vạt đỏ, đi giầy da vàng, ăn tiệc nhồm nhoàm, bay đó bay đây,” theo cách mô tả của nhà văn Nguyễn Tuân, mà tại sao lại dại dột đi “mó dế chó” như vậy? Có thể giải thích do cái máu tếu nó mạnh quá, quên đi cả những quyền lợi phải vất vả mới được hưởng. Nhưng có một lý do quan trọng, là khung cảnh xã hội chung quanh đang thay đổi.

Xã hội Việt Nam đã thay đổi rất nhiều. Như Lưu Quang Vũ đã viết từ thời 1980: Dưới hạ giới chúng nó hết sợ từ lâu rồi! Dân gian đổi trước, đảng viên đổi sau, cán bộ cũng đổi nhưng đổi chậm hơn. Xã hội giờ hiện đang thay đổi với tốc độ gia tăng, mỗi ngày một nhanh hơn, một bạo hơn. Sống trong cảnh chung quanh ai cũng hết sợ, chính những công chức nhu mì ngoan ngoãn nhất cũng “sinh nhờn!”

Một thay đổi lớn trong xã hội là người ta nhìn thấy chế độ đang rạn nứt rõ ràng. Từ trên xuống, đấu đá nhau công khai, không thằng nào nể mặt thằng nào. Bộ mặt thật hiện ra, chính chúng nó không thấy cần phải che đậy nữa. Nhà văn, nhà báo ý thức cảnh phá sản của đảng cộng sản nhậy bén hơn dân thường. Những người còn muốn giữ phẩm tiết đã lánh xa chúng nó. Các nhà văn lập văn đoàn độc lập. Các nhà báo lập Câu lạc bộ nhà báo tự do. Những người còn phải lụy chúng vì miếng cơm manh áo thì ngoài miệng vâng vâng dạ dạ nhưng trong bụng chửi thầm. Ai cũng chờ tới khi nắm chắc cái sổ lương là viết những lời “ai điếu” cho chính mình, như Chế Lan Viên, như Nguyễn Khải.

Chú viết báo tếu quá. Với máu tếu chú dám mó dế chúng nó, chúng nó mới cắn chú. Chú không biết đám cán ngố bắt chước bác chúng nó thích nói thánh nói tướng chứ không biết tếu!

THƯ GỬI CÁC SINH VIÊN, HỌC SINH CÔNG GIÁO DỊP ĐẦU NĂM HỌC 2015-2016

THƯ GỬI CÁC SINH VIÊN, HỌC SINH CÔNG GIÁO DỊP ĐẦU NĂM HỌC 2015-2016

ỦY BAN GIÁO DỤC CÔNG GIÁO

trực thuộc

HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC VIỆT NAM

_________________________________________________________________________

72/12 Trần Quốc Toản, phường 8, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh

Email: uybangiaoduc@gmail.com; Đt: 098 250 4545

Các con rất thân mến,

Nhân dịp đầu năm học mới, Cha gửi đến các con lời chào thân thương và cầu chúc các con một năm học nhiều kết quả, thăng tiến và lớn lên về mọi mặt: kiến thức, nhân cách và lòng mến Chúa yêu người.

Nơi giảng đường và tại lớp học, các con sẽ được các Giảng viên và các Thầy Cô truyền đạt nhiều kiến thức theo chương trình đào tạo, thích hợp cho mỗi cấp, mỗi lớp các con theo học. Phần Cha, Cha muốn chia sẻ với các con một điều rất quan trọng đã được Đức Thánh Cha Phanxicô nói trong bài giảng Thánh Lễ bế mạc Đại hội giới trẻ Á Châu tại Hàn quốc ngày 17.8.2014. Ngài nói: “Là những người trẻ Á Châu, các con nhìn thấy và yêu mến từ bên trong tất cả những gì tốt đẹp, cao thượng và chân thật trong các nền văn hóa và truyền thống của các con. Đồng thời, trong tư cách là Kitô hữu, các con cũng biết rằng Tin Mừng có sức mạnh thanh luyện, nâng cao và làm cho hoàn hảo di sản này… Nhờ sự hiện diện của Chúa Thánh Thần, Đấng được ban tặng cho các con trong bí tích Rửa Tội, được khắc ghi như một ấn tín nhờ bí tích Thêm Sức, và trong sự hiệp nhất với các vị Mục tử của các con, các con có khả năng nhận ra nhiều giá trị tích cực nơi các nền văn hóa khác nhau của Á Châu. Các con cũng sẽ có được khả năng để phân biệt điều gì không tương hợp với Đức Tin Công giáo của các con, điều gì trái ngược với đời sống ân sủng… và những khía cạnh nào của đời sống ngày nay là tội lỗi, là hủ hóa và dẫn đến sự chết”.

Lời nhắn nhủ trên đây của Vị Cha chung Giáo hội hoàn vũ củng cố những điều Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã nói trong Thư Chung năm 1980: “(Chúng ta cần) gắn bó với Chúa Kitô và hợp nhất với Hội Thánh toàn cầu,…gắn bó với dân tộc và đất nước… Muốn thế, một đàng chúng ta phải đào sâu Thánh Kinh và Thần học để nắm vững những điều cốt yếu của đức tin, đàng khác, phải đào sâu nếp sống của từng dân tộc trong nước, để khám phá ra những giá trị riêng của mỗi dân tộc. Rồi từ đó, chúng ta vận dụng những cái hay trong một kho tàng văn hoá và xây dựng một nếp sống và một lối diễn tả đức tin phù hợp hơn với truyền thống của mỗi dân tộc đang cùng chung sống trên quê hương và trong cộng đồng Hội Thánh này” (Thư chung 1980, số 8, 9, 11).

Dõi theo các giáo huấn trên đây của Đức Thánh Cha Phanxicô và của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Cha mời gọi các con: các học sinh, nhất là các anh chị sinh viên, hãy khám phá và trân trọng những giá trị và những điều tốt đẹp trong các nền văn hóa của Quê hương Việt Nam chúng ta. Điều này không những cần thiết mà còn cấp bách, vì trong chiều hướng toàn cầu hóa của thế giới hôm nay, nhiều lối sống và nhiều giá trị, lắm khi chỉ là giá trị giả hay phản giá trị, đang được quảng bá rộng rãi, tràn ngập xã hội đến độ làm cho các giá trị và lối sống tốt đẹp trong văn hóa chúng ta có nguy cơ bị lấn át và xóa nhòa.

Văn hóa Việt Nam chúng ta chất chứa nhiều giá trị thiêng liêng và nhân bản, tạo nên một nếp sống đầy lòng nhân ái và tình nghĩa, đáng để cho chúng ta hãnh diện và nỗ lực vun đắp. Cha đã có dịp đi thăm nhiều cộng đoàn Công giáo Việt Nam tại các nước Âu Mỹ; nơi nào Cha cũng được nghe các Chủ chăn và giáo dân địa phương tỏ lòng ngưỡng mộ nếp sống đầm ấm của gia đình Việt Nam và sức sống dồi dào của các cộng đoàn Công giáo Việt Nam. Thế nhưng, trong thời gian gần đây, các phương tiện truyền thông thuật lại nhiều sự kiện xấu trong học đường và tại xã hội Việt Nam, chẳng hạn, học sinh ẩu đả, đánh nhau hay có những thái độ vô lễ đối với giảng viên hoặc thầy cô; đáng lo ngại hơn nữa là sự kiện có những người con ngỗ nghịch đang tâm giết cha mẹ chỉ vì một chút tiền bạc hay vì bực tức.

Các con rất thân mến, là sinh viên, học sinh Công giáo, các con phải dẫn đầu trong việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp của Dân Tộc. Với bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ và sức mạnh của Tin Mừng, các con hãy làm cho lòng nhân ái, tình thương yêu, sự hy sinh cho tha nhân lan tỏa tới mọi nơi, nhất là trong gia đình, tại giảng đường và trường học.

Nếu các con đón nhận sứ mệnh Cha vừa nói, các con cần phải nỗ lực thanh luyện cho lòng các con thoát khỏi các thú vui vô bổ, các đam mê không lành mạnh và những tính toán lợi lộc giả tạo mau qua. Những yếu tố đó, nếu không được uốn nắn, sẽ trở thành những sức mạnh hung hãn tàn phá chính các con và gây thiệt hại cho nhiều người, ngay cả gia đình, cộng đoàn giáo xứ và môi trường học tập của các con.

Trong cuốn sách “Hoa Đường Tùy Bút”, cụ Phạm Quỳnh ví những thú vui và đam mê thuộc bản năng tựa như con voi, còn các giáo lý và quy luật đạo đức của tôn giáo thì như sợi chỉ. Khi con voi được huấn luyện để kính trọng và đi theo sự hướng dẫn của sợi chỉ thì nó hiền lành và giúp ích cho con người. Nếu vì bất cứ lý do gi, con voi không còn biết kính sợ sợi chỉ, nó sẽ trở thành hung hãn, phá đổ nhà cửa và giết chết nhiều người. Các con đừng sợ! Giáo lý và quy luật đạo đức của Giáo Hội tuy mỏng manh như sợi chỉ, nhưng đàng sau giáo lý và quy luật ấy là chính Chúa Giêsu. Tình yêu của Ngài là sức mạnh, một sức mạnh vượt trên mọi sức mạnh. Sức mạnh đó đã giúp nhiều người, thuộc các dân tộc, mầu da, tiếng nói và thời đại khác nhau, vượt thắng được mọi thú vui, đam mê, lợi lộc và còn dám dâng hiến mạng sống vì Nước Trời và vì tha nhân. Các Thánh, nhất là các Thánh Tử Đạo là những minh chứng hùng hồn. Vì vậy, nếu các con sống hiệp nhất và khích lệ nhau sống mật thiết với Chúa Giêsu, các con sẽ tìm được sức mạnh để chiến thắng các đam mê và dục vọng. Các con sẽ trở nên những thiếu nhi, những bạn trẻ đáng cảm phục, đáng mến, đáng kính trọng; các con sẽ là niềm vui và ơn phúc cho xã hội và cho Giáo Hội.

Với lòng thương mến, Cha cầu nguyện cho các con và xin Chúa chúc lành cho các con trong năm học mới này. Xin Mẹ Maria giang rộng vòng tay Hiền Mẫu che chở và gìn giữ các con.

Cha thân ái chào các con!

Ngày 04 tháng 9  năm 2015

+ Giuse Đinh Đức Đạo

Giám mục Phó Gp Xuân Lộc

Chủ tịch Ủy Ban Giáo dục Công Giáo

Thượng nghị sĩ Mỹ gửi thư cho một tù nhân tại Việt Nam

Thượng nghị sĩ Mỹ gửi thư cho một tù nhân tại Việt Nam

Bà Bùi Thị Minh Hằng trước và sau 5 tháng tù đầu tiên. Thượng nghị sĩ Bill Cassidy đã gửi thư thẳng vào trại giam cho bà Minh Hằng vào ngày 9/9/2015.

Bà Bùi Thị Minh Hằng trước và sau 5 tháng tù đầu tiên. Thượng nghị sĩ Bill Cassidy đã gửi thư thẳng vào trại giam cho bà Minh Hằng vào ngày 9/9/2015.

Trà Mi-VOA

11.09.2015

Một thượng nghị sĩ Hoa Kỳ gửi thư cho một nữ tù nhân lương tâm Việt Nam được nhiều người biết tiếng, chia sẻ cảm thông và bày tỏ ủng hộ đối với những gì bà đang gánh chịu vì hoạt động nhân quyền.

Thư của Thượng nghị sĩ Bill Cassidy gửi thẳng vào trại giam cho nhà hoạt động Bùi Thị Minh Hằng, người thọ án 3 năm tù từ năm ngoái với cáo buộc ‘gây rối trật tự công cộng’ sau loạt các hoạt động cổ súy cho tự do tôn giáo và dân chủ trong nước.

Lá thư đề ngày 9/9 của nhà lập pháp Mỹ mở đầu với dòng chữ “Tôi viết thư cho bà với trái tim trĩu nặng lo lắng về tình cảnh bà bị lâm vào hiện nay”.

Thượng nghị sĩ Cassidy nhấn mạnh: “Dù bị tước quyền tự do và bị buộc phải sống trong điều kiện giam cầm tệ hại, bà vẫn tìm cách gìn giữ động lực cho những người cùng hoạt động xã hội với mình. Vì vậy, tôi xin hoan nghênh tinh thần can đảm và mạnh mẽ của bà”.

Ông nói bà Hằng dù bị giam cầm, nhưng thanh danh, câu chuyện, cùng những đóng góp không mệt mỏi của bà cho người dân Việt Nam không hề bị quên lãng.

Ông Bill Cassidy cho hay giới lập pháp Hoa Kỳ đang nỗ lực thúc đẩy Hà Nội phóng thích cho nhà hoạt động Minh Hằng để tiếp tục nhắc nhở các chính phủ như Việt Nam rằng “sẽ bất lợi cho chính họ khi họ bịt miệng những tiếng nói như tiếng nói của bà”.

Thượng nghị sĩ Mỹ Bill Cassidy nói chuyện điện thoại với gia đình bà Bùi Thị Minh Hằng.

Kết thư, Thượng nghị sĩ Cassidy viết: “Tôi nghĩ tới bà và cầu nguyện cho bà trong lúc bà đang tranh đấu để đòi hỏi các quyền cơ bản mà mọi con người đều phải được hưởng”.

Con gái bà Minh Hằng cho biết gia đình cô hết lòng cảm kích trước sự quan tâm của chính giới Hoa Kỳ dành cho các nhà hoạt động đang bị áp bức tại Việt Nam.

Cô Phạm Thị Quỳnh Anh:

“Đây là sự động viên rất lớn đối với mẹ em và gia đình em. Nếu may mắn bức thư tới được tay mẹ em thì nó sẽ là nguồn động lực lớn lao cho bà trong trại. Gia đình em cảm thấy rất vui. Không riêng với vị Thượng nghị sĩ này, bọn em còn phải cảm ơn rất nhiều người khác nữa đã tích cực vận động cho mẹ em”.

Cô Quỳnh Anh nói lẽ ra sự chia sẻ, động viên này phải đến từ các dân biểu của Việt Nam, những người được xem là tiếng nói đại diện cho nhân dân, thay vì là từ một nhà lập pháp của Mỹ:

“Đấy là sự khác nhau giữa thiên đường xã hội chủ nghĩa và tư bản, và mẹ em là người đang đi đòi những cái đó cho dân Việt Nam. Bởi vị sự độc đảng, tất cả các vị đại diện cho nhân dân dù mang tiếng là đại biểu nhân dân thay cho tiếng nói nhân dân, nhưng trên thực tế họ là những đảng viên cần giữ thẻ đảng. Đương nhiên nhân dân như bọn em là không có đảng, tiếng nói khác, nên họ không thể nói tiếng nói trung thực với tiếng nói của người dân khi mà họ còn lăng xăng vướng vào cái thẻ đảng”.

Dù bị tước quyền tự do và bị buộc phải sống trong điều kiện giam cầm tệ hại, bà vẫn tìm cách gìn giữ động lực cho những người cùng hoạt động xã hội với mình. Vì vậy, tôi xin hoan nghênh tinh thần can đảm và mạnh mẽ của bà.

Thượng nghị sĩ Mỹ Bill Cassidy nói chuyện điện thoại với gia đình bà Bùi Thị Minh Hằng.

Thượng nghị sĩ Bill Cassidy.

Cô Quỳnh Anh khẳng định mẹ cô, tiếng nói bênh vực cho công lý và người nghèo, không phải là thành phần ‘phạm pháp’ như định nghĩa của chính phủ Việt Nam. Theo cô, cái án hình sự bà Hằng đang phải nhận lãnh chỉ là cái cớ của Hà Nội để ghép tội và trả đũa cho các hoạt động nhân quyền của bà.

“Mẹ em lẽ ra không phải chịu cái án đó. Thế nhưng vì họ đã từng tuyên bố là ở Việt Nam không có tù nhân lương tâm, không có tù nhân chính trị, cho nên họ đã không bắt những người như mẹ em, luật sư Lê Quốc Quân, hay chú Điếu Cày bằng những cái án chính trị bao giờ cả. Sự quan tâm của thế giới nói chung và của nước Mỹ nói riêng dành cho mẹ em, đối với bọn em, là quá sức lớn lao. Thế nhưng quan trọng nhất là phía chính phủ Việt Nam có biết lắng nghe hay không. Nguồn gốc nằm ở chỗ chính phủ Việt Nam vẫn chưa chịu hiểu điều đó”.

Con gái bà Minh Hằng cho hay hiện giờ tình trạng sức khỏe của bà trong trại giam không được tốt, nhưng ngoài việc được trạm y tế của trại khám bệnh, các nhu cầu về thuốc men của bà không được đáp ứng:

“Từ lúc chuyển trại từ Đồng Tháp qua Gia Lai, mẹ em đã có hiện tưởng thỉnh thoảng bị tê liệt nửa người. Gia đình có nhu cầu đưa bà đi khám nhưng trại Đồng Tháp một, hai hôm sau lập tức chuyển trại đưa mẹ em về Gia Trung. Sang đến trại Gia Trung, mẹ em vẫn tiếp tục bị đau nửa đầu và gần đây nhất là hay có hiện tượng bị hạ đường huyết. Bên trại họ chỉ thăm khám thôi chứ chưa thấy đưa ra được đơn thuốc về cho gia đình. Mẹ em có yêu cầu đưa đơn thuốc và kết quả khám bệnh về cho gia đình, nhưng chưa được đáp ứng”.

Bà Bùi Thị Minh Hằng trong phiên tòa phúc thẩm.

Bà Bùi Thị Minh Hằng trong phiên tòa phúc thẩm.

Bà Bùi Thị Minh Hằng là nhà hoạt động được nhiều người biết đến từ các cuộc biểu tình chống Trung Quốc xâm lấn Hoàng Sa – Trường Sa. Kể từ đó, bà trở thành mục tiêu thường xuyên bị hành hung, bắt bớ và giam cầm.

Tháng 9 này, bà cùng với nhà hoạt động đang bị giam cầm Tạ Phong Tần được Liên Hiệp Quốc vinh danh trong chiến dịch kêu gọi phóng thích 20 nhà hoạt động nữ nổi bật của nhiều nước từ châu Á tới châu Phi, những người đã can đảm dấn thân vì nhân quyền nhưng bị tù tội một cách bất công. Chiến dịch nhằm gửi thông điệp tới các chính phủ độc tài rằng nếu muốn tăng cường sức mạnh cho nữ giới như những gì cam kết với quốc tế, hãy thôi giam cầm những phụ nữ đi đầu cho nhân quyền.

Bà Minh Hằng từng tuyệt thực nhiều lần trong trại giam để phản đối các điều kiện đối xử khắc nghiệt và ngược đãi.

Con gái bà Hằng nói với tư cách là con của một tù nhân lương tâm, cô chỉ hy vọng một điều là Việt Nam không còn tù nhân lương tâm nữa vì họ là những người đáng ra phải được biết ơn, những người đi đầu cho tự do – dân chủ trong nước.

Hà Nội phủ nhận giam cầm tù nhân lương tâm và gọi đó là những người ‘phạm pháp’ bị xử lý theo pháp luật Việt Nam, khơi dậy những lời kêu gọi yêu cầu Việt Nam phải cải thiện luật nội địa phù hợp với các chuẩn mực nhân quyền căn bản chung của quốc tế.

Hứa đi sông ơi…

Hứa đi sông ơi…

canhco

RFA

Người lãnh đạo vốn được xem là ngôi sao dẫn đường của đất nước. Bất kể quốc gia theo thể chế nào, sự tỏa sáng của ngôi sao dẫn đường luôn là yếu tố cần thiết đầu tiên để dân chúng tin vào và hợp tác, hay chí ít tin vào với sự yên tâm rằng đã có người lo phần ăn ngủ cho gia đình mình một cách đáng tin cậy. Lãnh đạo càng tỏa sáng, niềm tin càng lớn mạnh trong lòng người dân.

Putin là một ví dụ của nước Nga.

Dù ông ta độc tài và cách quản trị đất nước chuyên chế không khác mấy với thời ông còn trong tổ chức KGB trước đây: độc tài, quyết đoán và bè phái.

Độc tài làm Putin liên tục nắm chức vụ cao nhất trong chính phủ Nga trong nhiều năm. Quyết đoán khiến nhân dân Nga tin rằng mình có một tổng thống mạnh mẽ có thể đối phó với Mỹ và nguyên khối EU và bè phái làm cho chiếc ghế của ông tăng thêm sức chịu đựng của giông gió đến từ các thành phần đối lập. Mặc dù cơn hồng thủy cấm vận và các vấn đề khác làm cho Putin mất niềm tin ngày một nhiều nhưng dân Nga biết rằng sau Putin sẽ là một con số trắng, không ai đủ sức nắm một nước Nga từ suy yếu tới cường mạnh và lại suy yếu tiếp tục như một hình vẽ Parabol. Nga cần Putin và Putin biết rõ điều đó. Putin không cần lo chiếc ghế vì khác với Việt Nam, Putin không bị ai giành giật vị trí của mình.

Việt Nam khác Nga, tuy cũng độc tài, cũng quyết đoán và nhất là cũng bè đảng như Putin.

Độc tài thì không cần chứng minh, cả thế giới đều biết. Quyết đoán cũng đã rõ bởi các chính sách đưa ra mặc dù phần lớn đều nông nổi, mang tính đối phó hay nhiều khi chỉ để vỗ béo một nhóm nào đó nhằm bảo vệ chiếc ghế của mình. Còn phe đảng thì rõ ràng dữ dội, âm thầm và ghìm nhau từ động thái.

Tuy nhiên khác với Putin, một mình một chợ, nắm chắc dân Nga trong lòng bàn tay, lãnh đạo Việt Nam muốn ngồi yên phải thỏa hiệp với nhau, cân bằng thế và lực để ngồi trên chiếc thuyền quyền lực. Hơn quá cũng nguy mà yếu quá là chết…mọi cử động phải nhìn ngắm trái phải sau trước và cứ thế cùng nhau ngồi chung trên một con thuyền không người lái cũng chả ai chèo, cứ mặc cho giòng nước cuốn tới đâu thì tới.

Lãnh đạo ngồi trên thuyền còn nhân dân thì bơi dưới nước.

Muốn dân đừng lật thuyền lãnh đạo Việt Nam làm nhiều chuyện éo le và nhân dân trong lúc lo bị sặc nước đã không có thời giờ chú ý.

Một trong những éo le ấy là hứa. Hứa như bợm và nuốt lời như chơi.

Ông Nguyễn Tấn Dũng là một trong những lãnh đạo hứa nhiều nhất, mà éo le ở chỗ chưa lời hứa nào trọng đại của ông ấy được thực hiện, hay ít nhất được các cấp dưới quyền thực hiện.

Trước tiên khi bắt đầu nhậm chức, ông hứa sẽ quét sạch tham nhũng nếu không ông sẽ về vườn.

Và ông về vườn thật, vườn Thiên đàng, nơi ông không thiếu thứ gì ngoài Thượng đế.

Ông hứa với dân là sẽ tranh đấu để quyền biểu tình của dân được quốc hội chính thức làm thành luật. Quốc hội nghe rồi để đó. Ông nói rồi bỏ qua. Người dân đang bơi bên cạnh chiếc thuyền của các ông được vất một cành cây lời hứa xuống nhưng hỡi ơi lại là cành mục chưa rơi tới nước đã bị sóng đánh tan tành.

Ông còn hứa nữa, mỗi lần có sự cố xảy ra là ông hứa. Lời hứa không mất tiền mua, thế thì cứ hứa cho vừa lòng dân.

Khi anh nông dân Đoàn Văn Vươn bị bắt, bị chiếm ruộng đập nhà ông lại hứa. Lần này ông ra lệnh hẳn hoi, Thành phố Hải Phòng nhận được chỉ thị của ông và anh Đoàn Văn Vươn được ra khỏi tù sau…ba năm 6 tháng.

Lần ông hứa cuối cùng là vụ 1.400 tỷ xây tượng Bác tại Sơn La. Ông đập bàn đập ghế đòi Sơn La phải giải trình tại sao lại xử dụng vốn nhà nước một cách hoang phí như vậy. Sơn La bấm nhau cười, đâu đó đám trẻ chăn trâu ngoài đồng hát bài “giải trình, giải rút chắc là đồng môn”

Sơn La chính thức công bố dự án sẽ được thực hiện trong khi không đá động gì tới Thủ tướng. Của đáng tội, không phải Sơn La coi thường lệnh  Thủ tướng nhưng họ biết rằng Thủ tướng chỉ quát khẽ cho đám dân bơi dưới kia yên tâm rằng một chốc nữa ông sẽ quăng phao, những chiếc phao lời hứa ấy cho tới nay vẫn tỏ ra hiệu nghiệm đối với người dân, nhất là những người không bao giờ quên được cảm giác ngộp nước. Họ cần thở còn bơi dưới dước bao lâu thật không quan trọng lắm.

Thủ tướng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước… cả ba ngôi sao ấy không tỏa sáng bao giờ nhưng tại sao lại không chịu tắt? Người dân chăng? Trí thức chăng? Đảng viên tỉnh thức chăng? Không ai cả, đất nước loe hoe lạc loài trong sa mạc và bộ sậu trên chiếc thuyền đất nước ấy vẫn không ai là người thuyền trưởng. Thuyền cứ xoay và dân cứ bơi…..hình ảnh của Việt Nam hôm nay trên mọi trang báo trong hay ngoài nước đều lộ rõ tầm nhìn một thước sáu lăm của lãnh đạo.

Một thước sáu lăm vừa vặn với số đo của ba người cộng lại chia ba.

Và lời hứa của Thủ tướng tuy chưa thực hiện nhưng dân vẫn tin rằng một lúc nào đó cán bộ sẽ nghe ông. Cũng như bây giờ dân vẫn tin rằng mọi chính sách trên đưa xuống đều đúng chỉ có cán bộ làm sai.

Không thấy cái nón nào lại vừa vặn cho tất cả mọi vấn đề như thế. Thủ tướng làm đúng nhưng Tiên Lãng, Sơn La làm sai. Ngay cả vụ biểu tình thì lỗi của Quốc hội còn tham nhũng thì…một mình ông làm sao lo xuể?

Vậy thì còn chờ gì nữa mà chúng ta không tiếp tục…bơi bên cạnh Thủ tướng và chờ một ngày đẹp trời nào đó cán bộ cấp dưới của ông giật mình thức tỉnh làm đúng một lần cho đất nước được nhờ?

Nghĩ về tấm bia căm thù

Nghĩ về tấm bia căm thù

Uyên Vũ, thông tín viên RFA

45c61642-620

Bia căm thù trước tổng Lãnh Sự Quán Mỹ tại Sài Gòn.

RFA photo

Tròn 14 năm trước ngày 11/9/2001, Hoa Kỳ và thế giới tự do bàng hoàng rúng động bởi vụ đánh bom tòa tháp đôi World Trade Center. Vâng, thế giới tự do của những người yêu chuộng tự do mới bàng hoàng, còn tại các nước cộng sản và độc tài thì không hẳn như vậy, nếu không muốn nói là ngược lại.

Xin miễn bàn về các nước đang nuôi dưỡng và chứa chấp bọn khủng bố. Tại Trung Quốc, tướng Lưu Á Châu kể lại: “Nước ta (tức Trung Quốc) có một đoàn đại biểu, lúc đó đang ở thăm nước Mỹ, lúc xem tòa nhà thương mại thế giới bị máy bay bọn khủng bố đâm vào, những người trong đoàn tham quan liền không kìm được cảm xúc, đứng dậy vỗ tay hoan hô.” (!)

“Tôi ở Bộ tư lệnh Không quân đóng tại quân khu Bắc Kinh, vào những ngày đó có bộ đội tới thăm, tôi đều hỏi họ có cái nhìn như thế nào về vụ 11 tháng 9? Họ đều có một câu đáp án như nhau “Khủng bố đánh rất tốt”. Sau đó tôi nói “chuyện này rất bi thảm. Nếu như những người này yêu Trung Quốc, thì còn ai có thể cứu được Trung Quốc?”

Còn ở Việt Nam, khi sự kiện 11/9 vừa được các hãng thông tấn lớn loan tải, lúc đó muốn vào mạng xem tin tức chỉ có cách ra những quán cafe internet để theo dõi. Tại một diễn đàn online lớn nhất Việt Nam khi ấy là diễn đàn ttvnol (Trí Tuệ Việt Nam Online) mà thành viên đa số là những trí thức, sinh viên sống ở Hà Nội. Khi nhìn qua màn hình computer thấy cảnh tòa nhà World Trade Center bị đổ sụm do chiếc phi cơ đâm vào nhiều sinh viên đã rú lên vì sung sướng, thế rồi họ truyền tin cho nhau với thái độ đắc chí. Họ đua nhau bình phẩm và chờ đợi sự “giãy chết” của Hoa Kỳ. Lạ một điều, những sinh viên ấy hầu hết lớn lên khi chiến tranh đã chấm dứt. Hàng ngày họ vẫn uống Coke, vẫn chuộng những chiếc quần Jeans hiệu Levi’s và săn lùng những hàng hóa “made in USA” từ chiếc computer cho đến đôi giày thể thao.

camthu.jpg

Một trong những tấm bia căm thù. RFA photo

Vậy tại sao họ có thái độ khó hiểu như vậy? Thực ra, nếu sống trong lòng một đất nước cộng sản thì cũng không thấy điều đó có gì khó hiểu. Những sinh viên này đều đã trải qua nhiều năm tháng học một thứ giáo dục nhồi sọ. Ở đó, trong sách giáo khoa lẫn trên bục giảng, từ một trẻ nhỏ chập chững bước vào trường tiểu học cho đến một tân khoa cử nhân đều phải học những bài học lịch sử được viết lại cho thuận ý nhà cầm quyền. Những bài học lịch sử bịa đặt, thêm thắt và tràn ngập những căm thù. Nước Mỹ là kẻ thù mà họ huênh hoang là đã “chiến thắng vinh quang”, Hồ Chí Minh còn chơi chữ: “Mỹ nhưng mà xấu”, những bài toán cộng của học sinh tiểu học đã là những bài toán cộng của những xác lính Mỹ chết.

Giới trẻ Việt Nam chuộng hàng hóa Mỹ nhưng thâm tâm vẫn cứ nghĩ “của bọn tư bản xấu xa bóc lột”. Cũng không khó kiếm những tượng đài to lớn kỷ niệm cái gọi là “chiến thắng 30/4” cũng như thật dễ nhìn thấy những tấm “bia căm thù”. Tại Sài Gòn, ngay trên đoạn vỉa hè phía trước tòa tổng lãnh sự Hoa Kỳ là một tấm “bia căm thù” như thế và khói hương, hoa đèn vẫn được cung kính tưởng niệm tại tấm bia này. Chính vì thế, những người trẻ lớn lên, mũi chưa từng ngửi thấy mùi thuốc súng, mắt chưa từng thấy những tử thi không nguyên vẹn trông những bộ quân phục… Họ vẫn âm ỉ sâu kín trong lòng mối căm thù.

Tôi không biết các viên chức ngoại giao Hoa Kỳ nghĩ gì khi nhìn thấy tấm “bia căm thù” án ngữ cơ quan ngoại giao của họ, họ nghĩ gì khi vào những dịp lễ lạt, từng đoàn người mang hoa nến, nhang đèn đến công khai bày tỏ lòng căm thù đối với đất nước Hoa Kỳ của họ. Có lẽ họ sẽ cảnh giác với một dân tộc luôn nuôi dưỡng ý chí căm thù, nhưng cũng có lẽ họ sẽ tặc lưỡi bỏ qua. Tôi nhớ, nhà thơ Phan Nhiên Hạo đã viết lại cảm nghĩ khi đứng trước cảnh đỗ vỡ hoang tàn của tòa nhà World Trade Center, ông viết: “Tôi tìm mãi không thấy một tấm “bia căm thù” nào được dựng lên để lên án bọn khủng bố. Thay vào đó, tôi thấy một trái tim màu xanh thật lớn được vẽ trên tường của tòa cao ốc sát bên”.

Hoa Kỳ đã trải qua nhiều cuộc chiến, số người chết vì chiến tranh luôn được tưởng niệm và vinh danh nhưng với các địch thủ. họ không hề được dạy là phải căm thù. Có lẽ chính vì thế mà Hoa Kỳ cứ lớn mạnh. Một dân tộc lớn bởi vì không nuôi dưỡng những thù hằn nhỏ. Mới đây, tôi có hỏi một trí thức người Việt sống lâu năm tại Nhật Bản là dân Nhật có căm thù nước Mỹ vì đã thả hai trái bom nguyên tử làm hàng trăm ngàn người Nhật chết hay không, ví dụ về dịp kỷ niệm 70 năm tại Hiroshima vừa qua. Câu trả lời là nước Nhật vẫn tổ chức lễ tưởng niệm nạn nhân chết vì bom nguyên tử nhưng không hề căm thù Hoa Kỳ. Nhật Bản đã vươn lên từ đống tro tàn phát xít để trở thành cường quốc thế giới, phải chăng vì họ biết quên đi thù hận mà chỉ dồn nỗ lực vào việc tái thiết quốc gia?

Hoa Kỳ cũng sẽ tưởng niệm biến cố 911, vì biến cố ấy đã làm thay đổi đất nước họ. Các gia đình có người thiệt mạng trong sự kiện bi thảm ấy chắc sẽ chẳng bao giờ quên. Nhưng ngay chính nơi tòa tháp World Trade Center đã mọc lên một tòa tháp mới, lộng lẫy, tráng lệ hơn. Trong tòa tháp ấy có lẽ cũng chẳng dành một chỗ nào cho tấm bia căm thù, dù nhỏ nhoi.

Không uống bia ‘hỏa tốc,’ 7 cán bộ phải viết tường trình

Không uống bia ‘hỏa tốc,’ 7 cán bộ phải viết tường trình

Nguoi-viet.com

HÀ TĨNH (NV) – Cán bộ thuộc Sở Giáo Dục bị nhắc nhở và phải viết tường trình trong một cuộc họp nội bộ sau khi từ chối không tham gia uống và sử dụng bia được sản xuất tại tỉnh nhà.

Sở Giáo Dục và Đào Tạo Hà Tĩnh, nơi 7 cán bộ bị nhắc nhở vì không
uống một loại bia sản xuất tại tỉnh nhà. (Hình: VnExpress)

VnExpress loan tin, ngày 11 Tháng Chín, 2015, ông Dư Lý Trí, phó chánh văn phòng Sở Giáo Dục Hà Tĩnh cho biết, sau hội nghị “điển hình tiên tiến” vào cuối Tháng Sáu, một số cán bộ trong cơ quan đã tổ chức bữa tiệc tại một nhà hàng ở thành phố Hà Tĩnh. Tại đây, khi gọi đồ uống, nhiều người đã không dùng bia Sài Gòn.

“Mấy người làm tiếp thị, kinh doanh tại nhà hàng thấy cán bộ Sở Giáo dục không uống bia của hãng nên nhắn tin cho lãnh đạo tỉnh, vị này sau đó trao đổi với giám đốc sở”, ông Trí nói.

Tin cho hay, sau đó trong một cuộc họp nội bộ, 7 cán bộ liên quan đã phải viết bản tường trình sự việc và bị nhắc nhở.

Trước đó, ngày 1 Tháng Chín, trong khuôn khổ tổ chức lễ hội “Tôi yêu bia Sài Gòn,” ông Lê Minh Đạo, chánh văn phòng tỉnh Hà Tĩnh đã ký giấy mời đóng dấu “hỏa tốc” gởi tới các lãnh đạo chủ chốt của tỉnh, thủ trưởng sở ban ngành, đoàn thể cấp tỉnh, chủ tịch các hội, hiệp hội trong tỉnh, lãnh đạo huyện của tỉnh… tới tham gia.

Giấy mời của chánh văn phòng ủy ban tỉnh Hà Tĩnh dùng dấu hỏa tốc
yêu cầu lãnh đạo tham dự lễ hội bia. (Hình: VnExpress)

Theo một lãnh đạo Sở Công Thương Hà Tĩnh, tính đến ngày 15 Tháng Sáu, tổng thu ngân sách nội địa 6 tháng đầu năm của Hà Tĩnh đạt 2,511 tỷ đồng, trong đó dự kiến thu ngân sách từ phía Chi nhánh bia Sài Gòn đóng trên địa bàn là 380 tỷ đồng.

Theo Bộ Y Tế, Việt Nam là nước tiêu thụ bia cao thứ 3 tại Châu Á, chỉ sau Nhật Bản và Trung Quốc, với khoảng 3 tỷ lít bia trong năm 2013. Trong 10 năm gần đây, tốc độ tiêu thụ bia của người Việt Nam đã tăng hơn 200%. Rượu, bia đứng trong số 10 nguyên nhân gây tử vong cao nhất ở Việt Nam. (Tr.N)

Âu Châu Là Nạn Nhân Của Nạn Di Dân

Âu Châu Là Nạn Nhân Của Nạn Di Dân

Vụ khủng hoảng có nguyên nhân kinh tế, nhưng hậu quả chính trị…

Âu Châu đang gặp một vụ khủng hoảng di dân nghiêm trọng nhất từ Thế chiến II. Khối Liên hiệp Âu châu cố giải quyết bằng cách phân phối di dân cho các thành viên, với nước Đức được coi là ân nhân. Hậu quả lâu dài lại thúc đẩy nhiều sức ly tâm gây thêm phân hóa trong nội bộ Âu Châu….

Âu Châu có trào lưu chung của các nước công nghiệp hóa tiên tiến là có tỷ lệ sinh sản thấp hơn và tuổi thọ trung bình cao hơn. Dân số hay nhân khẩu là định mệnh trong ý nghĩa đó.

Sau Thế chiến II, Âu Châu áp dụng chiến lược phát triển với niềm tin rằng lực lượng lao động đông đảo sẽ góp đủ thuế để chu cấp cho thành phần ở ngoài tuổi lao động – dưới 15 và trên 64 tuổi. Khi thấy tỷ lệ sinh sản giảm dần, một số quốc gia có tăn trợ cấp cho gia đình đông con nhằm khuyến khích việc sinh đẻ – đứa con thứ ba là “miễn phí” – với kết quả thật ra cũng giới hạn trước một chiều hướng văn hóa phổ biến và khó cưỡng.

Vì vậy, Âu Châu mới có giải pháp di dân, là nhập cảng sức lao động từ bên ngoài.

Di dân sẽ nâng sức lao động và mức cầu kinh tế để tạo thêm việc làm và sự thịnh vượng. Thành phần di dân có tay nghề cao thì giúp kinh tế phát triển các ngành sản xuất chuyên biệt để khai thác lợi thế tương đối của từng quốc gia. Thành phần thiếu chuyên môn thì lao động trong những ngành cực nhọc mà dân bản xứ không muốn làm. Đã vậy, lực lượng lao động càng đông thì thành phần thọ thuế càng nhiều sẽ tăng mức thu cho ngân sách để nhà nước lo toan cho những người ở ngoài tuổi lao động.

Nhưng lý luận kinh tế lạc quan ấy lại đụng vào thực tế cứng đầu. Và Âu Châu đang bị khủng hoảng với làn sóng di dân thứ ba, dữ dội nhất, kể từ 10 năm qua. Xin hãy nói về ba làn sóng đó trước.

Sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ năm 1991, các nước Âu Châu lạc quan thúc đẩy việc hội nhập để thành lập Liên hiệp Âu châu. Từ đó, Liên Âu đã “Đông tiến”, kết hợp dân số đông đảo của các nước Đông Âu, nhất là các quốc gia có mật độ dân số cao như Ba Lan hay Romania (Lỗ Ma Ni là cách gọi ngày xưa). Lao động Đông Âu đã “Tây tiến” và góp phần giải quyết vấn đề thiếu hụt dân số của các nước tân tiến hơn ở miền Tây. Đấy là đợt di dân đầu tiên, vào thời 2004-2007.

Nối tiếp là đợt thứ nhì vào các năm 2009-2010, khi khủng hoảng tài chánh tại các nước miền Nam mở ra phong trào “Bắc tiến”. Dân cư của các nước lâm nạn ở miền Nam đi tìm việc làm trong các quốc gia giàu mạnh hơn ở “vùng cốt lõi” là miền Bắc, từ Pháp qua Đức và các lân bang.

Trong hai đợt ấy, hiện tượng di dân vẫn có tính chất nội bộ Âu Châu và dù có gây va chạm, kể cả phản ứng chống di dân, thì cũng chẳng dẫn tới khủng hoảng khi 22 thành viên trong số 28 nước Liên Âu đã ký Hiệp ước Schengen về quyền tự do lưu thông người và vật từ năm 1995.

Đợt thứ ba là ngày nay thì khác.

Làm sóng di dân bùng lên từ Trung Đông và một số quốc gia bị nội loạn ở nơi khác đã dập vào bến bờ Âu Châu để xin tỵ nạn. Di dân là nạn dân và gây vấn đề trước tiên cho các nước lâm nạn kinh tế tại miền Nam, như Hy Lạp, Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha, rồi lan qua nước khác, với cao điểm là Hungary.

Trong đợt trước (2009-2010), nếu làn sóng “Bắc tiến” có nhất thời hạ giảm thất nghiệp thì cũng gây ra nạn “xuất não” là thành phần có chuyên môn và tốt nghiệp đại học bỏ xứ đi làm trong các doanh nghiệp Đức Pháp. Các nước lâm nạn chưa kịp phục hồi thì lại bị làn sóng nạn dân đập vào bờ. Thành phần di dân tỵ nạn này không có thông hành Âu Châu nên vừa khó kiếm việc ở tại chỗ lại cũng chẳng thể tạm “quá quan” để đi vào các nước Âu Châu khác. Làn sóng đó bị ứ tại miền Nam và chờ đợi quyết định thu nhận hay phân bố di dân của Liên Âu.

Sự kiện đa số của thành phần này lại theo Hồi giáo, đã chẳng phù hợp với văn hóa hay tôn giáo Âu Châu mà chưa chắc là đã muốn hội nhập, càng dễ gây phản ứng ngược từ phong trào quốc gia dân tộc cực đoan hoặc tinh thần chống di dân tại Âu Châu. Thí dụ như nhiều trại tạm trú di dân tại miền Đông nước Đức đã bị cư dân đập phá, hay đảng Mặt trận Quốc gia theo xu hướng cực hữu đã lên như diều tại Pháp, và đảng Dân Chủ chống di dân đang thắng thế tại Thụy Điển.

Một thí dụ khác là Ba Lan sẽ có bầu cử vào tháng tới và đảng bảo thủ đang cầm quyền lại mất phiếu vào phe đối lập theo khuynh hướng quốc gia. Chính quyền Hung Gia Lợi cũng gặp bài toán tương tự trước sức ép của phong trào quốc gia bên cánh hữu, trong khi Chính quyền Đức chưa kịp mở cửa biên giới để nhận thêm nạn dân ứ đọng tại các trại tạm trú của Hung.

Vì thế, khi thương thuyết việc phân bố hay nhận “hạn ngạch” (định mức di dân) do Liên Âu quyết định, mỗi chính quyền lại cân nhắc lợi hại chính trị trong nội bộ, và đối chiếu với yêu cầu hội nhập và tinh thần liên đới của Âu Châu. Vốn dĩ đã có quá nhiều dị biệt về thực tế kinh tế và lập trường chính trị, Liên Âu lại bị thêm một sức ly tâm mới.

Nhìn về dài, “định mệnh” của một quốc gia là cơ cấu dân số hay nhân khẩu cũng có nhiều khác biệt.

Thí dụ như có nền kinh tế mạnh nhất và tinh thần rộng lượng nhất với nạn dân nên đã quyết định đón nhận 800 ngàn người một năm, nước Đức là một nạn nhân của nạn lão hóa dân số. Theo dự phóng của Liên Âu, từ năm 2020 đến 2060, dân số Đức sẽ mất 10 triệu người. Và “tỷ số lệ thuộc” của thành phần cao niên sống nhờ hưu bổng và trợ cấp y tế do lực lượng lao động (ở tuổi 15-64) tạo ra lại từ 36% trong hiện tại tăng đến mức 59%, cao nhất của Âu Châu. Nhìn cách khác, lực lượng lao động tại Đức sẽ mất một phần tư. Bài toán ngân sách của đệ nhất cường quốc kinh tế Âu Châu là thiếu tiền. Người đi làm ít hơn mà phải gánh vác một loại chi phí chỉ có tăng chứ khó giảm (sống lâu hơn và càng lớn tuổi thì càng lắm bệnh!)

Vì lẽ đó, Đức mới hào phóng với di dân: để nhập cảng sức lao động. Hai năm trước, Đức còn có luật lệ quy định rằng một nạn dân chỉ được phép đi làm 12 tháng sau khi được nhập cư. Thời hạn này vừa được giảm xuống ba tháng. Thà như vậy còn hơn là gặp hiện tượng lao động chui và trốn thuế khá phổ biền trong thành phần di dân nhập lậu vào Mỹ!

Bên kia biển Bắc, Anh quốc (United Kingdom) thì bị tiếng ích kỷ vì có chủ trương hạn chế di dân.

Là quốc gia hải đảo đã chẳng ký Hiệp ước Schengen, nước Anh cũng đứng ngoài vòng tranh luận – dù bị đả kích – vì không gặp bài toán nhân khẩu như Đức. Anh quốc sẽ là nước đông dân nhất Âu Châu: từ 67 triệu vào năm 2020 dân số Anh sẽ lên tới 80 triệu vào năm 2060. Nhìn cách khác, tỷ lệ sinh sản tại Anh thuộc loại cao nhất Liên Âu: trung bình một phụ nữ đẻ được 1,9 trong quãng đời sinh sản của mình. Nhờ các bà lạc quan yêu đời như vậy, tỷ số lệ thuộc tại Anh sẽ chỉ tăng từ 30% đến 43% trong khoảng thời gian dự phóng của Liên Âu (2020-2060).

Cho nên sự chuyển động chậm rãi của dân số trong trường kỳ có thể giải thích nhiều khác biệt về đối sách với di dân.

Nhưng trước mắt thì vụ khủng hoảng đang gây nhiều thách đố cho Liên Âu. Các nước nghèo, hoặc lâm nạn như mấy quốc gia miền Nam, thì không đủ công quỹ giải tỏa sức ép của làn sóng nạn dân. Họ cần tiền. Nhiều nước khác, giàu như Bắc Âu hoặc nghèo như Nam Âu, thì hoài nghi chủ trương hội nhập loại di dân không muốn làm công dân và chẳng muốn tự hội nhập vào xã hội mới. Họ cũng sợ khủng bố Hồi giáo, là điều không phải là vô lý. Vì vậy, họ chỉ muốn cứu nạn dân theo Thiên Chúa giáo mà thôi.

Các nước Đông Âu (nhìn theo trục Đông-Tây) hay Trung Âu (nhìn theo trục Nam-Bắc) thì có quan niệm khác. Sau khi xuất cảng dân công về phía Tây từ đợt sóng trước, các quốc gia này, như Ba Lan, Romania và Bulgaria, lại cần di dân vì cuộc sống cải thiện cũng dẫn tới trào lưu ít đẻ con. Nhưng hậu quả chính trị của nỗ lực kinh tế là các quốc gia ấy trở thành “hành lang quá quan”. Họ phải nhận di dân từ các nước nghèo hơn mà lại mất dần thành phần có chuyên môn và sức lao động cho các nước giàu hơn ở phía Tây, hay thậm chí cho Hoa Kỳ. Khi đả kích các quốc gia này là vội quên việc các nước khác đã giúp họ khi Liên Xô tan rã, người ta chỉ nhìn thấy một mặt của vấn đề mà thôi.

* * *
Chúng ta thấy gì từ những vấn đề quá đỗi phức tạp như vậy?

Bản chất bài toán di dân thành rõ nét hơn từ vụ khủng hoảng hiện nay: không có giải đáp ổn thỏa để đảo ngược trào lưu dân số của Âu Châu: không muốn có con nữa. Mọi thử nghiệm cấp thời chỉ gây thêm phân hóa trong nội bộ Âu Châu sau này. Lý tưởng Âu Châu về một thế giới vô cương, không biên giới, thật ra chỉ phản ảnh nhu cầu thực tế về dân số của từng xã hội và đặt ra nhiều vấn đề khác.

Ngược lại, khi lạc quan ca tụng giá trị đạo đức của mô hình Âu Châu vì thu nhận người Hồi giáo từ các quốc gia có lập trường chống Âu Châu, Thiên Chúa giáo hay nguyên tắc dân chủ thì ta cũng nên hỏi rằng những người Hồi giáo ấy có muốn là dân Âu Châu không? Hay chỉ muốn có một đất tạm dung mà họ không cho là quê hương vì nhiều người còn nín thinh khi trong cộng đồng của họ có những kẻ mưu đồ việc khủng bố để làm sáng danh Thượng Đế. Trong làn sóng nạn dân từ Syria, chúng ta thấy vắng bóng các giáo sĩ của đạo Hồi. Tại sao vậy?

Thế giới đa đoan!

Món quà của người đàn bà bán ve chai

Món quà của người đàn bà bán ve chai

Người đàn bà bán ve chai vô danh ấy, có lẽ chẳng bao giờ hình dung ra những con số dài dằng dặc để ghi lại số tiền đã hóa hơi trong những đại án tham nhũng đang làm nghèo đất nước. Càng không bao giờ biết đến chuyện, để chạy chức và chạy án, các quan chức ngày nay xách đến nhà nhau hàng vali tiền mà người nghèo có đếm cả đời cũng không hết.

Tôi cứ nghĩ mãi về một bức ảnh được lan truyền trên mạng xã hội facebook mấy ngày nay khiến cộng đồng mạng xôn xao, xúc động. Bức ảnh chụp một người đàn bà với khuôn mặt đen sạm, nghèo khổ, trước mặt chị là một bao gạo và chai dầu ăn.

Bức ảnh lan truyền trên mạng xã hội Facebook.

Chủ nhân bức ảnh chú thích: “Bức ảnh này chụp vào trưa ngày 13/01/2014 tại quán cơm chay Thiên Phước 5000 đồng, địa chỉ 62 Nguyễn Chí Thanh, Phường 16, Quận 11 (TP.HCM). Một người đàn bà bán ve chai bước vào quán với bao gạo và chai dầu ăn. Chị mang ơn quán cơm này vì đã cứu chị rất nhiều bữa đói. Chị nghèo khó nhưng không quên ơn, gom góp từng đồng, cuối năm, chị dành mua 1 bao gạo và 1 chai dầu tặng lại quán để có thể giúp thêm những người khốn khó khác”.

Có lẽ đó là một trong những bức ảnh đẹp nhất về chân dung con người, trong hoàn cảnh đảo điên nhuộm nhoạm của xã hội ngày nay. Tôi cứ ngắm mãi khuôn mặt chị, đó là một người đàn bà chắc chắn đã trải qua rất nhiều khó khăn, đói khát. Một khuôn mặt điển hình của những người lao động vất vả ngoài đường.

Vậy mà trong khoảnh khắc ấy, chị thật đẹp. Vẻ đẹp tỏa ra từ bên trong, từ hành động cao cả, nghĩ đến người khác, những người khó khăn hơn mình, nên dù nghèo, chị vẫn gom nhặt từng đồng tiền lẻ để mua bằng được một bao gạo con con, một chai dầu ăn mang đến quán.

Trong cái thời buổi đồng tiền lên ngôi, tình người lạnh lẽo, lối sống ích kỷ lan tràn thì tấm lòng của người đàn bà bán ve chai lại càng đẹp hơn bao giờ hết. Nó cho thấy dù chị nghèo khó thật đấy, nhưng chị giàu có hơn vạn lần người khác, những người chưa một lần chìa tay ra san sẻ cho đồng loại.

Biết được câu chuyện này, chẳng phải chúng ta đang cảm thấy trái tim mình ấm áp, tâm hồn mình thư thái và hạnh phúc hay sao? Bởi người đàn bà bán ve chai ấy, chẳng ai biết tên chị là gì, giờ đang tá túc ở đâu, nhưng hành động của chị đã cho chúng ta có thêm niềm tin, rằng những người tốt và những tấm lòng cao cả ở đời còn nhiều lắm. Họ là con người đúng nghĩa với những điều tốt đẹp nhất của danh từ này.

Tôi tin những người như chị, nếu làm người bán hàng sẽ không bao giờ gian tham dối trá hay bớt xén của ai một đồng một hào nào. Nếu làm người công nhân, sẽ có trách nhiệm đến cùng với sản phẩm của mình. Nếu làm một công chức, sẽ cống hiến tận tâm cho xã hội.

Một cộng đồng muốn tốt đẹp thì không thể không dựa vào từng cá nhân tốt đẹp, một cái cây muốn tươi tốt, bền chắc thì phải có bộ rễ khỏe mạnh. Đạo đức là gốc rễ của mọi vấn đề. Tiếc là ngày nay, xã hội vì quá coi trọng đồng tiền nên đã xem thường nó, coi rẻ nó, khiến cho mọi thứ lộn xộn, đảo điên.

Chị chỉ quanh quẩn sáng tối với cái vỏ chai, mảnh giấy vụn. Hạnh phúc của chị chỉ là sau một năm làm ăn cần mẫn, mua được bao gạo, chai dầu đến cảm ơn quán cơm đã cứu đói chị và san sẻ tình thương cho những người đồng cảnh ngộ. Nhưng cuộc đời của chị, thanh sạch và đáng kính trọng biết bao nhiêu.

Những bài học lý thuyết về đạo đức, tình người sẽ không bao giờ khiến chúng ta thấm thía bằng hành động của người đàn bà bán ve chai ấy.

Cầu mong cho những tấm lòng cao cả ấy sẽ được tiếp nối, sẽ lan rộng ra để duy trì sự tốt đẹp và làm sáng thêm hai chữ “đạo nghĩa” trong đời sống này.