“THỰC HIỆN LỆNH TRÊN”… RỒI THÌ SAO?

“THỰC HIỆN LỆNH TRÊN”… RỒI THÌ SAO?

FB Mạc Văn Trang

8-10-2016

Cảnh sát Ukraina quỳ xin dân tha tội. Ảnh từ internet.

Có lần tôi về Nam định nói chuyện chuyên đề ở trường Cao đẳng kỹ thuật, buổi tối mấy anh em ra quán uống bia. Đang vui, có một anh từ bàn bên sang chạm cốc và tự giới thiệu: Ngày xưa em học ở C 500, thầy có vào giảng môn Tâm lý học, em vẫn nhớ thầy…

– Ôi giời ôi, quý hóa quá! Mấy chục năm còn nhớ đến mình. Những anh học từ ngày ấy lên tướng, tá hết rồi. Bây giờ ông làm gì?

– Em nhát lắm, mới Thượng tá thôi…

– Hôm nay thấy xôn xao, CA đang cưỡng chế, giải tỏa đất đai, giao mặt bằng cho doanh nghiệp, sao ông được ngồi đây uống bia? Mà nếu đi thì ông làm gì?

– May quá! Không phải việc của em. Chứ nếu trên giao là vẫn phải làm đấy. CA là bộ phận chức năng, là công cụ mà!

– Mình hỏi thật, cứ “trên giao” là bảo làm gì cũng làm, kể cả biết sai cũng làm à?

– Biết sai thì phải đề xuất. Nhưng trên vẫn quyết thì xảy ra 2 khả năng: một là anh vẫn phải chấp hành; hai là, anh từ chối, không làm được thì tránh ra, tôi cử người khác… “Tránh ra” thì thầy biết rồi đấy. Em cũng bị “tránh ra” một lần, ngồi “kiểm điểm”, nhưng may quá, em đúng, thế mà cũng bị “thui chột” đấy thầy ạ… Em nghĩ việc gì cũng thế thôi, nếu người chỉ huy có cái tâm thì đỡ cho anh em ở dưới phải làm những việc trái đạo. Anh em chiến sĩ nó chỉ biết tuân theo mệnh lệnh chỉ huy thôi. Đúng sai là ở cấp trên, cấp ra lệnh…

Câu chuyện đã lâu, nhưng vẫn ám ảnh tôi mãi. Công an có bao nhiêu việc làm “Vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, ai cũng biết. Khi làm những việc chính nghĩa, việc tốt hiển nhiên, người CA biết rõ ý nghĩa, giá trị của việc mình làm, nên thể hiện rõ ý thức trách nhiệm, lòng tự hào, mưu trí, sáng tạo… Nhưng đối với những việc biết là phi nghĩa, sai trái mà con người vẫn chấp nhận biến mình thành “công cụ chức năng” chỉ biết làm theo “lệnh trên” một cách máy móc, vô cảm, không chịu trách nhiệm về hậu quả việc mình làm, thì sợ quá.

Mà những chuyện như thế đã xảy ra quá nhiều trên thế giới và ở nước ta rồi. Có những sai lầm có thể nhận lỗi, xin lỗi, đền bù chuộc lỗi và tha thứ được. Nhưng có những chuyện làm chết người, chết nhiều người và gây tổn thương, di hại cho hàng triệu người, cho nhiều thế hệ thì không gì rửa sạch được tội lỗi. Lịch sử sẽ ghi nhớ, nguyền rủa mãi mãi những tội ác giết hại đồng loại, dù do chế độ nào, băng đảng nào, tên độc tài nào ra lệnh.

Nhiều bài học đã cho thấy, các “công cụ chức năng” bị lừa dối và ỷ vào “trên chịu trách nhiệm”, nên đã gây ra biết bao tội ác cho dân lành. Khi chính quyền sụp đổ trước làn sóng phẫn nộ của nhân dân, những kẻ ra lệnh đã cao chạy, xa bay thì những “công cụ chức năng” trực tiếp hành động gây ra tội ác biết chạy đi đâu? Khi quay mặt lại với nhân dân không thể nào chối cãi đươc được tội ác. Dẫu có cúi đầu, quỳ xuống nhận tội, được nhân dân tha thứ, thì những oan hồn của nạn nhân vẫn bám theo kẻ thủ ác trong suốt cuộc đời… Luật nhân quả vẫn không thể buông tha.

Tôi được nghe một câu chuyện về chú chó nghiệp vụ “sáng suốt”. Chuyên xẩy ra xung đột giữa hai người cùng trong đội huấn luyện chó nghiệp vụ. Một anh đã ra lệnh cho con chó của mình tấn công người đồng đội, con chó không chịu, anh ta đánh nó, tiếp tục thúc ép nó phải tấn công, nó đã quay lại tấn công người ra lệnh. Tại sao con chó lại phản ứng như vậy? Điều này mỗi người đều tự suy đoán, vì con chó không biết tiếng người để ta có thể phỏng vấn.

Làm Chó Cũng Khó

Làm Chó Cũng Khó

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Ảnh của tuongnangtien

Tuongnangtien

Nguyễn Đình Thi qua đời cũng đã khá lâu. Những câu thơ của ông trước lúc lìa trần, tuy thế, vẫn cứ còn vương vất “chút” mùi vị “đắng cay” trong lòng người đọc:
Anh chắt cuộc đời anh chắt mãi
Chút ngọt bùi chút đắng cay
Người tôi còn nhiều bùn tanh
Mặt tôi nhuốm xanh nhuốm đỏ
Tay tôi vướng nhiều đồ bỏ
Nhiều dây nhợ tự buộc mình…

Thôi,xin tha cho mọi lỗi lầm
Quên cho những dối lừa khoác lác

Vâng, nghĩa tử là nghĩa tận. Ai mà không có những lỗi lầm và (đôi lần) dối lừa khoác lác: “Chúng ta là những nhà văn, nhưng là những hạt bụi lấp lánh ánh sáng của Đảng!”

Đảng vốn rất đa nghi và rất hẹp hòi nên chưa bao giờ đánh giá nhà văn/nhà thơ (nói riêng) và cả giới trí thức (nói chung) cao qúi thế đâu. Họ chỉ được xem như đám gia nô, hay tử tế (và khi cao hứng) lắm thì là đám con cháu trong nhài. Khối kẻ cũng chỉ mong được thế:

Nguyễn Thị Hồng Ngát, nhà thơ, nhà biên kịch, nguyên là lãnh đạo quản lý ngành điện ảnh VN, Giám đốc HondaFilm, tác giả tứ thơ Trái Mùa “Cây đổ lâu rồi, gió vẫn reo”, tác giả kịch bản phim truyện Canh Bạc…, trong 1 cuộc phỏng vấn của phóng viên Evan Williams đài truyền hình ABC bên Úc (lúc đó Hồng Ngát còn đương chức Cục phó Cục Điện ảnh VN), đã nêu bật một quan niệm chính quy về tương quan dân-đảng là: “Con cái không chê cha mẹ khó…” (cho nên không được hỗn hào phản biện?!).

Ảnh: Dân Luận

Trương Ngọc Ninh, nhạc sĩ, tác giả Lời Ru Chia Đôi và Biển Khát, Phó Giám đốc sở VH-TT Hà Nội, vẫn thường xuyên lặp lại trong các hội nghị về văn hóa câu châm ngôn hải đăng của Bộ VH-TT (tiền thân của TT-TT): “Con không chê cha mẹ khó, chó không chê chủ nghèo!

Ảnh: Dân Luận

Tôn Nữ Thị Ninh, nguyên Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền của VN tại Liên hiệp Châu Âu (EU), Phó Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Ba Đình, Ủy viên TƯ Hội Liên hiệp Phụ nữ VN, đã từng tuyên bố trong buổi họp báo tại Câu lạc bộ Báo chí Quốc gia Hoa Kỳ hồi tháng 10 năm 2004, khi bị chất vấn về tình trạng vi phạm nhân quyền ở VN, rằng:  “Trong gia đình chúng tôi có những đứa con, cháu hỗn láo, bướng bỉnh thì để chúng tôi đóng cửa lại trừng trị chúng nó, dĩ nhiên là trừng trị theo cách của chúng tôi. Các anh hàng xóm đừng có mà gõ cửa đòi xen vào chuyện riêng của gia đình chúng tôi.” (Đinh Tấn Lực. “Mối Tương Quan Mất Dậy” – Dân Luận 24/10/2009).

Bẩy năm sau, độc giả báo Tuổi Trẻ (số ra ngày 3 tháng 10 năm 2016)  lại có dịp xem qua về “mối tương quan mất dậy” trong việc việc xin (cho) đại học được tự chủ:

Mới đây, trong hội nghị về tự chủ ĐH, GS.TSKH Hoàng Xuân Sính – chủ tịch hội đồng quản trị của trường ĐH tư đầu tiên ở VN- đã dùng hình ảnh về quản trị gia đình thông qua câu chuyện mẹ – con để nói vế vấn đề này.

GS.TSKH Hoàng Xuân Sính nói ví von: con gái đến tuổi trưởng thành, người mẹ muốn dạy con biết quán xuyến việc nhà nên giao phần chi tiêu cơm nước cho con.

Mẹ cho con quyết định mọi thứ, chỉ có yêu cầu duy nhất: dinh dưỡng đảm bảo cho cả già lẫn trẻ. Cũng việc ấy, nhưng người mẹ khác đòi hỏi khắt khe, can thiệp vào việc của con, chắc chắn con trẻ sẽ khó khăn.

Mẹ muốn con quán xuyến thì phải chia sẻ kinh nghiệm, hạn chế áp đặt…

Dù đã có 14 trường ĐH được thí điểm hoạt động theo hướng tự chủ nhưng tự chủ ĐH vẫn còn xa vời vợi ở phía trước.

GS.TSKH Hoàng Xuân Sính – Ảnh: Việt Dũng

Ở một xứ sở mà nhà nước bao biện mọi chuyện, và lãnh đạo khắp nơi – kể cả chùa chiền, giáo đuờng, thánh thất, và cả những viện mồ côi hay viện phong cùi mà những viện đại học lại “xin được tự chủ” thì đây rõ ràng là một sự cầu xin có hơi … quá đáng, nếu chưa muốn nói quá quắt!

Giới truyền thông, xem ra, có vẻ thực tiễn hơn nhiều. Không ai dám ước mơ đến những chuyện “còn xa vời vợi” như thế. Dù thỉnh thoảng vẫn bị đôi xử vô cùng thô bạo nhưng phần lớn những người làm báo quốc doanh vẫn bằng lòng và cam chịu với hoàn cảnh, cùng thân phận của mình –  theo như cách nói ví von (“Nghề Phóng Viên Là Phải Như Con Chó Ấy”) của nhà báo Như Phong:

Sau hơn 35 năm làm báo, tôi càng ngẫm, càng thấy sao mà chí lý thế.

Trở lại chuyện ví nhà báo với con chó, thì trước hết phải nói đến những phẩm chất cao quý của con chó.

Trong các loài vật, có lẽ không có loài nào gắn bó với con người hơn con chó.

Chó trung thành với chủ, gần như tuyệt đối.

Chó tôn thờ chủ, yêu chủ bằng một tình cảm trong sáng, vô tư không bao giờ có tính hai mặt.

Chó biết vui cùng chủ và cũng biết buồn cùng chủ.

Đã có biết bao nhiêu câu chuyện cảm động rơi nước mắt về những chú chó nhịn đói ngồi chết bên mộ chủ; những chú chó lăn xả vào hiểm nguy để cứu chủ; những chú chó sẵn sàng tấn công lại kẻ địch để bảo vệ chủ. Và những chú chó sẵn sàng chờ đợi chủ về ngày này qua tháng khác ở một sân ga, hay một bến tàu. Rồi chó giúp đỡ những người tàn tật trong cuộc sống thường ngày, kể cả chuyện đi chợ cho chủ, đưa chủ đi chơi…

Bất luận vào những hoàn cảnh nào, khi bị chủ mắng, thậm chí bị đánh đòn nó chỉ đau khổ cúp đuôi chui vào một xó, nhưng rồi chỉ ít phút sau nó lại ngoe nguẩy đuôi để đón chủ về.

Thế mới có câu “khuyển mã chi tình” và câu “con không chê cha mẹ khó, chó không chê chủ nghèo”.

Điều không may là “chủ” của Nguyễn Như Phong không những đã  “nghèo” mà còn “khó” nữa. Báo Người Việt, số ra ngày 3 tháng 10 năm 2016, vừa (ái ngại) loan tin:

Không chỉ giới truyền thông chính thống mà ngay cả công chúng cũng sửng sốt khi ông Nguyễn Như Phong, cựu đại tá công an, tổng biên tập PetroTimes, bị cách chức và tờ báo điện tử này bị đình bản trong ba tháng.

PetroTimes là báo điện tử của tập đoàn dầu khí Việt Nam (PVN). Còn ông Phong từng là đại tá công an, phó tổng biên tập tờ Công An Nhân Dân được PVN mời về làm tổng biên tập khi PVN có giấy phép xuất bản báo điện tử.

Tuy thuộc PVN, một tập đoàn nhà nước, song dưới sự điều hành của một cựu đại tá công an, PetroTimes đã tự lãnh nhận vai trò “xung kích trên mặt trận truyền thông,” cùng các tờ Nhân Dân (của Ban Chấp hành Trung Ương Đảng CSVN), Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân “tả xung hữu đột” để bảo vệ chính quyền CSVN.

PetroTimes là tờ báo duy nhất tự hạch toán (tự thu chi, không ngửa tay nhận ngân sách để duy trì hoạt động như Nhân Dân Quân Đội Nhân Dân, Công An Nhân Dân) nhưng luôn luôn tiên phong trong việc chỉ trích, bôi nhọ các cá nhân, các hoạt động đòi tự do, dân chủ và cũng vì vậy mà mức độ chỉ trích PetroTimes trên mạng xã hội còn lớn hơn những cơ quan truyền thông “ăn cơm chúa, múa tối ngày.”

Mức độ “trâng tráo, nhâng nháo” của PetroTimes được xem là lên tới đỉnh khi tháng 6 vừa qua, nhân “Ngày Báo Chí Cách Mạng Việt Nam,” PetroTimes giới thiệu bài “Nghề phóng viên là phải như con chó ấy” của ông Nguyễn Như Phong. Trong bài viết này, ông Phong khuyến cáo các đồng nghiệp bắt chước chó (trung thành, tôn thờ, yêu, vui buồn cùng chủ, bảo vệ chủ) vì “chó khôn nhờ chủ, nhà báo giỏi cũng nhờ chủ!”

Dẫu liên tục “đăng ký lập trường” theo kiểu như thế nhưng ngày 3 tháng 10 vừa qua, ông Phong vẫn bị cách chức, thu hồi thẻ nhà báo (một kiểu giấy phép hành nghề). PetroTimes thì bị tạm đình bản trong ba tháng.

Trong thông báo chính thức về sự kiện gây ngỡ ngàng ấy, Bộ Thông tin – Truyền thông của chính quyền Việt Nam cho biết lý do là vì PetroTimes có “sai phạm trong hoạt động báo chí” và cơ quan chủ quản đề nghị như vậy.

Vi nhân nan. Làm người quả khó, đã đành; làm chó (ở nước ta) xem ra cũng không dễ dàng chi!

ĐI MÔ CŨNG NHỚ VỀ HÀ TĨNH

ĐI MÔ CŨNG NHỚ VỀ HÀ TĨNH
 

Trong những ngày vừa qua, tin tức nóng từ miền Trung lan ra cả nước, thậm chí cả các cơ quan truyền thông nước ngoài như BBC, VOA, RFA đều đồng loạt đưa tin, đặc biệt trên mạng Facebook, tin được cập nhật từng giờ qua một vài trang mạng quan tâm đến tình hình xã hội miền Trung. Tin về người dân vùng biển chết lên chết xuống mấy tháng nay đã đành, nhưng tin nóng còn ở chỗ có những tiếng nói cất lên một cách khá bài bản, được dẫn dắt bởi các Linh Mục Công Giáo thuộc Giáo Phận Vinh.

Đáng kể có cuộc đi nộp đơn khiếu kiện tại trụ sở Tòa Án thị xã Kỳ Anh của bà con Giáo Dân Giáo Xứ Phú Yên, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, con số người đi nộp đơn lên đến 600 người di chuyển trên 16 chiếc xe khách cùng với sự ủng hộ của nhiều người dân quanh vùng, đặc biệt sự tiếp đón, giúp nơi ăn chốn nghỉ của Linh Mục chánh xứ và Giáo Dân Giáo Xứ Đông Yên. Chuyến di hành trên cả trăm cây số, ngang qua nhiều Giáo Xứ Công Giáo và đã được hỗ trợ ân cần.

Tất cả được diễn ra khá trật tự, không làm cản trở giao thông, không làm xấu môi trường do xả rác và phóng uế. Trước đó tại sân nhà xứ Phú Yên, những người dân đi kiện đã được hướng dẫn các thủ tục pháp lý cần thiết của các tình nguyện viên trong trật tự. Vị Linh Mục được sự tín nhiệm của Giáo Dân đi khiếu kiện là Antôn Đặng Hữu Nam, chánh xứ Phú Yên.

Chưa đầy một tuần sau, Chúa Nhật 2 tháng 10, Linh Mục Phêrô Trần Đình Lai, chánh xứ Đông Yên đã ở bên cạnh Giáo Dân của mình cùng với hàng ngàn Giáo Dân và lương dân khác có mặt trước cổng chính và cổng phụ của Formosa lên tiếng bày tỏ ý kiến không chấp nhận Fomosa xả độc ra biển và đất của Việt Nam.

Cuộc tụ họp và lên tiếng mạnh mẽ ngay tại cứ điểm Formosa được cho là lên đến trên 10.000 người. Tuy đông như thế nhưng những hình ảnh công bố trên mạng toàn cầu là một cuộc tụ họp khá trật tự, không có bạo loạn lớn xảy ra, chỉ có một số va chạm nhỏ giữa hai bên, nhưng ngay sau đó đã ổn định lại nhờ tiếng loa của chính Linh Mục Trần Đình Lai. Người ta nghe thấy rõ mồn một lời của vị Linh Mục hướng dẫn Giáo Dân leo lên cắm cờ trên tường rào bao quanh Fomosa, không tiến vào khu đất, nhưng vang rõ lời cảnh báo: “Nếu muốn, chúng tôi sẽ tràn ngập khu đất này trong vòng 5 phút”.

Ngay sau cuộc lên tiếng tại cứ điểm gần như bất khả xâm phạm Formosa, Linh Mục JB. Nguyễn Đình Thục, Giáo Xứ Song Ngọc, Quỳnh Lưu, đã làm thủ tục nhận ủy quyền từ 800 Giáo Dân Song Ngọc để tiến hành khiếu kiện Formosa. Những ngày sắp tới sẽ ra sao, những vụ kiện mà người dân nghèo nắm chắc sự thật và lẽ phải sẽ ra sao?

Có những lời ra tiếng vào về những biến động tại miền Trung vừa qua, mặc cho ai xoay xở luồn lách vặn vẹo ngòi bút, những phản ứng của người dân vẫn là những phản ứng chính đáng của những con người bỗng dưng bị sự chết bao trùm cuộc đời của mình và con cháu mình, những người có trách nhiệm thì giải quyết một cách thờ ơ vô cảm đến khó hiểu.

Không thể không lên tiếng khi thời gian qua đi mà người dân vẫn từng ngày chìm trong u tối. Hãy một lần đặt chân đến vùng biển chết, hít thở bầu khí luôn có những vầng mây đen đặc quánh trên bầu trời, chạm tay vào thứ nước biển lạnh tanh không hề có sự sống, cầm ly nước uống mà biết chắc những thành phần hóa học trong ly nước ấy sẽ tàn phá cơ thể mình, và vào miệng chén cơm được nấu bằng những hạt gạo mốc đến heo cũng chê, đưa đôi đũa gắp những cọng rau mọc lên trên vùng đất nhiễm nặng những hóa chất độc hại, và nhìn những con thuyền neo bãi im lìm qua nhiều ngày tháng. Làm sao sống đây ?

Đừng bảo “các cha làm chính trị”, đừng vội khẳng định “đi tu không được làm chính trị”, đừng đưa ra nguyên tắc “địa phương nào giải quyết ở địa phương đó”. Những khẩu hiệu mộng mị đó quá lỗi thời và không che nổi sự nguy biện. Đó là những mục tử sống cùng với đàn chiên mình, chiên chết cha có còn sống không ? Đó là chi thể của mình, chân có thể bảo tay đau mặc kệ tay hay không ? Miệng có thể nói răng đau mặc kệ răng hay không ? “Không làm chính trị”, vậy mua xăng đóng thuế nuôi bộ máy quản lý xã hội có làm chính trị không ? Đi bầu cử chọn người quản lý ( nếu được chọn thật ) bộ máy xã hội có làm chính trị không ? Các anh chị em Tu Sĩ không làm chính trị theo nghĩa tham gia quyền lực, gia nhập vào đảng phái, nhưng không bao giờ được phép ngừng soi chiếu Tin Mừng vào mọi ngóc ngách cuộc sống, kể cả chính trị.

Không phải cư dân bốn tỉnh miền Trung bị nhận chìm trong sự chết, chất độc theo chân mọi thứ đang chạy lên bàn cơm của mọi người chúng ta, hãy nhìn về Hà Tĩnh mà thực hiện một phản ứng đồng cảm, đồng cảm với đồng bào ruột thịt của mình và với chính mình.

 

“Đi mô cũng nhớ về Hà Tĩnh”, không chỉ “nhớ núi Hồng Lĩnh” và “nhớ biển rộng quê ta”, nhưng là nhớ rằng cái chết đang hoành hành ở Hà Tĩnh và lan dần đến mỗi nơi chúng ta đang ở, trên dải đất thân yêu hình chữ S này.

Lm. VĨNH SANG, DCCT, 6.10.2016

Ghi chú: Tựa bài là lời bài hát “Một khúc tâm tình người Hà Tĩnh” của Nguyễn Văn Tý.

Tác giả:  Lm. Vĩnh Sang, DCCT

Hai nữ sinh trung học bị bạn đánh hội đồng dã man

Hai nữ sinh trung học bị bạn đánh hội đồng dã man

Nguoi-viet.com

Hai nữ sinh cấp 2 bị nhóm bạn đánh hội đồng. (Hình: Báo Người Lao Ðộng cắt từ clip)

NGHỆ AN (NV) – Cho rằng bị xúc phạm, một nhóm nữ sinh trường cấp 2 ở huyện Quỳnh Lưu đã xông vào túm tóc, dùng dép và chân tay đánh hội đồng vào đầu, mặt, và người 2 nữ sinh khác đến đổ máu.

Ngày 5 tháng 10, trên mạng xã hội xuất hiện clip dài hơn 1 phút nhưng đã gây xôn xao dư luận và hàng ngàn bình luận vì hành động đánh đập bạn rất phản cảm của một nhóm nữ sinh.

Nội dung clip ghi cảnh một nhóm nữ sinh Trường Trung Học Cơ Sở Quỳnh Long, huyện Huỳnh Lưu nắm tóc, dùng dép đánh vào mặt và đạp lên 2 bạn nữ sinh khác. Vừa đánh bạn, nhóm nữ sinh này còn liên tục chửi thề, văng tục. Mặc dù bị đánh rất đau, chảy máu mặt nhưng 2 nữ sinh bị đánh không hề chống cự. Trong khi đó, nhiều học sinh khác đứng xung quanh chứng kiến.

Nói với phóng viên Người Lao Ðộng, cùng ngày, ông Trần Hoài Nam, hiệu trưởng Trường Trung Học Cơ Sở Quỳnh Long, xác nhận, vụ việc xảy ra vào chiều ngày 4 tháng 10 tại xã Quỳnh Long. Nhóm học sinh gồm 6 người tham gia đánh bạn là học sinh lớp 9 của trường. Hai nữ sinh bị đánh là học sinh trường trung học cơ sở xã Quỳnh Thuận, cùng huyện.

“Nhà trường đã mời những phụ huynh của những học sinh tham gia đánh hội đồng 2 nữ sinh lên làm việc,” ông Nam cho biết. (Tr.N)

“Tình đã len trong mầu nắng mới,”


“Tình đã len trong mầu nắng mới,”
Lòng anh buồn vời vợi em ơi
Niềm ái ân rung động trên môi
Tình đâu khôn lựa nên lời thắm tươi.”

(Nhạc: Phạm Duy/Lời: Lưu Trọng Lư – Thú Đau Thương)

(Rm 5: 2-5)

 Trần Ngọc Mười Hai

Vào lúc bần-đạo ngồi viết những giòng chữ này, thì bên ngoài trời đất rất Sydney đang đi vào những ngày đầu Xuân, tiết trời thật dễ chịu có ánh nắng chan-hoà với không khí nhẹ êm mà lại phải nghe đi nghe lại, dù rất hay, những lời ca về một Thú đau thương” tơi bời dù thật tuyệt ở đêm nhạc “Hát Cho Nhau nghe” ở Sydney hôm 03/7/2016 như sau:


“Ðã héo lắm nụ cười trong mộng

Ðã mờ dần hình bóng thân yêu

Ðã lam tím cả cảnh chiều

Trong hồn lặng đã hiu hiu mộng tàn

Ðể gối chăn nằm yên chốn cũ

Hãy lịm người trong thú đau thương.


Tình đã không một lần nữa tới

Nhìn nhau buồn vời vợi em ơi

Rượu ái ân em cạn trên môi

Lệ anh xin nhỏ nên lời đắng cay.

 

Hãy xếp lại muôn vàn ân ái

Ðừng thương nhau đừng ái ngại nhau

Thuyền yêu không ghé bến sầu

Như đêm thiếu phụ bên lầu không trăng

Thành kiếp sao còn băng mãi mãi

Ðể lòng buồn mãi mãi không thôi.”

(Phạm Duy/Lưu Trọng Lư – bđd)

“Kiếp sau không còn băng mãi mãi, để lòng buồn mãi mãi không thôi” ư? Khiếp! Sao mà buồn đến thế? Phải chăng là, “thú đau thương” vẫn là cái thú rất buồn sầu của đời người, rất nên nỗi?

Vâng. Thú gì thì thú, có đau thương mãi mãi hay “thuyền yêu không ghé bến sầu” đi chăng nữa, vẫn chỉ là những chuyện ở tiểu-thuyết hoặc truyện kể về cuộc đời chứ chẳng phải là cuộc đời chính-hiệu, mãi thế đâu. Không tin ư? Mời bạn và mời tôi, ta cứ ghé mắt nhìn vào Lời Vàng bậc thánh-hiền từng khẳng-định, như sau:

“Nhưng không phải chỉ có thế;

chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng:

ai gặp gian truân thì quen chịu đựng;

ai quen chịu đựng, thì được kể là người trung kiên;

ai được công nhận là trung kiên, thì có quyền trông cậy.

Trông cậy như thế, chúng ta sẽ không phải thất vọng,

vì Thiên Chúa đã đổ tình yêu của Ngài vào lòng chúng ta,

nhờ Thánh Thần mà Ngài ban cho chúng ta.”

(Rôma 5: 2-5)

Tương-quan ta có đối với nhau, không chỉ là các giao-dịch qua đó ta chuyển-tải cho nhau các sự/việc cùng lợi ích rất tích-cực mà thôi. Nhưng còn là chốn miền trong đó người người hành-xử với nhau và cho nhau rất độ-lượng theo cung-cách cho đi chính con người mình. Và, người người còn đại-độ đến mức-độ tha-thứ cho nhau khi gặp sự xấu mình vẫn áp-đặt vào nhau và cho nhau như thế.

Tương-quan ta có với nhau như thế, sẽ là và vẫn là những gì duy-trì được tình-yêu thương/mẫn cảm của con người đối với con người, trong mọi tình-huống cuộc đời, rất hôm nay.

Có tương-quan là có đời sống chung-đụng giữa người cận thân và cận lân, không phải lúc nào cũng tốt đẹp, hoặc trôi chảy như truyện kể ở bên dưới:

“Tôi đón cha lên thành phố. Nếu nói là đón mẹ lên thì thích hợp với hoàn cảnh hơn. Nhưng mẹ tôi đã xa cõi đời từ lúc tôi lọt lòng. Sự ra đi của mẹ, trong thâm tâm tôi vẫn luôn là một sự đánh đổi quá khắc nghiệt của tạo hóa, mà nỗi đau đớn còn dành lại một vị đắng ở đầu môi. Và người ở lại phải sống tốt cho cả hai phần đời. Tôi đã có thật nhiều cố gắng.


Cha tôi, người đàn ông lam lũ. Cha gầy, gầy lắm, mà không phải chỉ gầy do sức khỏe, mà thời gian đã ngấm dần trong từng thớ thịt cha, già cỗi và yếu ớt. Người đàn ông cô độc ngần ấy tháng năm của tôi.


Bao nhiêu lần ôm cha ngủ. Từ bé, lúc lớn lên đi xa trở về, hay khi tôi đi làm có tiền thường gọi điện cho ông:“cha, lên thành phố với con, con lo được mà”. Ông hỏi dò “có thiệt không đó, cu con, không để tiền cua gái hả?” Rồi ông cười khà khà. Hôm sau đã có mặt ở nhà tôi. Mang nào gà, nào vịt, nào trái cây. Và không quên mang theo một cúc rượu để cha con nhâm nhi.

 Nhưng sao lần này, nằm cạnh ông, nhìn ông ngủ, tôi …tôi không diễn tả nỗi cảm xúc của mình. Nước mắt ở đâu cứ như nước sôi đang đun trào, cứ thế đẩy vung mà ra. Chắc vì tôi mới được làm cha, chắc lẽ thế.


Tôi lấy vợ rất muộn. Vợ là người thành phố, con nhà danh giá. Nhưng với nỗ lực và cố gắng của mình, tôi độc lập về kinh tế, không phải dựa bóng nhà vợ.


Khi mọi người quây quần quanh thằng Mỏ(con trai yêu quý của tôi), nhìn nó kháu khỉnh đáng yêu quá. Nhà vợ rất đông người tới. Ai cũng đòi được bế thằng Mỏ nụng nịu. Bà ngoại thằng Mỏ (là người rất khó tính) nói “ông Nội bế cháu đích tôn một chút này”, cha đưa tay ra định bế thì bà ngoại khựng lại.


“Trời ơi, tay ông nội sao thế, thế thì hỏng da của cháu mất….”. Bà ngoại giữ thằng Mỏ lại trong lòng, vừa nói vừa nhìn bàn tay cha tôi dò xét.


“Ờ….vâng, tôi lỡ…để tôi…đi rửa..”. Cha tôi ấp úng rồi đi ra nhà sau để rửa tay.


“À, chắc ông mới làm than đó má”. Tôi nói đỡ, rồi theo cha ra sau. Mọi người lại xúm lại đòi bế thằng Mỏ. Cha tôi rửa tay, và đúng là ông làm than thật. Tức là ông phơi mớ than củi mang từ quê lên để cho vợ tôi nằm hong, khỏi nhức mỏi đau lưng sau này. Nhưng ông làm xong từ sáng sớm rồi kia mà, lẽ nào cha tôi đã già nên lẫm cẫm rồi, chẳng còn nhớ mà rửa tay nữa. Cha ơi…


Thấy ông đứng cặm cụi rửa tay, khó nhọc. Tôi tiến lại “cha, để con rửa cho cha”.

 “Thôi đi cu con, hồi bé cha rửa tay rửa chân cho mày, giờ học đòi à, nhưng chưa đến lúc đâu….”.
“Đưa con coi nào”, tôi giằng lấy tay ông. Trời ơi, hai bàn tay ông chai sần, những lớp da bị tróc mẻ, nham nhỡ đỏ lừ.


“Cha bị sao thế, cha đừng rửa bằng xà bông nữa”…Tôi nói.

“Ờ, hồi trước, hồi trẻ ấy, cha mày đi xây, bị xi ăn, bị dị ứng. Hôm qua tao thấy trước sân nhà mày có chỗ bị hỏng, tao hòa ít xi gắn lại. Ai ngờ lâu thế mà nó cũng bị lại…”


Ông nói rồi lững thững đi vào. Vừa đi vừa chùi chùi hai bàn tay vào áo, cái dáng còng còng như oặn trĩu bởi yêu thương. Cha bước đi không còn vững nữa rồi, năm tháng ơi.…..


Là trưởng phòng kinh doanh một công ty, tôi đi tối ngày, tranh thủ chạy về lúc trưa, lúc tối muộn. Nên cha làm gì, mọi người làm gì tôi cũng không rõ hết. Nhà tôi ở ngoại ô. Có một khoảng sân nhỏ, trồng một ít cây cối. Trong những tháng ngày này, được làm cha, được sống trong cảnh gia đình sum vầy thế này. Tôi ngỡ cuộc đời như một giấc mơ. Hay đúng hơn là cuộc đời ai rồi cũng đến lúc sống đúng như một giấc mơ, khi đã cố gắng thật nhiều.


Từ chuyện bàn tay, mà cha chưa bế cháu Mỏ một lần nào. Không chỉ vì ánh mắt e dè của bà ngoại thằng Mỏ. Mà có lẽ ông tự ái(bệnh người già mà), ông muốn mọi người được vui. Và hơn hết ông thương thằng Mỏ, như bà ngoại nói “da cháu còn nhạy cảm, như thế là không tốt”. Tôi cũng chỉ im lặng. Vì nghĩ mọi thứ đều hợp lý. Hay tại vì cha là đàn ông(yêu thương để trong lòng), ít ra cha cũng không như bà ngoại, khi một ngày không ẵm thằng Mõ vài lần nũng nịu là ăn cơm không nổi.


Thế là cha tôi, ngày ngày lầm lũi ngoài khoảng sân nhỏ. Ông nấu nước Vằng (một loại lá cho người đẻ uống rất tốt), ông quét sân, thỉnh thoảng qua chỗ mấy ông già cùng khu phố ngồi chơi. Rồi lại thỉnh thoảng về ngắm thằng Mỏ. Vợ tôi còn bảo “ở nhà ông còn giặt cả tả, quần áo cho Mỏ”.

 Mặc dù có bà ngoại, hay mấy cô em vợ tôi, mà họ toàn giặt máy. Nhưng khi chưa kịp bỏ vào máy là ông lại bê đi giặt tay. Bà ngoại cũng không muốn ông phiền lòng, nên cũng đành im lặng. Nhưng tôi biết sau đó bà ngoại lại lén bỏ vào máy giặt lại, may mà bà không để cha biết….


Thời gian cứ thế trôi đi, cuộc sống bình lặng êm đềm. Nhưng tình cảm trong tôi đang dậy sóng, vì từ Cha thiêng liêng, mỗi lúc vợ hay bà ngoại bế thằng Mỏ đều chỉ vào tôi bảo “gọi ba đi, ba ba, ba ba”. Thằng bé chỉ nhìn rồi cười, đáng yêu vô vàn vô tận.


Cho đến một ngày, khi tôi đang đi công tác tỉnh, vợ gọi điện “chồng, về nhà đi, ông nội vào viện rồi”. Tôi về ngay, về liền. Cha tôi đứng lên chiếc ghế đẩu để phơi tả cho thằng Mỏ, bị trượt ngã. Khi tôi về đến nơi ông đã tỉnh, bác sĩ bảo chỉ bị chấn thương nhẹ, cần điều trị vài ngày là hết. Tôi thở phào. Bà ngoại và vợ nhìn tôi ái ngại.


Tôi về nhà lấy đồ cho cha. Tôi lục túi của ông. Một ít quần áo, một tút thuốc quê đã hút phần nữa (cha tôi nghiện thuốc lá). Và…một cuốn sổ, nhỏ bằng lòng bàn tay, màu nâu cũ kỹ, một chiếc bút được kẹp ở giữa. Tôi tò mò, tôi mở nó ra, mở ngay trang đang kẹp bút. Tôi đọc:


“Vậy là cháu nội tôi đã chào đời được một tuần. Nhìn con trai vui, mới biết mình đã già, đã sống hết phần đời mình mất rồi. Buồn vui lẫn lộn. Khi về bên kia gặp vợ, có thể an lòng. Nhưng mà sao già này buồn quá. Muốn được ôm thằng Mỏ vào lòng quá. Mà….Già này nhớ những tháng ngày xưa, khi vợ bỏ lại hai cha con ra đi, một mình nuôi con trai. Một mình bế nó trên tay, một mình cho nó uống sữa, một mình ru nó ngủ, trong đêm thâu. Ôi mới như hôm qua đây thôi, mà sờ lên mái tóc đã bạc trắng mất rồi. Con trai à, cháu Mỏ à, già này yêu hai cu lắm….Bàn tay chết tiệt này,sao mày lại giở chứng đúng lúc thế….”


Tôi lật tiếp những trang viết đầu, những ngày tháng đầu đời:

“Vợ anh nhớ em, nhớ nhiều…anh không có gì để ví được”….

“Em yên lòng, anh sẽ nuôi con, anh sẽ sống cho cả hai cuộc đời, anh sẽ làm được…”
“Vợ, anh không chịu được nỗi đau này…..”

“Vợ ơi…”


Dài lắm, tôi đọc mãi, đọc mãi, đến lúc những dòng chữ ngoệch ngoạc của cha nhòa đi bởi nước mắt tôi nhỏ xuống. Tôi mới dừng lại. Cha viết nhật ký. Ông giấu tôi kỹ quá, giấu tài quá. Đàn ông như cây Lim cây Táu, mà tâm hồn ông như Liễu như Mai, rũ xuống vì yêu thương, rũ xuống vì tình cảm, rũ xuống vì cô độc. Ôi, cha già của con!


“Anh ơi làm gì lâu thế, làm đưa đồ vào cho nội thay đi, anh còn ngủ ư”. Vợ tôi kêu vọng lên lầu.

“Ờ…anh biết rồi….”. Tôi quẹt nước mắt. Gấp nhật ký của cha, bỏ lại cẩn thận.


Tôi phải lén đi ra, bởi không muốn ai nhìn thấy mình đang khóc, rồi phi ngay xe tới bệnh viện. Cứ tưởng được làm cha, cảm thấu được nổi thương xót khi cha mình đã ở tuổi xế chiều. Nhưng mà, thực sự giờ tôi mới nghiệm ra một điều, là với cha mẹ, dù mình có đi mòn cả lối đời cũng không thể nào thấu hết những tình thương yêu mà họ dành cho con cái. Không thể hết được đâu. Cho nên, dù ở vị trí nào, cũng chỉ biết sống cho tốt, cho thật tốt, thế mà vẫn cảm tưởng như tình cảm mình đáp lại cho mẹ cha cũng chỉ là gáo nước giữa đồng khô nắng cháy mà thôi. Những hình ảnh về cha hiện lên trong đầu, mắt tôi đỏ ngầu hoen lệ, chứa chan.


“Cha…”, tôi mở cửa phòng bệnh viện.

“ Gì đấy cu con, cha đây mà, cha có trốn đi đâu chớ, cái thằng này”. Cha vẫn gọi tôi như thế. Cả phòng bệnh đông lắm. Cha tôi ngồi dựa vào tường, tay đưa gói bánh cho đứa trẻ con ai ở giường bên, cha bụm bụm vào má nhóc con đó.


Tôi chạy lại, mặc kệ ai nhìn, mặc kệ là gì đi nữa, tôi ôm lấy cha. Tôi quay mặt vào tường, cho những giọt nước mắt lăn chảy không ai thấy, tôi nói trong tiếng nấc:


“Cha, xin lỗi cha, con đã quên……”.

Bệnh viện, âm thanh ồn ả vốn dĩ, mà sao tôi nghe yêu thuơng đập đầy nơi tim. …….

 

Đúng thế. Có trở-thành người cha, mới thấu-hiểu được lòng của Ông/Bà như câu truyện ở trên. Về lại với Đạo Chúa, niềm tin chỉ có được cách vững-chãi một khi ta nếm trải và thấy được Thiên-Chúa ngang qua các ẩn-dụ như thể Chúa đang đi cạnh ta, kể truyện và nếm được mùi vị ngọt-ngào của Ngài và ta được tháp-nhập vào với Chúa, như đoạn trích-dẫn dưới đây:

“Rất nhiều lần, ta cứ bị rơi vào bẫy-cạm của ngôn-ngữ nên đã sử-dụng đường lối rất thân quen về những chuyện đại loại như thế. Nhưng, tất cả vẫn là giòng chảy, không đổi thay. Và, ta không thể bắt chụp hoặc giữ chặt nó được. Đó, là thứ không-gian lưng chừng ở ngưỡng cửa phía dưới thấp, tục gọi là Chora (tức chốn miền thị-trấn rất quê nhà). Và khi đó, lại như thể có người đi bên cạnh cứ nói chuyện dụ-ngôn cho mình thưởng-lãm. Đây, là cảm-nghiệm về sử-dụng ngôn-ngữ một cách rất khác hẳn. Kiểu cách này, thường khiến ta bị xúc-động đến độ phải ngồi xuống một chốc lát, chẳng nói gì.

 Thế đó, là phản-ứng “nội-tại”, rất chức-năng. Người kể, lại sử dụng từ-vựng hoặc tuyên ngôn cùng dấu hiệu theo cung-cách riêng-tây của họ. Tức, đã ngưng không còn theo kiểu-cách của người kể hoặc sử-dụng ngữ-pháp theo phương-thức bình-thường nữa, nhưng lại nhìn thẳng mặt vào nữ-thần Medusa để thấy như thể bà ta vẫn chưa chết, nhưng rất đẹp. Và, miệng bà cười rất tươi, như reo vui thật diễm kiều… (x. Helene Cixous,The Laugh of Medusa). Kể truyện dụ-ngôn theo kiểu như thế, sẽ đặt mọi người vào trạng-thái có chút “nếm trải” cũng rất hay.” (X. Lm Kevin O’Shea CSsR, Niềm Tin: Nỗi-Niềm của Con Tim, Chương 2 Phần Iwww.giadinhanphong.com)

Và, nếm trải niềm tin-tưởng như một cảm-nghiệm khác theo nhận-định của đấng bậc trên ghi như sau:

“Các sử-gia xưa nay thường triển-khai ý-nghĩa của “viễn cảnh”. Đó là ảnh-hình mang tính thị-giác bao hàm một luận-cứ rất ưu-việt. Đôi lúc, nó rất xa vời lại không có rào cản nào xuất hiện ở chính giữa. 

Thật ra thì, sử-gia nhà ta lại ưa-thích lối viết đầy ẩn-dụ nhằm nắm-giữ sự vật xa vời qua một chọn-lựa mang sắc-mầu riêng-tư, đầy ẩn-dụ ức. Đó, là thực-tại khác hẳn tầm-nhìn của người ở vị-thế đứng trụ mà quan-sát. Tất cả, đều nhận ra điều này khi xem xét sự-việc theo “viễn cảnh” cũng rất thật. 

Có vị coi đó là chuyện “nếm trải”, tức: sử-dụng thứ ẩn-dụ khác hẳn. Bởi, “nếm trải” chẳng làm sao có được nghĩa đúng-đắn của thứ ngôn ngữ ta thường dùng. Xưa nay, ta vẫn ưa vẫn thích “mùi ngon/vị ngọt”, nhưng không “nếm trải” được gì, nếu không đưa nó vào miệng rồi nuốt ực, ngõ hầu thưởng thức nó cách tận tình. Và khi đó, ta lại sẽ kêu lên: “Ôi chao là ngọt!” hoặc: “Úi chà! Sao mà đắng thế?” Hoặc: “Cay ơi là cay!”… Cũng có thể, chất ta “nếm trải” lại không thuận/hợp với ta; hoặc: ta chẳng ưa thích nó chút nào. Vấn đề là: mùi ngon/vị ngọt ấy, sẽ loại bỏ mọi khoảng cách, để rồi có người lại dõng-dạc tuyên-bố: “Ăn gì, bạn sẽ là người ấy!” 

Thời Trung-cổ, truyền-thống phổ-đại chuyên sử-dụng ngôn-ngữ ẩn-dụ, như từ-vựng “nếm trải” ta nghe/biết về Chúa. Đây, là khía-cạnh phổ-cập cũng rất thường, vào buổi trước; tức: thời, mà con người có “cảm-giác linh-thiêng” như vật-thể hữu-hình, tựa hồ như thế. “Cảm-giác linh-thiêng”, điều-động bằng giác-quan tổng-thể hệt như một giao-hưởng-khúc gồm đủ mọi giác-quan thay cho ẩn-dụ. Chìa khoá chính cho giác-quan tổng-thể này, không là thị-kiến tạo nên vị-giác tổng-hợp, nhưng là thứ vị-giác thiêng-liêng linh-đạo. Xem như thế, ta trở thành bản-vị có đính-kèm vật-thể mà ta lĩnh-hội được theo cung-cách linh-thiêng giống hệt như thế. 

Nói tóm lại, Chúa để lại “mùi ngon/vị ngọt” nơi ta. Chúa có “mùi vị ngon ngọt” của riêng Ngài, ở mọi thời. Truyền-thống nhận định theo giác-quan như thế lại rực-sáng hơn, khi các đan-sĩ khổ-hạnh như người anh em hèn mọn Dòng Xitô lưu ý (đặc biệt là thánh Bernađô thành Clairvaux, đấng thánh hiền lành được biết nhiều dưới danh hiệu là “Tiến-sĩ-Mật” rất nổi cộm mà anh em đồng môn gọi ngài bằng danh-xưng rất gọn như: “Mật Huynh” cho “tiện bề sổ sách”; và truyền thống này, lan tràn sang các nữ-tử dòng Bê-ganh cũng như các tu-sinh dòng nữ ở mạn Bắc nước Đức, rất đặc biệt.” (Nguồn:“Hãy nếm và xem Thiên Chúa ngọt ngào dường bao.”(Tv 33: 9): The flavour of God in the monastic West,Rachel FultonJournal of Religion vol. 86, N.2, p. 169-ff)

Và, thêm một “nếm trải” khác cũng lạ-kỳ không kém, vẫn được đấng bậc ở trên khẳng-định rằng:

“Ẩn-dụ “nếm trải” được diễn-tả như vui thích, thoải mái mang tính-chất rất chữa lành ngõ hầu dẫn đưa người hiệp-thông rước Chúa sẽ được tháp-ghép vào cơ thể Ngài để gắn bó cho chặt. Tin như thế, là hiểu rằng: để được sống còn, ta cần có và cần chọn cảm-giác ngọt ngào, vẫn rất ngon. Ta còn tiến xa nhiều hơn là chỉ “nếm trải” Chúa rất đích thực, đến độ ta trở nên giống như Chúa. Trở nên con cái của Chúa. Bởi, khi có được sự khai sáng ấy, đã thấy nhiều người có được chọn lựa cả về thị giác lẫn vị-giác, tức tập trung không chỉ vào “nhãn quan”, mà thôi. Một khi ta gặp loại hình thực phẩm mới mẻ nào đó và được mời ăn thử, thì cũng sẽ có đổi thay cũng rất mới.

 Như thế là, ta có thể tháp-ghép vào chính con người mình những gì khả dĩ giết chết hoặc chữa lành, những gì làm cho ta thêm bệnh hoạn hoặc nuôi ta cho tốt. Có chuyện ngộ nghĩnh là chất đường ngọt ngào lần đầu tiên được sản xuất theo số lượng lớn lao, là vào thế kỷ thứ 19-20 tại Anh quốc và nước Mỹ: cũng vào thời bấy giờ người người đã thấy mất mát đáng kể về tôn-giáo, lẫn niềm tin.

 Ngôn-ngữ sử dụng cho giòng chảy ở dưới mang một chút dáng dấp có hơi Mỹ-quốc, nhưng cũng là lập trường đáng để ta quan tâm.” (X. Lm Kevin O’Shea CSsR, bđd)

Thế đó là những ví-dụ cụ-thể về tương-quan có “nếm trải” ở cuộc đời con người. Tương-quan giữa người với người được diễn-tả bằng những lập-luận về đạo-đức, triết-lý, và cả đến truyện kể ở chốn dân-gian phàm trần nhiều trải-nghiệm. Tương-quan ấy, còn được toả-lan rộng khắp bằng 4 bộ-môn nghệ-thuật như cầm, kỳ, thi, hoạ. Chí ít là, thi-ca và âm-nhạc như ca-từ được dẫn sau đây:

“Tình đã len trong mầu nắng mới,”
Lòng anh buồn vời vợi em ơi.
Niềm ái ân rung động trên môi,
Tình đâu khôn lựa nên lời thắm tươi.

Ðã héo lắm nụ cười trong mộng

Ðã mờ dần hình bóng thân yêu

Ðã lam tím cả cảnh chiều

Trong hồn lặng đã hiu hiu mộng tàn

Ðể gối chăn nằm yên chốn cũ

Hãy lịm người trong thú đau thương.


Tình đã không một lần nữa tới

Nhìn nhau buồn vời vợi em ơi

Rượu ái ân em cạn trên môi

Lệ anh xin nhỏ nên lời đắng cay.

 Hãy xếp lại muôn vàn ân ái

Ðừng thương nhau đừng ái ngại nhau

Thuyền yêu không ghé bến sầu

Như đêm thiếu phụ bên lầu không trăng

Thành kiếp sao còn băng mãi mãi

Ðể lòng buồn mãi mãi không thôi.”

(Phạm Duy/Lưu Trọng Lư – bđd)

 Quyết thế rồi, nay mời bạn/mời tôi, ta cứ thế mà hiên-ngang tiến về phía trước mang theo trong mình những quan-điểm/lập-trường mình sẵn có. Để rồi, sẽ cùng người anh người chị ở thánh-hội Nước Trời mãi mai vui tươi thực-hiện một sống đạo rất tuyệt vời.

Thế đó, là ý/lực xin được gửi tới mỗi người và mọi người thích đọc những giòng chảy rất phiếm, hôm nay và mai ngày, trong cõi thế.

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn chỉ muốn chuyển-tải

Những gì mình tâm-niệm

Bấy lâu nay

Mà thôi.

Hãy quỳ lạy nhìn xem cho sướng đã,

Suy Tư Tin Mừng Tuần thứ 28 thường niên năm C 09/10/2016

Tin Mừng (Lc 17: 11-19)

 Trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu đi qua biên giới giữa hai miền Samari và Galilê. Lúc Người vào một làng kia, thì có mười người phong hủi đón gặp Ngài. Họ dừng lại đằng xa và kêu lớn tiếng:

Lạy Thầy Giêsu, xin dủ lòng thương chúng tôi!”Thấy vậy, Đức Giêsu bảo họ:

“Hãy đi trình diện với các tư tế.”

Đang khi đi thì họ được sạch. Một người trong bọn, thấy mình được khỏi, liền quay trở lại và lớn tiếng tôn vinh Thiên Chúa. Anh ta sấp mình dưới chân Đức Giêsu mà tạ ơn. Anh ta lại là người Samaritanô. Đức Giêsu mới nói:

“Không phải cả mười người đều được sạch sao? Thế thì chín người kia đâu? Sao không thấy họ trở lại tôn vinh Thiên Chúa, mà chỉ có người ngoại bang này?”

Rồi Ngài nói với anh ta:

“Đứng dậy về đi! Lòng tin của anh đã cứu chữa anh.” 

 * * *

“Hãy quỳ lạy nhìn xem cho sướng đã”,

Không gì tiên cho sánh kịp bường thơ.

Tính chất thanh mà phẩm vật không ngờ,

Rất ưa-chuộng màu nhơn-đức sạch-sẽ.”

(Dẫn từ thơ Hàn Mặc Tử)

Mai Tá lược dịch.

“Nhơn đức sạch sẽ” và “tính chất thanh”, phải chăng nhà thơ nay cũng có tâm-sự của người bệnh-hoạn mà Chúa gặp trên đường làng? Đường làng Chúa đi, Ngài gặp đủ mọi người bệnh. Bệnh thể xác, bệnh tâm-hồn. Gặp cả những người có “nhơn đức sạch-sẽ”  cần “phiêu-diêu trong gió nhẹ”, như trình-thuật mới vừa đây.

Trình-thuật vừa đây, như có muôn vàn lời dạy của Đức Chúa nghe rất quen. Lời dạy Chúa gửi đến với mọi người ở phố chợ lẫn kinh-thành. Lời Chúa dạy hôm nay, cò đính kèm những hỏi-han rất chân-tình: “Không phải mười người đều được sạch cả sao?” (Lc 17: 17)

Theo trình-thuật, có đến những mười người bệnh kêu-cầu được Chúa chữa lành. Ngài làm thế, là để đưa người bệnh trở về lại với xã-hội bình-thường, với cộng-đoàn tình-thương Ngài luôn mến mộ.

Người bệnh ngặt-nghèo hôm nay, là một Samaritanô khác, vẫn người ngoài Đạo. Vì ở ngoài, nên người bệnh hôm nay chẳng thể nào được coi là có “nhơn-đức sạch-sẽ” dưới cặp mắt nhà Đạo. Dù có là Samaritanô, Hy Lạp hay Do-thái được Chúa chữa lành, đã mấy ai biết quay trở về! Quay về, dù chỉ để nhìn-nhận ơn lành đã khỏi bệnh. Hay chỉ để chiêm-ngưỡng dung-nhan Đấng chữa lành cứu vớt mà ngợi-khen.

Có nhìn-nhận đó là ơn lành hay không, vấn-đề đặt ra vẫn là: Chúa nghĩ sao, khi có kẻ quay về cảm-kích, biết ơn như người Samaritanô rất ngoài Đạo? Vâng. Chúa vẫn thường bảo: “Hãy đứng dậy mà đi! Lòng tin của anh đã cứu-chữa anh.”

Lời vàng hôm nay, Chúa kêu gọi người còn bệnh-hoạn hay đã được chữa-lành, là: “Hãy đứng dậy mà đi!”Hãy đi mà lập lại cuộc đời, có đổi mới. Đổi mới, theo đường-hướng Ngài đã chỉ-dẫn. Đổi mới, không chỉ kinh-nghiệm rất thực về thể-lý mà thôi. Nhưng, còn tái-tạo tương-quan tốt với người đồng loại, với Cha, với Chúa.

Tái-tạo tương-quan, là đem hy-vọng đến trên những người đang mang tật bệnh. Bệnh phong, bệnh lở ghẻ theo kiểu Lazarô và các bệnh khác nơi tâm tưởng, như: kỳ-thị, áp-bức, hờn căm. Như: khai-thác/bóc lột kẻ thua kém, sống phè-phỡn, những xa-hoa.

Tật bệnh phong cùi kể ra đây, đâu đáng sợ bằng thái-độ của người tự cho mình “hơn hẳn”. Cho rằng mình thuộc giới quí-phái/đạo-hạnh. Những người vẫn tự-tôn, tự đại, khinh-khi, có thành-kiến. Tật bệnh phong cùi ngày nay, là thái-độ của những người vẫn không chấp-nhận đồng-hành với những ai thấp-kém thua mình. Của những người mà ta vẫn gặp trên đường làng, chạy theo chân Chúa chỉ để bới móc, phân-bua.

Người mắc phong cùi hôm nay, còn là người bệnh mới chớm SIDA, cúm gà, ho lao, ung-bướu, thôi đã thấy bức tường phân-cách, ly-tan như ở Bá-Linh, Gaza , hoặc tường rào cốt sắt, sát biên-giới nước Mexicô nghèo?

Tật bệnh phong cùi hôm nay không chỉ là tật bệnh ngoài da hiếm thấy nơi xã-hội phương Tây, nhưng vẫn là căn bệnh thấm dần nơi tâm-khảm làm con người trở nên chai sạn. Chai đá đầy sạn/sỏi, ngay trong lòng nhà Đạo, dù ngày ngày vẫn cầu mà không nguyện.

Chai sạn bệnh-tật hôm nay, diễn-bày nơi thái-độ của giới cầm-quyền Đạo/đời chỉ biết có luật và lệ, chỉ chú-tâm đến trật-tự lớp lang, hầu giành quyền huy-động, bảo ban. Đó là thứ “cùi phong/ghẻ lở” thấy rất nhiềy ở mọi nơi.

Nhưng vấn-đề đặt ra là: nếu bắt buộc phải ở cạnh hoặc sống chung với những người bệnh nan-y hôm nay, ta có cả gan ra tay nâng-đỡ hoặc ôm hôn họ, hay không? Ôm hôn, nâng đỡ hay vẫn chạy trốn mỗi khi thấy người cùi rung chuông, cảnh-báo?

Người giang tay chực chờ ta đỡ nâng/giùm giúp là nạn-nhân của tật-bệnh quái-đản, tựa phung hủi, SIDA, đồng tính luyến ái, vv.. vẫn cần ta loại bỏ thái-độ chê-bai, kỳ-thị, hoặc lẩn-tránh. Người tật bênh hôm nay, vẫn mong người đời thay-đổi thái-độ đối với chính mình trong giao-tiếp. Thay-đổi tương-quan lạnh nhạt như các luật-sĩ, Pharisêu khi xưa vẫn làm.

Là môn đệ theo chân Chúa lên đường rao-giảng, ta không chỉ thấy cần mỗi việc thăng-tiến con người, mà thôi. Dù, có là thăng-tiến quyền-lợi của những người bị coi là khác văn-hoá, đạo-giáo hoặc tâm-linh, thể-lý. Nhưng, vẫn nghe lời Đức Chúa dặn-dò “Hãy đi mà trình-diện với các tư-tế”. Trình-diện với các tư-tế, để chứng-tỏ là mình được chữa lành, tức: có “nhơn đức sạch sẽ”, đã gột bỏ mọi hãi-sợ. Không còn thái-độ làm ngơ, xa lánh người bệnh nữa; nhưng đã biết khoan-dung. Khoan-dung gột sạch, thể-hiện đúng như lời thánh Phaolô trong thư gửi người đồ-đệ: “Vì Tin Mừng, tôi chịu khổ, tôi phải mang cả xiềng xích!… Bởi vậy, tôi cam chịu mọi sự, để mọi người đạt ơn cứu vớt trong Đức Kitô, hưởng vinh-quang muôn đời.” (2Tm 2: 9-10).

Để mọi người đạt ơn cứu-vớt và chữa lành, là đã tự gột tẩy chính mình để có được “nhơn đức sạch sẽ” hầu “đứng dậy mà đi” thực-hiện Lời Chúa đã khuyên dạy. Thực-hiện Lời Ngài khuyên dạy, sẽ không còn coi rẻ, đào-thải khỏi xã-hội và giáo-hội, những người xưa nay bị chê-bai, nhờm tởm và xa lánh những người bệnh phong cùi, của thời-đại.

Phong cùi thời-đại, đôi khi lại chính là con/cháu, bạn bè hoặc những người mà ta đang chung sống trong cộng-đồng, khác màu da, khác văn-hoá và đạo-hạnh. Những người đang khốn-khổ vì phong-cách ta đối-xử với họ. Giả như, các bé câm điếc bẩm-sinh, các trẻ bị hội-chứng Down, hay người đồng tính luyến ái, bị xã hội ruồng bỏ, có đến gần, ta sẽ xử sự với họ như thế nào? Phải chăng vẫn cứ trách-móc với phân-trần: “Sao Chúa để người của tôi ra như thế này?”

Vâng. Cũng như người Samaritanô bệnh tật, mọi người trong cộng-đoàn ta chung sống, cần được cứu vớt và chữa lành. Chữa lành hoàn-toàn, không còn những gì độc-hại từ hệ-thống tân-kỳ, của ngày hôm nay. Hệ-thống, chuyên bóp méo mọi tương-quan tốt đẹp ta đang có với mọi người chung quanh.

Tham-dự Tiệc Thánh hôm nay, ta cầu mong cho thế-giới sẽ không còn những kẻ bị đào-thải ra khỏi xã-hội và Giáo-hội. Không còn ai bị đối-xử như người phong cùi, phải xa lánh nữa.

Lm Richard Leonard sj biên-soạn –  

Mai Tá lược dịch.

Ánh mắt nhân hậu của người Nữ Tu đang nói gì với con người hôm nay?

Ánh mắt nhân hậu của người Nữ Tu đang nói gì với con người hôm nay?

Trần Phong Vũ

7-10-2016

Tín điệp của một nữ tu

Ảnh chụp nữ tu xuống đường biểu tình phản đối Formosa hôm 2-10-2016. Nguồn: Facebook.

Bám sát những bản tin nóng trên mạng sáng Chúa Nhật 2 tháng 10 vừa qua, người viết vô cùng xúc động khi bắt gặp tấm hình trên đây trong bài tường thuật kèm theo hình ảnh sống động, mô tả quang cảnh cuộc xuống đường ôn hòa của hàng chục ngàn đồng bào Kỳ Anh trước nhà máy của tổ hợp gang thép Formosa.

Hình một nữ tu trẻ trang phục đen mang cổ áo trắng trước đám đông cảnh sát cơ động (CSCĐ). Tay phải cô cầm trang giấy, tay trái chỉ vào hàng chữ: Hủy hoại môi trường là một tội ác – Vì Công Lý, hãy đứng lên! ĐỪNG SỢ!

Tôi không rõ tên tuổi, lý lịch và Nhà Dòng cô đang tu học. Tôi cũng không biết trong rừng người lớn bé, già trẻ, nam giới, nữ giới, bất chấp họng súng của công an mật vụ buổi sáng hôm ấy, ngoài cô còn có những nữ tu nào khác?

Nhưng điều này với tôi, không quan trọng. Chỉ một tấm hình đơn độc này[1] đã đủ nói lên tất cả ý nghĩa trầm lắng thác ngụ bên trong nó về một suy tư, một tác động, một phản ứng dây chuyền có thể có đối với từng trái tim, từng nhân thể trong đám đông nhân loại hôm nay. Dĩ nhiên có công luận khắp nơi qua ống kính báo giới quốc tế. Cụ thể là người Việt Nam, những người cùng mang chung dòng máu Việt tộc như cô.

Cũng trong số ấy, có một người đáng tuổi ông nội, ông ngoại cô đang mò mẫm trên máy vi tính ghi lại những dòng này, đêm nay.

Với tâm tư, trí não héo úa bị bào mòn từng phút giây theo quy luật bất biến của thời gian, của định mệnh con người, nhưng may mắn Thượng Đế còn cho chút hơi sức và sự minh mẫn cuối đời để tôi gõ những con chữ trên bàn phiếm, mong làm bật lên trong muôn một những ‘tiếng nói không lời’ ẩn giấu bên trong ánh mắt nhân hậu mà người nữ tu muốn gửi tới cho đồng bào cô, nói chung, con người hôm nay.

Hủy hoại môi trường là một tội ác

Môi trường ở đây chỉ điều kiện thuận lợi về khung cảnh sống của con người. Như thế, hủy hoại môi trường là hành vi xúc phạm tới thiên nhiên (đất, nước, biển, không khí), là một tội ác – nếu không muốn nói là Đại Ác – đối với nhân loại!

Con người, ngoài thân xác còn có phẩm giá, là vốn quý tạo hóa ban cho. Ý thức điều này hơn tất cả ai khác, Mẹ Têrêsa thành Calcuta, Ấn Độ đã dâng hiến trọn đời để chăm lo, săn sóc những kiếp người cùng khổ. Khi chọn con đường tu trì, người thiếu nữ có cặp mắt và nét cười nhân hậu trong tấm hình trên hẳn cũng cưu mang trong lồng ngực mình trái tim của Mẹ. Từ đấy, cô đã chia sẻ đến tận cùng nỗi đau của đồng bào, trong số đó có những tín hữu của cô, khi chứng kiến thảm họa cá chết phơi trắng hơn 200 cây số trải dài bãi biển bốn tỉnh miền Trung quê hương cô từ hôm 06-4-2016.

Cá không phải tự nhiên chết.

Nguyên do khiến cá bị lấy đi sự sống vì cái ác ẩn sâu trong tim đen những con người mang tâm địa quỉ dữ. Nó không chỉ xuất hiện hôm nay. Nó đã có mặt để trực tiếp phá phách con người từ tạo thiên lập địa. Tương tự như bàn tay nhám nhúng vào ruộng lúa của người Do Thái theo “dụ ngôn cỏ lùng” trong Kinh Thánh Tân Ước[2].

Khởi từ niềm cảm thông sâu xa ấy, thôi thúc cô mang nguyên tu phục hòa nhập với đám đông đồng bào, đồng đạo giáo xứ Đông Anh xuống đường hôm Chúa Nhật 02-9 để cùng mọi người bày tỏ thái độ, nói lên quan điểm: Hủy hoại môi trường là một tội ác!

Tội ác không đơn thuần gây ra cái chết của biển, của cá, của người.

Nó chỉ là cái ngọn của nan đề. Dưới đáy sâu của tảng băng chìm, hàm ẩn bốn cái chết của lương tâm, luân lý, lý trí và chính trị như nhận định của Đức Cha Ngô Quang Kiệt, nguyên TGM Hà Nội trong cuộc viếng thăm Vũng Áng gần đây[3].

Thủ phạm trực tiếp hủy hoại môi trường biển bốn tỉnh miền Trung là tập đoàn gang thép Formosa, với sự đồng lõa của những kẻ tham nhũng bán nước, mang lòng dạ dã thú ở Ba Đình. Tác hại của nó không chỉ cướp đi nghề nghiệp, cơm ăn, áo mặc, sức khỏe, gây bệnh tật chết chóc cho đồng bào ngay lúc này. Hơn thế nó còn để lại những di lụy khủng khiếp cho nhiều thế hệ mai sau như kinh nghiệm tìm thấy trong bài viết “Từ Minamata (Nhật Bản) tới Vũng Áng (Việt Nam)…” chúng tôi đã chỉ ra mới đây.

Khi phơi bày trên tấm giấy in suy nghĩ này trong buổi xuống đường sáng Chúa Nhật 2 tháng 10, trước hết người nữ tu trẻ muốn nói rõ tâm tình, quan điểm của cô với những kẻ có ác tâm hủy hoại môi trường biển. Để cảnh cáo họ và cũng để thông tri cho thế giới loài người cùng biết. Không ngừng ở đấy, cô còn muốn gửi một tín điệp để đánh thức lương tri nhóm CSCĐ đang vây quanh, kể cả đám an ninh mặc thường phục, các thành phần du đãng bị mua chuộc và cả lũ dòi bọ ‘dư luận viên’ đang len lỏi, quấy phá cả chục ngàn đồng bào tham gia biểu tình chống Fomosa, thủ phạm hủy hoại môi trường biển. Dĩ nhiên trong đó bao gồm cả tập đoàn tham nhũng, bán nước Hà Nội.

Vì Công Lý & Sự Thật, hãy cùng nhau đứng dậy!

Cho dù ở cương vị một nữ tu yếu đuối, nhưng vì mang sẵn tinh thần của cố LM Chân Tín, các Linh Mục Nguyễn Văn Lý, Phan Văn Lợi, cố TGM Nguyễn Kim Điền, nguyên TGM Ngô Quang Kiệt, cố GM Lê Đắc Trọng, nguyên GM Hoàng Đức Oanh, GM Nguyễn Thái Hợp (Việt Nam), GM Nguyễn Văn Long (Úc Châu)…, cô hiểu rằng: trước khi rửa tội để trở thành tín hữu Công giáo, trước khi dâng hiến cuộc đời vào nhà dòng thành một nữ tu, vốn dĩ cô đã là người mang giòng máu Việt Nam. Cô tự thấy mình không thể buông xuôi không làm gì để cam phận là con người vô cảm trước nỗi bất hạnh của tha nhân, nhất là khi tha nhân không phải ai khác mà là người đồng hương ruột thịt chung màu da tiếng nói với cô.

Chính từ những cảm nghiệm ấy, chuyện cô chia chung niềm đau của ngư dân trước thảm họa môi trường bị hủy hoại đưa tới cảnh biển chết, cá chết, người chết, không chỉ là mối giao cảm mang tính thế tục giữa đời thường. Xa hơn, nó còn là một trách nhiệm liên đới chuyên chở giá trị tinh thần khơi nguồn từ giáo huấn trong Thánh Công Đồng Chung Vatican II, mà Giáo Hội cô đòi buộc[4].

Không nói ra miệng, nhưng các tu sĩ Dòng Chúa Cứu Thế, từ cha nguyên Giám Tỉnh Phạm Trung Thành tới cố LM Vũ Khởi Phụng, các LM Lê Quang Uy, Đinh Hữu Thoại, Nguyễn Văn Khải, Lê Ngọc Thanh, Nguyễn Ngọc Nam Phong… và các cha Triều như LM Đặng Hữu Nam, Trần Đình Lai… đều cùng có chung một tâm niệm.

Phát xuất từ ý thức cao độ mang tính thánh thiêng ấy, cô chỉ vào tờ giấy mang trên tay trong khi theo chân hàng chục ngàn người xuống đường đòi hỏi công lý và sự thật, nhằm mục tiêu nhắc nhở mọi người rằng: Công Lý phải được thực thi.

Từ đấy, nhân danh một nữ tu nhỏ bé, cô mời gọi toàn thể đồng bào, thuộc mọi tôn giáo, mọi giai tầng xã hội hãy nhất tề đứng dậy, triệu người như một, quyết liệt đòi hỏi kẻ ác phải hồi tâm và tập đòan ăn trên ngồi trước, -lâu nay chuyên đè đầu cưỡi cổ bức hiếp lương dân-, phải trả lại cho họ tất cả những quyền năng thiêng liêng của con người mà Thượng đế đã ban cho từ khi còn là một bào thai trong lòng mẹ.

Những quyền năng bất khả chuyển nhượng này từng được giáo dân Phú Yên đồng loạt lên tiếng kêu đòi khi họ cùng vị Linh Mục chánh xứ ca vang bản nhạc “Trả lại cho dân” của cố nhạc sĩ Việt Dzũng trong một Thánh Lễ cầu nguyện cho các nạn nhân. Đây cũng là thời gian chuẩn bị hồ sơ pháp lý, chuẩn bị phương tiện để truy tố Formosa và những thế lực gian ác đứng đàng sau đã gây ra thảm họa môi trường cho người dân bốn tỉnh miền Trung. Hiển nhiên khi cất tiếng đồng ca bàn nhạc này, các nạn nhân muổn nhắn gửi tập đoàn lãnh đạo đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam, cách riêng Tòa án Kỳ Anh, nơi họ sắp nạp hồ sơ khiếu kiện:

“Trả lại đây cho nhân dân tôi – quyền tự do – quyền con người – quyền được nhìn, được nghe, được nói.

Quyền được chọn chân lý tự do

Quyền xóa bỏ độc tài, độc tôn

Trả lại đây! – Quyền phúc quyết của toàn dân

Dân biết điều gì dân cần – để tự do mưu cầu hạnh phúc.

(…)

Đừng sợ!

Thấu rõ tâm trạng âu lo, sợ hãi của con người, từ hơn hai ngàn năm trước, Chúa Giêsu Cứu Thế, Đấng khai mở kỷ nguyên Tân Ước, trong những năm rao giảng Tin Mừng Nước Trời cũng như các dịp hiện ra cùng các môn đệ sau khi phục sinh, hàng trăm lần đã lên tiếng trấn an đám đông dân chúng theo Ngài: “ĐỪNG SỢ!”

Trong những lần trở về thăm quê hương trước khi nổ ra biến cố Đông Âu, chấm dứt chế độ cộng sản tại cái nôi của chủ nghĩa Mác-xít Lê-nin-nít là Liên Bang Xô-Viết, đứng trước đám đông giới lao động thuộc Công Đoàn Đoàn Kết Ba Lan (và trong các Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới sau này), rất nhiều lần Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cũng đã lập đi lập lại điệp khúc này: “ĐỪNG SỢ!”

Như thế từ ngàn xưa sự sợ hãi vốn đã là một chứng bệnh thâm căn cố đế của con người, chẳng từ ai. Nhưng khi con người bị áp đặt dưới những chế độ độc tài phi nhân tính thì với mưu toan thâm độc, những thủ đoạn tàn ác, coi rẻ mạng sống người dân, tâm trạng sợ hãi này càng gia tăng thập bội. Lâu dần nó trở thành quán tính. Hệ quả trực tiếp là nó tước đi khỏi con người lòng tự trọng, khiến cho khả năng tự đề kháng không còn, để mặc nhiên biến thành những kẻ nô lệ, cam tâm chấp nhận mọi thứ đòn thù của chế độ gây ra cho mình, cho tha nhân.

Người dân trước nỗi sợ hãi

Những chỉ dấu lạc quan chừng mực

Quan sát mối tương quan giữa quần chúng và chế độ cộng sản trong những năm gần đây, mặc dầu cung cách cai trị bằng bạo lực của Hà Nội trên căn bản không thay đổi, quần chúng nói chung đã bớt sợ hơn. Người dân gặp chuyện oan khuất đã biết và dám tìm đến bên nhau, tìm sự nương tựa để chống lại những thế lực tham lam, gian ác.

Nông dân từ các tỉnh miền Bắc lũ lượt kéo về vườn hoa Mai Xuân Thưởng ở Hà Nội để đưa đơn khiếu kiện. Cùng lúc những “Bà Mẹ” sống quanh vùng đồng bằng sông Cửu Long ở miền Nam từng một thời được chế độ coi là người ơn của “cách mạng”, sau khi bị chính chế độ trở mặt cướp bóc tài sản, ruộng nương cũng theo nhau tìm về khu vực nhà thờ Đức Bà Sài Gòn nơi có cái gọi là Văn Phòng II Quốc Hội để kêu đòi công lý. Từ đấy những cuộc đấu khẩu tay đôi giữa người dân thấp cổ bé miệng trước cửa quyền, với viên chức các cấp trong ngành an ninh thường xuyên diễn ra công khai. Đây là những chỉ dấu khác thường, hiếm thấy vài thập niên trước.

Khỏang tháng 6 tháng 7 vừa qua, một buổi sáng giữa phố phường Hà Nội, du khách và cư dân đã có dịp chứng kiến quang cảnh công an, an ninh chìm nổi sững sờ đứng nhìn bà Giáo Thảo trang phục màu tráng, xắn tay áo cất tiếng nêu đích danh chửi những tên đầu sỏ của chế độ đã sai bọn đầu gấu ngăn cản bà đi biểu tình chống thảm nạn môi trường biển bị hủy hoại. Câu chuyện gia đình Đoàn Văn Vươn ở Hải Phòng, trường hợp bà con Dương Nội công nhiên chống lại lực lượng công an bộ đội võ trang hỗ trợ bọn tài phiệt nước ngoài lấn chiếm đất đại, cướp đoạt tài sản của họ là những chỉ dấu cụ thế cho thấy người dân ngày nay đã dám trực diện đương đầu với cường quyền, bạo lực.

Cho đến tháng 5-2014 khi Bắc Kinh trắng trợn điều giàn khoan khủng vào sâu lãnh hải trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam thì tình trạng bớt sợ hãi giảm thêm một mức đáng kể. Cả ngàn thanh niên sinh viên rầm rộ xuống đường ở Sài gòn, các tỉnh lân cận, kể cả ở Vũng Áng nơi được coi là nhượng địa cho Tàu, với khẩu hiệu và biểu ngữ công khai chống Trung Cộng xâm lăng. Tại một số nơi đã có bạo động, một số doanh nghiệp làm ăn của Tàu cộng đã bị đập phá. Máu đã đổ. Có người đã chết. Nhìn chung trong một chừng mực nào đó, phía nhà cầm quyền tỏ ra đã biết tự chế trước sự phẫn nộ của quần chúng.

Căn nguyên nào khiến chế độ chùn bước trước phản ứng của người dân?

Nhìn chung, vì xu thế đã đổi khác.

Trước hết là những mâu thuẫn đấu đá trong nội bộ cấp cao của đảng và nhà nước ngày càng bộc lộ dẫn tới tâm trạng bất bình, bất tín đối với guồng máy công quyền ngày càng lan rộng. Tâm trạng này không chỉ phát sinh trong quảng đại quần chúng mà còn lan rộng tới những đảng viên và các giới chức trong hệ thống cầm quyền từ trung ương tới địa phương. Bên cạnh đó, hiện tượng tràn ngập các phương tiện truyền thông hiện đại trong dân chúng cùng với sự trưởng thành về ý thức công dân của các thành phần xã hội, cách riêng giới trẻ, cũng là những yếu tố làm thay đổi sự thăng bằng trong mối tương quan giữa người dân và chế độ. Sau hết là tình trạng tham nhũng, thối nát đưa tới sự xuống dốc thê thảm về kinh tế, văn hóa, xã hội và sự bùng nổ của các tổ chức xã hội dân sư trong vài năm gần đây.

Tuy vậy, người ta cũng không loại bỏ tâm trạng hoài nghi về một mưu toan của giới cầm quyền, lùi một bước để câu thì giờ lượng định sức để kháng của người dân, trước khi tiến tới bước thứ hai. Có điều dù sự thể ra sao, không ai có thể phủ nhận kể từ khi kẻ thù truyền kiếp của dân tộc là Bắc Kinh công khai lộ rõ mưu toan xâm lước đất nước ta thì khát vọng “thoát Trung” không còn giới hạn trong giới chuyên gia trí thức nữa. Nó đã trở thành một hiện tượng phổ biến trong quảng đại quần chúng trong nước.

Biến cố Formosa, một cơ hội ngàn vàng

Thảm họa biển bị đầu độc gây ra thảm họa cá chết hàng loạt phơi trắng mấy trăm cây số bãi biền bốn tỉnh miến Trung là một khúc rẽ quan trọng, một cơ hội có một không hai trong cuộc đấu tranh đối mặt với thù trong, giặc ngoài. Trong nỗi đau chết chóc, bệnh tật, hàng trăm ngàn ngư dân và những thành phần sống bám vào biển như nghề nuôi trồng thủy hải sản, công nghệ làm muối bị thất nghiệp khiến cho nhiều triệu đồng bào lâm cảnh lầm than đói khổ, biến cố này cũng phơi trần trước dư luận trong ngoài nước về những sự thật đàng sau tổ hợp gang thép Formosa.

Sự hiểu biết thô thiển ban đầu khiến mọi người yên tâm với ý nghĩ Formosa xuất xứ từ Đài Loan là một quốc gia tự do, đã bị phá vỡ. Sự thật cho biết sau cái vỏ bọc mang nhãn hiệu đảo quốc của người Tàu không cộng sản, bên trong công ty gang thép này là cả một hệ thống kỹ thuật và chuyên viên đến từ Bắc Kinh. Do đó chúng ta có lý chứng cụ thể để đề quyết: tổ hợp Formosa ở Vũng Áng là con đẻ của Hoa Lục. Từ đấy sự kiện nhà máy của công ty này âm thầm xả thải độc chất chì, thủy ngân xuống lòng biển Vũng Áng không phải vô tình hay đơn phương. Trái lại, nó là một chủ ý có tính toán nằm trong toàn bộ âm mưu diệt chủng của Bắc Kinh để sửa soạn cho việc thực hiện giai đoạn chót mật ước Thành Đô, biến đất nước ta thành một thuộc quốc!

Vụ kiện Formosa và cuộc xuống đường của các nạn nhân

Thắng lợi lớn nhất trong vụ kiện thế ký hôm 27-9 vừa qua là các ngư dân thấp cổ bé miệng Vũng Áng đã phá vỡ mưu toan thâm độc của Hà Nội trong việc xé lẻ người dân gặp cùng một chuyện oan khuất không được khiếu kiện tập thể. Điều này đã được chế độ pháp lý hóa bằng luật lệ. Nhưng trước sức mạnh áp đảo về tinh thần do các nạn nhân được sự hỗ trợ mạnh mẽ đàng sau của đồng bào khắp nước đã đẩy cái gọi là Tòa án Nhân dân huyện Kỳ Anh phải bó tay. Dù tìm hết cách gây khó khăn để trì hoãn nhưng cuối cùng họ đã phải cắn răng chấp nhận một lần 506 hồ sơ khiều kiện của các nạn nhân Phú Yên do linh mục Đặng Hữu Nam đại diện.

Nhận định về trường hợp hi hữu này, luật sư Lê Quốc Quân nói: đây là một tiền lệ rất lạc quan mở ra cho hàng chục, hàng trăm ngàn hồ sơ khiếu kiện sắp tới buộc các Tòa án địa phương phải chấp nhận. Riêng luật sư Võ An Đôn cho rằng khả năng thắng kiện của các nạn nhân hủy hoại môi trường Vũng Áng rất cao với xác xuất 100%. Lý do khiến ông tin như vậy vì chính Formosa đã công khai nhận tội xả thải độc chất xuống biển Vũng Áng tạo nên nguyên nhân cá chết hàng loạt khiến người dân địa phương lâm cảnh khốn cùng trong cuộc họp báo để xin lỗi và nhận bồi thường $US 500 triệu hôm 30-6-2016. Vì thế, theo ông vụ kiện chỉ là một thủ tục pháp lý tiếp theo về phía nguyên đơn nhằm quy những trách nhiệm trầm trọng hơn cho bên bị. Tuy nhiên, vẫn theo luật sư Đôn, vụ án có được giải quyết dứt khoát và mau chóng hay không còn tùy vào mức độ lương thiện của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam.

Từ những nhận định trên đây, cuộc xuống đường bất bạo động của hàng chục ngàn người dân hạt Đông Anh hôm Chúa nhật 02-9 vừa qua có giá trị xác lập lại quan điểm và lập trường cương quyết, dứt khoát của các nạn nhân vụ hủy hoại mội trường để đòi hỏi công lý phải được thi hành nghiêm chỉnh, đáp lại ý nguyện của các nạn nhân qua những yêu sách được liệt kê trong hồ sơ khiếu kiện.

* Thứ nhất, vĩnh viễn trục xuất tổ hợp Formosa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.

* Thứ hai, đòi buộc tổ hợp này phải trả lời trước pháp luật, bồi thường tương xứng cho hàng trăm ngàn nạn nhân trực tiếp và gián tiếp của biến cố Vũng Áng.

* Thứ ba, đòi buộc thủ phạm phải áp dụng những kỹ thuật tân tiến để trả lại nguyên trạng trong lành, tinh sạch cho biển.

Khả năng nâng cấp vụ kiện ra tòa án quốc tế trong tương lại tùy thuộc kết quả đạt được tại các tòa án địa phương. Khi ấy, tội phạm sẽ không còn giới hạn ở giặc ngoài mà sẽ ứng vào chính những Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc thời đại, những tay đầu sỏ Ba Đình đã trắng trợn “cõng rắn cắn gà nhà”.

Thay cho lời kết luận

Trong bối cảnh chung trên đây. sự xuất hiện bất ngờ của người nữ tu với ánh mắt và nụ cười nhân hậu bên cạnh đám cảnh sát cơ động đang canh chừng mấy chục ngàn đại diện cả triệu nạn nhân trong cuộc xuống đường phản kháng hành vi phá hoại môi trường biển của Formosa và những kẻ đồng lõa, không chỉ là một hiện tượng lạ, hiếm thấy. Ẩn sâu bên trong đó là một lời cảnh cáo ôn hòa nhưng nghiêm khắc có giá trị của tất cả những khẩu hiệu, những biểu ngữ và hàng trăm, hàng ngàn bài viết trong những ngày qua gom lại. Nó mang biểu tượng của một Tín Điệp từ Trời gửi Đất, từ Thiên Đường gửi Địa Ngục, của nơi Niết Bàn gửi tới chốn A-Tì.

_____

[1] Sau đó, mở video link quay toàn cảnh cuộc xuống đường hực lửa đấu tranh nhưng trật tự và ôn hòa của bà con Đông Anh, tôi bắt gặp lại hình ảnh sống động của người nữ tu giữa đám đông người biểu tình, trong đó có công an sắc phục, thường phục, có ‘dư luận viên’ trà trộn và những toán CSCĐ.

[2] Phúc âm Thánh sử Mát-Thêu đoạn 13 từ câu 24 đến câu 30 trang 103 do Nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ, Sài gòn phiên dịch và chú thích, ấn hành ở Hànội năm 2008.

[3] “Tôi thấy cái chết của biển cũng như của cá chỉ là cái ngọn vấn đề. Cái chính gây ra cái chết này là do cái chết của tâm hồn con người. Tôi thấy ít nhất có bốn cái chết: cái chết của lương tâm, cái chết của luân lý, cái chết của lý trí, và cái chết của chính trị.”

[4] Lời mở đầu Hiến Chế “Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay”, Thánh Công Đồng Chung Vatican II ghi rõ như sau: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và những ai đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo lắng của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà lại không gieo âm hưởng trong lòng họ” (Trích bản dịch Thánh Công Đồng Chung Vatican II của Giáo Hoàng Chủng Viện Đà Lạt)

Phân tích pháp lý về tuyên bố của Bộ Công an Việt Nam về Việt Tân

Phân tích pháp lý về tuyên bố của Bộ Công an Việt Nam về Việt Tân

Lê Công Định
Trên phương diện pháp lý, chỉ Tòa án mới được trao thẩm quyền tuyên một phán quyết xác định bản chất pháp lý của một tổ chức chính trị hoặc xã hội nào trên lãnh thổ Việt Nam, từ đó xem tổ chức ấy có hoạt động khủng bố hay không. Một cơ quan hành pháp như Bộ Công an hoàn toàn không có thẩm quyền đó.

Giả định nếu Bộ Công an có thẩm quyền, thì chẳng lẽ khi áp dụng Bộ luật Hình sự, các Tòa án – vốn thuộc ngành tư pháp – buộc phải chấp hành tuyên bố hay quy định riêng của một cơ quan thuộc ngành hành pháp chăng? Nếu thế thì Bộ Công an trở thành cơ quan siêu quyền lực, đuợc quyền sinh sát đối với toàn dân, tự đặt ra luật và buộc Tòa án xét xử dân theo luật do mình tuyên bố. Quốc hội và Tòa án càng trở nên bù nhìn và thủ giữ vai trò hình thức.
Động thái này của Bộ Công an cho thấy thể chế nhà nước pháp quyền của Việt Nam đang suy thoái nghiêm trọng theo hướng độc đoán tuyệt đối, bất chấp mọi chuẩn mực pháp lý tối thiểu mà các quốc gia thành viên Liên hiệp quốc công nhận. Đề nghị các Đại biểu Quốc hội hãy lên tiếng phản đối tuyên bố chuyên quyền và vượt quyền này của Bộ Công an.
Do đuợc ban hành sai thẩm quyền, nên tuyên bố và quy định dưới đây của Bộ Công an là vô giá trị và vô hiệu, người dân không cần tuân thủ:
“Việt tân” là tổ chức khủng bố, do đó, người nào có hành vi tham gia, tuyên truyền, lôi kéo, xúi giục người khác tham gia, tài trợ, nhận tài trợ của “Việt tân”; tham gia các khóa đào tạo, huấn luyện do “Việt tân” tổ chức; hoạt động theo sự chỉ đạo của “Việt tân”… sẽ đồng phạm tội khủng bố, tài trợ khủng bố và sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật Việt Nam.”
FB Lê Công Định

Hà Nội: CA câu lưu LM Đặng Hữu Nam vì đấu tranh bảo vệ môi trường

Hà Nội: CA câu lưu LM Đặng Hữu Nam vì đấu tranh bảo vệ môi trường

 
CTV Danlambao – Linh mục Anton Đặng Hữu Nam, quản xứ Phú Yên thuộc giáo phận Vinh đã bị công an mặc thường phục chặn giữa đường và “mời” đến công an phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy-Hà Nội để “làm việc”.
Linh mục Đặng Hữu Nam cho biết, sự việc xảy ra vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 04/8/2016, khi cha Nam vừa rời khỏi trụ sở ĐSQ Đài Loan.
Người trực tiếp làm việc với linh mục Đặng Hữu Nam là đại úy Phạm Văn Trung, đội phó đội điều tra quận Cầu Giấy. Ông này nói rằng, có một người tên là Lê Văn Kiên, ngụ tại xóm 4, xã An Hòa, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An viết đơn tố cáo linh mục Đặng Hữu Nam nhận 50.000 USD của đảng Việt Tân để “phát cho giáo dân đi biểu tình chống phá nhà nước”. Tuy nhiên, cơ quan công an này đã không trình được đơn tố cáo theo yêu cầu của Linh mục Đặng Hữu Nam. Thậm chí, khi được hỏi về số Chứng minh nhân dân của người tố cáo để xác định thông tin, công an cũng không chứng minh được.
Cha Đặng Hữu Nam khẳng định đơn tố cáo chỉ là thư nặc danh và việc này là “trò bịa đặt”. Vì thế ông không thừa nhận tính pháp lý của “đơn tố cáo” này. Không chứng minh được việc có đơn tố cáo cha Nam nhận 50.000 USD của Việt Tân, công an Hà Nội buộc tội cha tổ chức biểu tình để chống phá nhà nước và viết bài đưa lên mạng. Linh mục Nam khẳng định việc thể hiện quan điểm là quyền tự do ngôn luận. Linh mục Đặng Hữu Nam cũng khẳng định mình không tổ chức biểu tình chống nhà nước mà là dâng Thánh lễ, kêu gọi giáo dân nói riêng, và người Việt Nam nói chung phải bảo vệ Tổ quốc. Trong các buổi thánh lễ, linh mục Nam đều cầu nguyện cho công lý và hòa bình, cho quốc thái dân an, cầu cho chính những người lãnh đạo cộng sản phải biết yêu nước và có trách nhiệm với người dân. Việc tuần hành bảo vệ môi trường và kêu gọi tình yêu thương không phải là biểu tình. Trước khi tổ chức các cuộc tuần hành, linh mục Đặng Hữu Nam đều thông báo với trưởng công an huyện để đề nghị cơ quan này bảo vệ người dân khi tham gia tuần hành.
Trao đổi với CTV Danlambao, linh mục Đặng Hữu Nam cho biết ông đi Hà Nội để chữa bệnh và giải quyết một số công việc. Trong đó có việc xin visa để sang Đài Loan theo lời mời của Linh mục Phero Nguyễn Văn Hùng để bàn thảo một số công việc về Tôn giáo.
Linh mục Anton Đặng Hữu Nam là một trong những người đấu tranh mạnh mẽ trong vấn đề bảo vệ môi trường. Từ khi thảm họa môi trường xảy ra, cha Nam thường xuyên tổ chức các cuộc tuần hành, thánh lễ cầu nguyện cho công lý và hòa bình, bênh vực ngư dân. Có những cuộc tuần hành thu hút vài ngàn giáo dân tham dự.
Đây không phải lần đầu tiên linh mục Đặng Hữu Nam bị sách nhiễu, bị bắt vô cớ và bị câu lưu tại đồn công an.
Tháng 12 năm 2015, cha Nam đã bị đánh đập, hành hung khi ông đang trên đường đi chữa bệnh.
Linh mục Đặng Hữu Nam cho biết, dù mang trong người hai căn bệnh hiểm nghèo là ung thư não và ung thư máu, nhưng cha luôn hết mình phụng sự Chúa, làm chứng cho sự thật và dấn thân cho công lý và hòa bình.

Nạn Lạm Thu & Thói Cửa Quyền

Nạn Lạm Thu & Thói Cửa Quyền

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Ảnh của tuongnangtien

tuongnangtien

Viết về sự nghiệp của Tô Hoài, có nhà phê bình văn học đã đưa ra một nhận xét rất đáng quan tâm:

“Từ sau 1945, ngoài làm báo, làm xuất bản hoặc làm công tác đối ngoại, ông còn tham gia sinh hoạt tổ dân phố, các hoạt động của mặt trận, của tổ chức người già… nói chung là trăm thứ bà rằn linh tinh khác… Ở nước nào kia, còn có thể có hạng nghệ sĩ thu mình lại trong tháp ngà, ở ta, cái bàn viết của nhà văn nằm giữa cuộc đời.” (Vương Trí Nhàn. Cánh Bướm & Hoa Hướng Dương, NXB Phụ Nữ, Hà Nội: 2006).

Nhờ kinh nghiệm “linh tinh bà rằn” của một người cầm bút “từng tham gia sinh hoạt tổ dân phố” nên độc giả của Tô Hoài được biết thêm (ít/nhiều) về sinh hoạt của lực lượng dân phòng ở miền Bắc, Việt Nam:

“Tôi đi tuần tra. Một tốp hai người đeo băng đỏ, tay cầm cái đèn hai pin của đội dân phòng … Phó ban Đại hay đi tuần với tôi, có khi tôi rủ, có khi Đại đợi. Chẳng phải đến lượt đi đôi với Đại, mà Đại thích đi với tôi. Đêm nằm khàn, Đại nhớ bia. Nửa đêm chúng tôi vào quán Gió hàng bia nhà mậu, uống thả cửa, trả tiền không lấy…”

Ngoài bia “uống thả cửa” ra, anh em dân phòng (thỉnh thoảng) cũng được những người dân thấp cổ bé miệng xì ra cho “vài đồng” tiền lẻ để bôi trơn mấy việc linh tinh. Đôi khi, món “quà lót tay” đơn giản chỉ là “một củ khoai còn nóng” từ mấy mẹt quà rong. (Tô Hoài. Chiều Chiều, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội: 1999).

-Thế thôi á?

Vâng, chỉ có thế thôi nhưng đây là một phát kiến tuyệt vời của nước CSVN. Chính phủ gần như không phải chi một xu nào ráo, cũng khỏi phải sắm sửa đồng phục, giầy/dép, hay mũ/nón gì sốt cả – kể cả nón tai bèo – nhưng vẫn duy trì được một lực lượng “trị an” hữu hiệu chưa từng thấy.

Chỉ cần đeo cái băng đỏ vào tay là trở thành ngay đám dân phòng, tháo ra đút túi thì biến ra … quần chúng tự phát. Biến hoá cứ ma nên người dân còn gọi đây là là đám … âm binh hay cô hồn sống!

Dân phòng tác nghiệp. Ảnh: infonet

Sau ngày 30 tháng 4, cùng với ông công an phường, bà tổ trưởng dân phố, anh công an khu vực, chị hội trưởng phụ nữ, đám dân phòng cũng (“nối vòng tay lớn”) vô tới trong Nam. Cung cách sinh hoạt thì vẫn y như ở Hà Nội thôi. Cứ đeo cái băng đỏ vào rồi đi loanh quanh “la liếm” kiếm ăn khắp hang cùng, ngõ hẹp.

Chỉ khác có điều là lực lượng dân phòng ở thành phố Hồ Chí Minh (quang vinh) không chịu ăn khoai, hay sắn luộc. Họ quen với món “cơm tấm bì sườn” truyền thống ở vùng đất trù phú này rồi, theo như tường thuật của nhà báo Thụy Du:

Nhân dịp ông Bí thư thành ủy – Đinh La Thăng vi hành xuống địa phương. Du tôi có bài phỏng vấn bỏ túi với bà con lối xóm:

     – Chào chú Năm hưu trí, đón nhận tin này chú thấy thế nào?

     – Tao đang lo vụ này nè! Trên phường họ có cho biết là đầu tuần này là ông ấy xuống kiểm tra. Đề nghị một vài cán bộ lão thành chuẩn bị tinh thần, nếu ông Thăng có hỏi thì lựa lời nói tốt cho địa phương.

     – Vậy chú lo cái gì?

     …

Anh Tư taxi đang ngồi cà phê gần bên liền lên tiếng:

     – Thế mà cũng gọi là nhà báo. Mày có thuộc câu này chưa: “Cướp đêm là giặc. Cướp ngày là … vừa nói anh Tư vừa chỉ tay về hướng một nam thanh niên mặc quân phục cảnh sát đi cùng ba chú dân phòng lớn tuổi đang gom bàn ghế của quán cháo vỉa hè”. Ở đâu cũng vậy, với đám này thì không có hụi sống, chỉ toàn hụi chết mà thôi. Khốn nạn là bà con vừa đóng tiền mà còn phải năn nỉ để được chúng nó nhận.

Em Hai cơm tấm xen vào:

     – Đâu phải chỉ có vậy. Có hôm bán ế quá, vậy mà mấy ông dân phòng chạy xe máy ra lấy gần chục hộp cơm sườn, nói là phường họp đột xuất, kêu mình ủng hộ miễn phí. Anh nhà báo thấy có tức không? Có muốn từ chối cũng không được.

Với kiểu ủng hộ (“muốn từ chối cũng không được”) này thì những đĩa cơm sườn đến tay người mua, tất nhiên, sẽ đều phải xén đi chút xíu. Thu nhập của người bán, đương nhiên, cũng bị bớt lại đôi phần.

Tuy nhiên, theo tôi, em Hai cơm tấm không nên vì thế mà bực tức (hay “bức xúc”) làm chi, cho má nó khi. Cứ coi như là một kiểu đóng thuế đi,  thuế gián thu. Hay nói cách khác là “khéo thu” hay “thu khéo.” Nhà Nước móc túi thiên hạ – một cách khéo léo – bằng tay của đám dân phòng để duy trì một lực lượng hùng hậu nhưng không cần phải trả đồng tiền lương nào cả.

Mà lương tháng ở Việt Nam, nếu có, cũng chỉ đủ cho công nhân viên sống cỡ 10 ngày là hết. Bởi vậy, việc “thu khéo” (hay “thu thêm”) không chỉ xẩy ra ở vỉa hè Sài Gòn hay Hà Nội.

Thuế gián thâu được thâu khắp chốn, bằng nhiều tên gọi khác nhau (bôi trơn, hối lộ, tham nhũng) tùy theo từng chuyện. Riêng chuyện chung chi lặt vặt xẩy ra ở phi trường, hay trên đường phố (khi bị các anh hùng núp tuýt còi) thì được coi như là tiền mãi lộ, chớ không phải hối lộ – như Thiếu tướng Nguyễn Văn Tuyên, Cục Trưởng Cục CSGT, đã xác nhận.

Cái nước mình nó thế nên toàn dân cứ thế mà chi. Không (nghe) ai phàn nàn hay la lối gì ráo trọi, trừ những kẻ sống ở nước ngoài – theo như tin loan của BBC:

“Một nhóm những người gốc Việt Nam đang sống ở Đức và châu Âu đã tổ chức biểu tình trước Tổng Lãnh sự quán Việt Nam tại Frankfurt am Main, Đức chiều ngày 25/9 yêu cầu chấm dứt lạm thu và thói cửa quyền.”

Sự việc vô cùng đáng tiếc này lẽ ra đã không xẩy ra nếu người dân có chút thông hiểu (và thông cảm) hơn với đời sống của giới nhân viên sứ quán.

Như đã thưa, không có chuyện “lạm thu” ở bất cứ cơ quan công quyền nào thuộc nhà nước Việt Nam. Đây chỉ là một thứ thuế gián thu, và cũng là chuyện chẳng đặng đừng, theo lời của ông Đặng Xương Hùng – cựu lãnh sự Việt Nam tại Geneve – trong một cuộc phỏng vấn dành cho blogger Nguyễn Thị Từ Huy (RFA) vào hôm 26 tháng 7 năm 2016:

Câu chuyện visa cụ thể là thế nào, thưa ông?

Chuyện visa, khi tôi tiết lộ những chi tiết cụ thể, tôi biết những người bạn tôi ở Bộ ngoại giao chắc sẽ trách tôi nhiều lắm. Vì rằng chỉ mới ba, bốn năm nay thôi, tôi vẫn còn sống vì nó và kiếm ra đồng tiền vì nó. Nhưng cái lòng tôi muốn nói ra vì rằng tôi có một người bạn còn trẻ ở Bộ mới lần đầu ra nước ngoài và khi tiếp xúc với câu chuyện visa, đã thốt lên rằng“Thu tiền lệ phí visa như thế làm mất uy tín của Bộ Ngoại giao quá anh nhỉ”. Tôi đã trả lời: Đi công tác ở sứ quán, không có tiền chia từ visa, mình không còn thừa ra đồng nào để mà tiết kiệm đâu em ạ. Rồi em sẽ quen dần thôi”.

Và vì rằng cả hai chúng tôi đều cùng một ý nghĩ là thà nếu nhà nước cho chúng tôi hưởng một chế độ tiền lương chính đáng tương đương nào đó, còn hơn là dành cho chúng tôi một “chế độ mập mờ” để chúng tôi phải “gian dối”” trong lệ phí visa.

Cũng theo ông Đặng Xương Hùng thì công chức bộ của Bộ Ngoại Giao “chỉ có lương cơ bản chừng khoảng 500 USD/ tháng.” Với số tiền nhỏ nhoi này mà một nhân viên thuộc Toà Tổng Lãnh Sự ở Houston dùng để ăn sáng thì có thể dư nhưng ở San Francisco thì chắc thiếu, còn ở Washington (D.C) thì thiếu chắc!

Bởi vậy, “mập mờ và gian dối” là chuyện tất nhiên. Và hống hách là hệ quả tất yếu. Cái thái độ thường bị “hiểu lầm” là “cửa quyền” của các ông/bà quan sứ của nước ta, chả qua, chỉ để khoả lấp cái mặc cảm do những việc làm khuất tất của họ mà thôi.

Biểu tình chống lạm thu, đòi minh bạch hóa các thủ tục lãnh sự tại Frankfurt – CHLB Đức. Ảnh & chú thích: Dân Luận

Có cậu dân phòng nào mà muốn hạnh hoẹ mấy cô hàng rong chỉ để được ăn (không) một củ khoai luộc hay một đĩa cơm sườn đâu, nếu họ nhận được đồng lương tử tế đủ chi cho thực phẩm hàng ngày. Những viên chức của Bộ Ngoại Giao cũng thế. Họ cũng muốn làm việc một cách đàng hoàng, công chính chứ, nếu được trả lương đủ sống.

Tôi nói chẻ hoe ra như thế với hy vọng có sự thông hiểu (và thông cảm) hơn giữa người dân và giới nhân viên sứ quán để chúng ta khỏi mất thời giờ vào việc biểu tình nữa. Vô ích!

Đối với nhà đương cuộc Hà Nội thì lạm thu không phải là quốc nạn mà là quốc sách. Nạn “lạm thu và cửa quyền” sẽ không thể nào chấm dứt, nếu cái chế độ (khốn nạn) hiện hành vẫn còn tồn tại.

Câu chuyện về cuộc đời.

Xin giữ gìn tình bạn.

Câu chuyện về cuộc đời.

Đời người ngắn ngủi, quá khứ rồi cũng trở thành kỷ niệm. Nếu như có thể, mỗi dịp năm mới đừng quên họp mặt lớp, gặp mặt bạn học, ôn lại tình bạn xưa.

Có lẽ bạn đang bận rộn với gia đình, sự nghiệp. Hay có lẽ bạn cảm thấy mệt mỏi trước áp lực dòng đời. Cũng có lẽ hoàn cảnh xã hội của chúng ta không như nhau. Và có lẽ tính tình chúng ta có đôi chỗ khác biệt. Nhưng cho dù thế nào, hãy tin tưởng dù xã hội có thay đổi, dòng đời có trôi mau, thì tình bạn mãi mãi không phai mờ, và cũng không bao giờ thay đổi.

tinh-ban-1

 

 

 

 

 

 

 

Không chăm vào lợi ích vật chất, không lợi dụng lẫn nhau, đó là viên ngọc quý mà  bạn tặng cho nhau. Vậy còn chần chừ gì nữa mà không đến với nhau  để ôn lại thời kỳ vàng son?

10 năm, 20 năm, 30 năm, hay thậm chí 40 năm, 50 năm, họp mặt sẽ trở thành bữa tiệc của cuộc sống, để chúng ta chợt nhận ra rằng, dẫu cuộc đời trôi qua như mây khói, nhưng tình bạn là  cao quý.

tinh-ban-2
Người xưa có câu: “Tu trăm năm mới ngồi cùng thuyền, tu nghìn năm mới ngủ chung gối, tu năm đời mới học cùng  lớp.”

Các bạn học của tôi, giữa biển người mênh mông, chúng ta không sớm gặp nhau, biết đâu khi chúng ta muốn lại khôngđược. Đừng đánh mất cơ hội trùng phùng, hạnh ngộ bạn nhé.

tinh-ban-3

 

 

 

 

 

 

 

 

Thời gian dần trôi qua, sân trường xưa đã trở thành dĩ vãng, nhưng mỗi lần nhớ lại thời đi học, ta lại xao xuyến, bồi hồi, xúc động.

Tình bạn là thuần khiết nhất, mộc mạc nhất, cao quý nhất, xúc động nhất, lãng mạn nhất, kiên cố nhất, vĩnh bền nhất. Cùng học chung lớp, vui thì cười, giận thì mắng, dỗi hờn thì quay mặt lặng thinh.. Hôm nay ngồi nhớ lại chuyện xưa, có lẽ bạn và tôi đều mỉm cười mãn nguyện.

tinh-ban-4

Các bạn học cũ của tôi, cảm ơn các bạn đã làm bạn với tôi những năm tháng ấy, để cho tôi học cách yêu thương và trân trọng. Trân trọng một thời thanh xuân, rạng rỡi. Cầu mong các bạn mạnh khỏe,  chân cứng đá mềm, cầu mong chúng ta  cùng biết quý trọng tình bạn mãi mãi cho đến trọn đời!

Nguồn internet.