Cầu nguyện cho các Linh Hồn

 Cầu nguyện cho các Linh Hồn

Dòng Tên Việt Nam

Man Mourning at Graveyard

Nhớ đến các linh hồn, cầu nguyện cho họ và cầu nguyện với họ giúp mình nhớ về nhiều điều.

– …nhớ về thân phận của mình. Ai trong chúng ta rồi cũng sẽ đến lúc trở về cát bụi và đến với Chúa. Mình sống tiếp phận người của mình ra sao đây?
– …nhớ về những người thân yêu, thân quen đã qua đi…nhớ lại những kỷ niệm thật đẹp với họ. Cuộc sống mình là chuỗi những tình thương yêu mình nhận lãnh từ họ. Mình làm cho tình thương yêu đó tiếp nối trong cuộc đời mình thế nào đây?
– …nhớ về những người đã khuất nhưng vẫn còn đó nỗi buồn hay đổ vỡ mà mình chưa hàn gắn được. Mình cũng đã góp phần làm ra những đổ vỡ đó, mình hàn gắn lại thế nào và không lập lại kinh nghiệm đó trong cuộc sống hiện tại ra sao?
-…và sâu nhất là nhớ về Tình Yêu Chúa đang dành cho mỗi người. Hỏa ngục không phải do Chúa làm ra, vì Chúa là Sự Sống sao lại muốn con người phải chết. Luyện ngục không phải là hình phạt của Chúa, vì Chúa là Sự Sống luôn tạo cơ hội để mỗi người có được sự sống của Chúa; nên khi các linh hồn chưa chia sẻ trọn vẹn sự sống của Chúa như các Thánh thì họ có cơ hội Chúa ban nơi thanh luyện. Chúa yêu mỗi chúng ta thế đó.

Chúng ta cầu nguyện cho các linh hồn không phải để thay đổi Chúa theo ý mình mong. Chúng ta cùng cầu nguyện với và cho các linh hồn để mỗi chúng ta và các linh hồn nơi thanh luyện tiếp tục mở lòng nhận tình yêu của Chúa để thay đổi.
Ước mong bạn và tôi được thanh luyện mỗi ngày trong tình yêu của Chúa, và nhớ hiệp ý cầu nguyện cho/với các linh hồn trong tháng 11 này.

Sĩ Nghị, SJ

VN cần 480 tỷ đô la để tái cơ cấu kinh tế khi nợ công sắp chạm trần

VN cần 480 tỷ đô la để tái cơ cấu kinh tế khi nợ công sắp chạm trần

Tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam (2)

Tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam (2)

Trong bối cảnh nợ công Việt Nam gần chạm ngưỡng 65% GDP, Việt Nam dự định chi hơn 10 triệu tỷ đồng – tức là gần 480 tỷ đô la – cho kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế.

Bộ trưởng Kế Hoạch và Đầu Tư Nguyễn Chí Dũng vừa báo cáo với quốc hội về đề án tái cơ cấu nền kinh tế trong giai đoạn từ nay đến năm 2020. Ông cho biết kế hoạch này cần khoảng 480 tỷ đô la. Truyền thông trong nước đưa tin, kế hoạch này đang gây ra những tranh luận trái chiều và về liệu số tiền lớn như vậy sẽ được huy động từ đâu khi ngân sách quốc gia hạn hẹp do nợ công tăng cao.

Phương án tái cơ cấu kinh tế được đề ra vào năm 2013 nhưng theo tiến sĩ kinh tế Lê Đăng Doanh kế hoạch này đã không được thực hiện hiệu quả do không có đủ phương tiện, và đụng chạm tới các nhóm lợi ích.

Theo tiến sĩ Doanh, tái cơ cấu là chuyển đổi số vốn được đầu tư từ lĩnh vực không hiệu quả sang lĩnh vực khác và chủ yếu là cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước. Việc cồ phần hóa doanh nghiệp nhà nước đã được đẩy mạnh trong tháng qua sau khi chính phủ quyết định bán toàn bộ cổ phần trong 2 doanh nghiệp nhà nước lớn nhất trong lĩnh vực đồ uống – Sabeco và Habeco. Theo tiến sĩ Doanh, nhà nước đã thu được hơn 6.500 tỷ đồng từ cổ phần hóa Sabeco, Habeco và Vinamillk và nếu tiếp tục thực hiện như vậy thì phương án tái cơ cấu kinh tế là khả thi.

Tuy nhiên tiến sĩ Doanh đã chỉ ra những khó khăn và trì trệ của việc thực hiện đề án này trong những năm qua.

“Khó khăn và trì trệ có liên quan tới lợi ích nhóm ở các doanh nghiệp nhà nước. Các doanh nghiệp nhà nước này có các lợi ích nhóm và họ không muốn cổ phần hóa. Nếu họ cổ phần hóa rồi họ cũng rất chậm không chịu ghi danh lên thị trường chứng khoán vì lên thị trường chứng khoán đòi hỏi có tiêu chuẩn về công khai minh bạch và người ta sẽ giám sát chặt chẽ hơn.”

Theo tiến sĩ Doanh, lợi ích nhóm không chỉ có trong những doanh nghiệp đó mà nó là “một đường dây mà có câu kết với các quan chức ở các bộ ở trên và không chỉ có một bộ. Năm 2013, thủ tướng lúc đó là Nguyễn Tấn Dũng đã đề ra phương án đầy tham vọng cổ phần hóa 435 doanh nghiệp nhà nước trong vòng 2 năm nhưng không thực hiện được, và theo ông Doanh “điều đó chứng tỏ rằng lợi ích nhóm và các trở lực vẫn rất là lớn.”

“Vì vậy cho nên việc tái cơ cấu này sẽ phải gắn liền với việc cải cách thể chế chính trị và việc phải công khai minh bạch và phải giám sát chặt chẽ quá trình quản trị của nhà nước.”

Khi thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc lên thay ông Dũng đã tuyên bố rằng “người nào không cổ phần hóa thì người đó sẽ bị thay thế.” Tiến sĩ Doanh cho đây là một dấu hiệu tốt cho sự đổi mới.

“Chứng tỏ rằng là ở đây sẽ có các biện pháp tôi hy vọng là sẽ có hiệu quả hơn, mạnh mẽ hơn để tác động đến cái lợi ích nhóm đấy.”

Một trong 3 mục tiêu của đề án tái cơ cấu kinh tế là tái cơ cấu đầu tư công nhưng theo tiến sĩ Doanh quá trình đầu tư công ở Việt Nam bị gắn với các lợi ích nhóm trong nhiều ngành và nhiều dự án công nên đã không hiệu quả.

“Cho nên cái đó phải có sự công khai minh bạch tức là phải có 1 luật đầu tư công mới và phải có sự giám sát độc lập và quy trách nhiệm. Nhược điểm lớn nhất của Việt Nam hiện nay là quá trình đó thường được quyết định bởi một nghị quyết tập thể. Những cái gì khó khăn thì người ta đưa ra quyết định tập thể. Và đấy là một điều rất là không rõ ràng và thiếu trách nhiệm ở cơ chế hiện nay. Và đấy là điều cần phải sửa trong thời gian sắp tới.”

Một trong những đề xuất về việc huy động nguồn vốn cho đề án tái cơ cấu kinh tế của chính phủ là kiều hối. Giáo sư Nguyễn Thiện Nhân tại phiên họp quốc hội hôm 3/11 đã đề xuất “phát huy tốt nguồn vốn nước ngoài thì trong đó kiều hối rất đáng quan tâm.” Theo kết quả nghiên cứu của CIEM công bố đầu năm 2015, lượng kiều hối Việt Nam nhận trong 14 năm là trên 90 tỷ đô la, dòng vốn lớn thứ 2 chỉ sau vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI và lớn gấp đôi vốn viện trợ phất triển ODA. Tuy nhiên tiến sĩ Doanh cho rằng điều này là không khả thi bởi huy động kiều hối không theo cơ chế thị trường.

“Điều đó là không tưởng. Nếu như vận dụng biện pháp như vậy (huy động hành chính) thì sẽ rất không có hiệu quả, thậm chí còn phản tác dụng.”

Với lượng kiều hối 12 tỷ đô la chảy vào Việt Nam mỗi năm, chiếm khoảng 8% GDP, nó được coi là nguồn lợi nhuận dòng từ nước ngoài gửi về. Nhưng theo đánh giá của các nhà kinh tế và tài chính, kiều hối sẽ trở áp lực cho nền kinh tế khi nền kinh tế không có khả năng hấp thụ nó. Và nhà nước hiện không kiểm soát được kiều hối về Việt Nam vì không được đầu tư theo định hướng.

Tôi tưởng như mình vừa sống lại,

 Suy Tư Tin Mừng Tuần thứ 32 thường niên năm C 06/11/2016

 Tin Mừng (Lc 20: 27-38)

Có mấy người thuộc nhóm Xađốc đến gặp Đức Giêsu. Nhóm này chủ trương không có sự sống lại. Mấy người ấy hỏi Đức Giêsu: “Thưa Thầy, ông Mô-sê có viết cho chúng ta điều luật này: Nếu anh hay em của người nào chết đi, đã có vợ mà không có con, thì người ấy phải lấy nàng, để sinh con nối dòng cho anh hay em mình. Vậy nhà kia có bảy anh em trai. Người anh cả lấy vợ, nhưng chưa có con thì đã chết. Người thứ hai, rồi người thứ ba đã lấy người vợ goá ấy. Cứ như vậy, bảy anh em đều chết đi mà không để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết. Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ? “

Đức Giêsu đáp: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại. Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Môsê cũng đã cho thấy trong đoạn văn nói về bụi gai, khi ông gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Abraham,Thiên Chúa của tổ phụ Isaác, và Thiên Chúa của tổ phụ Giacóp. Mà Ngài không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Ngài, tất cả đều đang sống.”

 Tôi tưởng như mình vừa sống lại”,

“tự nghìn kiếp trước nỗi oan-khiên.

Oằn lưng gánh lấy hồn sông núi,

Hiu-hắt trong lòng, đóm lửa thiêng”

(Dẫn từ thơ Sông Nhị)

Mai Tá lược-dịch

Với nhà thơ Song Nhị hôm nay, loài người như đã đổi lốt. Vừa đổi lốt, sống lại tự nghìn kiếp. Với nhà Đạo xưa rày, Người từ cõi chết đã sống lại, rất yêu thương. Tất cả, đều đáp-ứng lời dạy của Đức Chúa. Thiên-Chúa của tình-yêu. Thiên-Chúa của sự sống, diễn-bày nơi sự-kiện Cung Hiến Thánh Đường Thân Mình Ngài, rất hôm nay.

Hôm nay, nhiều người thường hay tỏ bày nỗi ngạc nhiên rất mực, khi khám phá ra rằng Đền thánh Phêrô không phải là Nhà Thờ Chánh Toà của Giáo phận La Mã. Thậm chí, có khách hành hương còn đến đây, để tìm cho ra ngai triều của Đức Giáo Hoàng, tức Giám Mục thành Rôma, vẫn không thấy.

Có người lại cứ tưởng chiếc ghế chạm trổ công phu của thánh Phêrô đặt sau bàn thờ trên cao là ngai triều chính hiệu của ngài, nhưng vẫn lầm. Có người lại nghĩ rằng chiếc ghế di động mà Đức Giáo Hoàng vẫn ngồi, là chính ngai triều. Nhưng, vẫn  không đúng.

Thánh đường Latêranô đích thị là Vương Cung Thánh Đường, của La Mã. Ở nơi đây, có đặt ngai triều của Đức Giám Mục thành Rôma, rất đích thật. Từ thế kỷ IV, Giáo hội dùng nơi này để cung hiến thành chốn thánh dâng Chúa. Ở nơi đây, mỗi năm Đức Giáo Hoàng thường thân hành đến chủ sự các nghi lễ phụng tự, rất long trọng. Và chính ở thánh đường này, ngài uy nghi ngồi trên ngai toà mình để ban huấn từ, giãi bày nhiều điều, cho dân Chúa.

Trong cuộc sống của Giáo hội, nhiều giáo hội ở địa phương cũng đã dùng kỷ niệm cung hiến thánh thiêng trong giáo phận mình, như lễ trọng. Việc cung hiến thánh đường Latêranô, chính là lễ hội toàn cầu, nhằm để nhắc ta nhớ mà hiệp thông với Đức Giáo Hoàng, trên cương vị ngài là Giám Mục thành La Mã. Qua cử chỉ này, ta chứng tỏ rằng giáo hội mình là Giáo hội của chung, tức Hội thánh Công giáo.

Điều đáng buồn, là: đôi khi ta thấy có nhiều người nghĩ họ được phép chọn lựa giữa Giám mục địa phận của mình với Giám mục La Mã. Điều này cũng có ý nghĩa, nhưng không phải tính cách chung, Công giáo.

Nói cho cùng, dù ta có lòng mến mộ Đức Giáo Hoàng riêng biệt nào đi nữa, thì tình cảm riêng tư của ta vẫn không dẫn đến kết quả như một hiệp thông với ngài. Bởi, chỉ có thể hiệp thông với Đức Giáo Hoàng khi có được sự thông hiệp ngang qua Giám mục sở tại của mình, mà thôi. Và, Đức Giám mục địa phận sở tại của ta cũng chủ sự cùng một tiệc Thánh Thể như và với Đức Giám Mục, thành La Mã là Đức Giáo Hoàng.

Trong cuộc sống thường ngày, nhiều người cũng mắc phải những sai lầm như thế, cũng dễ hiểu thôi. Nhiều năm qua, Hội thánh vẫn tập trung vào vai trò của Đức Giáo Hoàng mạnh đến độ chúng ta có thể được tha thứ nếu nghĩ rằng Đức Giáo Hoàng chỉ là Cán bộ Cấp Cao của Giáo triều, và Đức Giám Mục sở tại là Giám đốc hay Thủ trưởng, một chi nhánh. Cho nên, khi Đức Giáo Hoàng ra lệnh “nhảy lên”, thì ta lại hỏi: “Thưa, cao cỡ nào cơ?”. Vấn đề này xem ra hơi giống thái độ của những người bảo hoàng hơn vua, có lịch sử của Hội thánh, tương tự như thế.

Chính vì thế, Công Đồng Vatican II đã làm sáng tỏ vai trò của Đức Giáo Hoàng trong việc cai quản, giáo huấn và thi hành luật pháp, trong Giáo hội. Minh định của Công Đồng đã thận trọng nhằm hồi phục chức năng đúng đắn khi xưa về cương vị lãnh đạo của Đức Giáo Hoàng. Công Đồng cho thấy, việc cai quản, giáo huấn và thi hành giáo luật luôn chứa đựng một bối cảnh, có từ trước.

Công Đồng dạy rằng Đức Giáo Hoàng thực thi cương vị lãnh đạo như vị thủ lĩnh tối cao trong số các Giám mục. Ngài là vị mục tử mang tính toàn cầu. Là, dấu chỉ của sự hiệp nhất trong Hội thánh.

Và, là người có trọng trách giáo huấn, duy trì và bảo vệ niềm tin của toàn thể Hội thánh, ngang qua phương cách mà ngài xác nhận với những người anh em Giám mục có cùng một trọng trách trong giáo hội địa phương của các ngài. Chính từ đó, nguồn cội của cụm từ “vâng phục” có ý nghĩa của sự việc “lắng nghe một cách cẩn trọng”.

Vì thế nên, trong tiệc thánh hôm nay ta cử hành sự hiệp nhất trong đa dạng, khi ta tập trung nhấn mạnh đến Mẹ thánh Giáo hội đối với các giáo hội Công giáo La Mã, ở địa phương. Cầu mong sao, từ đó ta lĩnh hội được điều tốt đẹp để có quyết tâm với Đức Giám Mục sở tại nơi ta sống. Bởi, ngài cũng là đấng kế vị của các thánh tông đồ. Và, ngài cũng đáp ứng với lời kêu gọi của Đức đương kim Giáo Hoàng giúp ngài nghĩ ra các phương cách khả dĩ thực hiện công việc phục vụ Hội thánh. Đó, sẽ là dấu chỉ lớn lao hơn cho sự hiệp nhất Kitô giáo đối với thế giới nhân trần, trong lai thời.

Cũng cầu mong, cho mỗi người chúng ta nhớ được rằng tinh thần mà Tin Mừng hôm nay muốn tỏ bày chính là sự việc Giáo hội được dựng xây bằng gạch hồ thật đấy; nhưng, Thân Mình Rất Hiển Vinh của Đức Kitô được đúc kết bằng những người con biết sống thực tình yêu thương cứu độ Ngài ban cho thế giới, rất hôm nay.

 Lm Richard Leonard sj biên-soạn

Mai Tá lược-dịch

Ôi ơn đời chói vói,

“Ôi ơn đời chói vói”,
Nhớ khi thân tròn ôm gối
Ba trăm ngày trong gói
Ngóng trông ra đời góp mối chung vui
Ôi ơn đời mãi mãi
Thoát thai theo đời vun xới
Bao nhân tình thế giới
Lớn lên trong vườn ân ái muôn đời.”

(Phạm Duy – Tạ Ơn Đời)

(Ga 1: 14)

Trần Ngọc Mười Hai 

Đành rằng “Ơn đời (bao giờ) cũng chói vói”. Đó là chuyện đương nhiên, không cần cãi vã làm chi cho tốn “calôri”. Thế còn, “Ơn Người” thì sao? “Ơn Người” có kể rõ ra là: ta chỉ có mỗi “300 ngày ôm gối” mà thôi không? Đó, mới là vấn-đề mà nhiều người và tôi, hôm nay từng lên tiếng hỏi. Hỏi hết mọi người, cả những người trong Đạo/ngoài đời, đại loại những lời như thế.

Bần đạo bầy tôi hôm nay, có đưa ra đôi ba câu hỏi tương-tự cũng chỉ vì mới được đọc lại đoạn trích-dẫn ở cuốn sách bàn về “Niềm tin, nỗi niềm xuất tự con tim”, nên mới hỏi. Hỏi, là hỏi rằng: Thiên-Chúa đã ban nhiều ân-huệ cho bạn và cho tôi, Ngài có dựa vào công-lênh, tài-cáng gì của tôi hoặc của bạn không? Và, câu trả lời lại đã do cha giáo Kevin O’Shea CSsR từng giảng dạy ở bài giáo-án ngày hôm ấy, vẫn bảo rằng:

“Thiên-Chúa phú ban chính mình Ngài, chẳng vì ta có được cung-lòng hoàn-hảo để đón tiếp Ngài vào nơi đó mà ngự đâu. Bởi, chẳng ai có được khả-năng đón-nhận Ngài hết. Bản thân ta, chẳng khi nào có được cung lòng tốt lành để làm như thế. 

 Thiên-Chúa, Ngài ban chính Mình Ngài bằng vào thân-phận chưa từng có ai đón tiếp cái quyền-hạn được ở lại nơi đó cho đến khi ta chấp-nhận sự việc ấy mà thôi. Và, nếu có ai ngạc-nhiên sửng-sốt về chuyện này thì cũng tựa hồ như ta đây luôn có mặt ở nơi đó, kể từ ngày mình sinh ra và Chúa lại cũng ban cho ta ân-huệ tuyệt-vời, theo qui-cách vào nơi này/lúc ấy, thôi.

 Tôi vẫn muốn thêm thắt ở đây đôi điều, để nói lên rằng: có lẽ ta sẽ nói với nhiều người tốt lành/hạnh đạo là: ta vẫn muốn kiếm tìm Chúa. Nhất thứ, là khi ta lại cứ coi như mình lâu nay tìm kiếm một Đức Chúa mà chẳng bao giờ thấy được Ngài. 

 Thay vào đó, tôi đề nghị: ta hãy thay thế chuyện ấy bằng việc nhận ra rằng: chính Chúa mới là Người hằng đi tìm ta, đã thấy ta và rồi Ngài lại đã công-nhận ta là dân/con của Ngài. Thế nên, ta lại cũng hiểu rằng: việc này có thể chiếu rọi một vài lằn sáng lên nhiều sự việc.

 Nền thần-học của ta có nguyên-tắc căn-bản được mọi người gọi đó là tính ưu-việt của ân-huệ. Chính ra, ta phải gọi đó là tính ưu-việt của ân-huệ Ngài từng ban cho ta, mới đúng. Bởi, ân-huệ sẽ là chuyện trừu-tượng không thể có, nếu nó không được ban/tặng, riêng mình ta. Nỗi kinh-ngạc về chuyện này nằm ở điểm: Ân-huệ ấy “đã” được ban cho ta từ lâu rồi. 

 Thành thử, sống trong trời đất, chẳng có gì gọi là bản-chất vô-huệ, hết. Tự thân, ta chẳng có được tính chất khả-thi vốn dĩ là của Chúa. Nhưng thật ra, ta không có khả-năng đến với Chúa  -và như thế, ta cần được Ngài ban thêm huệ-lộc cộng thêm vào với những gì hiện giờ ta không có. Nếu sự thể là như thế, thì huệ và lộc Trời ban, lại sẽ là “tư-duy” ta có sau này về phần riêng của Thiên-Chúa, mà thôi. 

 Nói cách khác, có lẽ Chúa cũng chẳng tạo nên ta một cách đúng-đắn, ngay từ đầu. Ân và huệ theo sử-tính, cũng chẳng là món quà và là thứ tặng-dữ Ngài ban cho ta, mãi về sau; mà Thiên-Chúa đã cưu-mang ta ngay trong ân và huệ của Ngài, ngay từ đầu rồi. Rõ ràng là thế.

 Ân và huệ, không là thứ gì đó tuyệt-đối ta không ngờ từ trước. Tất cả, chẳng phải vì Ngài đã có món nợ đó đối với ta, mà về phần mình, ta chẳng xứng-đáng được như thế. Và có lẽ, ân và huệ cũng chẳng ban cho một số đấng bậc của ta, nơi ta sau này, nếu như ta chứng-tỏ được mình là kẻ tốt lành/hạnh đạo. Nhưng, ân và huệ, tự nó, vẫn có đó nằm sẵn trong bản-thể của ta là con người bằng xương bằng thịt, ở đời.

 Bản-chất con người, lúc nào/bao giờ cũng gồm tóm ân và huệ, rất tự-thân. Và, ta được tặng ban, hoặc có được khả năng “thấy” Chúa, ngay từ đầu. Thật ra thì, không thể có cái-gọi-là “nhân-loại bình thường” vô ân-huệ. Bản-chất “người”, theo định-nghĩa, bao gồm ân và huệ cũng như khả-năng thực-thụ được phép “thấy” Chúa. Những gì vừa nói ở trên, không phải là thi-ca/thi-ảnh, mà là cung-cách Chúa tạo-dựng nên ta, con người của chính ta. 

 Tính-chất “người” là ân và huệ. Đó là theo định-nghĩa Thiên-Chúa tỏ-bày/mặc-khải cho ta biết như thế. Ta được cưu-mang một cách không tì-vết ngay trong tâm-tưởng của Chúa. Thiên-Chúa, Ngài đã thẩm-thấu vào bên trong con người của ta ngay trước khi ta hiện-hữu, nữa. Chất “người” là sự hội-nhập và thẩm-thấu tính-chất rất “Thiên-Chúa”.

 Nói cách khác, ta không bắt đầu sự việc như thế một cách tách-biệt và tự-lập hoặc tự mình có thể tìm kiếm Chúa. Và, cả vào khi kiếm-tìm Ngài đi nữa, đôi lúc ta cũng ở trong tình-trạng đã có ân và huệ và đôi khi, cũng lại không thế. Ta đã bắt đầu sự sống có ân và huệ, đã ở trong ân và huệ rồi. Chính Thiên-Chúa đã công-nhận và sở-hữu ta ngay từ lúc đầu mà ta chẳng biết, đấy thôi.. 

 Ngay từ đầu, Ngài đã thương-yêu ta. Chính vì lý-do này, mà bản-chất của vật tạo-thành (nói theo ngôn-ngữ tạo-dựng là hành-động của Thiên-Chúa) không chỉ là hiện-hữu hoặc sự việc đang kiếm tìm, nhưng là: “đã ở trong Chúa”. Nói như thế, tức bảo rằng: ta đã được Chúa gặp ta và thấy ta ngay trong bản-chất Ngài, rồi. Thiên-Chúa và tạo-vật, lúc nào cũng ở trong nhau, quyện lẫn vào nhau. Ta có mặt ở đây, không phải để “kiếm tìm” một Thiên-Chúa-đã-có-đó, nhưng là để cảm-tạ Chúa vì ngay từ đầu, Ngài đã đi tìm ta và thấy ta, trong tạo-dựng. 

Có thể nói: Thiên-Chúa là Người đầu-tiên kiếm-tìm và gặp-gỡ ta, từ ngàn đời rồi. Mỗi thế thôi.” (X. Lm Kevin O’Shea CSsR, Niềm Tin, Nỗi Niềm Xuất Tự Con Tim”, www.giadinhanphong.com” nxb Hồng Đức 2016-2017)

Vậy thì, theo tác-giả đây, ta có mặt ở thế-gian này là để cảm tạ Thiên-Chúa chứ không để kiếm/tìm Ngài. Bởi, Ngài đã tìm và gặp ta và ở trong ta ngay vào lúc tạo-dựng nên ta rồi.

Nghe dạy/bảo như thế, bần đạo bầy tôi đây, bèn thấy mình nên quay về lại với nhạc-bản của nghệ-sĩ họ Phạm từng hát về “Ơn đời”, như sau:

“Tim vang còn giây lát.
Hơi run còn thơm ngát.
Dương gian còn trong mắt.
Nghe tiếng hát chưa nhạt tan.
Bao nhiêu là thương mến.

Bao nhiêu là quyến luyến.
Với bao nhiêu niềm xao xuyến.
Đời vắng xa như mẹ hiền.

Ôi một lần nương náu.
Đi trên đời chẳng lâu.
Trong trăm mùa xuân héo.
Tay hái biết bao niềm yêu.
Dăm em sèo nhân thế.

Chưa phai lòng say mê.
Với đôi ba lần gian dối.
Đời vẫn ban cho ngọt bùi.
(Phạm Duy – bđd)

Ơn đời, thì như thế. Ơn Người, sẽ ra sao? Thôi thì, ngay lúc này đây, ta hãy đi vào vườn thượng-uyển có ý/lực của bậc thánh-hiền vẫn từng giảng-dạy và nhủ-khuyên, như sau:

“Chúng tôi đã được nhìn thấy 

vinh quang của Ngài,
vinh quang mà Chúa Cha ban cho Ngài,
là Con Một 

đầy tràn Ân-sủng và sự thật.”

(Ga 1: 14)

Ân và huệ Ngài ban, bao giờ cũng tràn-đầy sự thật. Cái sự rất thật, lại được nghệ-sĩ ở ngoài đời trau-chuốt bằng lời thơ/tiếng nhạc, rất như sau:

“Ôi ơn đời chói vói.
Nhớ khi thân tròn ôm gối.
Ba trăm ngày trong gói.
Ngóng trông ra đời góp mối chung vu.
Ôi ơn đời mãi mãi.

Thoát thai theo đời vun xới.
Bao nhân tình thế giới.
Lớn lên trong vườn ân ái muôn đời.

 Mang ơn đời chăn vỗ.
Dâng cho người yêu goá.
Dâng cây đàn bơ vơ.
Dâng biết bao ân tình xưa.
Mang ơn đời nâng đỡ.

Dâng nấm mồ thô sơ.
Với dâng hương hồn thương nhớ.
Còn vấn vương trong chiều tà.

(Phạm Duy – bđd)

Ân và huệ, vẫn là thứ gì rất quí-báu đáng vấn-vương trong đời. Một đời, có rất nhiều chuyện. Từ, chuyện tình-yêu, hạnh-phúc đến chuyện khổ đau/sầu buồn, đầy-đủ cả. Mỗi chuyện, đều mang ý-nghĩa nào đó cũng sắc bén. Mỗi sự việc xảy đến, như ân và huệ từ trên ban tặng. Có khi, là một cảnh báo. Có lúc, là một phản-hồi khi câu chuyện đà xảy đến.

Để xác-chứng và minh-hoạ những ý/tứ và ý/từ ở trên, thiết tưởng không gì bằng ta hãy mời nhau đi vào vùng trời truyện kể, với ý/lời tưởng chừng như trách-móc, khiếu-nại vì đời mình không như đời người.

Nhưng cuối cùng, có lẽ cũng phải công-nhận với ai đó rằng: “Tất cả là ân-huệ”dù ân đó/huệ đây mang dáng-vẻ của tủi-nhục, hờn đau, cần cố-gắng hơn nữa, để vượt qua.

Cuối cùng, ta cũng phải nhận-chân rằng: ân đâu/huệ đó, có chăng chỉ là ảnh-hình về một đặc-trưng/đặc-thù của huệ/của ân ấy, rất như sau:

“Truyện kể về một bệnh SID xảy ra với một em bé không thoát khỏi lưỡi hái của tử thần, vẫn được mọi người chung quanh tận tình giúp đỡ đến khi chết.

 “Có lẽ trong suốt cuộc đời làm phiên-dịch của mình, gần 20 năm, chưa lần nào tôi thấy khó như lần này và cũng chưa bao giờ tôi không thể dịch được, mặc dù tôi hiểu hết ý bác sỹ nói gì. Một ca hóc-búa. Hôm nay, là ngày ra đi của bé Lam. Tôi chưa một lần được biết cháu, nhưng tôi có duyên may được đưa-tiễn cháu về phía “chân mây cuối trời”. Cuộc đời cháu quá ngắn-ngủi, chỉ 4 tháng, nhưng cháu đã mang đến biết bao cảm-xúc, nỗi-niềm và cháu đã nối biết bao người xa lạ lại với nhau và vào nhau.

 Bé Lam là một ca tôi khó quên. 

 Tôi đang ngồi làm việc thì chuông điện-thoại reo. Một ca cấp-cứu cần tôi phải đến bệnh-viện ngay lập-tức. Lúc đó là 8 giờ tối. Hình như có vụ gì đó liên-quan đến cảnh-sát nên không thể dịch qua điện-thoại như tôi vẫn làm khi có chuyện xảy ra đột-ngột, hoặc vào ban đêm. 

 Tôi nghĩ, chắc là đánh nhau, hoặc các tội phạm đâm chém nhau đây. Thói-quen nghề-nghiệp của tôi là: đi cho nhanh để kịp giờ, không mảy may lo sợ. Thấy tôi, cô y-tá trực đêm vui mừng kéo tôi ra một góc báo trước sự việc.

 Một cháu bé 4 tháng tuổi đã tắt thở, tim ngừng đập, được chuyển từ bệnh-viện địa-phương bằng máy bay trực-thăng lên Bệnh-viện Nhi-Đồng Boston, Massachusetts. Cháu được các bác-sĩ hồi-sức cấp-cứu cho tim đập trở lại, nhưng đang ở trạng-thái nguy-kịch, khả-năng tử-vong rất cao. Tôi được đưa vào phòng bệnh-nhân. 

 Bác-sĩ trực-tiếp cấp-cứu cháu, với gương mặt mệt-mỏi, buồn-phiền báo cho tôi biết có nhiều khả-năng cháu mắc bệnh đột-tử ở trẻ sơ sinh (Sudden Infant Death- viết tắt là SID), hiện nay y-học chưa tìm ra nguyên-nhân căn bệnh này. Bác sĩ đang cố gắng tìm tiếp khả năng khác, liệu có thể cứu-chữa cháu được không. Nhưng kết-luận của ông gần như 99% là cháu không thể qua khỏi.

 Bên giường bệnh, người mẹ trẻ khóc-lóc, lo-âu và hy-vọng. Câu hỏi duy-nhất ba mẹ cháu hỏi trong tiếng nghẹn-ngào là: “Hy vọng được bao nhiêu, thưa bác-sĩ?” Câu trả lời của bác-sĩ: “Cháu khó lòng qua khỏi, tôi chưa thấy được tương-lai của cháu trong lúc này”. Dù vậy, hai y-tá vẫn miệt-mài làm việc, bốn màn hình máy tính treo bốn góc theo-dõi toàn-bộ hoạt-động cơ-thể của cháu bé. Mỗi tiếng “tít, tít” kêu lên, là họ lại liên-tục thao-tác hoạt-động theo chuyên-môn để giữ nhịp tim và nhịp thở của cháu bé. 

 Trên đầu cháu, là các loại dây nhợ, dày đặc các ống dẫn bằng nhựa/mủ, tiếng máy chạy ào ào. Tôi căng hết cả cái đầu mình ra để nghe bác-sĩ nói rồi dịch. Tiếp theo đó, bác-sĩ trực đêm đến hỏi thăm tin-tức hồ-sơ bệnh-án của cháu. Về sau tôi mới biết, họ đã biết kết-cục nhưng vẫn cứ hỏi để cho cha mẹ được yên-tâm về mặt tâm-lý.

 Nhằm giúp-đỡ cha mẹ trong hoàn-cảnh đó, “nhân-viên xã-hội” đến thăm-hỏi, động-viên gia-đình bệnh-nhân. Nhiệm-vụ của họ, là chăm-sóc cả vật-chất lẫn tinh-thần cho gia-đình, chí ít là trong hoàn-cảnh bệnh-nhân đang trong cơn nguy-cấp, hiểm nghèo. Họ cung-cấp phiếu ăn miễn-phí, lo chỗ ngủ cho người nhà của con bệnh. Lúc đó đã 10 giờ đêm, nhà ăn bệnh-viện đã đóng cửa, nên họ cử y-tá ra phố mua đồ ăn về cho bố mẹ cháu bé. Họ hỏi rất kỹ là quí vị thích ăn món gì và họ tận-tình đi mua rồi mang đến.

 Gần 1 giờ sáng, hai cô y-tá mắt đỏ ngầu, vẫn luôn chân/luôn tay chăm-sóc toàn-bộ hệ-thống máy móc đảm-bảo cho cháu bé thở được, theo-dõi nhịp tim. Ba xét-nghiệm não (chụp cắt lớp, đo điện não đồ và chụp MRI toàn-thân người bệnh) liên-tục được tiến-hành. Kết-luận thật đáng buồn: cháu bé mắc chứng đột-tử ở trẻ sơ-sinh, y-khoa thế-giới lâu nay đành bó tay, chưa tìm ra nguyên-nhân của căn-bệnh.

 Cuộc họp đầu-tiên với bố mẹ để chuẩn-bị tâm-lý rằng: tình-thế hết sức nguy-kịch. Nhóm y/bác-sĩ mắt đỏ hoe, đầy cảm-thông, ngồi im lặng lắng nghe một người nói nhỏ nhưng dứt khoát: “Chúng tôi rất tiếc phải thông-báo rằng: tình-trạng của cháu ngày càng xấu, nhưng chúng tôi không đầu hàng, chúng tôi vẫn chiến-đấu để giành giật sự sống cho cháu. Cháu cũng là một “chiến-binh dũng cảm” đang đồng-hành với chúng tôi”. 

 Họ lặng lẽ mang giấy lau nước mắt cho người mẹ. Họ cảm-thông chia-sẻ bằng sự im-lặng và sự tận-tụy với công việc. Họp xong, họ trở lại chăm-sóc cháu bé, với hàng nắm dây nhợ, máy móc quanh đầu, quanh người cháu. Lúc đó là 2 giờ sáng.

 Cuộc họp thứ hai vào sáng hôm sau, gồm bác-sĩ trưởng Khoa Cấp cứu, bác-sĩ chuyên về não-khoa, bác-sĩ và y-tá trực-tiếp điều-trị cho cháu. Cuộc họp này thật khó-khăn. Sau khi giải-thích tình-trạng của cháu bé, nguyên-nhân không xác-định, bác-sĩ nói: “Mặc dù cháu nằm đó, tim còn đập, nhưng cháu không còn nữa. Khả-năng cứu-chữa cho cháu là vô vọng. Bệnh-viện đề-xuất chuyện rút máy trợ thở. Tiếp đó, cháu sẽ hoàn toàn ra đi.” Người mẹ bật lên tiếng nức nở. Họ lại ngồi yên-lặng, cùng bật lên một câu: “Chúng tôi xin chia-sẻ với gia-đình”.

 Cuộc họp cuối cùng sau đó 24 giờ đồng hồ. Vẫn một thông-tin giống như trước. Bác-sĩ chỉ trên màn hình hoành-đồ của não trông gần như một đường thẳng cho thấy: não-bộ đã hoàn-toàn tê-liệt. Bác sĩ giảng giải kỹ lưỡng về căn bệnh SID và đi đến kết luận: hy vọng chỉ là zero. Tiếp theo là ý-kiến gia-đình có chấp-nhận rút máy trợ thở hay không? Nếu có, thì giờ nào sẽ rút máy cho cháu để cháu ra đi được thanh-thản.

 Y-tá đã tìm-hiểu biết được là gia-đình theo Đạo Phật, và họ tìm đọc trên mạng về Đạo Phật, nghi-lễ chôn-cất, hoặc mời thày tới làm lễ ngay tại bệnh-viện. Rồi bàn về qui-trình rút máy trợ thở, bác-sĩ sẽ trao cháu bé cho bố mẹ, cháu sẽ thở hắt ra, hoặc ho lên, rồi tắt ngụm hẳn, da sẽ chuyển sang màu tím tái. Có gia-đình không muốn chứng-kiến cảnh-tượng này, thường đợi bác-sĩ làm xong rồi nhận cháu bé với thân-xác đã bọc kín. 

 Y-tá còn đề-xuất nếu bố mẹ muốn được nằm cạnh con, họ sẽ tìm cho một cái giường, để có thể nằm ôm cháu. Nghe đến đó, thông-dịch đến đó, tôi nghẹn-ngào, vì chỉ mới 4 tháng trước, mẹ cháu cũng đón cháu từ tay bác-sĩ, nhưng là lúc cháu chào-đời. Còn nay, bác-sĩ đưa cháu để bố mẹ được ôm cháu vào những giây phút cuối. Bố mẹ cháu đã từ-chối vì không thể chịu nổi.

 Bác-sĩ dành cho gia-đình mọi sự ưu ái. Khi nào gia-đình sẵn-sàng thì rút máy, cần hỏi gì thì bác-sĩ ở xung quanh sẵn-sàng trả-lời mọi câu hỏi. Việc rút máy trợ thở có thể tiến-hành trong buổi chiều hoặc đêm, hoặc sáng hôm sau. Gia-đình có nhiều thời-gian để bàn tính và định-liệu.

 Cuối cùng, giờ tốt đã chọn, thầy chùa cũng được mời tới. Thời-gian chỉ tình bằng phút và bằng giây thôi. Tôi ra về, khi mọi việc đã bàn-định xong xuôi. 

 Tôi nhìn cháu bé lần cuối, nói với cháu rằng: “Lam ơi, cháu sống ở trên đời này quá ngắn, nhưng cháu đã làm được một sứ-mạng lớn-lao là gắn kết mọi người lại với nhau, cháu làm tôi yêu quý cuộc sống này, cháu là lý-do để tôi nhìn thấy những điều tốt-đẹp còn hiển-hiện quanh tôi, để tôi thấy rõ tính chuyên-nghiệp trong công việc, tính nhân-văn trong lời nói và cách ứng-xử của các bác-sĩ, y-tá và tình người tồn-tại trong mỗi chúng ta. Cám ơn cháu, cầu mong cháu được siêu-thoát. Cháu hãy phù-hộ cho bố mẹ cháu và người thân của cháu nhé”.

 Tôi bị ám ảnh bởi bao nhiêu phức-cảm: đau-thương, ưu-phiền, lành-thánh, tình người và phong-cách làm việc chuẩn-mực và chuyên-nghiệp đến mức khó tin của tập-thể y/bác-sĩ trong một bệnh-viện có lẽ tốt nhất thế-giới. Tôi cứ suy ngẫm làm sao họ có thể có được cách ứng-xử như thế đối với người đồng-loại. Tôi cứ tần-ngần nghĩ đến những lần đi bệnh-viện ở Việt Nam, bị bác sĩ, y-tá đối-xử thiếu tôn-trọng. Tôi băn-khoăn không biết bao giờ xã-hội Việt Nam mình, nhất là những nơi cung-cấp dịch-vụ giáo-dục và y-tế, có được tính-chất chuyên-nghiệp như thế này.

 Ba tháng sau, bệnh viện gọi điện cho tôi, nhờ tôi dịch qua điện-thoại cho họ với cha của bé Lam. Họ thăm hỏi, chia buồn một lần nữa và thông báo là gia đình được miễn hoàn-toàn viện phí và bệnh-viện cũng hỗ-trợ tiền mai-táng cho cháu. Họ cầu chúc cháu an-nghỉ và chia buồn cùng cha mẹ cháu.”  (Le Phan theo vietbf.com)

Vâng. Tình người hoặc cung-cách cảm-tạ ân-huệ Chúa ban đã thể-hiện qua nhóm bác-sĩ đã săn-sóc bé Lam rồi. Vâng. Có rất nhiều dấu-hiệu nêu rõ ân và huệ trong đời người. Một đời có nhiều thứ để nhớ, nhưng vẫn quên. Và đời người, vào hôm trước lẫn ngày nay, vẫn còn rất nhiều thứ lại cứ hay quên cả những điều hệ-trong trong đời, vẫn rất ân và rất huệ.

Ân và huệ, là những thứ tạo nên cốt-cách cuộc đời, cho con người. Cho cả tôi lẫn bạn, suốt một đời. Trong cõi nghìn thu, mãi mãi vẫn cứ trôi.

Trần Ngọc Mười Hai 

Có nhiều thứ rất hay quên,

nhưng sẽ cố không quên 

những ân và huệ

mà bạn từng làm cho tôi 

cho mọi người.

Ở đời này.  

CÁI GIÁ CỦA CHÂN LÝ

Nhà tu đức học nổi tiếng là Cha Anthony de Melo có viết một bài thơ ngụ ngôn nội dung như sau:

Một hôm lang thang trên đường phố, tôi bỗng thấy có một cửa hiệu với hàng chữ: “Tại đây có bán Chân lý”. Tôi tò mò bước vào hiệu, cô bán hàng niềm nở tiếp đón tôi và hỏi:

– Ông muốn mua loại chân lý nào? Chân lý từng phần hay chân lý toàn diện?

Tôi trả lời:

– Dĩ nhiên là tôi đi tìm thứ chân lý toàn diện. Một thứ chân lý không pha trộn giả dối, một thứ chân lý mà lý trí tôi hoàn toàn đầu hàng vô điều kiện. Tôi muốn có chân lý đơn thuần và toàn diện.

Cô bán hàng nhìn tôi lắc đầu và chỉ sang một cửa tiệm khác, nơi có bán thứ chân lý mà tôi đang tìm kiếm. Người đàn ông đứng coi hàng nhìn tôi với tất cả thương cảm, ông chỉ cho tôi giá biểu món hàng mà tôi muốn mua rồi nói với tôi với một giọng đầy ái ngại:

– Thưa ông, giá của món hàng rất cao.

Đã cương quyết mua cho bằng được chân lý toàn diện tôi liền hỏi:

– Giá bao nhiêu, xin cho tôi biết?

Người bán hàng trả lời:

– Nếu ông muốn mua chân lý này ông phải trả bằng cả cuộc sống của ông.

Tôi ra khỏi tiệm, lòng buồn rười rượi. Tôi nghĩ rằng: Tôi có thể mua chân lý toàn diện bằng một giá rẻ mạt. Thì ra, tôi chưa sẵn sàng để đón nhận chân lý. Tôi vẫn chưa muốn cho đi cuộc sống của tôi. Tôi vẫn còn bám chặt vào những xác tín của tôi.

***

Qúy vị và các bạn thân mến,

Bài thơ ngụ ngôn trên đây hẳn nói lên thái độ của nhiều người trong chúng ta đối với Đấng tự xưng là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Chúng ta chưa tin tưởng đầy đủ và sống trọn vẹn cho Ngài. Là chân lý nhập thể, Chúa Giêsu đòi hỏi nơi con người một sự gắn bó mật thiết với Ngài bởi vì chỉ trong Ngài con người mới có thể biết được mọi mầu nhiệm về Thiên Chúa và về con người.

Là con đường duy nhất, Chúa Giêsu đòi hỏi nơi con người một niềm tin tuyệt đối. Bởi vì chỉ trong Ngài con người mới có thể tìm được cứu cánh của mình.

Là sự Sống đích thực, Chúa Giêsu đòi hỏi nơi con người một tình yêu không chia sẻ. Bởi vì chỉ trong Ngài, con người mới tìm được sự sống, niềm hạnh phúc đích thực.

Được tạo dựng cho Thiên Chúa vốn khát khao chân lý, Thiên Chúa của Tình Yêu và Hạnh Phúc, nhưng con người lại lầm lạc và khốn khổ. Chinh phục được vũ trụ, nhưng con người vẫn lạc lối chưa biết đường về cõi sống. Có được tiền rừng bạc bể nhưng con người vẫn không mua được niềm hạnh phúc đích thực. Chúa Giêsu đã tuyên bố: An tin vào Ngài thì được sống đời đời. Ta là bánh từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời.

Đi theo Chúa Giêsu để xin Ngài chỉ bảo làm cách nào để được sự sống đời đời, nhưng khi nghe Ngài tuyên bố về bán của cải cho người nghèo rồi đi theo Ngài thì chàng thanh niên nhiệt tình, tốt lành kia đã buồn rầu bỏ về.

Con người khao khát chân lý toàn diện, nhưng khi phải đón nhận chân lý ấy con người lại chùn bước vì không muốn chấp nhận những đòi hỏi của chân lý. Chân lý không chỉ để tin mà còn để sống và thực thi.

***

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con, không phải những ai nói: Lạy Chúa, lạy Chúa là đương nhiên được vào Nước Trời mà chỉ có những ai thực thi ý Chúa Cha. Xin cho chúng con luôn biết tìm kiếm và sống theo ý Chúa cho dẫu có phải chịu thiệt thòi mất mát. Xin cho chúng con không chờ đợi một phần thưởng nào khác hơn là biết rằng: Chúng con đang thực thi thánh ý Chúa. Amen!

Ngọc Nga sưu tầm

Anh chị Thụ & Mai gởi

Toàn là cán bộ đảng ta chết! Sao kỳ vậy ta!?

Toàn là cán bộ đảng ta chết! Sao kỳ vậy ta!?

Tò mò (Danlambao) – Trong sự cố “nhà đảng có tang – dân ta ăn mừng” 12 đồng chí phó, trưởng phòng từ nhiều tỉnh thành tụ về một chỗ ăn nhậu, ca hát ô kê trong giờ làm việc, có một chuyện… sao-kỳ-vậy-ta là có tới 12 đồng chí đảng ta đang xỉn chuyển sang từ trần trong số 13 người tử nạn.
Vụ cháy karaoke bao trùm 4 ngôi nhà, trong đó 13 quan chức bị thiêu ở tầng 5 của quán Karaoke 68 ở Cầu Giấy gồm 6 tầng.
Mỗi tầng của quán karaoke này có 2 phòng hát, thế nhưng trừ anh Trần Quốc Khánh là “phó thường dân không đảng tịch” thì không một nhân viên phục vụ, khách hàng nào khác bị nạn trong tất cả các 10 phòng hát của tầng 1, 2, 3, 4, 6. Cũng không có ai bị chết cháy ở 3 nhà bên cạnh. Đặc biệt chỉ có các đồng chí phó, trưởng phòng của đảng ta là bị thiêu.
Bắt thang lên hỏi ông trời
cháy tùm lum chỉ… chết toàn đồng chí ta?
Câu hỏi này chắc sẽ không bao giờ có câu trả lời, tương tự như câu hỏi “làm thế nào mà đồng chí Chi cục trưởng Kiểm lâm Yên Bái là Đỗ Cường Minh đã tự tử bằng cách bắn từ vào đầu từ… gáy?”.
Thôi thì, cứ xem như là các đồng chí ta đã anh dũng hy sinh vì thế lực thù địch vô hình nào đó như là đảng ta vẫn thường cảnh báo và cảnh giác.
04.11.2016

SỐNG LẠI

SỐNG LẠI

song-lai

Trong chương trình “Những điều bạn có thể chưa biết” của đài VTV3 có tường thuật một trường hợp lạ lùng: Một phụ nữ bị nhồi máu cơ tim.  Chị tắt thở.  Chị đã chết.  Nhưng nhiều giờ sau, chị tỉnh lại.  Các bác sĩ hỏi chị đã thấy gì trong thời gian ấy.  Chị trả lời: chị thấy mình như bay bổng lên cao, và từ trên cao chị nhìn xuống thấy các bác sĩ, các y tá đang chăm sóc cho mình, nhìn thấy thân xác mình nằm bất động, nhìn thấy thuốc men, dụng cụ y tế.  Chị cũng nhìn thấy một chiếc giày tennis cũ màu xanh da trời, đế giày bị mòn ở mép trong bàn chân, giây giày màu trắng, đầu một sợi dây thòng xuống dưới đáy giày.  Nghe lời tả rất chi tiết của chị, vị bác sĩ chuyên điều tra băn khoăn để ý tìm kiếm.  Một hôm vị bác sĩ đi qua tòa nhà đối diện nhìn sang bệnh viện, bà giật mình kinh hãi vì thấy ở tầng ba của tòa nhà, trên một gờ xi măng rất cheo leo, có một chiếc giày tennis cũ ai đã đặt ở đó tự hồi nào.  Vị bác sĩ quan sát kỹ lưỡng và thấy chiếc giày giống từng chi tiết với chiếc giày mà người chết kể lại: chiếc giày vải cũ màu xanh, đế giày mòn ở mép trong, dây giày màu trắng, đầu một dây thòng xuống nằm ở dưới đáy giày.

Đó là một trong 1370 trường hợp trở về từ cõi chết mà các bác sĩ Đức và Mỹ đã điều tra.  Theo những người có kinh nghiệm về cái chết này thuật lại thì: Cuộc sống ở “cõi bên kia” hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này.  Và sau khi “chết đi sống lại”, không ai còn sợ chết nữa, không ai muốn kiếm tiền bạc, danh vọng, lạc thú gì nữa.  Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người.  Tất nhiên đây chưa phải là bằng chứng chắc chắn về việc người chết sống lại.  Nhưng nó rất gần với mặc khải của Lời Chúa hôm nay.  Và kinh nghiệm hiếm có của họ rất có thể hữu ích cho ta.  Kinh nghiệm của họ nói với ta hai điều:

1) Có cuộc sống khác ở bên kia cái chết.  Kinh nghiệm của họ phù hợp với niềm tin dân gian, nhất là của người Việt Nam vẫn tin rằng: thác là phế thách, còn là tinh anh.  Vì tin có sự sống ở bên kia cái chết mà chúng ta mới thờ kính tổ tiên, cúng quảy, giỗ chạp.

Niềm tin ấy phù hợp với giáo lý của Chúa.  Khi Môsê thấy Chúa hiện ra trong bụi gai cháy đỏ.  Ông hỏi Chúa là ai.  Chúa trả lời: “Ta là Thiên Chúa của Abraham, Isaác, Giacóp”.  Vào thời của Môsê, Abraham đã qua đời được 5, 6 trăm năm.  Vậy mà Chúa vẫn tự giới thiệu là Thiên Chúa Abraham, tức là Abraham vẫn sống, đang sống bên Chúa.  Vì Thiên Chúa là Thiên Chúa của người sống chứ không phải Thiên Chúa của kẻ chết.

Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu nhiều lần nhắc đến cuộc sống sau cái chết như dụ ngôn người giàu có và Lagiarô, trong dụ ngôn về ngày phán xét, dụ ngôn lúa đồng và cỏ dại.

Theo thánh Phaolô, cuộc sống đời sau mới là đích điểm mà mọi tạo vật nhắm tới.  Trong thư Rôma, Ngài viết: “Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng chờ ngày Thiên Chúa mạc khải vinh quang của con cái Người.  Quả thế, muôn loài đã lâm vào cảnh hư ảo, không phải vì chúng muốn, nhưng là vì Thiên Chúa bắt phải chịu vậy.  Thật vậy, chúng ta biết rằng: cho đến nay, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8,19-23).

Chúng ta rên siết vì cuộc sống hiện tại đầy khổ ải.  Chúng ta mong chờ cuộc sống đích thực ở mai sau.  Đời sống này là thời kỳ thai nghén.  Ta phải chịu đau đớn để sinh vào đời sau.

2) Cuộc sống ở bên kia rất khác với cuộc sống hiện tại.  Khi Chúa Giêsu trả lời người Sadducêô, Chúa Giêsu đã mặc khải ba chân lý.

Chân lý thứ nhất: Chỉ những ai được tuyển chọn mới được vào Nước Chúa.  Sự sống đời sau có đó.  Nhưng không phải ai cũng vào được.  Chỉ có những người được xét là xứng đáng mới được vào.  Trong Phúc Âm, nhiều lần Chúa đã nói tới việc tuyển chọn này.  Chúa sẽ loại chiên ra khỏi dê, lúa tốt ra khỏi cỏ dại, cá tốt ra khỏi cá xấu.  Tiêu chuẩn để chọn lựa là Tám mối phúc, nhất là giới răn bác ái yêu thương.

Chân lý thứ hai: Người ta sẽ giống như thiên thần.  Đời sống trên trời sẽ không có gì giống với đời sống dưới đất.  Sẽ không còn đói khát nên sẽ không cần ăn uống.  Sẽ chẳng có lấy vợ lấy chồng, sẽ chẳng cần sinh con để nối dõi vì người ta không bao giờ chết nữa.  Nếu vậy, trên trời ta có còn là ta nữa không hay ta trở thành một người khác, một kiếp khác?  Thưa, tuy có khác nhưng ta vẫn là ta.  Đứa bé bụ bẫm hôm nay chẳng có gì giống với cái bào thai ngọ nguậy trong bụng mẹ hôm qua.  Nhưng cả hai chỉ là một.  Bà cụ 90 tuổi hôm nay chẳng còn gì giống với cô thiếu nữ mà bà đã là cách nay 70 năm.  Nhưng cả hai vẫn là một.  Chú bướm xinh đẹp nhởn nhơ bay lượn trên khóm hoa hôm nay chẳng có gì giống với gã sâu xấu xí lê la trên đất hôm qua.  Nhưng cả hai vẫn chỉ là một.

Trên trời, ta sống một cuộc sống khác, không ăn uống, không lấy vợ lấy chồng.  Nhưng ta vẫn là ta.  Có khác biệt nhưng vẫn có liên tục.

Chân lý thứ ba: Ta sẽ trở thành con Thiên Chúa.  Sống lại rồi, ta như đứa con bấy lâu phiêu bạt xa quê nay được trở lại nhà cha mẹ.  Tâm hồn luôn bị dằn vặt vì niềm khao khát vô biên, nay mới được no thỏa: Thiên Chúa chính là hạnh phúc lấp đầy được vực thẳm khao khát vô biên của ta.  Thánh Augustinô đã nói: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con cho Chúa, nên lòng con mãi khắc khoải băn khoăn cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa”.  Là con Thiên Chúa, hạnh phúc lớn nhất của ta là được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi.  Sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi là cội nguồn hạnh phúc, nên thánh Phaolô đã nói: “Những đau khổ ta chịu bây giờ không thấm gì so với hạnh phúc sau này ta sẽ được.  Và mọi tạo vật mong tới ngày được giải thoát, không phải lệ thuộc vào cảnh hư nát, để được cùng con cái Thiên Chúa chung hưởng tự do và vinh quang” (Rm 8,22).  Vì hạnh phúc ấy mà tám mẹ con trong bài đọc thứ nhất đã cam chịu mọi khổ hình.

Lời Chúa hôm nay đem lại cho ta bao niềm hy vọng.  Chúa cho ta biết, đời ta sẽ không đi trong bất định, lạc vào hư vô, nhưng đời ta có một cùng đích, đó là trở về với Thiên Chúa là cội nguồn của ta.  Đời ta sẽ không chìm đắm trong đau khổ, nhưng sẽ vươn lên hạnh phúc, hạnh phúc làm con Thiên Chúa, hạnh phúc chia sẻ sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi.  Đời ta như vậy sẽ không đi vào mạt kiếp lụi tàn, nhưng sẽ triển nở trong vinh quang tự do.  Đúng như lời thánh Phaolô nói: “Gieo xuống thì hư nát, mà chỗi dậy thì bất diệt; gieo xuống thì hèn hạ, mà chỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà chỗi dậy thì mạnh mẽ; gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà chỗi dậy là thân thể có thần khí” (1Cr 15,43-44)

Lạy Chúa, xin cho con biết sống ở đời này theo đúng Lời Chúa dạy, để mai sau con xứng đáng được trở nên con của Chúa.  Amen.

ĐTGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Một trong những trường hợp trở về từ cõi chết, đó là trường hợp của mục sư Don Piper, tác giả cuốn sách “Khi Đức Tin Chiến Thắng: Câu Chuyện Có Thật Về Sự Sống Và Cái Chết”, New Yor Times Best Seller, kể về trải nghiệm của mình về những khoảnh khắc của “cuộc sống sau cái chết”.  Mời bạn đón đọc tại đường link:

http://suyniemhangngay.net/ 2016/10/16/khi-duc-tin-chien- thang/

Langthangchieutim gởi

Ðảng CSVN ‘vã mồ hôi’ đối diện nguy cơ ‘tự tan rã’

Ðảng CSVN ‘vã mồ hôi’ đối diện nguy cơ ‘tự tan rã’

Nguoi-viet.com

Ba nhân vật chóp bu của đảng CSVN gồm Nguyễn Phú Trọng (giữa), Nguyễn Xuân Phúc (phải) và Trần Ðại Quang (trái) đang đối diện với nguy cơ tan rã của đảng. (Hình: KHAM/AFP/Getty Images)

HÀ NỘI (NV) – Ðảng CSVN đang lo lắng đối phó với tình trạng “tự chuyển biến,” “tự chuyển hóa” từ trong nội bộ của đảng. Một điều cho thấy đảng chính trị độc tài này ở Việt Nam đang sợ bị tan rã từ trong ra.

Cuộc họp trung ương đảng CSVN vừa diễn ra vào các ngày từ 9 đến 15 tháng 10, 2016. Ngay hôm khai mạc, trang mạng “chinhphu.vn” đăng bản tin thuật lời ông Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng cảnh cáo nguy cơ tan rã của đảng CSVN khi mà tình trạng “tự chuyển biến,” “tự chuyển hóa” từ trong nội bộ của đảng “vẫn chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, có mặt còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn, có thể gây ra những hậu quả khôn lường.”

Trên tổng thế, tại hội nghị này, Ban Chấp Hành Trung Ương của đảng CSVN “thảo luận, cho ý kiến về tình hình kinh tế-xã hội năm 2016, dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2017; một số chủ trương, chính sách lớn nhằm đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện ‘tự diễn biến,’ ‘tự chuyển hóa’ trong nội bộ và một số vấn đề quan trọng khác…”

Tuy nhiên, hôm 31 tháng 10, hai tuần lễ sau khi hội nghị châm dứt, Thông Tấn Xã Việt Nam (TTXVN) đăng tải toàn văn “Nghị quyết Trung ương 4 – Khóa XII” hoàn toàn đề cập đến một vấn đề duy nhất là đưa các giải pháp đối phó với vấn nạn “tự chuyển biến,” “tự chuyển hóa” của “một bộ phận không nhỏ” của đảng CSVN. Nếu không đối phó được, hệ quả tất yếu sẽ dẫn tới sự tan rã của đảng.

Nghị quyết này được phổ biến tới tất cả các “chi bộ” đảng trên cả nước. Nó tố cáo “một bộ phận không nhỏ” các đảng viên CSVN đã nhìn ra sự bịp bợm của đảng. Những kẻ có chức có quyền trong đảng chỉ tận dụng cơ hội để đục khoét, tham nhũng.

Một chuyện chính yếu vốn được lập đi lập lại hàng năm được bản nghị quyết nhắc lại nữa là “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi” nhưng bản nghị quyết nói trên kêu rằng “có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước.” Ðồng thời “tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ không chỉ ở cấp cơ sở mà ở cả một số cơ quan trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty.”

Bản nghị quyết kể ra rằng, “Nhiều tổ chức đảng, đảng viên còn hạn chế trong nhận thức, lơ là, mất cảnh giác, lúng túng trong nhận diện và đấu tranh, ngăn chặn ‘tự diễn biến,’ ‘tự chuyển hóa’; việc đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, tổ chức phản động, phần tử cơ hội, bất mãn chính trị còn bị động, thiếu sắc bén và hiệu quả chưa cao.”

Bản nghị quyết kêu rằng “sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới ‘tự diễn biến,’ ‘tự chuyển hóa’ chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Ðảng và dân tộc.”

Những vấn nạn nêu trên “làm giảm sút vai trò lãnh đạo của đảng; làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của đảng và chế độ,” bản nghị quyết viết.

Bản nghị quyết kêu rằng, “Các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh thực hiện chiến lược ‘diễn biến hòa bình,’ lợi dụng các vấn đề ‘dân chủ,’ ‘nhân quyền,’ dân tộc, tôn giáo và những yếu kém, sơ hở, mất cảnh giác của ta để xuyên tạc, bóp méo tình hình; cổ xúy cho lối sống hưởng thụ, thực dụng, ích kỷ, cá nhân chủ nghĩa; Ðồng thời, cấu kết với các phần tử cơ hội và bất mãn chính trị hoạt động ráo riết, chống phá cách mạng ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn.”

Bản nghị quyết vạch ra những dấu hiệu của “tự diễn biến,” “tự chuyển hóa” trong nội bộ đảng như “Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện ‘đa nguyên, đa đảng’; đòi thực hiện thể chế ‘tam quyền phân lập,’ phát triển ‘xã hội dân sự.’ ‘Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.’ ‘Kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ. Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Ðảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.’ Ðòi ‘phi chính trị hóa’ quân đội và công an.”

 Bản nghị quyết viết tiếp: “Móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; vận động, tổ chức, tập hợp lực lượng để chống phá Ðảng và Nhà nước.” “Phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng đối với báo chí, văn học-nghệ thuật. “Lợi dụng vấn đề ‘dân chủ,’ ‘nhân quyền,’ dân tộc, tôn giáo để gây chia rẽ nội bộ, gây chia rẽ giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa dân tộc và tôn giáo, giữa các dân tộc, tôn giáo với đảng và nhà nước.”

Ðể đối phó lại với nguy cơ tan rã, ngoài nhu cầu “tự phê bình và phê bình” nghị quyết đề ra chủ trương họp tập ở mọi cấp, mọi ngành “tích cực đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của đảng.”

“Hàng năm, người đứng đầu và từng cán bộ, đảng viên có cam kết rèn luyện, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, không suy thoái, ‘tự diễn biến,’ ‘tự chuyển hóa’; các cấp ủy, tổ chức đảng kiểm tra, giám sát việc thực hiện cam kết của cán bộ, đảng viên ở địa phương, cơ quan, đơn vị mình,” nghị quyết nói trên viết.

Ðồng thời với việc đó, đảng CSVN sẽ “tăng cường quản lý, chấn chỉnh hoạt động báo chí, xuất bản, Internet, mạng xã hội. phát huy vai trò, nêu cao trách nhiệm của các cơ quan báo chí, cơ quan chủ quản báo chí trong công tác đấu tranh phòng, chống suy thoái, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, ‘tự diễn biến,’ ‘tự chuyển hóa.’”

Mấy ngày gần đây, người ta thấy nhiều báo trong nước phổ biến một bài viết rất dài của ông Bộ Trưởng Thông Tin và Truyền Thông CSVN Trương Minh Tuấn, “Nguy cơ ‘tự diễn biến,’ ‘tự chuyển hóa’ trong báo chí và giải pháp khắc phục.”

Ông ta lên án giới làm thông tin tuyên truyền phục vụ chế độ tuy ăn lương nhà nước mà lại có “thái độ hai mặt, theo chủ nghĩa cơ hội; tách rời đảng và quyền tự do báo chí; tùy tiện coi báo chí phương Tây là chuẩn mực; báo chí phục vụ nhóm lợi ích.”

Khi đọc diễn văn kết thúc hội nghị Trung Ương 4, ông Nguyễn Phú Trọng thấy kêu ca đảng viên “phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin; nói trái, làm trái quan điểm, đường lối của đảng; thậm chí sa sút ý chí chiến đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, phụ họa theo những nhận thức, quan điểm sai trái, lệch lạc…”

Liệu những cuộc học tập sắp được tổ chức có cứu được đảng CSVN khi cái “bộ phận không nhỏ” cứ lớn lên mãi? (TN)

““ÔNG ĐỘI TRƯỞNG ”

From:  Suong Quynh
 ““ÔNG ĐỘI TRƯỞNG ”

Hạ Đình Nguyên – Phần 1
Thật thú vị, khi tự hỏi: “Ông Trọng thuộc loại người nào?”. Trong khi làm vườn, quét sân, đốt lá, hay nhổ cỏ tôi luôn tự hỏi mình, tôi có thiên kiến, định kiến, thành kiến gì với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chăng, mà cứ nghe ông phát biểu, là tôi bị cảm lạnh hoặc mất ngủ! Mất ngủ mỗi lần nghe ông nói, từ khi ông lên làm Tổng Bí thư cho đến nay. Rồi cố quên ông đi, nhưng mới đây nữa, với Hội nghị Trung ương lần 4 vừa kết thúc, lại phải nhìn ông và nghe ông đọc diễn văn, dù có người bảo, nghe làm gì cho mệt! Vốn là công dân bình thường, rất xa Hà Nội, không quen biết hay quan hệ hay… tư thù cá nhân gì với ông, vậy mà cứ khó chịu. Lại tự hỏi, vì sao ông ấy có thể trở thành Tổng Bí thư của một Đảng có chiều dài lịch sử như thế? Do đâu ông lại được tái nhiệm lần thứ hai? Và vì sao mấy trăm người ở Ban Chấp hành Trung ương lại nhất tề bầu ông? Tôi nghĩ đây là thắc mắc và cũng là nỗi ray rứt của nhiều người, chứ không riêng ai. Có lẽ lời giải đáp mù mờ nhất, mà cũng khả dĩ ổn nhất, ấy là do vận nước đã đến hồi… phải như thế! Có thể ông là nút thắt cuối cùng của một tiến trình suy

sụp “đúng quy trình”? Sự lên ngôi của ông là kết quả của tiến trình đi xuống tiệm tiến 20 năm, và đến ông, liệu là sự kết thúc một thời đại mà ông gọi là “rực rỡ nhất lịch sử”? Và thật là thú vị, khi đọc tựa đề bài viết của tác giả Thuận An cách đây không lâu: “Ông Nguyễn Phú Trọng là loại người nào?“. Đây là một câu hỏi cần thiết, và nó có chút tương ứng cái tính tò mò có sẵn trong tôi về con người nổi tiếng và đặc biệt ấy. Tìm hiểu về ông cũng là điều lý thú, về tính đặc trưng hiếm có ở cá nhân ông, lại bởi ông không phải là người dân đơn thuần, mà là người ở vị trí cầm vận mệnh của đất nước này, theo nguyên tắc ông là người của công chúng. Ngoài cái lý lịch mặt trắng thư sinh(1) từ nhỏ đến lớn ông bám vào con chữ mà nổi lên thành một lãnh tụ số một của Đảng Cộng sản Việt Nam, hẳn ông phải là người thế nào chứ! Ông ấy nổi tiếng về những câu/ý mà ông phát biểu. Nhiều lắm, và rất điển hình. Nhưng chỉ xin dẫn vài điều có thể là đặc trưng về tính cách của ông đang còn gây ấn tượng đậm đà trong dư luận. Đặc điểm 1: Lập trường cách mạng kiên định với tầm thế giới. Sau khi đắc cử chức Tổng Bí thư lần I với lời hứa là sẽ “đột phá” cái gì đó rất lằng nhằng, ông xuất ngoại sang Cuba với bài diễn văn làm chấn động trong chính trường thế giới, đến độ bà Tổng thống Brasil, với vai chủ nhà đứng ra mời khách, đã vùng vằng bực dọc, hủy bỏ chuyến đón tiếp ông mà không xin lỗi tiếng nào. Đoàn đại biểu do ông dẫn đầu phải quay về sớm, chuyên viên trong đoàn phải bở hơi tai đăng ký xin lại lịch trình bay phức tạp qua gần 20 nước. Bài diễn văn độc đáo đã bộc lộ ý chí mãnh liệt của ông: Muốn tái dựng phong trào Cách mạng xã hội chủ nghĩa, ít nhất là ở quy mô các nước đang phát triển, mà Việt Nam đang là tấm gương chiếu sáng (đọc lại bài diễn văn ấy là thấy ngay). Trong khi Liên Xô sụp đổ, Trung Quốc rời bỏ chủ nghĩa xã hội để trở thành chủ nghĩa bá quyền mèo trắng mèo đen, ông nuôi tham vọng đưa Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của ông, sớm trở thành ngọn cờ đầu của phe xã hội chủ nghĩa. Bà Tổng thống Brasil quá mừng rằng đã (suýt) được tiếp xúc với một linh hồn từ thế kỷ 19 mới hồi sinh. Sự kiện này tuy đã thành một sự cố gây dư luận ồn ào trong nước và ngoài nước, nhưng nó biểu trưng tínhcách mạng kiên định nơi ông, như ông đã thấm nhuần trong sách giáo khoa của trường Đảng. Dân gian thường nói: kẻ điếc thì “dũng cảm”, vì không nghe được tiếng súng. Ông đã kiên trì đề cao và nâng niu, trang trí lại cái chủ nghĩa mà nhân loại đã sợ chết khiếp gần thế kỷ nay! Đặc điểm 2: Biểu trưng người miền Bắc và có lý luận. Ở tầm nội trị, để chuẩn bị cho sự thành công Đại hội 12 của mình, ông khoanh vùng về việc bầu cử: “Tổng Bí thư phải là người miền Bắc, phải là người có lý luận”. Và câu nói cũng nổi tiếng: dân chủ đến thế là cùng, vì mọi điều tiếng không hay ông đều bỏ ngoài tai. Buồn cười thật! Đành rằng miền Bắc Việt Nam là có trước miền Nam, dân Việt từ miền Bắc mà Nam tiến theo chiều dài lịch sử mở nước và dựng nước, nhưng đâu đơn giản là kẻ ra đi (Nam tiến) kém hơn người ở lại? Sao ông cả gan dám nói về đề tài mà ông không từng học hành? Tri thức cải biên Lê-Mao của ông không bao gồm môn lịch sử, xã hội học, dân tộc học… Trong lịch sử Việt Nam chưa có một ông vua hay quan nào dám phát biểu như vậy. Trong thời đại này, cái ý tưởng ấy lại càng dị hợm hơn. Nó lạc hậu về mọi loại kích thước. Và lại nữa, phải là người “có lý luận”. Cái lý luận thì xưa nay vốn vô cùng vô tận. Mà thế nào là “có lý luận”? Mà có nhất thiết phải là lý luận Lê-Mao theo cái ông học và cách ông hiểu, mới được gọi là lý luận chăng? Ông muốn kích hoạt cho tinh thần người miền Bắc nhằm tạo vây cánh, hay chỉ muốn loại trừ những người ở phía Nammà lý luận bốc đồng như thế? Đằng nào thì cũng không ổn! Phát biểu ấy, nếu ông sinh hoạt trong một chi bộ nghiêm khắc nào đó, có thể bị kiểm điểm ít nhất là ba ngày chưa xong, và bị hạ tầng công tác, vì ngoài cái tính nói càn, lại mắc phải tội kỳ thị địa phương, gây mất đoàn kết trong bộ Đảng và trong nhân dân. Xóm tôi ở có khối người “có lý luận”, kể cả lý luận Mác-Lê, mà thuộc loại origin nữa, họ học và đọc từ nguyên bản chứ chẳng phải từ sách chế, mà hà tất phải là người Bắc mới có. Mà cũng có cả người Bắc di cư vào từ 1945, 1954, 1975 và liên tục cho đến nay, không thiếu, mà cũng giỏi lý luận lắm. Xác định cái sự “có lý luận” bởi cái bằng “Mác-Lê – Xây dựng Đảng” như ông, thì cũng có người có nốt, tuy ít người thích học, và cũng không dám khoe khoang. Theo ý ông, dù người có lý luận như ông mà không phải là người Bắc là không được, mà dù người Bắc như ông mà không có lý luận – giống như ông – cũng không được. Thì chỉ còn ông thôi, đúng không? Cũng có nhiều người bàn luận về chuyện này, và họ cười ngất trong quán xá và các chỗ vui chơi. Thực tế phải thừa nhận ông là người miền Bắc, và có lý luận – dù cái lý luận ấy ra sao – ông vẫn rất độc đáo và không thể không nổi tiếng: trong lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam, nay mới có một Tổng Bí thư như thế! Đặc điểm 3: Một người không tham vọng quyền lực. Để hướng dẫn/khống chế đại biểu trong chuyện bầu cử Quốc hội, ông đã ra chỉ thị rất ngon lành: “không đưa vào danh sách ứng cử những người có tham vọng quyền lực”. Và cái Chỉ thị 244 do ông đạo diễn đã trắng trợn tước quyền dân chủ của Đảng viên đại biểu: “không được ứng cử, không được quyền chấp nhận đề cử” những ai bị khoanh vùng bởi Bộ Chính trị mà ông là người chủ trì. Đây là chỉ thị để cả Đảng thi hành. Không những chỉ là Quốc hội, ông cũng đã đưa ra tiêu chí này khi tiến hành tổ chức Đại hội Đảng 12. Đi sâu để phân tích cái “Có tham vọng quyền lực” thì tác giả Thuận An đã nói kỹ xin không lặp lại, nay có lẽ cả quan và dân cả nước đang quẩn chân không biết làm sao để chứng minh thế nào là “có tham vọng quyền lực” nằm trong bụng của ai đó để “không bầu vào Quốc hội”? Và không có cái tham vọng ấy thì phải có cái gì thay vào đó chứ? Chắc cái ấy là loại siêu quyền lực xã hội chủ nghĩa vốn rất khó hiểu chăng? Thế mà mọi việc cũng đã xong xuôi. Ông thuyết phục được mọi người trong Đảng, và mọi người trong Đảng đã để cho ông thuyết phục. Điều đáng kinh ngạc lần này là ở cái Đại hội Đảng do ông cầm đầu, đã bầu ông. Liệu có gì bí ẩn bên trong Đảng, hay bên ngoài… biên giới Quốc gia? Chẳng ai tiếc rẻ gì những kẻ ra đi, nhưng lại ngỡ ngàng về người ở lại. Có thể phác họa sơ bộ về ông với bốn điểm đậm đặc sau: – Cách mạng xã hội chủ nghĩa triệt để (cho Thế giới thứ 3) –

Ôsin Ả Rập – S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

 Ôsin Ả Rập

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Ảnh của tuongnangtien

Đi Hà Giang về, nhà văn Vũ Ngọc Tiến buồn rầu cho biết là đã bị một bà lão “cật vấn” như sau:

“Bác sống gần Trung ương, đi nhiều, hiểu rộng hơn mụ nhà quê, hãy chỉ vẽ cho chứ tôi thì chịu. Tôi sống gần trọn một kiếp người vẫn không hiểu nổi vì sao ba đứa con gái mình dứt ruột đẻ ra lại phải bán hết nhà cửa mới đủ tiền nộp cho công ty môi giới trên thị xã, ném con cho bà ngoại chỉ để đi làm đầy tớ bưng bô, hót cứt ở xứ người, hở giời? Ở cái xứ Đài Loan ấy làm kẻ tôi đòi cũng sướng hơn làm người tự do bên ta hay sao?”

Thắc mắc của bà mẹ Việt Nam ở Hà Giang được giải đáp qua một bài báo ngắn (Taiwan Shelter Helps Abused Vietnamese Workers”) của K. Oanh Ha, trên nhật báo Mercury News – số ra ngày 12 tháng 12 năm 2006. Xin trích dẫn một đoạn ngắn:

 “Bà Tạ Thị Giám, 36 tuổi, rời nhà nơi làng quê nghèo nàn ở ngoại thành Hà Nội để lao động cật lực trong một viện dưỡng lão tại Đài Loan, với hi vọng có tiền cho con đi học… Bà đã bị biến thành nô lệ cho người chủ Đài Loan, bị chủ đánh đập, không cho ăn, và buộc phải làm việc cho đến khi gục ngã. Bà Giám cho biết: Họ đối xử với chúng tôi như một con vật, chứ không phải là một con người… vì biết rằng chúng tôi đã lâm đến bước đường cùng, không còn nương tựa vào ai được nữa.”

Bà Tạ Thị Giám. Ảnh: SJMN

“Một phụ nữ khác, 34 tuổi, đang sống ở trung tâm lánh nạn cho biết chị đã bị cưỡng hiếp, nhưng không bao giờ dám công khai nói chuyện đó ra. Chị sợ hai con ở nhà sẽ đau lòng và sợ bị chồng bỏ… Chị nói trong nước mắt: Tôi vét sạch cả tiền của gia đình để đi… Tôi không thể trở về Việt Nam trắng tay được. Tôi phải tranh thủ cơ hội ở đây.

Đây là những câu chuyện đau lòng quen thuộc về thân phận của những phụ nữ Việt Nam đi làm ô sin ở Đài Loan, hồi mười năm trước. Nỗi đau của họ, tuy thế, vẫn “chưa đáng kể” nếu so với lớp đồng nghiệp hiện nay đang sống tại Ả Rập. Nơi mà “hàng chục ngàn lao động nhập cư không được trả lương, phải đi xin ăn và bới rác kiếm thức ăn thừa” – theo tường trình của thông tín viên Tú Anh (RFI) đọc được vào hôm 7 tháng 8 năm vừa qua:

Chính phủ Manila lập kế hoạch cứu trợ pháp lý và nhân đạo để hồi hương nhân công lao động ở Ả Rập Xê Út. Do dầu hỏa xuống giá, từ nhiều tháng nay, hàng chục ngàn lao động nhập cư không được trả lương, phải đi xin ăn và bới rác kiếm thức ăn thừa.

Sau khi Ấn Độ đem 50.000 lao động từ Ả Rập Xê Út về nước, đến lượt Philippines chuẩn bị di tản 20.000 công nhân lâm vào hoàn cảnh khốn khó.

Theo hãng tin Asia News, một phái đoàn chính phủ Manila sẽ bay sang Ryadh vào ngày 10/08 tới đây để trợ giúp khẩn cấp cho 20.000 lao động Philippines đang kêu cứu. Bộ Ngoại Giao Philippines cho biết, phái đoàn chính phủ sẽ thảo luận với Ả Rập Xê Út một giải pháp lâu dài.

Trong khi đó, theo lời bộ trưởng Lao Động Silvestre Bello thì tổng thống Rodrigo Duterte chỉ thị “phải đem hết công nhân về nước, càng sớm càng tốt”.

Tuyệt nhiên không có một bản tin nào, từ bất cứ đâu, đề cập đến những hoạt động “cứu trợ pháp lý và nhân đạo để hồi hương” những công nhân công lao động” Việt Nam. Thảm cảnh của hơn hai mươi ngàn người Việt ở Ả Rập, phần lớn là phụ nữ, chỉ được truyền tải qua những trang FB cá nhân. Xin ghi lại đôi ba:

Su H Gueng. Ảnh: FB

Mọi người ai biết thông tin về gia đình hãy báo cho họ giùm em.
Em tên là: Su H Gueng . Sinh ngày 08/07/1989.
Thôn : qle Mọi người ai biết thông tin về gia đình hãy báo cho họ giùm em.
Em tên là: Su H Gueng . Sinh ngày 08/07/1989.
Thôn : qleoi xã Ayun Hạ. Huyện Phu Thien, tỉnh Gia Lai. Đi xkld sang Ả Rập Saudi qua Cty Nam Việt chi nhánh Thanh hoá. Giám đốc tên Luyến sdt : 0919654476. Sáng nay ngày 25/10 được đưa vào trại tỵ nạn ở Ruyadh với tinh thần kg ổn định , kg có giấy tờ tuỳ thân, đồ đạc với tinh thần không ổn định

 thần kg ổn định . Dt kg có và nhớ dc rằng có mang dt nhưng cắm cho người lái taxi. Và em ghi dc sdt của gd ơ vn lên tay . Nhưng qua sdt kia tôi gọi về kg đúng . Kg biết chủ nhà đối xử thế nào, họ cho uống thuốc gì mà giờ lúc nhớ, lúc kg. Người ngơ ngác . lại bảo muốn về bà chủ nhưng kg nhớ gì. Mọi người ai biết thông tin về gia đình xin báo cho họ giúp em.
Thay mặt em
Hien Truong xin cảm ơn.

See More

Nguyễn Thị Hiền. Ảnh: FB

Kính thưa. .

 tên tôi là. nguyễn thị hiền sinh ngày. 14/02/1983. Quê quán .thôn vinh tứ xã an lão. Huyện bình lục tỉnh hà nam tôi được môi giới cty việt hà giới thiệu sang ảrập xêut .để làm giúp việc gia đình. Trước khi đi tôi có được cty đào tạo và thời gian chờ đợi là 1 tháng đen ngày 15/12/2014 .tôi được cty đua ra sân bay để đến ảrập xêut .thời gian đầu chủ cũng đối sử tốt với tôi lương tháng cũng trả dầy đủ nhưng càng về sau thời gian làm việc của tôi dài .tôi không có thời gian để nghỉ ngơi .ăn uống không đảm bảo .nhiều hôm tôi phải ăn cơm thiu và cơm thừa .các con của chủ nhà rất nghịch và hỗn.nó làm hỏng đồ gì .chủ cũng chửi mắng tôi. Không cho tôi một lời giải thích. Thậm chí còn đòi đánh tôi.

Và những thời gian sau tiền lương không trả và bỏ đói tôi. Tôi muốn gọi về cty giúp đỡ nhưng chủ không cho tôi dùng điện thoại. Lên tôi không liên lạc được với ai hết. Đến ngày 01/07/2015 tôi đã tìm cách chốn ra đại sứ quán kêu cứu.

Tôi đã ở dsq 24 ngày. Đến ngày 26/07/2015 tôi được đsq đưa tôi vào trại đến đã 1năm. Gia đình tôi có liên lạc với cty .nhưng họ không hề giải quyết cho tôi .io tôi bị chủ kiện lần 1 bắt tôi bồi thường hợp đồng là 90 trieu tiền vn.lần 2 kiện tôi 115 trieu tien vn.

Các ban ạ.tôi sang đây để làm việc gia đình tôi rất khó khan chồng tôi chết còn 2 đứa con nhỏ bơ vơ không nơi nương tựa .vì quá bất đắc dĩ lên tôi mới phải bươn chải . tôi viết bài này lên với cộng đồng. Mong chia sẻ giúp đỡ tôi. Đến các cấp có thẩm quyền. Va nhà báo vào cuộc để cứu giúp tôi sớm được về đoàn tụ với 2 đứa con nhỏ cửa tôi. Tôi xin chan chân thành cảm ơn.

Không có nhà báo nào Việt Nam “vào cuộc” hết, đã đành; cũng không có “giới chức thẩm quyền nào” của đất nước này lên tiếng cả.

Ngoại Trưởng Ấn Độ Sushma Swaraj cho biết bộ ngoại giao đã gửi đặc sứ đến thủ đô Ả Rập, và công nhân của họ sẽ được đưa về nước trong vòng hai ngày. Cùng lúc, Bộ Trưởng Lao Động Phillippines, Silvestre Bello loan báo chỉ thị của tổng thống Rodrigo Duterte “phải đem hết công nhân về nước, càng sớm càng tốt.”

Tuyệt nhiên, không thấy ông Phạm Bình Minh và ông Đào Ngọc Dung hé môi hay nhúc nhích một ngón tay nào ráo.

Trang tin tức của ĐSQCHXHCNVN tại Vương Quốc Ả Rập chỉ có một bản tin duy nhất liên quan đến lực lượng lao động VN, đề ngày … 22 tháng 05 năm 2015!

Thứ Tư, ngày 02-11-2016

» 29-03-2016 Đại sứ quán tham gia giải chạy ASEAN 2016
» 30-09-2015 Đàm phán về 3 dự án ODA Ả rập-Xê út cung cấp cho Việt Nam trong năm 2015
» 12-09-2015 ĐẠI SỨ QUÁN VIỆT NAM TẠI Ả-RẬP XÊ-ÚT TỔ CHỨC KỶ NIỆM 70 NĂM QUỐC KHÁNH NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM
» 31-07-2015 Ả rập-Xê út tiếp tục cung cấp 3 dự án ODA cho Việt Nam trong năm 2015
» 22-05-2015 Tăng cường, hoàn thiện mô hình quản lý lao động Việt Nam tại thị trường Ả-rập Xê-út

Gần đây T.T Phillippines Rodrigo Duterte bị dư luận lên án như một “người khùng.”  Tuy thế, ngay sau khi nghe tiếng kêu cứu của dân Phi tại Ả Rập, “người khùng” này đã ra lệnh: “phải đem hết công nhân về nước, càng sớm càng tốt.”

Giới lãnh đạo Việt Nam, may thay, không ai điên/khùng gì ráo. Lú lẫn cũng không luôn. Họ chỉ bị câm hay điếc, hoặc (có lẽ) cả hai.

Từ đôi mắt bò

Từ đôi mắt bò

Ảnh của tuankhanh

Trong hầu hết các vụ quan chức địa phương đến từng nhà tịch thu tiền cứu trợ, với lý do để chia đều cho tất cả mọi người, có một tình tiết đáng chú ý: hầu hết những người bị thu tiền đều bất bình nhưng đành im lặng chấp nhận. Tình tiết này gợi lên nhiều suy nghĩ, đặc biệt rằng quan chức địa phương ở Việt Nam đã trở thành loại cường hào ác bá từ bao giờ, mà không ai dám phản đối công khai.

Hai tiếng nhân dân giờ âm vang xót xa và chịu đựng. Họ là tầng cuối cùng trên đất nước này, bị dẫm đạp, bị tước đoạt mà không hề dám cất lên một lời phản kháng. Số phận con người hèn mọn như ngọn cỏ trong đất nước mà nơi nào hai tiếng nhân dân cũng được đọc lớn, kẻ hoa. Tự nhiên, tôi nhớ đến con bò thoi thóp sống trong mùa bão lụt vừa qua ở miền Trung.

Trong trận lụt kinh hồn táng đởm trung tuần tháng 10/2016, Quảng Bình gánh chịu những đau thương không bút mực nào tả xiết. Những con số đếm giản đơn cho biết cả ngàn ngôi nhà ngập đến nóc, ruộng vườn hoa màu chìm trong biển nước. Gà vịt trâu bò chết lặng theo con nước dâng. Những con số đếm nhạt nhẽo nhưng căng phồng hàng ngàn câu chuyện về sống chết và phận người quẫy đạp để sinh tồn.

Trên các trang mạng xã hội. Người ta chuyền tay nhau bức ảnh vể một con bò, được chủ nuôi treo đầu cao khỏi mặt nước để không chết chìm, nhưng nước thì đã ngập đến mũi. Đây có thể là bức ảnh bao quát nhất, chỉ có cái đầu và đôi mắt tuyệt vọng, mệt mỏi của con vật, nhưng lại như nói hết, gào thét hết được trong thinh không về con người, về quê nhà, về nỗi đau và tương lai.

Không biết bức ảnh mờ nhạt, hay ánh mắt của con bò đã đục dần trong giờ phút hiu hắt của sự sống. Đôi mắt là người ta nhớ đến nhân vật phu kéo xe của Nguyễn Công Hoan. Người đàn ông mệt mỏi, kéo xe kiếm cơm qua ngày, thở dốc với từng ngày sống, mà nhà văn xứ Bắc Ninh mô tả rằng đôi mắt mờ đục, gượng sống như trái nhãn, không còn nhìn thấy tương lai.

Cũng cùng trong ngày tháng đó, thế giới chứng kiến một giải Nobel Văn Chương đến lạ, vì giải được trao cho một người chọn một đời hát rong ở Mỹ. Có không biết bao nhiêu là bất bình cũng như hân hoan trước sự kiện này. Thậm chí những người bảo vệ giá trị văn học, coi việc trao giải thưởng này như một sự sỉ nhục đối với giới cầm bút.

Vì sao Viện Hàn Lâm Thụy Điển lại có một quyết định bất thường như vậy? Tổng thư ký thường trực của Viện Hàn Lâm Thụy Điển là bà Sara Danius nói rằng Bob Dylan đã là người gợi nhớ lại thời kỳ thi ca Hy Lạp cổ, với những cách sáng tác và phổ biến thơ không khác gì các thi sĩ Homer và Sappho từ hơn 2500 năm trước”. Tạm gác lại các điều tranh cãi về đúng-sai. Điều mà Viện Hàn Lâm Thụy Điển quyết định, cho thấy những cái nhìn đột phá và ngẫu hứng. Nó xác định về các giá trị của nghệ thuật trí tuệ không có lằn ranh và định kiến. Sự sửng sốt của những người chứng kiến giải Nobel Văn Chương 2016, không chỉ là kết quả lạ lùng, mà có cả sự phát hiện về quan điểm của Ban tuyển chọn giải Nobel, mà tường chừng đã quá cũ mòn và bị câu nệ bởi các nguyên tắc, cũng như danh tiếng của chính mình.

Cùng một thế giới, cùng một thời gian. Con người ngoài kia mở ra những thách thức và tranh cãi về trí tuệ. Mở ra những lý luận mới về giá trị tinh thần và tương lai. Còn ở nơi đây, Quảng Bình quê chúng ta, người ta chỉ còn loay hoay và cuống cuồng nghĩ ra cách dùng một sợi dây để treo đầu, cứu sống một con bò.

Thật nghiệt ngã. Nước dâng cao ngập mái nhà. Ngập ruộng vườn và cuộc sống, lại khiến người Việt nghĩ nhiều hơn về số phận của mình.

Không phải thiên tai cố “cực đoan” mà mỗi ngày mưa lũ càng nhiều. Ngay trong các thành phố lớn, mưa chỉ cần kéo dài vài tiếng, nội thành đã không khác gì phố biển. Quảng Bình, Hà Tĩnh, Lào Cai, Cần Thơ, An Giang… khắp nơi đang đối diện với lũ lụt, sạt lở như chuỗi tin dữ của ngày phán xét.

Người dân Việt đang phải trả giá cho những gì mà họ không làm. Nỗi oan khiên này cay đắng biết dường nào. Từ năm 1993, người dân xã Xuân Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình đã kêu cứu khắp các nơi về chuyện Lâm trường Bố Trạch – do ai đó chống lưng, ban bệ nào bao che để cùng chia chác – đã tàn phá liên tục rừng đầu nguồn. Cả tỉnh Quảng Bình có diện tích tự nhiên 173,75km2, trong đó phần lớn rừng. Người dân đau xót kể lại rằng nơi đây ngày xưa chim muông khắp nơi, cổ thụ thì lớn đến mức 4-5 người chia nhau ôm mới hết vòng… nhưng Lâm trường Bố Trạch hủy diệt tất cả. Đến năm 2013 thì đợt lũ dầu tiên quét sạch mọi thứ do rừng không còn đã diễn ra. Thiên nhiên chết dần, mà con người đứng ra bảo vệ rừng cũng bị tấn công, bắt bớ. Tháng 12/ 2014, đã từng có những cuộc xung đột lớn giữa dân chúng và phía Lâm trường Bố Trạch, nhưng tiếng kêu của dân chúng không thấu được đến đâu cả.

Hôm nay lụt tràn về Hà Tĩnh, mà nguyên nhân chính là nhà máy thủy điện xả lũ vô trách nhiệm. Giải trình của chính Chi cục Thủy lợi tỉnh Hà Tĩnh cho biết, bởi mưa lớn cộng với nhà máy thủy điện Hố Hô xả lũ với lưu lượng từ 500 m3/s – 1.800 m3/s, hồ Bộc Nguyên xả 150-200m3/s… đã làm cho địa phương bị ngập lụt.

Chuyện nhà máy thủy điện xả lũ vô trách nhiệm, coi thường tài sản và mạng sống con người không còn là chuyện lạ. Ở Việt Nam, nơi đâu có nhà máy thủy điện là nơi đó có sự cố xả lũ. Lời trách yêu của Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh Đặng Quốc Khánh với nhà máy thủy điện Hố Hô rằng “Xả lũ hết cỡ như thế dân không kịp trở tay”, cũng vô trách nhiệm không kém. Sống và chết của hàng ngàn con người ở Hà Tĩnh như vậy đó, chỉ được giải đáp bằng những lời vuốt ve nhau lấy lệ. Nỗi đau thì con người vốn đành cam chịu đã lâu. Có thể chôn kín trong lòng đến tận mộ sâu. May ra chỉ còn đôi mắt mờ đục và tuyệt vọng của con bò hôm nay, là để minh chứng cho cây độc đã đơm hoa kết trái, mà kẻ gieo xuống, không phải là dân lành.

Đôi mắt của con bò cố sống sót ở Quảng Bình hôm nay, sẽ đi vào lịch sử. Nó là bức tranh hiện thực đau nghiến, nhưng căng phồng những nỗi niềm mà người dân cũng đang loay hoay và cố sống sót như chính con bò của mình. Gần một thế kỷ sau, hình ảnh đôi mắt của một con người không tương lai của Nguyễn Công Hoan lại ám ảnh người xem, nhưng lần này còn thấp hơn nữa, qua số phận một con vật.

Con bò vô danh ấy thật may mắn. Vì nó có được người chủ tử tế và nghĩ đến nó. Còn hàng triệu con người Việt Nam khác đang đối diện với môi trường đang vào thảm họa, ai sẽ cứu họ trong một ngày mai đầy thảng thốt? Và tương tự những người dân sống sót qua thảm họa, lại bị tước đoạt cả phần cứu trợ của mình, sự chịu đựng của một dân tộc ngày càng sâu hoắm và khủng khiếp ấy, khi nào mới chạm đáy và người người tỉnh giấc?