HÃY DẠY CHÚNG LÊN TIẾNG

HÃY DẠY CHÚNG LÊN TIẾNG

FB Luân Lê

23-11-2016

Ở một quốc gia mà người nói lên sự thật và điều đúng đắn thì lại được coi là dũng cảm và bản lĩnh, thế hoá ra chẳng phải là chúng ta từ trước đến nay toàn được giáo dục bằng dối trá và sự ươn hèn cho bao thế hệ đã qua hay sao?

Nếu là thầy giáo, tôi sẽ nói với những học trò của mình rằng, tổ quốc và quê hương này là của các em, chính quyền sinh ra là để phục vụ và trung thành với nhân dân của một nước, trong đó có các em ở đây, không phải để độc quyền và độc tài trong sự lãnh đạo xã hội. Các em không thể chỉ đặt niềm tin và giao phó tất cả số trứng mình có trong tay cho một người mà hoàn toàn họ có thể tha hoá, và nếu tha hoá thì ta cần phải có cơ chế để thay thế nó bằng một thứ tốt hơn. Để làm được điều đó, chúng ta phải luôn có cái giỏ thứ hai hoặc thứ ba để sẵn sàng cho việc đó diễn ra.

Tổ quốc và nhân dân mới là thứ để các em phục vụ, cống hiến và hy sinh, nếu có thể, chứ không phải vì ai, vì vị lãnh tụ, cá nhân hay nhóm đoàn, đảng phái nào, tất cả những thứ gắn với con người hoặc nhóm hội nào đó thì đều có thể phế bỏ hay thay thế được. Nhưng nhân dân và tổ quốc suy bại hay mất đi thì lúc đó chúng ta chỉ còn đường chết hoặc chạy trốn khắp nơi và suốt đời như người Do Thái đã phải làm từ hàng trăm, nghìn năm nay. Họ không có quê hương nhưng họ có linh hồn của họ, đó là tôn giáo và trí tuệ, họ đóng góp được cho thế giới văn minh nhiều hơn những gì chúng ta có thể tưởng tượng, trong mọi lĩnh vực đều có bóng dáng của họ.

Nếu tôi là thầy giáo, tôi sẽ nói với những học sinh của mình, tôi không phải chân lý, tôi không hoàn toàn đúng, nên hãy mạnh dạn nói rằng tôi đã sai, khi có thể và hãy nói lên quan điểm của mình. Đi học là phải nhìn thấy được cái sai của người khác và dám nói lên điều đó, thậm chí gay gắt. Học, là để lên tiếng, không phải để im lặng, nhất là khi tôi đánh điểm 9 cho một người đưa ra đáp án sai mà lại cho điểm F với một người mà rõ ràng ai cũng thấy họ đúng.

Nếu là thầy giáo, tôi sẽ chỉ dẫn chúng đọc sách và phải thực hành, đọc nhiều sách và thực hành càng nhiều càng tốt, việc khác có thể đừng chứ việc đó không được ngừng nghỉ mà phải thực hiện mỗi ngày, làm điều hợp lẽ phải và lương tâm, không nghe theo sự áp đặt của ai khác, không chỉ học từ một người, không coi ai là lãnh tụ và không chỉ biết đến một đảng phái, không cần phải e sợ tôi, nhà trường hay rộng hơn là chính quyền đang cai trị. Vì chính các em mới là chủ thể của đất nước, chính quyền chỉ được lập ra để phục vụ nhân dân và bảo vệ tổ quốc, họ được trả lương để làm điều đó, họ là những kẻ ăn bám xã hội, và các em là người trả lương cho họ để làm việc đó. Nên mọi việc của nhà nước là duy trì trách nhiệm của mình, chứ các em không phải mang ơn họ về bất kể điều gì.

Họ bắt kẻ giết người là trách nhiệm của họ, vì họ được lập ra để làm điều đó. Họ ngăn chặn khủng bố là nghĩa vụ của họ, vì họ sinh ra là để đảm bảo sự an toàn cho xã hội. Họ phải dùng luật pháp để bắt bớ, truy tố và xét xử một người nào đó, và họ không được quyền lạm dụng luật pháp hay nhân danh nó để đánh đập, mạt sát, miệt thị, nhục mạ bất kể người đó là ai, họ có nghĩa vụ phải tôn trọng và tuân thủ luật pháp cũng như nhân phẩm, tính mạng, sức khoẻ con người, mọi hành vi tội phạm đều đã có luật pháp điều chỉnh và nghiêm trị.

Nếu là thầy giáo, tôi sẽ dạy các em học thực, ném bỏ những cuốn sách giáo điều, giáo án và phương pháp ngu ngốc mà chúng ta đang áp đặt vào bao nhiêu thế hệ, nó đã khiến con người trở nên yếu hèn, bạc nhược, dốt nát và bảo thủ, trong sự mơ tưởng vô vọng mà thế giới cười cợt vì những khái niệm và tri thức thụt lùi mà thậm chí là đi ngược lại thế giới văn minh hàng trăm năm. Tôi dạy các em, nếu muốn làm người, thì phải quan tâm đến tình hình đất nước và xã hội mà là quê hương của mình, nếu không để tâm đến điều đó thì các em sẽ không bằng loài kiến. Và người ta sẽ khinh bỉ một người mà không biết gì đến hiện trạng quê hương mình đang sống, vì nó thể hiện và biểu lộ trình độ và tình cảm của bạn dành cho chính mảnh đất máu thịt mà dung dưỡng mình đến đâu.

Tôi sẽ dạy các em biết tôn trọng và học hỏi từ những người giàu chân chính, biết đùm bọc và thương yêu người nghèo khó, biết cầu thị và chia sẻ với những người xung quanh. Biết tôn trọng đồng tiền nhưng không để nó trở thành thứ mình phải nô lệ, biết lao động kiếm tiền nhưng đừng mưu mô hay toan tính để đạt được chúng. Chẳng có giá trị gì với những lợi ích hay đồng tiền như thế cả.

Tôi dạy chúng tự do tư duy, có đấu tranh cho lẽ phải và công bằng mới có tự do, có tự do mới có phát kiến và sáng tạo, có sáng tạo mới đem đến sự phát triển và thịnh vượng. Tôi chỉ dạy chúng không bao giờ nói dối, không cúi đầu trước cường quyền và sai trái, không luồn lách mà làm ăn rồi coi đó là thông minh hay khôn ngoan hơn người khác. Vì làm người thì phải trung thực, đó là đức tính quan trọng nhất của một con người và của cả một xã hội, dù ở bất kỳ đâu và bất cứ thời đại nào.

Tôi không dạy chúng chỉ biết vâng lời cha mẹ, thày cô hay những hệ thống chính trị nào khác, phải biết tư duy độc lập và phản biện, không im lặng trước bất kể điều gì mà mình thấy và hiểu rõ chúng là phi lý, bất công. Vì nếu ta im lặng trước bất công của người khác, thì rồi một ngày chúng ta rơi vào hoàn cảnh của họ, chúng ta sẽ không đủ tư cách để đòi hỏi ai lên tiếng cho mình mà phải chấp nhận đó là kết quả của chính sự im lặng của mình tạo ra từ trước.

Vì, đáp lại sự im lặng sẽ chỉ là sự lặng im của người khác.

Đó là quy luật tất yếu, muốn có sự phản hồi, sóng được truyền đi và khi gặp vật cản, nó sẽ được phản xạ ngược trở lại phương ban đầu mà làm nên sự giao thao và cộng hưởng (tạo thành những bó sóng). Cũng giống như thế giới vừa vui mừng đón nhận thành quả về việc hứng được sóng cực ngắn từ một hành tinh đã tan rã từ hàng tỷ năm trước.

Nếu tôi là thầy giáo, tôi sẽ dạy chúng cất lên tiếng nói của lòng chính trực, vì ngôn ngữ sinh ra không phải chỉ để nói lời ba hoa hay tán tỉnh, vẽ vời, ngôn từ sinh ra để viết nên những giá trị và điều đẹp đẽ, mà đẹp đẽ nhất là truyền lửa, tình yêu thương và cứu vớt cho đồng loại mình, bởi ngay cả loài kiến còn có ngôn ngữ bằng những tín hiệu để truyền cho nhau những thông điệp trong đời sống của mình. Cá heo có tiếng kêu, loài dơi phát sóng siêu âm, muông thú có những cách biểu đạt âm thanh riêng cho từng loài. Còn chúng ta, có chữ viết và ngôn từ là để lên tiếng, truyền cho nhau những giá trị của tình yêu thương, lòng dũng cảm và sự chân thành.

Và sự im lặng, không bao giờ được coi là một đức tính tốt hay đại diện cho điều tử tế, nhất là nó là thứ biểu đạt được tìm thấy khi đứng trước các bất công và phi lý diễn ra hiển hiện và đầy rẫy trên quê hương, tổ quốc mình đang sống.

Tôi, hy vọng vào những người thầy có đủ tư cách, phẩm chất, lương tri và trí tuệ để vực dậy những thế hệ tương lai về một quốc gia, xã hội và con người nhân bản, văn minh và khoa học, nơi của điều tử tế và sự chân thành.

Tôi đặt hy vọng, gần như tất thảy sự lạc quan hiếm có của bản thân mình, vào những người thầy có trách nhiệm với quốc gia và dân tộc, nhưng không phải từ và ở những con người đi làm nhiệm vụ chính trị hay chạy chọt để được vào vị trí nhà giáo kiếm đồng tiền làm kế sinh nhai.

CHUYỆN KỂ CHO CON: LỄ TẠ ƠN – THANKSGIVING

CHUYỆN KỂ CHO CON: LỄ TẠ ƠN – THANKSGIVING

Chuyện được kể rằng, có một nhóm 102, gồm cả 35 người thuộc đạo Tin Lành Cải Cách ly khai (Puritanisn separatists) người Anh di cư gọi là Pilgrims Fathers.

hinh-le-ta-on

 

 

 

 

 

 

 

 

Trước đó, bị hoàng đế Anh lúc đó bắt họ phải cải đạo để theo tôn giáo của ông ta.  Những người này không chấp nhận và bị giam vào tù.  Sau khi giam một thời gian vị hoàng đế truyền họ đến và hỏi lần nữa, họ vẫn quyết không cải đạo.  Hoàng đế không giam họ vào tù nữa mà nói với họ rằng nếu họ không theo điều kiện của ông ta thì họ phải rời khỏi nước Anh.  Vì lý do tín ngưỡng bị đàn áp, họ rời quê hương Anh Quốc, khởi hành vào tháng 9 năm 1620 trên chiếc tàu Mayflower, một thuyền buồm trọng tải 180 tấn từ Plymouth.  Đầu tiên, họ đến tạm cư tại Leyden, Hòa Lan (Netherland), nhưng cuộc sống ở đây làm họ thất vọng.  Do đó, nhóm người này quyết định đi tìm một chân trời mới tại Tân Thế Giới vì họ muốn tạo dựng một thánh địa mới cho tín ngưỡng của họ.

Trên chuyến đi sang Tân thế giới, họ đã trải qua bao gian lao, thử thách, gian truân và nguy khốn…  Sau 65 ngày trên biển lạnh, vào ngày 21 tháng 11 năm 1620, tàu đến Cape Cod, sau cuộc hành trình dài 2750 hải lý (1 hải lý = 1,852m).  Cap Cod là một bờ biển chưa ai đặt chân tới (sau này là Massachusetts).  Khi tàu cập đến được nơi này, thì Susanna White cũng cho ra đời một bé trai, đặt tên là Pelégrine (nghĩa là “người hành hương”).  Tuy biết là đã đi sai đường, nhưng họ phải xuống tàu, và ký ngay ngày hôm đó một hiệp ước sống hòa hợp với dân bản xứ (Narranganset và Wampanoag).  Đó là Maryflower Compact Act, trong đó ghi những gì phải làm khi định cư.  Có nhiều cuộc chạm trán nho nhỏ với thổ dân da đỏ, nhưng không quan trọng lắm.  Họ phải đi tìm chỗ ở khá hơn bởi vì lúc đó là mùa đông đầu tiên của họ, một mùa đông đầu tiên vô cùng khác nghiệt và quá lạnh lẽo.

Sau 6 tháng lên đất liền, thời tiết khắt khe và thiếu thốn.  Ngay từ cuối thu, vì bệnh dịch và lạnh lẽo, họ đã mất đi 46 người trong số 102 người khởi hành trên tầu Mayflower.  Trong số người chết có 14 người vợ (trong số 18 người cả thảy), 13 người chồng (trong số 24 người).  Trong tình trang khốn cùng đó, như một phép lạ, một thổ dân da đỏ biết tiếng Anh (Năm 1605, được một thuyền trưởng người Anh chở về Anh để học tiếng Anh, sau trở lại làm thông ngôn) đã dẫn một số thổ dân cùng mang bí rợ và thịt gà tây tới giúp, đồng thời chỉ cho họ cách trồng trọt, bắt cá và săn bắn.  Vị cứu tinh đó tên là Tisquanto mà di dân gọi tắt là Squanto.

Những người sống sót nhờ ăn thịt gà tây hoang và bắp do những người dân da đỏ này cung cấp.  Rồi đến mùa xuân, họ may mắn được những thổ dân da đỏ tốt bụng đến giúp đỡ và cho họ ít lương thực.  Họ bắt đầu học những cách sống và sinh tồn ở vùng đất này từ những thổ dân tốt bụng…  Khi người Pilgrims đã có thể tự lo cho bản thân được, họ tổ chức một buổi tiệc để tạ ơn Chúa Trời vì đã cho họ có thể sống đến ngày hôm nay, họ mời những người da đỏ và cùng nhau ăn uống vui vẻ.  Từ đó về sau, hằng năm con cháu của người Pilgrims luôn tổ chức lễ tạ ơn để cám ơn cho những gì tốt đẹp đã đến với cuộc sống.

Các con thân mến,

Mục đích của ngày lễ Tạ Ơn (Thanksgiving Day) là để cám ơn Thượng Đế đã ban phước lành trong năm cho chúng ta.  Đây cũng là dịp nhớ về quá khứ của quê hương, của cả dân tộc, của gia đình và của bản thân mình để cám ơn đất nước, quê hương, con người, xã hội và gia đình đã cho chúng ta có được cuộc sống tốt đẹp trong năm qua.  Do đó ngày lễ Thanksgiving Day thường mang tính cách của việc đoàn tụ gia đình với bữa ăn nấu bằng gà tây (turkey) rất thịnh soạn và ấm cúng.  Ngày lễ này cũng là dịp để người ta suy tư về niềm tin tôn giáo và dành thì giờ và dâng lời cầu nguyện.

Các con thương, chúng ta là cũng thuộc những nhóm di dân cùng đến nước Mỹ, nhưng không giống những di dân khác tìm đường sang Mỹ với phần lớn vì lý do kinh tế.  Người Việt chúng ta ra đi khỏi nước để tìm tự do vì không thể sống được dưới chế độ độc tài – độc Đảng và dòng họ trị, không tự do, phi dân chủ.  Một chính quyền đã quay lưng lại đàn áp và bóp nghẹt dân tộc, và những người đấu tranh cho dân chủ và toàn vẹn lãnh thổ chỉ vì quyền lợi và ích kỷ riêng mà quên đị cội nguồn, công lao và bao xương máu của tiền nhân và dân tộc đã cố công xây dựng cho giang sơn gấm vóc Việt Nam trường tồn qua bao thế hệ.  Các di dân người Việt chúng ta cũng phải hòa đồng với các tục lệ người Mỹ bao gồm cả văn hóa và đa ngôn ngữ; nhưng bao giờ chúng ta cũng mong cảm tạ đất nước này đã cưu mang chúng ta và cho chúng ta nhận biết được tình người và chiều dầy của sự hy sinh.

Các con thương,

Trong tất cả các tập tục để người Việt chúng ta hội nhập vào xã hội Mỹ, có ngày Lễ Tạ Ơn là một ngày lễ không riêng gì của dân Mỹ, mà chính chúng ta nghĩ là rất quan hệ đến chính mình.  Chúng ta cũng phải tưởng nhớ đến bao hy sinh, bao ân tình của những người đã giúp chúng ta sang định cư nơi đây.  Bỏ qua mọi thành kiến hay chủ nghĩa cá nhân, chúng ta thật tình chân thành cám ơn đến những bà con thân quyến, những cơ quan thiện nguyện, những tổ chức tôn giáo, những người bạn tốt không bà con dòng họ và những người chưa hề quen biết đã bảo trợ, giúp đỡ chúng ta trong những lúc khó khăn ban đầu khi mới tới định cư nơi miền đất tự do, trù phú này và cho chúng ta xây dựng lại mái ấm tình người và cuộc đời.  Xin tạ ơn Trời và tạ ơn người đã cho chúng ta biết thế giới này vẫn còn có những tấm lòng bác ái và có những bàn tay nồng ấm tình thân, tình người.

Có người cảm khái với tình đời và sự vô thường của cuộc sống đã viết:
Hoa đẹp .  .  .  .  .  .  Hoa thơm .  .  .  .  .  .  . . Hoa vẫn tàn
Tình nặng .  .  .  .  .  Tình sâu .  .  .  .  .  .  .  .  Tình vẫn tan
Rượu đắng .  .  .  .  . Rượu cay .  .  .  .  .  .  .   Rượu vẫn hết
Người hứa .  .  .  . . . Người thề .  .  .  .  .  .  .  Người vẫn quên
Trăng lên .  .  .  .  .  . Trăng tròn .  .  .  .  .  .  . Trăng lại khuyết
Tuyết rơi .  .  .  .  .  .  Tuyết phủ .  .  .  .  .  .  . Tuyết lại tan
Người đẹp.  .  .  .  .  . Người xấu.  .  .  .  .  .  .  Rồi cũng chết
Người giàu.  .  .  .  .  .Người nghèo .  .  .  .  .   Rồi cũng hết

Vậy tại sao chúng ta không tạ ơn trời và tạ ơn lẫn nhau khi chúng ta còn hơi sức để mà phục vụ, để mà sống trong yêu thương!

“Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy.
Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười.”
 (Cao Bá Quát)

Trong mùa lễ tạ ơn, chúng ta tạ ơn trời và tạ ơn người nhưng không quên nguyện cầu cho nước mẹ Việt Nam, cho dân tộc Việt Nam, và cho nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam biết yêu dân yêu nước, dám nhận rõ sự thật của thảm trạng đói nghèo, bất công, lệ thuộc ngoại bang và chia rẽ giai cấp sâu sắc trong cái xã hội gọi là “Đỉnh cao trí tuệ.”  Đảng của giai cấp công nhân và lao động đã nhẫn tâm bóc lột và đẩy họ vào con đường đói nghèo, không dân chủ tự do… mà có sự đổi mới và cải cách đáng kể khi biết lắng nghe tiếng nói của toàn dân tộc.

Các con thân mến,

Chúng ta cảm thán cho quê hương, dân tộc và nguyện cầu cho giới lãnh đạo Việt Nam biết yêu nước thương dân thật sự, lấy dân làm gốc và luôn làm điều nhân nghĩa thì quốc thái dân an, và trăm họ yên vui chung hưởng thái bình.  Không còn cảnh đói nghèo, bất công.

Chúng ta cũng nguyện cầu cho giới lãnh đạo Việt Nam biết nhận rõ cái sai và dám nhường quyền hành vào trong tay người có tài (không cần phải là Đảng Cộng Sản) nhưng biết thương và lo cho dân thật sự, biết dùng sức mạnh từ cánh tay toàn dân để thanh trừ bọn tham nhũng, bọn hại dân, hại nước và xâm phạm bờ cõi dân tộc, và đừng bao giờ ngủ quên trong u mê là đất nước này chỉ là của Đảng Cộng Sản mà thôi.

Chúng ta luôn cầu nguyện cho mọi người từ ý nghĩa “Thanks Giving” mà biết yêu quí tự do dân chủ, tự do Tôn giáo… đoàn kết và xây dựng xã hội công bằng, và bác ái như các Tiền nhân bao đời đã đem lại cho chúng ta ngày nay.

Thương các con nhiều.
Ngoan Nguyễn

Langthangchieutim gởi

Trong nghĩa trang buồn

Trong nghĩa trang buồn

Một góc Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa năm 2011. (Hình: HOANG DINH NAM/AFP/Getty Images)

Tạp ghi Huy Phương

Trong sinh hoạt cộng đồng cuối tuần vừa qua tại Nam California, Vietnam Film Club ở Washington, DC, đã tổ chức một buổi ra mắt cuốn DVD “Hồn Tử Sĩ, Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa” trước một số người tham dự đông đảo, phần lớn là các cựu quân nhân VNCH, tại Westminster.

Ngay đối với đội quân xâm lược từ một quốc gia khác, khi tiếng súng đã ngưng, những đối thủ ngày trước, bây giờ cũng phải được tôn trọng, nhất là đối với những người đã chết.

Nước Pháp có mộ chiến sĩ vô danh nằm dưới Khải Hoàn Môn từ ngày 11 Tháng Mười Một, 1920, nơi có khắc hàng chữ “Nơi đây yên nghỉ một người lính Pháp chết cho tổ quốc.” (1914-1918). Tuy vậy, vào ngày 14 Tháng Bảy, 1940, nghĩa là trong thời gian quân đội Đức chiếm đóng Paris, buổi lễ Chiến Sĩ Trận Vong vẫn được tổ chức với sự cho phép của sĩ quan Đức.

Thay vì đào mồ bới mả kẻ thù lên mà hả hê sung sướng, reo hò khi đã thắng được kẻ thù, chúng ta được biết trong năm 2015, Ukraine đã tháo dỡ gần 140 tượng đài của Liên Xô và chính phủ Ba Lan có kế hoạch hạ bỏ khoảng 500 tượng đài Liên Xô, kẻ thù ngày trước, nhưng không đụng đến tượng đài ở các nghĩa trang, nơi an nghỉ của những người lính Xô Viết.

Sau khi cuộc Nội Chiến Mỹ kết thúc, chính phủ liên bang đã trả lại tài sản bị trưng dụng hoặc bị chiếm đoạt cho phe bại trận để hàn gắn vết thương chiến tranh và những người lính hy sinh từ hai chiến tuyến được chôn chung trong một nghĩa trang với nhau, hoàn toàn không có sự phân biệt kẻ thắng người thua.

Chỉ vài ngày sau khi miền Nam thất thủ, bức tượng “Thương Tiếc,” tác phẩm điêu khắc của Nguyễn Thanh Thu, bằng đồng, nặng 10 tấn, cao hơn 6 mét, ghi lại hình ảnh của một người lính gác súng, ngồi trên bệ đá trước nghĩa trang, đã bị Cộng Sản giật sập và kéo đi. Từ đó, Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa được xem như một vùng quân sự, cấm người dân ra vào.

Năm 1995, ký giả Gordon Dillow, sau khi bất ngờ vào được bên trong, ông đã viết trên nhật báo The Orange County Register như sau: “Hai mươi năm trước, đây là nghĩa trang quốc gia lớn nhất với đài tưởng niệm các chiến sĩ của miền Nam Việt Nam, bây giờ là bãi đất hoang vu, bị bỏ mặc không ai chăm sóc, bị phá hoại. Những nấm mồ bị đào xới không còn nhận dạng được. Nhà cầm quyền Cộng Sản đã trồng một số cây, ngay bên cạnh các mộ phần, khiến cho rễ của cây khi lớn lên sẽ phá nát những ngôi mộ bên dưới.”

Ký giả Dan Southerland của đài Á Châu Tự Do, năm 2005, khi ghé thăm Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, đã nhận ra đây là một khung cảnh thù địch, khiến cho ông phải bàng hoàng. Nghĩa trang như một căn cứ quân sự, hay như một nhà tù, có lính Cộng Sản canh gác ngày đêm. Họ sợ điều gì vậy?

Ông Southerland cũng dã đi thăm một vài nghĩa trang của những người lính Cộng Sản, sự tương phản làm cho ông ngỡ ngàng, một bên được chăm sóc đẹp đẽ, mở cửa cho mọi người vào, một bên như là một nhà tù. Tất cả chỉ là hoang phế, phá hoại và lấn chiếm.

Sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, một trong những chủ trương trả thù của quân Cộng Sản, nhằm xóa bỏ di tích của cuộc chiến, là triệt phá tất cả các nghĩa trang của quân đội VNCH trên toàn miền Nam, ngoại trừ duy nhất là Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa chưa bị san bằng và mọi việc thăm viếng đều bị kiểm soát.

Bằng chứng là vào đầu Tháng Năm, 1975, Cộng Sản đã cho san bằng hằng nghìn ngôi mộ ở Nghĩa Trang Quân Đội Gò Vấp, và sau đó là số phận của nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, nơi chôn cất Thống Tướng Lê Văn Tỵ và hai anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm.

Theo Wikileaks, hồi năm 2008, Thượng Nghị Sĩ Jim Webb đã bí mật đến thăm Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa, nằm trong tình trạng hoang phế vì không có người chăm sóc. Dịp này, ông Webb gặp bí thư thành ủy Sài Gòn là ông Lê Thanh Hải và chủ tịch thành phố là ông Nguyễn Hoàng Quân. Ông Webb khuyến khích nhà cầm quyền Cộng Sản, đây đã đến lúc hòa giải với cựu quân nhân VNCH.

Các viên chức đảng Cộng Sản này, khi đáp lời ông Webb, đã không nhắc gì tới quân đội VNCH mà chỉ nói tới vai trò quan trọng của Mỹ trong việc phát triển kinh tế Việt Nam, tức là xin viện trợ. Cả hai đều nhắc tới những “bước tiến trong quan hệ hai nước, để người Việt ở Mỹ có thể trở về nước làm ăn!”

Báo chí ở Việt Nam hàng năm nêu ra con số hàng chục tỷ đô la do người Việt hải ngoại, đa số là những người chạy trốn Cộng Sản, gửi về nước cho thân nhân mà nhờ đó có tiền nuôi chế độ. Nhưng chế độ này, tuy bề ngoài vẫn hô hào hòa hợp hòa giải, quên đi quá khứ, nhưng vẫn quyết tâm ngoảnh mặt làm ngơ, không tương nhượng với việc hòa giải ngay cả với người chết là việc trùng tu Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa hay coi đây như là một di tích lịch sử.

Thật bất hạnh cho miền Nam chúng ta, đã có một đồng minh bội phản và hơn thế, một thứ kẻ thù mọi rợ, nhỏ nhen.

Ông Trump tuyên bố bỏ TPP ngay ngày đầu làm Tổng thống

Ông Trump tuyên bố bỏ TPP ngay ngày đầu làm Tổng thống

VOA

Tổng thống tân cử Mỹ Donald Trump

Tổng thống tân cử Mỹ Donald Trump

Tổng thống tân cử Mỹ Donald Trump ngày 21/11 công bố video đề ra những việc sẽ làm ngay ngày đầu tiên nhậm chức vào Tòa Bạch Ốc, trong đó có việc rút Mỹ ra khỏi thỏa thuận Đối tác Xuyên Thái Bình Dương TPP mà chính quyền Tổng thống Barack Obama khởi xướng và dày công vun đắp.

Ông Trump sẽ tuyên thệ nhậm chức vào ngày 20/1 tới đây.

Trong danh mục những ưu tiên ngày đầu làm Tổng thống được tiết lộ trong video hôm nay, ngoài rút bỏ TPP, ông Trump còn cho biết sẽ yêu cầu Bộ Lao động điều tra những lạm dụng trong chương trình cấp visa của Mỹ đối với lao động nhập cư.

Cùng ngày ông Trump công bố video này, Thủ tướng Nhật Bản, Shinzo Abe tuyên bố Hiệp định TPP sẽ trở nên vô nghĩa nếu không có Hoa Kỳ.

Phát biểu từ cuộc họp báo ở Buenos Aires hôm 21/11, Thủ tướng Abe cho biết thêm rằng kể từ sau cuộc bầu cử Mỹ hôm 8/11, không một nước nào tham gia TPP trì hoãn các nỗ lực nội bộ chấp thuận TPP hay hủy bỏ thỏa thuận này.

Dẫu vậy, TPP mà 11 quốc gia cùng Hoa Kỳ bỏ công thương lượng lâu nay vẫn không kịp ‘chào đời’ trước khi Mỹ thay đổi bộ máy lãnh đạo.

Chính quyền của Tổng thống sắp mãn nhiệm Barack Obama kỳ vọng thỏa thuận chiếm 40% sức mạnh kinh tế thế giới TPP sẽ giúp Hoa Kỳ đề ra nghị trình mậu dịch toàn cầu trước sức trỗi dậy của Trung Quốc.

Nhật và các nước Châu Á tham gia hiệp định này cũng mong muốn thiết lập một đối trọng với chính sách bành trướng của Bắc Kinh ở khu vực Thái Bình Dương trong lúc Trung Quốc đang tìm cách mở rộng phạm vi ảnh hưởng kinh tế, chính trị tại đây.

Vì vậy, chỉ hai ngày sau khi ứng viên Cộng hòa Donald Trump đắc cử Tổng thống Mỹ, Hạ viện Nhật nhanh chóng thông qua thỏa thuận thương mại do chính phủ Obama dẫn đầu mà ông Trump mạnh mẽ phản đối.

Luật sư Vũ Đức Khanh kiêm Giáo sư luật tại Đại học Ottawa (Canada) chuyên nghiên cứu về chính trị Việt Nam, quan hệ quốc tế, và luật pháp quốc tế nhận định với VOA Việt ngữ:

“Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương, xuyên Thái Bình Dương nghĩa là gồm hai trục: phía bờ Tây và bờ Đông. Phía bờ Đông, Nhật là nước dẫn đầu. Phía bờ Tây là Mỹ. Cho nên, sự thông qua của Hạ viện Nhật đã đặt chuyện thúc đẩy Mỹ trong ván bài cuối cùng của năm nay.”

Các nhà lập pháp Nhật hy vọng việc họ thông qua TPP sẽ gửi một thông điệp tới Mỹ, nhưng thông điệp đó xem ra không có tác dụng.

Thủ tướng Nhật Shinzo Abe xem TPP là cột trụ trong cương lĩnh kinh tế của ông nhằm vực dậy lĩnh vực xuất khẩu chủ đạo của quốc gia.

Tháng 9 năm nay, Tổng thống Barack Obama đã ra lời cảnh báo rằng nếu Mỹ không xúc tiến TPP để đề ra những quy chuẩn cho mậu dịch công bằng tại thị trường Châu Á, thì Mỹ sẽ bị hất chân, sẽ là một thua thiệt lớn cho các doanh nghiệp Hoa Kỳ trong lúc Bắc Kinh đang thúc đẩy một hiệp định tự do thương mại trong khu vực với các luật lệ không có lợi cho người lao động và doanh gia Mỹ.

Thế nhưng, tân Tổng thống Donald Trump lại xem TPP là một thảm họa cho nước Mỹ. Ông Trump khẳng định dù ông ủng hộ tự do mậu dịch, ông không tán thành TPP hay các thỏa thuận hiện hành khác như Hiệp định Tự do Thương mại Bắc Mỹ NAFTA vì, theo ông, các hiệp định này không được thương lượng công bằng và không phục vụ lợi ích nước Mỹ.

Chiến thắng của ông Trump vào Tòa Bạch Ốc xua ta hy vọng rằng Quốc hội Mỹ sẽ thông qua TPP trước cuối năm nay và là một đòn giáng đối với những ai kỳ vọng TPP sẽ giúp củng cố vai trò cân bằng của Mỹ tại khu vực đang bị Trung Quốc ‘làm mưa làm gió.’

Luật sư Vũ Đức Khanh:

“Quả thật tôi không biết vai trò của Mỹ sẽ như thế nào trong khu vực, đặc biệt khi chúng ta thấy sự trở cờ của Philippines, Malaysia cũng đã quay lại với Bắc Kinh, còn Việt Nam thì không biết bám vào ai trong thời điểm này. Cho nên, nếu như không thông qua TPP kỳ này, kể như vai trò của Mỹ không còn vai trò nào ảnh hưởng trong khu vực châu Á Thái Bình Dương cả.”

Ngoài hai cường quốc Mỹ, Nhật ở hai bờ Đông-Tây, TPP còn bao gồm sự tham gia của 10 nước khác như Australia, Brunei, Canada, Chile, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam.

Khi chế độ sụp đổ, chúng ta cần làm gì và làm như thế nào?

Khi chế độ sụp đổ, chúng ta cần làm gì và làm như thế nào?

 Nguyễn Vũ Bình

Bài 1: TẠI SAO NÓI CHẾ ĐỘ SẼ SỤP ĐỔ TRONG TƯƠNG LAI GẦN?

     Trong thời gian một vài năm trở lại đây, những nhận định về sự sụp đổ của chế độ cộng sản ở Việt Nam càng lúc càng nhận được sự tán đồng nhiều hơn. Một trong số các nguyên nhân dẫn tới sự tán đồng của nhiều người là số nợ của ngân hàng, của doanh nghiệp và nhà nước đang được tiết lộ theo hướng ngày càng cao hơn. Ban đầu, số nợ công đưa ra chỉ là hơn 30% của GDP, sau tăng dần lên 65%, và đến hiện nay là trên 100% GDP. Nhưng đó chắc chắn chưa phải là con số cuối cùng về số nợ của Việt Nam. Theo quan điểm của người viết bài này, và cũng đã thể hiện ở một số bài viết khác, số nợ công của Việt Nam, tính cho tất cả các chủ thể, doanh nghiệp nhà nước, chính quyền địa phương, chính phủ… tối thiểu là 200% GDP và ngày càng tăng cao hơn. Điều đó có nghĩa là Việt Nam hiện nay nợ từ 300 – 350 tỷ $ và mỗi ngày con số nợ tăng cao hơn, vì nợ chồng nợ, đi vay nợ mới trả nợ cũ.

     Phân tích về cấu trúc của các chế độ cộng sản, và cách thức xây dựng cấu trúc ấy (mời đọc bài: Phác họa lại chân dung một chế độ, http://www.rfavietnam.com/node/2753), chúng ta thấy rằng, về mặt lý thuyết, chế độ cộng sản sẽ sụp đổ bởi sức nặng của chính nó. Một chế độ, để thiết lập và duy trì sự thống trị người dân, đã tạo ra một bộ máy khổng lồ, trong khi nền kinh tế không được thiết kế để tạo ra của cải vật chất. Trên thực tế, Liên Xô và các nước Đông Âu, ngoại trừ Ba Lan, đã sụp đổ từ chính nguyên nhân kinh tế, tất nhiên có sự tương tác với các nguyên nhân xã hội, chính trị. Ở Việt Nam, tuy có chuyển đổi về kinh tế, xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa nhưng vẫn đi ngược lại các nguyên lý, cơ chế và cấu trúc của kinh tế thị trường, dẫn tới việc nền kinh tế vẫn không tạo ra của cải vật chất mà chỉ là sự gia tăng đầu ra do sự gia tăng đầu vào của quá trình sản xuất. Trong quá trình này, nhà cầm quyền Việt Nam đã kịp phá hủy hoàn toàn môi trường sống của đất nước, đem về số nợ khổng lồ, và cùng với nó là sự kết thúc của chế độ cộng sản ở Việt Nam. Tuy nhiên, với các yếu tố gần như hiển nhiên, là chế độ không thể duy trì được sự tồn tại, nhưng chế độ này vẫn đứng sừng sững như hiện nay làm nhiều người hoang mang và không hiểu nổi tại sao chế độ có thể vẫn đang tồn tại như vậy? Các yếu tố sau đây hầu như không một chế độ dân chủ nào có thể duy trì và tồn tại.

     – Nợ công gấp đôi GDP như đã nói ở trên, và việc trả lãi cho số nợ này cũng không được bảo đảm, chưa nói trả nợ gốc. Nhà cầm quyền Việt Nam xử lý bằng cách vay tiếp các nguồn khác để trả cho các khoản vay đáo hạn, và nợ sẽ chồng lên nợ.

     – Nền kinh tế hầu như phá sản, ở tất cả các lĩnh vực đều trong tình trạng vật lộn để duy trì sự tồn tại. Có những ngành nghề được ưu tiên, ưu đãi mà hiện nay con số nợ được đưa ra lên tới mức kinh hoàng, ví dụ ngành điện lực là 475.357 tỷ đồng, tương đương 21,3 tỷ đô la (báo Tuổi trẻ). Trong khi đó, số người bám vào hệ thống ngân sách, bao gồm cả doanh nghiệp nhà nước và bảo hiểm xã hội lên tới 30 – 35 triệu người (tính từ người hưởng trợ cấp 200.000 đồng tới lương tổng bí thư).

     – Tham nhũng, lãng phí, chi cho yêu cầu chính trị tràn lan ở khắp mọi tỉnh thành trong cả nước.

     Vậy nhà cầm quyền Việt Nam đã duy trì sự tồn tại bằng cách nào, dựa vào các nguồn nào? Và xu hướng của việc này là như thế nào?

     + Nguồn tài nguyên, nguồn thuế thông thường và nguồn thuế phi lý, áp đặt. Chúng ta biết rằng, dù khai thác bừa bãi, nguồn tài nguyên về dầu khí và các nguồn tài nguyên khác vẫn còn và đang được khai thác tối đa. Nguồn thuế thông thường như thuế môn bài, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng… cũng là một nguồn thu lớn. Nhưng nguồn thuế phí vô lý áp đặt mới là nguồn thu lớn hơn, ví dụ thuế nhập khẩu và lưu hành xe ô tô là 300%; thuế xăng dầu trên 50%…

     + Việc phát hành tiền vượt quá khả năng sản xuất của một nền kinh tế. Đây là việc làm thường xuyên của nhà cầm quyền Việt Nam từ khi ra đời cho đến nay luôn thực hiện phát hành tiền theo yêu cầu chính trị. Lượng tiền in ra, có thể lớn gấp nhiều lần năng lực sản xuất của nền kinh tế, nhưng mỗi năm lạm phát chỉ ở mức 20-30%, và tỷ giá không tăng quá cao vì hai nguyên nhân. Thứ nhất, nguồn hàng chất lượng kém, giá cả thấp nhập khẩu từ Trung Quốc khoảng 50-60 tỷ $ mỗi năm. Lượng đô la từ đầu tư nước ngoài, viện trợ và kiều hối cũng trung hòa được số tiền in ra ở mức không làm tăng đột biết tỷ giá cánh kéo giữa đô la và tiền đồng Việt Nam.

     + Đối với những khoản nợ đáo hạn, nhà cầm quyền Việt Nam phải vay từ nguồn này trả cho nguồn khác, làm cho nợ chồng lên nợ, chỉ hoàn toàn giải quyết được các khoản nợ trước mắt, dồn nợ cho tương lai mà hoàn toàn không nghĩ đến giải pháp để giải quyết thực sự các khoản nợ. Đây là yếu tố tiềm ẩn rủi ro cao cho chế độ cộng sản Việt Nam.

     + Sự luân chuyển các nguồn lực. Trong các xã hội dân chủ, các chủ thể của nhà nước thường độc lập và không bị chi phối bởi yếu tố chính trị. Ở các nước này, chính phủ không được phép luân chuyển các nguồn lực, từ chủ thể này sang chủ thể khác. Nhưng đối với các nước cộng sản, đối với nhà cầm quyền Việt Nam, thì việc luân chuyển các nguồn lực là hoàn toàn bình thường. Chúng ta được thông tin về việc chính phủ Việt Nam đã sử dụng nguồn tiền 20.000 tỷ đồng của Bảo hiểm Xã hội cách đây 20 năm, mà chưa có sự hoàn trả lại cho ngành Bảo hiểm. Với khả năng luân chuyển các nguồn lực như vậy, nhà cầm quyền có thể tận dụng tối đa để kéo dài, duy trì sự tồn tại của hệ thống, bộ máy của chế độ như hiện nay.

     Trên đây là những lý do giúp cho nhà cầm quyền Việt Nam hiện vẫn đang duy trì được sự tồn tại. Nhưng nhìn vào các lý do đó, chúng ta cũng thấy ngay được xu hướng khốn cùng của chế độ sẽ tới, bởi vì: đối với các nguồn vay, khi các chủ nợ hiểu được thực chất nền kinh tế Việt Nam, việc sử dụng các nguồn vốn vay không nhằm mục đích sản xuất mà chỉ để trả nợ, đảo nợ thì các nguồn vốn vay này sẽ bị thu hẹp và khép lại. Đối với việc luân chuyển các nguồn lực, luân chuyển mãi rồi cũng phải hết, các khoản dự trữ cũng sẽ cạn kiệt. Nguồn tài nguyên hiện hữu, vật chất cũng sẽ cạn kiệt dần theo thời gian. Đối với các khoản thuế phí vô lý, người dân có nhận thức, hiểu biết sẽ không còn dễ dàng chấp nhận như trước đây, các hiệp định về thuế quan và thương mại tự do cũng sẽ tác động làm hạn chế và giảm bớt các khoản thu vô lý này.

     Như vậy, theo thời gian, với mức nợ và sự tàn phá, tham nhũng khủng khiếp như hiện nay, các nguồn lực sẽ dần cạn kiệt đến mức không thể duy trì nổi bộ máy khổng lồ. Cùng với những vấn đề xã hội phát sinh, và mâu thuẫn trong nội bộ đảng cộng sản Việt Nam, khả năng sụp đổ của chế độ trong tương lai gần là hoàn toàn hiện hữu.

Hà Nội, ngày 17/11/2016

N.V.B.

Bài 2: NHỮNG KỊCH BẢN THAY ĐỔI – SỤP ĐỔ CÓ THỂ XẢY RA

     Khi chế độ cộng sản Việt Nam đi tới thời điểm cận kề sự sụp đổ, trong tiềm thức và mong muốn của nhiều người, muốn có sự thay đổi trong nhận thức và trật tự, tránh sự xáo trộn và hỗn loạn. Đây là điều tự nhiên của người dân, khi đã trải qua rất nhiều những biến cố, những đảo lộn gần một thế kỷ qua. Kịch bản thay đổi mà nhiều người mong muốn, đó là đảng cộng sản tự nhận thức được nguy cơ sụp đổ của chế độ, chấp nhận sự thay đổi về chính trị, mở đường cho sự xuất hiện của đảng phái khác, và cùng nhau bắt tay vào xây dựng một thể chế dân chủ, trao trả quyền lực về cho nhân dân. Nhưng hầu như ai cũng biết, đây là kịch bản không tưởng, không thể xảy ra bởi sự vận hành của một hệ thống và theo quán tính, không ai có thể làm gì và đảo ngược được tình thế. Tuy vậy, vẫn còn một hi vọng về một sự thay đổi có chủ ý, xuất phát từ nội bộ đảng cộng sản Việt Nam. Đó là sự phất cờ trong nội bộ mà chúng ta đã từng hi vọng như trước đại hội XII của đảng cộng sản. Đây là kịch bản vẫn còn hi vọng nhưng đã giảm bớt nhiều sau hi vọng có đột biến từ đại hội XII. Đối với những người làm chính trị lớn, với những người có nhãn quan chính trị và chấp nhận rủi ro, mạo hiểm thì thời điểm trước đại hội XII và thời điểm hiện nay là thời cơ vàng để phất cờ, để tạo đột biến và dấu ấn trong lịch sử. Nhưng hi vọng về một sự phất cờ trong nội bộ đảng cộng sản rất mong manh và khó xảy ra vì hai lý do. Thứ nhất, những người ở vị trí có thể phất cờ hiệu quả đều có một hệ thống lợi ích được tích lũy và tạo ra trong nhiều năm, và người ta rất khó để dám đặt cược vào một tình thế hiểm nghèo. Thứ hai, quan trọng hơn, hệ thống quan trường của cộng sản, không có chỗ cho những người có cá tính lớn, cho những người có bản lĩnh dọc ngang thiên hạ. Phần lớn lên đến các chức vụ trung ương và bộ chính trị đều là dạng luồn cúi, thượng đội hạ đạp và quan trọng nhất, họ chưa bao giờ có khái niệm hi sinh vì một cái gì đó. Trong khi đó, việc phất cờ chủ yếu được thúc đẩy bằng động cơ lớn, trong sáng và chấp nhận sự hi sinh. Nhưng chúng ta cũng không loại trừ hoàn toàn khả năng thực tế của kịch bản này, bởi quy luật vật cùng tắc phản trong cuộc sống.

     Có một kịch bản được một số người đưa ra trao đổi về sự thay đổi của chế độ, đó là việc một cá nhân hoặc một nhóm, có thể lợi dụng tình thế để chuyển sang hình thái độc tài cá nhân hoặc độc tài nhóm. Cá nhân tôi không chia sẻ, và không nghĩ rằng việc này có thể xảy ra. Lý do là, việc lợi dụng tình thế, để xáo trộn nội bộ, đảo chính trong nội bộ, để thu quyền lực về một mối, một nhóm có thể xảy ra, có thể làm được. Nhưng để duy trì một hình thái độc tài cá nhân, hoặc nhóm trong bối cảnh bộ máy khổng lồ đang tồn tại, cộng với nền kinh tế phá sản, nát bét và số nợ lên đến gấp đôi GDP là điều không tưởng. Nếu như có một sự phất cờ, với mục đích trong sáng, mục tiêu vì tự do của nhân dân thì vấn đề lại khác. Các chính phủ dân chủ và các định chế tài chính quốc tế, thậm chí người dân trong nước, có thể ủng hộ và giúp đỡ vô tư, khách quan và hoàn toàn có thể bảo đảm duy trì, tồn tại những cơ quan, bộ máy cần thiết cũng như hoạt động bình thường của nền kinh tế. Nhưng nếu là độc tài cá nhân, độc tài nhóm thì không bao giờ có thể thu hút nổi những nguồn lực nói trên. Chính vì vậy, khả năng xảy ra kịch bản chuyển đổi sang hình thái độc tài cá nhân, hoặc độc tài nhóm là rất khó xảy ra.

     Như vậy, kịch bản về sự thay đổi là có thể có nhưng vô cùng mong manh và ít hi vọng. Cá nhân người viết bài này nhận định, sự sụp đổ và sụp đổ toàn diện có nhiều khả năng xảy ra nhất. Sự kéo dài cơn hấp hối, giãy chết này có thể thách thức sức chịu đựng của người dân và giới đấu tranh dân chủ nhưng cũng có khía cạnh tích cực. Đó là khi nhà cầm quyền Việt Nam có thể luân chuyển, huy động các nguồn lực để duy trì, kéo dài sự tồn tại của chế độ, thì sự cạn kiệt nguồn lực sẽ xảy ra ở tất cả mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực, mọi bộ phận của cơ thể cộng sản. Vậy là khi chế độ sụp đổ, tất cả đều vỡ vụn và sụp đổ theo, và cả đất nước trở thành bình địa, bằng phẳng. Điều này rất thuận lợi cho việc xây dựng một ngôi nhà mới, một thể chế mới tự do và dân chủ.

     Sự sụp đổ và sụp đổ toàn diện của chế độ như đã phân tích, gốc rễ là sự cạn kiệt nguồn lực, sụp đổ về kinh tế. Nhưng diễn biến, nguyên cớ hay giọt nước tràn ly sẽ xảy ra ở đâu, lĩnh vực nào và như thế nào là điều khó ai có thể biết được. Về đại thể, có thể có ba tình huống có tính chất ngòi nổ cho sự sụp đổ của chế độ. Ba tình huống đó tương ứng với ba lĩnh vực quan trọng của đời sống người dân.

     – Sự sụp đổ về kinh tế, có thể bắt nguồn từ sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng, hoặc một cuộc lạm phát bất ngờ nào đó. Chúng ta đã biết, hệ thống ngân hàng của Việt Nam hiện nay chỉ còn vốn lưu động để duy trì hoạt động cầm chừng và tồn tại. Nếu có một thông tin, hoặc một tác động tâm lý nào đó, đẩy người dân đồng loạt tới rút tiền ngân hàng cùng một thời điểm, thì sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng hoàn toàn có thể xảy ra. Sự sụp đổ của hệ thống ngân hàng ngay lập tức kéo theo sự sụp đổ của thị trường chứng khoán và toàn bộ nền kinh tế. Mặt khác, lạm phát thường trực của Việt Nam hiện nay ở mức cao, mỗi năm tối thiểu từ 20-30%. Nguyên nhân là do nhà cầm quyền luôn in tiền vượt quá năng lực của nền sản xuất. Nếu trong một tình huống nào đó, họ cần tiền và đột ngột đẩy nguồn tiền in ra gấp nhiều lần lượng tiền in hiện tại, sẽ xảy ra siêu lạm phát. Mà siêu lạm phát thì thiêu đốt một chế độ nhanh nhất có thể, lịch sử đã nhiều lần chứng minh.

     – Động loạn xã hội xảy ra, khi nhà cầm quyền có thể đàn áp quá tay, không kiểm soát được tình hình, lại đúng vào thời điểm và lĩnh vực nhạy cảm. Người dân có thể vùng lên bất cứ lúc nào trong bối cảnh dồn nén cùng cực như hiện nay. Chúng ta không biết điều này có xảy ra hay không, nhưng chúng ta hiểu rõ, các vấn đề xã hội đang chồng chất như những thùng thuốc súng, sẵn sàng bùng lên bất cứ lúc nào khi có một mồi lửa đủ mạnh. Những vấn đề khủng hoảng ô nhiễm môi trường, dân oan, tôn giáo, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ… hiện đang là những thùng thuốc nổ cực mạnh, chỉ chờ dịp là bộc phát. Mạng lưới Internet và mạng xã hội luôn là nguồn dẫn và xung động cực lớn cho những đám cháy tưởng như nhỏ bé và đơn giản.

     – Mâu thuẫn, sát phạt trong nội bộ cấp cao của đảng cộng sản Việt Nam. Vài năm trở lại đây, vấn đề xung đột quyền lực, lợi ích nhóm đã bị rò rỉ ra bên ngoài và ai cũng thấy vấn đề này lại trở thành một quả bom nổ chậm tiềm ẩn. Khi nguồn lực chung cạn kiệt, đương nhiên chiếc bánh lợi ích sẽ bị co lại, nhưng số người và nhóm lợi ích không hề giảm đi, chính vì vậy sự xung đột và mâu thuẫn bị đẩy lên mức cao là điều dễ hiểu. Ngoài ra, việc thuần phục Trung Quốc chưa bao giờ đạt tới sự thống nhất tuyệt đối, vẫn có những người còn chút lương tâm và liêm sỉ, và đó cũng là một ngòi nổ vô hình. Việc tham quyền cố vị, hoặc phe cánh dựa vào ảnh hưởng bên ngoài càng làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn tiềm ẩn chỉ chờ cơ hội là bộc phát. Và thường là giai đoạn cuối của sự tồn tại, các mâu thuẫn tích tụ đủ lớn cho một sự bùng phát bất ngờ.

     Chúng ta không biết được, trong ba lĩnh vực nêu trên, đâu sẽ là ngòi nổ, giọt nước tràn ly cho sự sụp đổ và sụp đổ toàn diện của chế độ. Nhưng chúng ta biết chắc chắn, đó là điều sẽ tới trong tương lai gần.

Hà Nội, ngày 18/11/2016

N.V.B.

Bài 3: NHỮNG VIỆC CẦN LÀM KHI CHẾ ĐỘ SỤP ĐỔ

     Trong số các kịch bản thay đổi – sụp đổ chỉ có duy nhất kịch bản sụp đổ và sụp đổ toàn diện là khó hình dung, cũng như khó xử lý nhất. Các kịch bản còn lại, đều ít nhiều có chủ thể tiếp quản và có sự chủ động trong việc giữ ổn định xã hội và xây dựng thể chế mới. Việc chủ thể nào còn nắm giữ sự chủ động và tiếp quản chế độ cũ chúng ta không biết được nên rất khó hình dung và xác định đúng hướng. Chính vì vậy, bài viết này chỉ đề cập tới trường hợp sụp đổ và sụp đổ toàn diện của chế độ, trong bối cảnh không hề có lực lượng chính trị thay thế, do đó sẽ xuất hiện khoảng trống quyền lực và chắc chắn, ít nhiều có sự hỗn loạn xã hội.

     Chúng ta có thể hình dung ra, một số nét cơ bản của tình hình, khi chế độ sụp đổ toàn diện, không có lực lượng chính trị nào thay thế ngay được. Trước hết, sẽ có một vài tổ chức của phong trào dân chủ, và nhân sĩ trí thức kết hợp với đại diện của Liên Hợp Quốc và các đại sứ quán của các cường quốc. Liên Hợp Quốc, mà nhiều khả năng Mỹ sẽ giữ vài trò chủ đạo sẽ tập hợp các tổ chức lớn của người Việt trong và ngoài nước để thành lập Ủy ban khẩn cấp hoặc Chính phủ lâm thời, có thể có cả đại diện của quân đội tham gia. Sau đó sẽ công bố Chính phủ Lâm thời, chương trình hành động, thời gian xây dựng và công bố hiến pháp mới, ấn định lịch trình tổng tuyển cử… đó là những việc thường xảy ra ở các quốc gia có sự thay đổi hay sụp đổ hoàn toàn chế độ. Như vậy, gần như chắc chắn, các đại diện của các đảng phái trong và ngoài nước, tổ chức hội nhóm xã hội dân sự trong nước sẽ tham gia vào Ủy ban khẩn cấp hoặc Chính phủ lâm thời. Vậy thì, phong trào dân chủ, hay những người thuộc thuộc các tổ chức đảng phái đấu tranh cho dân chủ chúng ta cần phải làm những gì? Có hai nhiệm vụ quan trọng mà chúng ta cần thực hiện khi đó: ổn định tình hình và chuẩn bị cho việc xây dựng thể chế dân chủ.

     1/ Ổn định tình hình

     Khi một chế độ sụp đổ, nhất là chế độ cộng sản với biết bao nhiêu cơ quan, chủ thể trong hệ thống, đồng thời phần lớn người dân bị bất ngờ sẽ xảy ra một tình trạng hoảng loạn vô cùng rộng lớn. Sự dồn nén, căm phẫn của người dân, sự lo sợ hoảng loạn của các quan chức cộng sản… sẽ tạo ra một bức tranh cực kỳ hỗn loạn và lộn xộn. Đây là hậu quả trực tiếp của việc ngăn chặn, không cho ra đời bằng mọi giá một lực lượng đối lập có tổ chức của nhà cầm quyền Việt Nam. Như vậy, tình trạng hỗn loạn và vô chính phủ chắc chắn xảy ra cho tới khi các tổ chức, hội nhóm bàn bạc và lập ra được một Ủy ban khẩn cấp hoặc Chính phủ lâm thời. Quãng thời gian này, chúng ta không thể biết được có thể xảy ra những điều gì, và hầu như chưa ai có thể can thiệp được, trừ sự can thiệp của đội quân gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc, nếu tình trạng hỗn loạn dẫn tới bạo loạn. Như vậy, khi xuất hiện Ủy ban khẩn cấp hoặc Chính phủ lâm thời thì nhiệm vụ quan trọng nhất là vấn đề ổn định tình hình.

     Muốn ổn định tình hình, chúng ta cần phải xác định được thành phần và nguyên nhân gây ra sự hỗn loạn, và giải quyết theo các nguyên nhân đó. Có hai nhóm người chính, có thể là chủ thể dẫn tới sự hỗn loạn, đó là người dân với sự dồn nén, bức xúc và căm thù chế độ khi chế độ sụp đổ sẽ có hành động trả thù. Việc trả thù sẽ kéo dài và lan rộng nếu như họ nghĩ rằng không có luật pháp và không ai ngăn cản và chế tài được họ. Như vậy ở đây, cần có những luật lệ khẩn cấp, cần có những lực lượng ngăn cản sự trả thù một cách tự phát của người dân. Ngoài ra, sẽ có các cá nhân lợi dụng tình hình để cướp phá, hôi của cũng cần được ngăn chặn. Một thành phần khác, đó là những cựu quan chức, công nhân việc chức của chế độ cũ, nhất là công an và an ninh lo sợ sự trả thù, lo sợ cho tương lai có thể tập hợp nhau lại để đi theo hướng chống lại chính quyền mới để (họ nghĩ) có thể tự bảo vệ mình. Việc này đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết, cần có một chương trình, chính sách minh bạch, rõ ràng, công bằng và nhân bản đối với đối với những người thuộc chế độ cũ.

     Tóm lại, để ổn định tình hình, Ủy ban khẩn cấp hoặc Chính phủ lâm thời cần thực hiện những công việc thiết yếu sau.

     – Công khai mục đích, mục tiêu, thời hạn của Ủy ban khẩn cấp hoặc Chính phủ lâm thời.

     – Công khai tiến trình, thời gian biểu, các bước chuẩn bị để xây dựng thể chế dân chủ.

     – Công bố chính sách đối với những người, những vụ việc liên quan tới chế độ cũ.

     – Công bố, thông báo và có lực lượng hỗ trợ ngăn chặn các hành vi quá khích có tính chất trả thù cá nhân hoặc gây bạo loạn.

     Về cơ bản, với những gương mặt có uy tín, một chương trình hành động rõ ràng, minh bạch, có thời hạn đồng thời có phương án giải quyết các vấn đề nổi cộm được thông tin tới toàn thể người dân, sẽ là cơ sở để ổn định tình hình trong lúc nước sôi lửa bỏng.

     2/ Chuẩn bị cho việc xây dựng thể chế dân chủ

     Chúng ta biết rằng, theo thông lệ của các nước gần đây có sự thay đổi chế độ, họ thường xây dựng thể chế dân chủ theo cùng một cách. Đó là thuê các chuyên gia, có thể kết hợp với các học giả trong nước viết hiến pháp, đồng thời ấn định thời gian tổng tuyển cử khoảng từ 6 tháng đến 1 năm. Sau đó, tất cả thể chế dân chủ đều được bắt tay xây dựng khi đã có các cơ quan lập pháp và hành pháp là quốc hội và chính phủ. Cách thức này, quá trình này, chúng ta chỉ có thể gọi, đó là chuẩn bị cho tổng tuyển cử chứ hoàn toàn không phải là quá trình chuẩn bị để xây dựng thể chế dân chủ. Điều này (cách thức xây dựng chính quyền kiểu này) cùng với việc bỏ qua việc xác định, lựa chọn định chế dân chủ cốt lõi của thể chế dân chủ là nguyên nhân chính dẫn tới việc tất cả các quốc gia xây dựng thể chế dân chủ hiện nay trên thế giới chỉ có dân chủ trong tuyển cử, mà không hề có dân chủ tự do cho người dân.

     Khi chúng ta đặt vấn đề, chuẩn bị cho việc xây dựng thể chế dân chủ thì điều đó hoàn toàn khác với việc chuẩn bị cho ra đời bản hiến pháp và việc tổng tuyển cử để tạo ra quốc hội và chính phủ. Toàn bộ quá trình xây dựng thể chế dân chủ hiện nay trên thế giới đều bỏ qua một vấn đề quan trọng nhất, đó là thông tin đến từng người dân, về các quyền con người, về tự do, dân chủ về tình hình đất nước… dẫn tới tình trạng người dân không có đủ thông tin và kiến thức để tham gia vào quá trình xây dựng thể chế dân chủ và vận hành, thực thi, thực hiện các quyền con người của mình. Chính vì vậy, việc chuẩn bị để xây dựng thể chế dân chủ cần tuyệt đối tập trung vào nhiệm vụ này. Ngoài những việc cần làm, dựa vào kinh nghiệm của thế giới, chúng ta cần thực hiện ba bước tối quan trọng, để xây dựng thành công thể chế dân chủ trong tương lai.

     Một là, thời gian để các chính đảng, đảng phái đăng ký và quảng bá tới mọi miền đất nước, mọi thành phần trong xã hội ít nhất là từ 2-3 năm. Điều đó có nghĩa là Ủy ban khẩn cấp hoặc Chính phủ lâm thời cần tồn tại, duy trì từ 2-3 năm, sau đó mới thực hiện tổng tuyển cử. Đây là điều kiện bắt buộc để người dân có thông tin và nhận thức về tình hình đất nước, về các quyền con người, và về các chính đảng.

     Hai là, cần xây dựng ngay lập tức một trung tâm thông tin – hỗ trợ pháp lý của quốc gia, có văn phòng ở tất cả các tỉnh thành trong cả nước, có thể thông tin xuống tới tận thôn, bản, làng của người dân. Trung tâm này có chức năng thông tin toàn bộ các vấn đề về tình hình đất nước, trang bị các kiến thức về quyền con người, về tự do dân chủ cho toàn thể người dân trong cả nước. Đây là điều kiện tiên quyết, bắt buộc nếu Việt Nam muốn xây dựng được thể chế dân chủ thành công, tránh lối mòn của các quốc gia khác trên thể giới. Chúng ta tuyệt đối không được bỏ qua bước đi nền tảng này.

     Ba là, đặt việc xây dựng thể chế dân chủ ở đơn vị cơ sở làm trung tâm, tất cả việc xây dựng thể chế dân chủ ở các đơn vị khác  xoay quanh và hỗ trợ, phục vụ cho đơn vị này. Lý do là, đơn vị dân chủ cơ sở chính là nơi thể hiện và thực hành quan trọng nhất tự do của con người.

     Với ba vấn đề tối quan trọng trên, cùng với việc xác định được định chế dân chủ cốt lõi, để xây dựng và vận hành, chúng ta tin rằng, thể chế dân chủ của Việt Nam sẽ vượt thoát được lối mòn mà bao năm qua, hàng trăm quốc gia xây dựng thể chế dân chủ đã và đang mắc phải.

Hà Nội, ngày 19/11/2016

N.V.B.

Bài 4: LỰA CHỌN VÀ XÂY DỰNG ĐỊNH CHẾ DÂN CHỦ CỐT LÕI

     Trong quá trình suy tư viết cuốn sách Dân Chủ, cùng với suy nghĩ về việc sẽ xây dựng thể chế dân chủ cho Việt Nam như thế nào, trong đầu tôi luôn có một thắc mắc. Đó là, tại sao trên thế giới có khoảng 150 quốc gia có thể chế dân chủ tương đối giống nhau, nhưng chỉ có khoảng 30 quốc gia, người dân được thực sự tự do, còn lại trên dưới 120 nước kia, chỉ có dân chủ trong tuyển cử? Điều gì đã tạo ra 30 quốc gia có tự do dân chủ và điều gì ngăn cản 120 quốc gia kia người dân chưa thực sự tự do? Tại sao nền dân chủ Hoa Kỳ lại được ngưỡng mộ trên toàn thế giới? Liệu có một thể chế dân chủ nào, phương thức tổ chức xã hội nào có thể bảo đảm thành công cho tất cả các quốc gia hay không?

     Nếu ai đó từng quan tâm và nghiên cứu các bài viết của tôi, thì những câu hỏi nêu trên đã được tôi trả lời đầy đủ, trong hai bài viết vào đầu năm 2014, đó là các bài: Những thách thức trong việc xây dựng thể chế dân chủ ở Việt Nam, và bài, Nắm tay nhau xây dựng nền dân chủ, giấc mộng Việt Nam (http://anhtruong01.blogspot.com/2014/04/nhung-thach-thuc-trong-viec-xay-dung.html). Điều tôi buồn và khá lo lắng là, có rất ít người quan tâm đến việc xây dựng thể chế dân chủ mà đặt ra những câu hỏi nêu trên. Như vậy, họ sẽ mặc định cách thức xây dựng thể chế dân chủ hiện nay trên thế giới là tối ưu, và chỉ việc áp dụng. Là người mất nhiều công sức suy tư về chủ đề này, cá nhân tôi mong muốn có sự trao đổi, thảo luận, tranh luận và phản biện về những vấn đề tôi đưa ra trong cuốn Dân Chủ và các bài viết. Hi vọng về các quan điểm, nội dung của tôi đưa ra được áp dụng xây dựng thể chế dân chủ cho Việt Nam là rất mong manh. Nhưng trước khi đi vào trình bày lại, một cách hệ thống và ngắn gọn, tôi có một mong muốn gửi gắm cho những người có trách nhiệm xây dựng thể chế dân chủ cho Việt Nam (nếu tôi không có điều kiện tham gia được). Dù bất cứ ai, thiết kế và xây dựng thể chế dân chủ cho việt Nam, hãy đề nghị họ giải thích câu hỏi đầu tiên trong bài viết này: tại sao trên thế giới có khoảng 150 quốc gia có thể chế dân chủ tương đối giống nhau, nhưng chỉ có khoảng 30 quốc gia có được nền dân chủ tự do, còn lại 120 quốc gia, chỉ có dân chủ trong tuyển cử?

     Những vấn đề tôi đã trình bày xung quanh chủ đề xây dựng thể chế dân chủ, tôi xin không được trình bày lại. Đề nghị hãy đọc cuốn sách Dân Chủ và hai bài viết nêu trên. Ở đây, tôi đi vào trình bày ngay lý do các quốc gia có thể chế dân chủ mà người dân chưa thực sự được tự do, theo một cách tiếp cận khác, hay cách nói khác, với cùng một nội dung. Có ba lý do, hay ba yếu tố quan trọng nhất để xây dựng thành công một thể chế dân chủ cho bất cứ quốc gia nào.

     1/ Xác định và xây dựng định chế dân chủ cốt lõi

Như chúng ta biết, một thể chế dân chủ mà các quốc gia xây dựng thường có nhiều định chế dân chủ: hiến pháp dân chủ; tam quyền phân lập; đa nguyên đa đảng; bầu cử và ứng cử tự do; tản quyền và cơ chế liên bang; tự do ngôn luận, tự do báo chí, v.v. Tuy nhiên, tất cả các quốc gia xây dựng thể chế dân chủ chỉ biết vận dụng bằng cách xây dựng đầy đủ các định chế đó. Tất cả đều không đặt được vấn đề, trong số tất cả các định chế nêu trên, thì đâu là định chế dân chủ cốt lõi, cần được đặt vào vị trí trung tâm và xây dựng xung quanh định chế đó. Sự khác biệt trong cuốn sách Dân Chủ, trong các bài viết và quan điểm của cá nhân tôi chính là điểm này. Tôi đã xác định được, dựa trên nghiên cứu thể chế dân chủ của Hoa Kỳ, định chế dân chủ cốt lõi, đó là cơ chế bảo đảm tự do của con người, đó là tòa án nhân quyền bảo đảm mỗi cá nhân có thể tự mình bảo vệ các quyền con người của mình. Chỉ cần tập trung suy nghĩ vào các khái niệm tự do, quyền con người chúng ta có thể chấp nhận ngay cách đặt vấn đề này. Tự do của con người là khái niệm trung tâm, nhưng chưa được định nghĩa đầy đủ theo hướng để xây dựng định chế dân chủ, đã được cuốn sách Dân Chủ định nghĩa như sau: tự do của con người là các quyền con người và khả năng tự bảo vệ các quyền con người của mỗi một cá nhân. Từ định nghĩa này dẫn tới định chế tòa án nhân quyền là một vấn đề lo-gic đơn giản. Đây là định chế dân chủ cốt lõi mà bất kỳ thể chế dân chủ nào, nền dân chủ nào cũng cần quan tâm và xây dựng ngay lập tức.

     2/ Trang bị kiến thức cho người dân về vấn đề tự do, dân chủ

     Khi đã xác định được cơ chế để người dân tự bảo vệ các quyền con người của mình, thì vấn đề nhận thức, kiến thức của người dân về các quyền con người của mình, về vấn đề tự do, dân chủ, cách thức tham gia xây dựng thể chế dân chủ, cách thức bảo vệ các quyền con người của mình là vấn đề sống còn. Người dân chỉ có thể tự bảo vệ các quyền con người của mình khi họ hiểu rõ các quyền đó, và cách thức bảo vệ các quyền đó thông qua tòa án nhân quyền. Không những vậy, khi có nhận thức và kiến thức về tự do, dân chủ nhân quyền người dân còn tham gia vào việc xây dựng thể chế dân chủ, xây dựng luật pháp. Chúng ta cần đơn giản hóa các kiến thức về các quyền con người, về tự do, dân chủ để trang bị cho người dân. Về lâu dài, các kiến thức này cần được phổ biến tới các cấp học từ tiểu học tới trung học và đến đại học. Làm sao phải đạt được yêu cầu, người dân thuộc, nhớ được các quyền con người của mình như nhớ những bảng cửu chương trong toán học.

     3/ Cơ chế tản quyền và vấn đề dân chủ cơ sở

     Đây là hai vấn đề quan trọng, không thể bỏ qua trong xây dựng thể chế dân chủ. Cơ chế tản quyền, xây dựng nhà nước liên bang là yêu cầu bắt buộc nhằm giảm thiểu sức ép lên trung ương đồng thời phát huy được hết các ưu điểm của từng vùng, miền có các đặc trưng, đặc thù khác nhau. Vấn đề xây dựng thể chế dân chủ cơ sở quan trọng bậc nhất khi đơn vị cơ sở chính là nơi con người thể hiện mọi sự tự do, cũng như việc tham gia xây dựng thể chế đó. Xu hướng chung của thế giới là hợp tác và hòa hợp, đồng nghĩa với việc vai trò của chính quyền trung ương không còn mạnh và chi phối mọi mặt nữa, càng thúc đẩy việc xây dựng thể chế dân chủ cơ sở lên tầm quan trọng đặc biệt. Chúng ta cần đặt việc xây dựng thể chế dân chủ cơ sở làm trung tâm, và các đơn vị khác xoay quanh và phục vụ đơn vị dân chủ cơ sở này.

     Trên đây là ba vấn đề quan trọng, trong việc xây dựng thể chế dân chủ. Chúng ta cần hiểu rằng, ba vấn đề này là trung tâm, trọng tâm, cùng với việc xây dựng đầy đủ các định chế dân chủ khác mà các quốc gia đã và đang có. Các định chế khác cần được xây dựng xoay quanh và phục vụ định chế dân chủ cốt lõi (tòa án nhân quyền) và định chế dân chủ được chú trọng đặc biệt (tản quyền và dân chủ cơ sở). Cùng một cơ hội để xây dựng thể chế dân chủ, hy vọng nhân dân và đất nước chúng ta lựa chọn và xây dựng được một thể chế dân chủ bảo đảm cao nhất tự do của con người, và bài viết này là một cách tiếp cận để tham khảo./.

Hà Nội, ngày 20/11/2016  

N.V.B.

Nguồn: http://www.rfavietnam.com/blog/4362

Bức tường than khóc

 Bức tường than khóc

Blog RFA

CanhCo

20-11-2016

Do Thái, một quốc gia tan nát, chia lìa phải chạy trốn khắp nơi trên thế giới vậy mà cuối cùng vẫn trở lại được với quốc gia của mình do kiên trì và tình yêu quê hương đất nước tột độ. Họ có rất nhiều biểu tượng về niềm tin đối với thượng đế mà một trong các di tích còn lại là Bức tường than khóc nằm tại Jerusalem, thành phố của Chúa.

Bức tường than khóc được xây dựng gần ba ngàn năm, nơi ấy người Do Thái tin rằng khi viết một lời nguyện nào đó trên giấy rồi nhét vào một lỗ hổng trên tường sẽ được chứng nhận và thực hiện bởi Chúa. Những câu than khóc, những lời ước hay thú nhận tội lỗi trước Chúa làm cho người ta rũ bỏ điều không phải của mình đã làm để từ đó xin ơn lành cùng sự cứu rỗi.

Ở Việt Nam cũng có một bức tường than khóc như thế.

Mỗi năm một lần bức tường than khóc xuất hiện tại Quốc hội qua hình ảnh của 500 ông bà đại biểu như những viên gạch được người dân gửi tới nằm chồng lên nhau. Những viên gạch lằng nghe sự than khóc của những ông Bộ trưởng qua các báo cáo, chất vấn và những câu trả lời “nhận khuyết điểm” như tiếng than khóc của những đứa bé chưa trưởng thành được giao cho vai trò ngồi trên đầu thiên hạ.

Bức tường ấy đôi khi cũng giận dữ hay phê phán với một chừng mực nhất định để rồi cuối cùng nhận tấm giấy “hứa” nhét vào khe hở vốn toang hoác vì trơ trẽn.

Bức tường than khóc năm nay bị quá tải. Quá tải bởi sự than khóc của các Bộ trường trở nên đông đúc và khôi hài hơn. Tường không còn chỗ nhét các phát biểu nữa, đặc biệt sau khi ông Phùng Xuân Nhạ bị chất vấn vì hành vi vô giáo dục của ngành giáo dục do ông quản lý. Bộ trưởng Nhạ bị vây và đã phản ứng như một đứa trẻ lớp năm. Ông phân trần rằng các giáo viên bị điều đi tiếp khách do cán bộ chỉ vui chơi thôi không có bất cứ một sai trái nào.

Hình ảnh giáo dục của đất nước trở nên tồi tệ đến không còn chỗ rửa chân nhất là ngày nhà giáo tới gần và phát biểu của ông Nhạ như chiếc đinh đóng vào bức tường than khóc tại Quốc Hội.

Giáo dục đã tỏ rõ thành quả của nó sau 70 năm xây dựng. Cụ thể và dễ thấy nhất qua hình ảnh của các Bộ trưởng Giáo dục từ trước tới nay. Thử hỏi có ông nào ăn học đàng hoàng, tận tâm tận lực với giáo dục hay không hay là chỉ là những cậu bé bị ủ thứ khí đá “nhiệm vụ chính trị” sau những năm tháng học hỏi lý tưởng Mác Lê và tuyên chiến với ngành giáo dục bởi sự dốt nát và mù quáng của chính họ.

Một nền giáo dục lấy xác người làm đơn vị đong đếm trong sách giáo khoa sẽ sản sinh ra những người dân lạnh lùng giết những tên ăn trộm chó một cách tàn nhẫn.

Một nền giáo dục vinh danh anh hùng thần đồng không có thật là Lê Văn Tám, sẽ sản sinh ra những hung thần nhỏ có thật sẵn sàng đánh nhau như kẻ thù rồi quay phim đưa lên mạng như một chiến tích đối với bạn bè mình.

Một nền giáo dục xem sự tranh dành miếng ăn là mục tiêu trong cuộc sống sẽ sản sinh ra hình ảnh dành ăn trong các tiệm buffet ở nước ngoài là điều không hề đáng ngạc nhiên.

Một nền giáo dục xem hành vi chửi bới là chuyện bình thường nơi công cộng sẽ sản sinh ra bún chửi Ngô Sĩ Liên với hàng ngàn con bệnh tới đây sếp hàng nghe chửi là điều hợp lý.

Một nền giáo dục luôn miệng tôn sư trọng đạo nhưng học trò đánh nhau với thầy cô giáo xảy ra như cơm bữa và không ai thấy đó là sự băng hoại của nền giáo dục sẽ lây lan ra xã hội như nấm sau mưa.

Phùng Xuân Nhạ là sản phẩm của nền giáo dục ấy, nay được bày ra trước thiên hạ những gì ông ta được học trong nhà trường xã hội chủ nghĩa thì chúng ta cũng không nên trách móc ông ấy. Hãy tiếp tục than khóc cho chính chúng ta, những kẻ đang nuôi dưỡng nền học vấn đáng bị lên án và đập bỏ.

Ngày nhà giáo 20 tháng 11 người ta thấy ông Phùng Xuân Nhạ tới viếng thầy của mình là Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân. Không biết ông Nhạ học ông Nhân lúc nào nhưng xét về thành tích thì ông Nhân không hơn gì ông Nhạ mặc dù được gọi là thầy.

Cái lỗi của ông Nguyễn Thiện Nhân vẫn sờ sờ ra đấy: Ngày 17 tháng 11 năm 2006 ông Nhân trong tư cách Bộ trưởng Giáo dục đã hứa rằng tới năm 2010 người giáo viên sẽ sống được bằng đồng lương của mình.

Mười năm sau, người giáo viên khắp nước vẫn ngậm niềm tin của ông Nhân trong miệng lặn mò tìm đồng lương “sống được” ấy dưới những ao hồ bị phỉ báng là dạy thêm.

Giáo dục với những lời hứa cuội sẽ sản sinh ra những bộ trưởng than khóc trước quốc hội là điều tất yếu. Tất cả các Bộ trưởng trong các đời Thủ tướng khác nhau đều được sinh ra trong chiếc lò ấp trứng xã hội chủ nghĩa được mệnh danh là giáo dục, sẽ không có thứ triết lý giáo dục nào thích hợp, ngoại trừ bốn chữ “nhiệm vụ chính trị” rất hào nhoáng nhưng lại đúng đắn đến kỳ lạ.

Và vì vậy “bức tường than khóc” vẫn còn đó trong hàng chục hay hàng trăm năm nữa cho tới khi sự than khóc trở thành lửa đốt ra tro thứ than khóc giả tạo và đầy khinh bỉ đối với người dân hiện nay.

12 từ người thành công phải hiểu rõ

12 từ người thành công phải hiểu rõ

Nếu bạn muốn thành công, bạn cần phải hiểu rõ ý nghĩa của 12 từ này.

  1.  Danh tiếng: Bạn có thể xây dựng hình ảnh của riêng mình trong tâm trí người khác. Danh tiếng của bạn là sự quảng bá tốt nhất của bạn. Có thể mất hàng năm trời, thậm chí cả chục năm trời để gây dựng danh tiếng, nhưng chỉ mất vài phút để hủy hoại nó.

 

  1. Di sản: Di sản là lúc người ta nói về bạn khi bạn đã qua đời nhiều hơn là khi bạn còn sống. Hãy nghĩ về những nhân vật như: Walt Disney, Martin Luther King Jr. và Michael Jackson. Họ đều là những người có di sản nhờ máu, mồ hôi, nước mắt mà họ đã đặt vào sự nghiệp của mình.

 

  1. Tranh cãiNếu bạn muốn thành công, bạn sẽ phải trải qua những thứ như thế này. Hầu hết mọi người sẽ không đồng ý với quan điểm của bạn, đặc biệt là nếu bạn tiếp tục lan truyền thông điệp của mình. Khi bạn nói ra, mọi người sẽ tấn công ý kiến của bạn và cố gắng khiến bạn cảm thấy mình thấp kém. Đừng để những thất bại của họ làm mất giá trị sự thành công của bạn.

“Để dẫn đầu một dàn nhạc, bạn phải quay lưng lại với đám đông” – Max Lucado

 

  1. Ghen tị:Bất kể bạn làm gì cũng sẽ có những người ghen tị với bạn. Người thân, hàng xóm, bạn bè, đồng nghiệp sẽ mỉm cười nhưng có thể âm thầm ghen tức sau lưng bạn. Nếu bạn bị cuốn vào những trò hề của họ, bạn có thể khiến sự thành công của mình bị trì hoãn.

 

  1. Chỉ trích:Không ai có thể sống một cuộc sống thành công mà không có những lời chỉ trích. Có những người dễ dàng suy sụp khi hành động hoặc suy nghĩ của họ bị chỉ trích.

“Gậy và đá có thể làm gãy xương nhưng lời nói thì luôn có thể làm tổn thương bạn” – Daniel Ally

 

  1. Giáo dục:Trong khi hầu hết mọi người đều nghĩ rằng tốt nghiệp là kết thúc sự nghiệp học hành thì thực tế đó mới chỉ là bắt đầu. Giáo dục là biết bạn phải làm gì với những gì bạn có. Tôi biết nhiều người thông minh hơn tôi, nhưng hầu hết mọi người không biết cách truy cập vào bộ não của mình. Vì thế, họ không thực sự được giáo dục.

 

  1. Tình yêu:Bạn có thể có tất cả mọi thứ: tiền bạc, thành công, danh tiếng, nhưng nếu bạn không yêu ai cả, thì bạn chưa thành công. Tình yêu là động lực chủ yếu của mỗi con người, nhưng nó phải được kích hoạt. Nếu một người thể hiện sự ghét bỏ, nó sẽ phá hủy mọi thứ mà họ tạo ra. Ngược lại, nếu họ thể hiện tình yêu, họ có thể gây dựng và giúp hàng triệu người trên đường đi của họ. Tình yêu là có thật.

“Tình yêu là khi hạnh phúc của người khác quan trọng hơn hạnh phúc của riêng bạn” – H.Jackson Brown Jr.

 

  1. Ưu tiên:Lúc đầu, bạn sẽ muốn nói “có” với mọi cơ hội đến với mình. Tuy nhiên, khi bạn trở nên bận rộn, bạn cần phải ưu tiên. Ưu tiên là làm trước những gì quan trọng nhất. Người thành công hiểu việc gì cần phải làm. Học cách tập trung và hướng tới những mục tiêu quan trọng, bạn sẽ đạt được những kết quả lớn.

 

  1. Tiền bạc:Kiến thức tài chính rất cần thiết với những người muốn tác động tích cực trên thế giới này. Tiền bạc là một hệ thống trao đổi cho phép bạn trao đổi hàng hóa và các dịch vụ. Tuy nhiên, một số người mạo hiểm cuộc sống của mình vì tiền bạc. Bạn phải làm chủ tiền bạc và đừng bao giờ để nó làm chủ mình.

“Con người làm ra tiền bạc, tiền bạc không bao giờ làm nên con người” – LL Cool J

 

  1. Thời gian:Có một thời điểm hoàn hảo cho mọi thứ. Tuy nhiên, phần lớn mọi người không hiểu về thời điểm. Đàn ông cầu hôn phụ nữ quá sớm. Giáo sư giảng bài quá lâu. Vận động viên ăn mừng quá sớm. Bạn làm chủ thời gian càng tốt thì bạn làm chủ cuộc sống càng tốt. Thời gian là tài sản có giá trị nhất mà bạn có.

 

  1. Liêm khiết:Nhiều người nghĩ rằng họ phải hy sinh sự liêm khiết của mình để thành công. Họ cho rằng những người giàu ăn gian thuế má, lừa đảo để trở nên giàu có. Thực tế thì ngược lại. Bạn chỉ có thể thành công nếu bạn liêm chính. Thành công chỉ tới với những người có thể tin tưởng được.

“Liêm chính là nói sự thật với chính mình. Trung thực là nói sự thật với người khác” – Spencer Johnson.

 

  1. Sự tinh thông:Thành công thực sự chỉ có thể tới khi bạn trở thành người giỏi nhất trong việc mà bạn làm. Hằng ngày, bạn có cơ hội để đạt được hiệu suất cao nhất của mình. Đây là lúc mà bạn có thể sử dụng tài năng, kỹ năng và khả năng với hiệu suất cao nhất. Bạn phải chọn một nghề cho phép bạn trở thành phiên bản tốt nhất của bản thân. Khi bạn làm được điều đó, sự tinh thông sẽ là điều tất yếu.                                                                              Nguyễn Thảo(Theo Huffington Post)
  • Anh chị Thụ  & Mai gởi

Giáo dục nát bét, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ nên từ chức

Giáo dục nát bét, Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ nên từ chức

FB Lê Văn Sơn

20-11-2016

Bộ trưởng GD Phùng Xuân Nhạ. Ảnh: internet

Giáo viên bị điều đi làm tiếp viên vì nhiệm vụ chính trị, tiến sĩ giáo sư nhảy lên bàn văng tục, chửi thề người khác, học sinh đánh nhau hội đồng từ cấp tiểu học đến trung học, đại học, giáo viên mua dâm, hiếp dâm và động dâm với nhau, với học sinh, thủ đoạn moi tiền bất hợp lý của lãnh đạo và giáo viên. Tất cả những điều đó đang diễn ra nối tiếp nhau và liên tục trong nhiệm kỳ của ông Phùng Xuân Nhạ làm Bộ trưởng Bộ GD&ĐT.

Khi lên chức Bộ trưởng ông Nhạ cho rằng: ” đứng trước đòi hỏi cuộc sống, đứng trước hội nhập, đứng trước nhu cầu của con người: nhu cầu học hành tử tế, nhu cầu được sống vui vẻ, nhu cầu được sống trong xã hội yên bình. Đó là nhu cầu chính đáng của bất kỳ người dân nào”.

Ông Nhạ bình luận xã hội không nên đổ lỗi hết cho giáo dục: ” Tôi xuất phát từ thực tiễn là lắng nghe con người. Tất cả con người đều có mưu cầu để cuộc sống tốt lên, nhân văn hơn từ đó quay trở lại giáo dục phải làm thế nào để kết hợp. Tại sao cứ đổ hết cho giáo dục?”

“Nhà trường – gia đình – xã hội. Xã hội ở đâu? Giáo dục có cố gắng đến mấy nhưng môi trường xã hội, cộng đồng không đồng hành cùng mà chỉ bình luận, chỉ kêu thì không được”.

Việc Giáo viên bị điều đi tiếp khách là “hãnh diện và vinh dự”, việc tiến sĩ nhảy bổ lên bàn văng tục chửi thề, một số giáo viên, lãnh đạo hoang dâm vô độ, các học sinh đánh nhau thì xuất phát từ đâu? Một cơ chế hiện thời của Giáo dục đã cho phép những điều đó xảy ra thì hệ lụy gì sẽ xảy ra cho văn hóa xã hội Việt Nam?

Ông Nhạ có liên quan, chịu trách nhiệm cho những tệ nạn đó đang xảy ra? hay vẫn chối bỏ trách nhiệm, đổ lỗi cho giáo viên và cho xã hội?

Nghề Giáo viên trong bất cứ xã hội nào, chế độ nào cũng được coi trọng, ấy thế mà trong xã hội bị cộng sản cai trị này, nghề giáo viên đã bị chôn vùi trong những điêu tàn, bị dư luận lên án, bị xã hội khinh chê.

Tất nhiên, trong hệ thống Giáo dục vẫn có nhiều nhà giáo rất đáng trân trọng, vẫn giữ được cái tâm đối với nghề và với cái chữ. Mong thay Giáo viên Việt Nam cất cao tiếng nói để lấy lại vị thế và hình ảnh của mình.

Điều đầu tiên ông Phùng Xuân Nhạ nên có văn hóa từ chức vì những bê bối của ngành mình đang quản lý. Đó là một sự thay da đổi thịt mang tính đột phá đấy ông Nhạ bộ trưởng ạ.

Tôi gởi tới các nhà giáo có tâm những lời chúc tốt đẹp nhất nhân ngày nhà giáo Việt Nam. Kính chúc quý thầy cô mạnh khỏe, bình an và tràn đầy trí lực để gieo những hạt giống tâm hồn tốt cho xã hội Việt Nam chúng ta.

Triết lý giáo dục Việt Nam là gì?

Triết lý giáo dục Việt Nam là gì?

Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2016-11-21

Ảnh minh họa chụp tại Hà Nội hôm 5/9/2016.

Ảnh minh họa chụp tại Hà Nội hôm 5/9/2016.

AFP

Triết lý giáo dục hay cổ động học sinh?

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam trong dịp đăng đàn chia sẻ quan điểm của ông về câu hỏi từ một đại biểu quốc hội “Việt Nam có triết lý giáo dục hay không” đã xác nhận “Việt Nam có triết lý giáo dục, chứ không phải không có. Có điều, ta không có những câu trích dẫn để thành kinh điển”.

Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam trong vai trò phụ trách khối văn hóa xã hội, khoa học, giáo dục và đào tạo, đã đăng đàn trước Quốc hội để chia sẻ ý kiến của ông về vấn đề giáo dục, và một trong những câu trả lời của ông là có hay không một triết lý về giáo dục tại Việt Nam.

Ngay khi mở đầu ông đã khẳng định “Nếu chúng ta lên mạng Internet gõ cụm từ “triết lý giáo dục Việt Nam” và trưa nay tôi đã gõ thì thấy ra tới 1,3 triệu kết quả tìm kiếm”.

Một triệu ba trăm ngàn lượt tìm kiếm nhưng người ta vẫn không có một kết quả nào cụ thể do chính Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng đẫn hay gợi ý khi tìm câu mà ông cho rằng là triết lý giáo dục Việt Nam, trong khi đó Phó Thủ tướng khẳng định rằng “Triết lý giáo dục của Việt Nam trước hết là triết lý xây dựng đất nước dân giàu nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đó là xây dựng con người Việt Nam toàn diện, đức trí, thể mỹ, có tinh thần dân tộc, có lòng yêu nước và có trách nhiệm quốc tế”.

Ông Vũ Đức Đam chẳng có kỹ năng sống và không hiểu thực tế ông ta chẳng hiểu gì cả. Ngu đốt thiếu kiến thức tham lam và lợi ích nhóm, ông ta có bao nhiêu tiền thì giáo dục cũng xuống dốc.
-TS Nguyễn Văn Khải

Cũng theo trích dẫn của báo chí Phó Thủ tướng cho rằng triết lý giáo dục Việt Nam cũng nhằm vào mục tiêu như UNESCO đã đề ra, đó là học để biết, học để làm, học để tự khẳng định, tự kiếm sống.

Rất nhiều trí thức không đồng tình với khẳng định của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam vì đó không phải là triết lý giáo dục mà là một hình thức cổ động sinh viên học sinh, hay nói cách khác đó là mục tiêu giáo dục của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chứ không nằm trong phạm trù triết lý. Kể cả trích dẫn tiêu chí của UNESCO cũng chưa hẳn thích hợp với hoàn cảnh lịch sử và con người Việt Nam.

TS Nguyễn Văn Khải đã thẳng thắn phê bình Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam là không thực tế và có hơi hướm tuyên truyền mị dân, ông nói:

“Ông Vũ Đức Đam chẳng có kỹ năng sống và không hiểu thực tế ông ta chẳng hiểu gì cả. Ngu đốt thiếu kiến thức tham lam và lợi ích nhóm, ông ta có bao nhiêu tiền thì giáo dục cũng xuống dốc. Trong khi học sinh đi học cả ngày, các ông in sách giáo khoa in 4 trang nói về muối nhưng quên một câu “phải dùng muối i-ốt”. Anh nên nhớ rằng cái sai lầm của anh là anh mời người ta đi họp về cải cách giáo dục, anh mời mọi người họp trong đó có những người biên soạn sách giáo khoa nhưng anh không dám mời những người phê bình sách giáo khoa viết sai và lạc hậu.”

Thiếu cái gốc nhân bản?

000_GT31N.jpg
Học sinh, sinh viên tại Hà Nội tìm hiểu thông tin du học, ảnh chụp hôm 4/10/2016. AFP PHOTO

Triết lý giáo dục tùy mỗi quốc gia có khác nhau nhưng mục đích chung của mọi nền giáo dục trên thế giới là xây dựng một con người nhân bản trước khi tạo cho họ một con đường phấn đấu nào khác.

Có lẽ do thiếu cái gốc nhân bản trong triết lý giáo dục nên xã hội Việt Nam đã chứng kiến hàng loạt vụ học sinh thanh toán nhau và tấn công cả giáo viên trong lớp học. Cảnh tượng người trộm chó bị dân chúng giết chết hay hàng trăm người cướp giật một xe chở hàng bị tai nạn, hay tệ hơn là cách hành xử thiếu văn hóa nơi công cộng… Những hình ảnh xấu ấy đang băng hoại nhà trường và xã hội nhưng không một Bộ trưởng giáo dục nào nhìn nhận trách nhiệm trước Quốc hội bởi cái lõi gây ra chính là sự thiếu kém một triết lý giáo dục đúng nghĩa.

GSTS Nguyễn Đăng Hưng từng giảng dạy trong và ngoài nước nhiều chục năm, tiếp cận được nhiều nền giáo dục của thế giới cho biết nhận xét của ông về triết lý giáo dục Việt Nam:

“Cái nền giáo dục Việt Nam nó không phải chỉ là lạc hậu mà còn là lạc đường. Vì lạc đường nên nó loay hoay mãi không có lối ra. Mình sai thì còn có thể sửa chứ đi lạc đường mà lại tin tưởng con đường đó đúng thì không bao giờ thoát ra khỏi cái hệ lụy đó được.

Cái lạc đường của Việt Nam là chúng ta không đánh giá đúng triết lý giáo dục phù hợp với con người. Giáo dục Việt Nam không phục vụ con người theo cái nghĩa con người tự do, con người nhân văn, con người có hiểu biết, con người có tinh thần phê phán và sáng tạo.

Cái nền giáo dục Việt Nam nó không phải chỉ là lạc hậu mà còn là lạc đường. Vì lạc đường nên nó loay hoay mãi không có lối ra. Mình sai thì còn có thể sửa chứ đi lạc đường mà lại tin tưởng con đường đó đúng thì không bao giờ thoát ra khỏi cái hệ lụy đó được.
-GSTS Nguyễn Đăng Hưng

Anh phải đặt một tiêu chí mới một triết lý mới, phải đào tạo và tôn trọng đối tượng của mình là học sinh, sinh viên mình đang dạy để cho họ có một không gian đa chiều, để cho họ có một tinh thần phê phán. Khuyến khích họ có thể có những ý kiến những suy nghĩ độc lập và nếu được như vậy thì mới có nền giáo dục chân chính, đứng đắn thật sự.”

Trước năm 1975, Bộ giáo dục Việt Nam Cộng hòa đã đưa ra triết lý giáo dục cho nhà trường tập trung trong ba điểm: Nhân bản, Dân tộc và Khai phóng trong đó con người vẫn là yếu tố quan trọng nhất. Giáo dục con người hoàn thiện trong suy nghĩ, lời nói, việc làm là tiền đề thành công cho một nền giáo dục. Từ căn bản này Giáo Sư Nguyễn Đăng Hưng chia sẻ:

“Thôi đừng có loay hoay tốn thời giờ mà nên nhìn thẳng đi. Hãy sử dụng chương trình giáo dục Việt Nam đã có rồi, đó là chương trình giáo dục của Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã xây dựng cho chính phủ Trần Trọng Kim từ năm 1945. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã xây dựng chương trình này trong 4 tháng nhưng đó là một chương trình khá chuẩn cho Việt Nam. Bằng cớ là chính phủ Việt Nam Cộng Hòa sau này trong vòng 10 năm đã sử dụng chương trình Hoàng Xuân Hãn và đã đào tạo nên những thế hệ những con người trí thức của miền Nam. Xây dựng được những ngôi trường tiếng tăm như ngôi trường Petrus Trương Vĩnh Ký mà tôi là học sinh. Xây dựng được con người có ý thức dân tộc, có tình yêu đất nước, hiều biết lịch sử Việt Nam, thế giới và ngay cả những chuyên môn trong khoa học nên khi ra thế giới họ không hề thua kém người Mỹ, người Pháp hay những nước khác. Hãy lấy chương trình đó mà sử dụng đừng loay hoay tìm lung tung làm gì?”

Dư luận liên tục phản ứng mạnh mẽ trong vụ điều động 21 giáo viên nữ tiếp khách tại Hồng Lĩnh, bởi những viên chức giáo dục vẫn còn dựa vào yếu tố “nhiệm vụ chính trị” để bảo vệ cho chính sách giáo dục xem nhân phẩm không bằng chính trị thì có lẽ rất khó tìm ra triết lý giáo dục đúng nghĩa cho hướng đi trong những ngày sắp tới.

Một Lỗ Nhỏ Trên Vách Tường

Một Lỗ Nhỏ Trên Vách Tường

Tại một trung tâm bài phung cùi nọ, đa số các nạn nhân đều buồn chán vì cảm thấy bị bỏ rơi và bị mọi người xa lánh. Tuy nhiên, có một người vẫn còn biết cười và vẫn tiếp tục tạ ơn khi được giúp đỡ.

Vị nữ tu coi sóc trung tâm muốn tìm hiểu đâu là nguyên nhân của phép lạ này. Sau nhiều ngày theo dõi, vị nữ tu mới khám phá rằng, xuyên qua một lỗ nhỏ trên vách tường ngăn cách trung tâm với thế giới bên ngoài, ngày ngày có một người đàn bà đến nhìn vào và mỉm cười rất trìu mến. Ðó là tất cả sức mạnh và niềm hy vọng của người đàn ông xấu số. Mỗi ngày, ông chờ đợi nụ cười ấy. Khuôn mặt của người đàn bà chỉ chợt xuất hiện, mỉm cười và biến mất. Người đàn ông duy nhất còn biết cười trong trung tâm bài phung đó đã giải thích cho vị nữ tu như sau:

“Người đàn bà ấy chính là vợ tôi. Trước khi tôi đến đây, nàng đã tìm đủ mọi cách để chữa chạy tôi. Mỗi ngày, nàng lau sạch một khoảng nhỏ trên khuôn mặt tôi và đặt lên đó một cái hôn… Nhưng cuối cùng, nàng không thể giữ tôi lâu hơn. Người ta đã đến đưa tôi vào trung tâm này.

Nhưng vợ tôi đã không bỏ tôi. Mỗi ngày, nàng đến nhìn qua lỗ hỏng của vách tường và mỉm cười với tôi. Nhờ nàng, tôi biết rằng tôi vẫn còn sống. Nhờ nàng, tôi vẫn còn muốn sống…”.

Tình yêu mạnh hơn sự chết. Tình yêu đã làm cho người vợ không nhìn người chồng xấu số như một con người đáng xa lánh. Tình yêu của người vợ đã đem lại sức mạnh và niềm vui sống cho người chồng… Nhu cầu căn bản nhất của con người là yêu và được yêu. Bất cứ ai cũng cần đến tình yêu và muốn thể hiện tình yêu… Bạn có biết rằng có bao người đang cần một nghĩa cử, một nụ cười, một ánh mắt cảm thông của bạn không?

Trích sách Lẽ Sống

Anh chị Thụ & Mai gởi

Tin Việt Nam

Ba tuyến metro của TP HCM bị đội vốn 60.000 tỷ đồng

Tính toán không sát thực tế, trượt giá, tăng khối lượng dự án… là lý do khiến tổng vốn đầu tư 3 tuyến metro của TP HCM tăng khoảng 60.000 tỷ đồng.

 Chi hơn 70 tỉ đồng làm… kỉ niệm chương!

Kỷ niệm 80 năm ngày truyền thống thợ mỏ, Tập đoàn Than khoáng sản Việt Nam yêu cầu các đơn vị, bỏ ra số tiền hơn 70 tỉ đồng để làm những chiếc kỉ niệm chương. Nhiều công nhân, cán bộ Tập đoàn Than khoáng sản cho rằng đó là sự lãng phí và giá trị thực của những chiếc logo này đã bị… đội giá.

Gần 12 vạn logo kỉ niệm chương “ngốn” 70 tỉ đồng

 Mới chê “cái mặt kênh kiệu” đã bị phạt 5 triệu thì ai dám đóng góp nữa?

Dân trí : Liên quan đến sự việc tỉnh An Giang phạt tiền 5 triệu đồng đối với hai cán bộ chê Chủ tịch tỉnh này trên Facebook, đại biểu Quốc hội Trần Khắc Tâm nói: “Nếu họ chỉ nói mình kênh kiệu mà xử lý thế thì nay mai ai người ta đóng góp cho mình nữa”.

PHỤC VỤ VÀ HIỆN DIỆN

PHỤC VỤ VÀ HIỆN DIỆN

Giuse Ngô Văn Chữ, S.J.

Cô Son, nữ tu Dòng Nữ Vương Hòa Bình, phụ trách giáo lý dự tòng và giáo lý hôn nhân cho người Dân Tộc.  Nếu anh chị em Dân Tộc ở gần thì cô sắp xếp lớp ở nhà xứ để họ đến học, còn những người ở xa thì cô phải lặn lội đi vào buôn để dạy.  Sáng nọ cô vào làng dạy giáo lý hôn nhân cho sáu cặp mà ngồi chờ hơn tiếng chẳng thấy ai đến học, thông thường các cô khác thì đã đi về rồi, nhưng cô Son cố nán lại trong buôn để đi tìm, đến nhà cụ Lép hỏi con bà, Lợi, ở đâu mà không thấy đến lớp học giáo lý.  Bà nói nó đang ở nhà Dí, thế là cô đi tìm hỏi nhà Dí.  Đến nhà Dí thấy Lợi cùng với mấy người bạn đang khề khà mấy hạt đậu phụng với rượu đế.  Cô nói hôm nay có học mà sao không đến.  Lợi nói quên, bây giờ lỡ uống rượu rồi nên không đi học nữa.  Cô nói Lợi để rượu đó, đi học về rồi uống tiếp, nhưng Lợi không chịu.  Cô nài nỉ mãi thì Lợi nói cô về lớp trước đi, rồi Lợi sẽ đến liền.  Cô không đi, vì cô biết nếu cô đến lớp chờ thì Lợi cũng chẳng ló mặt đến.  Cô nói: “Tôi không đi đâu, tôi cứ ngồi đây chờ anh.  Tôi đến lớp từ sáng đến giờ và đã chờ gần hai tiếng rồi.”  Lợi nghe cô nói thì động lòng, cô đã bỏ công việc bề bộn của giáo xứ để lặn lội chạy xe vào làng để dạy, rồi lại còn kiên nhẫn ngồi chờ mình gần hai tiếng, nên Lợi ngưng ngay rượu để đi học.  Thế là tóm được một anh!  Lợi dẫn cô đi tìm mấy người kia, chỉ một chặp là có đủ mặt, và lớp học lại tiếp tục, dù trễ hơn hai tiếng.

Anh chị em Dân Tộc đối xử với nhau đầy tình người như vậy đó.  Các anh chị em đến học vì thấy cô đã chờ mình gần hai tiếng đồng hồ, họ thấy tội nghiệp khi cô phải lủi thủi đi về.  Còn chuyện cô vào mà không có người nào học để rồi lần sau không vào nữa thì họ chẳng quan tâm.  Đời sống của họ chẳng biết suy nghĩ về tương lai, anh chị em Dân Tộc chỉ sống thì hiện tại mà thôi.  Họ kiếm được tiền hôm nay thì vui hôm nay, còn ngày mai thì họ chẳng màng tới.  Ngày trước đã có nhiều cô vào trước để dạy nhưng thường bỏ ngang khóa học vì không hiểu được đời sống của người Dân Tộc và cũng chẳng cảm thông với não trạng và tâm tình của họ.  Nếu đến với người Dân Tộc chỉ bằng cái đầu logic và luật lệ thì không thể đến được với anh chị em Dân Tộc được.  Muốn đến với họ thì phải đến bằng trái tim để có thể cảm thông.  Cách hành xử của anh chị em Dân Tộc là cách hành xử của con tim.

Sau khóa học có thánh lễ hợp thức hóa các đôi hôn nhân tại nhà thờ giáo xứ.  Trước thánh lễ cô đã đếm đủ sáu cặp rồi, nhưng đến khi đọc lời thề hứa của từng cặp thì không biết sao lại mất đi một cặp.  Kiểm tra lại thì thấy thiếu cặp vợ chồng Hua.  Đi tìm quanh nhà xứ cũng chẳng thấy đâu.  Cô hỏi thăm cặp vợ chồng Hua đâu thì có người bảo họ đã đi về rồi.  Hỏi tại sao về thì chẳng ai biết, thế là cô nhờ một anh Dân Tộc đi với cô về lại buôn tìm Hua.  Đến nhà Hua thấy hai vợ chồng ngồi mỗi người một góc.  Hua đang chửi vợ như tát nước, thiếu điều muốn bỏ vợ.  Cô hỏi sao mà bỏ thánh lễ về ngang như vậy thì mới biết bà vợ đang bồng con dự lễ thì đứa nhỏ… tè ra ướt hết cả áo, nên đi về nhà thay áo khác.  Nhưng ở nhà làm gì có cái áo nào ra hồn để thay, nên không trở lại dự lễ nữa.  Cô năn nỉ mãi một chập sau hai vợ chồng mới chịu theo cô trở lại nhà thờ.  Khi đến nhà thờ thì lễ đã xong, cha xứ phải làm một phần riêng cho hai vợ chồng.  Phục vụ cho anh chị em Dân Tộc là thế đó, nếu cứ thẳng thừng như kiểu người Kinh thì chắc không ổn.  Làm việc với họ cần kiên nhẫn và sự cảm thông nhiều lắm.

Đến với anh chị em Dân Tộc mà chỉ biết những lý lẽ và nguyên tắc của người Kinh thì họ khó mà đón nhận.  Một lần tôi đi với một anh giáo lý viên vào buôn lúc buổi chiều, đến cái chòi của một gia đình Dân Tộc thì chúng tôi được mời ăn tối.  Họ dọn lên bốn trái bắp nướng.  Anh giáo lý viên cầm một trái bắp nướng ăn, tôi cũng cầm một trái ăn, còn vợ chồng anh Dân Tộc và bốn đứa nhỏ ngồi coi chúng tôi ăn.  Tôi hỏi nhỏ anh giáo lý viên sao họ không ngồi ăn chung thì mới biết rằng bốn trái bắp nướng này là phần ăn tối của cả gia đình.  Họ đã nhường cho những người bạn của họ ăn.  Mà chúng tôi không ăn không được, vì không ăn là từ chối tình thương của họ và họ sẽ không coi chúng tôi là bạn.  Tôi ăn trái bắp mà nuốt không trôi, một phần vì bắp vàng rất cứng, bắp đã được hong khô bằng khói trên bếp để có thể để được lâu, rồi bây giờ nướng lên để ăn nên cứng kinh khủng, một phần là tôi đang ăn bữa ăn tối của họ và họ sẽ nhịn ăn tối đó, nên tôi ăn từng hạt mà như muốn mắc nghẹn đâu đó trong cổ họng.  Đó là văn hóa của người Dân Tộc, như người Kinh có mời khách bất ngờ ăn chẳng qua là mời xã giao vì cơm chỉ nấu đủ cho gia đình hôm đó.  Nghe mời lơi mà tưởng thiệt ngồi vào ăn thì nhiều chuyện đáng tiếc xảy ra.  Với người Dân Tộc thì không có mời lơi, khi họ mời là mời thiệt tình, họ nghĩ mình không ăn là khinh họ và không coi họ là bạn.

Một lần tôi ghé thăm nhà các cô giáo lý viên ăn trưa, phần cơm nấu cho năm cô và tôi là sáu.  Đang ăn thì ba anh Dân Tộc đem măng trong buôn ra nhà các cô để đổi gạo.  Các cô kêu vào ăn chung luôn vì họ đi chặt măng trong rừng từ sáng, rồi mang ra nhà các cô thì chắc chắn chưa có gì trong bụng, và lát nữa đây họ lại đi bộ hai ba tiếng về làng.  Một chập sau có thêm hai chị Dân Tộc ở buôn khác đem chuối ra đổi gạo và cũng được kêu vào ăn.  Vài phút sau lại có một nhóm năm anh em giáo lý viên Dân Tộc ghé ngang chơi cũng ngồi hết vào bàn và mọi người cùng vui.  Phần cơm cho sáu người nay phục vụ cho mười sáu người, thay vì mỗi người ăn hai chén hơn thì nay mỗi người ăn một chén và mọi người cùng vui.  Hôm đó tôi ăn một chén cơm thôi nhưng no thật sự vì một chén cơm đầy hương vị tình người.

Tôi đến phục vụ anh chị em Dân Tộc và thường hay có thái độ ban cho, các cô giáo lý viên đã dạy tôi cách sống phục vụ thật sự là hiện diện với anh chị em Dân Tộc.  Làm cho người khác thì dễ hơn là làm với người khác, và sống với người khác thì còn khó hơn nữa.  Thiên Chúa đã vì quá yêu nhân loại mà hạ mình đến thế gian để sống với con người.  Phục vụ như Marta là điều tốt nhưng hiện diện như Maria thì quý hơn (Lc 10:38-42).

Lạy Chúa, xin cảm hóa tâm hồn con để con biết Phục Vụ anh chị em với thái độ Hiện Diện như Chúa đã sống.  Sống trong một thế giới nặng phần sản xuất càng nhiều càng tốt nên con thường có thái độ làm cho nhiều mà quên đi thái độ cảm thông của con tim.  Xin Chúa cho con cảm nghiệm Tình Chúa thật nhiều để con lúc nào cũng mang lấy tâm tình của Chúa trên đường lữ hành.  Amen!

Giuse Ngô Văn Chữ, S.J.