Đám Bắc Kỳ

Đám Bắc Kỳ

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Ảnh của tuongnangtien

tuongnangtien

Trong bài viết “Tổng Quan Về Hồi Ký Tô Hoài,” Đặng Tiến có nhận xét sau:

“Ở các tác phẩm trước, Tô Hoài thường bao che, bào chữa, như là một hồi ký bao cấp. Đến Chiều Chiều, giọng kể nghiêm nghị hơn về đời sống chính trị và văn nghệ ngột ngạt những năm 1955-1970, về những sai lầm trong chính sách Cải cách ruộng đất, về những đợt học tập chiếu lệ ở trường Đảng cao cấp là trường Nguyễn Ái Quốc …”

Thực là qúi hóa! Nhờ Tô Hoài đã chán viết “hồi ký bao cấp” nên qua Chiều Chiều độc giả mới biết được cuộc sống (đích thực) của một gia đình nông dân ở miền Bắc, Việt Nam.

Từ cái năm xây cống Trà, đồng bớt mặn khỏi mặn, ông Ngải ra vỡ hoang được chín miếng thành ruộng rồi ở luôn đấy, chẳng bao lâu những nhà khác cũng kéo ra, cái xóm to dần. Bà Ngải lại kể ngày trước ông ấy đi kéo cày mướn thay trâu. Một con trâu thường đi suất ba sào. Ông kéo một buổi năm sào ruộng dầm gần gấp đôi trâu, chỉ đổi vai thừng một lần. Ngày công cao gấp rưỡi người khác mà các chủ ruộng đều ưa gọi ông, nhiều người đặt hẳn cọc đâu năm.

Rồi lại việc sông nước, đi cất vó. Cái năm ra phá hoang, chưa nên đất phải bện cỏ đánh luống để vũi dây khoai. Được ba tháng lá tốt um, móc lên ngốt mắt những củ khoai mập mạp. Rồi ông ấy lợp lều ở luôn, vừa trông vừa làm. Đến khi thành ruộng đã cấy được rồi mà cứ gặt xong lại cuốc, đất ngấu như bãi bồi. Thế là lại cắm luống dưa hồng, dưa gang, được quả to như lợn tháu lăn lóc cả đồng.

Nghe cứ như nếp sinh hoạt của đám nông dân vào Thời Trung Cổ: tối tăm và ngập bùn lẫn đất. Được cái là an bình và no đủ, dù đạm bạc.

Giá vợ chồng và con cái của ông bà Ngãi cứ được tiếp tục cuộc sống tối tăm như thế mãi thì chắc … họ cũng không có (và không biết) gì để phàn nàn. Nhưng cách mạng bùng lên, với nhiều đường lối và chủ trương vô cùng quyết liệt: Cải Cách Ruộng Đất, Hợp Tác Xã, Giải Phóng Miền Nam …

Trong nhà ông Ngải cũng nhiều đối thay. Ốc đã đi bộ đội. Cả Toàn con rể, ông bà cho ở gửi rể, cũng đi bộ đội. Chỉ ông bà Ngải vẫn ngày ngày nghe kẻng ra đồng làm. Nhưng ông Ngải ghét nhất cái cảnh ra đầu xóm đứng lố nhố, chuyện râm ran, điểm danh mấy lần vẫn chưa đủ người, đến khi cả tổ ra tới giữa đồng thì mặt trời đã lên ngang lưng tre. Ông Ngải bực mình chửi làm ăn thế này thì đói rã họng ra đến nơi. Ông Ngải không đi với mọi người. Ông hỏi hôm nay làm gì rồi ông xuống đồng trước. Ông Ngải đi sớm về muộn.

Ông làm theo ý ông, không biết cái kẻng. Ông đã quá tuổi lao động, ông làm hay không cũng thế, nhưng hôm nào không đi làm thì chân tay như uỗi ra. Cái gì ông cũng tự nghĩ rồi làm. Ông chỉ cho con cái học cho biết mặt chữ. Ông gả chồng cho cái Hến cũng không biết thế là tảo hôn, mà làng nước cũng chẳng ai bắt bẻ ông. Thằng ốc nhà độc đinh ông vẫn cho đi bộ đội. Ông bảo “đi cho biết đó biết đây”.

Suy nghĩ của ông Ngãi xem chừng hơi giản dị nhưng cuộc đời thì không, dù là đời sống của một ông nông dân chân chất, vẫn theo ngòi bút của Tô Hoài:

Tôi lại về xóm Đồng… Bao nhiêu năm rồi, ông Ngải ngồi bên búi tre lép, ngày ngày mọi việc trôi qua như dòng sông quanh ngoài chân tre. Cũng đồng đất ấy, nhưng chẳng ai nhắc đến thời hợp tác xã. Người đời hay tránh cái đau, cái hèn kém cả đến trong ăn nói cũng kiêng những tiếng thô, tiếng bỗ bã…

Một con trâu vào xóm. Đường ngõ vướng tường và nhà cao, chân trâu bước âm âm rời rạc như tiếng chày giã bèo. Rồi ló ra con trâu đi, một bé cưỡi trâu, một người đàn bà vai vác như cái sào, như cây mía, một bé quảy gánh cỏ rảo bước như chạy. Ông Ngải không nhìn ra, nhưng nói: 

     – Mẹ con nhà nó. 

Nói rồi ông ngước mặt:

– Anh Tư về chơi, mẹ Hến à!

Cô Hến ngả nón. Cô Hến chỉ bé sắt người lại còn thì vẫn như trước, cứ hao hao mà không khác mấy.

– Anh mới về. Mấy chục năm rồi…

– Năm nay cô bao nhiêu tuổi, cứ trừ đi khoảng mười lăm năm thì là bấy nhiêu lâu.

– Tính làm gì cho già người. Trông anh vẫn thế, bố em mà không gọi tên. em vẫn nhận ra.

– Cô với cháu đi làm đồng về. Thằng bé cưỡi trâu này ngày trước nằm võng phải không?

– Em vào trong xóm mua chuối...

     – Thế thì cô là lái chuối…

Tôi hỏi: 

– Anh Toàn nhà cô đâu?

     – Báo cáo với anh, nhà em lên Hà Nội làm xế lô. Có khi anh gặp mà không nhận ra thôi. Đến mùa thì về đỡ đần việc nhà. Cày cuốc ra hạt gạo, thì đồng tiền lại hiếm. Chẳng đạp cái xế lô thì đào đâu ra tiền làm nhà, trát sân, lại tiêu pha cho các cháu đi học. Thằng nhớn cũng thôi học rồi, chưa đến tuổi tuyển quân, đương đòi xuống Diêm làm cửu vạn …

Cô Hến lại kể:

     – Nhà em bảo em lên ở Hà Nội. Giàu có nhà quê không bằng ngồi lê Kẻ Chợ, vẫn đồn thế mà. Người hèn đớn cũng kiếm được, không mất bữa. Gánh đồng nát mà lãi quan viên. Nhà em bảo thế, em cũng đã lên xem sao.

Rồi cô Hến cười rúm mặt lại:

     – Chưa nổi phiên chợ em phải nhảo về. Kệch đến ngày xuống lỗ

     – Thủ đô đấy, mà cô chê a?

     – Mỗi tối thuê cái chiếu nằm gầm cầu, có tiền bạc của nả thì gối đầu, giắt lên ngực. Bốn bên lủng củng người nằm, nói anh bỏ lỗi, nó đéo nhau huỳnh huỵch rồi lại chửi nhau, quát nhau to tiếng hơn ô tô chạy ngoài đường. Cả đêm không tải nào chợp mắt, ăn cơm lại oẹ ra, ốm đến nơi. Thế là cút ngay. Thuê kẹo em cũng không bao giờ dám lên Hà Nội nữa.

Chiều Chiều xuất bản vào năm 1997. Tô Hoài từ trần năm 2014. Ông bà Ngải cũng không còn trên dương thế. Cậu con rể (hẳn) đã trở thành một công dân lão hạng, và e không còn sức vóc để tiếp tục đạp xế lô như xưa nữa. Loại xe này, nghe đâu, cũng đã bị cấm tiệt cả rồi.

Cháu ngoại ông Ngải (chắc) đang làm cửu vạn ở Diêm, như dự tính. Cái Hến (không chừng) đã thành bà nội và (có lẽ) vẫn ở lại xóm Đồng vì không quen cảnh sống (“bốn bên lủng củng người nằm đéo nhau huỳnh huỵch”) ngay giữa Thủ Đô Của Lương Tâm Nhân Loại!

Cả gia đình ông Ngãi chỉ có mội thằng Ốc là đi bộ đội vào giải phóng miền Nam nhưng chưa đến nơi đã trở thành liệt sĩ nên lỡ mất cái cơ hội mang cái khung xe đạp, hay con búp bê, về lại xóm làng. Ấy thế chứ cứ theo dư luận thì cả nhà vẫn bị điều tiếng (và đay nghiến) là … đám  Bắc kỳ:

Từ sau năm 75 thì Bắc kỳ lại càng ăn trên ngồi trốc, các cụ không tin cứ mở cái máy “dzô tuyến chuyền hình” hay cái “ra dzô” ra thì thấy liền, các “xướng ngôn dziêng” hầu như “chăm phần chăm” đều là Bắc kỳ, không cậu thì mợ. Còn các mợ tiếp dziêng “E Việt Nam”, mợ nào mợ nấy đều khoe “em người Hà Lội” hết ráo! Chẳng biết tại “dziêng dzáng” hay” phe đảng”?

     Nói đến dân bắc kỳ bảy lăm thứ thiệt đang làm mưa làm gió ở Sài gòn đó là những ông lớn    đang cai trị dân miền Nam, từ công an, thuế vụ, ngoại thương, chủ tịch quận huyện, giám đốc các công ty quốc doanh, đám nầy đang làm mưa làm gió ở miền Nam và toàn quốc. Ở Sài Gòn, suốt đường Trần Quốc Toản (nay là đường 3 tháng 2) những ngôi nhà cao tầng khang trang sang trọng được mọc lên, đó là đất của quân đội cũ bọn việt công chiếm và chia chát cho nhau, cất nhà lầu cho thuê, buôn bán.

Rồi suốt dãy đường Cộng Hoà từ Lăng cha Cả trở lên đến Bến Xe Tây Ninh, cũng là những nhà lầu to, đẹp, khang trang được cất lên của bọn cán bộ cối, rồi suốt trong vùng Phi Trường Tân Sơn Nhất cũng hàng trăm hàng ngàn ngôi nhà lớn được xây cất và chủ nhân toàn là những tay tướng tá trong quân đội bắc kỳ bảy lăm chính cống, họ có xe hơi đời mới, từ Lexus đến Mexcedes, họ ăn uống sang hơn những bậc hào phú quan quyền hồi xưa nhiều, kéo theo môt đám bắc kỳ con ngông nghênh chạy xe phân khối lớn, xế nổ chạy xé gió ngoài đường, sau những cuộc đua xe với tốc độ kinh hoàng, đã gây ra biết bao nhiêu tai nạn cho người dân lành vô tội, các qúi tử nầy đều là con các ông lớn bắc kỳ làm việc tại thành Hồ.

Chờ khách. Ảnh: Quang Tình

Nhà văn Trần Yên Hoà viết không có gì sai nhưng e không đúng lắm với hoàn cảnh của gia đình ông Ngải, ở cái Xóm Đồng (nào đó) thuộc tỉnh Thái Bình. Ông bà Ngãi chắc chắn chưa bao giờ được tận mắt được nhìn một cái Lexus hay Mercedes nào cả. Con cháu họ có lẽ cũng chưa đứa nào được “may mắn” bước chân lên một chiếc phi cơ nên cái cơ hội được trở thành một tiếp viên hàng không (e) xa vời lắm.

Như đã thưa (đôi lần) tôi chưa bao giờ được đặt chân đến miền Bắc nên không thể biết là có bao nhiêu triệu nông dân (đang sống trong cảnh bần cùng) ở vùng đất này, như gia đình ông Ngãi. Chỉ đoán già đoán non rằng họ chiếm khoảng chừng 60 đến 70 phần trăm dân số của nửa phần đất nước. Họ mới chính là những nạn nhân lâu năm nhất, khốn khổ và khốn nạn nhất của chế độ hiện hành.

Ở Việt Nam hiện nay chỉ còn có hai loại người thôi: thống trị và bị trị. Cả nước đã rơi vào tay cộng sản mà còn chia phe (Bắc/Nam/Trung) nữa bao giờ mới thoát nạn được, hả Trời?

QUỐC TANG PHIDEL CASTRO VÀ CHUYỆN QUÉT SẠCH CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN?

QUỐC TANG PHIDEL CASTRO VÀ CHUYỆN QUÉT SẠCH CHỦ NGHĨA CÁ NHÂN?

Blog RFA

JB Nguyễn Hữu Vinh

4-12-2016

Lăng ông Hồ Chí Minh ở Hà Nội. Ảnh: internet

Ngày cuối cùng trong 9 ngày Cuba để tang Phidel Castro. Việt Nam (VN) dù chưa nêu được lý do gì thuyết phục, cũng ra lệnh toàn quốc để tang ông ta một ngày vào 4/12/21016.

Điều này đã tạo nên làn sóng thắc mắc ồn ào trên mạng và trong xã hội.

Quốc tang sẽ nối tiếp quốc tang?

Người ủng hộ thì cho rằng:

Phidel Castro là lãnh tụ Cuba, là đồng chí Cộng sản với VN. Ông ta đã từng ủng hộ VN nhiều, nhất là câu nói: “Vì Việt Nam, chúng tôi sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình”. Rằng thì là Cuba đã viện trợ cho VN nhiều công trình như đoạn đường Xuân Mai – Sơn Tây và bệnh viện Đồng Hới…

Ngay lập tức, nhiều tiếng nói đáp lại:

Cứ nói đùa, tình cảm là chuyện khác, còn tang sự là chuyện khác. Thử hỏi anh và bạn anh thân chơi với nhau tri kỷ tri âm, vậy khi bạn anh chết mà con cái nó còn đầy lên đó, anh lại vác về nhà anh làm tang, thì con cái nó có sang tận nhà chửi bố anh lên không?

Nếu cứ đã là đồng chí, đã ủng hộ, viện trợ cho VN mà được tổ chức Quốc tang, thì chắc VN phải tổ chức cho những nhân vật đã từng có liên quan đến VN bằng hoặc hơn Phidel Castro và Cuba. Không cần kể những người đã chết, mà chỉ là những người đang sống thì từ nay trở đi VN sẽ quốc tang nối tiếp quốc tang.

Chẳng hạn như các nhân vật Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào là những kẻ đã gần đất xa trời và Tập Cận Bình hiện tại.

Bởi vì, ngoài những lời hay, ý đẹp là “núi liền núi, sông liền sông, là môi hở, răng lạnh” rồi “16 chữ vàng, 4 tốt” thì chính Mao Trạch Đông đã chẳng từng nói: “Chúng ta thuộc vào một gia đình. Bắc Việt, Nam Việt, Đông Dương, Triều Tiên cùng một gia đình..” đấy thôi. Đã một gia đình với nhau thì để tang hẳn nhiên có lý hơn là anh bạn chỉ “đứng gác khi Việt Nam… ngủ” – Trích Nguyễn Minh Triết.

Còn nếu nói đến viện trợ cho VN trong cuộc chiến, thì chẳng mấy nước bằng Tàu Cộng. Không chỉ là xe cộ, súng đạn, vũ khí, mà thậm chí cả quân lính cũng như quân trang quân dụng… từ cái kim, sợi chỉ đến món Ca là thầu như nhút Thanh Chương của Nghệ An ngày nay cũng đóng hộp gửi sang cho VN ăn mà đánh nhau.

Vậy thì xứng đáng quốc tang chứ còn gì nữa?

Rồi những lãnh đạo thuộc Liên Xô và Nga ngày nay sắp xuống mồ như Gorbachov, kế theo đó sẽ là Putin, Medvedev của Nga cũng sẽ lần lượt được xếp sổ chuẩn bị cho quốc tang?

Lý do ư? Liên Xô đã từng là người anh cả của khối các nước cộng sản. Dù bây giờ khối cộng sản đã tanh bành đánh nhau loạn xạ, thì vẫn còn dư âm quá khứ khác gì Phidel và Cuba. Không chỉ là những lời trấn an tinh thần như “Các bạn VN hãy vững tâm, Liên Xô luôn trung thành với Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt – Xô”.

Còn tiền của viện trợ và cho vay nợ ư? Vô thiên lủng.

Không chỉ có một vài đoạn đường, mà cầu cống, trường học, bệnh viện mà quân cán, tên lửa máy bay, các loại phương tiện thiết bị thời đánh Mỹ… từ cái bàn là cho đến sợi dây mayso đều được viện trợ. Không chỉ thời đánh chiếm VN Cộng Hòa, mà còn cả cuộc chiến đánh lại đồng chí anh em Trung Cộng.

Rồi không chỉ là các lãnh đạo, mà một loạt công nhân xuất khẩu lao động, nghiên cứu sinh… đã đến Liên Xô, Nga để làm ăn và trở thành “Tướng, Soái” rồi ôm tiền về làm mưa làm gió ở Việt Nam, kết bè kết cánh trở thành những đại gia giàu nhất VN đấy thôi.

Vậy không quốc tang thì để làm gì?

Thế rồi còn Kim Dâng Un, một đồng chí cộng sản dù còn trẻ tuổi, nhưng là Chủ tịch Cộng hòa Dân chủ nhân dân Triều Tiên, người anh em cùng bè, cùng cánh với VN trong đám cộng sản không chỉ ngày xưa mà bây giờ còn sót lại. Trong chiến tranh, Triều Tiên cũng đã ơn nghĩa viện trợ cho VN một số công trình, lương thực… dù dân Triều Tiên vẫn đói mờ mắt phải ăn cả cỏ để tồn tại. Nghĩa tình thế còn gì?

Hẳn hiên là Un mới ít tuổi, nhưng với phe cánh cộng sản thanh toán nhau xưa nay, thì chuyện một ngày nào đó, báo chí loan tin Kim Dâng Un từ trần đột ngột là chuyện phải tính đến chuyện Quốc tang.

Còn nói đến ân nghĩa vì đã giúp đỡ, viện trợ cho Việt Nam, thì trước hết mấy “đồng chí” Tổng Thống Mỹ Bill Clinton, người đã từng bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận cho VN và tuyên bố bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, mở cho VN con đường bước ra thế giới bên ngoài.

Rồi Tổng thống sắp mãn nhiệm Obama, người đã ký quyết định bãi bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận vũ khí cho VN đâu phải chuyện nhỏ.

Thậm chí viện trợ của Hoa Kỳ cho VN những năm qua về nhiều mặt y tế, nhân đạo… chắc chắn là nhiều hơn Cuba viện trợ VN.  Lại còn là những người đã và đang Tổng thống của cả triệu người Việt định cư tại đó, hàng năm vẫn rót đều đều những đồng dola quý giá về cho VN vô điều kiện.

Vậy không đáng quốc tang là gì?

Tương tự, nguyên thủ các nước như Nhật Bản, Australia, Đức, Áo, Đan Mạch, Thụy Điển… thôi thì đủ cả và đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn Quốc tang của VN nếu soi từ việc tổ chức Quốc tang Phidel Castro.

Khi nói đến những chuyện này, nhà báo Phan Thế Hải đã kết luận:

“Cứ cái logic ấy, VN sẽ có vô số quốc tang. Người Mỹ có thể tự hào về công nghệ 3G, 4G, tàu vũ trụ… người Nga có thể tự hào về tàu ngầm, về vũ khí hạt nhân, người Tàu có thể tự hào tàu Thần châu, về đường lưỡi bò còn xứ Thiên đường có thể tự hào về số lượng Quốc tang.

Nên chăng cần có chính sách để đưa Quốc tang thành thương hiệu quốc gia?

Quét sạch Chủ nghĩa Cá nhân?

Báo chí, nhiều nhất có lẽ là Cuba và VN đưa tin hết sức rầm rộ, ca ngợi ngút trời về Phidel và cái chết của ông ta. Trong đó có một thông tin khá lạ: Phidel Castro đã dặn không được đặt tên đường phố, thành phố hoặc dựng tượng ông ta.

Nghe điều này, nhiều người giật mình. Lẽ nào Phidel Castro không còn là một người cộng sản và không coi mình đã từng là lãnh tụ cộng sản?

Cũng chính điều này đã gây nên nhiều tranh luận khá sôi nổi.

Trong một quán nước chè vỉa hè chiều Chúa Nhật quốc tang Phidel ở Việt Nam, câu chuyện này được bàn luận khá rôm rả.

Xin ghi lại đây một cuộc tranh luận giữa hai nhóm người này.

– Phidel là lãnh tụ tối cao, được mọi người dân Cuba kính trọng, nên ông dặn vậy thì chắc chắn là phải thực hiện rồi.

– Vậy thì Hồ Chí Minh có là lãnh tụ tối cao không? Có được kính trọng ở VN không?

– Hẳn nhiên là vậy rồi.

– Vậy sao ông Hồ Chí Minh dặn sau khi ông ấy chết đốt xác đi mà giờ cái lăng to uỳnh ở giữa Hà Nội, hàng năm tiêu tốn biết bao công sức tiền của của nhân dân?

– Cái đó là do bọn đảng sau này làm trái lời, chứ di chúc dặn rõ ràng mà.

– Vậy lấy gì đảm bảo là sau này, Đảng CS Cuba không ra Thông báo rằng: “Thể theo tình cảm và nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân Cuba, Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị quyết định đặt tên đường, phố, ngõ và Thành phố mang tên Người và dựng tượng đài cho Người”.

Thế rồi khắp nơi mọc ra khu bảo tàng, lưu niệm… rồi bất cứ chỗ nào ông ta đến chơi, đến thăm hoặc giữa đường mót đái xuống tè bậy, vẫn sẽ mọc lên những tượng đài và khu lưu niệm với hàng ngàn tỷ đồng tiền dân.

– Nếu vậy sẽ có các nhà khoa học, lịch sử, trí thức và lãnh đạo đất nước phản đối chứ sao để xây dựng lãng phí vậy được.

– Vậy lấy gì đảm rằng sau đó không có những người như lão Đào Ngọc Nghiêm, Phó Chủ tịch Hội quy hoạch và phát triển đô thị VN nói rằng: “Không nên đặt vấn đề xây tượng như thế là đắt hay rẻ…Tượng đài sẽ là động lực để tạo nên sự phát triển”.

– Đấy là thằng ngu, tượng đài làm sao là động lực phát triển được? Chỉ để chơi đùa và ngắm… cho vui mắt thôi chứ. Còn chuyện không kể đắt rẻ, thì chắc là dự án để nó kiếm chác nó mới nói thế. Cái gì chẳng phải tính ra bằng tiền. Chúng nó mót tiền dân thì chúng nói bậy thế chứ Bác là người đã viết cuốn sách “Nâng cao đạo đức Cách mạng, quét sạch Chủ nghĩa cá nhân” cơ mà.

– Vậy viết như thế có nghĩa là sẽ làm như thế à?

– Chứ sao, đã viết như thế thì mọi hành động, lời nói và cử chỉ đều phải thể hiện tinh thần đó chứ. Thế mới là Người chứ.

– Vậy nếu hành động không như lời nói thì không phải là người thì là con gì? Ông thấy ở Đại hội Đảng lần thứ 2, Hồ Chí Minh đọc báo cáo dưới tấm ảnh của Hồ Chủ tịch to tổ chảng với câu khẩu hiệu “Hồ Chủ tịch muôn năm” thì đó có “quét sạch chủ nghĩa cá nhân” không?

Thì… đấy là do bọn đảng viên nó làm chứ bác sao làm những thứ đó. Bác quan tâm việc lớn chứ. Nhưng công nhận như vậy là sùng bái cá nhân quá đáng rồi. Lẽ ra bác khi đó bắt sửa lại mới đúng. Có lẽ khi đó bác chưa viết cuốn sách kia và đảng sau này đã quyết tâm sửa chữa sai lầm.  

– Sửa rồi à? Vậy thì ông có nhìn thấy khắp nơi người ta đưa Hồ Chí Minh vào chùa, vào đền, vào nhiều nơi thuộc tôn giáo khác nhau không?

Ông Hồ Chí Minh được đưa vào chùa để thờ chung với Phập. Ảnh: internet

Cái đó là bậy rồi. Bác theo Chủ nghĩa Mác – Lenin, không tin thần thánh, ma quỷ, hồn xác gì thì chúng nó đưa vào đền chùa thờ cúng là vớ vẩn rồi. Đảng ta là đảng vô thần mà. Ông không nghe Ăngghen nói à: “Vì thế, hệ thống xã hội xã hội chủ nghĩa, được hiểu một cách đúng đắn, phải … phế bỏ mọi trang bị của sự mê hoặc tinh thần, và do đó, phế bỏ tất cả những yếu tố cơ bản của sự thờ cúng”.

– Vậy sao đảng không dẹp mà cứ để mọc lên như nấm sau mưa, khắp nơi khắp chốn cho “lãng phí thì giờ và của cải của nhân dân” vậy? Đảng lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện mà.

Ừ, công nhận là bậy bạ. Nhưng thôi, ta nói sang chuyện Phidel Castro đi kẻo lạc đề. Theo ông, vì sao Phidel lại dặn là không được đặt tên và tượng đài cho ông ta? Ông giải thích cho tôi cái, quả là tôi không hiểu.

– Theo tôi nghĩ, lão này cũng khá tỉnh, do sống lâu nên lão đã tận mắt thấy hàng loạt tượng đài của Lenin, của Mao… đã bị buộc cổ lôi xuống và treo dây vào cổ lôi đi diễu phố rồi đập lấy đồng nát. Nên lão sợ.

Chẳng khác gì một số vua chúa gây nhiều tội ác đã làm lăng tẩm một nơi, chôn xác một nơi sợ đời sau nó đào lên nó… đổ.

Hẳn lão đã sang VN nên chứng kiến khắp nơi đặt tên và tượng đài, trong khi dân thì chết bó chiếu chở bằng xe máy chạy rông. Lão biết nếu giờ làm thế dân Cuba nó tế cả ông bà ông vải lão lên.

– Thế sao Phidel lại dặn như thế chứ.

– Đó mới chính là lời nói của người Cộng sản thực thụ. Bởi ông ta thừa biết chế độ Cộng sản là nơi nhiều tượng đài lãnh tụ nhất. Nếu chế độ cộng sản vẫn tồn tại ở Cuba, thì lời ông ta dặn chỉ nhằm một lần nữa đánh bóng và phong thánh cho ông ta mà thôi. Ông ta biết tỏng là con cháu ông ta, đồng chí của ông ta sẽ chẳng bao giờ nghe theo lời dặn đó. Rồi đây sẽ có Thành phố Phidel Castro, và muôn vàn đường phố, tượng đài Phidel sẽ mọc ra như nấm. Thậm chí có những làng bỏ cả họ mình để lấy họ Castro cũng nên ấy chứ.

Chứ bây giờ thì Cuba đói nghèo thế, lão có dặn làm tượng đài đi nữa thì lấy… lấy nước biển mà làm à. Cuba đang nghèo đói bỏ mịa.

Ông nói đùa, Cuba mà nghèo đói à. Báo chí nước ta đã ca ngợi mấy hôm nay, thành tựu của Cuba là khủng khiếp về nhiều mặt, ông không đọc à?

– Tôi đọc rồi, đọc giữa các hàng chữ của báo chí Việt Nam, tôi thấy rõ Cuba hơn ông.

– Ông dẫn chứng tôi xem.

– Ông có biết ông Phạm Quý Ngọ khi chết vẫn là một người bị tố cáo nhận hối lộ không? Ông ấy chỉ là thứ trưởng trong muôn vàn thứ trưởng ở ta nhé. Thế mà khi ông ấy chết đưa về quê, còn hàng chục chiếc xe, chiếc nào chiếc ấy mới tinh, láng coóng to nhỏ các loại đưa về quê. Ông thấy không? Ông biết Cuba đưa tro cốt ông ấy về quê như thế nào không?

Có, vụ lão Ngọ tôi có theo dõi mà. Công nhận đoàn xe hoành tráng và đẹp thật. Còn Cuba thì tôi không sang được nhưng Phidel hôm trước mà đưa về quê thì chắc phải hàng ngàn chiếc xe sang như xe Tổng thống Mỹ ấy chứ nhỉ.

h1Những người lính Cuba đẩy xe tang mang tro của Fidel Castro sau khi chiếc xe ngưng chạy trong đáng tang hôm Chủ Nhật 4-12-2016, ở Santiago, Cuba. Nguồn: RODRIGO ABD/AP.

– Sang hơn chứ, ông ấy được chở về bằng xe Uát của Nga hồi xưa ở VN, giờ bán mỗi cái 5 triệu đồng ấy. Kéo thêm cái rơ moóc đặt bình tro của ông ấy.

Khổ cái là về được đoạn, nó chết mịa máy dọc đường, làm mấy ông lính đẩy một trận gần chết.

Láo, ông chỉ bịa. Làm gì có chuyện đến mức ông nói thế? Đám ma nhà quê chỗ tôi cũng chẳng đến mức ấy, ông chỉ phản động và nói xấu thôi.

– Ông thấy tấm ảnh này không? – Tấm ảnh đoàn lính đẩy xe chở tro Phidel chết máy.

Thế á, thật thế á. Trời đất ơi… Thế là chúng nó lừa tao rồi.

– Bây giờ ông thấy sao?

Lừa đảo, lừa đảo hết. Đúng như Lênin cũng khẳng định: “Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào cuộc đời tốt đẹp ở thế giới bên kia…”. Giờ thì chính đảng lại dùng trò đó.

– Haha, ông lại Lênin rồi.

Hà Nội, Ngày “quốc tang” Phidel Castro 4/12/2016

Cám ơn đến anh Mark Zuckerberg,người sáng lập ra FB

Facebook Hằng 

Nhân chuyện Ma dze in Vietnam và chuyện Cờ Lờ Mờ Vờ (CLMV) của thủ tướng Việt nam, thay mặt nhân dân cả nước xin trân trọng gởi lời cám ơn đến anh Mark Zuckerberg,người sáng lập ra FB và qua đây cũng gởi lời cám ơn đến nước Mỹ,quốc gia đã chế tạo ra internet.

Nếu không có nước Mỹ và anh Mark có lẻ giờ này chúng tôi đang há hốc mồm ngồi nghe đồng chí Hoàng Chi Bảo kể bác chúng tôi rành 29 ngoại ngữ và không ngờ bác lại viết chữ tượng hình của anh Tàu.

Nếu không có nước Mỹ và anh Mark chúng tôi cũng không hề biết là nguyên thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kẻ luôn được báo chí trong nước xưng tụng là một trong những thủ tướng tài năng của thế giới lại bị đài truyền hình Pháp đưa vào trong tiết mục giễu hài gọi là ngài Giăng giắc ê rô.

Nếu không có nước Mỹ và anh Mark chúng tôi cũng không hề biết là nguyên chủ tịch nước tôi Nguyễn Minh Triết lại có khiếu diễn hài ngay tại đất nước Cuba anh em như thế.Câu nói đậm chất nông dân của vị lãnh đạo này” Cuba thức Việt nam ngủ,Cuba gác ,Việt Nam nghỉ” đã là một câu chuyện hài cười ra nước mắt để quên đi cái đói ,cái nghèo. Nó còn chua chát hơn những vở hài kịch cuối năm mà đài truyền hình quốc gia buộc chúng tôi xem.

Nếu không có nước Mỹ và anh Mark hẳn chúng tôi cũng không hề biết là chủ tịch nước của chúng tôi lại có thể đứng như phỗng đến mấy phút trước tổng thống Mỹ Obama và chủ tịch quốc hội lại có thể hắt cả xô thức ăn cho cá xuống hồ. Xin nhiệt liệt cám ơn bởi vì qua đây cũng cho thấy các nguyên thủ quốc gia chúng tôi vẫn giữ nguyên bản sắc dân tộc,đậm đà tính nông dân,không lai căng mất gốc.

Nhân chuyện anh Phúc đọc Cờ Lờ Mờ Vờ chúng tôi càng thấy yêu hơn lãnh đạo nước tôi. Dù bận trăm công nghìn việc vào ban đêm vẫn đọc diễn văn trôi chảy không sai một chữ vào ban ngày, vẫn trung thành tuyệt đối vào văn bản và khiến các “thế lực thù địch” phải điên đảo,nhức đầu mới hiểu được bài diễn văn của ông. Đây cũng là một cách phân hóa nội bộ kẻ địch mà chủ tịch Nguyễn Minh Triết đã truyền lại cho các thế hệ lãnh đạo nước tôi.

Qua internet và FB giờ chúng tôi mới biết tài năng của Đảng lãnh đạo chúng tôi là vô hạn. Đó là tài nói láo.Chính nhờ tài năng này đảng đã giải phóng chúng tôi ra khỏi ấm no ,hạnh phúc và quyền con người. Nhưng giá như (lại giá như) không có nước Mỹ và anh Mark có lẻ chúng tôi đã noi gương anh Bắc Hàn để nghĩ rằng dân tộc mình là dân tộc hạnh phúc nhất trên trái đất ,bằng lòng với các nhà lãnh đạo tài giỏi do đảng bầu.Đằng này nước Mỹ và anh Mark lại đang khiến cả dân tộc biết rằng mình bị lừa nhưng đang bất lực để thoát kiếp cừu.Đó cũng là một bi kịch.

Chẳng lẻ chúng tôi chỉ biết cười, cười và cười mãi sao ?

(Dương Hoài Linh)

Một vài cách thức giúp Mùa Vọng có Ý Nghĩa Hơn !

 Một vài cách thức giúp Mùa Vọng có Ý Nghĩa Hơn !

Mùa Vọng đến. Đó là khoảng thời gian đón chờ Chúa Giáng Sinh. Sau đây là một vài cách thức giúp mọi người làm cho khoảng thời gian chờ Chúa đến thêm phần ý nghĩa.

  1. Bố thí

    Bạn hãy lên kế hoạch để làm cho Mùa Vọng của mình thêm đáng nhớ qua việc đóng góp tiền bạc, nhu yếu phẩm cho những người nghèo.

 9. Đọc sách

    Cuộc sống bận rộn hôm nay, khiến người ta quên đi việc đọc sách. Vì vậy, Mùa Vọng này là thời đim để tìm đọc những quyển sách liên quan đến chủ đề Giáng Sinh hay bất cứ thể loại sách nào bạn thấy thích thú.

 8.  Lắng nghe

    Hãy tìm những bản nhạc Giáng sinh. Điều này giúp cho nơi ở của bạn thêm tươi vui và gợi hứng tâm hồn của bạn hướng về ngày Chúa đến.

7.   Liệt kê những công việc cần thiết

    Có quá nhiều việc phải làm. Lập một danh sách thứ tự ưu tiên các công việc sẽ giúp cho bạn thấy cuộc sống của bản thân thêm trật tự hơn.

 6.  Gọi điện thoại đến những người bạn cũ

    Ai chẳng có bạn bè. Có khi bạn đã mải bận rộn trong cuộc sống mà quên đi những người đã có một thời đi qua đời của mình. Hãy làm cho họ sống lại trong tâm hồn bằng những lời hỏi thăm thân tình.

 5.  Viết một lá thư

    Ngày nay, một lá thư có vẻ khan hiếm. Vì vậy, lá thư trở thành một thứ thật đáng giá. Hãy cho người khác cảm nhận rằng, họ quan trọng với bạn thế nào qua lá thư diễn tả tâm tình của bạn về họ.

  1. Cố gắng nghỉ ngơi và thư giãn

    Cuộc sống quá căng thẳng và bận rộn với biết bao bổn phận và trách nhiệm phải chu toàn. Trong mức có thể, bạn hãy tìm cho mình những giây phút ta-với-ta.

 3. Tập thể dục

    Nhiều người biết rằng sức khỏe thật quan trọng, nhưng lại không cảm thấy thoải mái khi tập thể dục. Hãy dành khoảng 30 phút mỗi ngày chạy bộ, bạn sẽ thấy cuộc sống trở nên khác biệt trong những ngày chờ Chúa đến.

 2.  Nhờ ai đó làm một công việc bạn cần

    Có lẽ, chẳng ai muốn làm phiền người khác. Nhưng, hãy để thể hiện sự quan trọng của người khác đối với bạn, bằng cách xin giúp đỡ từ những người xung quanh. Điều này giúp họ nhận ra rằng họ thực sự hữu ích cho mọi người.

 1.   Đến nhà thờ để cầu nguyện

    Điều này có vẻ thừa thãi, nhưng lại là cách thức đích thực để bạn làm mọi thứ xung quanh đổi mới và giúp bạn biến đổi giống như Mẹ Maria và thánh nữ Martha. Bạn sẽ như những mục đồng, những vị vua và các Thiên Thần đến để triều bái hài nhi Giêsu.

      Mùa Vọng rồi sẽ qua mau, nhưng những công việc này sẽ làm cho tình yêu của bạn đối với Đấng Cứu Chuộc sẽ luôn còn mãi.

(Đức Thiện SJ. Dongten.net 30.11.2016/ Aleteia)

From: KittyThiênKim & Kim Bằng Nguyễn

FIDEL CASTRO, HỒ CHÍ MINH VÀ VẤN ĐỀ “TÍNH CHÍNH DANH”

FIDEL CASTRO, HỒ CHÍ MINH VÀ VẤN ĐỀ “TÍNH CHÍNH DANH

FB Phạm Đoan Trang

2-12-2016

Gửi những bạn yêu mến Fidel Castro, “cha già dân tộc” của nhân dân Cuba: Bài viết dưới đây đặc biệt dành cho các bạn. Nếu có bình luận gì, xin các bạn lưu ý: Mình chưa từng nói bất cứ ai ủng hộ quốc tang Fidel là ngu dốt, thần kinh…, nên mong các bạn cũng đừng dùng lập luận “chỉ có lũ vô ơn, vong ân bội nghĩa mới không tán thành quốc tang”. Ngoài ra, để kể về tình cảm và ân nghĩa giữa đảng và nhà nước Cuba với đảng và nhà nước Bắc Việt thì mình kể hay hơn dư luận viên nhiều, cho nên cũng không cần phải nhắc mình về điều đó.

Bài viết sẽ giải thích vì sao ở Việt Nam, yêu mến lãnh tụ cộng sản lại được xem là một phẩm chất tốt đẹp. Nó liên quan đến vấn đề “tính chính danh của nhà cầm quyền”.

* * *

Tính chính danh là niềm tin phổ biến của các thành viên trong một xã hội rằng quyền lực của chính quyền hay đảng cầm quyền là đúng, chính đáng, hợp lý, hợp pháp, và vì thế dân chúng phải phục tùng.

Tóm lại, chính quyền có chính danh tức là việc cầm quyền của họ là phù hợp, thích đáng trong suy nghĩ của người dân, và (vì thế) người dân chấp nhận phục tùng chính quyền ấy.

Làm thế nào để một tổ chức có được tính chính danh để trở thành chính quyền? Theo nhà xã hội học người Đức Max Weber (1864-1920), có ba cách:

1. Nhờ truyền thống (cha truyền con nối);
2. Nhờ có sức hấp dẫn của lãnh tụ, lãnh đạo;
3. Nhờ được thành lập và vận hành hợp pháp và hợp lý.

Trong đó, cách 2, chính danh nhờ có lãnh tụ kiệt xuất, là cách phổ biến ở các nhà nước độc tài. Các chính thể ở đó được công nhận là chính danh nhờ sự hấp dẫn của một cá nhân nào đó được công chúng sùng bái, và cá nhân đó đóng vai trò lãnh tụ, lãnh đạo. Ví dụ như các chính quyền Napoleon (Pháp), Mussolini (phát xít Ý), Hitler (Đức quốc xã), Fidel Castro (Cuba cộng sản), Khomeini (Hồi giáo Iran), Lenin, Staline (Liên Xô), Mao Trạch Đông (Trung Quốc cộng sản), dòng họ Kim Nhật Thành (Bắc Triều Tiên), và Hồ Chí Minh (Việt Nam cộng sản), v.v.

Nói cách khác, những chính quyền đó có được tính chính danh nhờ việc họ có một gương mặt cá nhân nào đó có sức hấp dẫn to lớn đối với dân chúng, được ngợi ca bởi công đức trời biển, được tôn vinh như “tiên đế”, “cha già dân tộc”, “khai quốc công thần”. Chừng nào nhân vật ấy còn được sùng bái, chừng đó chính thể còn có tính chính danh, và ngược lại, khi sự sùng bái của người dân đối với lãnh tụ kiệt xuất bị suy giảm thì khi ấy, tính chính danh của chính thể bắt đầu lung lay. Đến khi lòng kính trọng, tin yêu của dân chúng đối với lãnh tụ hoàn toàn chấm hết, thì chế độ không còn lý do để tồn tại.

Đó là lý do vì sao các chính quyền cộng sản như Liên Xô, Bắc Triều Tiên, Cuba, Trung Quốc, Việt Nam… phải sống chết bảo vệ hình ảnh vị “cha già dân tộc” của mình, kể cả hàng chục năm sau khi ông ta mất. Ở những xã hội này, sự kính trọng, tin yêu đối với lãnh tụ được xem như đạo đức. Nói xấu, phỉ báng lãnh tụ bị coi là trọng tội và bị pháp luật trừng phạt.

Đến đây xin kể lại với các bạn về một chuyện xảy ra vào tháng 10 năm ngoái.

Vào ngày 12/10/2015, Đỗ Đăng Dư, 17 tuổi, chết lúc 7h tối tại bệnh viện Bạch Mai sau hai tháng bị công an huyện Chương Mỹ tạm giam ở Trại tạm giam số 3 (Công an TP. Hà Nội) để điều tra về hành vi trộm cắp tài sản. Trước đó, ngày 11/10, Cơ quan Cảnh sát Điều tra cho biết, Đỗ Đăng Dư bị bạn tù là Vũ Văn Bình đánh vì “rửa bát bẩn”.

Đêm 12/10 sau khi Dư chết và thi thể được đưa vào nhà xác, hàng chục nhà hoạt động nhân quyền ở Hà Nội đã đến bệnh viện Bạch Mai an ủi, giúp đỡ gia đình và lên án công an bạo hành dân.

Ngày hôm sau, 13/10, facebooker Nguyễn Lân Thắng đăng tải trên trang cá nhân một bức hình chụp ông cầm chiếc đĩa sứ có in chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh, kèm bình luận: “Ngày xưa ông ấy rửa bát bẩn trên tàu thì Việt Nam đâu đến nỗi”. Bức hình được gần 5000 người “like” và hơn 300 người chia sẻ, nhưng nó cũng gây phẫn nộ lớn trong cộng đồng những người “yêu Đảng yêu Bác”. Vào ngày 17/10, ông Trần Nhật Quang, một nhân vật trong đội ngũ dư luận viên Hà Nội, tuyên bố thành lập nhóm phản ứng nhanh để “săn lùng” và “hỏi tội” “những tên phản động” mà trước mắt là Nguyễn Lân Thắng vì tội “xúc phạm Bác Hồ”.

Nhiều độc giả của ông Nguyễn Lân Thắng, tuy ủng hộ ông hoạt động xã hội, đấu tranh dân chủ, nhưng cũng không tán thành việc ông “đem Bác Hồ ra làm trò cười”.

Tuy vậy, cũng không ai giải thích được tại sao kính trọng lãnh tụ lại là một thứ đạo đức.

Nhưng chắc đến lúc này thì các bạn có câu trả lời rồi: Đó chính là bởi vì tâm lý sùng bái lãnh tụ trong dân chúng Việt Nam còn rất nặng, mà tâm lý ấy là kết quả của sự tuyên truyền không ngừng nghỉ của đảng Cộng sản về ông Hồ Chí Minh như vị cha già dân tộc.

VẶN CỔ DÂN MÌNH ĐỂ ĐI GIÚP NGƯỜI

Câu chuyện Fidel Castro với Cuba cũng vậy, và rộng ra là với người dân Việt Nam cũng vậy. Đảng Cộng sản Việt Nam chắc chắn phải ép toàn dân chịu quốc tang Fidel Castro, mặc dù nước Cuba của Fidel thực chất chỉ giúp một nửa nước Việt Nam; và cũng chẳng phải là nhân dân Cuba tự nguyện giúp. Để làm được việc đó, Fidel đã bóp cổ, bóp hầu bóp họng chính người dân của mình. Cũng giống như Trung Quốc giúp Việt Nam trong chiến tranh – cung cấp lương khô, quân trang, quân dụng, vũ khí – trong khi chính thời gian đó, đất nước này điêu linh vì cách mạng văn hóa, đại nhảy vọt v.v.

Bạn sẽ bảo là “giúp người trong lúc chính mình khó khăn mới là nhân nghĩa”. Vâng, cứ cho là việc họ bóp cổ dân, bắt dân ăn đói mặc rách để họ làm nghĩa vụ quốc tế, là điều tốt, là nhân nghĩa đi. Nhưng các bạn cũng chớ quên, chính cái chính quyền Trung Quốc ấy, khi trở mặt (hoặc bị Việt Nam trở mặt, theo cách hiểu của họ), đã đem cả bát mẻ, bát sứt ra mời cơm Đại tướng Võ Nguyên Giáp của các bạn, nhân chuyến thăm Trung Quốc của ông Giáp vào năm 1976. Ba năm sau, họ kéo quân sang “dạy cho Việt Nam một bài học”, giết chóc, tàn sát…

Sự cực đoan không bao giờ là điều tốt. Sự cực đoan của lãnh đạo càng kinh khủng hơn.

Chính quyền ở cả Trung Quốc, Việt Nam, Cuba lẫn Bắc Hàn đều cố dạy cho dân rằng kính trọng lãnh tụ là một thứ đạo đức. Từ lâu, chắc bạn cũng đã tin như thế.

Nhưng trên thực tế, sùng bái cá nhân đã chỉ đưa đến và củng cố chế độ độc tài và nô lệ. Không xã hội nào tiến bộ về đạo đức và văn hóa chính trị nhờ việc dân chúng sùng bái lãnh tụ.

____

FB Mạnh Kim

2-12-2016

Từ chiều qua, tôi đã biết tin một anh nhà báo (Phùng Hiệu – quyền phụ trách cơ quan phía Nam của Nhà báo & Công luận) bị rút thẻ vì một stt về Fidel. Vài ngày trước đó, tôi cũng đã biết có một nhóm nhà báo (ăn lương “nhà nước”) lập loạt nick giả để tấn công một stt của tôi về Fidel.

Họ thực hiện bài bản, ào ạt, và chuyên nghiệp. Đại loại họ nói tôi viết “một chiều”, “phiếm diện”. Khi bị block, họ kiên nhẫn lập nick khác để tấn công tiếp, với một sự hằn học và cay cú không bình thường. Cái sự “một chiều” của tôi thật ra là chỉ khác với chiều của họ.

Họ tức tối và nổi giận khi bạn hạ bệ thần tượng của họ. Họ phẫn nộ khi bạn không “yêu mến” người mà họ “kính yêu”. Họ muốn “mặc đồng phục” không chỉ đối với quan điểm chính trị mà cả với cảm xúc cá nhân. Phải giống tớ, không thì tớ đập cậu thẳng tay. Đồ phản động, nghe chửa!

Dù thế nào, tôi cũng “nể” họ quá. Nỗ lực của họ, dù bất thành và bế tắc, cũng nên đáng “ghi nhận”. Họ thật sự là những nhà “cách mạng báo chí triệt để”.

____

Ta thấy mùa đông chưa tuyết trắng

 ĐÊM NHỚ TRĂNG SÀI GÒN – Phạm Đình Chương – Vũ Khanh – NNS

httpv://www.youtube.com/watch?v=NRGCw13eQb8

Suy Tư Tin Mừng Tuần thứ 2 mùa Vọng năm A 04/12/2016

 Tin Mừng (Mt 3: 1-12)

Hồi ấy, ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” Ông chính là người đã được ngôn sứ Ysaya nói tới: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi.

Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn. Bấy giờ, người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giođan, kéo đến với ông. Họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan. Thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối. Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: “Chúng ta đã có tổ phụ Abraham.” Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham. Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa. Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Ngài. Ngài sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa. Tay Ngài cầm nia, Ngài sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.

“Ta thấy mùa đông chưa tuyết trắng

sao người về như sợi tóc phai sương?”

(dẫn từ thơ Nguyễn Tất Nhiên)

 Mai Tá lược dịch.

Chúa đã về. Ngài về, như sự kiện rất thật. Nhưng, nào ai thấy phai sương, vương sợi tóc? Rất đợi chờ? Ngài về, để mọi người đợi trông. Ngóng chờ, Ngài Giáng hạ làm người phàm.

Tin Mừng, nay loan báo thuở đầu đời Chúa đi vào hoạt động. Với sử gia Hy Lạp, ngày mà Ngài hoạt động, khởi từ niên biểu 15, theo niên lịch César Tiberius. Lúc, mà Pontiô Philatô làm Tổng trấn xứ Giuđêa. Hêrôđê làm vua xứ Galilê. Anna và Caipha làm thượng tế. Như thế là, thánh sử định vị được niên biểu 27-28 cho là năm Chúa xuất hiện lần đầu trước chúng dân. Lúc, Ngài trưởng thành. Để rồi, theo lịch Do thái, Ngài tử nạn vào năm 30. Và như thế, các sử gia Công giáo đã đồng ý: năm sinh của Chúa là niên biểu thứ 4 hoặc 3, trước Công nguyên.

Tuy nhiên, điều quan trọng không là ngày tháng năm sinh, của chính Ngài. Mà là, cung cách Ngài hạ sinh giống hệt như ta. Và, Ngài hạ sinh không chỉ một lần, với mọi người. Mà, là mỗi năm, Ngài sinh hạ, nơi tâm can mọi người và mỗi người.

Phụng vụ Chúa Giáng hạ vào mùa dân con đợi chờ, lại đã trích Tin Mừng trong đó ghi rõ một truyện kể về thánh Gioan. Trích và ghi, là để xác chứng sự kiện Thanh tẩy ở khu Qumran. Tại đó, thánh Gioan lập phép thanh tẩy để Chúa đến với mình. Và, coi đó như nghi thức giải hoà, chứ không là cung cách của nghi lễ ở Đền Thờ. Và, chuyện thánh Gioan tẩy rửa Chúa được sử dụng để nối kết con người bình thường với nhận thức rất chuyên sâu về Đạo. Nhận thức, theo đúng truyền thống Do-thái-giáo.

Phương-cách mà thánh Gioan sử-dụng, lại đã thu hút chúng dân quyết bước theo chân thánh nhân để đi vào chốn sa mạc nắng cháy, ở đó khi xưa Jôshua cũng thực hiện việc khuyến khích dân được chọn biết mà theo Chúa ngang qua giòng sông Giođan, mà đến đất hứa. Thánh Gioan làm thế, để phản đối giới cầm quyền La Mã đương thời đã chiếm đoạt quyền sở hữu đất đai, của Do thái. Tức, một hành xử tuy thuộc Đạo giáo, nhưng cũng mang tính chất chính trị.

Với tham vọng như thế, thánh Gioan đã dấy lên một khí thế bất đồng, quyết nghịch chống các hoạt động của vị thượng tế, ở Đền Thờ. Kế hoạch của thánh nhân, tuy không nhằm đổi thay thể chế chính trị, mà chỉ nhằm thánh hoá dân tình theo phương cách mà người Do thái tìm cách thực hiện, nhưng không được. Thánh Gioan chẳng hề đổi thay một thể chế nào hết. Nhưng, thánh nhân chỉ muốn dân con mọi người hãy làm điều mà lẽ đáng ra mọi người đều phải làm cho tốt, chứ không chỉ chăm chú vào việc mình đang làm, vì bổn phận.

Thánh Gioan làm thế, chẳng để nghịch chống lối sống theo gia đình, hoặc định chế nào khác mà người Do thái đã tạo ra. Sự thật, thì động lực thúc đẩy thánh nhân thực hiện đời sống mục vụ nơi sa mạc, là để thăng tiến sự thánh thiêng đích thực mà dân Do thái cần có. Thánh nhân không làm theo kiểu của thành viên nhóm Pharisêu chuyên trập trung áp đặt Luật Torah trong đời sống hằng ngày. Trái lại, thánh nhân chủ trương cung cách tĩnh lặng của cuộc sống nơi sa mạc ngõ hầu cải hoá cuộc đời mình, như Chúa muốn.

Công việc thánh nhân làm, là động thái cốt thực hiện một cuộc xuất hành về đất hứa, ngang qua sa mạc của mọi trắc trở khổ đau. Đó, là động thái đòi chế ngự phần đất do người La Mã tạm thời chiếm lĩnh. Thánh nhân khuyến khích mọi người hãy theo ngài về nơi hoang dã, để sống xứng hợp với Đất Lành Chúa hứa ban. Rõ ràng là, những người theo chân thánh nhân vẫn sẵn sàng đón nhận sứ điệp ngài gửi đến. Rõ ràng là, nhiều người không chỉ là cư dân sống gần Qumran, mà hầu hết những từ người khắp đất miền/thị trấn đã đến thành từng đoàn. Những người từng nắm bắt lập trường sống của thánh nhân.

Chừng như, lúc ấy Đức Giêsu cũng đang ở đó. Ngài hành xử theo cung cách của Đấng Bậc được thanh tẩy, như thánh Gioan. Cũng giảng rao Nườc Trời như sứ vụ Ngài nhận lãnh. Có điều lạ, là: Chúa nhận lĩnh ơn thanh tẩy từ thánh Gioan, là để cho mọi người thấy: đây là một cải tân, không chỉ xảy ra duy một lần, rồi thôi. Và, nhìn từ góc độ nào đó, ơn thanh tẩy từ thánh Gioan, còn nói lên sự kiện “Chúa khởi đầu đời hoạt động của Ngài theo tư cách của Ngôn sứ Đấng Cứu Độ”.

Trình thuật thánh Mát-thêu hôm nay, không chỉ diễn lại tiến trình gặp gỡ giữa thánh Gioan Tẩy Giả và Đức Chúa, thôi. Đây cũng không là dịp để thánh nhân nói lên công trình cứu độ đã thành hiện thực nơi Đức Chúa. Nhưng, còn là sự kiện cho thấy có cả những tương đồng cũng như khác biệt giữa thánh Gioan và chính Ngài.

Tương đồng thấy rõ nhất, là ở điểm: cả Đức Chúa lẫn thánh Gioan đều đề cập đến Vương Quốc Nước Trời, có hẹn ước. Cả Chúa và thánh nhân, đều là Đấng Công Chính. Và, đất lành người Do thái muốn thủ giữ, nay thuộc về Đấng Công Chính. Đất lành Ngài hứa ban, buổi đầu là cho các bộ tộc, rất chính đáng. Luật Torah và các ngôn sứ đều kình chống nỗ lực của một số người vẫn muốn sở hữu thật nhiều đất đai và quyền lực.

Kình chống, là bởi: càng ngày người ta càng thấy có người cứ cậy vào quyền mình có để giành quyền sở hữu đất đai/tài sản của người nghèo, mà con số những người này đang gia tăng một cách đáng kể. Theo luật, thì đất đai do Chúa sở hữu, con người không có quyền bán chác, đổi trao. Thế nên, hoạt động của Chúa ở đây, là để tái tạo sự công bình/chính trực, ở khắp nơi.

Công bình, hiểu theo nghĩa giảm bớt những chuyện đổi chác/bán buôn, rất lố lăng. Công bình, hiểu theo ý thức trách nhiệm qua việc “xoá tẩy” đói nghèo, sầu khổ để rồi, cuối cùng, Nước Trời rồi sẽ đến. Không phải vào ngày cánh chung. Nhưng, Vương Quốc Nước Trời đến rất sớm ngay lúc này.

Cuộc gặp gỡ giữa Chúa và thánh Gioan xảy đến vào lúc Chúa vừa tròn độ tuổi 30. Đó là lúc Chúa quyết định rời gia đình. Bỏ chốn thị thành cùng mọi người, để tiến tới thực hiện ý định Cha giao phó. Ngài quyết định, là để định ra một động thái hợp lực với thánh Gioan. Để, sau một thời gian, Ngài sẽ lại tự mình theo con đường Cha dọn sẵn, muốn Ngài thực thi.

Một điểm khác biệt nữa, giữa động thái của thánh Gioan và Đức Giêsu, là ở chủ trương đặt nặng lên nghi thức rất thánh thiêng, về Đấng Mêsia. Đức Giêsu quyết định về với những người con bé bỏng, nghèo hèn. Sống, hoà lẫn với họ, mà không sợ một rào cản, cách ngăn nào hết. Ngài về với họ trong tương quan rất trọn vẹn. Tương quan Ngài tạo nên, là kết quả rút từ kinh nghiệm có cuộc sống linh thiêng, sau khi chấp nhận thanh tẩy dành cho Ngài, từ thánh Gioan. Nhờ thanh tẩy, Ngài phát hiện ra ý định của Cha, vẫn dành cho Ngài. Và, khi dân con mọi người sống trong công lý và bình an như Cha đã định, thì Vương Quốc Nước Trời, được Cha hứa ban, đã thành hiện thực. Một hiện thực thấy rõ qua hình thức chữa lành mọi tật bệnh qua phép lạ nhân rộng những cá và bánh.

Và, qua các dụ ngôn Ngài kể cho mọi người được biết. Tất cả, nay được tái thành lập trong sinh động cả nơi triền đồi cả ở Biển hồ Tibêriát. Hoặc, thôn làng hẻo lánh có truyền thống sẻ san ơn lành mình nhận lãnh sẻ và san, để rồi sẽ dẫn đến cuộc sống lành thánh, như ước hẹn. Ước hẹn với Cha. Ước hẹn với mọi người.

Điểm tương đồng giữa Đức Chúa và thánh Gioan còn thấy rõ ở điểm: cả hai đều kình chống lối nhận thức về Đấng Mêsia theo nhãn quan chính trị. Cả hai Đấng đều kình chống lối giữ Đạo nặng hình thức nhiều lễ nghi quan cách. Cả hai Đấng đều cho thấy cung cách rất khác biệt ngõ hầu giúp sống như người Do thái được dạy phải sống như thế. Và rồi, sẽ sống Đạo đúng như Giao Ước mình ký kết với Chúa. Với tha nhân.

Nói cho cùng, trình thuật hôm nay kể nhiều về thánh Gioan Tẩy Giả, là để minh xác về thuở đầu cuộc đời hoạt động của Đức Giêsu. Giai đoạn ấy, không chỉ hiện rõ qua nghi thức có tẩy và có rửa, mà thôi. Nhưng là giai đoạn tuyên dương tín điều đích thực, rằng: Đức Giêsu chính là Đấng Mêsia mà người người đợi trông. Đấng Mêsia, do Cha gửi đến, cốt không để ta thống lĩnh ba quân mà chống lại người La Mã, đang thống trị. Mà, Đức Mêsia đây, chính là Đấng Cứu Độ mà đường đường một thánh nhân rất trổi bật như Gioan Tẩy Giả cũng “không xứng đáng để cài dép, hoặc xách giày cho Ngài”.

Tin Mừng kể nhiều về thánh Gioan Tẩy Giả, là để nói rằng: Đấng Mêsia tuy đến sau thánh nhân, nhưng Ngài lại quyền thế hơn. Ngài đến, để tẩy rửa hết mọi người trong Thánh Thần. Bởi, như bài đọc 1, lại đã viết: “Thần Khí Chúa sẽ ngự trên vị này: Thần Khí khôn ngoan và minh mẫn, Thần Khí mưu lược và dũng mãnh, Thần Khí hiểu biết và kính sợ Chúa.” (Is 11: 2) Để, “các dân tộc sẽ tìm kiếm Người, và nơi Người ngự, sẽ rực rỡ vinh quang.” (Is 11: 10)

Và, cùng một ý tưởng tương tự, thánh Phaolô cũng nói: “Quả thế, mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh, đều được chép để dạy dỗ chúng ta.”(Rm 15: 4) Bởi thế nên, “Anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Kitô đã đón nhận anh em, để làm rạng Danh Thiên Chúa.” (Rm 15: 7)

Cuối cùng thì, phụng vụ thánh năm nay trích dẫn lời kinh hay trình thuật về thánh Gioan Tẩy Giả, cũng để mọi người xác tín rằng: “Tất cả chúng ta đều là anh em. Anh em, cùng một Cha. Cùng được Đấng Mêsia cứu độ. Ngài, đang đến với mọi người lâu nay hằng chờ Ngài, suốt nhiều năm.

 Lm Kevin O’Shea, CSsR biên-soạn –

 Mai Tá lược dịch.

Tổng hợp những ‘bí quyết’ giúp bạn an tâm đi hết cuộc đời

Tổng hợp những ‘bí quyết’ giúp bạn an tâm đi hết cuộc đời

Cuộc đời không ngắn chẳng dài, ai may mắn có được những ‘bí kíp’ này thì có thể tạm an tâm bình thản đi hết quãng đường nhân sinh dặm trường sương gió.

bi-kip-an-tam
(Ảnh minh họa: Internet)

Trước tiên, chúng ta hãy làm quen với khái niệm về ‘năm cái phúc’ của đời người, sau đó chúng ta sẽ học cách để an tâm vững bước trong suốt hành trình:

5 cái phúc lớn nhất của một đời người

Đời người, phúc họa tương y, trong họa tất đã có phúc. Vậy nên, suy nghĩ một chút, khi gặp khó khăn thống khổ chẳng phải chính là lúc để rèn luyện cho mình một ý chí kiên cường, một tinh thần vững chãi.

Đời người có năm cái phúc

Bình an là phúc: Suy nghĩ một chút, trên đời có bao nhiêu người đang phải chịu cảnh chiến tranh loạn lạc, đang sống trong tranh đấu, hiểm nguy. Chúng ta được sống trong bình an thì nhất định là đại phúc.

Khỏe mạnh là phúc: Suy nghĩ một chút, mỗi ngày trên thế gian có biết bao nhiêu người đã khuất, bao nhiêu người bị thương, bao nhiêu người nằm viện. Chúng ta khỏe mạnh, tráng kiệt, vậy không phải đã là có phúc rồi sao?

Khờ khạo là phúc: Suy nghĩ một chút, xưa nay có bao nhiêu người thông minh quá lại bị thông minh hại, vậy nên có lúc chỉ muốn làm kẻ khờ. Thông minh khó, khờ khạo khó, từ thông minh chuyển sang khờ khạo càng khó, buông tay ra, lùi một bước, lòng yên ổn.

Chịu thiệt là phúc: Suy nghĩ một chút, trên đời có bao nhiêu người khôn lanh, rốt cuộc có mấy người là khôn thực sự. Có rất nhiều người cam chịu thiệt thòi, luôn phải gánh chịu nhiều hơn, nhưng từ xưa đến nay, người cam chịu thiệt thòi so với người khôn lanh thì luôn hạnh phúc hơn.

Kính dâng là phúc: Suy nghĩ một chút, trời đất tại vì sao có thể lâu dài vậy? Bởi vì trời đất không phải vì chính mình mà tồn tại, cho nên mới lâu dài. Ánh nắng mặt trời, không khí tại sao có thể dài lâu vậy? Bởi vì mặt trời, không khí bằng lòng giao hết cho muôn loài, cho nên mới lâu dài.

Đại Vũ, Ngu Công tại sao lại được mọi người ghi nhớ mãi? Bởi vì họ vô tư vô ngã, chỉ muốn làm điều tốt cho muôn dân, người ta mới có thể khắc ghi họ. Từ xưa đến nay, kính dâng chính là phúc.

Đời người có 10 thứ cần phải tu dưỡng

Thiện dưỡng đức: Mỗi ngày hành thiện, tích thiện thành đức.

Cười dưỡng thọ: Cười một cái, trẻ hơn mười tuổi; cười mỗi năm, trẻ mãi không già.

Họa dưỡng phúc: Phúc họa tương y, tránh họa đắc phúc.

Xả dưỡng đắc: Xả không tiếc nuối, có xả tất có được.

Thành dưỡng bạn: Đối xử với mọi người thành tâm thành ý, tình bạn ắt sẽ dài lâu.

Tĩnh dưỡng tâm: Tùy kỳ tự nhiên, thanh tĩnh dưỡng tâm.

Động dưỡng thân: Tập luyện điều độ, thân thể khỏe mạnh.

Học dưỡng thức: Học hỏi nhiều sẽ biết kiến thức, đọc sách nhiều giúp hiểu lý lẽ.

Cần dưỡng tài: Người biết cần cù, siêng năng ắt giàu có.

Ái dưỡng gia: Gia đình hòa hợp vạn sự hưng thịnh, gia đình yêu thương nhau vạn sự tất thành.

Đời người có ba việc cần phải biết

1) Đầu tiên là biết người, cũng là việc quan trọng bậc nhất

Biết người rồi, làm việc sẽ thuận lợi, sẽ thành công. Hiểu sai người, làm việc sẽ có nhiều ngăn trở, sẽ thất bại. Vậy nên, trong cuộc sống cần phải tìm đúng người.
hanh-thien

 

 

 

 

 

 

 

Mỗi ngày hành thiện, tích thiện thành đức. (Ảnh: Internet)

Phải tìm quý nhân ủng hộ: Có quý nhân phù trợ, giống như lưng tựa đại thụ, hóng gió mát, sự nghiệp như diều gặp gió mà phất lên cao.

Phải tìm người thân yêu trợ giúp: Phía sau sự thành công của một người đều có một bàn tay của người thân tài giỏi. Có người thân yêu trợ giúp, chẳng khác nào làm chơi ăn thật.

Phải tìm bạn bè trợ lực: Đi thuyền cần có mái chèo tốt, có bạn bè trợ lực, chắc chắn sẽ xuôi gió xuôi thuyền.

Phải tránh âm mưu của tiểu nhân: Thà cãi nhau với quân tử còn hơn nói chuyện với tiểu nhân. Gặp phải kẻ tiểu nhân, 36 kế, chuồn là thượng sách.

(2) Thứ hai là phán đoán sự việc

Con người miễn là còn sống, thì luôn phải làm việc hay nghĩ tới công việc. Có thể nói việc bất ly thân, thân không rời việc. Sự khác biệt giữa người với người chính là khả năng phán đoán.

Phán đoán chuẩn xác trong thương lượng buôn bán, thì sẽ kiếm được lời. Phán đoán chuẩn xác chính sự quốc gia, thì liền có thể làm quan.

Trong cuộc sống sẽ gặp phải những việc lớn, việc nhỏ, chuyện tốt, chuyện xấu, việc gấp, việc khó. Khi đối với chuyện phức tạp rắc rối, điều đầu tiên bạn nhất định phải làm là phán đoán tốt xấu, phân rõ chuyện lớn nhỏ, khó dễ, chuyện cần làm gấp, chuyện có thể rời lại. Nhất định phải phán đoán được việc mình sẽ làm, phán đoán chuẩn rồi mới làm.

(3) Thứ ba là dưỡng sinh

Sức khỏe là tài sản quan trọng nhất của đời người. Bởi vậy, nhất thiết phải biết dưỡng sinh. Muốn dưỡng sinh tốt cần làm được hai dưỡng, mười phải.

duong-sinh

Muốn dưỡng sinh tốt cần bồi dường tâm. (Ảnh: Internet)

Hai dưỡng

Dưỡng sinh đầu tiên phải bồi dưỡng tâm: Bệnh tùy tâm sinh, có nhiều bệnh nguyên nhân chủ yếu là do tâm lý bản thân không tốt. Tâm trạng vui vẻ, khoan khoái, dễ chịu là cái gốc cho một thân thể tráng kiệt. Dù sao cũng không nên vì cớ gì mà suy tư, sinh hờn dỗi, mù quáng lo lắng, dày vò bản thân mình.

Dưỡng sinh cần coi trọng việc dưỡng dạ dày: Bệnh từ miệng mà vào, không ít loại bệnh là vì ăn mà gây ra họa. Lúc chuẩn bị ăn cái gì, nhất định phải chú ý quan sát và suy nghĩ một chút, xem xem mình có nên ăn hay không, nên ăn nhiều hay ít. Ăn vào rồi thì khó nhả ra, nhất định không được thích gì ăn nấy, đừng để cái miệng làm tổn hại sức khỏe của bạn.

Mười phải

Tâm phải tĩnh, thần phải định, đầu phải tỉnh, bụng phải rỗng không, chân phải nóng, cẳng phải động, ăn phải đa dạng, ham muốn phải tiết chế, uống thuốc phải thận trọng, thân thể phải kiểm tra.

Hoàng Sâm, dịch từ Watchinese

Theo tinhhoa.net

Chỉ một chút bất cẩn

 Chỉ một chút bất cẩn

Tôi đi vòng trong một tiệm Target và chứng kiến cảnh người thu-ngân đang trao lại một số tiền cho cậu bé. Cậu chỉ độ 5 hay 6 tuổi.

Người thu- ngân nói, “Rất tiếc là em không có đủ tiền để mua con búp-bê này”.

Đoạn cậu bé quay sang bà cụ đứng cạnh: “Bà à, bà có chắc là con không có đủ tiền không, bà?”

Bà cụ đáp: Con à, con biết là con không có đủ tiền để mua con búp-bê này mà”.

Rồi bà cụ bảo cậu bé cứ đứng đó chừng 5 phút để bà đi một vòng trong tiệm. Rồi bà lẩn đi ngay.
Cậu bé vẫn cầm con búp-bê trong tay.

Cuối cùng , tôi bước đến cậu bé và hỏi là cậu muốn tặng con búp-bê này cho ai.

“Đây là con búp bê mà em gái của con yêu thích lắm và ước ao có được trong Giáng Sinh này. Em ấy tin là Ông già Noel sẽ mang quà này lại cho em ấy.”

Tôi trả lời cậu bé rằng “thế nào Ông già Noel rồi cũng sẽ mang lại cho em con, con đừng lo.”
Nhưng cậu trả lời buồn bã. “Không, Ông già Noel không mang đến chỗ em đang ở được. Con phải trao con búp-bê này cho mẹ con, rồi mẹ con mới có thể trao lại cho em con khi mẹ đến đó.”

Đôi mắt cậu bé thật buồn khi nói những lời này.

“Em con đã trở về với Chúa. Ba con bảo là mẹ cũng sắp về với Chúa, bởi vậy con nghĩ là mẹ có thể mang con búp-bê này theo với mẹ để trao lại cho em con.”
Tim tôi như muốn ngừng đập.

Cậu bé nhìn lên tôi và nói: “Con nói với ba là hãy bảo mẹ đừng có đi vội. Con muốn mẹ con hãy chờ con đi mall về rồi hãy đi.”

Rồi cậu lấy ra cho tôi xem một tấm ảnh trong đó cậu đang cười thích thú.

“Con muốn mẹ mang theo tấm ảnh này của con để mẹ sẽ không quên con.

Con thương mẹ con và mong ước mẹ không phải bỏ con để đi, nhưng ba con nói là mẹ phải đi để ở cạnh em của con.”

Rồi cậu lặng thinh nhìn con búp-bê buồn bã.

Tôi vội vàng tìm ví bạc trong túi và nói với cậu bé: “hãy thử coi lại xem, biết đâu con lại có đủ tiền mua con búp-bê này thì sao!”

“Dạ”, cậu bé đáp, “con mong là có đủ tiền”. Không cho cậu bé thấy, tôi kẹp thêm tiền vào mớ tiền của cậu bé, và chúng tôi cùng đếm. Chẳng những đủ số tiền cho con búp-bê mà còn dư thêm một ít nữa.

Cậu bé nói: “Cảm ơn Chúa đã cho con đủ tiền!”

Rồi cậu nhìn tôi và nói thêm, “tối qua trước khi đi ngủ, con đã hỏi xin Chúa hãy làm sao cho con có đủ tiền để mua con búp-bê này để mẹ con có thể mang đi cho em con. Chúa đã nghe lời cầu xin của con rồi..”

“Con cũng muốn có đủ tiền mua hoa hồng trắng cho mẹ con, nhưng không dám hỏi Chúa nhiều. Nhưng Ngài lại cho con đủ tiền để mua búp-bê và hoa hồng trắng nữa..”

“Mẹ con yêu hoa hồng trắng lắm.”

Vài phút sau bà cụ trở lại, và tôi cũng rời khỏi tiệm.

Tôi làm xong việc mua sắm trong một trạng thái hoàn toàn khác hẳn với khi bắt đầu vào tiệm. Và tôi không thể rứt bỏ hình ảnh của cậu bé ra khỏi tâm trí tôi.

Đoạn tôi nhớ lại một bài báo trong tờ nhật báo địa phương cách đây hai hôm. Bài báo viết về một tài xế say rượu lái xe vận tải đụng vào xe của một thiếu phụ và một bé gái nhỏ.

Đứa bé gái chết ngay tại hiện trường, còn người mẹ được đưa đi cứu cấp trong tình trạng nguy kịch. Gia đình phải quyết định có nên rút ống máy trợ-sinh khỏi bệnh nhân hay không vì người thiếu phụ này không còn có thể hồi tỉnh ra khỏi cơn hôn mê.

Phải chăng đấy là gia đình của cậu bé?

Hai ngày sau khi gặp cậu bé, tôi đọc thấy trên báo là người thiếu phụ đã qua đời. Tôi bị một sự thôi thúc và đã mua một bó hoa hồng trắng và đi thẳng đến nhà quàn nơi tang lễ của người thiếu phụ đang diễn ra và mọi người đến nhìn mặt người quá cố lần cuối cùng.

Cô nằm đó, trong cỗ áo quan, cầm trong tay một cành hồng màu trắng với tấm ảnh của cậu bé và con búp-bê được đặt trên ngực của cô.

Tôi rời nơi đó, nước mắt đoanh tròng, cảm giác rằng đời tôi đã vĩnh viễn thay đổi. Tình yêu của cậu bé dành cho mẹ và em gái cho đến ngày nay thật khó mà tưởng tượng. Và chỉ trong một phần nhỏ của một giây đồng hồ, một gã lái xe say rượu, hay người lái xe bất cẩn, đã lấy đi tất cả những gì thân thiết nhất của đời cậu.

– Bây giờ bạn có 2 chọn lựa:

  1. Post lại sứ điệp này.
  2. Cứ phớt lờ đi giống như câu chuyện này chẳng bao giờ đụng chạm gì đến tấm lòng của bạn.

“Chỉ một chút bất cẩn sẽ luôn là nguyên nhân gây tổn thất và mất mát”.

Robert A.

Nước Mỹ hoang mang – Việt Nam bối rối

 Nước Mỹ hoang mang – Việt Nam bối rối

Phạm Trần (Danlambao) – Nếu nước Mỹ hoang mang thì cả thế giới cũng hồi hộp chờ xem chuyện gì sẽ xẩy đến cho Tổng thống đắc cử Cộng hòa Donald Trump vào ngày 19/12/2016.

Riêng Việt Nam, kết quả trong ngày này sẽ ảnh hưởng lâu dài đến tiến trình hội nhập kinh tế thế giới và quan hệ với Hoa Kỳ trước rắp tâm muốn chiếm đóng Việt Nam của Trung Quốc.
Tại sao? Vì như đã quy định, sau 41 ngày có kết quả bầu phiếu ngày 8/11/2016, Cử Tri Đoàn gồm 538 người của 50 Tiểu bang và Quân hạt Columbia (District of Columbia, Thủ đô Hoa Thịnh Đốn) phải họp tại Thủ đô của mỗi nơi để chính thức bỏ phiếu bầu Tổng thống và Phó Tổng thống. Do đó cuộc bỏ phiếu năm 2016 của “cử tri đoàn” rơi vào ngày Thứ Hai 19/12/2016.

Cuộc bỏ phiếu bầu 2 chức danh Tổng thống và Phó Tổng thống sẽ riêng biệt. Ứng cử viên Tổng thống phải được đa số, tức 270 phiếu, trong tổng số 538 “cử tri đoàn” mới được coi là đắc cử.

Vậy “Cử tri đoàn” là ai, ở đâu ra?

Họ là số người được đảng của họ, hiện nay là Dân chủ và Cộng hòa, chọn tại mỗi Tiểu bang, tương đương với tổng số Dân biểu và Nghị sĩ của Tiểu bang ấy. Như vậy, tổng số 538 “cử tri đoàn” cũng bằng với 3 số cộng lại gồm 100 Nghị sĩ, 435 Dân biểu và 3 “Cử tri đoàn” đặc biệt dành cho Thủ đô Hoa Thịnh Đốn được một tu chính Hiến pháp cho phép.

Nhưng tại sao phải bầu lại khi ứng cử viên Cộng hòa Donald Trump đã thắng 306 phiếu, hơn số phiếu 270 cần thiết, trong cuộc bầu cử của cử tri Mỹ ngày 8/11/2016?

Lý do:

Bởi vì thủ tục bầu chọn Tổng thống và Phó Tổng thống Mỹ đã liên tục dành quyết định sau cùng cho “Cử tri đoàn” từ ngày lập quốc năm 1776 nên trong suốt chiều dài lịch sử 44 đời Tổng thống của nước này (Geroge Washington-Barack Obama), cơ chế “cử tri đoàn bầu Tổng thống và Phó Tổng thống” vẫn tồn tại.

Việc làm này của “cử tri đoàn” được các Chuyên gia Bầu cử và Học giả Hiến pháp Mỹ coi như “một lớp vỏ bọc thứ hai” (extra layer) để bảo đảm sự trung thực, trong sáng và công bằng của lá phiếu cử tri đã quyết định trong ngày bầu cử Tổng thống.

Mặt khác, lối dùng “cử tri đoàn” còn được coi như để ngăn chặn phe “đa số” cử tri do toa rập, kết cánh dồn phiếu cho một người phe mình trong cuộc bầu cử để nhân danh dân chủ mà thao túng, chèn ép các nhóm dân khác trong xã hội.

Do đó, khi người dân Mỹ đi bỏ phiếu bầu ngày 8/11/2016 thật ra là họ không bầu trực tiếp Tổng thống và Phó Tổng thống như ở các nước khác mà đã bầu cho những “cử tri đoàn tại Tiểu bang mình” để những người này sau đó “chính thức” bầu Tổng thống và Phó Tổng thống, thay cho mình.

Vì vậy, khi tranh cử, hai ứng cử viên Donald Trump của Cộng hòa và bà Hillary Clinton của Dân chủ đã tập trung vận động tại các Tiểu bang có nhiều “cử tri đoàn” và cạnh tranh bất phân thắng bại giữa 2 đảng. Báo chí Mỹ gọi những nơi này là “Battle ground”, tạm gọi là “vùng chiến địa”. Ai thắng ở đó coi như đắc cử Tổng thống.

Việc này giải thích tại sao các ứng cử viên Tổng thống đã không vận động tranh cử tại tất cả 50 Tiểu bang.

Trong cuộc bầu cử ngày 8/11/2016, các Tiểu bang quan trọng như Florida, Pensylvania, Ohio, North Carolina và Michigan đã giúp ông Trump thắng cử.

Trái ngang

Tuy nhiên, sau khi kiểm phiếu thì thấy bà Clinton đã được hơn ông Trump trên 2 triệu phiếu của cử tri, hay “phiếu của đại chúng” mà người Mỹ gọi là Popular vote.

Cho đến cuối tháng 11/2016, thống kê bầu cử cho thấy số phiếu bà Clinton đạt được là 64,223,986 (48.1%), ông Trump được 62,206,395 phiếu (46.4%). Khoảng cách biệt là 2,357,260 phiếu (ngót 2%).

Nhưng bà Clinton không phải là người đầu tiên dù có số phiếu cử tri hơn đối thủ mà vẫn không đắc cử Tổng thống. Trong lịch sử Mỹ đã có 4 trường hợp như thế.

Trường hợp gần nhất là năm 2000, khi Phó Tổng thống Al Gore, ứng cử viên Tổng thống của đảng Dân chủ, tuy hơn ứng cử viên Cộng hòa George W. Bush khoảng 540,000 phiếu mà vẫn thua ông Bush, người được 271 phiếu Cử tri đoàn. Ông Gore chỉ thu được 266 phiếu “cử tri đoàn” nên thất cử.

Lịch sử Mỹ cũng chứng minh ông Anrew Jackson, thắng phiếu đại chúng năm 1824 mà thua cho John Quincy Adams. Năm 1876, ông Sanuel Tilden hơn phiếu Rutherford B. Hayes nhưng thua phiêu “cử tri đoàn”. Sau cùng là Grover Cleveland thua Benjamin Harrison năm 1888, dù có nhiều phiếu đại chúng nhiều hơn.

Bất tín nhiệm Trump

Vì có những trường hợp trái khoáy như thế nên cử tri bất bình. Nhiều đề nghị tu chính Hiến pháp để thay thế “cử tri đoàn” bằng số phiếu của đại chúng (popular vote) nhưng không thành công vì thủ tục tu chính Hiến pháp rất rườm rà và lâu dài.

Từ năm 1948, viện trưng cầu ý kiến Gallup cho biết có tới 53% người Mỹ muốn hủy bỏ “electoral college” (cử tri đoàn). Đến năm 2013, số người muốn hủy bỏ tăng lên 63%. Và mặc dù đã có ít nhất 17 cuộc điều trần và 700 lần vận động thảo luận tại Quốc hội về đề nghị bỏ “cử tri đoàn” mà vẫn chưa có lần nào được đem ra thảo luận trước các phiên khoáng đại.

Nhưng dù có được Quốc hội đồng ý chăng nữa thì quyết định bỏ “cử tri đoàn” còn phải được 3/4 tổng số 50 Tiểu bang đồng ý là điếu rất khó đạt được.

Vì vậy, cuộc bỏ phiếu ngày 19/12 năm 2016 được đặc biệt quan tâm của nhiều người Mỹ và nhiều nước khác vì người được chọn làm Tổng thống Mỹ trong 4 năm tới (2016-2020) sẽ là ông Donald Trump, nếu ông ta bảo vệ được được ít nhất 270 trên tổng số 538 phiếu “cử tri đoàn”. Kết quả bầu cử ngày 8/11/2016 đã dành cho ông Trump tới 306 phiếu “cử tri đoàn”, nhưng kết quả bỏ phiếu sau cùng ngày 19/12/2016 mới thật sự có giá trị đối với Hiến pháp và lịch sử Mỹ.

Hơn nữa riêng với năm nay (2016), nhân vật Donald Trump đã bị nhiều giới chống đối vì tư cách, lời ăn tiếng nói làm phật lòng nhiều giới, nhất là phụ nữ, người thiểu số, người Hồi giáo và người di dân, đặc biệt người gốc Nam Mỹ. Vì vậy, mặc dù thắng cử nhưng ông ta vẫn bị nhiều người Mỹ coi là “unfit to be president”, hay “không đủ tư cách làm Tổng thống”.

Do đó hiện nay ở Mỹ đã có 2 cuộc vận động “cử tri đoàn” không bỏ phiếu cho Donald Trump vào ngày 19/12/2016.

Cuộc vận động thứ nhất, tuy âm thầm nhưng tích cực trong hàng ngũ “cử tri đoàn” do ít nhất 8 “cử tri đoàn Dân chủ”, đứng đầu bởi P. Bret Chiafalo, Tiểu bang Washington và Michasel Baca thuộc bang Colorado.

Ông Chiafalo nói với hãng thông tấn AP (Associated Press) sẽ không bỏ phiếu cho Bà Clinton, nhưng đã cùng với ông Baca tung ra chiến dịch “Moral Electors” (tạm gọi là “Những cử tri đoàn có lương tâm”) để vận động 37 Cử tri đoàn Cộng hòa không bỏ phiếu cho Donald Trump, trong tổng số 306 phiếu ông Trump thu được trong ngày bầu cử 8/11/2016. Nếu họ thành công thì số phiếu còn lại của ông Trump là 169 “cử tri đoàn”, tức ít hơn 1 phiếu để thành Tổng thống.

Mục đích của hai “cử tri đoàn” này là tìm đủ phiếu để phủ nhận Trump rồi trao cho Hạ viện Mỹ quyết định tìm người khác của Cộng hòa làm Tổng thống. Cả hai cho biết họ đang vận động “cử tri đoàn” Cộng hòa để cử cựu ứng viên Tổng thống năm 2012 Mit Romney hay đương kim Thống đốc Cộng hòa John Ksich của Tiểu bang Ohio, thay cho Donald Trump.

Theo AP ông Chiafalo nói: “This is a longshot. It’s a Hail Mary,” Chiafalo said in a phone interview. “However, I do see situations where – when we’ve already had two or three [Republican] electors state publicly they didn’t want to vote for Trump. How many of them have real issues with Donald Trump in private?” (Tạm dịch: “Đây là một chặng đường dài, ngoài tầm tay với. Nhưng tình thế của chúng tôi hiện nay là chúng tôi đã có hai hay ba “cử tri đoàn” Cộng hòa cho biết là họ không muốn bỏ phiếu cho Trump. Vậy còn bao nhiêu người khác đã có vấn đề với Donald Trump mà không nói ra?”)

Hai vận động viên này nhìn nhận họ khó thành công vì qua kinh nghiệm của lịch sử, rất ít khi xảy ra chuyện các “cử tri đoàn” bỏ hàng ngũ chống lại ứng cử viên của đảng mình.

Cho đến nay có 24 Tiểu bang ràng buộc các “cử tri đoàn” phải giữ lời hứa trung thành với đảng mình, nhưng không có quyền cấm họ bỏ hàng ngũ để bỏ phiếu cho người khác. Cử tri đoàn nào làm như thế thì chỉ bị phạt từ 500 đến 1,000.00 Dollars.

Những người ủng hộ bà Hillary Clinton nói họ rất vui mừng và sẵn sàng đóng tiền phạt cho “cử tri đoàn Cộng hòa” quay đầu lại với Donald Trump.

Cuộc vận động chống Trump thứ hai do nhóm Change.org petition phát động kêu gọi “cử tri đoàn” bỏ phiếu cho bà Clinton vì bà thu được nhiều phiếu hơn Donald Trump.

Tin của nhóm này cho hay họ đã thu được trên 4 triệu chữ ký ủng hộ cuộc vận động, bao gồm nhiều nhân vật nổi tiếng trong giới nghệ sĩ, tài tử. Một trong số ca sĩ nổi tiếng ủng hộ phong trào là Lady Gaga, nhưng không thấy có lãnh tụ nổi tiếng nào của đảng Dân chủ công khai tham gia.

Tuy viễn ảnh “hạ bệ Donald Trump” bình thường đã khó, nhưng dù có thành công ở ngày bỏ phiếu 19/12 thì chức Tổng thống, cuối cùng, vẫn thuộc về đảng Cộng hòa vì Hạ nghị viện do đảng Cộng hòa chiếm đa số có quyền quyết định tối hậu. Họ sẽ bầu cho một người của Cộng Hòa chứ chẳng bao giờ lại bỏ phiếu cho bà Hillatry Clinton của đảng Dân chủ.

Nhưng nếu trong số những “cử tri đoàn” bỏ phiếu phủ nhận Donald Trump có một ít người của đảng Cộng hòa thì sự kiện lịch sử này sẽ deo đuổi ông ta suốt đời, chứ không phải là chuyện bình thường trong nền chính trị Hoa Kỳ.

Việt Nam và 19/12/2016

Vậy kết quả bỏ phiếu của “cử tri đoàn” ngày 19/12/2016 có ảnh hương đến Việt Nam ra sao?

Tất nhiên sẽ ảnh hưởng đến TPP và quan hệ “đối tác toàn diện” giữa Mỹ và Việt Nam. Ông Donald Trump đã tuyên bố sẽ dứt khoát “từ giã” TPP ngay sau ngày nhận chức 20/1/2017. Như vậy, nếu ông thắng ngày 19/12/2016 thì con đường mậu dịch của Việt Nam trong tương lai sẽ chông gai.

Điều này đã được nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ Hà Nội, ông Vũ Khoan nói với báo Công an Nhân dân (đăng ngày 27/11/2016) như thế này: “Trước hết, phải nói TPP là một mắt xích quan trọng của quá trình tự do hóa thương mại toàn cầu. Với việc ông Trump đã chính thức tuyên bố sẽ rút khỏi TPP, quá trình tự do hóa toàn cầu ấy chịu một sức ép không nhỏ.

Tình hình sẽ diễn biến ra sao thì chúng ta phải chờ đợi. Mỹ sẽ rút khỏi TPP theo tuyên bố của ông Trump, nhưng quy trình diễn ra như thế nào vẫn còn rất nhiều dấu hỏi, như những quy định của nội luật Mỹ, hay những phản ứng của các thế lực khác nhau trong lòng nước Mỹ cũng chưa thể nói trước.”

Tuy nhiên, ông Vũ Khoan lưu ý: “Bất luận thế nào, chắc chắn 2017 sẽ chưa có TPP, và nếu giả dụ có trong tương lai, nó cũng sẽ khác TPP đã ký. Việt Nam, trước tình hình bất định như vậy, cần theo dõi rất kỹ lưỡng chiều hướng và chủ động có những bước đi để đối mặt.

Một số người nói có hay không có TPP cũng không vấn đề gì. Nếu nói như vậy, ta sẽ đặt câu hỏi: Vậy thì anh vào TPP làm gì, cố công đàm phán bao nhiêu năm trời, thậm chí có rất nhiều kỳ vọng, nhiều dự đoán lạc quan. Có người còn nói không có thì càng tốt, là cơ hội để tái cấu trúc nền kinh tế. Cách nói như thế không chuẩn xác.”

Ông Vũ Khoan là một chuyên gia kinh tế, từng tham gia nhiều cuộc đàm phán với Mỹ và các nước khác để đạt được các thỏa hiệp giúp Việt Nam phát triển và cải cách nền kinh tế lạc hậu, sau 1975.

Ông cũng là người không ngại phê bình, đôi khi chỉ trích những lời nói và hành động “phi kinh tế” và “bốc đồng”của một số viên chức lãnh đạo nhà nước.

Do đó, ông mới nhìn TPP bằng con mắt thận trọng, và nói: “Theo tôi, nên đặt vấn đề thế này: TPP là một mắt xích quan trọng trong quá trình nước ta hội nhập với thế giới. Bây giờ nó không có nữa, hay nó thay đổi đi, thì ta phải tính toán, thích nghi với tình hình đó.”

Ông cũng đã có vai trò không nhỏ trong quá trình đàm phán để đạt được thỏa hiệp thương mại Mỹ – Việt có tên là “US-Vietnam Bilateral Trade Agreement (BTA)” và Free Trade Agreement (FTA) với các nước khác trên thế giới.

Vì vậy, trong cuộc phỏng vấn của báo Công an Nhân dân, ông Vũ Khoan đã cảnh giác: “Nếu không đổi mới các DNNN (Doanh nghiệp Nhà nước), không xóa bỏ những rắc rối trong thủ tục, nếu còn có cơ chế xin-cho, thì chẳng có FTA nào cứu được đâu.”

Tại sao phải đổi mới DNNN? Bởi vì các Doanh nghiệp này làm ăn lời ít, lỗ nhiều và lỗ liên liên mà vẫn được nhà nước gánh nợ thay từ năm này qua năm khác. Bởi vì tham nhũng, lợi ích nhóm, ăn chia và nợ nước ngoài, nợ công, tiêu hao tài sản của nhân dân cũng từ những ổ này mà ra cả.

Đảng và nhà nước thì cứ nói “đổi mới” và “tái cơ cấu” mãi, nhưng càng đổi, càng tái lại càng cũ đi và xám xịt tương lai.

Bà Phạm Chi Lan và Lê Doãn Hợp

Một chuyên gia kinh tế khác, bà Phạm Chi Lan còn cảnh báo về chuyện TPP không còn đối với Việt Nam. Bà viết trên Vietnam Forbes, số ra tháng 12-2016: “Trước tình hình mới này, Việt Nam cần suy nghĩ nghiêm túc về các khả năng trong tương lai, và đặc biệt là về việc mình phải làm gì để thích ứng với bối cảnh kinh tế chính trị trên thế giới chắc chắn sẽ khác trước.

Thứ nhất, về cải cách kinh tế. TPP với những chuẩn mực cao được kỳ vọng sẽ tạo động lực và áp lực cho VN trong việc cải cách mạnh thể chế kinh tế. Tuy nhiên, cải cách thể chế trước hết là yêu cầu tự thân của nền kinh tế Việt Nam. Các nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ XI, XII, Chiến lược phát triển của VN cho thời kỳ 2011-2020 đều coi cải cách thể chế là một trong ba đột phá chiến lược. Do vậy, có hay không có TPP thì người VN vẫn phải tự mình chủ động tiến hành công cuộc cải cách này.”

Nhưng “cải cách thể chế” là gì? Cơ bản là phải cải thiện, tổ chức lại của guồng máy nhà nước sao cho tinh gọn, nhẹ nhàng, bén nhạy, tổ chức nhân sự phải lấy đức và tài là chính thay vì chỉ biết lấy con ông cháu cha, bạn bè, đồng chí dù tốt ít xấu nhiều làm gốc như đang diễn ra.

Đảng và nhà nước đã nói rất nhiều về cải cách hành chính và giảm biên chế, nhưng càng nói cải thì lại hành dân là chính. Thủ tục, giấy tờ bảo giảm nhiều hay chỉ một cửa thì càng rườm rà rắc rối. Ra nghị quyết bớt số nhân viên, cán bộ và công chức thì khối nhân sự ăn lương của các cơ quan lại càng phình to ra.

Hãy nghe nguyên Bộ trưởng Thông tin-Truyền thông Lê Doãn Hợp, Chủ tịch Hội Truyền thông số Việt Nam, nói với báo VietTimes (Dân Trí đăng lại 16/6/2016).

Nhà báo (hỏi): “Hội nghị giữa nhiệm kỳ Đại hội VII của Đảng (1/1994), đã đưa ra 4 nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng, của dân tộc: tụt hâu, chệch hướng, tham nhũng và diễn biến hòa bình. Hơn 22 năm qua, vấn đề này vẫn còn nguyên tính thời sự, nó không còn là nguy cơ nữa mà đã trở thành những thách thức hiển hiện trong thực tế và càng ngày càng trở nên bức thiết đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. Nhưng theo ông, đâu là nguy cơ nguy hại nhất?”

LDH: “Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra thì nguy cơ nào cũng nguy hại. Tuy nhiên, tụt hậu về kinh tế ngày càng xa hơn, thực sự đang đe dọa đất nước và tác động đến 3 nguy cơ còn lại theo chiều hướng xấu nhanh hơn.

Mặc dù có những thành tựu đáng tự hào trong suốt 3 thập kỷ vừa qua, nhưng rõ ràng là chúng ta vẫn đang bị các nước phát triển hơn bỏ lại phía sau và ngày càng nới rộng khoảng cách. Việt Nam cũng đang bị bỏ lại phía sau các bảng xếp hạng toàn cầu trong phần lớn các tiêu chí phát triển. Năm 1990, khoảng cách Việt Nam so với trung bình thế giới khoảng 4.000USD, thì sau hơn 20 năm, khi GDP bình quân của Việt Nam đạt 2.000 USD thì GDP bình quân thế giới đã vượt 10.000 USD, khoảng cách phát triển đã lên gấp 2 lần. Về giáo dục: theo chỉ số Human Development, Việt Nam đứng hàng 121/187, có nghĩa là dưới trung bình. Về y tế: theo chỉ số y tế, sức khỏe, Việt Nam đứng hàng 160 trên 190 quốc gia. Trong khi đó, theo chỉ số tham nhũng mới nhất của tổ chức Transparency International, Việt Nam đứng hàng 116/177 có nghĩa là thuộc nhóm 1/4 quốc gia cuối bảng.”

Bà Phạm Chi Lan cũng bổ túc trong bài viết: “Tình trạng sụt giảm tốc độ tăng năng suất lao động, sụt giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế và những vấn đề nổi cộm trong mấy năm gần đây đều có nguồn gốc từ thể chế. Để gỡ những nút thắt tăng trưởng và tránh bị tụt hậu xa hơn, người VN biết rõ cần cải cách càng sớm, càng triệt để càng tốt. Động lực, áp lực từ bên trong đối với cải cách đang tăng cao hơn bao giờ hết. VN thấy rõ, qua những cam kết trong TPP, cần cải cách như thế nào để xây dựng một hệ thống thể chế hiện đại, nhằm khắc phục những vấn đề hiện tại và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong tương lai.”

Nhưng nay thì ông Trump đã nói sẽ rút khỏi TPP. Và khi ông tồn tại sau cuộc bỏ phiếu ngày 19/12/2016 thì nền kinh tế của VN sẽ phải chịu thêm nhiều nút thắt từ nền kinh tế của Trung Quốc.

Việt Nam từng hy vọng TPP sẽ giúp thoát dần lệ thuộc kinh tế đơn độc vào Trung Hoa, vì theo bà Phạm Chi Lan: “TPP được kỳ vọng sẽ bổ sung cho nền kinh tế còn tương đối nhỏ và thiếu thốn nhiều bề của VN những nguồn lực cần thiết để có thể phát triển mạnh hơn, bền vững hơn. Đó là thị trường hàng hóa và dịch vụ, là dòng vốn đầu tư, là công nghệ, kỹ năng và tri thức, là sự kết nối trong các chuỗi giá trị toàn cầu… TPP tạo nhiều thuận lợi cho việc tiếp cận các nguồn lực đó, nên không có TPP, khả năng tiếp cận các nguồn lực này, đặc biệt từ Mỹ, sẽ khó khăn hơn. VN sẽ phải điều chỉnh những dự định, chiến lược phát triển các sản phẩm của mình cho phù hợp với bối cảnh thay đổi cả về cấu trúc thị trường và điều kiện, phương thức tiếp cận các nguồn lực.”

Như vậy, cho dù Donald Trump có ở lại hay ra đi sau cuộc bỏ phiếu của 538 “cử tri đoàn” ngày 19/12/2016 thì Việt Nam cũng sẽ phải đối phó với một chính sách “kinh tế bảo thủ” mới của nước Mỹ thời đảng Cộng hòa cầm quyền. Khẩu hiệu “America first” của ông Trump được cử tri ủng hộ không phải là viên kẹo ngọt mà là viên thuốc đắng cho các nền kinh tế nhỏ như Việt Nam.

01.12.2016

Phạm Trần

danlambaovn.blogspot.com

Vui Với Người Vui, Khóc Với Kẻ Khóc

 Vui Với Người Vui, Khóc Với Kẻ Khóc

Cha Pierre, người sáng lập phong trào Emmaus, chuyên giúp những người không nhà không cửa tìm được nơi cư ngụ và tự lực cánh sinh từ việc chế biến những đồ phế thải, đã ôn lại một trong những kỷ niện mà ngài cho là ý nghĩa nhất trong cuộc đời như sau: Gia đình tôi gồm có tất cả 8 anh chị em. Một ngày thứ năm nọ, chúng tôi muốn tập trung lại với nhau để đi đến thăm một gia đình bà con của chúng tôi. Nhưng cha mẹ tôi đã phạt tôi bằng cách bắt tôi phải ở nhà. Buổi chiều hôm đó, các anh em tôi trở về, ai cũng nói huyên thuyên vì một ngày được chơi đùa thỏa thích. Thái độ đó càng làm tôi bực tức thêm. Không kềm hãm được sự ghen tức, tôi đã nói với một người anh như sau:” Không có tôi thì kể như cuộc chơi cũng không có ý nghĩa gì”. Tôi trút hết cả giận dữ cũng như sự kiêu hãnh của tôi và bỏ đi nơi khác.

Ba tôi đang đau liệt trong phòng của ông. Tình cờ nghe được lời phát biểu ngạo mạn của tôi, ông cho gọi tôi vào? Lúc đó tôi mới hiểu được sai trái của tôi cũng như nỗi khổ tâm của cha tôi. Nhưng cha tôi đã không la rày tôi. Ông chỉ nhỏ nhẹ bảo tôi:” Con không biết rằng con vừa nói một lời lẽ xấu xa ư ? Con nghĩ rằng chỉ có con là người quan trọng nhất sao? Tại sao con không bằng lòng khi những người khác được sung sướng?”

Lúc đó tôi mới hiểu rằng ba tôi đau khổ trong thân xác đã đành, nhưng ông còn đau khổ gấp bội trong tinh thần vì tính xấu xa của tôi.

Tôi không bao giờ quên được câu chuyện trên đây? Và có lẽ đây là câu chuyện đánh dấu cả cuộc đời còn lại của tôi.

Ba nguyên tắc cơ bản hướng dẫn đời sống của các cộng đồng Emmaus do cha Pierre sáng lập, trước hết đó là lao động. Các thành phần của cộng đồng Emmaus không chấp nhận bất cứ một sự dâng cúng nào. Tay làm hàm nhai, mỗi người trong cộng đồng đều ý thức về giá trị của việc làm và sự đóng góp của mình.

Nguyên tắc thứ hai đó là đời sống cộng đoàn. Tất cả mọi tiền của kiếm được đều bỏ vào quỹ chung của cộng đoàn. Từ 30 năm nay, tất cả tiền của thu tích được đều được chi dùng cho đời sống của cộng đồng cũng như được bố thí cho những người nghèo khổ túng thiếu hơn.

Nguyên tắc thứ ba là phục vụ. Ðây là nguyên tắc tổng hợp mọi nguyên tắc khác của đời sống cộng đoàn. Phục vụ có nghĩa là sống cho người khác, lấy đau khổ của người khác làm chính đau khổ của mình, lấy niềm vui của người khác làm chính niềm vui của mình.

Có lẽ nguyên tắc cơ bản mà cha Pierre đang áp dụng trong các cộng đoàn Emmaus của ngài chính là bài học mà ngài tiếp thu được từ thân phụ của mình: “Con không bằng lòng khi thấy những người khác được hạnh phúc ư?”.

Nguyên tắc trên đây cũng là lời khuyên mà thánh Phaolô thường nhắn nhủ các tín hữu của ngài:”Vui với người vui, khóc với kẻ khóc”.

Dù sống trong địa vị nào trong xã hội, dù sống dưới hình thức gia đình nào, độc thân hay có đôi bạn, mọi người đều được mời gọi để sống chung với những người xung quanh. Nguyên tắc đơn sơ và cơ bản nhất trong cuộc sống chung vẫn là:”

Lấy hạnh phúc của người khác làm hạnh phúc của chính mình,
lấy niềm đau của người khác làm nỗi khổ của chính mình”.

Trích sách Lẽ Sống

Anh chị Thụ Mai gởi

Ngọn lửa tình yêu

Ngọn lửa tình yêu

Thiên Phúc

(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu ‘)

Tại một khu phố cổ Ấn Độ, trên đường cũng như trong nhà thường không có đèn. Giữa những khu phố như thế, thỉnh thoảng người ta thấy mọc lên một ngôi đền  Ấn giáo. Dĩ nhiên, trong những ngôi đền như thế, ánh sáng cũng không được đốt lên thường xuyên. Từ trên nóc đền thờ cũng như dọc theo bốn bức tường, họ treo những chiếc lồng đèn. Khoảng trống trong những chiếc lồng đèn ấy vừa vặn để cho vào một chiếc đèn dầu.

Bình thường ngôi đền thờ vắng lạnh vì tăm tối. Nhưng cứ mỗi sáng sớm, khi các tín hữu dùng đèn dầu soi đường để đi qua các khu phố đến đền thờ cầu nguyện, họ cũng mang chính những ngọn đèn ấy và đặt vào trong những chiếc lồng đèn trong nhà thờ. Thành ra, khi mỗi tín hữu đặt ngọn đèn của mình vào trong các lồng đèn, thì ngôi đền thờ bỗng sáng rực lên một cách lạ kỳ.

“Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên”. Đó là tâm nguyện của Chúa Giêsu và cũng là trách nhiệm của mỗi người tín hữu chúng ta: Thế giới này là một ngôi đền thờ rộng lớn mà mỗi tín hữu phải đặt vào đó ngọn lửa tình yêu, để thế giới này bừng sáng lên tình anh em một nhà.

Ngọn lửa mà Chúa Giêsu đã ném vào thế giới này, chính là ngọn lửa tình yêu vẫn bừng cháy trong trái tim Người; là ngọn lửa phục sinh đã bừng lên trong tâm hồn người tín hữu giữa đêm tăm tối, cũng là ngọn lửa Thánh Thần đã bừng sáng trí khôn các tông đồ ngày lễ Ngũ Tuần.

Nếu con người cần cơm bánh để sống còn, thì họ cũng cần tình thương để tồn tại. Nếu con người cần áo quần để che thân, thì họ cũng cần tình thương để sưởi ấm.

Nếu lòng hai môn đệ Emmau đã bừng cháy lên khi nghe lời Chúa, thì nhân loại sao chẳng rực sáng lên khi nghe lời yêu thương của Người?

Lời yêu thương đã được viết lên trên cây thập giá, trong cuộc khổ nạn đau thương, đó chính là phép rửa mà Chúa Giêsu phải chịu, để ném lửa yêu thương vào trần gian.

Như Thiên Chúa Giavê đã hiện ra với Môsê nơi bụi gai cháy sáng và kêu gọi ông đi chu toàn sứ mạng, nay Người cũng sai chúng ta đi loan báo sứ điệp yêu thương cho trần thế.

Như Chúa Giêsu đã đẩy lui bóng tối tử thần bằng ánh sáng Phục sinh và sai các môn đệ đi loan báo tin vui, nay Người cũng mời gọi chúng ta hãy xua tan bóng tối của bất công, hận thù, nghèo đói với ánh sáng của tình thương cứu độ.

Như Thánh Thần đã ngự xuống trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa để biến họ thành chứng nhân Nước Trời, nay Người cũng muốn chúng ta mang ngọn lửa tình yêu, thanh luyện và sưởi ấm các tâm hồn.

Mahatma Gandhi, vị thánh của Ấn Độ đã nhận định rất sâu sắc về ngọn lửa tình yêu này như sau: “Một vật cứng rắn đến đâu, cũng sẽ tan chảy trong lửa tình yêu. Nếu vật ấy không tan chảy, chính vì ngọn lửa không đủ mạnh”.

Lạy Chúa, xin đốt lên trong chúng con ngọn lửa từ trái tim yêu thương của Chúa, để chúng con soi sáng những ai còn ngồi trong tăm tối, sưởi ấm những kẻ đang lạnh lùng, thanh luyện những cõi lòng chai đá, để khắp nơi trên trái đất này tràn đầy ánh lửa tình yêu Chúa. Amen.

Thiên Phúc

XIN LỖI CẢ NƯỚC! CHO PHÉP LÃO GIÀ NÀY ĐƯỢC TỰ DO “KHEN” LÃO PHI-ĐEN…BA PHÁT….

Facebook   Thảo Tâm and Trần Bang shared To Hai‘s post.

Image may contain: 1 person , text
To Hai with Suong Quynh and 16 others.

XIN LỖI CẢ NƯỚC! CHO PHÉP LÃO GIÀ NÀY ĐƯỢC TỰ DO “KHEN” LÃO PHI-ĐEN…BA PHÁT….

.-Chuyện ông Phi nước Cu chết làm cho các trang mạng xã hội bị quá tải về những ý kiến vui mừng, mỉa mai, diễu cợt…thậm chí có ý kiến còn đánh giá là “tên độc tài bảo thủ cuối cùng hơn cả Nguyễn phú Trọng” đã ra đi!
Riêng tớ, biết hắn từ thời hắn mới ngoài 18 tuổi, đang là con nhà giầu, bằng cấp học vị tiến sỹ, mà dám vứt bỏ hết để đi làm cách mạng, y như tớ và lứa bạn bè, đồng học cùng thời..Tớ cảm phục nhất là hắn trực tiếp cầm súng chiến đấu …Rồi thất bại !Rồi vào tù, rồi ra Tù vẫn tiếp tục cầm súng chiến đấu, lật đổ chế độ độc tài Batista….để rồi…..BẤT ĐẦU ….SUY THOÁI, TỰ DIỄN BIẾN VÌ…ĐI THEO….CỘNG SẢN! Từ chỗ là một anh ngoài đảng,Hắn đã thay Blas Roca nhảy một phát lên Tổng Bí Thư rồi ngồi lỳ trên vai “vua Cuba” suốt nửa thế kỷ, mang tới cho dân bị trị đủ mọi thứ nghèo đói, thiếu thốn, bất công,đàn áp, của một thể chế …”mù” chống gậy đi tìm cái nơi không bao giờ dẫn đến :”Thiên đường Chủ nghĩa xã hội”…..đại bịp cả!.
Và hình ảnh chàng trai Mỹ la-tinh kiểu Fidel, Che Guevarra,để râu xồm, tay cầm súng, coi cái chết tựa lông hồng” luôn gây ấn tượng cho lũ trai trẻ 18.20 chúng tớ suốt 2 cuộc chiến tranh ….Cho đến khi ….cũng như những kẻ cs cuồng tín khác, dần dần , theo đúng quy luật, tất cả đều đã đi theo con đường sa đọa của của “siêu quyền” và “siêu lực” mà đi dần tới chỗ….hết tồn vong.

Và tớ , một kẻ cách đây 30 năm, do… “đại suy thoái” nên đã xếp hắn cũng như những kẻ “còn lâu mới bằng hắn” vào danh sách những kẻ phải ra tòa khi có nổ ra những vụ Timisoara mới!

Ấy thế mà lần này khi nghe thông báo về cái chết của hắn, tớ bỗng thấy cần phải mạnh dạn lên tiếng “khen” hắn mấy điều; .

1-Dù nhường ngôi cho em ruột Raul lên nắm quyền hành, hắn rất ít khi phát ngôn những gì có tính chất chỉ đạo, đặc biệt hắn không để lại một di chúc nhắc nhở hậu duệ cần phải làm. Ví dụ: “Dù có phải lấp cạn bãi biển Hỉronde, dù có phải san bằng dãy Sierra Maestra cũng kiên quyết đưa nhân dân Cuba tiến lên xã hội chủ nghĩa”…

2- Hắn không yêu cầu sau khi hắn chết nên chôn cất ở đâu,phải lo cho nơi trú chân của đồng bào khi đến thăm hắn như thế nào..

3-Và điều “anh dũng cuối cùng” là:    Hắn đã yêu cầu được HỎA TÁNG (không hề đề cập đến tro cốt để ở đâu hay rải xuống sông, xuống biển hay giũ lại để thờ phụng ở nơi naò !

Trong khi đó báo chi, truyền hình, phát thanh của nhà nước này thì rất sợ “nóng” vì hai chữ “hỏa táng” vì nó chạm vào quá nhiều vấn đề tế nhị(?) Ngay sáng nay 30/11/202016, T,Trẻ vẫn viết ở trang 20 như sau: “Ngày hôm nay(30/11) tro cốt của lãnh tụ Fidel được đưa về phía đông của Santiago de Cuba, nơi ông đã khởi xướng cuộc cách mạng huyền thoại.  Ông sẽ được an táng tại nghĩa trang Ifigenia của thành phố vào ngày 4/12”

“Rứa thì nà nàm thao?   “Hỏa thiêu” thì vẫn bị bịt kín mà lại có “tro cốt”.được đưa về…..?

“an táng tro cốt?”một khái niệm mới trong kho tàng sáng tạo của ngôn từ báo chấy của dảng-nhà lước?