Bán Tất Cả.

Bán Tất Cả.

Một đồ đệ thắc mắc đến hỏi thầy Rabby:

– Thưa Thầy, trong phúc Âm khi Chúa Giêsu phán bảo người thanh niên giàu có hãy trở về nhà bán hết gia tài, bố thí cho kẻ nghèo khó. Ngài nói điều đó có ngụ ý là phải khước từ hết tất cả mọi sự trên trần gian này không.

Thầy Rabby trả lời đồ đệ bằng câu chuyện sau đây:

– Hồi ấy có một thanh niên rất yêu thích đọc Phúc Âm. Một hôm chàng giở Kinh Thánh ra và cũng đọc thấy câu con vừa nói tới. Ðọc xong những lời Chúa phán dạy, chàng thanh niên cảm thấy hân hoan vui mừng bởi vì anh là người ngay lành chỉ mong tìm được con đường cứu rỗi. Lập tức chàng đem bán xe hơi và những vật có giá trị nhất và đem tất cả dâng cúng cho viện mồ côi. Khi trở về nhà, tối đến chàng mở Kinh Thánh ra đọc, cũng ngay câu đó và nghe như có tiếng Chúa thì thầm bên tai: Hãy bán tất cả. Kế đó chàng bán căn nhà nơi cư ngụ duy nhất của chàng và cũng lấy tiền đó đem bố thí cho kẻ nghèo. Nhưng chàng vẫn nghe có tiếng Chúa văng vẳng bên tai: “Hãy bán tất cả”. Chàng thanh niên tự hỏi. Mình đã bán tất cả những gì quý giá, còn gì phải bán nữa chăng. Sau cùng anh ta nhớ ra là còn quyển Kinh Thánh, và anh cũng đem bán luôn. Khi trở về nhà, từ đó anh ta không còn nghe gì nữa.

Người đồ đệ thắc mắc hỏi:

– Thưa thầy, con không hiểu câu chuyện ngụ ý gì, tại sao chàng thanh niên ấy không còn nghe thấy gì nữa.

Thầy Rabby trả lời:

– Sở dĩ anh ta không còn nghe gì nữa là vì anh ta đã bán đi bảo vật quý giá nhất có thể chuyển đạt lời Chúa cho anh. Thật vậy, Chúa Giêsu không đòi hỏi ta khước từ những gì có thể là dụng cụ làm trung gian dẫn đưa chúng ta đến gần Chúa hơn. Sỡ dĩ Chúa phán bảo chàng thanh niên giàu có bán hết mọi sự là vì Ngài thấy rõ tiền bạc là thần tượng của anh. Chúa Giêsu muốn chúng ta khước từ tất cả những gì tuy tự nó có giá trị nhưng lại có thể là chướng ngại vật ngăn cản chúng ta đến với Chúa. Mỗi người chúng ta phải biết nhận định đâu là những gì giúp ta đến gần Chúa hơn hay duy trì lại và đâu là những điều làm ta xa cách Chúa cần phải dứt khoát khước từ.

***

Quí vị và các bạn thân mến,

Cái giàu có mà Tin Mừng lên án không phải là có nhiều của cải vật chất nhưng là lòng ao ước không kìm chế sự ham muốn và tranh đấu để chiếm cho bằng được những của cải đó. Sự quyến luyến của cải trần gian một cách thái quá có nguy cơ trở thành mối dây ràng buộc hiểm độc bởi vì nó có thể bóp nghẹt tâm hồn con người.

Mùa vọng là thời điểm thuận tiện để nhìn sâu vào đáy lòng mỗi người để nhìn nhận những mối dây còn ghì chặt chúng ta trong trạng thái nô lệ không cho phép chúng ta biết rộng mở tâm hồn đón nhận Ðấng Cứu Thế đang đến trong lịch sử nhân loại và đến trong tâm hồn mỗi người.

***

Lạy Chúa, xin hãy khai mở tâm trí con bằng ánh sáng khôn ngoan của Chúa, để con biết khám phá và nhìn nhận ra đâu là sự giàu sang mà trái tim con vướng mắc. Xin lửa tình yêu Chúa sưởi ấm tâm hồn con để con biết can đảm khước từ tất cả những gì Chúa không ưa thích. Amen.    

Veritas

Anh chị Thụ & Mai gởi

Chiếc Áo Hạnh Phúc

Chiếc Áo Hạnh Phúc

Một vị vua kia có tất cả mọi sự để được hạnh phúc… Nhưng lúc nào nhà vua cũng cảm thấy đau khổ, bứt rứt lo lắng. Các vị lương y khắp nước được triệu tập, nhưng tất cả đều bó tay. Sau cùng có một vị lương y xin yết kiến. Sau khi đã xem xét bệnh tình, vị lương y tâu rằng: “Ðức vua sẽ hoàn toàn hạnh phúc, nếu đức vua mặc được chiếc áo lót của người sung sướng nhất trần gian”.

Thế là nhà vua ra lệnh cho tìm xem ai là người hạnh phúc nhất trên trần đời… Binh sĩ đã đi rảo khắp cả nước, nhưng không tìm được con người hạnh phúc đó. Trên đường quay về chịu tội, họ đã gặp được một bác chăn chiên đang ca hát véo von, không một chút lo âu. Ðám binh sĩ đã sấn lại tóm cổ người chăn chiên và lột áo. Nhưng vừa lột áo người chăn chiên, họ vô cùng sửng sốt vì ông ta không có nổi một chiếc áo lót!

Người đời thường nói: “Có tiền vua tiên cũng được”. Nhưng chắc chắn người ta không thể dùng tiền bạc để mua hạnh phúc, an vui cho tâm hồn mình. Phúc thay những ai có tâm hồn nghèo khó. Chỉ khi nào tâm hồn chúng ta trống rỗng của cải, Thiên Chúa mới có thể lấp đầy.

Trích sách Lẽ Sống

Anh chị Thụ & Mai gởi

Trump Làm Điều Không Tưởng!

Trump Làm Điều Không Tưởng!

     Tôi là một người đàn bà đã sống trên đất Mỹ trên 20 năm trãi qua bao nhiêu cuộc bầu cử tôi luôn bầu theo kiểu khiếm diện , nhưng cuộc bầu cử Tổng Thống Hoa Kỳ vừa qua tôi nói với chồng tôi : lần này em sẽ đích thân đến phòng phiếu để bỏ cho ông Trump, em ko muốn lá phiếu của em sẽ bị thất lạc!

 

     Bởi vì tôi rất thích cá tính của Ông ta , thật ko ngờ hôm nay tôi đọc được bài báo trên tôi thấy rằng lá phiếu của tôi đã bỏ cho ông Trump rất đúng !

Tôi cũng cám ơn nhà báo Liz Crokin đã đưa lên mạng xã hội những việc làm tốt ( chắc chưa hết và đủ) của ông Trump để những người luôn chỉ trích và nghỉ xấu ông sẽ suy nghi lại !!

   

     Tôi viết lên những ý tưởng chân thật của riêng tôi , nếu có sự mâu thuẩn với các bạn xin hãy bỏ qua cho tôi nhé , chân thành cám ơn các bạn !

 

   Thân chào các bạn,

       Lưu Mai Hạnh

     

Tài liệu dưới đây do Nhà Báo Liz Crokin đưa lên mạng xã hội ngày 17.11.2016 với nhan đề là ….  TRUMP LÀM ĐIỀU KHÔNG TƯỞNG.
(Trump does the Unthinkable).

Mời xem để biết thêm về con người mà thiên hạ vẫn chế diễu trong cuộc tranh cử Tổng Thống Mỹ vừa qua.

Có phải ….. Donald Trump là một người kỳ thị chủng tộc, độc hành, độc đoán, phân biệt giới tính, bài ngoại, chống Do Thái và kỵ Hồi Giáo không ?- Tôi đã bỏ sót điều gì chăng ?

Bọn tả phái và giới truyền thông khởi động các cuộc tấn công loại gớm ghiếc như vầy vào Trump hàng ngày; tuy nhiên, không có gì có thể xa hơn ngoài sự thật về ông trùm bất động sản này.

Là một nhà báo viết mục giải trí, tôi đã có cơ hội viết về Trump trong hơn một thập kỷ, và trong tất cả các năm của tôi viết về ông, tôi chưa từng nghe bất cứ điều gì tiêu cực về người đàn ông này cho đến khi ông tuyên bố ông sẽ tranh cử tổng thống.

Hãy nhớ rằng tôi đã được trả rất nhiều tiền để đào bới những bẩn thỉu trên những người nổi tiếng như Trump để sinh sống, vì thế, một câu chuyện tai tiếng về một ông tỷ phú nổi tiếng có thể có khả năng bán được rất nhiều báo và sẽ là một niềm hãnh diện to lớn cho tôi.

Thay vào đó, tôi phát hiện ra rằng ông ta không uống rượu hay xài ma túy, ông ấy là một doanh nhân chăm chỉ và hoàn toàn dành tâm trí cho vợ và các con yêu quý của mình. Trên hết, ông là một trong những nhân vật nổi tiếng hào phóng nhất thế giới với một trái tim chứa nhiều vàng hơn cả căn nhà giá $ 100,000,000 ở New York của ông.

Năm 2004, là năm phát sóng tập đầu tiên của truyện “The Apprentice” và lúc đó tôi đã làm việc như một ký giả viết chuyên mục giải trí cho “Red Eye Edition of the Chicago Tribune” và như một ký giả tự do cho “Us Weekly”. Tôi có cảm giác đinh ninh rằng người tham gia thi đấu của Chicago là Bill Rancic, sẽ giành chiến thắng trong buổi trình diễn thực tế. Vì vậy, tôi đã liên lạc với anh ta và viết toàn tập cho buổi trình diễn ăn khách này. Tôi đã vận dụng để được mời đến New York cho đêm đại chung kết của chương trình và phần hậu tiệc. Đây là nơi đầu tiên tôi gặp Trump và đã hỏi ông một số câu hỏi.

Năm đó, Rancic đã giành chiến thắng “The Apprentice”. Tôi đã tham dự liên tiếp các buổi chung kết của”The Apprentice” vào hai năm sau đó. Giữa những cuộc chung kết đó và những chuyến viếng thăm thường xuyên của ôngTrump cùng gia đình tới Chicago để lo việc xây cất khu Trump International Hotel & Tower, tôi cũng đã có cơ hội để gặp hầu hết các thành viên trong gia đình ông, tôi đã không biết gì ngoài những kinh nghiệm hữu ích về họ. Bởi lẽ giới truyền thông đã thiếu sót thê thảm trong việc tường trình về ông Trump, tôi đã quyết định gom chung lại một số trong các hành vi thiện mỹ mà ông ấy đã dấn thân thực hiện trong hơn ba thập kỷ mà xem ra không ai chú ý hoặc chúng đã rơi vào những lỗ tai điếc.

Năm 1986, Trump ngăn cản việc tịch thu nhà của trang trại gia đình Annabell Hill sau khi chồng bà đã tự tử.

Trump đích thân gọi điện đến cơ quan đấu giá để ngăn chặn việc bán nhà của bà và đã cấp tiền góa phụ cho bà. Trump quyết định hành động sau khi đọc được những lời cầu xin giúp đỡ của bà Hill trong các bản tin.

Năm 1988, một máy bay thương mại từ chối chở bé Andrew Ten 3 tuổi, con trai của một giáo sĩ giáo phái Do Thái Chính Thống đang mắc một căn bệnh hiếm, cần đi chữa bệnh ở một tiểu bang xa vì em cần phải mang theo mình một hệ thống máy hỗ trợ sự sống phức tạp. Cha mẹ đau buồn của em đã liên lạc với Trump để được giúp đỡ và ông ta đã không ngần ngại gửi máy bay riêng của mình để đưa em bé từ Los Angeles đến New York để em có thể có được điều trị.

Năm 1991, 200 lính Marines phục vụ trong Chiến dịch Bão Sa Mạc đang ch tại Trại Lejeune ở Bắc Carolina để lên máy bay trở về với gia đình họ. Tuy nhiên, họ được cho biết chuyến bay không thể đến và sẽ bị hoản mấy ngày vì bị sai lầm lịch trình cho nên họ không thể trở về đúng hẹn với gia đình. Khi Trump được tin này, ông đã gửi máy bay của mình để đưa họ về bằng hai chuyến đi từ Bắc Carolina đến Miami để họ có thể trở về đoàn tụ với những người thân yêu của họ.

Năm 1995, một ngưi lái xe dừng lại để giúp Trump vì chiếc limo của ông bị xẹp lốp. Trump hỏi người Samaritanô nhân hậu là ông phải trả công cho anh như thế nào.

Tất cả những gì anh này muốn chỉ là một bó hoa cho vợ anh. Một vài tuần sau đó Trump gửi tặng anh một bó hoa với thiệp ghi hàng chữ: “Chúng tôi đã trả xong hết tiền nợ thế chấp nhà của bạn.”

Năm 1996, Trump đã đệ đơn kiện thành phố Palm Beach, Florida để cáo buộc chính quyền thị trấn đã kỳ thị câu lạc bộ Mar-a-Lago nơi khu vui chơi của mình bởi vì câu lạc bộ này cho phép người Do Thái và người da đen vào chơi.

Ông Abraham Foxman, người giám đốc của Hiệp Hội Chống Bôi lọ (Anti-Defamation League) vào thời buổi đó, nói rằng Trump “đã đem ánh sáng đến vùng Palm Beach -. không phải chiếu ánh sáng lên vẻ đẹp long lanh của nó, mà là lên khuôn mặt kỳ thị và bần thỉu của nó.” Foxman cũng ghi thêm rằng sự tấn công của Trump lên nạn kỳ thị đã có tác dụng tràn xuống bởi vì các câu lạc bộ khác đã noi gương ông bắt đầu nhận người Do Thái và người da đen.

Năm 2000, Maury Povich người hướng dẫn chương trình đã đem chuyện của bé gái tên là Megan đang chiến đấu với bệnh giòn xương để trình bày lên chương trình của ông và Trump đã đúng lúc xem được. Trump nói rằng câu chuyện và thái độ tích cực của cô bé đã chạm vào trái tim của mình. Vì vậy, ông đã liên lạc với Maury và tặng cô bé cùng gia đình cô một chi phiếu rất hào phóng.

Năm 2008, sau khi các người trong gia đình của cô diễn viên Jennifer Hudson bị sát hại thê thảm tại Chicago, Trump đưa cô diễn viên đã từng đoạt giải Oscar và gia đình của cô đến ở tại khách sạn Windy City của ông miễn phí. Ngoài ra, Trump còn cho an ninh gia tăng biện pháp bảo vệ để đảm bảo côHudson và các thành viên gia đình của cô được an toàn trong suốt khoảng thời gian khó khăn đó.

Năm 2013, Ông tài xế xe bus Darell Barton ở New York thấy một phụ nữ đứng gần mép cầu đang nhìn xuống luồng tàu bè lưu thông phía dưới. Ông ta dừng xe và chạy đến ôm cô lại và cứu cô, thuyết phục cô đừng nhảy xuống.

Khi ông Trump nghe được chuyện này, ông liền gửi đến ông tài xế anh hùng này một tấm chi phiếu chỉ vì ông tin rằng hành vi cứu người của ông này đáng được tặng th ưởng.

Trong năm 2014, Trump đã cho Trung Sĩ Andrew Tahmooressi 24.000 USD sau khi ông này đã trải qua bảy tháng trong một nhà tù ở Mexico vì đã vô tình vượt qua biên giới Mỹ-Mexico. Tổng thống Barack Obama thậm chí đã không buồn lòng gọi một cú điện thoại để giúp đỡ xin thả ông trung sĩ Thủy Quân Lục Chiến này. Thế mà ông Trump đã mở hầu bao để giúp người lính này trở lại cuộc sống bình thường.

Trong năm 2016, Melissa Consin Young đã tham dự một buổi tụ họp ủng hộ Trump và cô rơi nước mắt cám ơn ông Trump đã thay đổi cuộc sống của cô. Cô cho biết cô đã từng đứng với Trump trên sân khấu để tự hào nhận vương miện Hoa Hậu của tiểu bang Wisconsin Hoa Kỳ vào năm 2005. Tuy nhiên, nhiều năm sau, cô phải vật lộn với chứng bệnh nan y và trong những ngày đen tối nhất của cô, cô cho biết cô đã nhận được một lá thư viết tay từ Trump nói rằng “cô là người phụ nữ dũng cảm nhất mà tôi biết”. Cô cho biết những cơ hội làm ăn mà cô nhận được từ Trump và tổ chức của ông cuối cùng đã cung cấp đầy đủ vốn cho thằng con trai Mỹ gốc Mễ của mình học xong trường cao đẳng.

Lynne Patton, một phụ nữ da đen nhân viên điều hành cho Tổ chức Trump, đã đưa ra một bản khai vào năm 2016 để bênh vực cho ông chủ của mình và chống lại những cáo buộc rằng ông Trump là người kỳ thị chủng tộc và là một kẻ độc hành độc đoán. Bà vừa khóc vừa tiết lộ, bà đã vật lộn khó khăn thế nào với việc lạm dụng thuốc và cơn nghiện trong nhiều năm. Thay vì đá bà vào lề đường, bà cho biết Tổ chức Trump và toàn bộ gia đình của ông đã thành tâm đứng cạnh bà suốt “thời gian vô cùng khó khăn đó.”

Lòng tốt của Trump không có giới hạn và sự rộng lượng của ông đã, và vẫn tiếp tục chạm tới cuộc sống của người dân thuộc mọi giới tính, chủng tộc và tôn giáo. Khi Trump thấy ai thiếu thốn thì ông muốn giúp đỡ. Hai thập kỷ trước, Oprah hỏi Trump trong một cuộc phỏng vấn truyền hình xem ông có muốn tranh cử tổng thống không. Ông nói: “Nếu tình hình trở nên quá tệ, tôi sẽ không bao giờ muốn hoàn toàn bỏ ý định ứng cử đó, bởi vì tôi thực sự chán chường khi nhìn thấy những gì đang xảy ra với đất nước này. ” Ngày đó đã đến. Trump thấy rằng nước Mỹ đang cần thay đổi và ông muốn giúp đỡ –

Thật không thể tưởng được !

From: KittyThiênKim & Nguyễn Kim Bằng

Cám ơn cuộc Đời

Cám ơn cuộc Đời

Mặc dầu Lễ Tạ ơn đã qua nhưng xin đăng bài này, rất cảm động.

cam-onHôm nay Thứ Năm ngày 24/11/2016 là Lễ T Ơn tại Mỹ. Trân trọng mời đọc bài viết đặc biệt cho mùa lễ tạ ơn của tác giả Hoàng Thanh. Cô tên thật Võ Ngọc Thanh, một dược sĩ thuộc lớp tuổi 33’., hiện là cư dân Westminster, Orange County. Bài viết về Lễ Tạ Ơn của cô mang tựa dề “Xin Cám Ơn Cuộc Ðời” kể lại câu chuyện xúc

động, giản dị mà khác thuờng, bắt đầu từ cái Bình Thuờng nhất: ” Chỉ với một n cuời 

 

happy-hoa

Xin cám ơn cuộc đời

Thế là một mùa Lễ Tạ Ơn nữa lại đến. Tôi vẫn còn nhớ, lần đầu tiên khi nghe nói về Lễ Tạ Ơn, tôi thầm nghĩ, “Dân ngoại quốc sao mà… “quởn” quá, cứ bày đặt lễ này lễ nọ, màu mè, chắc cũng chỉ để có dịp bán thiệp, bán hàng để nguời ta mua tặng nhau thôi, cũng là một cách làm business đó mà…”

Năm đầu tiên đặt chân đến Mỹ, Lễ Tạ Ơn hoàn toàn không có một chút ý nghĩa gì với tôi cả, tôi chỉ vui vì ngày hôm đó đuợc nghỉ làm, và có một buổi tối quây quần ăn uống với gia đình. Mãi ba năm sau thì tôi mới thật sự hiểu đuợc ý nghĩa của ngày Lễ Tạ Ơn.

Thời gian này tôi đang thực tập ở một Pharmacy để lấy bằng Duợc Sĩ. Tiệm thuốc này rất đông khách, cả ngày mọi nguời làm không nghỉ tay, điện thoại lúc nào cũng reng liên tục, nên ai nấy cũng đều căng thẳng, mệt mỏi, dễ đâm ra quạu quọ, và hầu như không ai có nổi một nụ cuời trên môi.

Tiệm thuốc có một bà khách quen, tên bà là Josephine Smiley. Tôi còn nhớ rất rõ nét mặt rất phúc hậu của bà. Năm đó bà đã gần 80 tuổi, bà bị tật ở tay và chân nên phải ngồi xe lăn, lại bị bệnh thấp khớp nên các ngón tay bà co quắp, và bà lại đang điều trị ung thư ở giai doạn cuối.

Cứ mỗi lần bà đến lấy thuốc (bà uống hơn muời mấy món mỗi tháng, cho đủ loại bệnh), tôi đều nhìn bà ái ngại. Vì thấy rất tội nghiệp cho bà, nên tôi thuờng ráng cuời vui với bà, thăm hỏi bà vài ba câu, hay phụ đẩy chiếc xe lăn cho bà. Nghe đâu chồng bà và đứa con duy nhất bị chết trong một tai nạn xe hơi, còn bà tuy thoát chết nhung lại bị tật nguyền, rồi từ dó bà bị bệnh trầm cảm (depressed), không đi làm được nữa, và từ 5 năm nay thì lại phát hiện ung thư. Mấy nguời làm chung trong tiệm cho biết là bà hiện sống một mình ở nhà duỡng lão.

Tôi vẫn còn nhớ rất rõ vào chiều hôm truớc ngày lễ Thanksgiving năm 1993, khi bà đến lấy thuốc. Bỗng dưng bà cuời với tôi và đưa tặng tôi một tấm thiệp cùng một ổ bánh ngọt bà mua cho tôi. Tôi cám ơn thì bà bảo tôi hãy mở tấm thiệp ra đọc liền đi.

Tôi mở tấm thiệp và xúc động nhìn những nét chữ run rẩy, xiêu vẹo:

Dear Thanh,

My name is Josephine Smiley, but life does not “smile” to me at all. Many times I wanted to kill myself, until the day I met you in this pharmacy.You are the ONLY person who always smiles to me, after the death of my husband and my son.You made me feel happy and help me keep on living. I profit this Thanksgiving holiday to say “Thank you”, Thanh.

Thank you, very much, for your smile…

(Thanh thân mến,

Tên tôi là Josephine Smiley, nhưng cuộc sống Không có “nụ cười” với tôi cả. Nhiều lần tôi muốn tự tử, cho đến ngày tôi vào tiệm thuốc tây này.

Cô là người luôn luôn mỉm cười với tôi, sau cái chết của chồng tôi và con trai tôi. Cô làm tôi cảm thấy hạnh phúc và giúp tôi tiếp tục sống. Nhân dịp ngày Lễ Tạ Ơn để nói lời “Cảm ơn”, Thanh.

Cảm ơn cô, rất nhiều, vì nụ cười của cô …)
Rồi bà ôm tôi và bà chảy nuớc mắt. Tôi cũng vậy, tôi đứng mà nghe mắt mình uớt, nghe cổ họng mình nghẹn… Tôi thật hoàn toàn không ngờ được rằng, chỉ với một nụ cuời, mà tôi đã có thể giúp cho một con nguời có thêm nghị lực để sống còn.

Ðó là lần đầu tiên, tôi cảm nhận được cái ý nghĩa cao quý của ngày lễ Thanksgiving.

Ngày Lễ Tạ ơn năm sau, tôi cũng có ý ngóng trông bà đến lấy thuốc truớc khi đóng cửa tiệm. Thì bỗng dưng một cô gái trẻ đến tìm gặp tôi. Cô đưa cho tôi một tấm thiệp và báo tin là bà Josephine Smiley vừa mới qua đời 3 hôm truớc. Cô nói là lúc hấp hối, bà đã đưa cô y tá này tấm thiệp và nhờ cô đến đưa tận tay tôi vào đúng ngày Thanksgiving. Và cô ta đã có hứa là sẽ làm tròn uớc nguyện sau cùng của bà. Tôi bật khóc, và nuớc mắt ràn rụa của tôi đã làm nhòe hẳn đi những dòng chữ xiêu vẹo, ngoằn nghèo trên trang giấy:

My dear Thanh,
I am thinking of you until the last minute of my life.
I miss you, and I miss your smile…
I love you, my “daughter”.. .

( Thanh thân yêu,

Tôi đang nghĩ đến cô Cho đến phút cuối cùng của cuộc đời tôi.
Tôi nhớ đến cô, và tôi nhớ nụ cười của cô …
Tôi yêu cô , “con gái” của tôi.. 
.)

Tôi còn nhớ tôi đã khóc sưng cả mắt ngày hôm đó, không sao tiếp tục làm việc nổi, và khóc suốt trong buổi tang lễ của bà, nguời “Mẹ American” đã gọi tôi bằng tiếng “my daughter”…

Truớc mùa Lễ Tạ Ơn năm sau đó, tôi xin chuyển qua làm ở một pharmacy khác, bởi vì tôi biết, trái tim tôi quá yếu đuối, tôi sẽ không chịu nổi niềm nhớ thương quá lớn, dành cho bà, vào mỗi ngày lễ đặc biệt này, nếu tôi vẫn tiếp tục làm ở pharmacy đó.

Mãi cho đến giờ, tôi vẫn còn giữ hai tấm thiệp ngày nào của nguời bệnh nhân này. Và cũng từ đó, không hiểu sao, tôi yêu lắm ngày Lễ Thanksgiving, có lẽ bởi vì tôi đã “cảm” được ý nghĩa thật sự của ngày lễ đặc biệt này.

Thông thuờng thì ở Mỹ, Lễ Tạ Ơn là một dịp để gia đình họp mặt. Mọi nguời đều mua một tấm thiệp, hay một món quà nào đó, đem tặng cho nguời mình thích, mình thương, hay mình từng chịu ơn. Theo phong tục bao đời nay, thì trong buổi họp mặt gia đình vào dịp lễ này, món ăn chính luôn là món gà tây (tuckey).

Từ mấy tuần truớc ngày Lễ TẠ ƠN, hầu như chợ nào cũng bày bán đầy những con gà tây, gà ta, còn sống có, thịt làm sẵn cũng có… Cứ mỗi mùa Lễ Tạ Ơn, có cả trăm triệu con gà bị giết chết, làm thịt cho mọi nguời ăn nhậu.
Nguời Việt mình thì hay chê thịt gà tây ăn lạt lẽo, nên thuờng làm món gà ta, “gà đi bộ.” Ngày xưa tôi cũng hay ăn gà vào dịp lễ này với gia đình, nhưng từ ngày biết Ðạo, tôi không còn ăn thịt gà nữa. Từ vài tuần truớc ngày lễ, hễ tôi làm được việc gì tốt, dù rất nhỏ, là tôi lại hồi huớng công đức cho tất cả những con gà, tây hay ta, cùng tất cả những con vật nào đã, đang và sẽ bị giết trong dịp lễ này, cầu mong cho chúng thoát khỏi kiếp súc sanh và được đầu thai vào một kiếp sống mới, tốt đẹp và an lành hơn.

Từ hơn 10 năm nay, cứ mỗi năm dến Lễ Tạ Ơn, tôi đều ráng sắp xếp công việc để có thể tham gia vào những buổi “Free meals” tổ chức bởi các Hội Từ Thiện, nhằm giúp bữa ăn cho những nguời không nhà. Có đến với những bữa cơm như thế này, tôi mới thấy thương cho những nguời dân Mỹ nghèo đói, Mỹ trắng có, Mỹ đen có, nguời da vàng cũng có, và có cả nguời Việt Nam mình nữa. Họ đứng xếp hàng cả tiếng đồng hồ, rất trật tự, trong gió lạnh mùa thu, nhiều nguời không có cả một chiếc áo ấm, răng đánh bò cạp…để chờ đến phiên mình được lãnh một phần cơm và một chiếc mền, một cái túi ngủ qua đêm.

Ở nơi đâu trên trái dất này, cũng luôn vẫn còn rất rất nhiều nguời đang cần những tấm lòng nhân ái của chúng ta…

Nếu nói về hai chữ “TẠ ƠN” với những nguời mà ta từng chịu ơn, thì có lẽ cái list của chúng ta sẽ dài lắm, bởi vì không một ai tồn tại trên cõi đời này mà không từng mang ơn một hay nhiều nguời khác. Chúng ta được sinh ra làm nguời, đã là một ơn sủng của Thuợng Ðế. Như tôi đây, có đuợc ngày hôm nay, ngồi viết những dòng này, cũng lại là ơn Cha, ơn Mẹ, ơn Thầy…

Cám ơn quê hương tôi -Việt Nam, với hai mùa mưa nắng, với những nguời dân bần cùng chịu khó. Quê hương tôi- nơi đã đón nhận tôi từ lúc sinh ra, để lại trong tim tôi biết bao nhiêu là kỷ niệm cả một thời thơ ấu. Quê hương tôi, là nỗi nhớ, niềm thương của tôi, ngày lại ngày qua ở xứ lạ quê nguời…

Cám ơn Mẹ, đã sinh ra con và nuôi duỡng con cho đến ngày truởng thành. Cám ơn Mẹ, về những tháng ngày nhọc nhằn đã làm lưng Mẹ còng xuống, vai Mẹ oằn đi, về những nỗi buồn lo mà Mẹ đã từng âm thầm chịu đựng suốt gần nửa thế kỷ qua…

Cám ơn Ba, đã nuôi nấng, dạy dỗ con nên nguời. Cám ơn Ba, về những năm tháng cực nhọc, những chuỗi ngày dài đằng đẵng chạy lo cho con từng miếng cơm manh áo, về những giọt mồ hôi nhễ nhại trên lưng áo Ba, để kiếm từng đồng tiền nuôi con ăn học….

Cám ơn các Thầy Cô, đã dạy dỗ con nên nguời, đã truyền cho con biết bao kiến thức để con trở thành một nguời hữu dụng cho đất nuớc, xã hội…
Cám ơn các chị, các em tôi, đã xẻ chia với tôi những tháng ngày cơ cực nhất, những buổi đầu đặt chân trên xứ lạ quê nguời, đã chia vui, động viên những lúc tôi thành công, đã nâng đỡ, vực tôi dậy những khi tôi vấp ngã hay thất bại…

Cám ơn tất cả bạn bè tôi, đã tặng cho tôi biết bao nhiêu kỷ niệm – buồn vui- những món quà vô giá mà không sao tôi có thể mua được. Nếu không có các bạn, thì có lẽ cả một thời áo trắng của tôi không có chút gì dể mà lưu luyến cả…
Cám ơn nhỏ bạn thân ngày xưa, đã “nuôi” tôi cả mấy năm trời Ðại học, bằng những lon “gigo” cơm, bữa rau, bữa trứng, bằng những chén chè nho nhỏ, hay những ly trà đá ở căn tin ngày nào.

Cám ơn các bệnh nhân của tôi, đã ban tặng cho tôi những niềm vui trong công việc. Cả những bệnh nhân khó tính nhất, đã giúp tôi hiểu thế nào là cái khổ, cái đau của bệnh tật…

Cám ơn các ông chủ, bà chủ của tôi, đã cho tôi biết giá trị của đồng tiền, để tôi hiểu mình không nên phung phí, vì đồng tiền lương thiện bao giờ cũng phải đánh đổi bằng công lao khó nhọc…

Cám ơn những nguời tình, cả những nguời từng bỏ ra đi, đã giúp tôi biết đuợc cảm nhận đuợc thế nào là Tình yêu, là Hạnh phúc, và cả thế nào là đau khổ, chia ly.

Cám ơn những dòng thơ, dòng nhạc, đã giúp tôi tìm vui trong những phút giây thơ thẩn nhất, để quên đi chút sầu muộn âu lo, để thấy cuộc đời này vẫn còn có chút gì đó để nhớ, để thương…

Cám ơn những thăng trầm của cuộc sống, đã cho tôi nếm đủ mọi mùi vị ngọt bùi, cay đắng của cuộc dời, để nhận ra cuộc sống này là vô thuờng… để từ đó bớt dần “cái tôi”- cái ngã mạn của ngày nào…

Xin cám ơn tất cả… những ai đã đến trong cuộc đời tôi, và cả những ai tôi chưa từng quen biết. Bởi vì:
Trăm năm trước thì ta chưa gặp,
Trăm năm sau biết gặp lại không?
Cuộc đời sắc sắc không không
Thôi thì hãy sống hết lòng với nhau…”

Và cứ thế mỗi năm, khi mùa Lễ Tạ Ơn đến, tôi lại đi mua những tấm thiệp, hay một chút quà để tặng Mẹ, tặng Chị, tặng những người thân thương, và những nguời đã từng giúp đỡ tôi.

Cuộc sống này, đôi lúc chúng ta cũng cần nên biểu lộ tình thương yêu của mình, bằng một hành động gì đó cụ thể, dù chỉ là một lời nói “Con thương Mẹ”, hay một tấm thiệp, một cành hồng.Tình thương, là phải đuợc cho đi, và phải đuợc đón nhận, bởi lỡ mai này, những nguời thương của chúng ta không còn nữa, thì ngày Lễ Tạ Ơn sẽ có còn ý nghĩa gì không?

Xin cám ơn cuộc đời…

Hoàng Thanh

Phiếm luận về Cờ Lờ Mờ Vờ!

 Phiếm luận về Cờ Lờ Mờ Vờ!

GNsP – Kể từ ngày ông thủ tướng Phúc ê a đánh vần bày chữ CLMV-CLV, cộng đồng mạng bỗng dưng dậy sóng. Phần lớn bà con đều kinh hoàng với cách phát âm khôi hài này. Báo chí chính thống thì ngậm hột thị, có lẽ họ cũng thấy cái gì đấy không chỉnh cho lắm, nhưng không dám lên tiếng.

“Cái gì đấy không chỉnh” có lẽ mọi người bây giờ đã biết. Nó đến từ sự lầm lẫn giữa cách dùng tên của chữ cái và cách phát âm của nó. Trong một video quay trực tiếp, anh Nguyễn Chí Tuyến cũng là một nhà đấu tranh cho dân chủ đã trình bày rõ về vấn đề này. Tôi xin được tóm lại như sau: Trong tiếng Việt, mỗi chữ cái gồm có một cái TÊN và một cách PHIÊN ÂM. Chẳng hạn chữ B có tên là BÊ và phiên âm là BỜ, chữ C có tên là XÊ và phiên âm là CỜ. Khi nói tắt (chứ không phải viết tắt) ngày xưa người ta dùng TÊN, chẳng hạn a, bê, xê (A,B,C) và bây giờ người ta dùng phiên âm a, bờ, cờ.

Vấn đề sử dụng phiên âm thực ra đã được nêu lên từ rất lâu, và bởi những người có thẩm quyền nhưng cho đến nay cũng chưa thống nhất. Trên tờ Tuổi Trẻ tháng 5/2010, ông Lê Tiến Thành, vụ trưởng Vụ Giáo dục tiểu học, Bộ GD-ĐT cho biết: (xin trích) “Trường hợp sử dụng cách gọi a, bê, xê hay a, bờ, cờ cũng phải xem xét từ thực tiễn dạy học. Việc sử dụng việc dạy ghép vần cho học sinh lớp 1, để trẻ dễ hiểu, dễ học, các nhà giáo dục đã lựa chọn cách gọi tên “a, bờ, cờ” . Chẳng hạn trẻ ghép “bờ e be sắc bé” sẽ đơn giản hơn nhiều so với “bê e be sắc bé”, hay sẽ ghép vần “cờ o co huyền cò” chứ không thể “xê o co huyền cò”…”

“Cá nhân tôi ủng hộ vì đó là con đường nhanh nhất giúp trẻ ghép vần. Cách phát âm a, bờ, cờ chỉ sử dụng khi ghép vần để trẻ biết đọc tiếng Việt. Còn trong những trường hợp khác, kể cả ở lớp 1, vẫn sử dụng cách đọc a, bê, xê để đọc bảng chữ cái.” (hết trích)
Vậy thì đã rõ, cách phát âm a, bờ, cờ chỉ được dùng trong lớp 1, nghĩa là khi các em học đánh vần. Xong giai đoạn này, các em sẽ dùng a bê xê. Cụ thể là cho tam giác a bê xê chứ không phải a bờ cờ, Nước Việt Nam đọc tắt là “vê en” chứ không phải vờ nờ. Không có gì phải lăn tăn. Vậy mà ông thủ tướng lại văng ra cờ lờ mờ vờ ! Nghe nó kỳ kỳ thế nào ấy. Xấu miệng thì nói ông chưa xong lớp 1, tốt miệng thì đổ lỗi cho thằng đánh máy (lại thằng đánh máy !)
Trong bài này tôi xin mở rộng câu chuyện sang những vấn đề có liên quan đến ngôn ngữ và giáo dục đã được đề cập trên báo Tuổi Trẻ tháng 9/2008. Đó là vấn đề sử dụng phiên âm và những hệ lụy của nó.

Từ lâu lắm rồi và cho tới nay, trong sách giáo khoa học sinh vẫn còn phải học cách viết tên riêng người (hoặc địa danh) nước ngoài theo cách phiên âm. Cách này như sau: Khi viết tên người, tên địa lý nước ngoài, ta viết hoa chữ cái đầu của mỗi bộ phận tạo thành tên đó. Nếu bộ phận tạo thành tên gồm nhiều tiếng thì giữa các tiếng cần có gạch nối.

– Tên người: Lép Tôn-xtôi, Tô-mát Ê-đi-xơn.
– Tên địa lý: Hi-ma-lay-a, Đa-nuýp, Lốt Ăng-giơ-lét, Niu Di-lân, Công-gô”.

Cách viết tên riêng người (hoặc địa danh) nước ngoài theo phiên âm đã gây ra những tai hại như sau:

– Học sinh không biết được tên thật nên sẽ có những kiến thức sẽ sai lạc và lúng túng khi làm việc trong thời đại Internet. Cho dù ngày nay Google rất thông minh, đánh “Lốt Ăng-giơ-lét” nó sẽ tìm ra ngay là Los Angeles. Tuy nhiên, đó chỉ là trường hợp đặc biệt vì Los Angeles quá nổi tiếng. Bằng chứng là nếu đánh “Can sat Xiti” (Kansas City) thì Google đầu hàng ngay, cho dù thành phố này cũng khá nổi tiếng, chứ nếu chúng ta đánh một địa danh của Burundi hay Samoa thì Google bó tay chấm com tức khắc.

– Nếu thầy cô và học sinh gặp tên riêng người (hoặc địa danh) nước ngoài không được học trong sách giáo khoa sẽ viết sao đây? Chẳng lẽ bịa ra một tên theo cách phiên âm chủ quan của mỗi người (mà tên thật thì không thể bịa được).

Theo ý kiến cá nhân, cách viết tên riêng người (hoặc địa danh) nước ngoài đúng nhất là :
– viết tên thật trong ngôn ngữ của quốc tịch người đó. Ví dụ: Thomas Edison (Mỹ), Praha (Cộng hòa Tiệp)

– trong trường hợp nước đó không dùng mẫu tự la-tinh hoặc có dùng mẫu tự la-tinh nhưng quá phức tạp, thì tạm dùng các ngôn ngữ phổ biến như Anh, Pháp để thay thế. Thí dụ : thủ đô Trung quốc sẽ là Beijing (theo tiếng Anh) hoặc Pékin (theo tiếng Pháp), Ulaanbaatar (thủ đô Mông Cổ theo tiếng Anh), Myanmar (thay vì Naingngandaw), Copernic (nhà thiên văn Ba Lan, tiếng chính xác là Copernicus).

– và sau cùng, nếu chúng ta đã quá quen với các phiên âm sang tiếng Việt thì sử dụng luôn cho tiện. Đó thường là trường hợp các địa danh như Thành Đô (thay vì Chéngdu), Thụy Điển (thay vì Sverige), Úc (thay vì Australia)…

Việt Nam ngày một hội nhập sâu rộng vào cộng đồng quốc tế trên mọi phương diện, nên việc sử dụng ngoại ngữ đặc biệt là tiếng Anh là một chuyện rất dễ dàng và bình thường, nên chúng ta cũng cần thoải mái trong việc sử dụng ngoại ngữ để trao đổi và không nên cứng nhắc trong việc phiên âm kiểu Giọt Bu-shờ (George Bush), Sicagâu (Chicago) hay Uôn-cắp (World Cup)

Và quan trọng nhất là phải bỏ ngay cái Cờ Lờ Mờ Vờ!

Phạm Minh Hoàng

Những đặc tính truyền thống cơ bản của Nền Giáo Dục ở Miền Nam thời trước Năm 1975

Nhân vụ các cô giáo tỉnh Hà Tĩnh bị ép “tiếp khách, rót rượu, hát karaoke cho quan chức tỉnh”, nhìn lại những đặc tính truyền thống cơ bản của Nền Giáo Dục ở Miền Nam thời trước Năm 1975

Phạm Cao Dương (Danlambao) – …Bài này bắt đầu được viết vào lúc những tin tức về những tệ hại trong nền giáo dục ở nước Việt Nam chiếm một phần không nhỏ trong sinh hoạt truyền thông quốc tế cũng như quốc nội. Ngoài những tin tức, những bài nhận định còn có những hình ảnh của các kỳ thi đi kèm. Tất cả đã xảy ra hàng ngày và đã chiếm những phần không nhỏ trong thời lượng phát thanh hay phát hình hay trên các trang báo, đặc biệt là vào những thời kỳ bãi trường hay khởi đầu của một niên học. Mọi chuyện đã liên tiếp xảy ra từ nhiều năm trước và người xem, người nghe có thể đoán trước và chờ đợi mỗi khi mùa hè và sau đó là mùa thu đến. Nhiều người còn dùng hai chữ “phá sản” để hình dung tương lai của nền giáo dục này và nhiều người khác còn tỏ ý nuối tiếc quá khứ mà họ cho là rất đẹp của nền giáo dục ở miền Nam thời trước năm 1975…
*
Bồng bồng mẹ bế con sang, 
Đò dọc quan cấm, đò ngang không chèo.
Muốn sang thì bắc cầu kiều,
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy.
(Ca dao Việt Nam)
 
“Tôi muốn thấy có sự kính trọng trong một trường học. Ông thầy tới, học trò phải nghiêm chỉnh đứng dậy chào thầy…” Nicolas Sarkozy, khi tranh cử Tổng Thống Pháp.
(Từ Nguyên, “Tựu Trường 2006”, Báo Người Việt, 10 tháng 9, 2006)
*
Một người bạn mới về thăm Việt Nam trở lại Mỹ trước ngày Lễ Tạ Ơn 2016 ít ngày cho biết rất nhiều người trong nước hiện tại đã đánh giá cao nền giáo dục ở Miền Nam thời trước năm 1975; riêng bà con ở Miền Nam lại lấy làm hãnh diện là đã được đào tạo bởi nền giáo dục ấy, trong những học đường Miền Nam và bởi các thầy cô Miền Nam.
Bạn tôi là một nhà nghiên cứu. Anh đã khách quan kể lại không thêm bớt. Sau đó dư luận lại ồn ào về chuyện xảy ra ở trong nước: 21 cô giáo ở Thị Xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh bị Ủy Ban Nhân Dân tỉnh ép phải “tiếp khách, rót rượu, hát karaoke” cho quan khách. Chưa hết, các nạn nhân lại còn bị vị Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, ông Phùng Xuân Nhạ, thay vì bênh vực cho những nhân viên thấp cổ bé miệng nhất của bộ mình, trước sự bắt nạt của những ông vua con ở các địa phương, lại công khai trách cứ họ là không biết phản đối, khiến dư luận trong và ngoài nước vô cùng phẫn nộ, nhiều người lấy làm tủi hổ.
Việc làm của các quan chức Cộng Sản tỉnh Hà Tĩnh này phải nói là chưa bao giờ xảy ra trong lịch sử dân tộc Việt Nam, một dân tộc luôn luôn hãnh diện tự coi mình là có nhiều ngàn năm văn hiến.
Nhân dịp này, tôi xin được cùng bạn đọc ôn lại những ưu điểm qua một số những đặc tính cơ bản của sinh hoạt giáo dục ở Miền Nam thời trước năm 1975 nói riêng và văn hóa miền Nam nói chung, chính yếu là sự liên tục lịch sử. Nói như vậy không phải là trong thời gian này miền đất của tự do và nhân bản mà những người Quốc Gia còn giữ được không phải là không trải qua nhiều xáo trộn. Chiến tranh dưới hình thức này hay hình thức khác luôn luôn tồn tại và có những thời điểm người ta nói tới các chế độ độc tài hay quân phiệt và luôn cả cách mạng. Nhưng ngoại trừ những gì liên hệ tới chế độ chính trị, quân sự hay an ninh quốc gia, sinh hoạt của người dân vẫn luôn luôn diễn ra một cách bình thường, người nào việc nấy, người nào trách nhiệm nấy và được tôn trọng hay tôn trọng lẫn nhau. Sự liên tục lịch sử do đó đã có những nguyên do để tồn tại, tồn tại trong sinh hoạt hành chánh, tồn tại trong sinh hoạt tư pháp, trong văn chương và nghệ thuật và tồn tại đương nhiên trong sinh hoạt giáo dục.
Trong bài này tôi chỉ nói tới tới giáo dục và giáo dục công lập. Đây không phải là một bài khảo cứu mà chỉ là một bài nhận định và những nhận định được nêu lên chỉ là căn bản, sơ khởi, và tất nhiên là không đầy đủ. Đồng thời mỗi người có thể có phần riêng của mình. Một sự nghiên cứu kỹ càng, có phương pháp hơn và đầy đủ hơn là một điều cần thiết.
Giáo dục và người làm giáo dục
Giáo dục công lập ở Việt Nam đã có từ lâu đời và tùy theo nhận định của các sử gia, tới một mức độ nào đó định chế này đã tồn tại trên dưới mười thế kỷ. Mục đích của nó là để đào tạo nhân tài cho các chế độ, nói riêng, và cho đất nước, nói chung. Các vua chúa Việt Nam thời nào cũng vậy, cũng coi trọng việc học cả. Có điều coi trọng thì coi trọng, các vua Việt Nam, nói riêng và các triều đình Việt Nam, nói chung, chỉ vạch ra những đường nét chung và những mục tiêu chung, kèm theo là tổ chức các kỳ thi để tuyển chọn người tài mà không trực tiếp can dự vào sinh hoạt giảng dạy của các trường, hầu hết là các trường tư ở rải rác khắp trong nước. Sinh hoạt này hoàn toàn do các thày ở các trường do các tư nhân đảm trách. Giáo dục là của người dân và của những người làm giáo dục, và cho đến khi người Pháp sang, nó là của giới trí thức đương thời, đúng hơn là của các nhà Nho với tất cả những học thuyết, những nguyên tắc căn bản của giới này. Sang thời Pháp, do nhu cầu bảo vệ và phát triển văn minh và văn hóa của họ, người Pháp lập ra một nền giáo dục mới, nhưng việc điều hành, việc soạn thảo chương trình vẫn được giao cho các nhà giáo được huấn luyện chuyên môn hay ít ra là lựa chọn nghề dạy học với tinh thần quí trọng kiến thức và yêu mến nghề dạy học dù chỉ là tạm thời về phía người Pháp cũng như về phía người Việt. Họ mở các trường sư phạm để huấn luyện giáo chức chuyện nghiệp.
Đặc tính kể trên đã liên tục được tôn trọng trong suốt thời gian miền Nam tồn tại và luôn cả trước đó, từ thời Chính Phủ Quốc Gia của Cựu Hoàng Bảo Đại. Chức vụ Bộ trưởng hay Tổng trưởng giáo dục có thể là do các chính trị gia hay những người thuộc các ngành khác đảm nhiệm, nhưng trong việc lựa chọn nhân sự điều hành trong bộ, ngoại trừ các chức vụ có tính cách chính trị như đổng lý văn phòng, chánh văn phòng, bí thư tức thư ký riêng của Bộ trưởng… tất cả các chức vụ chỉ huy khác trong bộ, từ Thứ trưởng, Tổng thư ký, Tổng giám đốc, Giám đốc cho tới các Hiệu trưởng các trường và đương nhiên là các Giáo sư, Giáo viên, đều là những nhà giáo chuyên nghiệp, không có đại diện đảng phái chính trị ở bên cạnh.
Lý do rất đơn giản: họ là những người vô tư, biết việc, rành công việc và có kinh nghiệm, chưa kể tới sự yêu nghề. Chính trị đối với họ chỉ là nhất thời, tương lai của cả một dân tộc, hay ít ra là của những thế hệ tới mới, là quan trọng. Trong phạm vi lập pháp, rõ hơn là ở Quốc hội, các chức vụ đứng đầu các ban hay tiểu ban, dù là Thượng viện hay Hạ viện đều do các Nghị sĩ hay Dân biểu gốc nhà giáo phụ trách. Ngoại trừ ở những vùng mất an ninh, những gì thuộc phạm vi chính trị nhất thời đã ngưng lại trước ngưỡng cửa của học đường. Thày cô giáo là nhân viên của Bộ giáo dục, do Bộ giáo dục bổ nhiệm, trực thuộc vị Hiệu trưởng của trường sở tại, rồi các nha sở của bộ giáo dục ở trung ương chứ không trực thuộc các Quận hay Tỉnh trưởng.
Về tên các trường, tất cả các trường trung, tiểu học đều được gọi bằng tên của các danh nhân hay anh hùng dân tộc thời trước, được mọi người công nhận, Trưng Vương, Ngô Quyền, Chu Văn An, Đoàn Thị Điểm, Gia Long, Petrus Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Thanh Giản, Lê Ngọc Hân,… không hề có tên nào là của các lãnh tụ đương thời dù đó là Bảo Đại, Ngô Đình Diệm hay Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Cao Kỳ, kể cả Trần Văn Hương gốc nhà giáo… thay vì những tên hoàn toàn xa lạ đối với quảng đại quần chúng Miền Nam về sau này như Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Thị Sáu, Lê Văn Tám…, những người của một đảng chính trị hay, tệ hơn nữa, là ngụy tạo, không có thật.
Tôn chỉ – mục đích – quốc gia – dân tộc và con người
Nói tới ba nguyên tắc căn bản, đồng thời cũng là tôn chỉ và mục đích tối hậu của nền giáo dục của miền Nam trước năm 1975, có người tỏ ý không thích ba nguyên tắc này. Lý do có lẽ, tôi chỉ đoán như vậy, là vì ba nguyên tắc này phần nào đã được người Cộng Sản Việt Nam nêu lên trong Đề Cương Văn Hóa 1943 của họ. Ba nguyên tắc đó là Nhân Bản, Dân Tộc và Khai Phóng, sau này là Nhân Bản, Dân Tộc và Khoa Học trong khi trong Đề Cương Văn Hóa của Đảng Cộng Sản Việt Nam thì là Dân Tộc, Đại Chúng và Khoa Học.
Ở đây người viết không đi sâu vào khía cạnh này vì dù không thích, không đồng ý, ba nguyên tắc Dân Tộc, Nhân Bản và Khai Phóng này vẫn đã trở thành căn bản của nền giáo dục của miền Nam mà không ai lưu tâm tới vấn đề là không biết. Chúng đã giúp cho nền giáo dục này giữ được những truyền thống cơ bản của dân tộc và phát triển một cách vững vàng từng bước một để theo kịp với đà tiến triển của cả nhân loại mà không chạy theo những gì của thời thượng để trở thành lai căng, mất gốc, đồng thời cũng không bị gán cho là bảo thủ, lỗi thời… Tính cách liên tục lịch sử của nền giáo dục của miền Nam sở dĩ có được, phần nào là dựa trên những nguyên tắc này, đặc biệt là nguyên tắc Dân Tộc. Nó cho phép người ta đề cao và bảo tồn những truyền thống dân tộc trong học đường, dù đó là những truyền thống thuần túy Việt Nam hay những truyền thống của Khổng giáo. Đôi câu đối được khắc trên cổng chính của một trong những trường trung học lớn nhất của miền Nam là trường Petrus Trương Vĩnh Ký sau đây là một trường hợp điển hình:
Khổng Mạnh cương thường tu khắc cốt
Âu Tây khoa học yếu minh tâm.
Sự khủng hoảng hiện tại của nền giáo dục ở trong nước là do ở sự thiếu những yếu tố chỉ đạo này. Điều này đã được thấy rõ qua sự vô cùng lúng túng của ông Vũ Đức Đam, đương kim Phó Thủ Tướng, đặc trách văn hóa, xã hội, khoa học, giáo dục và đào tạo trong một buổi điều trần trước Quốc hội và bị hỏi câu hỏi là “có hay không một triết lý giáo dục Việt Nam?” Điều khiến cho người ta ngạc nhiên là không lẽ là một cán bộ ở cấp cao chuyên lo về văn hóa, như vậy, ông lại không biết tới Đề Cương Văn Hóa 1943 của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong đó ba nguyên tắc cơ bản chỉ đạo cho các vận dụng văn hóa, nói chung, văn học và giáo dục… nói riêng, là: dân tộc hóa, đại chúng hóa, và khoa học hóa đã được nêu cao hay sao? Không lẽ ba nguyên tắc này đã trở thành lạc hậu trong tình thế mới, trước quyền hành và quyền lợi của Đảng Cộng Sản Việt Nam?
Liên tục trong phạm vi nhân sự
Nhân sự ở đây không ai khác hơn là các nhà giáo, căn bản là các nhà giáo chuyên nghiệp. Tôi muốn nói tới các nhà giáo tốt nghiệp từ các trường sư phạm, những người ngay từ thuở thiếu thời đã chọn nghề dạy học làm lý tưởng cho mình và chỉ sống bằng nghề dạy học, vui với nghề dạy học hãnh diện với vai trò làm thầy, làm cô của mình, dù đó là sư phạm Tiểu học hay sư phạm Trung học. Một nghề bị coi là “bạc nghệ”, là bị xếp sau so với các nghề khác:
Dưa leo ăn với cá kèo,
Cha mẹ anh nghèo, anh học noọc-man. (nghề Thầy giáo, theo hệ thống giáo dục Pháp xưa)
Tất cả các vị này vẫn còn nguyên vẹn khi đất nước bị qua phân và đã ở các trường trong Nam khi các trường này được mở cửa trở lại sau một thời gian chiến tranh bị tạm đóng cửa, không mấy người tập kết ra Bắc.
Sau khi đất nước bị chia cắt và qua cuộc di cư của non một triệu người từ miền Bắc vô Nam, họ lại được tăng cường thêm bởi một số đông các đồng nghiệp của họ từ miền Bắc vô cùng với các trường được gọi là Bắc Việt di chuyển: Ngô Quyền, Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Trưng Vương, Hồ Ngọc Cẩn, Trần Lục… Tất cả đã cùng nhau hướng dẫn và điều hành các học đường miền Nam trong thời kỳ chuyển tiếp từ Pháp thuộc sang độc lập, đồng thời cũng là những giảng viên cơ bản trong các trường huấn luyện giáo chức thuộc thế hệ mới.
Từ phong thái đến cách giảng dạy, từ cách vào lớp, cho phép học trò ngồi, tới cách viết bảng và xóa bảng, cách chấm bài hay phê bài, các vị này đã để toát ra một sự chừng mực và vô cùng thận trọng của những nhà sư phạm nhà nghề, khác hẳn với một số các đồng nghiệp của họ từ ngoại quốc về chỉ lo dạy các môn học chuyên môn. Học đường do đó đã tránh được nạn chánh trị hóa, tránh được nạn cán bộ chánh trị xâm nhập. Nhiều vị vào những lúc tình thế vô cùng tế nhị đã giữ được thế vô tư và độc lập, nghiêm chỉnh của học đường và tư cách của giáo chức. Cũng cần phải nói thêm là trong thời gian này nhiều vị xuất thân là cử, tú, kép, mền, luôn cả tiến sĩ của thời trước, những người tinh thâm Nho học, vẫn còn có mặt ở các học đường, đặc biệt là các Đại Học Văn Khoa ở Sài Gòn và Huế như Tiến Sĩ Nguyễn Sĩ Giác, Cử Nhân Thẩm Quỳnh, Tú Tài Kép Vũ Huy Chiểu… mà không ai là không quý trọng.
Hệ thống tổ chức, tổ chức thi cử và chương trình học vẫn giữ được những nét chính của Chương Trình Pháp và Chương Trình Hoàng Xuân Hãn, Phan Huy Quát
Đây là một trong những đặc tính căn bản của nền giáo dục của miền Nam trong suốt thời kỳ nền giáo dục này tồn tại. Những gì người Pháp thiết lập không những không bị hủy bỏ, coi như tàn tích của chế độ thực dân, đế quốc mà còn được thận trọng giữ gìn, song song với việc bảo tồn truyền thống văn hóa cổ truyền và đạo đức của dân tộc. Người Việt ở miền Nam trong tinh thần cởi mở và tự do đã biết phân định những gì là kìm kẹp và những gì là hay đẹp mà một chế độ chính trị đem lại, thay vì cứ nhắm mắt đập bỏ để sau này hối tiếc. Các nhà làm giáo dục ở miền Nam đã tỏ ra vô cùng thận trọng trong mọi quyết định. Những gì gọi là cách mạng vội vã, nhất thời dường như không được chấp nhận. Họ chủ trương cải tổ để thích ứng với hoàn cảnh mới và cải tổ từ từ, kể cả khi thế lực và ảnh hưởng của người Mỹ, từ đó áp lực của họ đã trở nên rất mạnh.
Hệ thống giáo dục do người Pháp từ tiểu học cho đến đại học đã tồn tại dưới hình thức Việt hóa bắt đầu từ thời chính phủ Trần Trọng Kim năm 1945, với chương trình Hoàng Xuân Hãn, vị bộ trưởng giáo dục đương thời, sau này là Phan Huy Quát thời Quốc Gia Việt Nam mới được thành lập. Nó cho phép người ta, từ thầy đến trò, dễ dàng chuyển sang một nền giáo dục mới của một quốc gia độc lập không hề có chuyện trục trặc. Ngay từ cuối niên học 1944-1945, trong rất nhiều khó khăn, từ giao thông, vận chuyển đến thông tin, liên lạc, người ta đã tổ chức được những kỳ thi ở bậc tiểu học bằng tiếng Việt mà không hề có chuyện than phiền, khiếu nại. Điều nên nhớ là Chính Phủ Trần Trong Kim chỉ tồn tại có vẻn vẹn bốn tháng hay hơn một trăm ngày, vô cùng ngắn ngủi, với những phương tiện giao thông và liên lạc hết sức nghèo nàn. Sau này khi gửi sinh viên ra ngoại quốc du học, miền Nam đã không gặp phải những khó khăn trong việc đối chiếu bằng cấp, hệ thống học và khả năng của các đương sự, không phải chỉ riêng cho những ai muốn sang du học bên Pháp mà luôn cả cho những ai muốn sang các quốc gia khác, kể cả Hoa Kỳ, Gia Nã Đại, Úc, Nhật… vì đó là một hệ thống giống như các hệ thống khác thuộc thế giới tây phương, một hệ thống gần với hệ thống chung của quốc tế.
Duy trì mối liên tục lịch sử cũng cho phép người ta sử dụng được các sách giáo khoa của người Pháp và những sách giáo khoa về lịch sử và văn chương Việt Nam do chính người Việt soạn thảo từ thời trước năm 1945 và sau đó là từ năm 1947 đến năm 1954 ở những vùng đất của người quốc gia. Điển hình là các sách toán và khoa học bằng tiếng Pháp, do các tác giả Pháp soạn và xuất bản ở bên Pháp nhưng đã được không những các thày mà luôn cả các trò sử dụng làm tài liệu hay để tự học. Trong phạm vi văn chương, những sách của Dương Quảng Hàm, đặc biệt là hai cuốn Việt Nam Văn Học Sử Yếu và Việt Nam Thi Văn Hợp Tuyển đã được dùng rất lâu dù cho nhiều sách giáo khoa khác đầy đủ hơn đã được soạn thảo. Cũng vậy, trong phạm vi sử học với cuốn Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim. Về nội dung, đặc biệt là trong văn học, người ta cũng thấy nền giáo dục của miền Nam vẫn giữ được tinh thần tự do, cởi mở. Các tác giả được đem dạy hay trích dẫn đã được lựa chọn căn cứ vào giá trị của các công trình của họ thay vì gốc gác và sự lựa chọn chế độ của họ, thay vì căn cứ vào chuyện họ ở miền Bắc hay ở miền Nam trong thời gian này. Tô Hoài, Xuân Diệu, Thanh Tịnh, Nguyễn Tuân… là những trường hợp điển hình.
Trong phạm vi thi cử, các kỳ thi được thiết lập từ thời Pháp hay có ở bên Pháp vẫn được duy trì, đặc biệt là hai kỳ thi tú tài. Ở bậc đại học hệ thống tổ chức cũng tương tự. Ảnh hưởng của người Mỹ chỉ được chấp nhận một cách từ từ với nhiều thận trọng, mặc dầu người Mỹ đã bỏ ra nhiều tiền bạc và nhân sự qua các chương trình viện trợ khiến cho nhiều người Mỹ đã tỏ vẻ bất bình. Hình thức thi trắc nghiệm áp dụng cho các kỳ thi tú tài chỉ được thực hiện rất trễ về sau này và dư luận đã đón nhận nó với những nhận định khác nhau. Tiếc rằng chỉ vài năm sau Miền Nam đã không còn nữa.
Trong phạm vi tổ chức thi cử, người ta có thể thấy không riêng gì quan niệm, cách tổ chức, cách coi thi và chấm thi cũng như cách cho điểm, định kết quả và công bố kết quả hãy còn chịu ảnh hưởng nhiều của người Pháp mà còn luôn cả những thời quân chủ trước đó nữa. Quyền uy của các giám khảo, các chánh phó chủ khảo, các giám thị đã luôn luôn được tôn trọng và nhiều vị chủ khảo đã tỏ ra vô cùng can đảm giữ thế độc lập cho mình hay biết khôn ngoan né tránh cho mình và cho các đồng nghiệp của mình khi phải lãnh nhiệm vụ ở những vùng xa thủ đô Sài Gòn, an ninh và giao thông không bảo đảm.
Nên nhớ là trong thờ gian này hệ thống trung ương tập quyền vẫn còn tồn tại. Ra đề thi, in đề thi và gửi đề thi về địa phương với tất cả sự bảo mật cần thiết là vô cùng khó khăn, tế nhị và phức tạp. Về phía chính quyền thì từ trung ương đến địa phương hầu như không hề có sự trực tiếp can thiệp. Báo chí, các cơ quan truyền thông vẫn luôn luôn hiện diện và sẵn sàng phanh phui mọi chuyện.
 
Xã hội tôn trọng sự học và những người có học
Đây là một trong những đặc tính cơ bản của văn hóa Việt Nam mà xã hội Miền Nam nói chung và nền giáo dục Miền Nam nói riêng thời trước năm 1975 được thừa hưởng. Đặc tính này đã được biểu lộ không riêng qua tinh thần tôn sư trọng đạo mà còn được coi như một giá trị và là một giá trị đứng đầu trong mọi giá trị. Sự học là một giá trị và giáo dục là một giá trị. Sự học hay giáo dục làm nên con người chứ không phải là những yếu tố khác, dù đó là quyền uy và tiền bạc. Người làm công tác giáo dục được tôn trọng và từ đó có được những điều kiện ít ra là về phương diện tinh thần để thực thi sứ mạng của mình mà những người làm chánh trị, những nhà chủ trương cách mạng, kể cả những người cấp tiến nhất cũng phải kiêng nể. Nhưng bù lại, người ta lại trông đợi rất nhiều ở các người làm công tác giáo dục, ở đây là các thày, cô. Giữa những người cùng làm công tác dạy học cũng vậy, tất cả đã tôn trọng lẫn nhau và tôn trọng các bậc tôn trưởng, kể cả những người đã khuất.
Sự thiết lập những bàn thờ tiên sư ở các trường trung học Nguyễn Đình Chiểu ở Mỹ Tho và Phan Thanh Giản ở Cần Thơ phải được kể là tiêu biểu cho tinh thần giáo dục của miền Nam. Đối với các phụ huynh học sinh, sự trông đợi các thày nhiều khi qua mức, ngày nay khó ai có thể nghĩ được điển hình là chuyện “giáo sư mà cũng ăn phở”. Câu chuyện do một vị giáo sư từ Bắc vô Nam sau Hiệp Định Genève và được cử xuống Mỹ Tho chấm thi tú tài kể lại. Buổi sáng, các thày rủ nhau đi ăn phở trước khi nhập trường. Ở tiệm phở, ông nghe người địa phương thầm thì “giáo sư mà cũng ăn phở”. Nên nhớ là Mỹ Tho là một tỉnh nhỏ và hồi giữa thập niên 1950, bằng tú tài là to lắm rồi trong khi các vị giáo sư này lại là giám khảo chấm thi tú tài lận!
Tạm thời kết luận
Bài này bắt đầu được viết vào lúc những tin tức về những tệ hại trong nền giáo dục ở nước Việt Nam chiếm một phần không nhỏ trong sinh hoạt truyền thông quốc tế cũng như quốc nội. Ngoài những tin tức, những bài nhận định còn có những hình ảnh của các kỳ thi đi kèm. Tất cả đã xảy ra hàng ngày và đã chiếm những phần không nhỏ trong thời lượng phát thanh hay phát hình hay trên các trang báo, đặc biệt là vào những thời kỳ bãi trường hay khởi đầu của một niên học. Mọi chuyện đã liên tiếp xảy ra từ nhiều năm trước và người xem, người nghe có thể đoán trước và chờ đợi mỗi khi mùa hè và sau đó là mùa thu đến. Nhiều người còn dùng hai chữ “phá sản” để hình dung tương lai của nền giáo dục này và nhiều người khác còn tỏ ý nuối tiếc quá khứ mà họ cho là rất đẹp của nền giáo dục ở miền Nam thời trước năm 1975.
Ở đây, như đã nói trong phần mở đầu, người viết chỉ vắn tắt ghi nhận một số những dữ kiện căn bản liên hệ tới nền giáo dục ở Miền Nam thời truớc năm 1975. Một công trình nghiên cứu qui mô hơn và kỹ càng hơn còn cần phải được thực hiện trước khi người ta có thể khẳng định những nhận xét này. Tuy nhiên có một điều người ta phải để ý và thận trọng khi nói tới cách mạng và đặc biệt khi làm cách mạng. Người ta có thể xóa bỏ một chế độ chính trị bằng cách mạng, từ đó đoạn tuyệt với quá khứ nhưng người ta không thể theo đà đó mà làm cách mạng trong những phạm vi sinh hoạt khác trong đó có giáo dục một cách máy móc, không thận trọng. Nhận định này có thể bị coi là bảo thủ, nhưng đó là một sự thật và là một sự thật bắt đầu bằng kinh nghiệm. Có điều vì bằng kinh nghiệm nên khi biết được là sai lầm thì đã quá muộn. Những gì thuộc về quá khứ, kể cả quá khứ bị coi là phong kiến, lạc hậu không phải là luôn luôn tệ hại, là cổ hủ và những gì được coi là canh tân, đổi mới không phải luôn luôn là tốt đẹp. Tất cả cần phải có thời gian để “gạn đục, khơi trong”. Duy có một điều không bao giờ thay đổi là: khi giáo dục không còn được coi là một giá trị và khi các thày cô không còn được coi trọng thì xã hội sẽ không còn là xã hội của loài người nữa.
Trở về với thực tế trước mắt, với vụ 21 cô giáo ở Thị Xã Hồng Lĩnh, tỉnh Quảng Trị, nhiều người tự hỏi nếu các cô không được chính Bộ Giáo Dục và Đào Tạo, cơ quan trực tiếp phải lo cho đời sống và điều kiện hành nghề của các cô bênh vực, thì nghiệp đoàn giáo chức của các cô ở đâu? Tự hỏi nhưng ai cũng biết là ở Việt Nam hiện tại làm gì có nghiệp đoàn vì các luật về lập hội, lập nghiệp đoàn, biểu tình vẫn chưa được Quốc Hội đem ra thảo luận.
Tưởng cũng nên nhớ là ngay từ thời Vua Bảo Đại, qua Chính Phủ Trần Trọng Kim, các đạo Dụ về tự do hội họp, tự do lập hội, tự do lập nghiệp đoàn đã được ban hành ngay từ Tháng Bảy năm 1945. Tất cả đã xảy ra trong một tuần lễ đầu tháng Bảy khiến cho báo chí đương thời đã mệnh danh tuần lễ này là Tuần Lễ Của Các Tự Do. Nhưng chỉ chưa tới ba tuần lễ sau ngày tuyên bố nền độc lập và thành lập Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh ngày 22 tháng 9 năm 1945, bãi bỏ các nghiệp đoàn trên toàn cõi Việt Nam. Đồng thời Bộ Trưởng Nội Vụ Võ Nguyên Giáp đã ký nghị định giải tán Hội Khai Trí Tiến Đức và cho Hội Văn Hóa Cứu Quốc tư cách pháp nhân. Trong khi đó, ở các nước tiền tiến, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, các nghiệp đoàn giáo chức rất mạnh và được phía chính quyền kính nể. Tương lai của các giáo chức Việt Nam, nói riêng, và nền giáo dục Việt Nam, nói chung, quả thật không có gì sáng sủa.
(*) DLB: Tác giả là một GS, Tiến sỹ Lịch sử đã nghỉ hưu.

XÃ HỘI DỐI TRÁ.

From facebook: Hằng Lê

 XÃ HỘI DỐI TRÁ.

Xã hội Vn, một xã hội dối trá và luôn luôn duy trì sự dối trá. Ngành GD nhà nước csVn đưa sự dối trá vào nhà trường nhồi sọ học sinh.

Nào anh hùng Lê Văn Tám tẩm xăng vào người đốt cháy rồi chạy vào kho xăng cả hàng trăm mét; Anh hùng Kpă Klơng 13 tuổi bắn 3 viên đạn hạ 7 tên giặc, bắn tiếp 7 viên giết trọn 19 tên giặc, mới 13 tuổi đầu mà đã giết 80 tên giặc, phá hủy 12 xe tăng…; Nào dùng rìu chém rớt trực thăng… Rồi Ong cũng đánh Mỹ, Trâu cũng đánh Mỹ…

Toàn những chuyện phản khoa học, vậy mà nhà trường dạy cho học sinh được mới tài chứ! Thử hỏi 7 viên đạn làm sao bắn chết 19 người? (Cho dù anh bắt người ta sắp hàng đi nữa)? Toàn những chuyện hoang tưởng của những người làm cách mạng ngu dốt!

Anh nhà báo Phùng Hiệu – Quyền đại diện báo Nhà báo & Công luận (Cơ quan TW Hội nhà báo Việt Nam), đã bị thu thẻ, mất chức vì viết trên FB cá nhân nội dung (như trong hình dưới). Chỉ có vậy thôi mà chính quyền ghép tội anh bôi nhọ lãnh tụ (?) Có nghĩa là họ (nhà cầm quyền) không muốn nói lên SỰ THẬT mà phải ca ngợi ông Fidel, vì ông là lãnh tụ cộng sản. Mà lãnh tụ cộng sản thì phải được ca ngợi, cho dù trong nửa thế kỷ cầm quyền ông ta ngửa tay xin gạo khắp nơi, mà xin ở cả nước có công dân chết đói mới đáng lên án!

Chính quyền csVn buộc mọi người tôn vinh ông là lãnh tụ vĩ đại, là người chiến sĩ cách mạng tiên phong. (sic!) Cứ nhìn vào đất nước Cuba nghèo nàn, xin gạo cứu đói quanh năm đủ biết trình của ông đến đâu rồi, cần gì phải nói nhiều!

Trước kia, Chính quyền bắt dân kêu tổng thống Mỹ là thằng Kenedy, thằng Rigan, thằng Diệm, thằng Thiệu…Thậm chí có mấy tên sĩ quan quân đội đặt tên chó nuôi là Diệm, là Thiệu.. thì có xúc phạm lãnh tụ không? Anh nhà báo Phùng Hiệu chỉ nêu lên sự thật bằng những lời lẽ ôn hòa thì các người ghép tội xúc phạm lãnh tụ? Thời đại internet ngày nay mà chính quyền csVn vẫn cố ép người ta tin vào sự dối trá, sự mị dân là điều không thể!

(Ngô Trường An)

Một thời ‘Bình Dân Học Vụ’

Một thời ‘Bình Dân Học Vụ’

Huy Phương (Danlambao) – …Tiểu sử của đảng chính thức nói ông có bằng cử nhân kinh tế, trình độ ngoại ngữ thì ghi rõ: “Anh văn B, Nga văn B.” Nhưng qua những bài diễn văn, người ta thấy ông thường cắm đầu cắm cổ vào giấy mà đọc, phát ra những câu nói như “Ma Dze in Việt Nam,” và mới đây là “Cờ-Lờ-Mờ-Vờ và Cờ-Lờ-Vờ,” thì thiên hạ có quyền nghi ngờ những bằng cấp “tại chức” và trình độ học thức “bình dân học vụ” rất “lờ-mờ” của ông…

Bỏ qua những chuyện “công, tội, khen, chê” của những nhà viết sử dành cho giáo sĩ Alexandre Rhodes, chúng ta phải công nhận chữ Quốc Ngữ (tiếng nước ta) được thành hình là do công lao của ông.

Vào năm 1651, ông cho in cuốn từ điển Việt-Bồ Đào Nha-Latin (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum) dựa trên các ký tự tiếng Việt của những giáo sĩ người Bồ Đào Nha và Ý trước đó. Có thể coi đây là sự kiện đánh dấu sự ra đời của chữ Quốc Ngữ. Về cách phát âm thì:

1-Những nguyên âm như chữ a, i, u, o, e thì đọc nguyên.

2-Những phụ âm như chữ s, r, m, b, p, đọc theo cách đọc của alphabet là et-sờ, er-rờ, em-mờ, bê, pê.

Nhưng theo kiểu sáng tạo của phong trào “Bình Dân Học Vụ” thời Việt Minh (1945) thì những chữ phụ âm, học sinh phải đọc là sờ, rờ, mờ, lờ, pờ (hay phờ-ph): “bờ-a-ba,” “mờ-a-ma, “ cờ-a-ca, sắc cá…”

“Bình Dân Học Vụ” là phong trào xóa nạn mù chữ trong quần chúng do chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (thời Việt Minh) phát động từ năm 1945. Vì có đến 95% dân chúng Việt Nam mù chữ, các lớp bình dân học vụ được mở khắp ngang cùng ngõ hẻm, tối tối, nam phụ lão ấu, ai “mù chữ” cũng thắp đèn đến lớp học, được mở ra trong các đình, chùa, miếu… Cũng vì “Bình Dân Học Vụ” học đêm, thời này đã có câu ca dao thời đại:

“Bình dân! Khổ lắm anh ơi!

Không đi thì dốt, đi thời bụng to.”

Năm 1945, người viết bài này mới lên 8 tuổi, còn học lớp Nhì (lớp 4) trường làng, nghĩa là đã biết đọc biết viết. Chúng tôi được phân công kiểm soát các o, các mụ đi chợ xem họ có biết chữ hay không? Để khuyến khích và kiểm soát việc chống nạn mù chữ của dân làng, đầu các con đường vào chợ đều có những trạm gác và những rào cản, làm bằng một thân tre bắc ngang ngõ vào chợ. Ai đến đó, đọc được chữ “a,” chữ “bờ,” chữ “cờ” thì chúng tôi mở cây tre chắn lên cho vào chợ. Thật ra đây chỉ là một chuyện kiểm soát tượng trưng, hình thức, vì nhiều bà đã vào bày hàng trong chợ từ sớm khi chúng tôi còn ngủ, hay khi người ta cần bán nải chuối, mớ rau để lấy tiền mua thức ăn về nhà, ai mà nỡ “cấm chợ, ngăn sông!” Do đó, ai “mù chữ” thì đứng chờ hay năn nỉ, khi không có người lớn đứng đó thì chúng tôi làm lơ cho qua.

Ban vận động “Bình Dân Học Vụ” đó đã đặt những câu có vần điệu cho dễ nhớ mặt chữ. Các bạn để ý các phụ âm ta vẫn thường đọc là “tê” được đọc là “tờ,” “en-lờ” được đọc là “lờ.”

– “i, t (tờ), có móc cả hai.

i ngắn có chấm, t (tờ) dài có ngang;

– e, ê, l (lờ) cũng một loài.

ê đội nón chóp, l (lờ) dài thân hơn;

– o tròn như quả trứng gà.

ô thì đội mũ, ơ thời thêm râu.”

Ngày ấy dân tiểu tư sản thành thị thường dùng thành ngữ trình độ “Bình Dân Học Vụ” hay chữ “i-tờ-rít” để nói về những người dốt nát, ít học, thành phần cán bộ Việt Minh “răng đen mã tấu.”

Cả nước dưới thời Pháp thuộc hay miền Nam VNCH, học sinh miền Nam không dùng cách đọc “mờ-cờ-bờ.”

Hai câu “ca dao” khá tếu sau đây theo cách đọc của miền Nam, mà ngay từ hồi nhỏ chúng tôi đã thuộc nằm lòng là:

N K M H U Ơ (Anh ca em hát u ơ )

M K N H N R Q M (Em ca anh hát anh rờ cu em)

Hai câu này sẽ trở thành vô nghĩa khi nó đọc theo lối “Bình Dân Học Vụ” thời Việt Minh và sau này là Cộng Sản miền Bắc:

Nờ Kờ Mờ Hờ U Ơ

Mờ Kờ Nờ Hờ Rờ Cu Mờ

Mới đây xảy ra chuyện liên quan tới lối phát âm Lờ Cờ Bờ, là trong một cuộc hội nghị kỷ niệm 50 năm của Ngân Hàng Phát Triển Á Châu (The Asian Development Bank- ADB), ông thủ tướng CSVN đã phát biểu những câu nói mà thiên hạ ngơ ngác hoàn toàn không hiểu ông nói gì!

Câu nói của ông Nguyễn Xuân Phúc trên diễn đàn ADB như sau:

– “Mong ADB tiếp tục hỗ trợ, đồng hành cùng chính phủ Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác của khu vực như tiểu vùng Mekong, ACMRCS, Cờ-Lờ-Mờ-Vờ và Cờ-Lờ-Vờ về kết nối các nền kinh tế, hạ tầng giao thông, giảm nghèo bền vững và ứng phó với biến đổi khí hậu.”

Ông Nguyễn Xuân Phúc tập kết ra Bắc từ năm 1966 khi 12 tuổi (ông sinh năm 1954). Sau năm 1975, đảng đưa ông trở về quê cũ là đất Quảng Nam, có lẽ ông có chuyên môn kinh tế, sơ khởi cho ông làm chức vụ “cán bộ ban quản lý kinh tế.” Đây là thứ cán bộ, như sau năm 1975, chúng ta thường thấy xe khách dồn cục ở các trạm kinh tế, để mấy ông cán bộ xét hàng, nắn bóp thân thể người đi buôn, bắt đóng thuế, hay tịch thu gạo, thịt, đường của dân đi buôn hàng chuyến. Từ đó ông len được vào Bộ Chính Trị đảng Cộng Sản, leo lên tới chức phó thủ tướng rồi thủ tướng.

Tiểu sử của đảng chính thức nói ông có bằng cử nhân kinh tế, trình độ ngoại ngữ thì ghi rõ: “Anh văn B, Nga văn B.” Nhưng qua những bài diễn văn, người ta thấy ông thường cắm đầu cắm cổ vào giấy mà đọc, phát ra những câu nói như “Ma Dze in Việt Nam,” và mới đây là “Cờ-Lờ-Mờ-Vờ và Cờ-Lờ-Vờ,” thì thiên hạ có quyền nghi ngờ những bằng cấp “tại chức” và trình độ học thức “bình dân học vụ” rất “lờ-mờ” của ông.

Ví dụ như tên các tổ chức quốc tế như NATO (Hiệp Ước Bắc Đại Tây Dương) hay IOM (Tổ Chức Di Dân Quốc Tế) khi đọc phải dùng tiếng Anh hay một sinh ngữ thông dụng, chứ không thể đọc “Nờ-A-Tờ-O” hay “I-O-Mờ” thì người nghe cũng phải trố mắt ra. Mặt khác, trong bản văn, thư ký soạn diễn văn có thể viết tắt LHQ, nhưng ông thủ tướng phải biết để đọc nguyên chữ là Liên Hiệp Quốc, chứ không thể ngu đến mức đọc là “Lờ-Hờ-Cu” được. Hơn 41 năm ở hải ngoại này, tôi chưa nghe ai đọc VNCH là “Vờ-Nờ-Cờ-Hờ” cả, đó chính là trình độ học vấn.

Trong bài diễn văn của ông thủ tướng, cũng vì chủ quan “tại chức” ông đã không đọc trước, và người nào soạn diễn văn cho ông cũng ác độc, ông không hiểu những chữ viết tắt CLMV hay CLV là gì, nên đành đem cái trình độ “Bình Dân Học Vụ” (bờ-dờ-hờ-vờ) của ông ra mà giải quyết nhanh, gọn. Thay vì đọc nguyên chữ Cambodia-Laos- Myanmar-Vietnam hay Cambodia-Laos-Vietnam, vì không biết, nên ông phát ngôn đại là “Cờ-Lờ-Mờ-Vờ và Cờ-Lờ-Vờ” cho xong.

Trên Facebook nhiều vị đã ra sức bênh vực cho bài diễn văn của người cầm đầu chính phủ (Cờ-Hờ-Xờ-Hờ-Chờ-Ngờ-Vờ-Nờ) CHXHCNVN, nhưng theo tôi, ở Việt Nam bây chừ, chuyện này cũng thường thôi! Mới đây có chuyện một ông hiệu trưởng ở Sóc Trăng bị khiển trách vì cho một học sinh trình độ lớp 1 ngồi nhầm ở lớp 6.

Trong trường hợp ông Nguyễn Xuân Phúc ngồi nhầm chỗ, quý vị định khiển trách ai đây?

06.12.2016

Huy Phương

danlambaovn.blogspot.com

MẸ MARIA VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI

MẸ MARIA VÔ NHIỄM NGUYÊN TỘI

Lm. Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang 
me-maria

Đức Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, người độc nhất vô nhị khi bước vào cuộc đời trần thế nầy, không phải như tất cả chúng ta, là nạn nhân của tội nặng tổ tông truyền; không phải như chúng ta, là nạn nhân mang án lệnh phải chết trên vừng trán công khai; không phải như chúng ta, là nạn nhân bị dìm mình trong vũng bùn nhơ  của các tình tư dục; không phải như chúng ta, là nạn nhân bị vây hãm bởi mọi mùi xú uế của bảy mối tội đầu.  Nhưng…, nhưng khi bắt đầu vào đời, trong ngay tích tắc đầu tiên được thụ thai trong lòng mẹ, Người Nữ Do Thái thành Nadarét nầy đã được trang hoàng rực rỡ bằng muôn vạn ân sủng vô cùng quý giá, để xứng đáng làm Mẹ của Con Thiên Chúa cao sang vinh hiển, để xứng đáng làm Nữ Vương mọi loài trên trời dưới đất, ngay cả các quỷ dữ trong hỏa ngục, Đức Trinh Nữ Maria cũng đạp dập đầu dưới chân mình.

Tất cả những ai sinh ra bởi Ađam, đều mắc tội tổ tông truyền.  Chỉ trừ một mình Đức Mẹ Maria không mắc tội nầy.  Vì thế, Giáo Hội tôn kính Đức Mẹ Maria là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.

Đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội chỉ dành riêng cho một mình Đức Mẹ Maria để Ngài xứng đáng làm Mẹ Đức Chúa Trời, xứng đáng làm Mẹ của Con Thiên Chúa.

Khi dựng nên tổ tông loài người là ông Ađam và bà Eva, Thiên Chúa yêu thương đã ban cho hai ông bà những ơn đặc biệt tốt đẹp: một thân xác mạnh khỏe, xinh đẹp, với một linh hồn trong sáng, kèm theo những ơn đặc biệt: không đau, không khổ, không chết; thông minh, hiểu biết, hướng thượng.   Nhất là ơn siêu nhiên thánh sủng là được thông phần vào chính bản tính của Thiên Chúa, sống đầy tràn hạnh phúc trên đời nầy, và sau khi từ giã trần gian, được về với Thiên Chúa trên Nước Trời.   Những ơn đặc biệt nầy, hai tổ tông Adam và Eva sẽ truyền lại cho con cháu được hưởng.

Nhưng than ôi, vì mắc mưu xảo quyệt của ma quỷ cám dỗ, hai tổ tông Ađam và Eva đã phạm tội chống lại Thiên Chúa là Đấng dựng nên họ.  Và hai ông bà đã làm mất tất cả những ơn đặc biệt nầy, không nhữmg làm cho mình mất đã đành, mà còn làm cho con cháu mình mất nữa.

Tội đầu tiên, ông Ađam và bà Eva phạm, gọi là Tội Tổ Tông, đã truyền lại cho tất cả con cháu loài người theo con đường sinh sản tự nhiên.   Thánh Phaolô nhấn mạnh điểm tín lý nầy trong thư gởi cho giáo đoàn Rôma: “một người đã đem tội vào thế gian, và theo sau sự tội, là sự chết, vì thế, mọi người phải chết vì mọi người đã phạm tội.”… “vì tội một người mà sự chết do người ấy gây nên, đã thống trị loài người”…..“vì một người không vâng lời, nên đã làm cho mọi người mắc tội.” (x. Rôma 5,12-19).

Tội Tổ Tông là tội chung cho tất cả loài người do hai nguyên tổ Ađam Eva truyền lại cho con cháu mình, vì thế, ai cũng là nạn nhân của tội tổ tông truyền nầy.  Đáng lý Đức Trinh Nữ Maria, vì là con cháu của Adam Eva, nên cũng mắc tội tổ tông truyền như mỗi người chúng ta, nghĩa là sinh ra mà không có ơn thánh sủng, không có những đặc ân tự nhiên và siêu nhiên khác, bị dìm sâu trong vũng bùn nhơ của các tình tư dục và các mối tội đầu, phải chịu nằm dưới quyền thống trị của ma quỷ, phải đau, phải khổ và phải chết.  Nhưng, vì Đức Trinh Nữ Maria được Thiên Chúa thương chọn làm Mẹ Con Thiên Chúa, làm Mẹ Đấng Cứu Thế, nên đã được Thiên Chúa ban cho đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội, nhờ hưởng trước, và hưởng đầy tràn những công nghiệp vô cùng của Đấng Cứu Thế, là Con của mình sau nầy.

Đó là tín điều về Đức Trinh Nữ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội mà hôm nay chúng ta tuyên xưng và dâng thánh lễ mừng Đức Mẹ Maria.  Tín điều nầy đã được Đức Giáo Hoàng Piô IX long trọng tuyên bố năm 1854, cho toàn thể Giáo Hội Công Giáo phải tin để cho được rỗi linh hồn: “Được đầy Ơn Cứu Chuộc của Đấng Cứu Thế là Con mình một cách đặc biệt, Đức Trinh Nữ Maria, ngay từ giây phút đầu tiên trong lòng mẹ mình, không mắc tội tổ tông truyền.”

Ôi!  Sung sướng biết bao cho chúng ta, vì Đức Trinh Nữ Maria, Mẹ của chúng ta, là Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Mẹ đẹp tuyệt vời, Mẹ không chút bợn nhơ.  Thiên Chúa đã trang điểm cho Mẹ đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội để Mẹ xứng đáng làm Mẹ của Con Thiên, xứng đáng làm Nữ Vương các thánh thiên thần và các thánh nam nữ ở trên trời, xứng đáng làm Nữ Vương mọi loài ở dưới đất.

Trong Kinh Thánh, có hai đoạn liên quan đến đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Trinh Nữ Maria.

Đoạn thứ nhất, trong Cựu-Ước: sách Sáng-Thế (3,15).  Sau khi hai ông bà tổ tông loài người phạm tội, Thiên Chúa liền hứa ban Đấng Cứu Thế để cứu chuộc loài người khỏi tay ma quỷ.  Thiên Chúa nói cho ma quỷ biết về một Người Nữ Đặc Biệt: “Ta sẽ đặt oán thù giữa ngươi và Người Nữ, giữa dòng dõi ngươi và Dòng Dõi Người Nữ.   Người Nữ sẽ đạp dập đầu ngươi, còn ngươi thì rình cắn gót chân Người.”  Người Nữ đặc biệt mà Thiên Chúa nói đây, chính là Đức Trinh Nữ Maria sau nầy.

Qua lời tuyên bố trên đây của Thiên Chúa, chúng ta thấy có hai điều.  Một là, có một sự đối nghịch hoàn toàn giữa ma quỷ và Người Nữ nầy (vì thế, nếu Người Nữ nầy mắc tội tổ tông truyền như mọi người khác, dẫu mắc trong một giây phút mà thôi, thì Người Nữ nầy cũng không thể nào đối địch lại hoàn toàn với ma quỷ được).  Hai là, Dòng Dõi Người Nữ nầy cũng phải đối địch lại hoàn toàn với ma quỷ (vì thế, Chúa Giêsu Kitô, Dòng Dõi của Đức Trinh Nữ Maria, sẽ không chiến thắng ma quỷ hoàn toàn được, nếu Mẹ của mình là Đức Trinh Nữ Maria không được đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội).

Đoạn thứ hai, trong Tân Ước: bài tường thuật Truyền Tin của thánh sử Luca mà chúng ta nhắc đi nhắc lại mỗi ngày ba lần qua kinh Nhựt Một.  Theo lời thiên sứ Gabirie khi truyền tin Đấng Cứu Thế, chúng ta thấy có ba điều nói lên đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội của Đức Trinh Nữ Maria.  Một là, Đức Mẹ được đầy ơn Chúa ban (Kính Mừng Maria đầy ơn phước!): nếu Đức Mẹ mắc tội tổ tông truyền, thì Đức Mẹ không thể nào được đầy ơn phước được.  Hai là, Đức Mẹ luôn được Chúa ở cùng (Đức Chúa Trời ở cùng Bà): Đức Chúa Trời là Đấng vô cùng thánh thiện, hằng ở với Đức Mẹ, thì Đức Mẹ làm sao mắc tội tổ tông truyền được.  Ba là, Đức Mẹ là Người Nữ diễm phúc hơn hết trong loài người (Bà có phước lạ hơn mọi người nữ): phước lạ hơn tất cả mọi người, ở đây, là phước lạ đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội.  Như vậy, khi thiên sứ Gabrie được Thiên Chúa sai từ trời xuống thành Nadarét, miền Galilêa, thuộc nước Do Thái, đến với Người Thanh Nữ Do Thái thành Nadarét, và cung kính chào: “Kính chào Bà đầy ơn phước, Đức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phước lạ hơn mọi người nữ”, thì cũng giống như thiên sứ chào Đức Mẹ rằng: “Kính chào Bà là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội.”

Năm 1854, Đức Trinh Nữ Maria đã hiện ra tại Lộ Đức, nước Pháp, cho trẻ gái nhỏ Bênêđétta và xưng rằng: “Ta là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội!”

 Lạy Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, chúng con đầy tràn tin tưởng vào Mẹ: chúng con tin rằng, dù quyền phép vô cùng, Thiên Chúa cũng không thể nào dựng nên một ai cao trọng hơn Mẹ được; dù cao sang vô biên, Thiên Chúa cũng không thể lấy gì để ban thêm cho Mẹ, hơn là Ơn ban cho Mẹ được Vô Nhiễm Nguyên Tội.  Lạy Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, chúng con là những kẻ tội lỗi đang chạy đến cùng Mẹ.  Chính vì Thiên Chúa Cha, Đấng giàu lòng thương xót, thương loài người tội lỗi chúng con, nên mới ban cho Mẹ đặc ân Vô Nhiễm Nguyên Tội để Mẹ trở nên Mẹ Đức Chúa Trời, và cũng là Mẹ của chúng con.  Chúng con tin rằng trên đời nầy, không ai có lòng trông cậy chạy đến cùng Mẹ, mà Mẹ từ bỏ chẳng nhậm lời.

 Lạy Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, xin cho chúng con biết sống xa lánh tội lỗi, Xin cho lòng tin của chúng con vào Chúa được luôn luôn mạnh mẽ.  Xin cho chúng con biết noi gương Mẹ, luôn trung thành theo Chúa cho đến cùng.

  Lạy Mẹ Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội, xin cầu cho chúng con.  Amen!

Lm. Emmanuen Nguyễn Vinh Gioang 

Langthangchieutim gởi

Việt Nam – Cuba: Tương đồng và khác biệt

Việt Nam– Cuba: Tương đồng và khác biệt

Cát Linh, phóng viên RFA
2016-12-05
Ảnh chụp tại Tòa Đại sứ Cuba ở Hà Nội hôm 04/12/2016.

Ảnh chụp tại Tòa Đại sứ Cuba ở Hà Nội hôm 04/12/2016.

AFP

Sau 56 năm từ ngày Chính phủ Cộng hòa Cuba và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thiết lập quan hệ ngoại giao (2/12/1960 – 2/12/2016), giữa Việt Nam và Cuba đã tồn tại một mối quan hệ được cho là mật thiết và kỳ lạ xuyên hơn 50 năm.

Phóng sự sau đây nhìn lại những điểm tổng quát tương đồng của hai quốc gia Việt Nam – Cuba, từ đó đã dẫn đến những cải cách mà hai quốc gia có được ngày nay như thế nào.

Ý thức hệ

Ngay sau khi Chủ tịch Fidel Castro của Cuba qua đời ở tuổi 90, những cơ quan truyền thông lớn của thế giới đồng loạt đăng tải những bài viết liên quan đến cuộc đời cách mạng và lịch sử của chính quyền do ông lãnh đạo. Những bài viết này hầu hết khai thác những điều mà thế giới đã biết nhất là người dân Cuba.

Sau khi Fidel Castro qua đời, Bảng tin AP vào ngày 29 tháng 11 vừa qua đã đang tải ngay trên dòng đầu tiên của bài viết về Fidel Castro rằng: “Fidel Castro đã thay đổi khẩu  vị của sữa vào mỗi buổi sáng của trẻ em Cuba. Khuyến khích sử dụng nồi cơm điện tiết kiệm năng lượng, và phát sóng hai giờ học trên truyền hình quốc gia.”

Cả hai nước đều đi theo ý thức hệ cộng sản, đều có một lịch sử xây dựng một chế độ mà thật sự những người khởi xướng chế độ ấy người ta nghĩ là rất tốt đẹp.
-TS Nguyễn Quang A

Những bài viết của AP cũng cho biết cuộc nổi dậy của lực lượng vũ trang lật đổ chính phủ độc tài của Tổng thống Cuba Fulgencio Batista thành công cùng với lời hứa đưa công lý và bình đẳng đến các hòn đảo Caribbean là một sự kiện lịch sử bật nhất của thế kỷ 20.

Hai năm sau khi cuộc cách mạng thành công và giành lấy chính quyền, năm 1961, chính quyền Fidel Castro đã tung ra một chiến dịch đầy tham vọng là xoá nạn mù chữ. Khoảng 700 ngàn người dân đã được học đọc và viết trong những năm đó.

Trong cùng thời gian, Fidel Castro lập ra Ủy ban Bảo vệ Cách mạng, bao gồm những nhân vật được huấn luyện như là “tai và mắt” của chính quyền, theo dõi các hoạt động bị nghi ngờ làm chia rẽ chính trị của Cuba. Các nhóm này được hình thành để đảm bảo rằng người dân trung thành với mục tiêu chủ nghĩa xã hội của chính phủ, và hành động như một người giám sát với hàng xóm chống lại các hoạt động “phản cách mạng”. Chiến lược này tương tự với Việt Nam đã áp dụng từ nhiều chục năm qua.

Những chiến lược này được Tiến sĩ Nguyễn Quang A, từ Hà Nội, cho chúng tôi biết về suy nghĩ của ông:

“Cả hai nước đều đi theo ý thức hệ cộng sản, đều có một lịch sử xây dựng một chế độ mà thật sự những người khởi xướng chế độ ấy người ta nghĩ là rất tốt đẹp. Và muốn xây dựng một xã hội tốt cho tất cả mọi người. Người ta thường dùng cụm từ là xây thiên đường trên mặt đất này.”

Tuy nhiên, Tiến sĩ Nguyễn Quang A cho rằng chính vì thiên đường không có trên mặt đất cho nên rất đáng tiếc là những ảo vọng xây dựng nó hoàn toàn thất bại. Và cũng theo ông, đây là điểm tương đồng giữa Việt Nam và Cuba:

“Chính cái nét tương đồng về tư tưởng, suy nghĩ ấy nó định hình toàn bộ mối quan hệ giữa Việt Nam và Cuba trong hơn năm mươi năm qua. Hai nước đều đứng lên chống lại đế quốc Mỹ. Thật sự lúc đó ý thức hệ và trong bối cảnh của chiến tranh lạnh là nó định hình toàn bộ cái não trạng của các nhà lãnh đạo của cả hai nước. Họ nghĩ rằng việc đó là họ làm tốt cho dân tộc mình nhưng thật sự nó lại là làm tay sai cho những người ở đâu đâu, chẳng dính dáng gì đến dân tộc Cuba hoặc dân tộc Việt Nam.”

Theo một vài tài liệu cho thấy vào thập niên 1960, Cuba là nơi cung cấp vũ khí, cố vấn quân sự , cung cấp y tế, giáo dục cho các nhóm quân nổi dậy ở Venezuela. Đặc biệt Cuba là quốc gia ủng hộ triệt để chế độ miền Bắc trong cuộc chiến tranh chống Mỹ nhằm “thống nhất đất nước”:

“Những người Cuba đã giúp Việt Nam rất nhiều, từ chuyện cử người sang đây, bác sĩ, kỹ sư xây dựng, xây khách sạn Thắng Lợi, xây đoạn đường đến Sơn Tây, đẹp nhất bắc Việt Nam thời đó.”

Theo những ghi nhận lại từ báo chí trong và ngoài nước, ông Fidel Castro đã ba lần đến Việt Nam trong thời gian diễn ra cuộc đấu tranh chống Mỹ, đi đến Quảng Trị, và tuyên bố những điều rất được lòng dân.

Việt Nam rất ủng hộ Cuba trong những chính sách chống Mỹ:

“Hai nước đều theo một tư tưởng như thế, thống nhất một đường lối như thế nên họ là những người bạn rất keo sơn với nhau.”

Kinh tế

000_Mvd6289515.jpg
Ảnh minh họa chụp tại Havana, Cuba hôm 23/04/2012. AFP PHOTO

Theo nhà báo Nguyễn Hữu Nghĩa từ Canada từ khi Cuba trở thành một nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa năm 1961, chính phủ Hoa Kỳ đã đưa ra nhiều biện pháp mang tính chính sách tạo ra các hiệu ứng mạnh cả về chính trị và kinh tế với hòn đảo này; chúng được nghiên cứu kỹ để thực hiện mục đích lật đổ giới lãnh đạo và khuyến khích Cuba tiến hành thay đổi chính trị theo hướng đa đảng.

Với Việt Nam, Hoa Kỳ cũng từng áp dụng chế độ cấm vận từ năm 1975 đến 1994. Tiến sĩ Nguyễn Quang A cho rằng đây là một biện pháp bên ngoài và rất quan trọng. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh biện pháp này chỉ phát huy tác dụng nếu chế độ bị cấm vận không còn phương sách nào, không còn nguồn nào khác để dựa vào, mà điều này thì không xảy ra với Việt Nam và cả Cuba trong thời gian bị Hoa Kỳ cấm vận:

“Mỹ cấm vận Cuba hay cấm vận Việt Nam nhưng lúc đó các nước này lại dựa vào ông Nga, ông Tàu, thì biện pháp cấn vận như thế chưa chắc mang lại hiệu quả.”

Cũng theo Tiến sĩ Nguyễn Quang A, mỗi nước có hoàn cảnh lịch sử văn hoá khác nhau và nó tuỳ thuộc cái tư duy của người lãnh đạo cao nhất mà nó có thể dẫn mỗi xã hội đi theo 1 con đường khác nhau. Chính vì điều đó, con đường phát triển kinh tế của Việt Nam trong 30 năm qua và con đường phát triển kinh tế của Việt Nam trong thời gian đó là hoàn toàn khác nhau:

“Đảng cộng sản Việt Nam sau khi bị mất nguồn tài trợ từ Liên Xô thì đời sống nhân dân rất khó khăn. Người dân phải tự xoay sở cuộc sống của mình. toàn bộ cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam nó xuất phát từ người nông dân, người thợ, người dân bình thường không thể sống được nữa thì phải tìm cách lách. Đỡ hơn của Việt Nam là những vị lãnh đạo của việt Nam lúc đó họ bị dồn vào chân tường, đành phải chấp nhận sự phá rào của người dân.”

Và khi đó, quyền làm kinh tế, quyền kinh doanh, là quyền rất cơ bản của con người được trả lại cho người dân.

Quyền con người

Nội dung tờ AFP đăng tải vào ngày Fidel Castro qua đời có đề cập đến một số đông người dân Cuba nghĩ về Fidel Castro như một người hùng đã mang đến cho quốc gia Cuba một nền cải cách giáo dục và một hệ thống y tế miễn phí:

“Ông ấy là người cha của người dân Cuba. Cha của tôi đã không cho tôi được những gì mà ông ấy (Castro) đã cho, đó là tự do, là nhân phẩm. ” Lời của 1 công dân Cuba, Lourders Rivera trả lời phỏng vấn của AFP.”

Dòng người tỵ nạn

Là điều kiện bên ngoài, là sự đàn áp, sự bức chế của nhà cầm quyền cùng lên 1 mức cao độ khiến cho người dân bất chấp mọi nguy hiểm vẫn phải ra đi bằng đôi chân của mình.
-TS Nguyễn Quang A

Năm 1954 tại Việt Nam đã có 900 ngàn người di cư từ Bắc vào Nam để tránh cộng sản. Tháng 4 năm 1975, có khoảng hơn một trăm ngàn người Việt di tản sang Mỹ. Từ 1976 tới 1995 có khoảng 800 ngàn người Việt vượt biển bằng đường thủy và đường bộ, tới nơi an toàn; khoảng 500 ngàn người khác chết và mất tích trên đường tị nạn.

Trong khi đó, tại Cuba năm 1980, khoảng 7000 người tràn vào sứ quan Peru xin tịn nạn chính trị, sau đó phầh lớn được định cư tại Costa Rica. Tháng 4 năm 1980, Fidel cho phép dân chúng tự do ra đi trong một tháng, và 125 ngàn người Cuba đã sang Mỹ từ hải cảng Mariel.

Cuộc di tản từ quá khứ đến hiện tại ở hai quốc gia được Tiến sĩ Nguyễn Quang A nhìn nhận là có một điểm tương đồng, đó là:

“Là điều kiện bên ngoài, là sự đàn áp, sự bức chế của nhà cầm quyền cùng lên 1 mức cao độ khiến cho người dân bất chấp mọi nguy hiểm vẫn phải ra đi bằng đôi chân của mình.”

Việt Nam và Cuba hơn 50 năm vẫn vững vàng một mối quan hệ sâu sắc. Nếu xét về quan hệ ngoại giao, thì hoàn toàn đúng như lời báo chí trong nước nói rằng “một mối quan hệ thân thiết kỳ lạ.” Tuy nhiên, trong những điểm tương đồng, giống hoặc khác nhau như đã nêu, và qua những phản ứng của người dân thể hiện trên mạng xã hội, Tiến sĩ Nguyễn Quang A đặt câu hỏi rằng “nếu lùi sâu về lịch sử, phải chăng nên đánh giá lại những chế độ ấy cũng như những lãnh tụ của họ?”

VIẾT CHO NHỮNG BẠN CỪU.

From Facebook Hằng Lê
VIẾT CHO NHỮNG BẠN CỪU.

Những bạn Cừu thân mến! các bạn là những người luôn luôn tự hào về Đất Nước và con Người VN. Chính vì vậy, hôm nay tôi viết (à không, tôi trích dẫn những bài báo của Đảng) nói về sự kiện đã xảy ra trên khắp Đất Nước này và những con Cừu như chúng ta bị đảng “vặt lông” như thế nào, để các bạn biết mà tự hào thêm nhé.
Hiện tại, mỗi người dân chúng ta đang chịu 432 loại thuế, phí các kiểu. (nhiều nhất so với Thế Giới)

http://thanhnien.vn/…/432-loai-phi-de-doanh-nghiep-nguoi-da…

Các bạn đừng nghĩ rằng “tôi có nộp thuế bao giờ đâu”. Không! Nhà nước họ đã tính thuế vào hết các sản phẩm mà bạn tiêu dùng. Thay vì 1 chiếc ô tô ta nhập về có giá 100 triệu, nhưng bạn phải mua với giá 300 triệu vì nhà nước đã đã lấy thêm 200 triệu tiền thuế phí của bạn. Để chứng minh điều này, hiện nay ta đổ 1 lít xăng với giá là 17 ngàn thì ta đã đóng các loại thuế phí hết 8.800đ (hơn 1 nửa). Thực chất mỗi lít xăng chỉ có giá 8.200đ mà thôi.

http://motthegioi.vn/…/moi-lit-xang-nguoi-dan-phai-cong-880…

Các bạn Cừu thân mến! Chúng ta nộp thuế là để xây dựng và phát triển Đất Nước. Nếu 1 Đất Nước phát triển thật sự thì:
– Người nghèo giảm dần
– Học phí giảm dần
– Viện phí giảm dần
– Các khoản đóng góp của người dân giảm dần. v.v…..
Đất Nước chúng ta rõ ràng là đang đi thụt lùi, vì các khoản kia nó không giảm mà lại càng tăng. Vậy số tiền thuế chúng ta đóng hằng ngày, nó đi đâu?
Ngoài việc vô trách nhiệm gây thất thoát, thua lỗ hàng trăm ngàn tỷ đồng ngân sách. Các đảng viên CS cao cấp còn lấy tiền thuế mồ hôi nước mắt của chúng ta chơi ngông mua nhà cho bồ nhí (Dương Chí Dũng bỏ ra hơn chục tỷ mua 2 căn hộ cao cấp cho bồ). Trịnh Xuân Thanh chỉ đạo công ty PVC trích 500 triệu ra mua quà sinh nhật cho cha mình. Huyền Như bỏ ra 43 tỷ mua nhà cho Mẹ. v.v….
Các đảng viên cấp cao, họ là người chuyên lên giọng rao giảng đạo đức, họ bắt chúng ta phải học tập và làm theo tấm gương đạo đức của ông Hồ. Nhưng chính bọn họ thay nhau ăn cướp tiền thuế mồ hôi pha lẫn nước mắt của chúng ta. Từ Phạm Thanh Bình, Dương Chí Dũng, Phạm Công Danh, Vũ Đình Duy, Trịnh Xuân Thanh V.v…..Có ông nào không là đảng viên cấp cao? Có ông nào ăn ít hơn 1000 tỷ?
Chúng nó thay nhau đục khoét đến khi ngân khố trống rổng rồi lại hè nhau tăng thuế phí để bù vào. Tháng này, viện phí lại tăng từ 2 đến 7 lần. (có nghĩa là trước kia ta mua 1 viên thuốc 10k, thì hôm nay ta phải trả từ 20k đến 70k)

http://tuoitre.vn/…/vien-phi-dich-vu-benh-vien-…/991510.html

Vậy đấy! Bọn chúng thay nhau (hết đời cha, tiếp đời con) ra sức vặt lông các bạn, còn các bạn thì ra sức tự hào!

TỰ HÀO NHỈ!

P/s: Các bạn đừng nhìn bên ngoài như: Đường rộng hơn ngày xưa, Cầu nhiều hơn, Trường học- Bệnh viện khang trang hơn…. mà khẳng định Đất Nước ta phát triển nghe. Xin thưa! Các bạn hãy xem “Rừng vàng, Biển bạc” của ta còn không? Tài nguyên Quốc Gia còn không? Đất rừng, đất Thành Phố ta đã bán cho TQ bao nhiêu? Nợ công hiện nay ta gánh bao nhiêu….. Đấy! Hãy nhìn vào đấy mà so sánh.

(Ngo Truong An)

Image may contain: food

Tác giả “Chết bởi Trung Quốc” sẽ cố vấn kinh tế cho Tổng thống Trump?

Tác giả “Chết bởi Trung Quốc” sẽ cố vấn kinh tế cho Tổng thống Trump?

Mặc Lâm, biên tập viên RFA

Tổng thống Tân cử của Hoa Kỳ là ông Donald Trump tại New York hôm 22/11/2016.

Tổng thống Tân cử của Hoa Kỳ là ông Donald Trump tại New York hôm 22/11/2016.

AFP

Một trong những vị cố vấn kinh tế cho Tổng thống đắc cử Donald Trump là giáo sư Peter Navarro, ông cũng là tác giả cuốn sách Death by China (Chết bởi Trung Quốc) mà chính ông Trump từng nói là rất thích. Liệu nếu được tiếp tục chọn trong vai trò cố vấn kinh tế GS Navarro có thể giúp gì cho Tổng thống đắc cử Trump trong chính sách với Trung Quốc? Mặc Lâm phỏng vấn TS kinh tế Trần Diệu Chân người dịch tác phẩm Chết bởi Trung Quốc của GS Navarro và có cơ hội làm việc rất gần gũi với ông để biết thêm về một góc quan điểm nào đó của vị GS khá được người Việt yêu mến này.

Chính sách với Trung Quốc sẽ như thế nào?

Mặc Lâm: Thưa TS, nếu GS Peter Navarro được TT đắc cử Donald Trump chọn vào Ủy ban tư vấn kinh tế cho Nhà trắng thì chính sách đối với Trung Quốc sẽ khác với chính phủ của TT Obama hay không và khác ở điểm nào?

Chính sách mậu dịch của ông Trump đối với Trung Quốc chắc chắn là không thân thiện và cởi mở bằng chính sách hiện nay của TT Obama, thí dụ quan thuế đánh trên các mặt hàng nhập cảng từ Trung Quốc sẽ cao hơn.
-TS Trần Diệu Chân

TS Trần Diệu Chân: Trước hết, xin cám ơn anh và đài đã cho tôi cơ hội chia sẻ về GS Peter Navarro, tác giả cuốn sách “Death by China” mà tôi đã dịch ra tiếng Việt năm 2012 với sự cho phép của tác giả. Không ngờ, ông lại trở thành cố vấn kinh tế cho ứng viên tổng thống – và bây giờ là Tổng Thống Đắc Cử Donald Trump. GS Navarro, ông Lawrence Kudlow và Stephen Moore là ba nhà cố vấn kinh tế có ảnh hưởng nhất trong một ủy ban 14 người, mà theo các nhà bình luận thì GS Navarro, người duy nhất có bằng tiến sĩ kinh tế, có vẻ được ông Trump lắng nghe nhất về quan điểm bảo hộ mậu dịch và chống Trung Cộng gay gắt của ông. Do đó, có xác suất cao là GS Navarro sẽ trở thành cố vấn tối cao về kinh tế trong nội các của TT Đắc Cử Donald Trump.

Những điều mà tôi biết về GS Navarro qua quyển sách “Chết bởi Trung Quốc”, thì đúng là ông đã có ảnh hưởng lớn, nếu không nói là chính và toàn bộ lên ông Trump khi lên án  Trung Quốc nặng nề vì đã cướp đi công ăn việc làm của người Mỹ và thao túng tiền tệ. Điều thú vị mà tôi được biết là chính ông Trump cũng tiết lộ ông rất thích quyển Death by China.

Chính sách mậu dịch của ông Trump đối với Trung Quốc chắc chắn là không thân thiện và cởi mở bằng chính sách hiện nay của TT Obama, thí dụ quan thuế đánh trên các mặt hàng nhập cảng từ Trung Quốc sẽ cao hơn, đặc biệt thuế chống phá giá trên một số các mặt hàng.

Tuy nhiên, có hai điểm về vị TT Đắc Cử của Hoa Kỳ mà chúng ta cần ghi nhớ, đó là trong lúc ông tranh cử thì có rất nhiều tuyên bố mạnh mẽ, tới độ gay gắt, cực đoan, nhưng sau khi đắc cử thì đã bắt đầu dịu giọng trong nhiều vấn đề, có những chính sách mà ông tuyên bố hùng hồn trước khi đắc cử, nay đã xoay ngược180 độ. Thực tế ra sao, phải đợi một thời gian mới rõ. Nhưng một điều chắc chắn là một thương gia thành công và nổi tiếng là thích thương lượng, thì ông Trump chắc sẽ không ngần ngại ký kết những thỏa ước có lợi cho Hoa Kỳ bất kể những tuyên bố chống đối nẩy lửa thời tranh cử.

Mặc Lâm: Với cái nhìn của bà thì kinh nghiệm về Trung Quốc của GS Navarro sẽ ảnh hưởng tới vấn đề gì mà nước Mỹ quan tâm nhất trong chính sách đối với Trung Quốc?

TS Trần Diệu Chân: GS Navarro và ông Trump cho rằng: Toàn cầu hóa và mậu dịch là căn nguyên của những khó khăn kinh tế tại Hoa Kỳ, khiến người dân mất công ăn việc làm khi sản xuất bị đưa ra ngoại quốc – outsourcing tới những quốc gia có giá nhân công rẻ như Trung Quốc, Mễ Tây Cơ và các quốc gia Á Châu như Việt Nam, Philippines, Cam Bốt … Đặc biệt Trung Quốc vừa là trung tâm thu hút công ăn việc làm của người Mỹ, vừa là một đối tác mậu dịch xấu, không tôn trọng luật chơi công bằng, thao túng tiền tệ và đưa đến tình trạng thâm thủng mậu dịch nặng nề cho Hoa Kỳ.

000_HX8SF.jpg
Tổng thống đắc cử Donald Trump phát biểu mừng chiến thắng rạng sáng ngày 9/11/2016 tại New York. AFP

Với cái nhìn này, ông Trump đã chủ trương chính sách bảo hộ mậu dịch nhằm giữ chặt công việc ở lại Hoa Kỳ qua phương thức áp đặt thuế xuất nhập khẩu
cao đối với các mặt hàng sản xuất ở hải ngoại rồi nhập lại vào bán tại Hoa Kỳ. Ông Trump cũng dọa áp dụng mức thuế quan 45% – cao gấp 10 lần mức hiện tại – đối với hàng nhập khẩu Trung Quốc.

Hoa Kỳ hiện là đối tác thương mại lớn thứ hai của nước này. Do đó, lời đe dọa của ông Trump đã tạo ra sự quan ngại to lớn cho đối tác Trung Quốc, nhất là trong giai đoạn họ đang phải đương đầu với thời kỳ khó khăn kinh tế. Thêm vào đó, chính sách bảo hộ mậu dịch của ông Trump cũng tạo ra sự quan ngại cho toàn vùng Á Châu lẫn Âu Châu về những ảnh hưởng kinh tế và chính trị dây chuyền trên thế giới.

Tuy nhiên, điều mà nước Mỹ quan tâm nhất đối với Trung Quốc trong chính sách kinh tế là đem lại công ăn việc làm cho những thành phần cử tri ủng hộ cho ông Trump đang bị thiệt thòi về kinh tế trong những vùng Rust Belt như Illinois, Indiana, Michigan, Ohio, Pennsylvania thì theo tôi, chưa hẳn là do những chính sách kinh tế đối với Trung Quốc, mà có khi lại đạt được nhờ tình hình kinh tế đang phát triển hiện nay, do TT Obama để lại và TT Trump được thừa hưởng. Tương tự như thời kỳ chuyển tiếp từ TT Bush cha sang TT Clinton, miễn là phải tạo được sự ổn định trong xã hội, trong guồng máy kinh tế và niềm tin của người dân.

Hiểm họa “con rồng đỏ tim đen Trung Cộng”

Mặc Lâm: Trong lúc chuyển ngữ cuốn “Chết bởi Trung Quốc” bà có thời gian tiếp xúc và bàn bạc với GS Navarro rất nhiều, theo bà thì ông ấy quan tâm tới vấn đề nào nhất trong tất cả các nguy cơ mà GS đã chỉ ra trong cuốn sách này?

TS Trần Diệu Chân: Trong những dịp đàm đạo với GS Navarro và tham gia những buổi chiếu phim-hội thảo về cuốn sách cùng ông với Tiến Sĩ Greg Audry, đồng tác giả cuốn “Chết bởi Trung Quốc,” tôi thấy hai vị tác giả này đều là những người lý tưởng, có lòng, quan tâm đến đời sống khốn cùng của người dân Trung Hoa dưới ách thống trị hà khắc của tập đoàn đảng trị cộng sản Trung Quốc. Hai học giả tuy là giáo sư kinh tế, nhưng tôi tìm thấy ở họ một điểm chung lớn đó là trái tim của một nhà hoạt động, quan tâm đến nhân loại, nhân quyền, công lý, an toàn thực phẩm, bảo trì trái đất và chống lại những thế lực đen tham lam với dã tâm bành trướng như Trung Cộng. Quan tâm về công ăn việc làm của người Mỹ chỉ là thứ yếu trong toàn bộ những quan tâm của tác giả.

Hai ông đã cho chúng ta thấy rõ được sự đe dọa tiềm tàng của một con quái vật đang trổi dậy thực hiện mộng bá chủ, sẵn sàng xâm lăng thế giới bằng đủ mọi hình thức, từ kinh tế, chính trị, tới gián điệp, quân sự, giáo dục, tôn giáo…
-TS Trần Diệu Chân

Hai ông đã viết quyển sách Death by China để báo động cho chúng ta về hiểm họa “con rồng đỏ tim đen Trung Cộng.” Với tài mô tả linh động và dữ kiện thuyết phục, hai ông đã cho chúng ta thấy rõ được sự đe dọa tiềm tàng của một con quái vật đang trổi dậy thực hiện mộng bá chủ, sẵn sàng xâm lăng thế giới bằng đủ mọi hình thức, từ kinh tế, chính trị, tới gián điệp, quân sự, giáo dục, tôn giáo v…v… Và tôi rất biết ơn hai ông, vì nhờ đọc quyển sách Chết bởi Trung Quốc mà tôi nhận ra chân tướng nguy hiểm của chế độ này, và đã tình nguyện dịch quyển sách ra cho đồng bào chúng ta cùng rõ.

Mặc Lâm: Cá nhân của GS Navarro có quan tâm đến Việt Nam hay không và theo bà ông ấy sẽ cố vấn thế nào về vấn đề nhân quyền với chính phủ Trump đi kèm với những thỏa thuận kinh tế mà ông Trump có khuynh hướng co cụm lại thay vì mở ra với thế giới qua chính sách bảo hộ mậu dịch?

TS Trần Diệu Chân: Tuy GS Navarro không nói đến Việt Nam trong cuốn Death by China, nhưng tôi tin là ông rất quan tâm đến đất nước chúng ta, vì ông rất hiểu các chế độ cộng sản, và vì thế mà ông đã vui vẻ cho phép tôi dịch quyển sách của ông để loan tải không hề tính bản quyền, và đã mời tôi cùng sinh hoạt trong những buổi chiếu phim.

Tôi cũng chưa có dịp liên lạc lại với GS Navarro để chúc mừng ông trong vị trí cố vấn kinh tế cho ứng viên TT Donald Trump. Tuy nhiên, nếu có dịp sau này, tôi sẽ chia sẻ hai quan tâm của tôi về chính sách bảo hộ mậu dịch của TT Đắc cử Donald Trump, đặc biệt có liên quan đến tình hình Việt Nam của  chúng ta.

Thứ hai, chính vì những quan tâm về nhân quyền và công lý, Hoa Kỳ cần phải tham gia hơn nữa vào các hoạt động chung của thế giới, không thể tạo ra khoảng trống chính trị và kinh tế trong khu vực Á Châu để Trung Quốc tự do tung hoành.

Khi Hoa Kỳ rút ra khỏi TPP, thu mình lại, giảm can thiệp là cơ hội cho những thế lực đen như Trung Quốc và Nga vùng dậy.

Mặc Lâm: Xin cám ơn Tiến sĩ.