Bộ ba những nhà lãnh đạo khai tử Liên Xô

Bộ ba những nhà lãnh đạo khai tử Liên Xô

BBC

Cựu lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachev. Ảnh: AFP

Cựu lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachev. Ảnh: AFP

Khi Mikhail Gorbachev từ chức gần 25 năm trước khiến Liên Xô bất ngờ tan rã, ông hầu như không còn lựa chọn nào khác, khi mà trước đó 17 ngày, lãnh đạo ba nước Nga, Ukraine và Belarus đã ký một hiệp ước hủy bỏ Liên bang Xô viết – cũng là một quyết định mang tính nhất thời không được tính toán kỹ càng.

Cho đến thời điểm tháng 12/1991, Bức tường Berlin và khối các nước cộng sản Đông Âu đã không còn nữa, nhưng Liên bang Xô viết vẫn tồn tại, được lãnh đạo bởi Đảng Cộng sản với Mikhail Gorbachev là người đứng đầu.

Tuy nhiên, thế lực của ông đã suy yếu đi nhiều sau cuộc đảo chính vào tháng Tám 1991, và vấn đề nghiêm trọng nhất là các phong trào đòi độc lập của các nước cộng hòa khối Xô viết nổi lên vào thời gian cuối năm.

Liên Xô có thể tồn tại mà không có các nước thành viên vùng Baltic như Estonia, Latvia và Lithuania, nhưng lại không thể nếu không có Nga và Ukraine.

Tổng thống vừa đắc cử của Ukraine khi đó, Leonid Kravchuk, muốn tách khỏi Moscow, còn Tổng thống Nga, Boris Yeltsin, thì muốn giành thêm quyền lực từ tay Gorbachev.

Vì thế, họ đồng ý gặp mặt vào ngày 08/12 cùng với Tổng thống Belarus, Stanislav Shushkevich. Hiển nhiên có thể dự đoán kết quả cuộc họp chỉ là điều bất lợi cho Gorbachev.

Cuộc họp không hẹn trước

Và gần như là các lãnh đạo đã không có sự thỏa thuận trước khi đưa ra quyết định khiến Liên Xô tan rã.

Shushkevich khẳng định cuộc họp chỉ bàn bạc về việc Nga sẽ cung cấp dầu hỏa và khí đốt cho Belarus trong mùa đông.

“Nền kinh tế đang bị khủng hoảng, chúng tôi không thể cho trả cho nhà cung cấp mà lại không có ai cho chúng tôi vay tiền, vì thế, chúng tôi cầu cứu nước Nga giúp đỡ, để khỏi chết cóng vào mùa đông. Đó cũng là mục đích của cuộc họp mặt,” ông nói.

“Chúng tôi mời cả Ukraine, vì muốn mọi chuyện được minh bạch và không muốn thỏa thuận gì với Moscow sau lưng Ukraine.”

Nhưng thật khó chịu là những cuộc điện đàm của chúng tôi thường xuyên bị ngắt quãng. Shushkevich giải thích rằng cho đến tận bây giờ, sau 25 năm, chủ đề về việc tách khỏi Liên Xô vẫn bị cấm ở Belarus.

Và chuyện đường dây điện thoại bị ngắt quãng, ông nói, là do mật vụ Belarus gây ra.

h1Người dân kêu gọi Gorbachev từ chức sau sự kiện ở Lithuania. Ảnh: AFP

Nhưng Leonid Kravchuk lại có một ký ức khác về cuộc họp năm đó.

“Khi Shushkevich nói về dầu và khí đốt, tôi không hiểu gì cả!” cựu lãnh đạo Ukraine nói.

“Tôi không được thông báo gì trước về dầu lửa và khí đốt. Tôi nghĩ tôi đến đây là để thảo luận về Liên Xô. Đất nước đang bị xâu xé vì những mâu thuẫn, người dân mệt mỏi vì khủng hoảng, xung đột, chiến tranh và phải xếp hàng quá dài. Chúng tôi tập trung về Belarus để thảo luận hướng đi cho đất nước, và có thể ký kết một thỉnh nguyện thư, hoặc một bản tuyên bố để kêu gọi sự chú ý đến cuộc khủng hoảng mà chúng tôi đang phải đương đầu.”

Nhưng dù cuộc gặp có nghị trình về vấn đề gì đi chăng nữa giữa ba lãnh đạo,mà không thông báo trước với Gorbachev thì sẽ rủi ro, Tổng thống Nga Boris Yeltsin bổ sung thêm.

“Hiển nhiên KGB có thể bắt giữ chúng tôi, theo lệnh của Gorbachev, vì KGB thuộc quyền lãnh đạo của Gorbachev, không phải Yeltsin,” Shuchkevich nói.

“Nhưng lãnh đạo của cơ quan mật vụ Belarus, Eduard Shirkovsky, vẫn giữ liên lạc với cơ quan mật vụ của Boris Yeltsin. Cho đến thời điểm hai tuần trước cuộc họp, ông ta khẳng định với tôi là không có nguy cơ xảy ra chuyện bắt bớ chúng tôi.”

“Thật thú vị là sau đó, khi Shirkovsky về hưu và sinh sống tại Nga, ông ta nói ngược lại hoàn toàn. Ông ta nói hối hận đã không bắt giữ chúng tôi vào năm 1991! Vì vậy, thật khó để có thể xác định chuyện gì thực sự đã xảy ra.”

Đến cuối năm 1991, những lãnh đạo này của khu vực đều nhận thấy Mikhail Gorbachev không còn thích hợp.

“Tất nhiên ông ta vẫn là người đứng đầu, nhưng đã không còn quyền lực thực sự!” Krachuk nói.

“Sau cuộc đảo chính vào tháng Tám 1991 chống lại ông ta, ông ta đã mất hết quyền lực. Ông ấy có trở lại sau đó, nhưng trên thực tế không còn tí quyền lực nào. Chúng tôi nhận thấy quyền lực đã được chuyển sang lãnh đạo các nước cộng hòa. Mặc dù Gorbachev muốn tổ chức lại quốc gia theo kiểu một liên bang mới, ông ta đã không thể thực hiện được.”

Vì thế, vào ngày 07/12/1991, lãnh đạo nước Nga Boris Yeltsin, lãnh đạo Ukraine Leonid Kravchuk và lãnh đạo Belarus Stanislav Shushkevich đã nhóm họp ở một khu nhà chuyên dành cho những quan chức cao cấp của đảng Cộng sản, tại Belavezha, gần biên giới Ba Lan.

“Đây là một khu nhà rất sang trọng, được thiết kế cho những lãnh đạo cao cấp của Liên Xô,” Shushkevich nói.

“Như thường lệ, trong lịch trình có tắm hơi. Thường sau khi tắm hơi xong, sẽ có tiệc tùng uống rượu. Nhưng lần này khác, thay vì uống rượu, chúng tôi chọn dịch vụ đấm bóp. Cuộc họp được thực hiện đúng truyền thống của Liên Xô, có nhiều thức ăn, nhiều dịch vụ thư giãn và sau đó là đi săn.”

Shushkevich và Kravchuk vào cuối năm 1991. Ảnh: AFP

Ngày hôm sau, 08/12/1991, vào lúc 9 giờ sáng, lãnh đạo các nước cùng các thủ tướng và quan chức cao cấp nhóm họp để cùng thương thảo, dù vẫn chưa rõ sẽ thảo luận về chủ đề gì.

Người đầu tiên khơi mào là cố vấn của Nga, Gennadi Burbulis, với tuyên bố rất cực đoan.

“Tôi cho đến chết sẽ không thể quên được câu nói của ông ta,” Shushkevich nói.

“Đó cũng là khởi đầu của thỏa thuận của chúng tôi, là thỏa thuận duy nhất mà không hề có tranh cãi. ‘Liên Xô, một thực thể địa chính trị, cũng như một chủ thể của luật pháp quốc tế, sẽ không còn tồn tại.’ Và tôi là người đầu tiên tuyên bố sẽ đặt bút ký.”

Thỏa thuận cũng đồng thời tuyên bố lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachev không còn quyền lực, thay vào đó tăng thêm quyền hạn của Moscow cho Tổng thống Nga Boris Yeltsin.

Nhưng để chấm dứt sự tồn tại của đế chế Nga và hậu thân của nó là Liên bang Xô viết, vốn đã kéo dài hàng thế kỷ, là một bước đi to lớn.

h1Tòa nhà Belovezhskaya Pushcha, nơi thỏa thuận được ký kết. Ảnh: ALAMY

Nhiều năm sau đó, rất nhiều người đã đặt câu hỏi liệu ba lãnh đạo có tỉnh táo khi đưa ra quyết định lớn như vậy?

“Theo lời đồn đại, chúng tôi đã soạn thảo thỏa thuận trong trạng thái say rượu,” Shushkevich nói. “Điều này hoàn toàn sai! Tất nhiên, đó là một cuộc họp được sắp đặt theo phong cách Liên Xô, và đồ uống cồn thì rất sẵn, nhưng chẳng ai động đến cả. Tối đa, chúng tôi chỉ làm một ngụm brandy, mỗi khi thông qua một điều khoản.”

Trong vòng vài tiếng đồng hồ, chúng tôi đã thông qua 14 điều khoản. Đến 3 giờ chiều, bản thỏa thuận đồng ý hủy bỏ Liên Xô đã sẵn sàng. Bước tiếp theo là công bố với thế giới và lãnh đạo Belarus nhận trách nhiệm này.

“Yeltsin và Kravchuk đùa với tôi: ‘Chúng ta đề cử anh là người thông báo cho Gorbachev.’ Và sau đó tôi nói: ‘Kravchuk và tôi đề cử anh, Boris Yeltsin, là người sẽ gọi điện cho bạn anh là Tổng thống Hoa Kỳ Goerge Bush.’”

“Tôi quay số của văn phòng Gorbachev ở Moscow, nhưng đường dây được chuyển sang nhiều tổng đài và tôi phải giải thích tôi là ai. Trong khi đó, Yeltsin trong lúc chứng kiến việc tôi gọi cho Moscow đã gọi điện cho Tổng thống Bush. Ngoại trưởng [Nga] [Andrei] Kozyrev, ở đầu dây bên kia để dịch lại lời của Tổng thống Bush.”

Lãnh đạo Ukraine Leonid Kravchuk là người ngồi nghe.

“Tôi nhớ khá rõ, ông Bush đưa ra hai câu hỏi. Đầu tiên là có phải quốc gia kế vị sẽ là nước chịu trách nhiệm cho toàn bộ Liên Xô? Và câu sau là điều gì sẽ xảy ra với vũ khí hạt nhân của Liên Xô?” Kravchuk nói.

“Chúng tôi không thể thì ông Yeltsin nói, ‘Đúng, chúng tôi sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm.’”

Tới lúc đó thì lãnh đạo Belarus Shushkevich cũng gặp được Gorbachev, và một lần nữa, lãnh đạo Ukraine là người cùng nghe.

“Đó là cuộc đàm thoại rất khó khăn,” Kravchuk nói. “Gorbachev giận dữ với Shushkevich, nói, ‘Các anh đã làm gì vậy? Các anh đã đảo lộn cả thế giới! Mọi người đều đang hoang mang!’ Nhưng Shushkevich vẫn giữ sự trầm tĩnh.”

Cho đến hôm nay, nhà lãnh đạo điềm đạm của Belalrus vẫn tự hào về cách xử lý cuộc nói chuyện quan trọng với Moscow.

“Tôi giải thích với Gorbachev về bản thỏa thuận mà chúng tôi sẽ ký. Ông ta phản ứng với thái độ kẻ cả, ‘Thế còn cộng đồng quốc tế thì sao? Các anh có nghĩ đến sự phản ứng của họ không? Và tôi trả lời, ‘Thật sự thì Boris Yeltsin đang nói chuyện với Tổng thống Bush lúc này, và ông Bush không có gì là quan ngại! Trên thực tế, ông ta còn ủng hộ!”

Quyết định mang tính lịch sử

Trong những giờ tiếp theo, ba lãnh đạo đã ký văn bản mang tính lịch sử tại một cuộc họp báo. Sau khi họp báo, là đến thời điểm phải ra về. Và đó là lúc Stanislav Shushkevich cảm thấy lo sợ.

“Trên đường về, tôi nghe radio ở trong xe, để xem thế giới đang phản ứng thế nào. Điều đầu tiên tôi ghi nhận, hai cái tên Yeltsin và Kravchuk được nhắc đến nhiều nhất, nhưng khi nhắc đến tên tôi, họ đã không phát âm đúng. ‘Chuchkevich, Sheshkevich, Sharkevich,’ và tương tự như vậy.”

“Và trên bất cứ kênh nào tôi dò được, tôi đều nghe nhắc đi nhắc lại Kravchuk, Yeltsin và sh…vich… ch…vich… và còn rất nhiều cách gọi khác về tên tôi. Khi đó tôi nhận ra, chúng tôi đang là tin nóng. Cho đến lúc đó, tôi quá bận và không có thời gian để nghĩ.”

“Nhưng tại thời điểm này, tôi bắt đầu sợ. Tôi nghĩ: ‘82% đại biểu quốc hội là đảng viên Cộng sản. Nếu họ không đồng thuận thì tôi đã phạm sai lầm, và sự nghiệp chính trị của tôi xem như chấm dứ

Nhưng quốc hội của cả ba nước đều đồng thuận, và các nước cộng hòa khác trong Liên bang Xô viết cũng tham gia trong vài tuần tiếp theo.

Vào ngày 25/12, Chủ tịch Gorbachev từ chức và Liên Xô cũng không còn tồn tại!”

NOEL! NGÀY LỄ HÒA BÌNH

NOEL!  NGÀY LỄ HÒA BÌNH

Ở thế chiến thứ hai, trên một mặt trận giữa hai nước Pháp và Đức, quân của hai bên giành nhau từng chiến hào; gây cấn đến độ vô phúc cho người nào sơ ý ló đầu ra khỏi chỗ núp là nát đầu ngay.  Đó là tình hình vào những ngày 21, 22, 23 tháng12, 1943.  Các sĩ quan hữu trách của cả hai bên đều đề phòng cấm ngặt binh sĩ của họ không được lơ là bỏ vị trí chiến đấu kể cả ngày Noel.  Đến chiều 24 tháng 12, vẫn là bầu khí ngột ngạt của tử thần.  Không có hưu chiến.  Đó là lệnh cấp trên truyền xuống.

noel

Đêm về, trong bầu khí yên lặng căng thẳng đó, bỗng một tiếng hát vọng lên từ một thông hào: “Đêm thanh bình, đêm ơn lành!” (Silent Night), rồi nhiều tiếng hát vọng theo, rồi người ta nghe cả hai phía Pháp Đức đều vang dậy tiếng hát Giáng Sinh; không ai bảo ai, bất chấp quân lệnh, binh sĩ của cả hai bên đều bật dậy, bỏ vị trí chạy lại bên nhau, ôm nhau cười nói, chúc lễ Giáng Sinh cho nhau.  Họ trao cho nhau đồ dùng, cùng ăn uống với nhau như thể là những người bạn thân lâu ngày hội ngộ.  Trước cảnh đó, các vị chỉ huy đều đồng ý hưu chiến đến hết ngày hôm sau.

Ngày 25-12 năm 1943 là một ngày đáng ghi nhớ cho những người ở trận tuyến đó.  Hai bên Đức, Pháp cách đó mấy giờ là tử thù của nhau, bây giờ họ cùng chụp hình, trao kỷ niệm, chơi bóng, ăn chung với nhau như những người anh em rất yêu quí.  Noel, ngày lễ Hoà bình.

******************

Giáng Sinh là lễ của Hòa Bình.  Hàng năm, cứ vào lễ Giáng Sinh, dù chiến trận có sôi sục đến đâu, người ta cũng thường dàn xếp để hai bên có được thời gian mừng lễ.  Đó gọi là ngày hưu chiến.  Sở dĩ có hưu chiến trong ngày lễ Giáng Sinh vì Ngôi Hai đã xuống thế làm người để giao hòa giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và loài người.  Giao ước cứu chuộc sẽ được ký kết bằng máu của Ngôi Hai là Thiên Chúa và cũng là người thật.  Đó là niềm vui vô cùng lớn lao của cả loài người được ơn cứu độ.  Từ nay, tội tổ tông đã được tẩy xoá nhờ máu thánh của Con Thiên Chúa.  Con người không còn vương vấn tội nhơ thì an bình sẽ ngự trị trong tâm hồn: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm.”

******************

Lạy Chúa, tâm hồn bình an thì không còn hận thù, đố kỵ, ganh ghét, nhưng luôn tin yêu, hy vọng, vui sống. Xin ban cho con sự bình an của Chúa để con luôn là sứ giả của an bình.  Chúa đã hứa: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con.”  Xin cho cầu nguyện cảm nếm được sự ngọt ngào của an bình trong tâm hồn và như thế là đủ cho con rồi.  Vì có Chúa là đời con bình an.  Amen!

Thiên Phúc

Đêm hôm nay, lạnh lẽo Giáng Sinh nghèo

Video Tâm Sự Gửi Về Đâu. Tuấn Ngọc, Phạm Duy – SS: Trần Ngọc

httpv://www.youtube.com/watch?v=YsCnWFna6UU

Suy Tư Tin Mừng Tuần Giáng Sinh năm A 25/12/2016

Tin Mừng: (Lc 2: 1-4)

 Thời ấy, hoàng đế Augustô ra chiếu-chỉ, truyền kiểm-tra dân số trong khắp cả thiên hạ. Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyria. Ai nấy đều phải về nguyên quán mà khai tên tuổi.

 Bởi thế, ông Giuse từ thành Nazarét, miền Galilê lên thành vua Đavít tức là Bêlem, miền Giuđê, vì ông thuộc gia đình giòng tộc vua Đavít.

     *      *      *       * 

Đêm hôm nay, lạnh lẽo Giáng Sinh nghèo

Xin Thượng Đế cho tâm tư giải toả

Thời gian nào con được biết mơ say,

Con được biết tình yêu như biển cả,

Phương trời nào hạnh phúc ở tầm tay.

( Dẫn  nhập từ thơ Đào Tiến Luyện)

            “Tâm tư giải toả”- “hạnh phúc ở tầm tay”. Đó, chính là ý nghĩa của sự kiện Giáng sinh, rất hôm rày. Giáng sinh hôm nay, biểu tỏ tình yêu, như biển cả. Như mơ say, hạnh phúc Chúa gửi đến với dân nghèo khắp nơi nơi.

Trình thuật Giáng sinh, thánh Luca ghi rõ về một Đại lễ có ánh sáng, có niềm vui khi xưa, ơn giải thoát, rất đong đầy. Niềm vui khi xưa, dân thành La Mã đã mừng kính Lễ hội này như Ngày Hội Mặt Trời, khó chinh phục. Ngày hội Mặt Trời, không chinh phục nổi- bên tiếng La tinh gọi là solis invicti- tức Định Tinh nóng cháy khó lòng khuất phục. Lễ Hội Mặt Trời ở đây  là ngày lễ có Mùa Xuân chợt bừng sáng. Có niềm vui trỗi dậy, sau nhiều tháng ngủ vùi, giữa mùa Đông.

Các bài đọc Lễ Đêm hôm nay, nói đến Ánh sáng nơi Chúa Hài Đồng trong máng cỏ. Chúa Hài Đồng, là Nguồn Ánh Sáng cho thế giới gian trần. Ánh lực huy hoàng rực sáng từng bao bọc các nông dân, mục đồng. Có đạo binh thiên quốc đồng loạt cất tiếng ngợi khen :“Vinh danh Thiên Chúa nơi trời cao thẳm, bình an dưới thế cho kẻ được Người đoái thương!”. (Lc 2:14)

Đồng loạt với ánh sáng diệu kỳ , là niềm vui thiên thần. Niềm vui mục đồng và thần sứ, vây quanh Đấng Hài Nhi. Và niềm vui đây là niềm vui giải thoát Đức Giê –su mang đến với mọi người. là, niềm riêng Vua An Bình hạ giáng đến với đám dân nghèo, thân phận hẩm hiu.

Phúc Âm hôm nay, còn tô đậm sắc thái đặc thù qua lối sống của Đức Giê-su. Sắc thái đặc thù, là mục đích Ngài nắm tới. Đặc thù, nhưng không lao xao tình huống mà dân con ngoại Đaọ vẫn thêu dệt cho vua quan lãnh chúa. Đặc thù ngày Chúa đến, không nằm nơi xa hoa đèn đóm, rất phí phạm. Cũng chẳng thấy tiếng pháo nổ xum xuê, đầy lãng phí. Đặc thù ngày Chúa đến, mang màu sắc khác biệt nơi những ẩn náu trốn chạy biện pháp kiểm tra do vua quan, lúc đó. Đặc thù ngày Chúa đến, theo nhãn giới của người thời đại sẽ như thế nào?

Trả lời thắc mắc này, nhà thần học tu đức từng viết:

“Đến với đồ đệ hôm nay, chắc Chúa sẽ phải hoá trang ghê lắm mới mong đem tình yêu thương cứu độ của Cha đến với mọi người? Đến với người đương thời, Ngài xử sự ra sao, khi dân con- trong Đaọ ngoài đời-đang chết dần mòn vì các căn bệnh quái ác như SIDA? Ngài có ra tay phụ giúp, khi hàng triệu nguời không công ăn việc làm? Hàng triệu người không cón phẩm cách, tác phong con cái Chúa? Khi đàn con bé bỏng, mềm yếu cứ bị xách nhiễu về tình dục? Khi người nữ phụ vẫn bị coi như thuộc giới thấp kém, người dưới cơ? Ngài sẽ làm gì, khi hiện tượng diệt chủng vẫn xảy đến ở đâu đây?” (Lm David N Power, the Furrow 10/1998).

 Chúa đến, mang sắc mầu đặc thù thời hiện tại. Chắc chắn là như thế. Nhưng,Ngài đâu rồi có hiện hữu với con người hôm nay?

 Để trả lời , nhà văn sư huynh Thomsa Merton, đã ghi lại:

“Về với thế giới gian trần, Chúa không tìm được chốn trú chân, đành trở thành vị khách không được mời. Nhưng Ngài vẫn cứ đến. Ngài đến và cảm thấy đó như là nhà mình. Vì không nơi trú ngụ, Ngài đành ở lại với đám người nghèo hèn, cơ cực. Ngài đến, là để ở với những người không thuộc về Ngài. Những người bị giới quyền bính chối bỏ. Ngài đến, cũng bị coi như kẻ yếu đuối, thấp hèn giống như ai. Ngài đến, là đến với những kẻ không nhân vị, bị ngươì khác khinh chê tư cách làm người. Là kẻ bị bách hại, bị cắt đứt mọi hiệp thông. Những người yếu hèn như thế, nay không chỗ trú chân. Ngài là Đức Chúa ở trần gian, đang có mặt với thế giới hôm nay.” (Trích từ The Tablet, 26-12-1998)

           Cách đây không lâu, nhà văn người Brazil, Paolo Freire, người viết cuốn “sư phạm dành cho người bị áp bức”. Trong sách, tác giả đề nghị phương cách giáo dục người nghèo mù chữ, như sau: “khi học chữ, người không biết đọc, không biết viết nên học để biết là mình đang nghèo. Và đang hèn. Học để biết hỏi tại sao mình nghèo. Làm cách nào ra khỏi cảnh nghèo? Và theo tác giả, giải đáp cho bài toán ‘nghèo và hèn’, nằm trong của chính họ.

Đáng tiếc thay, ngày Chúa đến hôm nay vẫn thấy mọi hình thức bạo lực nơi thế giới hiện tai. Bạo lực, vì nhiều người mất kiên nhẫn, không áp dụng phương thức hiền hoà, bất bạo động trong cuộc sống. Bạo lực, vì nhiều người vẫn chủ trương khủng bố, làm đảo lộn chốn sống yên ổn, ôn hoà. Nhiều người vẫn kiếm tìm thoải mái nơi tiền tài,lợi nhuận ở khắp chốn. Chốn doanh thương, quyền bính, lẫn binh đao. Những người luôn chủ trương duy trì giàu sang, phú quý cho riêng mình.

Chúa đến, Ngài mặc lấy hình hài của vị Vua An Bình, thanh thoát,rất chân phương, Ngài đến, mang thông điệp thanh nhàn, Hài Nhi rất đáng yêu. Nhưng rủi thay, thông điệp yêu thương hài hoà Ngài mang đến vẫn không ngăn được con người bạo động gây chết chóc. Bạo động chết chóc, cả ở phần đất của những người lâu nay vẫn chối bỏ Ngài. Những người từng trả lời với Ngài, bằng cách này hay cách khác, tương tự như: “Rất tiếc! Không còn chỗ cho Ngài trú ngụ.”

Âm vang của tình trạng đáng tiếc còn hiện rõ nơi truyện Chúa Giáng trần, vào mỗi năm. Ở nơi đây, có linh mục,tu  sĩ và giáo dân đã và đang dần mòn chết, trong cách sống xa hoa trần tục. Trong lúc đó muôn ngàn người nghèo đói, túng bấn, đang kêu gào ở nhiều nơi.

Giáng Sinh hôm nay, không là lễ hội đình đám chỉ một đêm. Giáng Sinh, không là ngày lễ để ta vui hưởng với thịt ngỗng gà quay, hay bánh ngọt. Giáng Sinh cũng không là tiệc rượu đình đám, ăn nhậu, tiêu phí, rất xa hoa.

Giáng Sinh phải chính là dịp để ta nhớ mà cử hành mừng kính việc Chúa đến với người nghèo khổ, không nhà. Những người chiụ cảnh hẩm hiu, lép vế thiệt thòi đủ mọi thứ. Chúa đến, Ngài mang tín thư Hy Vọng giải thoát đến với người chịu thiệt thòi trong thế giới, đem yêu thương vào nơi bất hoà. Cử hành mừng lễ, là chấp nhận gia nhập tiến trình giải thoát cứu độ mà Chúa kêu mời. Cử hành mừng lễ, là gột bỏ đi mọi tàng tích, âm hưởng của kiếp nghèo sa đọa. Của những bóc lột và kỳ thị đang hiện hữu torng môi trường xa hoa, phung phí.

Tham dự tiệc thánh hôm nay, ta cử hành mừng ngày Chúa Giáng hạ, nhưng không quên mục đích mình mừng kính, không quên thông điệp còn đó, đằng sau bầu khí phàm tục, mọi ngày lễ. Tham dự tiệc, để rồi ta cầu mong cho thông diệp ngày Chúa Giáng trần giúp mọi người nhớ lại trọng trách của người tín hữu Đức Kitô. Trọng trách về với người nghèo hèn, thiếu thốn để đỡ nâng, như Chúa hằng giao phó. Cho ta. Cho mọi người.

Trong ý thức trách nhiệm ấy, ta hân hoan cất lên lời kinh xưa, hát rằng:

           “Và bây giờ, ngày buồn đã qua

mọi lỗi lầm cũng được thứ tha

Tình yêu đã đến trong ánh nắng mai

Xoá tan màn đêm u tối

Cho tôi biến đổi tâm hồn

Thành một người mới…”

(Đức Huy- Và con tim đã vui trở lại)

 Chúa đến, mọi màn đêm u tối được xoá tan. Xoá tan trong tâm hồn. Nơi thể xác, của mỗi người. Ngài đến, biến đổi mọi tâm hồn thành người mới. Người tuy nghèo, nhưng đã vui. Vui với niềm vui ngày Chúa mặc lấy cùng số phận. Vui vì Ngài vẫn vui như ta. Với ta.

 Lm Frank Doyle sj biên-soạn –

Mai Tá lược dịch

Ngoài ấy tuổi xuân lạnh rét căm lòng cỏ hoa

Chuyện phiếm đọc trong tuần Giáng Sinh Năm A 25/12/2016

“Ngoài ấy tuổi xuân lạnh rét căm lòng cỏ hoa”
“em nhìn mây không cánh bay về phương trời xa
nghẹn ngào em thầm hỏi người đi có nhớ nhà
nghẹn ngào em thầm hỏi người đi có nhớ nhà…”

(Nhạc: Phạm Duy/Lời: Lê Minh Ngọc – Tâm Sự Gửi Về Đâu)

(Mt 24: 37-44)

Trần Ngọc Mười Hai

 Gửi về đâu, tâm sự tràn đầy ư?  Tâm-sự là tâm-sự gì? Phải chăng là “Tuổi xuân lạnh”, hoặc “nghẹn ngào nhìn mây không cánh bay” ? Hoặc còn là: “thầm hỏi người đi có nhớ nhà”? Nếu quả thật có thế, thì mời bạn và mời tôi, ta lại nghe thêm câu hát tiếp, như sau:

 “Ra đi mùa xuân ấy, mây hồng bay cuối thôn.
Hoa vàng cài trên tóc, em ngây thơ mắt buồn.
Trời sáng trong lòng anh, vực thẳm trong lòng em.
Hai đứa hai tâm sự, xa nhau như đêm ngày…

Người đi vì lý tưởng, em ở lại hờn căm.
Mỗi mùa hoa lại nở, mỗi hình bóng người xa.
Đã bạc phai mầu áo, nổi trôi dưới gốc dừa.
Một trời hoa gạo đỏ, và mưa nắng hai mùa…”

(Phạm Duy/Lê Minh Ngọc – bđd)

 À thì ra, như thế tức: “người đi vì lý-tưởng”, rồi “Xuân về quạnh quẽ” có “người gái quê”, “buồng xuân vắng vẻ”, “Bước dài thương nhớ”, “mây trùng dương cách chia.” Ôi thôi là lời lẽ đầy nhung nhớ. Nhớ cảnh kẻ ở người đi đến là buồn. Thế nhưng, nếu đó là lý-tưởng của nhà Đạo, thì sao anh cứ hát như lời buồn và nhớ như sau:  

“Hẹn mai về, hẹn mai về,

xuân rồi xuân quạnh quẽ.
Người gái quê, người gái quê,

xuân buồng xuân vắng vẻ.
Đường anh đi, đường anh đi,

ôi bước dài thương nhớ.
Giờ em ơi, giờ em ơi,

mây trùng dương cách chia.

Lìa nhau vì lý tưởng,

hỡi em người quê hương!
Đâu phải vì biên giới,

đâu phải vì nghìn phương.
Muôn ngàn năm còn mãi,

lệ trên đá rơi hoài.
Chuyện mình ai người biết,

và ai sẽ xót thương.

Hẹn mai về, hẹn mai về,

xuân rồi xuân quạnh quẽ.
Người gái quê, người gái quê,

xuân buồng xuân vắng vẻ.
Đường anh đi, đường anh đi,

ôi bước dài thương nhớ.
Giờ em ơi, giờ em ơi

mây trùng dương cách chia.”

(Phạm Duy/Lê Minh Ngọc – bđd)

À thì ra, ở đời mỗi khi thấy em nói buồn và nhớ vì xuân này anh đi, vì lý tưởng gì gì đó “đâu phải vì biên giới”, cũng chẳng “vì nghìn phương”. Có khi, chỉ vì “mây trùng dương cách chia”“lệ trên đá rơi hoài.”

 Thế nhưng, ở nhà Đạo thì khác. Khác, như đấng bậc vị vọng ở đâu đó, từng biểu tỏ như sau:

“Phúc Âm hôm nay, chưa nói nhiều về Nhiệm Tích Nhập Thể. Nhưng, Đấng Huyền Diệu Quang Lâm được cảnh báo như một thời có nhiều xáo trộn. Xáo trộn ngày Đức Chúa Quang lâm, được mô tả giống thời Nô-ê. Một thời cần cảnh giác và tỉnh thức. Tỉnh thức, vì Ngài đến bất chợt, rất đột xuất.

 Đấng Huyền Diệu đến, sẽ không như buổi xử phạt, vào ngày cuối. Ngày Chúa đến, sẽ nhắc nhở con dân của Ngài đừng vì cảnh ly biệt tách lìa, mà hãi sợ. Cảnh giác và tỉnh thức để mọi người nhận ra Chúa luôn hiện diện, trong huyền diệu.     

 Việc đề cao tỉnh thức, còn được thánh Phao-lô tông đồ nhắn nhủ, qua thư gửi giáo đoàn Rôma lành thánh, rằng:

 “Đã đến lúc anh chị em phải tỉnh giấc …

Đêm hầu tàn, ngày sắp đến.

Hãy vất bỏ những việc tối tăm

và mặc lấy khí giới của sự sáng”.

(Rm 13: 12)

 Đi vào đời sống, người người cần nhận ra, rằng: đã đến lúc ta nên cảnh tỉnh. Cần giác ngộ về các hành động mình đã và đang làm. Cảnh tỉnh/giác ngộ, để không còn gì phải sợ sệt hoặc che giấu. Giấu Chúa và giấu người phàm. Và khi đã cảnh tỉnh rồi, ta sẽ không tủi hổ vì đã có hành vi bất chính. Không còn hãi sợ vì đã hành xử phản lại tâm trạng người đón chờ ngày Chúa Quang Lâm.

 Đón chờ ngày Đấng Huyền Diệu Quang Lâm, là biết sẵn sàng trong tư thế của người con bình thường. Người con bình thường, là người không sợ phải quay về với thời ông Nô-ê, khi trước. Người con ở tư thế bình thường, là người không còn sợ ngày xét xử, vào lần cuối.  

 Tâm trạng của người con chờ ngày Chúa đến, còn là tâm trạng phó thác để Chúa hiện diện với chính mình. Ngài hiện diện qua tương quan rất hiện tại. Tương quan mang hình thái của một “nhiệm tích hiện tại”. Nhiệm tích xảy đến vào mọi lúc, với mọi người. Nhiệm tích thể hiện qua hành vi, và qua công việc thường nhật. Ngài sẽ đến bất cứ lúc nào, ở bất cứ nơi đâu.

 Sống trong tương quan “nhiệm tích hiện tại”, ta nhận ra Ngài đang hiện diện nơi mọi người trong cuộc sống. Và, nhận ra bàn tay thân thương Ngài đặt nơi sự kiện đang xảy đến. Khi ấy, không còn hãi sợ. Không còn e dè ngần ngại về mọi cảnh báo. Nhưng, sẽ phấn khởi sống tình thương của Chúa. Phấn khởi, nhận ra Ngài đang gần gũi chính mình. Gần hơn cả nhịp đập rộn rã, của con tim, nhịp tình yêu. Nhịp của “nhiệm tích hiện tại”.   

 Sống tương-quan nhiệm tích, là sống một đời sống tử-tế, dễ thương cả khi ăn khi nói, cả khi giảng-giải hoặc lắng nghe Lời Chúa từ đâu đó, trong thinh-lặng. Lắng nghe hoặc giảng giải, bao giờ cũng cần ngắn gọn, để người nghe dễ nhớ những gì đã nghe và cần nghe.

Đây cũng là điều mà Đức Phanxicô từng nhắc nhở mọi người, chí ít là các đấng bậc có trọng trách giảng-giải Lời của Chúa, ở nhà thờ như sau:

“Trong khi cử hành nghi thức tấn phong tân giám mục, Đức Giáo hoàng Phanxicô khuyến khích các linh mục hãy dùng những lời lẽ đơn giản khi giảng dạy, và hãy rút gọn bớt bài giảng của mình trong thánh lễ ngày chúa nhật.

 Đức Phanxicô thúc  các linh mục hãy nghĩ lại về thời thơ ấu của mình, và nhớ xem giáo dân mừng thế nào khi các linh mục giảng những bài ngắn gọn. 

 ‘Hãy nhớ cha của các cha, và thấy ông hạnh phúc thế nào khi biết có một linh mục gần đó cử hành thánh lễ mà không có bài giảng!’

 Các bài giảng phải là sự thông truyền ơn Chúa, 

và phải đơn sơ để tất cả mọi người đều hiểu được, 

và khi ra về ai cũng mang theo một khát khao muốn sống tốt hơn.’

 Các bài giảng ngắn gọn cũng là chủ đề mà Đức Phanxicô đã lặp lại nhiều lần.

Tháng 4 năm ngoái, Đức Giáo hoàng truyền chức cho 19 linh mục, và thúc giục họ hãy phục vụ hơn là điều hành đàn chiên, và hãy cho dân Chúa của ăn với những bài giảng từ trái tim hơn là những bài thuyết đáng chán.

 ‘Hãy để bài giảng là nguồn nuôi dưỡng Dân Chúa, 

để cho bài giảng của các cha không đáng chán, 

để cho bài giảng của các cha vươn đến tâm hồn mọi người, 

bởi bài giảng đó xuất phát từ tâm hồn các cha, 

bởi các cha nói ra những gì các cha mang trong tim mình.’

 Đức Giáo hoàng cũng thúc giục các tân linh mục hãy thực hành những gì mình giảng, để làm gương lành, làm chứng cho sự thật trong những lời mình nói. 

 ‘Một gương lành làm cho mọi người phấn chấn, 

lời nói mà không có hành động thì là những lời vô nghĩa, 

chúng là những khái niệm không bao giờ đến được tâm hồn mọi người,

 và sẽ gây hại hơn là tốt.’

 Trong thánh lễ ngày thường ở Nhà nguyện nhà trọ thánh Marta, nơi ngài sống, 

Đức Giáo hoàng Phanxicô thường giảng các bài ngắn gọn,

không bao giờ vượt quá 10 phút, và thường là ngắn hơn nhiều.”

(J.B. Thái Hòa chuyển dịch)

Giảng ngắn gọn ư? Ối chà là cách mạng. Xưa giờ, bạn cũng như tôi, chúng ta đều biết thế nhưng nào ai dám nói. Biết, cả những điều khá lạ-kỳ khi đấng bậc giảng-dạy gọi là “Chia sẻ Lời Chúa” vẫn cứ kể vào những lúc cứ là dài giòng giảng giải hay kể lại những điều đã được kể khá dài ở Phúc Âm. Như thế, là giảng-giải dài giòng, đến buồn ngủ.

Giảng ngắn gọn “không bao giờ vượt quá 10” ư? Dạ thưa Đức Ngài, thưa cha/thưa má có một điều, rằng: ở xứ Úc này, các đấng bậc nhà em mỗi khi giảng đến 7 phút thôi, đã bị cho là “Ngài không tìm ra bãi đáp”, nên mới thế. Như thế, tức: sự tử-tế cũng nên hiểu là: nên tử-tế với giáo-dân/người nghe đang ngồi ở hàng ghế dưới cứ phải nghe vị thuyết giảng cứ lai rai, dài giòng, ít vắn gọn.

“Quái-đản” hơn, có vị lại nói những lời “tục-tĩu”/gợi hình như: “con ma xinh xinh chân dài ngày Halowwen”, “Ba vua dâng tặng “nhũ-hoa”, Vàng và Mộc-dược lên Hài Nhi Chúa”, vv..”. Hoặc, cứ vẫn kể những truyện chẳng ý-nghĩa và cũng chẳng ăn khớp với “ý” và “nghĩa” của Tin Mừng/Lời Chúa, rất thanh-tao.

“Kỳ-quái” hơn nữa, có vị lại cứ múa may, hát hò cho bà con vỗ tay khen hay ngay trong nhà thờ/nhà thánh. Ôi quái lạ, dị-kỳ, và vô-nghĩa. Thôi thì, kể sao cho hết những “kỳ-quái, “kỳ-khú” và “dị-kỳ” về đấng bậc nhà Đạo.

Nếu trí-nhớ của bần-đạo đây và của giáo-dân ở xứ-đạo Fairfield, Sydney còn tốt, thì có vị bảo rằng: giáo-dân người ta đến nhà thờ là đã hy-sinh thời-giờ và cũng bỏ công việc gia đình, sở làm thế nên cũng hơi mệt mỏi. Thế nên, cũng đừng nên hành-hạ thêm lỗ nhĩ của những người ấy khi buộc phải nghe các bài giảng dài giòng “văn-tự”.

Lại nữa, nói về “sự tử-tế” giữa con người, cũng còn phải hỏi xem ta có đối xử tử-tế với Thiên-Chúa, không? Bởi lẽ, con người là “ảnh-hình” của Thiên-Chúa, nên đôi lúc con người cũng không “tử-tế” với Đấng tạo ảnh-hình cho chính mình.

Đối xử tử-tế với Chúa và với Chúa-ở-trong-mọi-người, ta có thể làm bằng đủ cách. Cả những cách thường hay thấy hoặc ít thấy. Có cả những cách tưởng rằng mình thường thấy, nhưng lại sai quấy, vì không biết. Như thế, tức có nghĩa: nhiều lúc, ta cứ tưởng rằng mình hiểu và biết rất nhiều về Thiên-Chúa là Đấng-ta chẳng-bao-giờ-biết”, như tác-giả Marcus J. Borg, từng tỏ lộ đôi giòng sau đây:

“Có đến trên ba, bốn chục năm này, nhiều người cứ theo cung-cách cổ-lỗ khi nghĩ về Thiên-Chúa như Kinh Sách, như Đức Giêsu và Đạo Chúa chẳng hạn, cũng đã thôi không còn thúc-ép hoặc ràng-buộc người tín-hữu nữa, đặc-biệt là những vị thuộc các Giáo-hội chính, rất liên-đới.

 Cung-cách khi xưa hiểu và biết Thiên-Chúa là Đạo Chúa của dân-gian ở cấp thấp thuộc thế-hệ thời trước. Theo hình-thức cứng rắn hơn hoặc mềm-dẻo hơn, là thứ đạo-giáo nặng về luân-lý, tín-điều, theo nghĩa đen rất từng chữ và cũng độc chiếm, độc-quyền, lại chuyên hướng về sự sống vào thời sau. Đường-lối các vị này chủ-trương, nay có nghĩa: là Ki tô-hữu, tức là tin vào tập-hợp gồm một số triết-thuyết hoặc tín-điều nào đó tưởng-như-là-có-thật và điều đó có nghĩa: hãy cứ tìm về sống rập-khuôn với giáo-huấn đúng theo luân-thường đạo-đức của Đạo Chúa, là được.

 Đường-lối đây, có khuynh-hướng hiểu Kinh Sách và tín-điều theo từng chữ, rất nghĩa đen, phi trừ có lý-do bắt buộc không được như thế. Như thế, tức bảo rằng: chỉ mỗi Đạo của Chúa mới được hưởng ơn cứu-độ. Và Đạo Chúa đây, xưa nay định-nghĩa ơn cứu-độ là “sự sống vào thời sau”, chẳng hạn như được lên thiên-đàng thẳng cánh.

 Tựu-trung thì. Đạo Chúa khi ấy là đạo-giáo vẫn cứ tin vào các giáo-huấn chung chung của hệ-cấp Giáo-triều từng dạy dỗ vào lúc này vì thiên-đàng, vào thời về sau…”         

 Đường-lối hiểu biết Thiên-Chúa theo kiểu cũ nói ở đây, vẫn được rất nhiều bậc mẹ cha và/hoặc ông/bà nội/ngoại vẫn duy-trì. Thế nhưng, vào hậu bán thế kỷ thứ 20, thì đối với nhiều người, chuyện này cũng bớt đi phần tin-tưởng cũng khá nhiều, nhất là những người Công-giáo tự cho mình là chính-cống, hoặc chính-thống. Thế nhưng, ngày nay, lối hiểu và biết về Thiên-Chúa và Đạo Chúa như thế, không còn hiệu-nghiệm và tồn-tại bao nhiêu nữa…” (X. Marcus j. Borg, The GOD We Never Knew,HarperOne 1997, tr. 84-85)

“Dân địa phương

đối xử tử tế với chúng tôi

một cách hiếm có.

Họ đốt một đống lửa to

và niềm nở tiếp đón tất cả chúng tôi,

vì trời đã bắt đầu mưa và lạnh.”

(Cv 28: 3-4)

Đối xử tử-tế, là: “đốt một đống lửa to” cho khỏi lạnh. Và là: “niềm-nở tiếp-đón tất cả chúng tôi, vì trời bắt đầu mưa và lạnh.” Như thế, còn là đỡ đần, giùm giúp. Như vậy, lại là thân-thương đùm bọc, như truyện kể và châm-ngôn để sống cho tử-tế được nói đến ở bên dưới:

“Ngày đầu tiên đi làm về, em tôi vứt phịch túi xách xuống giường và phàn nàn:

“Sao em ghét cái con đồng nghiệp ngồi cạnh thế không biết!”

Tôi hỏi:

-Tại sao?

Nó trả lời:

-Em không biết, nó lì lì ít nói nên em thấy ngột ngạt, em ghét!

 Tôi bật cười, kể cho em tôi nghe những ngày đầu tôi bước chân vào môi trường công sở. Phòng tôi ngoài tôi thì còn 2 người, một bạn thì có vẻ ngoài lạnh lùng, khó gần, và cũng không hòa đồng cho lắm, bạn còn lại khá xinh, chủ động bắt chuyện và nhận giúp đỡ tôi trong công việc.

 Tôi chơi thân với bạn đồng nghiệp xinh xinh ấy, và cũng chẳng bao giờ trò chuyện gì với bạn còn lại trừ khi có công việc.

 Cho đến một ngày, tôi đi làm muộn, đứng ở ngoài nghe thấy người bạn đồng nghiệp mà mình luôn tin tưởng, nói chuyện với sếp tôi. Khi sếp tôi tới kiểm tra và hỏi tôi đâu, bạn nói: “Nó chưa đến anh ạ! Ngày nào cũng đi muộn. Làm việc thì vớ vẩn lắm!”

 Tôi đứng im như phỗng, ruột gan đảo lộn, tim thắt đau. Người đồng nghiệp còn lại nói đỡ cho tôi: “Em nhờ bạn ấy tiện đường rẽ qua cơ sở mới lấy giấy tờ giúp em nên tới muộn thôi anh!”

 Lúc sếp đi ra cửa, tôi chạy vội vào nhà vệ sinh. Đợi tinh thần ổn định mới trở vào phòng làm việc. Tôi vẫn cười nói như bình thường, giấu sự thật mà mình biết trong lòng. Có những điều dù mình đã tường tận nhưng vẫn nên im lặng, chỉ để cho lòng mình biết phải cư xử với đối phương thế nào.

 Một thời gian rất lâu sau, người đồng nghiệp xấu tính của tôi nghỉ việc, chỉ còn tôi và bạn còn lại lo công việc trong phòng. Lúc này chúng tôi tiếp xúc nhiều hơn, hiểu nhau nhiều hơn, và quan trọng là đối với nhau chân thành không toan tính vụ lợi. Và chúng tôi chơi thân với nhau cho tới tận giờ.

 Thế đấy! Lòng người vô cùng khó đoán. Không phải ai lạnh lùng khoảng cách với mình là không quan tâm mình, không phải ai cười cười nói nói thân thiết với mình là yêu thương mình. Chiếc dao giấu dưới đệm, người nằm lên khó lòng biết được, đâu phải ai cũng như nàng Công chúa trong truyện cổ, ngủ trên 7 tầng đệm mà vẫn cảm nhận được vài viên đậu dưới giát giường?

 Vậy nên, tôi nói với em tôi, em đừng ghét ai vô nghĩa, bởi nhiều khi người em vô cớ ghét, lại là người sẽ thương em hết lòng.

 “Thực ra, lời nói nhiều khi đều là giả, chỉ có những điều cùng nhau trải qua mới là thật. Người tốt thường chẳng khéo miệng, người xấu lại luôn biết nói lời hay”

 Thế nên,

 Đừng ghen tị vì người khác chín chắn trưởng thành hơn bạn, chẳng qua vì họ gặp nhiều người xấu hơn bạn mà thôi.

  1. Bạn thông minh hơn kẻ khác không phải lỗi của bạn, nhưng diễu võ giương oai trước mặt họ thì bạn sai rồi.
  2. Niềm vui lớn nhất trên đời là làm được những điều mà bạn nghĩ rằng mình không làm được, niềm vui lớn thứ hai là làm được những điều mà người khác nghĩ rằng bạn không làm được.
  3. Đừng mất thời gian và công sức để kêu than với đám đông làm gì, một nửa sẽ không quan tâm, còn một nửa thì mừng thầm khi thấy bạn xui xẻo hơn họ.
  4. Đừng mất niềm tin vào tình yêu, thế giới rộng lớn thế, cũng sẽ có người có khẩu vị khác lạ say bạn như điếu đổ thôi.
  5. Để duy trì một mối quan hệ tình cảm tốt đẹp, ngoài thật lòng và tử tế, còn cần phải không ngừng nỗ lực trở lên ưu tú hơn nữa.
  6. Hãy trân trọng khoảng thời gian còn được đến trường, đừng nghĩ đi làm rồi tự kiếm được tiền rồi mới là tự do. Sau này bạn sẽ thấy, công việc thì áp lực mệt mỏi hơn bài tập, đồng nghiệp thì xấu tính đáng ghét hơn bạn học, mà bạn lại chẳng thể đánh người, vì bạn đã thành người lớn rồi.” (Truyện sưu tầm từ mạng vi-tính)

Với quyết tâm thực-hiện cuộc sống rất tử-tế với mọi người, mời bạn và tôi, ta lại hát lên những lời ca ê-a ở trên làm kết đoạn cho vui cuộc đời:

“Hẹn mai về, hẹn mai về,

xuân rồi xuân quạnh quẽ.
Người gái quê, người gái quê,

xuân buồng xuân vắng vẻ.
Đường anh đi, đường anh đi,

ôi bước dài thương nhớ.
Giờ em ơi, giờ em ơi,

mây trùng dương cách chia.

Lìa nhau vì lý tưởng,

hỡi em người quê hương!
Đâu phải vì biên giới,

đâu phải vì nghìn phương.
Muôn ngàn năm còn mãi,

lệ trên đá rơi hoài.
Chuyện mình ai người biết,

và ai sẽ xót thương.

Hẹn mai về, hẹn mai về,

xuân rồi xuân quạnh quẽ.
Người gái quê, người gái quê,

xuân buồng xuân vắng vẻ.
Đường anh đi, đường anh đi,

ôi bước dài thương nhớ.
Giờ em ơi, giờ em ơi

mây trùng dương cách chia.”

(Phạm Duy/Lê Minh Ngọc – bđd)

Hát thế rồi, nay mời bạn và tôi, ta cứ hiên ngang hướng về phía trước mà sống. Sống hùng, sống mạnh không phải để rồi sau khi chết “sẽ được lên thiên-đàng”, nhưng sống thân-thương, hoà-hợp với mọi người ngay ở thời này. Sống cho ra sống, đúng chức-năng và nhân-vị của con người. Người Kitô-hữu được Kitô-hoá theo cung-cách rất Kitô.

Trần Ngọc Mười Hai

Còn đó những quyết-tâm

Sống đời hiền-hoà

của Kitô-hữu

luôn sở-hữu Đức Kitô. 

Sống và yêu

Sống và yêu

Trầm Thiên Thu

Chị Brittany Maynard, 29 tuổi, được chẩn đoán có khối u ác tính trong não ở giai đoạn 4 từ hồi tháng 4-2014, và bác sĩ nói chị chỉ còn sống thêm trong vòng 6 tháng.

Ngày 1-11-2014, chị sẽ kết thúc cuộc đời với sự trợ tử của bác sĩ bằng phương pháp “an tử” (làm cho chết êm ái). Chị cho biết rằng chị không muốn chị và gia đình chịu nỗi đau khổ vì chứng ung thư não của chị. Chắc chắn đây là tình cảm tốt đẹp khi người ta không muốn những người thân chịu đau khổ, nhưng đó không phải là cách yêu thương!

Các phương tiện truyền thông hết lời ca tụng quyết định của Brittany là can đảm. Thật mắc cười khi các phương tiện truyền thông khen chị dám chết vì không muốn gia đình đau khổ, và kêu gọi những người khác hủy hoại sự sống mà không cần bác sĩ trợ tử. Nhưng các phương tiện truyền thông ca tụng một phụ nữ trẻ mới kết hôn mà lại muốn chết chứ không muốn sống. Các phương tiện truyền thông ca tụng sự chết, dù đó là phá thai, an tử, hoặc trợ tử, họ gọi đó là sự chọn lựa, sự tự do, hoặc sự can đảm. Tuy nhiên, Thiên Chúa cấm chúng ta nghĩ rằng chúng ta có thể là gánh nặng cho người khác vì sức khỏe giảm sút hoặc cần được chăm sóc về y tế.

Sợ hãi là động lực có thật: Sợ những gì ở phía trước, sợ đau khổ, sợ không thể kiềm chế,… Các phương tiện truyền thông và xã hội muốn chúng ta sống trong nỗi lo sợ vì nỗi lo sợ khiến chúng ta phải kiểm soát. Nỗi lo sợ biến chúng ta thành nô lệ dưới chiêu bài của sự tự do, sự can đảm, và sự tự tha thứ cho mình. Nỗi lo sợ xoay chúng ta hướng vào bên trong (tự hướng nội) và làm cho chúng ta tin rằng mình đáng bị thu nhỏ lại.

Chân phước Chiara Luce Badano đã không sống trong nỗi lo sợ mặc dù Chị chịu đau khổ và chết vì chứng ung thư xương rất đau nhức khi còn ở độ tuổi thiếu niên. Thay vì đầu hàng nỗi đau đớn thể lý, Chị đã chịu đựng đau khổ và nhìn cha mẹ thấy Chị chống chọi với bệnh tật. Chị dùng đau khổ để thánh hóa chính mình và những người khác. Chị dùng đau khổ làm phương tiện để hy vọng.

Ngược lại, chị Brittany Maynard lại dùng đau khổ làm phương tiện để tuyệt vọng! Buồn biết bao khi Brittany cho phép bóng tối làm tiêu tan chính mình. Chân phước Chiara được một người bạn đặt cho biệt danh Luce khi Chị gia nhập phong trào Focolare, vì Chị là ánh sáng cho người khác. Chị như ánh đuốc soi sáng trong bóng đêm của cuộc sống này để đi tới Chúa Giêsu và sự sống đời đời.

Các phương tiện truyền thông chẳng bao giờ ca tụng những loại ánh sáng này của con người. Bạn sẽ không bao giờ nghe nói về những con người thầm lặng chịu đau khổ trên đời này, hoặc thời gian kỳ diệu mà họ cố gắng sống tốt, và hôm nay họ vẫn sống vô thường dù ngày mai họ sẽ chết, họ sống như thể là bất tử. Những con người này là những ánh đuốc sáng thực sự trong thế giới này, họ đối diện với bóng tối và tuyên bố: “Mi cứ làm điều tồi tệ nhất! Tôi sẽ không bị hủy diệt”. Những người này sống trọn vẹn tình yêu thương, hoàn toàn biết từ bỏ mình, ngay cả khi họ phải đối diện với tử thần, họ không bao giờ chịu thua sự cám dỗ của nỗi thất vọng, vì họ biết rằng SỰ SỐNG và TÌNH YÊU đáng tận hưởng. Dù sao thì cuộc đời cũng vẫn đáng sống, không đáng chấm dứt.

Bạn sẽ chẳng bao giờ nghe nói về những con người như Ginnie Levin. Chị được chẩn đoán bị ung thư vú, mặc dù cắt cả hai vú và các khối u, chứng ung thư vẫn di căn tới nhiều bộ phận khác trên cơ thể. Chỉ còn ít thời gian ngắn ngủi trên thế gian này, chị muốn dành tất cả cho gia đình. Người bà và người mẹ của chị đã chết vì ung thư, người cha của chị cũng đang phải điều trị ung thư. Ginnie muốn tới thế giới của Walt Disney với gia đình một lần nữa, tạo ký ức vui mừng một lần cuối. Xin mọi người hãy cầu nguyện nhiều cho chị Gennie Levin!

Trong một thế giới ca tụng việc hủy hoại sự sống, chúng ta hãy ca tụng Sự sống. Hãy tạo sự khác biệt trong cách sống của chúng ta hôm nay!

Thánh nữ Teresa Margaret Thánh Tâm Chúa (Dòng Kín Chân Đất, 1747-1770) nói: “Không có gì phải than phiền, tôi sẽ chịu đựng mọi thứ vì yêu mến Chúa, tôi không có gì phải lo sợ”. Chân phước Chiara Luce được an táng với chiếc áo cưới vì Chị sẽ đi gặp Đức Lang Quân là Chúa Giêsu trong cõi trường sinh. Chết lúc mới 19 tuổi vì bệnh trầm kha, nhưng chân phước Chiara Luce vẫn khả dĩ nói: “Tôi không còn lại gì, nhưng tôi vẫn còn trái tim, và tôi có thể yêu thương bằng trái tim đó”.

Chị Chiara Luce Badano sinh ngày 29-10-1971 tại ngôi làng nhỏ Sassello ở Ý quốc, qua đời ngày 7-10-1990 sau một năm đau đớn vì chứng ung thư xương. Chị được Giáo hội tôn phong chân phước ngày 25-9-2010.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ IgnitumToday.com)

Anh chị Thụ Mai gởi

Đừng bao giờ trách móc bất kỳ ai

Đừng bao giờ trách móc bất kỳ ai

Người Tốt sẽ cho bạn Hạnh Phúc…

Người Xấu cho bạn Kinh Nghiệm…

Người Tồi Tệ nhất cho bạn Bài Học…

Và… người Tuyệt Vời Nhất sẽ cho bạn Kỹ Niệm.

Đừng hứa khi đang… vui !

Đừng trả lời khi đang… nóng giận

Đừng quyết đinh khi đang… buồn !

Đừng cười khi người khác… không vui !

Cái gì mua được bằng tiền, cái đó rẻ.

Ba năm học nói, một đời học cách lắng nghe

Chặng đường ngàn dặm luôn bắt đầu bằng 1 bước đi.

Đừng a tòng ghen ghét ai đó, khi mà họ chẳng có lỗi gì với ta

Tuy trong rừng có nhiều cây đại thọ cả ngàn năm, nhưng người sống thọ đến 100 tuổi không nhiều. Bạn thọ lắm cũng chỉ sống đến 100 tuổi (tỉ lệ 1 trên 100.000 người).

Nếu bạn sống đến 70 tuổi, bạn sẽ còn 30 năm. Nếu bạn thọ 80 tuổi, bạn chỉ còn 20 năm. Vì lẽ bạn không còn bao nhiêu năm để sống và bạn không thể mang theo các đồ vật bạn có, bạn đừng có tiết kiệm quá mức (trên 50 t mừng từng năm, qua 60t mong hàng tháng, tới 70 t đếm mỗi tuần, đến 80t đợi vài ngày, được 90 t …ngơ ngác một mình với giờ phút dài thăm thẳm !)

Bạn nên tiêu những món cần tiêu, thưởng thức những gì nên thưởng thức, tặng cho thiên hạ những gì bạn có thể cho, nhưng đừng để lại tất cả cho con cháu. Bạn chẳng hề muốn chúng trở nên những kẻ ăn bám.

Đừng lo lắng về những gì sẽ xảy ra sau khi bạn ra đi, vì khi bạn đã trở về với cát bụi, bạn sẽ chẳng bị ảnh hưởng bởi lời khen hay tiếng chê bai nữa đâu

Anh chị Thụ Mai gởi

Ba điều sướng nhất?

Ba điều sướng nhất?

Ngày xưa, có ông lão cứ vui cười ca hát suốt ngày.

Thấy lạ, có người hỏi:
– Tại sao ông vui tươi mãi như thế? 

Ông lão đáp:
Trời sinh ra muôn loài muôn vật, trâu chó dê ngựa… Người là sinh vật cao nhất, “Tối linh ư vạn vật”. Ta được làm người.  Ấy là điều sướng thứ nhất.

Trời sinh có người tàn tật, đui què. Ta được lành lặn,   ấy là điều sướng thứ hai

Người đời thường vì sự giàu có, danh vọng mà phải gian khổ. Ta có ăn đủ một ngày ba bữa, không lo lắng gì cả.   Ấy là điều sướng thứ ba

Còn như sinh lão bệnh tử là điều không ai tránh được. Ta cũng như mọi người,  làm gì phải buồn?.

Nghĩ tới ba điều sướng ta có được, ta vui ca cũng là chuyện thường tình, mắc mớ chi phải hỏi.

(Cổ Học Tinh Hoa)

DONALD TRUMP: “MỘT CÂY CỔ THỤ MỤC RUỔNG, KHÔNG NÊN BÓN TƯỚI TỐN THỜI GIAN” !

DONALD TRUMP: “MỘT CÂY CỔ THỤ MỤC RUỔNG, KHÔNG NÊN BÓN TƯỚI TỐN THỜI GIAN” !

unnamed

 Cựu Ngoại Trưởng Mỹ Henry Kissinger đã có cuộc gặp với Tổng thống đắc cử Donald Trump bàn chuyện về Trung cộng.Kissinger người được Trung cộng vô cùng tôn kính vì những việc ông đã làm cho Trung quốc.Tổng thống Trump sau những lời khuyên của Kissinger đã bày tỏ phản ứng quyết liệt và lập trường vững vàng của ông.Donald Trump được kỳ vọng sẽ mang lại tương lai tốt đẹp đổi mới cho nước Mỹ.

Kissinger là người thiết kế ra một nước Trung cộng vào 5 nước Thường trực Liên Hiệp Quốc, và gián tiếp có nền kinh tế hùng cường như hiện nay. Tất nhiên ông ta làm thế để chia rẽ phá sụp Cộng sản Quốc tế và Liên Xô, nhưng rõ ràng ông ta là công đầu của Trung cộng hiện nay.

Trump là người kinh doanh, hiểu rõ sức mạnh kinh tế của Trung cộng lên từ sự gian dối của họ với nước Mỹ. Ông ta thấy công việc và sức mạnh sản xuất của Mỹ ngày đang yếu đi bởi Trung cộng. Đòi lại sự công bằng cho nước Mỹ, trừng trị gian dối của Trung cộng là ý chí và nhiệm vụ của Trump.

Cờ đang tới tay Trump trong lúc mọi người đang chờ ông ta sẽ xử Trung cộng bằng cách nâng thuế như đã hứa tranh cử thế nào, thì bất ngờ ông ta gặp Kissinger để bàn chuyện Trung cộng.

Khỏi phải nghe họ nói, cũng biết rằng Kissinger sẽ khuyên Trump mềm mỏng, né tránh một cuộc chiến toàn diện với Trung cộng, vì sẽ bị thiệt hại kinh tế này nọ ….

Nhưng sau đó thì Trump bất ngờ không nghe, không chỉ chuyện kinh tế mà ông ta chọc thẳng vào chuyện Đài Loan chính trị, chuyện Biển Đông quân sự để ngoáy vào nổi đau của Trung cộng.
Cùng với gặp Obama bàn chuyện Obamacare, gặp Al Gore để bàn chuyện biến đổi khí hậu, chuyện gặp Kissiger để bàn Trung cộng cho thấy Trump nói rất bốc, nhưng hành động cực kỳ chín chắn, cẩn thận. Gặp ngay những người đối lập nói chuyện, và sau đó quyết dứt khoát theo ý mình.

Một Trump như vậy, cho thấy các hành động “khiêu khích” Trung cộng vừa qua không chỉ là chiến thuật dành ưu thế ban đầu, mà là một chiến lược lấy lại những gì nước Mỹ đã mất bởi Trung cộng. Ông Donald Trump khi được hỏi ông nghĩ gì về cựu ngoại trưởng “tài ba” dưới thời Nixon, ông chia sẻ trên Twitter: “Một Cây Cổ Thụ Đã Mục Ruổng, Không Nên Tưới Bón Làm Gì, Chỉ Tốn Thời Gian”…

CHRIS PHAN… thực hiện

Việt Nam, mãnh hổ hay mèo rừng?

Kính Hòa, phóng viên RFA
Tác phẩm Việt Nam, mãnh hổ hay mèo rừng và tác giả Phạm Văn Thuyết

Tác phẩm Việt Nam, mãnh hổ hay mèo rừng và tác giả Phạm Văn Thuyết

RFA photo

Việt Nam, Mãnh hổ hay mèo rừng là tên một quyển sách hiếm hoi tổng kết một cách ngắn gọn sự phát triển của Việt Nam mấy mươi năm qua, hiện nay, và tương lai. Sách do giáo sư Phạm Văn Thuyết biên soạn và được nhà xuất bản Tiếng quê hương xuất bản tại Mỹ.

Ý kiến của một số nhà quan sát, nhà báo về những điều mà giáo sư Phạm Văn Thuyết đề cập trong quyển sách này như thế nào?

Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Giáo sư Phạm Văn Thuyết là một chuyên viên của Ngân hàng thế giới, đã từng làm việc ở nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam, và ông đã tham gia vào các kế hoạch khác nhau để giúp đỡ các quốc gia đang phát triển, hoặc chuyển mô hình phát triển kinh tế ở các quốc gia như các nước Đông Âu và Việt Nam.

Quyển sách Việt Nam mãnh hổ hay mèo rừng chỉ dày hơn 250 trang, gồm 8 chương và 4 phụ lục. Tác giả đã trình bày nhiều kiến thức về kinh tế, và qua đó lịch sử thay đổi kinh tế xã hội ở Việt Nam trong 30 năm qua, bằng một ngôn ngữ phổ cập cho mọi tầng lớp dân chúng.

Về cơ bản mình tán thành ý kiến của anh Thuyết, mình muốn đi sâu vào bề sâu của nó, cái đằng sau của nó, là nó không chỉ phản ánh hoàn toàn ý thức hệ còn sót lại, nhưng thực sự đằng sau đó không có ý thức hệ gì cả, mà hoàn toàn là quyền lực.
-Tiến sĩ Nguyễn Quang A

Trong hai chương đầu tiên tác giả tóm tắt sự thay đổi lớn nhất của Việt Nam trong ba mươi năm nay, đó là chuyển từ mô hình phát triển kinh tế  kế hoạch hóa theo kiểu Liên Xô, sang một mô hình tự do hơn với những yếu tố thị trường. Nhưng ông nhấn mạnh rằng tại Việt Nam, đảng cầm quyền chủ trương rằng mô hình của Việt Nam phải là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, với vai trò rất áp đảo của lĩnh vực quốc doanh.

Mô hình này được tác giả phân tích kỹ hơn trong chương năm, trong đó bàn luận kỹ về việc giải quyết sự cồng kềnh và không hiệu quả của các công ty quốc doanh. Ông cho rằng do vấn đề ý thức hệ cho nên nhà nước Việt Nam không dám tư nhân hóa các công ty quốc doanh, mà chỉ cổ phần hóa nó, và như vậy các công ty quốc doanh mua chằng chéo qua nhau, giữ thế mạnh của lĩnh vực quốc doanh trong nền kinh tế. Nhận định này của giáo sư Thuyết được Tiến sĩ Nguyễn Quang A ở Hà Nội, một doanh nhân thành công trước khi trở thành một nhà hoạt động dân sự, bình luận:

“Họ ngại cái tư nhân hóa, vì họ muốn không có sự chống đỡ của những người rất là bảo thủ theo chủ nghĩa Mác hay cái gì đấy. Họ bèn vẽ ra cái chữ cổ phần hóa. Họ làm như vậy để qua mặt được các ông kia. Nhưng hệ quả thì không lường được, vì cách làm như thế không triệt để, không giống ai cả. Về cơ bản mình tán thành ý kiến của anh Thuyết, mình muốn đi sâu vào bề sâu của nó, cái đằng sau của nó, là nó không chỉ phản ánh hoàn toàn ý thức hệ còn sót lại, nhưng thực sự đằng sau đó không có ý thức hệ gì cả, mà hoàn toàn là quyền lực.”

Giáo sư Phạm Văn Thuyết cũng đưa vào quyển sách này những kinh nghiệm ông làm việc khắp nơi trong lĩnh vực ngân hàng. Ở chương cuối cùng, tác giả có đưa ra lời khuyên về việc cải tổ ngành ngân hàng tại Việt Nam theo hướng giảm số lượng ngân hàng, tập trung phát triển những ngân hàng lớn. Chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh, người từng nhiều lần làm việc với giáo sư Thuyết nhận định:

Đấy là một chuyên gia am hiểu về ngân hàng. Theo tôi hiểu thì ý của ông Thuyết là phải có những ngân hàng đủ lớn, có qui mô và chất lượng để nó có thể cạnh tranh trong khu vực. Nếu mà ngân hàng nhỏ quá thì khó mà cạnh tranh được, khó vươn ra được với quốc tế. Hiện nay các ngân hàng của Việt Nam chưa có đủ độ lớn để vươn ra cạnh tranh quốc tế và cũng khó đảm nhận tốt các chức năng mà ngân hàng hiện nay cần phải làm.”

Thực tế là vào năm 2016 người ta chứng kiến sự phá sản của nhiều ngân hàng tại Việt Nam, mà theo Tiến sĩ Nguyễn Quang, người có nhiều kinh nghiệp trong ngành ngân hàng, chính là do sự phát triển số lượng ngân hàng vô tội vạ, đưa đến các ngân hàng nợ chồng chéo lên nhau, và lâm vào khủng hoảng.

Một điều quan trọng có thể gọi là xương sống của việc cải cách kinh tế Việt Nam sang hướng thị trường là giải quyết vấn đề sở hữu đất đai. Giáo sư Thuyết cho rằng đất đai vẫn thuộc sở hữu toàn dân, và điều này khó lòng thay đổi khi đảng cộng sản vẫn còn cầm quyền. Tiến sĩ Lê Đăng Doanh cho rằng đó là một điều khó khăn nhất của cải cách kinh tế ở Việt Nam:

Đó là một trong những điều nan giải nhất. Thực tế Việt Nam hiện nay cho thấy rất rõ. Tức là nếu không giải quyết vấn đề sở hữu toàn dân đối với đất đai thì việc lạm dụng sở hữu toàn dân, cho lợi ích nhóm, lợi ích cá nhân còn rất lớn.

Khu rừng giáo dục và luật pháp

IMG_7611-400.jpg
Tác phẩm Việt Nam, mãnh hổ hay mèo rừng của tác giả Phạm Văn Thuyết. RFA photo

Giáo sư Phạm Văn Thuyết dùng khá nhiều thời gian để bàn về vấn đề luật pháp tại Việt Nam. Theo nhận định của giáo sư Thuyết, thì Việt Nam cũng như Trung quốc, quốc gia láng giềng có hệ thống kinh tế xã hội khá tương đồng, có hai hệ thống luật pháp, một là các văn bản do nhà nước ban hành, còn hai là cách thức hành xử luật trong thực tế, và điều mập mờ này tạo rất nhiều khó khăn cho việc phát triển. Bàn về việc này, Tiến sĩ Lê Đăng Doanh nói:

Việc thực thi luật pháp của Việt Nam là rất kém, vì ở Việt Nam không có cái luật về sự lãnh đạo của đảng, và người ta dựa vào các nghị quyết tập thể, để trên cơ sở đó người ta nói rằng cái việc tôi làm là nghị quyết tập thể, chứ không phải là quyết định của cá nhân tôi. Bởi vậy hiệu lực của luật pháp Việt Nam là rất thấp.”

Giáo sư Thuyết cho rằng vẫn có những vấn đề về luật pháp ở Việt Nam hiện nay vẫn không thể cải cách được do những trở ngại về mặt chính trị.

Cũng có những người chủ trương đóng góp trước, rồi nhà nước, hay những người cộng sản cố chấp nhìn thấy những cái tốt rồi từ từ thay đổi
-Nhà báo Việt Nguyên

Một nội dung quan trọng được giáo sư Thuyết nhấn mạnh rất nhiều trong tập sách này là làm sao cải thiện được nền giáo dục Việt Nam để có thể đào tạo được nhân lực cho đất nước. Theo ông thì sự yếu kém của ngành giáo dục ngày càng lộ rõ khi các công ty hàng đầu thế giới không thể tìm được người làm việc trong nước, trong khi đó nhiều người Việt Nam thành đạt ở nước ngoài khó có thể trở về nước làm việc do một sự nghi hoặc về chính trị.

Nhà báo Việt Nguyên, từ Hoa Kỳ nhận xét rằng giáo sư Thuyết nhấn mạnh phần giáo dục vì một đất nước cần có những viễn kiến để phát triển. Ông nói tiếp về phần nói về giáo dục tại Việt Nam trong sách của giáo sư Thuyết:

“Đọc kỹ thì thấy cũng giống như ý nghĩ của những người từ ngoại quốc về, hay những người trong nước ra nước ngoài rồi về, thì phải có một thay đổi về căn bản chính trị.”

Những nghi ngại về chính trị, hay là những cố chấp về chính trị không ngăn cản được những người như giáo sư Phạm Văn Thuyết về nước góp ý. Nhà báo Việt Nguyên, cũng là bác sĩ Nguyễn Đức Tuệ, nhận xét rằng tập sách của giáo sư Thuyết ghi nhận cố gắng của nhiều trí thức người Việt ở hải ngoại mong muốn đất nước phát triển:

Không cần để ý đến vấn đề chính trị, vì mình chủ trương thay đổi nước nhà. Có nhiều cách thay đổi. Có người chủ trương thảy đổi chế độ chính trị trước, rồi những cái khác sẽ tới. Nhưng cũng có những người chủ trương đóng góp trước, rồi nhà nước, hay những người cộng sản cố chấp nhìn thấy những cái tốt rồi từ từ thay đổi.”

Giáo sư Phạm Văn Thuyết qua đời vào ngày 15 tháng giêng năm 2015. Nhà báo Việt Nguyên nhận xét rằng những điều mà giáo sư Phạm Văn Thuyết đề cập thể hiện ở 90% sự thay đổi của Việt Nam trong mấy mươi năm qua, nhưng những trở ngại về chính trị mà giáo sư Thuyết cũng như các nhà quan sát trong nước nhận xét, đã làm cho Việt Nam không thể trở thành con hổ của châu Á được mà chỉ trở thành con mèo rừng, trong một môi trường hãy còn hoang dại của luật pháp và giáo dục.

Lời tố cáo từ tấm hình này.

Image may contain: 1 person
Facebook :Đinh Văn Hải with Dương Hoài Linh and 50 others.

Lời tố cáo từ tấm hình này.
Hàng triệu gia đình ly tán.
Hàng triệu thanh niên thanh nữ.
Hàng triệu sinh mạng con người.
Hàng triệu bà mẹ mất con.
Hàng triệu phụ nữ góa chồng.
Hàng triệu oan hồn vất vưởng.
Thề sinh bắc tử nam
Quyết đánh cho Mỹ cút
Để “giải phóng” miền nam
Rồi tất cả được gì!!!???
Vẫn nghèo hèn đói rách
Vẫn bất công tràn đầy
Vẫn tù đầy oan nghiệt
Vẫn chết chóc đau thương
Chỉ mỗi đảng cộng sản
Cùng quan chức giàu to
Con du học bên Mỹ
Đứa thì làm quan to.

Vài kinh nghiệm sống.

Vài kinh nghiệm sống.

 Tác giả : Phùng văn Phụng

  Trong tâm tình chia sẻ lại cho những người thân yêu, bạn bè, con cháu những câu nói này đã giúp cho người viết thêm bình an, vui tươi, yêu mến cuộc đời hơn, bớt chán nản, bớt buồn phiền, tránh phần nào những thói hư, tật xấu thường ngày:

  1.  Không có sự đau khổ nào là không chửa trị được. Không có khó khăn nào là không tìm ra giải đáp .

                                                                                Raymont De Saint Laurent

                                                           Tế Xuyên dịch trong sách “Sống lạc quan”

2.  Sống như hôm nay là ngày cuối cùng của cuộc đời, để chi vậy? Để vui sống vì ngày mai mình đâu còn ở trên đời nữa mà giận hờn, thù ghét ai làm gì.

3.  Tạ ơn Trời trong mọi hoàn cảnh. Gặp khó khăn, gian nan thử thách cũng cám ơn đấng Tối cao, đấng tạo dựng nên vũ trụ và loài người chúng ta trong đó có mình. Chỉ có tạ ơn khi gặp khó khăn mới làm cho mình bình tâm, còn nếu oán hận, thù ghét chỉ gia tăng sự khổ sở, đau buồn cho chính mình mà thôi. Hãy tạ ơn trong mọi hoàn cảnh .   Anh em hãy làm như vậy, đó là điều Thiên Chúa muốn trong Đức Ki-tô Giê-su (1Thê-xa-lô-ni-ca  5, câu 18)

4.  Không suy nghĩ tiêu cực, chán nản. Không nói những lời tiêu cực làm cho người nghe mất tinh thần, làm cho họ chán nản, buông xuôi và cũng làm cho chính mình mất niềm tin, chán nản, đầu hàng, bỏ cuộc.

5.  Không chỉ trích cá nhân người khác khi không cần thiết, khi sự chỉ trích đó không có lợi ích cho ai cả. Mỗi lần chỉ trích, nói xấu ai sẽ làm tâm mình bị động, không được bình an.

6.  Nói lời tích cực, khuyến khích, nâng đỡ, yêu thương có thể thay đổi số phận một con người. Nói lời chê bai, mạt sát, khinh bỉ cũng có thể làm cho người nghe chán nản, hư hỏng, thất bại.

7.  Cần có lòng thương xót mọi người như Cha trên trời có lòng thương xót vì mỗi người đều có cảnh khổ riêng, nghèo thường gặp nhiều khó khăn, khổ sở, mà giàu cũng không thể tránh được sự đau khổ, người ta nói nhà giàu cũng khóc, nhờ vậy tâm hồn mình rộng mở, không thù ghét ai, nhờ đó có được lòng khoan dung, độ lượng với mọi người. Bản chất con người luôn luôn hướng thiện, có lương tri (Nhân chi sơ tánh bổn thiện). Hoàn cảnh xã hội, gia đình đã tạo nên con người xấu, tàn ác và mình nên thương xót, nghĩ về bản chất thiện đó để lòng mình được thanh thản, bình an. Thương xót con người của họ vì họ cũng là con cái Chúa.

8.  Tìm cho chính mình một lý tưởng, một mục đích tốt để luôn luôn cố gắng theo đuổi mục đích đó, để cho cuộc sống mình thú vị và có nhiều ý nghĩa hơn.

9.  Trong nội tâm con người luôn có hai khuynh hướng, hướng thiện làm những điều gì giúp ích cho tha nhân và huớng xấu, ích kỷ chỉ muốn có lợi cho bản thân mình và có hại cho gia đình, bạn bè, cho người khác. Cho nên luôn tự vấn lương tâm hàng ngày sẽ giúp ích chúng ta biết làm điều thiện, điều đúng. Tránh được điều xấu, làm được điều tốt thì tâm hồn ta sảng khoái, vui tươi, sung sướng. Niềm vui tươi, sảng khoái này thường lâng lâng theo ta lâu dài thích thú.

10.  Học tập và áp dụng lời dạy của Chúa: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5 câu 44). Câu này đem áp dụng trong đời sống rất khó, làm sao yêu kẻ đã hành hạ mình, có thể đã làm cho gia đình mình tan nát, chia ly, chết chóc v.v…

Yêu kẻ đã hảm hại mình, vì sao vậy? vì họ cũng là con người, là con cái của Thiên Chúa cùng một Cha chung trên trời. Ta yêu con người nhưng phải lên án, chê trách hành động xấu xa đó. Yêu con người đó với tinh thần bao dung, dùng tình yêu để xoá bỏ hận thù để nhờ đó xã hội tốt đẹp hơn.

11.  Đức tin là tin những điều gì mình không thấy, phần thưởng của đức tin là thấy những điều gì mình tin. Câu này trong sách “Những Kinh Nghiệm sống để lại” của Giáo Sư Trần văn Điền.

12.  Để được sống hạnh phúc ở đời này và đời sau, Chúa dạy : “Người ta sống không chỉ nhờ cơm bánh, nhưng còn nhờ mọi lời miệng Thiên Chúa phán ra.” (Mt 4,4) Chúng ta sống không phải chỉ vì đồng tiền, sự giàu có, nhiều tài sản mà còn cần học hỏi lời Chúa, sống và làm việc theo lời Chúa dạy trong thánh kinh.

13.  Cần biết phó thác vào Thiên Chúa toàn năng nên “Mọi nỗi lo âu  anh chị hãy trút cả cho Người, vì Người lo đến anh chị.” (1 Peter 5: 7)

14.  Hãy bắt chước Chúa Giê-su, sống hiền lành và khiêm nhường trong lòng.

15.  Hạnh phúc lớn nhất của đời người là bố thí. Mẹ Têrêsa Calcutta còn nói rằng: “Không phải là bạn đã làm được bao nhiêu việc bác ái mà bạn đã để bao nhiêu tình thương vào việc bác ái đó.”

dsc03617

Hình chụp trên bàn làm việc có cái hộp màu vàng tượng trưng cho cái hòm, mỗi ngày nhìn nó, để  nhắc nhở rồi mình sẽ vào đó trong thời gian tới (chưa biết ngày nào).

Viết xong ngày 21 tháng 12 năm 2016

Tác giả : Phùng văn Phụng