SỰ THAM LAM TÀN ÁC..

From facebook: Lê hồng Song‘s post.
Image may contain: one or more people and outdoor

Lê hồng Song

 SỰ THAM LAM TÀN ÁC..( Lòng tham vô đáy, nhưng chỉ cần những mẩu bánh vụn vặt…) Trích. Môt người quốc dân tác giả Lê Luân.

“Quốc gia nào mà xây dựng bằng lòng tham, thì quốc gia đó sẽ sụp đổ bởi những mẩu bánh mỳ.”

Mới nghe thì có vẻ như đã thấy nhận định này của tôi hàm chứa trong đó đầy những mâu thuẫn và sẽ có nhiều người muốn mắng mỏ tôi ngay khi đọc những câu này. Thế nhưng xin nhẫn nại thêm một chút và chúng ta cùng nhau mổ xẻ để thấy cái điều tôi vừa nói có gì mà cần phải bác bỏ hay không lúc đó cũng chưa muộn.

Chúng ta có thể quan sát mỗi ngày qua các sự kiện liên tiếp. Chẳng phải gì to tát đâu xa, tôi nói ngay đến việc người ta hành xử với nhau tàn ác còn hơn cả loài cầm thú mà chúng có thể sẵn sàng giết thịt nhau khi có loài nào đó tấn công cái tổ hoặc cướp đi miếng ăn của nó. Có phải gì hiếm hoi đâu, chuyện những người không may mà đi trộm chó, gà, trâu hay các tài sản khác của người dân ở những vùng quê, người ta phát hiện ra thì những tên trộm cắp kia chỉ có nước chết hoặc thương tật đầy mình. Dân làng họ xâu xúm vào đánh đập, gậy gộc đủ cả, cứ thế mà nã vào đầu, phang vào chân, tay, mạng sườn kẻ cắp cho đến khi chết. Thế có phải là người ta quyết bảo vệ tài sản của mình đến cùng bằng những hành động vô nhân tính hay không.

Nguyễn Đình Phong, kẻ trộm chó, bị dân đốt cháy đen bên chiếc xe máy.
Nguyễn Đình Phong, kẻ trộm chó, bị dân đốt cháy đen bên chiếc xe máy.
Những hành vi ấy quả là man rợ chứ có đất nước văn minh nào mà lại làm thế như dân chúng chúng ta. Thế thử hỏi luật pháp và chính phủ còn có giá trị gì nữa để mà duy trì và điều chỉnh hành vi con người. Mà nhìn vào đấy thì thấy rõ là người dân đúng là sẽ làm mọi cách kể cả là hung bạo và dãn man nhất để quyết bảo vệ cho được tài sản của mình, dù chẳng phải quá to tát gì. Hiện trạng này ở các vùng quê thì tôi cho là không thiếu đâu. Vậy có phải là họ đang hành xử còn không cả bằng thời thực dân, phong kiến hay không, vì ngày xưa còn có công đường để kêu quan khi làng xóm mâu thuẫn, bắt được kẻ trộm, cướp thì đều lôi lên quan mà tâu bẩm và xét xử theo luật lệ. Chứ cũng không đến nỗi như bây giờ. Mà một dân tộc tàn ác với nhau như thế thì có khi nào đất nước văn minh và tốt hơn lên được không. Tôi cho là chỉ có làm cho con người ngày càng tàn bạo và coi thường luật pháp mà thôi, mà như thế thì cái chính phủ kia cũng bị xem thường nốt chứ đâu có giá trị gì để mà người dân cần đến. Quả là nguy cấp cho một đất nước mà con người sẵn sàng hung khí, hô hào một cách hung hãn để mà hành hạ đồng loại mình. Thật đau đớn và bại hoại hết chỗ nói.

Với chuyện con chó, con trâu đã kinh khủng như vậy. Vậy còn chuyện hôi của khi gặp người tai nạn trên đường, chuyện ngang nhiên nhặt tài sản của người khác đánh rơi hay không may làm vung vãi ra mà người ta kêu trợ giúp nhưng cứ nhơn nhơn chẳng thèm để tâm, lại còn muốn nhặt cho thật nhiều rồi mang về sử dụng như chốn không người. Đấy là hành vi khác gì trộm cướp và coi khinh luật pháp đâu. Thế thì quả là loạn lạc thực sự rồi chứ còn phải chờ đợi đến đao binh, bom đạn, chém giết gì mới cho là loạn lạc thì e là đã quá muộn màng và hết sức ngu dốt.

Với cái miếng ăn và tài sản của mình thì bảo vệ bằng được, nhưng sẵn của người khác hở ra là lấy mất ngay tắp lự. Mà cũng bởi lối suy nghĩ này mà hầu như là ai cũng tính vào chính phủ để có quyền chức mà tìm cách đục khoét của công, làm giàu cho mình và gia đình. Cứ nhìn vào tệ trạng tham nhũng, sự suy cấp về con người, các cơ sở hạ tầng quốc gia thiếu thốn, sơ sài, yếu kém thì có thể thấy rõ nó là kết quả của việc vơ vét cho đầy túi tham của mình mà không để tâm gì đến việc chung của đất nước. Thế nó không xuất phát từ lòng tham vô đáy thì còn là gì vào đây nữa. Tôi không thể tìm ngôn từ nào để mà giải thích chuẩn xác hơn được.

Thế nhưng đó chỉ là những cái vụn vặt và nhỏ mọn thôi, chỉ như những mẩu bánh có thể ăn được ngay tức khắc. Thế còn cái lớn hơn như chuyện chính sách kinh doanh làm ăn, chuyện đánh thuế tiêu dùng, chuyện chèn ép thương nhân, chuyện bị gây phiền hà trong công việc, chuyện bị cướp đoạt tài sản bằng cách tham nhũng ngân khố quốc gia với những con số khổng lồ, mà tất cả những cái đó nó rất thiết thực đánh vào túi tiền và chất lượng sống, vào điều kiện kinh doanh và cơ hội phát triển của người dân, thì dân chúng lại thờ ơ như chuyện riêng của nhà quan, chẳng màng gì cả, vì người ta không thấy nó bị thiệt hại gì như việc tên trộm, cướp lẻn vào nhà bắt trộm con chó hay dắt trộm trâu, bò của người ta đi mất.

Nhận thức của người dân khiến tôi lo lắng tới những hậu họa khôn lường, vì nếu một lúc nào đó họ không thể lao động đủ mà đóng thuế, sông hồ và không khí ô nhiễm, thực phẩm độc hại, bệnh viện thì tăng giá, giáo dục thì nâng học phí, lộ phí đi đường và xăng, dầu, điện, nước cứ leo lên nữa. Thế thì họ định sống thế nào và làm gì để mà trả cho những thứ đó đây, hay lại nhăm nhăm để cướp giật của người khác?

Mà cũng vì cái lòng tham vô đáy nhưng lại dễ thỏa mãn bằng những cái nhỏ nhặt này của người Việt mà các quốc gia khác lợi dụng điểm yếu đó mà khai thác và bóc lột được chúng ta từ tài nguyên thiên nhiên đến trí tuệ và sức người. Họ chỉ cần rót cho ít vốn vào làm ăn, đầu tư, hoặc cho vay với lãi suất thấp, chuyển giao công nghệ giá rẻ (mà có nguy cơ làm ô nhiễm môi trường, độc hại với con người, năng suất thấp, vận hành tốn kém và lại mau hỏng), cam kết vài điều khoản mà có vẻ như có lợi cho chính phủ, cho người dân bằng cách cho ít lợi nhuận hoặc chia sẻ quyền lợi kinh tế, thế là làm ráo, làm tuốt và làm nhanh cật lực. Bởi thế mà chúng ta cứ bị bóc lột sau khi đã bị dụ dỗ và mua chuộc bằng ít lợi ích cho thỏa cái lòng tham của mình. Đây chính là vấn đề lớn của dân tộc mà chúng ta phải nhận ra và thay đổi, nếu không thì chúng ta sẽ luôn bị mua chuộc và lợi dụng để cho người khác làm ăn mà thôi.

Quốc gia nào mà xây dựng bằng lòng tham, thì quốc gia đó sẽ sụp đổ bởi những mẩu bánh mỳ.

Bởi vậy tôi mới nói, đa phần người dân thì lòng tham vô đáy, nhưng chỉ cần những mẩu bánh vụn vặt để no cái bụng và ấm cái thân là đã đủ rồi, chẳng cần gì khác cả. Quốc gia lụn bại và suy vong cũng từ đây mà ra.

DANH NGÔN CỦA MẸ TERESA

DANH NGÔN CỦA MẸ TERESA

ME TERESA

1-/. Bạn có thể làm gì để xây dựng hòa bình thế giới? Hãy về nhà và yêu thương gia đình của mình.
2-/. Tình yêu bắt đầu ở nhà; tình yêu sống trong nhà, và đó là vì sao thế giới hôm nay lại nhiều khổ đau và bất hạnh đến như thế… Con người ngày nay dường như ai cũng quá vội vã, lo lắng muốn đạt được những bước tiến xa hơn và của cải nhiều hơn, và đại loại như thế, đến nỗi con cái có quá ít thời gian với cha mẹ mình. Cha mẹ chúng có quá ít thời gian dành cho nhau, và hòa bình thế giới bị chia cắt bắt đầu từ mái ấm.
3-/. Nếu bạn phán xét người khác, bạn chẳng còn thời gian để yêu thương họ nữa.
4-/. Chúng ta hãy luôn gặp nhau với nụ cười, bởi nụ cười là điểm bắt đầu của yêu thương.
5-/. Quan trọng không phải chúng ta cho đi bao nhiêu, mà là chúng ta dành bao nhiêu sự yêu thương để cho đi.
6-/. Không phải tất cả chúng ta đều làm được những điều vĩ đại. Nhưng chúng ta có thể làm những điều nhỏ nhặt với tình yêu vĩ đại.
7-/. Tình yêu là loại quả của cả bốn mùa, và nằm trong tầm với của mọi bàn tay.
8-/. Đừng nghĩ rằng để chân thật, tình yêu phải phi thường. Điều chúng ta cần là yêu mà không mệt mỏi.
9-/. Việc tốt là những mắt xích tạo nên sợi xích tình yêu.
10-/. Tôi tìm ra một nghịch lý, rằng nếu bạn yêu sâu sắc tới mức đau đớn, sẽ chẳng thể có thêm đau đớn nữa, chỉ có thêm tình yêu.
11-/. Những lời tử tế có thể ngắn và dễ nói, nhưng tiếng vọng của chúng thực sự vĩnh cửu.
12-/. Chúng ta cảm thấy điều chúng ta đang làm chỉ là một giọt nước trong đại dương. Nhưng đại dương sẽ ít hơn chỉ bởi thiếu đi giọt nước ấy.
13-/. Nếu bạn không thể làm trăm người đỡ đói, chỉ cần một mà thôi.
14-/. Một mình tôi không thể thay đổi thế giới, nhưng tôi có thể ném hòn đá lên mặt nước để tạo nhiều con sóng.
15-/.    Đời là cơ hội, hãy nắm bắt.

Đời là cái đẹp, hãy mê say.

Đời là giấc mơ, hãy hiểu rõ.

Đời là thách thức, hãy đương đầu.

Đời là nghĩa vụ, hãy hoàn thành.

Đời là trò chơi, hãy nhập cuộc.

Đời là lời hứa, hãy giữ gìn.

Đời là khổ đau, hãy vượt qua.

Đời là bài hát, hãy hát ca.

Đời là tranh đấu, hãy chấp nhận.

Đời là bi kịch, hãy đối diện.

Đời là phiêu lưu, hãy mạo hiểm.

Đời là may mắn, hãy đón lấy.

Đời quá quý giá, đừng phá hủy nó.

Đời là đời, hãy đấu tranh vì nó.           

 Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

CHÁU ĐÍCH TÔN

CHÁU ĐÍCH TÔN

 CHAU DICH TON

“Nó là cháu đích tôn của dòng họ đó” một lời nói luôn luôn ở trên miệng của nội tôi, cái miệng nhuốm màu đỏ sẫm của những miếng trầu.  Nó giống như một lá bùa hộ thân của tôi.  Khi những tiếng đó vang lên tôi cảm thấy mình được những người trong nhà nể phục, kể cả bố mẹ nữa chứ.  Bố mẹ có dám la mắng tôi đâu, tôi không biết họ sợ nội, hay họ thương tôi.  Lúc đó tôi không hiểu cụm từ “cháu đích tôn” có ý nghĩa gì.  Nhưng tôi biết mình rất quan trọng đối với dòng họ, đi học có người chở đi, chở về, thích đồ chơi gì là có cái đó.  Lên trường tôi không có nhiều bạn bè.  Tôi nghĩ cũng không cần thiết phải có bạn, nên tôi chả xem ai ra gì hết, nhưng được cái là tôi học cũng khá.  Cuộc sống của tôi cứ trôi qua êm đềm cho đến lúc tôi là trở thành sinh viên Trường Đại Học Bách Khoa Hà Nội, cái trường mà bao nhiêu đứa mơ ước cũng khó mà được.  Lên thành phố với tôi là mấy đứa cùng làng, nhà nghèo rớt mùng tơi (có mùng tơi mà rớt là ngon rồi).  Tôi sống ở chung cư, đi xe SH, không cần phải đi làm thêm để kiếm tiền đóng tiền nhà, hết tiền chỉ cần “alo” là ra ngân hàng có liền.  Còn mấy đứa đó sống chung cư, đi làm thêm, đi xe bốn bánh, có máy lạnh, có tài xế riêng nhưng là xe bus.  Đến trường, tôi không chơi với mấy đứa nhà nghèo, mấy đứa đó không xứng đáng chơi cùng tôi.  Tôi cứ vui chơi thỏa thích, chơi game online, có bạn gái, dằn mặt người khác, lấn át người kia…  Những lần như vậy những người bạn cùng quê cứ nói với tô: “đừng đi quá đà Long ơi.”  Nhưng đáp lại tôi chỉ nói:“Mày có biết tao là ai không?  Cháu đích tôn của dòng họ tao đó.”  

 

Nhưng đúng là “gieo nhân nào gặt quả đó.” Một hôm tan học tôi bị mấy người lạ mặt đánh cho một trận, sau đó bị ngất đi và được một người lạ mặt cứu.  Người ấy đưa tôi vào trạm ý tế gần đó, nhờ bác sỹ chăm sóc rồi lặng lẽ bỏ đi lúc nào tôi cũng không biết.  Tôi chỉ biết khi đi người đó để lại cho tôi một tờ giấy “Khóa Linh Thao Cho Sinh Viên” của Dòng Tên dành cho sinh viên, và một lời nhắn “Cố gắng tham gia nhé.”  Mặc dù, là người Công Giáo nhưng tôi có biết đến Linh Thao là cái gì đâu, tôi chỉ biết Dòng Tên là một dòng tu rất nổi tiếng.  Tôi nghĩ không cần thiết, nhưng sau đó tôi nghĩ lại, có mất gì đâu mà không tham gia.

 

“Sao đông vậy trời!”  Đó là câu nói đầu tiên của tôi khi đến đó, và ngạc nhiên hơn nữa người cứu tôi lại là cha hướng dẫn ở đó.  Tôi tham gia vào nhiều thứ trò chơi khởi động cùng với nhiều người xa lạ, mà trước đó tôi xem họ không xứng đáng chơi với tôi, được nghe tiểu sử của Thánh Inhaxio Loyola, Đấng Sáng Lập Dòng Tên.  Nghe xong tôi cảm thấy sao cuộc đời mình giống như thánh nhân vậy, phải chăng đó là một lời mời gọi…?  Một tuần linh thao cứ nhịp điệu: ăn sáng, cầu nguyện, ăn trưa, cầu nguyện, ăn tối, cầu nguyện, phút hồi tâm cuối ngày.  Ngày cuối cùng là ngày dành để hồi tâm về cuộc đời, nhiệm vụ và tìm ra ý nghĩa của mình khi sống ở trên đời này.  Tôi chợt nhận ra rằng mục tiêu sống hiện tại của mình đã đi lệch đường ray, và là số 0 tròn trĩnh.  Cái mác “cháu đích tôn” đã đưa tôi lên một vị trí mà không ai dám lại gần.  Tôi tự cao, tự đại, khinh thường người khác.  Tôi chưa thể tìm thấy cái gọi là mục tiêu, ý nghĩa cuộc sống cho chính mình. 

 

Khóa linh thao kết thúc mà lòng tôi cứ nao nao, có cái gì đó lôi kéo tôi rất mạnh về việc dấn thân theo Chúa.  Tôi đã mạnh dạn gặp cha giám đốc, trình bày vấn đề muốn được tìm hiểu vào Dòng Tên, được cha hẹn gặp một tháng sau lên nhà Ứng Sinh Dòng Tên gặp cha.  Tôi rất vui vì có lẽ tôi tìm được mục tiêu của mình nhưng tôi không ngờ được là những chuyện buồn cũng bắt đầu xảy ra. 

 

Tôi gọi điện về, báo ngay cho nội biết tôi đã tìm ra lý tưởng sống cho chính mình rồi, mường tượng ra cảm xúc của nội khi nghe được tin này chắc nội sẽ vui lắm.  “Mày biết mày là ai không hả Long, sao mày lại làm thế, ai cho mày đi tu?” câu nói đầu tiên của nội khi tôi trình bày với nội điều đó.  Lần đầu tiên tôi thấy nội nổi giận với tôi, hình như mong muốn về một người cháu đi tu không có trong tâm trí của nội. “Về nhà ngay” là câu kết trong cuộc nói chuyện điện thoại giữa tôi và nội, mặc dù thời gian cuộc gọi chưa được 30 giây.  Tôi đành phải nghe lời chứ sao, dù lòng vẫn ao ước được được đi tu nhiều lắm.

 

Trên đường về tôi tự hỏi “Chúa ơi, tại sao cháu đích tôn lại không được đi tu, đi theo Chúa còn phải được sự đồng ý của người nhà nữa hả Chúa?”  Tôi liền nghĩ ngay đến thánh Inhaxio, tại sao Ngài có thể bỏ tất cả được như vậy.  Tôi không biết mình phải nói những gì để thuyết phục được nội tôi đồng ý.  Đến nhà rồi mà tôi cũng không dám vào nhà như những lần trước, tôi sợ!

 

Vào nhà tôi nghe nội la mắng: “Mày có biết đi tu là không lấy được vợ, không thể làm giàu, sống nghèo, sống phải nghe lời người khác không?  Ngoài đời mày muốn gì cũng có, sao mày lại chọn đi tu?”  Bây giờ tôi mới biết rằng nhiệm vụ của cháu đích tôn là gì: nối dõi tông đường, kế thừa sản nghiệp, làm rạng danh gia tộc… nó thật khủng khiếp.  Tối đến tôi cứ suy nghĩ về hai câu nói của Chúa Giêsu “từ bỏ mọi sự mà theoThầy,” và trong thư của Thánh Phao Lô “vâng lời hơn của lễ,” sao nó đối nghịch nhau như vậy, tôi không biết nên đi theo đường nào.  Nếu là Chúa thì Ngài sẽ chọn con đường nào?  Tôi biết Ngài đã dành cho tôi con đường dẫn về trời, có sự sống đời sau miễn là tôi có chấp nhận nó hay không.  Có lẽ tôi đã nhận được sự giúp đỡ, sự hướng dẫn của Chúa qua mẹ, mẹ gặp tôi và nói rằng: “cố lên đi con, mẹ sẽ ủng hộ con.”  Bạn có biết cảm giác tôi khi đó không?  Tôi vui mừng ở trong lòng và thầm cảm ơn Chúa.

 

Nhưng tôi cũng không thể không nghe lời của nội được.  Tôi lên thành phố với câu nói của nội “nếu mày đi tu, tao sẽ từ mày luôn, tao không muốn có đứa cháu ngu như mày” nó cứ quấn quýt vào tôi.  Tôi suy đi nghĩ lại câu nói đó của nội, nếu đi tu có phải tôi là một người cháu bất hiếu, vì không nghe lời của nội?  Tôi không đủ can đảm để đi tiếp, hay gặp cha linh hướng nữa.  Sau mấy ngày đắn đo tôi quyết định lên gặp cha, trình bày với cha.  Cha đã nói với tôi một câu: “Con có dám từ bỏ mọi thứ đó để trở thành một Giêsu hữu không?  Nếu con dám thì mọi việc còn lại Ngài sẽ lo cho con.”  Tôi trở về suy nghĩ nhiều và nhờ câu nói đó của Cha mà tôi đã dám từ bỏ, và tham gia Gia Đình Ứng Sinh, nhưng tôi sống ngoại trú, vì tôi nghĩ mình còn rất nhiều vấn đề về gia đình, về sống cộng đoàn.

 

Kết thúc 4 năm học với bao nhiêu thứ cám dỗ, những thứ của đời thường đôi lúc làm tôi chùn bước, nản chí.  Nhưng trong quá trình học được tham gia Gia Đình Ứng Sinh tôi cảm thấy mình trưởng thành hơn, học được nhiều hơn.  Cầm tấm bằng loại giỏi trên tay trong ngày ra trường, đối với nhiều người đó là một niềm vui, nhưng đối với tôi là một cái gì đó không vui, vì bây giờ tôi muốn tham gia vào sống nội trú để tìm hiểu và trau dồi đời sống cộng đoàn.  Tôi không muốn làm một người cháu bất hiếu, đôi khi tôi muốn có một sự kiện gì đó để thay đổi, gỡ nút thắt…  Và rồi… Nội tôi mất.  Tôi bỏ lại quê hương, dòng họ, bố mẹ cùng đứa em gái để theo Chúa.  Tôi đi tu với lời nói xấu sau lưng“thằng đó sao ngu quá, không có lòng hiếu thảo, nó bỏ cha mẹ mà đi.”  Nhưng tôi luôn tin tưởng rằng “mình phục vụ Chúa, không lẽ Ngài không lo cho gia đình mình sao?”

Tôi nhận ra một điều dù là ai, xuất thân là gì, khó khăn thế nào, hoàn cảnh ra sao chăng nữa thì cũng sẽ được mời gọi đi theo con đường Giê-su đã đi.  Dù đó là “cháu đích tôn” đi nữa chỉ cần tôi dám “Từ Bỏ” và “Vượt Trùng Khơi”.

Long Nguyen

Nguồn: http://ungsinhdongten.net

langthangchieutim gởi

GIỚI THIỆU CHÚA KITÔ

GIỚI THIỆU CHÚA KITÔ

 

ĐGM Vũ Duy Thống

CHUA KI TO

 

 Nếu khởi đầu Mùa Quanh Năm là sự nhận diện thiên tính của Chúa Giêsu khi Người chịu phép Rửa nơi sông Giođan và cũng là nhận diện phẩm giá Kitô hữu khởi đi từ ngày họ lãnh phép Rửa Tội, thì Chúa Nhật thứ hai Thường Niên được xem như một khai triển phẩm giá ấy về mặt sứ vụ.  Thật vậy, đảm nhận cuộc sống làm người và đón nhận cuộc đời làm con Chúa, tín hữu không chỉ sống đơn lẻ mà còn sống giữa những người khác, thế nên nét tươi tắn nhất trong sứ vụ của họ là giới thiệu Chúa Kitô cho những kẻ xung quanh mình.  Nhưng vấn đề là phải làm sao để giới thiệu Chúa Kitô cho có hiệu quả.

 

Dựa trên trang Tin Mừng hôm nay về việc Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Kitô cho những kẻ đương thời, ta gặp thấy những tiêu chuẩn xác định hiệu quả cho việc giới thiệu ấy.

 

1) Giới thiệu Chúa Kitô bằng kinh nghiệm bản thân

 

Đây là tiêu chuẩn quan trọng có khả năng đi vào lòng người, bởi lẽ “con người hôm nay ít thích nghe những lời dạy cho bằng nghe những chứng tá” (Gioan Phaolô II).  Nếu chỉ giới thiệu Đức Kitô như một học thuyết, thì dẫu chủ quan mình có nắm vững và say mê, Đức Kitô ấy vẫn chỉ là một lý tưởng còn xa lạ chưa đụng chạm thiết thực với đời người.  Nếu chỉ giới thiệu Đức Kitô như một hệ thống tín điều, thì dù cho có xác tín đến đâu, Đức Kitô ấy vẫn còn xa vời, chưa phải là điểm quy chiếu thiết thân cho cuộc sống.

 

Thế nên, tiêu chuẩn hàng đầu là cần giới thiệu Đức Kitô như một Đấng mà mình đã tiếp cận, gặp gỡ và kết thân.  Hiện nay mình đang sống trong Người như kiểu nói của thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không phải là tôi sống mà là Đức Kitô sống trong tôi,” và do thúc bách bởi sự sống ấy mà mình giới thiệu Người cho người khác.  Người là khởi điểm đồng thời cũng là đích điểm cho việc giới thiệu này.

Với kinh nghiệm bản thân, ta giới thiệu sự xác tín của ta vào Đức Kitô và đó cũng chính là sự khả tín của điều ta giới thiệu.

 

Gioan Tẩy Giả trong Tin Mừng đã không làm điều gì khác ngoài việc giới thiệu qua chứng từ về một kinh nghiệm ở ngôi thứ nhất số ít: “Tôi đã thấy và tôi xin làm chứng.”

 

2) Giới thiệu Đức Kitô là Đấng Cứu Độ

 

Có một thực tế không thể phủ nhận là khi giới thiệu Đức Kitô, thường ta hay rơi vào một trong hai thái cực:

 

Hoặc quá chủ quan: giới thiệu một Chúa Kitô không như Người như mình tưởng, mình nghĩ.  Coi chừng!  Thiên Chúa tạo dựng con người “giống hình ảnh Thiên Chúa”, nhưng xem ra con người lại có khuynh hướng nắn đúc một Thiên Chúa theo như mình nghĩ, “giống hình ảnh con người.”  Có lẽ chuyện dân Do Thái ở Ai Cập năm xưa lấy hình ảnh bò vàng làm tượng thờ phải được xem như một kinh nghiệm đau lòng.

 

Hoặc quá chung chung: giới thiệu một Chúa Kitô không minh bạch xác đáng, có nguy cơ giản lược đánh đồng coi Kitô giáo cũng chỉ là một trong nhiều tôn giáo ngang hàng, và Đức Kitô không còn là Đấng Cứu Độ duy nhất nữa.  Có lần đến thăm nhà một tân tòng, tôi gặp thấy cảnh tổng hợp nhiêu khê: truyền thống gia đình ông bà cha mẹ theo Phật Giáo, con trai theo Tin Lành, cô gái vào Công Giáo, còn cậu em là đối tượng một đảng nên không theo tôn giáo nào.  Bà mẹ gia đình nói trổng như muốn phân bua về việc tự do chọn lựa niềm tin của con cái: “Ôi! Đạo nào cũng tốt, đều dạy ăn ngay ở lành cả ấy mà.”  Trong suy nghĩ của người mẹ này, Đức Kitô cũng ngồi chung chiếu với những vị cổ võ đạo đức nhân sinh.  Thế thôi.

 

Thiết nghĩ, giới thiệu Đức Kitô là phải trình bày cho thấy Người là Thiên Chúa cứu rỗi nhân loại, là Đấng Cứu Độ trần gian, là Đấng từ trời xuống để đem ơn giải thoát đến tất cả mọi người và đạt tới từng người.  Nét độc sáng của Kitô giáo chính là đây.  Và Đức Kitô sở dĩ thiết thân đối với người đời bởi Người chính là Đấng Cứu Thế.

 

Gioan Tẩy Giả trong Tin Mừng đã dứt khoát giới thiệu Đức Kitô cho dân chúng bằng một hình ảnh đặc biệt cho thấy Người là Đấng Cứu Độ: “Đây Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian.”

 

3) Giới thiệu Đức Kitô nhờ Thánh Thần

 

Giới thiệu Đức Kitô là công cuộc dài hơi, thậm chí là công việc một đời, vì thế đòi hỏi người giới thiệu không chỉ như kẻ chào hàng tiếp thị, mà phải đầu tư để học biết và học hiểu, học tập và học hành, học ngang và học dọc, học tới và học lui; nghĩa là phải nỗ lực hợp tác với ơn thánh bằng vận dụng hết công suất những khả năng Chúa ban mà chu toàn nghĩa vụ cũng là ý nghĩa cuộc đời mình.  Ngày nào còn là Kitô hữu, ngày đó còn phải gắn bó và giới thiệu Đức Kitô cho người khác.  Đó là yếu tố thuộc về căn tính.

 

Giới thiệu Đức Kitô cũng là một công trình thuộc về sứ vụ truyền giáo của mọi thành viên trong Giáo Hội, nghĩa là thuộc về lẽ công bình.  Ai đã nhận được lẽ sống Đức Kitô thì cũng canh cánh bên lòng một đòi buộc phải tiếp nối sứ mạng giới thiệu sự sống ấy cho những người mình gặp gỡ trong mọi cảnh ngộ cuộc đời.  Chả thế mà sứ vụ cũng đồng nghĩa với sự lên đường.  Đồng quà tấm bánh có thể giữ lại chứ sự sống mà giữ lại thì cũng đồng nghĩa với sự thui chột ngột ngạt ngay trong vòng tay ôm chặt của người sở hữu.

 

Giới thiệu Đức Kitô như thế cũng là cuộc hiến thân làm chứng, đón nhận hy sinh, chấp nhận thiệt thòi, quên mình xóa mình, thao thức miệt mài, “làm ngày không đủ tranh thủ làm đêm.”  Không dễ dàng, không dễ dãi và không dễ chịu.  Thế nên đó là một công trình sức người tự mình không làm nổi ngoài ơn của Thánh Thần.  Vả chăng chính Thánh Thần mới giữ vai trò chủ động trong công trình lớn lao này, còn con người dẫu hết lòng hết sức cũng chỉ là dụng cụ góp phần.

 

Nếu hôm qua Gioan Tẩy Giả trong Tin Mừng đã dựa vào dấu chỉ Thánh Thần để nhận biết Đấng Cứu Thế: “Ngươi thấy Thần Khí xuống và ngự trên ai, thì đó chính là Đấng làm phép Rửa trong Thánh Thần”, thì hôm nay tín hữu cũng dựa vào Thánh Thần để chu toàn sứ mạng giới thiệu Đức Kitô cho người đồng thời với mình.

 

Tóm lại, giới thiệu Chúa Kitô bằng kinh nghiệm bản thân, giới thiệu Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế và giới thiệu Chúa Kitô nhờ Thánh Thần.  Đó là những tiêu chuẩn giúp cho việc giới thiệu này mang lại hiệu quả mong muốn.

 

Vì thế, Kitô hữu không chỉ là người mang Chúa Kitô trong mình, không chỉ thuộc về Chúa Kitô mà còn là người phải giới thiệu Chúa Kitô cũng như biết cách giới thiệu Chúa Kitô làm sao cho có hiệu quả nữa.  Như một người chào hàng không mệt mỏi, như một chứng nhân luôn trung thành, và như một lẽ sống hạnh phúc, ta quyết chí lên đường.

 

Trong buổi chia sẻ của những tân tòng lớp trước dành cho lớp sau, một cô gái mười sáu tuổi đã chân thành cho biết lý do mình gia nhập đạo Công Giáo: “Tôi theo đạo vì lúc nhỏ học chung với một người bạn Công Giáo.  Bạn ấy rủ tôi đi lễ, tôi đi theo dẫu chẳng hiểu gì.  Nhưng vì bạn ấy đối xử tốt với tôi, nhất là trong những lúc ngặt nghèo, nên qua gương sống đức tin của bạn ấy, dần dà tôi hiểu ra lẽ đạo và cuối cùng tôi tìm đến với lớp giáo lý khai tâm, và hôm nay được nhận Bí tích Thanh Tẩy.”

 

Mong rằng đây không chỉ là chuyện cá biệt mà là chuyện điển hình đã được nhân lên trong mọi cộng đoàn tín hữu.

 

ĐGM Vũ Duy Thống

Ngoại trưởng Mỹ được đề cử: Trung Quốc phải ngưng ngay việc bồi đắp đảo ở Biển Đông

Ngoại trưởng Mỹ được đề cử: Trung Quốc phải ngưng ngay việc bồi đắp đảo ở Biển Đông

Ông Rex Tillerson điều trần trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ hôm 11/01/2017.

Ông Rex Tillerson điều trần trước Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ hôm 11/01/2017.

AFP

Nhân vật được Tổng thống đắc cử Donald Trump chọn giữ chức vụ Ngoại trưởng Hoa Kỳ, ông Rex Tillerson, hôm qua 11/01 phát biểu trong phiên điều trần về việc bổ nhiệm tại Ủy ban Đối ngoại Thượng viện rằng hoạt động bồi lắp đảo nhân tạo rồi bố trí khí tài trên đó của Trung Quốc ở Biển Đông là bất hợp pháp, tương tự như vụ Nga chiếm bán đảo Crimea của Ukraine.

Khi được hỏi liệu bản thân có ủng hộ đường lối cứng rắn hơn đối với Trung Quốc hay không? thì ông Rex Tillerson trả lời là sẽ phải nhắn gửi đến Trung Quốc một tín hiệu rõ ràng hơn: đó là trước tiên Trung Quốc phải ngưng ngay việc bồi đắp đảo, thứ đến là việc tiếp cận đến những đảo nhân tạo đó cũng không được phép.

Tuy nhiên ông Rex Tillerson không nói rõ chi tiết về biện pháp nào sẽ thực hiện nhằm chặn Trung Quốc tại những đảo nhân tạo được dựng nên ở Biển Đông như thế.

Trung Quốc phải ngưng ngay việc bồi đắp đảo ở Biển Đông, và việc tiếp cận đến những đảo đó cũng không được phép.
Rex Tillerson

Hãng thông tấn Reuters loan tin như vừa nêu và cho biết cả đội ngũ nhận chuyển giao của Tổng thổng đắc cử Donald Trump cũng chưa có trả lời ngay về những biện pháp cụ thể chặn Trung Quốc tại những đảo nhân tạo bồi đắp lên ở Biển Đông.

Bắc Kinh dịu giọng

Phản ứng trước các tuyên bố cứng rắn của nhân vật được đề cử nắm chức Ngoại trưởng Mỹ nhiệm kỳ tới, chính phủ Bắc Kinh hôm nay không tỏ ra gay gắt như thường lệ.

Phát ngôn nhân Lục Khảng của Bộ Ngoại giao Trung Quốc lên tiếng cho rằng căng thẳng tại tuyến đường hàng hải có tầm chiến lược quan trọng qua Biển Đông đã giảm bớt và những quốc gia bên ngoài cần hỗ trợ nỗ lực hướng đến ổn định tại đó.

Ông Lục Khảng nhắc lại mối quan hệ Mỹ- Trung được dựa trên căn bản không đối đầu, không xung khắc, hợp tác đôi bên cùng có lợi. Hai phía cần tôn trọng lẫn nhau.

Giới ngoại giao Trung Quốc lên tiếng cho rằng họ không quá lo lắng về những lời lẽ mạnh mẽ của tổng thống đắc cử Donald Trump cũng như những nhân vật được chọn vào tân chính phủ Hoa Kỳ. Trung Quốc sẽ không thay đổi phương pháp căn bản tích cực tiếp cận trong mối quan hệ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.

Việt Nam cẩn trọng

Cũng liên quan đến tuyên bố cứng rắn của ông Rex Tillerson về các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông, Việt Nam hôm nay đưa ra các phát biểu như thường lệ.

Phát ngôn nhân Lê Hải Bình của Bộ Ngoại giao Việt Nam khi được báo giới hỏi về những lời lẽ cứng rắn của ông Rex Tillerson như vừa nêu đối với Trung Quốc tại Biển Đông, ông Bình cho rằng “các bên liên quan và các bên trong, ngoài khu vực đều phải có trách nhiệm đóng góp mang tính xây dựng vào mục tiêu chung cũng như đảm bảo lợi ích chung”.

Lục Vân Tiên” mắc oán và sự vô cảm

Lục Vân Tiên” mắc oán và sự vô cảm

Một học sinh cấp 3 đang đi đường bị một người đột quỵ ngã vào, em đưa ông vào bệnh viện và bị khép tội oan uổng.

luc-van-tien-mac-oan-va-nhung-ong-quan-vo-cam_242221623

Em Thiện (giữa) được trở về với gia đình sau 52 ngày ngồi tù. Ảnh Báo Tiền Phong.

Mấy hôm nay, trên nhiều báo, vụ việc về nam học sinh Đỗ Quang Thiện- bị xe đặc chủng vào tận trường áp giải và bắt phải chịu tù giam vì liên quan đến một vụ tai nạn giao thông đang khiến dư luận rất chú ý.

Cách đây 4 năm, trưa 20/9/2012, tại một giao lộ nội thành Buôn Ma Thuột xảy ra một vụ va quẹt giữa 2 xe máy, khiến 1 người đàn ông lớn tuổi và 1 nam sinh trung học cùng ngã xuống đường.

Thấy người lớn tuổi nồng mùi bia rượu, nằm im không dậy được, nam sinh gọi xe taxi đưa nạn nhân vào Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đắk Lắk. Theo lời khai của nam sinh tên Thiện, thì em không hề đụng vào nạn nhân mà nạn nhân tự ngã vào em.

Các kết quả xét nghiệm thương tích sau đó của cơ quan y tế đã chứng minh lời Thiện nói là đúng, bệnh nhân không có tổn thương gì bên ngoài cơ thể, mà do đột qụy, liệt nửa người bên trái do xuất huyết vùng bao trong bán cầu não phải. Đây là bệnh lý nội khoa.

Khi vụ việc ra đến tòa án, ngày 26/9/2013, Bệnh viện tỉnh Đắk Lắk đã có công văn 696 gửi đến Viện KSND khẳng định: “Đây là bệnh nội khoa, không liên quan gì đến tai nạn giao thông, có thể đột quy xuất hiện làm cho bệnh nhân té xe trùng với thời điểm va chạm khi đang lưu thông trên đường”.

luc-van-tien-mac-oan-va-nhung-ong-quan-vo-cam_242224529

Thiện những ngày còn trong tù và lá đơn kiến nghị xin hoãn thi hành án của bạn bè cùng lớp. Ảnh: Báo Tiền Phong

VIỆT NAM, MỘT THỜI THỪA MÁU

VIỆT NAM, MỘT THỜI THỪA MÁU

FB Trần Trung Đạo

Trẻ em VN chết trong chiến tranh. Nguồn: internet/ FB Trần Trung Đạo

Trẻ em VN chết trong chiến tranh. Nguồn: internet/ FB Trần Trung Đạo

Trong ngôn ngữ Việt Nam, chữ “máu” không đơn giản chỉ một bộ phận cơ thể hay “thiếu máu” không phải dùng để chỉ một nguyên nhân ảnh hưởng đến sức khỏe như tại các nước khác mà còn khơi dậy nỗi đau đã in sâu trong nhận thức con người.

Nhắc tới chuyện thiếu máu năm nay, không thể quên có một thời Việt Nam dư thừa máu. Đâu cũng đều thấy máu. Máu chảy đầy sông. Máu ngập ruộng đồng. Máu loang đường phố. Thừa đến nỗi, máu của nhiều triệu người Việt đã đổ xuống không chỉ để thỏa mãn tham vọng bành trướng của Mao và CS quốc tế mà còn giúp các quốc gia vùng Đông Nam Á đang nghèo nàn bỗng trở nên giàu có.

James Macdonald trong tác phẩm When Globalization Fails: The Rise and Fall of Pax Americana, nhắc lại câu nói của cố TT Singapore Lý Quang Diệu, chiến tranh Việt Nam (đúng ra nên gọi “máu Việt Nam”) đã “giúp các quốc gia Đông Nam Á có thêm thời gian” để nâng cao mức sống, bởi vì nếu không, “Đông Nam Á chắc chắn đã lọt vào tay CS”. [1]

Đọc câu nói của cố TT Lý Quang Diệu và tìm hiểu các diễn biến chính trị trong cuộc chiến Việt Nam sẽ thấy ngay từ đầu cuộc chiến, nhiều triệu người Việt đã đổ máu một cách oan uổng cho ý thức hệ CS và bá quyền Trung Cộng chứ chẳng phải để “giải phóng dân tộc” hay “thống nhất đất nước” như hệ thống tuyên truyền của đảng nhồi nhét vào nhận thức của các thế hệ Việt Nam từ 1945 đến nay.

Máu Việt Nam, tham vọng Mao Trạch Đông

Đảng CSVN không chế tạo được một khẩu súng, một viên đạn, một túi lương khô nào nhưng có khả năng rút máu của nhân dân Việt Nam để cung cấp cho tham vọng của Mao.

Stalin, trong buổi họp với Mao và Hồ Chí Minh tại Moscow giữa tháng Hai, 1950 đã phó thác sinh mạng CSVN vào tay Trung Cộng. Theo William J. Duiker trong Ho Chi Minh: A Life, Stalin nói với Hồ Chí Minh tại Moscow “Từ bây giờ về sau, các đồng chí có thể tin tưởng vào sự giúp đỡ của Liên Xô, đặc biệt hiện nay sau thời kỳ chiến tranh, thặng dư của chúng tôi còn rất nhiều, và chúng tôi sẽ chuyển đến các đồng chí qua ngã Trung Quốc. Tuy nhiên vì điều kiện thiên nhiên, chính yếu vẫn là Trung Quốc sẽ giúp đỡ các đồng chí. Những gì Trung Quốc thiếu chúng tôi sẽ cung cấp.” Tới phiên Mao, y cũng lần nữa xác định với Hồ “Bất cứ những gì Trung Quốc có mà Việt Nam cần, chúng tôi sẽ cung cấp.”

Từ đó, Mao sử dụng đảng CSVN như những tay sai trung thành phục vụ cho lòng căm thù Mỹ của riêng y và bảo vệ vùng an toàn phía nam của Trung Cộng. CSVN, cũng từ đó, hoàn toàn lệ thuộc vào Trung Cộng, không chỉ phương tiện chiến tranh, kinh tế, quốc phòng, hệ ý thức, cơ sở lý luận mà cả cách nói, cách ăn mặc, cách hôn hít, chào hỏi.

Sự thù địch Mỹ trong lòng Mao bắt đầu từ thời gian Mao còn ở Diên An khi tàn quân của Mao bị quân Tưởng Giới Thạch bao vây và Mỹ lại công khai tuyên bố chỉ ủng hộ phe Tưởng. Lòng thù hận dâng cao sau xung đột Eo Biển Đài Loan, và trầm trọng hơn, sau chiến tranh Triều Tiên với gần 400 ngàn quân Trung Cộng bị giết, trong số đó có Mao Ngạn Anh (Mao Anying), con trai trưởng và gần gũi nhất của Mao. Đối với Mao kẻ thù số một là Mỹ. [2]

Mao chỉ thị toàn bộ bộ máy tuyên truyền tại Trung Cộng phải chống Mỹ bằng mọi cách. Chống Mỹ từ xa, chống Mỹ ở gần, chống Mỹ trong lý luận, chống Mỹ trong thực tế, chống Mỹ khi có mặt Mỹ và chống Mỹ khi chưa có mặt Mỹ.

Theo lệnh Mao, trong hội nghị lần thứ sáu của Trung ương Đảng CSVN từ ngày 15 đến 17 tháng 7 năm 1954, Hồ Chí Minh và bộ chính trị đảng CSVN đã nghĩ đến chuyện đánh Mỹ “Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ”. [3]

Khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước” được thai nghén từ quan điểm và thời điểm này. Nhưng “nước” trong khẩu hiệu “Chống Mỹ cứu nước” phải hiểu là nước Tàu chứ không phải nước Việt. Lý do, trong thời điểm 17 tháng 7, 1954 chưa có một người lính hay một cố vấn Mỹ nào ở miền Nam Việt Nam. Hôm đó, ngay cả hiệp định Geneva cũng còn chưa ký.

Đọc cái tài liệu trong thời kỳ chống Pháp để thấy Mao gần như đơn phương quyết định mọi hoạt động quân sự của Việt Minh kể cả việc chọn ngày, chọn tháng cần phải chiếm cho được Điện Biên Phủ. Theo Qiang Zhai, trong tác phẩm China and Vietnam war 1950-1975, Mao đã theo dõi một cách tường tận và chỉ thị một cách chi tiết cho từng sư đoàn Việt Minh trong mặt trận Điện Biên Phủ. [4]

Người viết xin mở ngoặc ở đây. Điều đó không có nghĩa những người Việt Nam đã hy sinh dù trong màu áo “Việt Minh”, trên đường tấn công vào bản doanh của tướng de Castries là những người đánh thuê cho Trung Cộng hay phục vụ một cách có ý thức cho chủ trương nhuộm đỏ Việt Nam của CS Quốc Tế. Không. Họ không biết điều đó. Đa số nông dân tay lấm chân bùn kia là những người Việt Nam yêu nước và họ đã chết trong ước mơ một ngày Việt Nam sẽ thực sự là một nước tự do, độc lập. Lòng yêu nước chân thành và trong sáng của họ sẽ không rơi vào quên lãng.

Nhuộm máu miền Nam

Kiên trì với mục đích CS hóa Việt Nam đề ra từ 1930, vào tháng 5, 1959, Ban Chấp hành Trung ương đảng Lao Động sau khi biết rằng việc chiến miền Nam bằng phương tiện chính trị không thành, đã quyết định chiếm miền Nam bằng võ lực dù phải “đốt cháy cả dãy Trường Sơn”.

Giáo sư Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học công nghệ của CSVN trong bài viết Đã Đến Lúc Cần Phải Đối Thoại đăng trên mạng Bauxit Viet Nam hôm 23/08/2016 cũng thừa nhận nguyên nhân sâu xa của thực trạng bi thảm tại Việt Nam hiện nay phát xuất từ lý do ý thức hệ: “Nguyên nhân gốc rễ của mọi ý kiến bất đồng, mọi bức xúc và phẫn uất đều nằm trong những điều bất cập, phản khoa học, phản tiến bộ, phản dân chủ của Cương lĩnh đảng CSVN và Hiến pháp nước CHXHCNVN”. [5]

Đảng CSVN từ ngày thành lập 3 tháng 2, 1930 đến nay đã có cả thảy 4 cương lĩnh đảng, gồm 3 cương lĩnh về “cách mạng dân tộc dân chủ” và 1 Cương lĩnh “về thời kỳ đổi mới, xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Nội dung có thay đổi trong mỗi thời kỳ nhưng mục tiêu tối hậu vẫn không thay đổi như Nguyễn Thanh Tâm thuộc Viện Lịch sử Đảng khẳng định: “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Đó là mục đích lâu dài, cuối cùng của Đảng và cách mạng Việt Nam.”[6]

Người viết cám ơn Gs Chu Hảo cuối cùng đã thấy ra điều đó. Rất tiếc giải pháp giáo sư đưa ra lại là “đối thoại”, một giải pháp không đúng với lý luận lẫn thực tế chính trị như đã diễn ra tại các quốc gia cựu CS Đông Âu và Liên Xô.

Từ ngày thành lập tại Hong Kong năm 1930, dù hoạt động dưới nhiều danh xưng (đảng Cộng sản Đông Dương, Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương, đảng Lao động Việt Nam, đảng Nhân dân Cách mạng ở miền Nam, đảng Cộng sản Việt Nam) nhưng đảng luôn kiên trì và hoàn toàn nhất quán về mục đích nhuộm đỏ Việt Nam.

Máu Việt Nam giúp các nước Đông Nam Á có cơ hội làm giàu

Trong khi máu của nhiều triệu người Việt trên cả hai miền Nam Bắc đổ xuống cho ý thức hệ CS và tham vọng của Mao Trạch Đông, các quốc gia Đông Nam Á tận dụng thời gian và cơ hội để phát triển kinh tế như TT Lý Quang Diệu thừa nhận.

Lấy thời điểm 1965 khi chiến tranh Việt Nam gia tăng cường độ, nền kinh tế Singapore tính theo GDP theo đầu người chỉ vào khoảng 500 đô la, tương đương với Mexico và Nam Phi. Năm 2015, GDP theo đầu người của Singapore lên đến 56 ngàn đô la, ngang với Đức.

Phát triển nhanh không kém với Singapore là Nam Hàn. Trong thập niên từ 1950 đến 1960 Nam Hàn là quốc gia nghèo nhất thế giới, nghèo hơn cả Nam Việt Nam, Bolivia và Mozambique, nhưng ngày nay, quốc gia này giàu hơn cả Tây Ban Nha và New Zealand. [7]

Các quốc gia khác trong vùng từ Thái Lan đến Nam Dương, Mã Lai đều phát triển nhanh chóng trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam nhờ chính sách đầu tư rộng rãi của Mỹ để lấy lòng đồng minh nhằm bao vây và ngăn chận CS lan tràn.

Mọi việc đều có nguyên nhân

Mùa Giáng Sinh vừa rồi, giáo sư Tương Lai trong bài viết Nhớ Lại Mùa Giáng Sinh B-52 đăng trên nhiều báo trong nước vẫn tiếp tục một giọng điệu tuyên truyền đã được đảng lặp đi lặp lại hơn 40 năm qua: “Hiểu thêm những điều này để càng thấy rõ xương máu của các chiến sĩ và nhân dân ta trong một cuộc chiến không cân sức giữa biết bao những toan tính lợi ích của các nước lớn là đau đớn và uất hận đến thế nào cho thân phận một nước nhỏ trong trùng điệp những mưu mô được khoác ra ngoài những tấm áo sặc sỡ! “ [8]

Thưa giáo sư, mọi việc trên đời đều có nguyên nhân.

Nếu chịu lắng lòng và suy nghĩ, ông sẽ truy ra được nguồn gốc của chiến tranh Việt Nam. Tại sao Mỹ không ném bom hay can thiệp vào nội bộ Senegal, Tunisia, Morocco hay hàng trăm thuộc địa khác của Pháp mà chỉ can thiệp vào thuộc địa Việt Nam?

Ngay cả trong cuộc chiến tranh giành độc lập đẫm máu của Algeria chống thực dân Pháp, dù là đồng minh lâu năm với lãnh tụ Pháp de Gaulle, Mỹ đã công khai bày tỏ cảm tình với lý tưởng độc lập, tự do của nhân dân Algiera và xem xung đột Algeria là chuyện nội bộ của Pháp. [9]

Sau Thế chiến Thứ hai Mỹ chủ trương giải thực nhưng sự đe dọa của Trung Cộng và CSVN đã làm Mỹ thay đổi chính sách đối với Á Châu. TT Richard Nixon thừa nhận việc Mỹ đã đổ nhiều trăm triệu đô la giúp Pháp chỉ với mục đích duy nhất là ngăn chận làn sóng đỏ CS từ Bắc Kinh xuống Đông Nam Á qua ngã Hà Nội. Sau khi Pháp rút, Mỹ đã cố gắng hết sức trong nhiều năm để bảo vệ miền Nam.

Nếu chịu lắng lòng và đọc lại các sử liệu quốc tế, ông cũng biết, trong suốt cuộc chiến Việt Nam, Mỹ không hề chủ trương đổ bộ lên Hải Phòng như đã từng đổ bộ Incheon tháng 9, 1950 để mở đường tấn công Bắc Hàn. Miền Nam trong hai thời kỳ đệ nhất và đệ nhị cộng hòa cũng không có ý định chiếm đoạt lãnh thổ miền Bắc hay lật đổ cơ chế CS miền Bắc. Sau gần một trăm năm chịu đựng không biết bao nhiêu đau khổ dưới ách thực dân, mục đích của nhân dân miền Nam là có được cơm no, áo ấm, có được cuộc sống tự do và xây dựng miền Nam thành một nước cộng hòa hiện đại.

Sau Thế chiến Thứ hai, phong trào giải thực được phát động từ Á sang Phi. Phần lớn các dân tộc bị trị đã giành lại nền tự chủ bằng các cuộc vận động hòa bình hay được trao trả quyền độc lập, riêng Việt Nam thì không. Việt Nam tiếp tục chìm sâu trong biển máu ý thức hệ cho đến 1975 và rồi tiếp tục chịu đựng nghèo nàn, độc tài, lạc hậu cho đến hôm nay.

Không cần phải một giáo sư mà một người bình thường cũng biết chính cơ chế chính trị, kinh tế và văn hóa độc quyền cộng sản hiện nay là nguyên nhân tạo ra tình trạng chậm tiến của đất nước, và do đó cần phải được tháo gỡ càng nhanh càng tốt, càng sớm càng tốt. Đừng tiếc nuối.

Trần Trung Đạo

_____

[1] James Macdonald, When Globalization Fails: The Rise and Fall of Pax Americana, 2015

[2] Seymour Topping, the former managing editor of the New York Times. China vs. the US: The Roots of a Love-Hate Relationship (Part 1), World Policy Journal, Dec 14, 2011.

[3] Lịch sử Việt Nam, Chương IV: Đảng Lãnh Đạo Cách Mạng xã hội chủ nghĩa ở miềN Bắc Và kháng chiến chống Mỹ, cứu Nước(1954-1975)

[4]Quang Zhai, China & The Vietnam Wars, 1950-1975, University of North Carolina Press, 2000.

[5] Chu Hảo, Đã đến lúc cần phải đối thoại, Bauxit Viet Nam, 23/08/2016

[6] Nguyễn Thanh Tâm, Viện Lịch sử Đảng- Học viện Chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, các cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam, Tuyên Giáo, 31/1/2010

[7] South Korea: One of the World’s Great Success Stories Heads to the Polls

[8] Tương Lai, Nhớ lại mùa giáng sinh B-52 (Mênh mông thế sự 58), Bauxite Viet Nam, 26/12/2016

[9] France and the Algerian War, 1954-1962: Strategy, Operations and Diplomacy, Martin S. Alexander, J.F.V. Keiger, pp 148-150

MÙA XUÂN TÂY TẠNG VÀ CÂU CHUYỆN NHỮNG DÒNG SÔNG

MÙA XUÂN TÂY TẠNG VÀ CÂU CHUYỆN NHỮNG DÒNG SÔNG

Ngô Thế Vinh

Hình 1: Đức Dalai Lama và Cực Thứ Ba của Trái Đất. nguồn: activeremedy.org

Hình 1: Đức Dalai Lama và Cực Thứ Ba của Trái Đất. nguồn: activeremedy.org

Gửi Nhóm Bạn Cửu Long

If Tibet dries, Asia dies. Nghĩa là: Nếu Tây Tạng khô hạn, Châu Á chết

CỰC THỨ BA CỦA TRÁI ĐẤT

Khoảng ba trăm triệu năm trước, Tây Tạng còn nằm dưới đáy biển Tethys nguyên là một đại dương mênh mông bao trùm cả diện tích Châu Á và Ấn Độ. Do hành trình va chạm dữ dội của hai khối tiền lục địa Gondwanaland và Laurasia tạo nên cơn địa chấn với sức ép khổng lồ từ khối đất Ấn Độ dồn lên phía bắc tạo thành dãy Hy Mã Lạp Sơn và Cao nguyên Tây Tạng.

Với lịch sử địa chất ấy, Tây Tạng là vùng đất cao từ 3500 tới 5000 m – được mệnh danh là “xứ tuyết”, “nóc của trái đất”, hay “Cực Thứ Ba / Third Pole” — hai cực kia là Bắc Cực và Nam Cực. Tây Tạng với diện tích hơn một triệu km2 gần bằng Tây Âu nhưng cô lập với thế giới bên ngoài bởi ba bề núi non hiểm trở: phía nam là dãy Hy Mã Lạp Sơn, phía tây là rặng Karakoram, phía bắc là các rặng Kunlun và Tangla; riêng phía đông cũng bị cắt khoảng bởi các dãy núi không cao và lũng sâu và thoải dần xuống tới biên giới Trung Hoa, ráp gianh với hai tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam.

Phía tây bắc, Tây Tạng là một vùng đất hoang đông giá, gần như không người no-man’s-land trải dài hơn 1200 km từ tây sang đông. Phía nam là vùng núi non với thảo nguyên, nơi sống của dân du mục với các đàn cừu dê và những con bò Yaks.  Phía đông là tỉnh Kham và đông bắc là tỉnh Amdo (quê hương của Đức Dalai Lama thứ 14) là vùng trù phú và đông dân nhất. Thứ đến là vùng đất phía nam khí hậu bớt khắc nghiệt, nơi có con Sông Yarlung Tsangpo với những phụ lưu như một mạch sống.

Người nông dân Tây Tạng chủ yếu trồng lúa mạch và khoai tây là hoa màu phụ. Khí hậu thay đổi thất thường như mưa đá, đông giá nên mùa màng luôn luôn bị hư hại. Nguồn thực phẩm ổn định hơn là nuôi gia súc ngoài đàn bò Yaks còn có trừu, dê và gà để lấy trứng. Tsampa làm từ bột lúa mạch sấy là món ăn thường nhật của người Tây Tạng. Quốc gia Tây Tạng là hình ảnh mênh mông của những thảo nguyên với núi cao và lũng sâu, bầu trời thường thì trong xanh như ngọc. Cho tới cuối thế kỷ 19, nếp sống của họ vẫn vậy như từ hàng ngàn năm trước.

XỨ SỞ CỦA ĐẠO PHẬT

Đạo Phật du nhập vào Tây Tạng 12 thế kỷ sau khi Phật Thích Ca nhập niết bàn, khoảng thế kỷ thứ 7 sau Công nguyên. Khí Tông Cương Tán (Songtsen Gampo) là một tù trưởng tài ba đã thống nhất được các bộ lạc trên cả một vùng băng tuyết tới chân Hy Mã Lạp Sơn; ông cưới công chúa Nepal làm hoàng hậu và chính nàng công chúa này đã du nhập đạo Phật vào Tây Tạng. Tây Tạng thời kỳ ấy là một quốc gia hùng mạnh khiến vua Trung Hoa đời Nhà Đường cũng phải xin cầu hòa và gả công chúa cho Khí Công Cương Tán, nàng công chúa gốc Hán này cũng đem đạo Phật vào Tây Tạng. Đạo Phật từ đó đã phát triển rất mạnh trên vùng đất mới, hòa nhập với tín ngưỡng Bon đa thần để biến thể thành một thứ đạo Phật cao siêu và thần bí.

Tới thế kỷ 14 một vị chân tu tên Tống Cáp Ba – Tsongkhapa đã sáng lập nên phái Hoàng Mão Hoàng Y của Phật giáo chính thống Tây Tạng. Sau khi ông mất, người kế thừa cũng là một vị chân tu tên Gendun Drup được toàn thể giới tăng lữ suy tôn làm Dalai Lama (Lama là một từ Tây Tạng có nghĩa là bậc thầy), ông có công phát huy đạo Phật đồng thời cũng xây dựng được một nền hành chánh kết hợp với giáo quyền trị vì quốc gia Tây Tạng. Vị đại sư mưu trí này đã đặt ra quy luật tái sanh của Dalai Lama theo đó khi chết linh hồn vị Dalai Lama sẽ nhập vào một trẻ sơ sinh như hiện thân của Bồ Tát Quán Thế Âm – Bodhisatva  Avalokitesara.

Tới thế kỷ 16, do các giáo phái lại chống đối nhau dẫn tới sự can thiệp của quân Mông Cổ, sau đó thì chính Đại Hãn Mông Cổ là Altan Khan do cảm phục kiến thức cao sâu của vị đại sư nên cũng xin quy y, đồng thời phong tước cho vị Lama là Dalai Lama – Dalai là từ Mông Cổ có nghĩa biển cả, bao hàm kiến thức mênh mông.

Đây là thời kỳ cực thịnh của Phật giáo Tây Tạng ghi dấu bằng công trình xây cất Lâu Đài Mùa Đông – Cung Điện Potala 1000 phòng của các vị Dalai Lama, được coi như một kỳ quan kiến trúc của thế giới.

Nhưng về phương diện lịch sử thì ngôi Chùa Jokhang mới là di tích cổ kính nhất, được xây dưới triều vua Khí Tông Cương Tán, nơi chứa tượng Phật do công chúa Nepal thỉnh về. Kỳ quan của Jokhang không phải chỉ là các tượng Phật mà là tấm bia đá dựng trước chùa như di tích lịch sử về một quá khứ hùng mạnh của quốc gia Tây Tạng, đã từng gây khốn đốn cho các vua Trung Hoa đời nhà Đường. Trên tấm bia là bản hiệp ước được phê chuẩn bởi Đại Hoàng đế Tây Tạng và Hoàng đế Trung Hoa vào năm 821- 822 khắc bằng hai thứ tiếng Tây Tạng và Trung Hoa với nội dung [Hình 2]:

“Thỏa thuận cùng nhau về sự liên minh giữa hai quốc gia… tìm cách ngăn ngừa những nguyên nhân gây tàn hại cho hai xứ sở bây giờ và mai sau, để mang lại hòa bình lâu dài cho thần dân hai nước. Thỏa ước được khắc trên bia này để cho các thế hệ tương lai được biết tới.” (1)

h2Hình 2: Jokhang, ngôi chùa có lịch sử hơn 1,300 năm ghi dấu một thời kỳ hưng thịnh của quốc gia Tây Tạng. Tấm bia ghi bản hiệp ước giữa Đại Hoàng đế Tây Tạng và Hoàng đế Trung Hoa vào năm 821- 822 đã bị phá huỷ. Jokhang, cùng với lâu đài Potala được UNESCO đưa vào danh sách Di sản Thế giới. Nguồn: internet

Giữa thời kỳ hưng thịnh của quốc gia Tây Tạng [618-907] nơi đầu nguồn Sông Mekong thì lúc ấy Việt Nam lại đang phải sống trong tối tăm nhục nhã dưới ách thống trị của người Tàu với cái tên An Nam Đô Hộ Phủ. Việt Nam đã bị nô lệ Tàu tổng cộng 1050 năm trước khi lấy lại được nền tự chủ với các triều đại Ngô, Lê, Lý, Trần.

Nhưng rồi cũng không tránh được lẽ thịnh suy, những thế kỷ sau đó Tây Tạng lại bị Trung Hoa xâm lấn, thủ đô Lhasa thường xuyên bị chiếm đóng. Đến đầu thế kỷ 20, nhân lúc triều đình Mãn Thanh bị cuộc Cách Mạng Tân Hợi của Tôn Dật Tiên lật đổ, nhân dân Tây Tạng đã lại vùng lên và tuyên bố độc lập nhưng bị đàn áp và đã gặp phải sự thờ ơ đến tàn nhẫn của thế giới. Trung Hoa cho dù dưới thể chế chánh trị nào vẫn xem Tây Tạng như phần lãnh thổ của họ.

MỘT TÂY TẠNG ĐAU THƯƠNG

Năm 1933 khi vị Dalai Lama 13 viên tịch, tương truyền rằng người ta thấy mặt ngài ngoảnh về hướng đông bắc, phía tỉnh Amdo. Kết hợp với một số điềm báo triệu khác, các vị trong hội đồng giáo phẩm tới được ngôi làng Takster tỉnh Amdo và họ đã tìm ra đứa trẻ hai tuổi là đứa con thứ tư trong một gia đình nông dân nghèo khó, và sau một chuỗi những trắc nghiệm thử thách, cậu bé Tenzin Gyatso sinh ngày 6 tháng 7 năm 1935, được công nhận là hiện thân của Đức Dalai Lama thứ 14.

Amdo lúc đó đang thuộc quyền kiểm soát của quân Trung Quốc nên phải trải qua hai năm thương thuyết khó khăn, cậu bé Tenzin Gyatso mới được rời Amdo lên thủ đô Lhasa và được đưa vào Cung Điện Mùa Hè Norbulingka rồi Cung Điện Mùa Đông Potala để được nuôi dưỡng và giáo dục đúng theo giáo lý bởi những vị cao tăng uyên bác. Trong thời gian đó, một quan nhiếp chính được chỉ định để lo việc nước.

Tình hình càng trở nên tệ hại khi Tưởng Giới Thạch bị thua phải chạy ra đảo Đài Loan (1949), Hồng Quân chiếm trọn Hoa Lục đồng thời cũng xua quân vào cưỡng chiếm Tây Tạng với chiêu bài “giải phóng nhân dân Tây Tạng đang bị giai cấp phong kiến áp bức.”

Và đã có ngay từng đợt hàng trăm ngàn binh lính Trung Cộng tiến vào Tây Tạng, kéo theo sau là gia đình của họ. Khác xa với hứa hẹn ban đầu bảo đảm tự do tín ngưỡng và phong tục tập quán của dân Tây Tạng, họ mở ngay chiến dịch chống tôn giáo, đồng thời thi hành “chánh sách tàm thực/ tầm ăn dâu” không ngừng di dân gốc Hán vào đất nước Tây Tạng.

Năm 1950, do nhu cầu cấp bách của thời cuộc, ở cái tuổi mới 16, Tenzin Gyatso đã phải rất sớm đứng ra đảm đương mọi trách nhiệm chánh trị điều hành quốc gia Tây Tạng.  Năm 1954, Gyatso bị đưa sang Trung Quốc gặp Mao Trạch Đông trong ý muốn thuyết phục vị Dalai Lama trẻ tuổi ấy chấp nhận một xứ sở Tây Tạng sát nhập vào trật tự nước Trung Hoa.

Trước nguy cơ diệt vong, năm 1959 nhân dân Tây Tạng lại nhất loạt nổi dậy, nhưng đã bị Hồng Quân trấn áp và tàn sát không thương tiếc. Trong cuốn tự truyện Tự Do Trong Lưu Đầy – Freedom in Exile, Tenzin Gyatso viết:

“Trong gần một thập niên, ở cương vị người lãnh đạo chánh trị và tôn giáo cho dân tộc Tây Tạng, tôi đã cố gắng tái tạo mối liên hệ hòa bình giữa hai quốc gia Tây Tạng và Trung Hoa, nhưng trách vụ ấy không thể hoàn thành. Tôi đi tới kết luận là tôi sẽ phục vụ dân tộc tôi được nhiều hơn nếu tôi sống ở nước ngoài.” (1)

Đức Dalai Lama thứ 14 đã dẫn hơn một trăm ngàn dân Tây Tạng vượt biên giới thoát sang Ấn Độ. Bất chấp sự chống đối và cả hăm dọa của Bắc Kinh, chánh phủ Ấn vẫn giúp định cư số người Tây Tạng lưu vong này nơi thị trấn Dharmasala dưới chân rặng Hy Mã Lạp Sơn. Một chánh phủ lưu vong Kashag được hình thành như niềm hy vọng sống còn đối với người dân Tây Tạng trong nước.

Phía Trung Quốc bất kể nguyện vọng dân Tây Tạng ra sao, họ vẫn sát nhập quốc gia này vào “Nước mẹ vĩ đại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.” Tháng 9 năm 1965, Bắc Kinh tuyên bố lập “Vùng tự trị Tây Tạng – Tibetan Autonomous Region” trực thuộc nước Trung Hoa. Điều ấy có nghĩa là quốc gia Tây Tạng bị Bắc Kinh xoá tên trên bản đồ thế giới.

Và rồi các giai đoạn thảm khốc nhất đã diễn ra trong suốt thập niên sau đó khi có cuộc Cách Mạng Văn Hóa. Cả một di sản văn hóa của dân tộc Tây Tạng bị tận diệt một cách công khai và có hệ thống bởi những đoàn Vệ Binh Đỏ. Các đền đài tu viện bị phá trụi, các tranh tượng tôn giáo bị hủy hoại. Hàng chục ngàn người Tây Tạng bị kết tội “phản động” vì không chịu lên án Đức Dalai Lama và từ bỏ đức tin của họ.

Theo thống kê của Trung Cộng (1982) có 3.87 triệu người Tây Tạng, nếp sống đơn sơ và hiếu khách nhưng họ là một dân tộc đang phải sống trong nô lệ và chịu nỗi khổ đau vô hạn “trong nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”.

h3Hình 3: Uống nước nhớ nguồn. Ngay sau cuộc nổi dậy của nhân dân Tây Tạng 1959 bị Bắc Kinh đàn áp đẫm máu khiến Đức Dalai Lama và hơn 100,000 người Tây Tạng phải tỵ nạn sang Ấn Độ. Việt Nam Cộng Hoà lúc ấy đã tức thời gửi lúa gạo sang cứu trợ. Lúa gạo ấy đã được gieo trồng từ nguồn nước con Sông Mekong. Đức Dalai Lama đã tiếp Phái đoàn Việt Nam tại Darjeeling, Ấn Độ. Từ trái: Gs Lê Xuân Khoa Tổng thư ký Hội Văn hoá Á Châu, Thượng toạ Thích Trí Dũng, Đức Dalai Lama, và Phó Chủ tịch Quốc Hội VNCH Cổ Văn Hai. (4)

Tháng 10 năm 1987, không còn kiên nhẫn hơn được nữa, dân Tây Tạng lại vùng dậy và cũng lại bị quân chiếm đóng Trung Cộng đàn áp tàn bạo. Đã có khoảng 1.2 triệu người Tây Tạng bị giết, một con số thật khủng khiếp nếu so với tổng số dân Tây Tạng chưa tới 4 triệu.

Để phối hợp với các cuộc đấu tranh ở trong nước, Đức Dalai Lama đã rời Dharmasala và du hành qua nhiều quốc gia trên thế giới để nói lên nguyện vọng được sống trong độc lập và tự do của nhân dân Tây Tạng.

Tenzin Gyatso chỉ nhận mình là một nhà sư giản dị, không bao giờ tự huyền thoại hóa mình là Phật Sống. Bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, vẫn luôn luôn là một con người nhu hòa không định kiến, vượt lên trên mọi khen chê. Ông là một con người giàu lòng từ bi, hơn thế nữa là con người của tự do. Với tinh thần bất bạo động linh hoạt – active non-violence, ông luôn luôn cố gắng tái tạo mối liên hệ tin cậy và hòa bình với phía thù nghịch cho dù Bắc Kinh không từ một thủ đoạn nào để gây tai tiếng và bôi nhọ ông.

h4Hình 4: Jampa Yeshi, tên người thanh niên Tây Tạng đang chạy như một ngọn đuốc trên một đường phố New Dehi 26.3.2012 đòi tự do cho nhân dân Tây Tạng. Từ 2009 tới 2016, đã có 153 nhà sư và thường dân Tây Tạng tự thiêu phản kháng sự chiếm đóng của Trung Quốc. Nguồn: AP, photo by Manish Swarup

Cho dù gần đây Trung Cộng cho xây dựng lại một số chùa chiền ở Tây Tạng bề ngoài như một “sửa sai sau Cách Mạng Văn Hóa” nhưng chỉ là để phát triển kỹ nghệ du lịch; cùng một lúc họ cho gài công an chìm vào khắp các tu viện, đi xa hơn nữa Bắc Kinh còn cấm người trẻ đi tu và đồng thời cưỡng bách các vị sư già ngoài 60 tuổi phải về hưu trong khi vẫn không ngừng rêu rao “Tự do tôn giáo là điều được ghi trong hiến pháp”.

Nếu chỉ viếng thăm Tây Tạng “như một khách du lịch” và đi theo đoàn du khách với cô hướng dẫn người gốc Hán thì mọi sự đều rất êm thấm, cũng như một số khách Tây Phương – kể cả chánh trị gia lão thành Edward Heath cựu thủ tướng Anh, được Bắc Kinh tổ chức cho đi thăm Tây Tạng, khi trở về nói mọi chuyện ở đó đều tốt đẹp. Họ nói thật qua những điều dàn dựng và được phép cho thấy. Và bao giờ cũng vậy, những điều cho thấy ấy là một sự dối trá trắng trợn.

TÂY TẠNG VÀ BÀI HỌC AN NAM ĐÔ HỘ PHỦ

Trong khoảng hơn 20 năm từ 1995, kể từ khi có mối quan tâm về con Sông Mekong dài hơn 4,800 km ấy, về phương diện địa dư chính trị/ geopolitics, người viết luôn luôn xem Tây Tạng như một quốc gia, và con Sông Mekong chảy qua 7 quốc gia – thay vì 6. Nếu không kể Tây Tạng như một quốc gia đầu nguồn, một cách vô thức, cộng đồng quốc tế đã mặc nhiên hợp thức hoá dã tâm của Bắc Kinh muốn xoá Tây Tạng trên bản đồ thế giới.

Trong buổi lễ trao Giải thưởng Nhân quyền Robert F. Kennedy ngày 9 tháng 11 năm 1998 tại Đại Học Georgetown, Đức Dalai Lama tỏ ý ao ước được viếng thăm Việt Nam năm 2000. Điều đặc biệt hơn nữa là Đức Dalai Lama còn có đề nghị với các học giả Việt Nam hãy cung cấp cho các nhà sử học Tây Tạng những sử liệu liên quan tới mối quan hệ giữa Việt Nam – Trung Hoa và Việt Nam – Tây Tạng.

Và ai cũng hiểu rằng Đức Dalai Lama muốn nhân dân Tây Tạng tìm đến “Bài học Việt Nam”, làm thế nào dân tộc Việt vẫn lấy lại được nền tự chủ sau cả ngàn năm đã bị người Tàu đô hộ và quyết tâm đồng hóa. Đó như một “thông điệp hy vọng” của những người dân Tây Tạng đang bị Trung Quốc áp bức như hiện nay. (4)

Nhưng cũng để thấy ngay một khác biệt sâu xa giữa hai quốc gia Việt Nam và Tây Tạng. Trong hơn một ngàn năm bị đô hộ ấy, Trung Hoa chưa có nạn nhân mãn, Việt Nam vẫn là xứ xa xôi còn bị coi là man di chưa xuống xa tới Đồng Bằng Sông Cửu Long, chưa phải đối đầu với “chính sách tàm thực di dân Hán hóa” như thảm trạng hiện nay của Tây Tạng, khiến dân Tây Tạng đang mau chóng trở thành thiểu số trong biển người Hán ngay trên chính quê hương của họ. Với chiêu bài dân chủ nhân danh quyền tự quyết, nếu có một cuộc trưng cầu dân ý diễn ra trên đất nước Tây Tạng do Bắc Kinh chủ xướng, thì đó là một “cuộc tự sát” mà không một người dân Tây Tạng nào có thể ngây thơ chấp nhận.

Đã 16 năm kể từ năm 2000, Đức Dalai Lama năm nay cũng đã hơn 81 tuổi, và không có cuộc viếng thăm nào của Đức Dalai Lama tới Việt Nam. Chấp nhận hay không cuộc viếng thăm ấy là một thử thách can đảm đối với nhà cầm quyền Cộng sản Hà Nội. Đó cũng là thước đo mức tự chủ của Việt Nam đối với Trung Quốc.

TÂY TẠNG MẠCH SỐNG CỦA CHÂU Á

Các con sông lớn như mạch sống cho toàn vùng Châu Á đều bắt nguồn từ Cao nguyên Tây Tạng. (2)

Phía tây, gần rặng núi Kailash là hai con Sông Indus và Sutlej chảy về hướng tây nam và giao thoa với ba con sông khác để hình thành vùng châu thổ Punjab giữa hai nước Ấn và Hồi.

Phía nam là con Sông Yarlung Tsangpo hay “nguồn tinh khiết” còn được mệnh danh là “con sông cao nhất thế giới”, với các ghềnh thác xuyên dãy Hy Mã Lạp Sơn, rồi chảy qua Ấn độ, Bhutan và Bangladesh, con sông mang tên Brahmaputra trước khi đổ vào Vịnh Bengal, thuộc Ấn Độ Dương.

Phía đông là khởi nguồn của các con sông lớn khác: Sông Dương Tử 6,500 km dài nhất Châu Á chảy về hướng đông theo suốt chiều ngang lãnh thổ Trung Hoa tới Thượng Hải, còn Hoàng Hà thì chảy về hướng bắc rồi sang đông tới Thiên Tân – Tianjin, và cả hai cùng đổ ra biển Trung Hoa.

Phía nam là hai con Sông Irrawaddy và Salween chảy xuống Miến Điện theo hướng bắc nam trước khi đổ vào Biển Andaman, những con đập thuỷ điện Made-in China nay đang bắt đầu xiềng xích và huỷ hoại hệ sinh thái của hai con sông Miến Điện này. [Hình 5]

h5Hình 5: Quốc gia Tây Tạng, nơi phát xuất những con sông lớn của Châu Á. Nguồn: Meltdown in Tibet, Michael Buckley, Palgrave MacMillan 2014

Riêng con Sông Mekong dài hơn 4,800 km, mang nhiều tên khác nhau, bắt nguồn từ Tây Tạng: có tên Dza-Chu có nghĩa “nguồn nước của đá,” tiếp tục chảy về hướng nam băng qua những hẻm núi sâu của tỉnh Vân Nam với tên Trung Hoa là Lancang Jiang “con sông xanh cuộn sóng,” qua đến biên giới Lào Thái mang một tên khác Mae Nam Khong “con sông mẹ,” xuống Cam Bốt lại mang một tên khác nữa Tonle Thom “con sông lớn” cuối cùng chảy qua Việt Nam mang tên Cửu Long “chín con rồng” với hai nhánh chính là Sông Tiền và Sông Hậu đổ ra Biển Đông bằng chín cửa sông, và nay chỉ còn bảy.

Cũng để thấy một con Sông Mekong hoang dã không còn nữa khi 6 con đập dòng chính khổng lồ Vân Nam đã hoàn tất, và 12 con đập hạ lưu Lào và Cam Bốt đang lần lượt được triển khai, cùng với những kế hoạch thuỷ lợi nguy hiểm là chuyển dòng lấy nước trên suốt chiều dài con Sông Mekong. Hậu quả là sự suy thoái của toàn thể hệ sinh thái lưu vực Sông Mekong và Đồng Bằng Sông Cửu Long thì khô hạn, nhiễm mặn và đang chết dần.

TIẾNG NÓI BẢO VỆ MÔI SINH

Đức Dalai Lama không chỉ là vị lãnh đạo tinh thần của dân Tây Tạng, ông còn là tiếng nói của “từ tâm” luôn luôn đấu tranh cho nhân quyền và bảo vệ môi sinh cho toàn hành tinh này.

Với quốc gia Tây Tạng, Đức Dalai Lama đã giành ưu tiên cho bảo vệ môi sinh thay vì thay vì những vấn đề chính trị nóng bỏng.

“Lịch trình chính trị có thể hoãn lại 5 – 10 năm nhưng cộng đồng quốc tế cần tập trung quan tâm tới biến đổi khí hậu trên Cao nguyên Tây Tạng: khối băng tuyết đang tan rã, nạn phá rừng, và ô nhiễm nguồn nước do những dự án khai thác hầm mỏ, là những vấn đề cấp thiết, không thể chờ đợi.”

Đức Dalai Lama đã nói với Đại sứ Hoa Kỳ Timothy Roemer như vậy trong một gặp gỡ ở New Delhi, thủ đô Ấn Độ vào tháng 8, 2009. Nguồn: Wikileaks Cables, the Guardian 10-8-2009

Từ trên đầu nguồn, những con sông lớn Châu Á đang bị Trung Quốc phá huỷ một cách toàn diện và có hệ thống: với khí thải từ các nhà máy gây hiệu ứng nhà kính khiến khối băng tuyết đang tan rã, rồi nạn phá rừng tự sát / suicidal deforestation, tới các kế hoạch khai thác hầm mỏ đại quy mô, tàn phá sinh cảnh, gây ô nhiễm các nguồn nước; những con sông trên Cao nguyên Tây Tạng cũng đang bị Trung Quốc xiềng xích bởi những con đập thuỷ điện và người dân Tây Tạng thì bị đuổi ra khỏi vùng đất đang sinh sống của họ.

h6Hình 6: Hâm Nóng Toàn Cầu trên Tây Tạng; Nếu Tây Tạng khô hạn, Châu Á chết. Nguồn: Meltdown in Tibet, Michael Buckley, MacMillan 2014

Hoa Lục xác nhận là sẽ xây các con đập lớn trên thượng nguồn Sông Yarlung Tsangpo – Brahmaputra, trước khi con sông ấy chảy sang Ấn Độ, Bhutan và Bangladesh. Brahmaputra là dòng sông huyết mạch của bao nhiêu triệu cư dân của 3 quốc gia này.

Giới chức Hoa Lục cho biết họ sẽ còn xây thêm những con đập khác giữa các quận hạt Sangro và Jiacha. Khi hoàn tất, tổng số công suất của những con đập thủy điện này sẽ “nhiều lần lớn hơn” công suất con đập Tam Hiệp (Three Gorges Dam) lớn nhất thế giới trên sông Dương Tử. Nguồn năng lượng mới này tương đương với 100 triệu tấn than đá, hoặc bằng toàn trữ lượng dầu khí trên Biển Đông. Yan Zhiyong, tổng giám đốc Nhóm Tham vấn Thủy điện Trung Quốc (China Hydropower Engineering Consulting Group) nhận định: “Tây Tạng là nguồn dự trữ thủy điện lớn nhất so với các tỉnh khác của Trung Quốc. Chuyển điện từ Tây Tạng sang các tỉnh miền Đông sẽ giải quyết vấn đề thiếu năng lượng của Trung Quốc”.

Anant Krishnan, nhà ngoại giao cao cấp của Ấn Độ cho rằng kế hoạch xây đập tràn lan của Bắc Kinh, cho dù đó là trong lãnh thổ Trung Quốc — thực ra là trong lãnh thổ quốc gia Tây Tạng, chắc chắn sẽ ảnh hưởng tác hại tới mối quan hệ đối với các quốc gia hạ nguồn. Rồi ông ta cũng không quên so sánh:

Ấn Độ bị báo động vì những con đập trên sông Yarlung Tsangpo- Brahmaputra, cũng giống như với các quốc gia Thái Lan, Lào, Cam Bốt và Việt Nam đối với những con đập Vân Nam trên thượng nguồn Sông Lancang – Mekong”.

h7Hình 7: Cứu Tây Tạng là cứu mạch sống Châu Á. Nguồn: International Campaign for Tibet

Cho dù đang có những mối lo âu về sự tồn vong của quê hương nhưng Đức Dalai Lama cũng rất quan tâm tới những vấn đề chung của nhân loại. Ông đề cập tới vấn đề môi sinh với một tầm nhìn xa và trong mối tương quan toàn cầu và luôn luôn muốn “giữ xanh” hành tinh này, qua thông điệp nhân Ngày Môi Sinh Thế Giới / World Environment Day [06.05.1986]:

“Hòa bình và sự sống trên trái đất đang bị đe dọa bởi những hoạt động của con người thiếu quan tâm tới những giá trị nhân bản. Hủy hoại thiên nhiên và các nguồn tài nguyên thiên nhiên là do hậu quả của lòng tham lam và thiếu tôn kính đối với sự sống trên hành tinh này… Chúng ta dễ dàng tha thứ cho những gì đã xảy ra trong quá khứ do bởi u minh. Nhưng ngày nay do hiểu biết hơn, chúng ta phải duyệt xét lại với tiêu chuẩn đạo đức là phần gia tài nào mà chúng ta thừa hưởng, phần nào chúng ta có trách nhiệm sẽ truyền lại cho thế hệ mai sau.”

NGÔ THẾ VINH

California, ngày 11.01.2017

_____

Tham khảo:

1/ Freedom in Exile; The Autobiography of The Dalai Lama. Tenzin Gyatso, Hodder & Stoughton Ltd, London, 1990.

2/ Meltdown in Tibet: China’s Reckless Destruction of Ecosystems from the Highlands of Tibet to the Deltas of Asia. Michael Buckley. Palgrave MacMillan, New York, 2014   

3/ Global Ecology and the Made in China Dams; Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Foundation 2010; http://vietecology.org/Article.aspx/Article/62

4/ The Nine Dragons Drained Dry, The East Sea in Turmoil. Ngô Thế Vinh, Viet Ecology Press, Người Việt Books, Nxb Giấy Vụn 2016.

Đôi dòng suy nghĩ

Đôi dòng suy nghĩ

Chỉ còn 20 hôm nửa là đến ngày Tết cổ truyền của dân tộc , nhìn cảnh người Việt tỵ nạn

chen chút  nhau về VN để ai là người Việt tự do đều không khỏi xót xa .

Nhớ lại trước kia Ông  Cựu Thủ Tướng Singapore Lý Quang Diệu chỉ mong ước sao cho

Singapore được như » Sài Gòn – Hòn Ngọc Viễn Đông « .

Ngày nay Singapore đã là quốc gia « giàu có nhất Á Châu » .

Trước kia , Nam Hàn có hoàn cảnh chia cắt  giống Nam VN , nhưng cho đến thời Đệ 1 Cộng Hoà

đời sống của người Hàn Quốc còn thua xa Miền Nam VN .

Ngày nay Hàn Quốc đã trở thành « 1 trong 10 quốc gia phát triển nhất TG » .

Còn VN , với 63 năm ở Miền Bắc , 42 năm ở Miền Nam , dưới ách thống trị của

đảng cướp vc đã trở thành  «  quốc gia nghèo nàn lạc hậu , xã hội băng hoại ,

đạo đức ,luân lý suy đồi và hoạ diệt vong ngày càng kề cận  « .

Dẩu rằng VN thật dồi dào tài nguyên : nông , lâm , khoáng ,thuỷ sản  , nhân lực

và chất xám , nhưng tại sao  VN lại trở nên như thế ???  .

Là người có công tâm thì ai cũng biết đó là do « chế độ phi nhân vc » gây nên.  .

Lịch sử mấy nghìn năm của VN chưa có thời nào đen tối  như dưới thời XHCN của vc ,

Theo luật đời thì « kẻ hung bạo nào rồi cũng bị huỷ diệt » ,  nhưng tại sao cho đến nay

vc vẫn tồn tại ???  .

Đan cử trong năm 2015 vc nhận được 11 tỉ đô la kiều hối .

Trong khi từ 1991 đến 2011 , TC đầu tư vào VN    4,3 tỉ đô la tổng số vốn đầu tư  , 2,2 tỉ

tổng số vốn điều lệ ( theo tài liệu luận án thạc sĩ kinh tế của BÀ Nguyễn Thu Hằng – thuộc

Đại Học Kinh Tế ) .

Như vậy là trong 20 năm TC đã đầu tư vào VN chỉ tròm trèm 1 /2 kiều hối vc nhận được trong

năm 2015 của người Việt hải ngoại gửi về .

Còn người VN ở hải ngoại vì tình nghĩa đồng bào giúp đở.

Không phải là tất cả người Việt tự do ở hải ngoại đã mất đi lý tưởng đấu tranh để

giải thể chế độ phi nhân vc , nhưng  thật đau lòng để biết là  số người  đã

tiếp tay giúp cho đảng cướp vc  tồn tại  , ngày càng thêm đông đảo  .

Họ là ai ? – «  là những kẻ đã tự phản bội cái tư cách tỵ nạn «  , gồm :

  • Những người chưa từng nếm mùi địa ngục của các trại tù cải tạo, vùng kinh tế mới,
    hay những cuộc vượt biên , vượt biển hải hùng ( vì đã thoát đi từ 1975) .
  • Những ngài HOđã quên cái quá khứ  trong lao tù cs , về VN để hưởng thụ
    trên của các cháu gái khốn khổ tuổi đáng cháu ngoại , cháu nội .
  • Những Bà đã quên đi vết rách do hải tặc gây nên, về VN để khoe áo gấm hoặc  hưởng
    thụ những đặc sản của quê hương .
  • Những  kẻ vì háo danh , hám lợi về VN  .
  • ………………………

VC dự trù năm 2016 sẽ thu về 12 tỉ đô la kiều hối , nhưng chỉ được “biếu” có 9 tỉ .
Thất thu 3 tỉ đô la. Tại sao người Việt tự do của chúng ta lại không đánh vào chỗ đó ? .

Vấn đề của VN ta  ,đừng mong quốc gia nào khác làm thay . Hảy đồng tâm  «  KHÔNG VỀ VN
(trừ lý do chính đáng ) KHÔNG GỬI TIỀN VỀ VN «  , tạo thời cơ để dân trong nước thức tỉnh và
vùng lên . Chắc chắn trong 1, 2 năm chế độ vc sẽ sụp.
Nhân vô thập toàn , ai trong đời cũng có lúc hành xử không đúng , tôi viết lên đôi dòng này
không nhằm chỉ trích mà chỉ mong thức tỉnh những ai còn nghĩ đến tiền đồ tổ quốc  , trong khả năng
góp phần xây dựng lại đất nước  , đừng để quá muộn rồi hối tiếc cũng vô ích

HQ.tkd

Đừng tìm hạnh phúc nơi nào xa quá

Đừng tìm hạnh phúc nơi nào xa quá

duc-datlailatma

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Đừng tìm hạnh phúc nơi nào xa quá

Hãy quay về tìm nó ở trong ta
Chỉ cần tâm thanh thản sẽ nhận ra
Vì hạnh phúc là điều đơn giản nhất

Khi ăn uống biết ngon là hạnh phúc
Khi tai còn nghe rõ những âm thanh
Khi mắt còn thấy rõ áng mây lành
Khi đi đứng nói làm đều tự tại

Biết giúp ích nhân loại điều thiết thực
Biết sẻ chia vật chất lẫn tinh thần
Biết cảm thông mọi rắc rối thế nhân
Biết trang trải bằng tình thương chân thật

Người hạnh phúc nhất là người trầm tĩnh
Trái tim người thật sự vị nhân sinh
Mọi việc làm có chánh niệm phân minh
Sự an tịnh tâm hồn luôn có mặt.

( Tường Vân )

duc-dat-2

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Quan điểm tôn giáo của người sáng lập facebook

Quan điểm tôn giáo của người sáng lập facebook

Có nhiều người nghĩ rằng, người sáng lập facebook, Mark Zuckerberg, là một người vô thần. Điều đó từng là sự thật, nhưng có lẽ, bắt đầu có sự thay đổi nơi con người này.

Vào dịp lễ Giáng sinh vừa qua, Mark Zuckerberg đã tổ chức Giáng sinh và gửi những lời chúc tốt lành qua trang facebook từ gia đình của mình đến mọi người. Anh viết trên trang cá nhân:

“Mừng Chúa Giáng Sinh và mừng lễ Hanukkan[1] từ Priscilla, Max, Beast và tôi”

Một trong những người theo dõi facebook của Mark khi đọc những dòng này đã hỏi: “Anh không phải là người vô thần sao?”.

Mark trả lời: “Không, tôi được nuôi dạy như một người Do Thái Giáo, và rồi, tôi đã thắc mắc về nhiều thứ, nhưng bây giờ tôi tin rằng, tôn giáo rất quan trọng.”

Nhìn sơ lược tiểu sử của Mark, người ta thấy rằng anh được nuôi dạy trong gia đình Do Thái Giáo Cải Cách. Cha mẹ của anh tham dự các sinh hoạt tại đền thờ Beth Abraham tại Tarrytown, New York. Anh được học trong một trường tôn giáo và được dạy dỗ những lễ nghi Do Thái giáo.

Nhưng, bây giờ niềm tin của anh ra sao? Tôn giáo mà anh nói rất quan trọng đó là tôn giáo nào? Hay đó chỉ là “chiêu bài” trong kinh doanh của nhà tỷ phú này?

Còn nhớ, năm 2010, sau khi tham dự hội nghị Wisdom 2.0 bàn về đề tài “Sống một cách tỉnh táo trong thời đại kỹ thuật số” (Living mindfully in digital age)người sáng lập Facebook đã mời các chuyên gia từ đại học Berkeley, Yale và Stanford đến giảng cho các nhân viên của mình về những triết lý trong Phật giáo.

Cũng liên quan đến Phật giáo, trên trang Christian Time vào tháng 10/2015 đã tường thuật về Mark:

“… anh đã đưa hình ảnh anh đang cầu nguyện tại chùa Tháp Đại Nhạn tại Tây An, Trung Quốc lên trang cá nhân. Anh nói rằng, anh cầu nguyện cho vợ của mình là Priscilla, một người theo Phật giáo. Anh miêu tả Phật giáo như “triết lý và tôn giáo đầy kinh ngạc”. Anh nói rằng, anh muốn tìm hiểu nhiều về phật giáo.”

Mùa hè, năm 2015, anh thông báo, quyển sách anh dùng cho câu lạc bộ sách trên facebook của anh là quyển “The Varieties of Religious Experience” (Tạm dịch: Những loại kinh nghiệm tôn giáo) của William James.

Trong quyển sách này, William Jame đã phê bình những nhà khoa học hoài nghi về những điều vô hình. Những điều vô hình này không thể diễn tả được như là một phần của thực tại thể lý. Tác giả quyển sách nhận xét, toàn bộ đời sống tiềm thức của mỗi người, những xung động, niềm tin, những dự cảm đều hướng đến một kết quả, và điều gì đó trong mỗi người hoàn toàn biết rằng, kết quả này chính xác hơn bất kỳ một cuộc bàn luận mang tính suy lý logic chắc chắn nào.

Gần đây, tháng 08/2016, Mark và vợ đã gặp gỡ Đức Thánh Cha Phanxicô tại Vatican. Sau cuộc gặp gỡ, anh đã thể hiện lòng cảm mến với Đức Thánh Cha và viết trên trang cá nhân:

“Chúng tôi đã nói với Đức Thánh Cha rằng, chúng tôi thực sự cảm phục thông điệp về lòng thương xót và nhân ái của ngài, cũng như cách thế mới mẻ Đức Thánh Cha đã tìm thấy để nối kết mọi người thuộc mọi niềm tin trên thế giới.”

Qua những hoạt động trong thời gian qua, có thể thấy, Mark đang bắt đầu mở ra với đức tin và quan tâm hơn đến tôn giáo. Với những cảm nhận mới mẻ trong tôn giáo, hy vọng rằng, ông chủ của Facebook sẽ nhận ra được chân lý trong tôn giáo, đặc biệt, anh sẽ khám phá ra đức tin Công giáo mà anh đã có trải nghiệm trong chuyến thăm Vatican vừa qua.

Theo Ncregister

Một quyển sách mới về cuộc đời của ĐHY Nguyễn Văn Thuận

 Một quyển sách mới về cuộc đời của ĐHY Nguyễn Văn Thuận

httpv://www.youtube.com/watch?v=tlz-hNZZct0

Sau Năm Thánh Lòng Thương Xót Chúa, những câu chuyện về lòng can đảm, sự tha thứ và lòng trung tín với Thiên Chúa tiếp tục trở thành điểm nhấn. Một trong những câu chuyện đó là câu chuyện về cuộc đời ĐHY Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận.

Cuộc đời ĐHY đã trải qua 13 năm tù đày, trong đó có 9 năm bị biệt giam. Nhà văn Teresa Gutiérrez de Cabiedes đã viết về những năm tháng này của ĐHY trong quyển sách có nhan đề: “Van Thuan, Free Behind Bars”. (Tạm dịch: Văn Thuận: Tự Do Sau Những Chấn Song). Quyển sách kể về tấm gương trung kiên của ngài trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.

Teresa Gutiérrez De Cabiedes 

“Ngài không bao giờ từ bỏ. Ngài đã tha thứ cho những người ai trừng phạt ngài cách vô lý. Chính tình yêu với kẻ thù địch thúc đẩy ngài biến đổi đời sống của mình. Tôi nghĩ rằng, điều này chỉ có thể giải thích bằng một tình yêu siêu nhiên, một tình yêu đến từ Thiên Chúa.”

ĐHY Thuận đã viết ba quyển sách khi ngài còn ở trong tù. Một trong những quyển sách đó là “Đường Hy Vọng” diễn tả niềm cậy trông xác tín vào Thiên Chúa nơi ngài trong những hoàn cảnh khó khăn nhất.

Câu chuyện cuộc đời ngài là một phác họa chi tiết về đời sống của một Kitô hữu bị bách hại nhưng không bao giờ chối bỏ đức tin của mình.

Teresa Gutiérrez De Cabiedes 

“Cách đây vài năm, tôi có nói chuyện với Đức TGM Pamplona (Tây Ban Nha). Ngài đã kể cho tôi nghe câu chuyện về ĐHY Thuận, bạn của ngài. Câu chuyện về ĐHY Thuận giúp chúng tôi hiểu biết về cách Thiên Chúa giải phóng chúng ta ra khỏi xiềng xích tù đày. Tôi thấy rằng, cuộc đời của ngài như một quyển tiểu thuyết, tôi cần phải kể câu chuyện cuộc đời của ngài!”

ĐHY Thuận được trả tự do vào ngày 21/12/1988. Sau đó, ngài đến Roma. Khi gặp ngài, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chào đón ngài và nói, Đức Kitô là nguồn cậy trông cho chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách.

Teresa Gutiérrez De Cabiedes 

“Ngài rất thông minh, nói được nhiều ngôn ngữ và có uy tín với nhiều người, nhưng điều đánh động tôi là ngài dù bị tước đoạt mọi thứ, nhưng luôn dựa vào Thiên Chúa và dần dần biến đổi tận căn những ai gặp gỡ ngài”

Đây cũng là quyển sách mà tác giả muốn gửi đến mọi người, đặc biệt là những người bạn của ĐHY Thuận, nhân Ngày Sách Thế Giới.