Em dậy sớm để nghe lời chim hót

Facebook:  Kiều Minh Huệ shared a link.
Em dậy sớm để nghe lời chim hót

Mừng mặt trời trở lại với phương Đông
Đón nắng mai cho má thắm thêm hồng
Và gọi gió mịn màng qua lối cỏ
Em dậy sớm vòm trời xanh chưa tỏ
Sương mù còn mắc võng giữa hàng cây
Bên ô vuông cửa sổ đứng gọi ngày
Vài ánh sáng đến thay vài bóng tối
Em dậy sớm cho niềm vui tiếp nối
Sau đêm dài lạnh lẽo cả không gian
Để nơi em trời lại gởi tơ vàng
Và đất nước long lanh dâng sắc biếc…

Kiều Chí Nhân

“NHỮNG NGƯỜI SẴN SÀNG CHỊU CHẾT”

“NHỮNG NGƯỜI SẴN SÀNG CHỊU CHẾT”

Liên tiếp trong mấy ngày liền, tại Phòng Công Lý và Hòa Bình DCCT, tôi được gặp chị Bùi Thị Minh Hằng vừa được thả tù về, rồi cha Đặng Hữu Nam cùng với một đoàn Giáo Dân ngược chuyến xe vào Nam. Và hôm qua hôm kia xem các clip video “chuyến đi vạn hành” của cha Nguyễn Đình Thục và bà con Song Ngọc từ Nghệ An vào Hà Tĩnh để kiện Formosa. Tất cả những anh chị em ấy đều có chung một tinh thần: không sợ tù tội, không sợ bị tấn công, không sợ bị vu khống xỉ nhục, không sợ cả cái chết !

Công bằng mà nói, họ chỉ là những Linh Mục thấp mập hoặc gầy gò, những bà mẹ, những chị em, những bạn trẻ giản dị bình thường ta có thể gặp ngoài đường,trong khu xóm, ngay bên cạnh nhà của ta. Không có một miếng võ nào để hộ thân, không có một mẩu vũ khí nào để tự vệ. Trên tay một xâu chuỗi Mai Khôi, trên miệng một lời Thánh Ca da diết “Mẹ ơi đoái thương xem nước Việt Nam…” Vậy mà sao họ lại có thể thẳng thắn nói lời cám ơn cán bộ nhà tù đã rèn luyện họ thêm “chân được cứng, đá phải mềm” ? Vậy mà sao họ lại có thể sẵn sàng để cho hàng trăm kẻ hung hăng và trang bị dữ dằn lừa gọn vào bẫy, vây lại như một đàn cừu non, hè nhau xông đến tấn công, họ chỉ í ới gọi bảo nhau “ngồi xuống, ngồi xuống” rồi bật lên tiếng cầu nguyện đau đến chảy máu bên ngoài, xé lòng bên trong ?

Có bài báo nào đó đã viết về họ như là một “hành trình đòi quyền sống trong nỗi chết”. Nghe kinh khủng quá, nhưng đó là sự thật ! Họ làm cho chúng ta rưng rưng kính phục và tự hào, rồi như được khơi lên sâu trong lòng một sự can đảm cần thiết để hiệp thông, để sát cánh với họ chứ không thể tiếp tục tụ thủ bàng quantrong một nỗi e sợ ngấm ngầm âm ỉ được khéo léo che giấu cho đỡ xấu hổ !

Hôm nay, xem lại các video cảnh bà con Song Ngọc quây quần trong sân Nhà Xứ Đông Tháp, tôi thấy nghèn nghẹn trong cổ họng và ứa nước mắt, từ cha xứ đến bà con Giáo Dân đều bảo nhau cúi đầu vâng lời Bề Trên để trở về nhà. Vâng, họ đã đành phải trở về nhà cho dẫu họ tỏ ra không hãi sợ chút nào những gì vừa trải qua, họ bảo nhau sẽ có cách đấu tranh khác với chính quyền, với Formosa, vẫn hoàn toàn bất bạo động, vẫn sẵn sàng chịu bách hại kinh khiếp hơn nữa, chỉ để cho cả nước, cho cả thế giới thấy họ có chính nghĩa, và họ quyết sống chết vì Công Lý và Sự Thật…

Tin mới nhất nhận được từ Tin Mừng cho Người Nghèo, cha già Lê Đăng Niêm của Giáo Xứ Thủ Thiêm báo tin ngày mai nhà nước cho xe đến ủi sập ngôi trường học của Giáo Xứ, cha mời gọi lúc 7g sáng ngày 17 tháng 2, mọi người hãy kéo đến hiệp thông với cha, với các Nữ Tu Mến Thánh Giá và bà con Giáo Dân. Cha già bảo “sẽ mặc áo chùng thâm, ngồi xe lăn ngay tại vị trí mà nhà cầm quyền muốn bình địa”…

Đến đây thì tôi nhớ lại biến cố năm 1975, ngược dòng thời gian đến 42 năm. Mùa Chay năm ấy, một Linh Mục Dòng Đa Minh giảng thuyết nhiều ngày liền thật hùng hồn thu hút tại Nhà Thờ Đức Bà Paris. Rất nhanh, các bài giảng được in ra xuất bản với tựa đề “Contre toute espérance”. Có ai đó cầm được một bản từ Pháp về tới Sàigòn trong những ngày đạn bom không còn ở vùng hỏa tuyến xa xôi, nhưng đã tràn về đến ngoại ô, đến cửa ngõ thủ đô miền Nam.

Cha Jean Marie Trần Văn Phán, Dòng Phanxicô ở Đakao, đã dịch rất nhanh tập sách với tựa đề “Tuyệt vọng mà vẫn một niềm cậy trông”. Câu này lấy từ Thư Rôma chương 4 câu 8, bản dịch tiếng Anh là: “Who in hope believed against hope”, bản dịch tiếng Pháp là:“Espérant contre toute espérance, il crut”, bản dịch tiếng Việt của Nhóm CGKPV là: “Mặc dầu ông Abraham không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin”. Xem ra cách dịch thoát ý của cha Phán tuy không theo sát các bản dịch Tân Ước nhưng lại lột tả được tinh thần toàn bộ bài giảng của tác giả Bernard Bro.

Tập sách được quay “roneo chui”, phổ biến ngay trong giới Linh Mục Tu Sĩ Sàigòn dạo ấy. Dù vậy, hình như cha Phán chưa hài lòng, ngay sau ngày mất Sàigòn, khi mọi người còn đang ngơ ngác, thậm chí có phần hoảng loạn vì diễn tiến lịch sử quá nhanh, quá bi đát và tàn bạo, cha sang nhà chúng tôi chỉ cách Nhà Thờ khoảng 300m, gặp ba tôi, ông Lê Văn Lộc, để bàn về một bản dịch mới, chu đáo cẩn trọng hơn. Chỉ trong khoảng mấy tháng, ba tôi đã dịch xong, nhanh nhưng rất kỹ lưỡng. Và thật bất ngờ cho tôi là thằng bé út 17 tuổi, học giỏi môn Văn, được ba tôi giao một trách nhiệm hết sức nặng nề mà vinh dự là giúp ông biên tập câu văn lại cho nó ra văn phong tiếng Việt, xuôi chảy mà không phản nghĩa nguyên tác. Ba tôi chọn dịch tựa đề ngắn hơn, mạnh hơn, lúc đầu là “Niềm cậy trông bất chấp tuyệt vọng”, rồi sau ông lại đổi ngắn hơn nữa, mạnh hơn nữa “Niềm cậy trông bất khuất”.

Và tôi đã may mắn được tiếp cận với một bộ bài giảng tuyệt vời, không chỉ về ý nghĩa Thần Học sâu xa độc đáo mà còn về cả những minh họa sống động của cuộc đời cho những giá trị Tin Mừng Chúa Giêsu đem đến cho nhân loại khốn khổ bi thương ở mọi thời và ở mọi nơi, ám hợp ngay cả với hoàn cảnh đất nước quê hương Việt Nam chúng ta vừa lọt vào tay những người CS vô thần.

Bản dịch được chính ba tôi đánh máy lưu giữ trong nhà như một di sản trong khoảng năm 1978. Sau khi ba tôi mất năm 1988, tôi đi TNXP để đủ điều kiện vào Đại Chủng Viện Giuse, nhưng rồi cũng không xong, tôi xin chuyển sang DCCT. Tôi đã mang theo 6 tập sách đánh máy chữ này vào Nhà Tập năm 1991 để dùng như sách thiêng liêng. Đến 1998, làm Phó Tế về phục vụ ở vùng quê Vĩnh Long và Đồng Tháp, tôi bắt đầu mỗi ngày một chút, lọ mọ gõ mổ cò bằng bàn phím computer rồi đem đi photo, đóng bìa như một cuốn sách ấn hành đẹp.

Hôm nay, tôi xin trích một đoạn ngắn trong tập sách dịch tuyệt vời ấy để tỏ lòng biết ơn và để tôn vinh những con người Việt Nam nhỏ bé, gầy gò, hiền hòa, bình dị, đàn ông và đàn bà, còn trẻ hay đã già, còn nhanh nhẹn đi lại hay đã phải ngồi xe lăn, ở khắp mọi miền đất nước quê hương trong nhiều năm qua, và đặc biệt trong những ngày tháng đầu xuân này, đã hầu như “tuyệt vọng mà vẫn một niềm cậy trông”, phải nói họ đã có được một “niềm cậy trông bất khuất” trước mặt Thiên Chúa và trước mặt người đời, để trở thành “những người sẵn sàng chịu chết” cho Lẽ Phải.

.

Xin trích bài giảng của cha Bernard Bro:

Văn hào Nga hiện đại Andrei Siniavski ( 1925 – 1997 ) đã từng mang án khổ sai, phải sống lưu vong và dạy học tại Pháp. Với nhãn quan của một người không có tín ngưỡng, ông đã viết về niềm tin Kitô giáo của các tín hữu xuyên qua các cuộc bách hại mọi thời và mọi nơi trên thế giới như sau:

Trong đội ngũ của họ, hạng người khôn ngoan không có là bao. Tiểu sử của họ là một chuỗi dài những cuộc tuẫn đạo và tử vong nặng nề của một đoàn quân chỉ biết noi gương Thiên Chúa của họ. Đó là những chiến sĩ phô bày trước thế gian những vết sẹo và thương tích như những dấu hiệu hiên ngang, tự hào và vinh quang.

Họ thuộc đủ mọi thành phần trong xã hội, cả giới hạ lưu bần cùng, cả bọn trọng phạm. Thế nhưng, họ đều đã nhận lấy thập giá. Bất cứ ai cũng đều có thể gia nhập đội ngũ của họ, người dốt nát cũng như kẻ đã từng phạm tội, chỉ với một điều kiện là sẵn sàng nhảy vào lửa.

Đó là thứ tôn giáo của một niềm hy vọng lớn nhất phát sinh từ cảnh tuyệt vọng. Không một tôn giáo nào trên thế giới này lại có được sự tiếp cận mật thiết nhất với tử thần nhiều như Kitô giáo. Mà không phải là họ không biết sợ hãi đâu ! Họ không hề chiêm ngưỡng sự vĩnh cửu, nhưng họ chiếm lấy sự vĩnh cửu bằng cách phấn đấu với một thứ vũ khí duy nhất; đó là sẵn sàng chịu chết !”

Lm. QUANG UY, DCCT, đêm 16.2.2017

Tạ ơn đời – Tạ ơn bạn gần xa thăm hỏi.

Tạ ơn đời – Tạ ơn bạn gần xa thăm hỏi.

Tạ ơn đời hôm nay Tôi còn sống
Mắt còn nhìn, còn đọc được Emails

 Đời còn vui, đâu đến nỗi cô liêu.

 Thêm kiến thức, thêm từ tâm hỷ xả !

 THAM BAN

Tạ ơn các bạn gần xa
Hằng ngày chia sẻ cùng ta đủ điều.
Emails nhận được bao nhiêu
Là bao tình cảm thương yêu nồng nàn. 

 

 

BẠN TA

Thăm hỏi bạn, biết rằng người còn đó

Nỗi mừng vui tràn ngập cõi lòng tôi
Cuộc đời này bao sóng gió, nổi trôi
Vui được biết, Bạn bình an vui sống

Đời trần thế ví như là huyễn mộng

Kiếp nhân sinh là sinh tử, tử sinh
Quý nhau chăng chỉ ở một chữ Tình
Tình cha mẹ, tình vợ chồng, bè bạn


Tình cảm ấy ta không treo giá bán
Khi con tim không đơn vị đo lường
Bàn cân nào, cân được chữ Yêu Thương
Thế mới biết Thương Yêu là vô giá!


Cuộc đời dẫu đảo điên, nhiều dối trá
Nếu chúng ta thực sự mến thương nhau
Thì tiếc chi một lời nói, câu chào
Hãy trao gửi, sưởi ấm tình nhân thế


Có hơn không dù biết rằng chậm trễ
Vì con người ai cũng thích yêu thương
Được thương người và cũng được người thương
Hãy bày tỏ yêu thương dù có chậm


Bạn còn đó! Tôi còn đây! Mừng lắm!
Vì chúng ta còn cơ hội gặp nhau
Để trao nhau lời nói với câu chào
Đầy thân ái, đầy yêu thương, quý mến


Chuyện dĩ vãng, chuyện tương lai sắp đến
Hãy quên đi, xin nhớ hiện tại thôi
Nếu tâm bình trí lạc! Thế đủ rồi!
Người còn đó! Tôi còn đây! Phúc lắm!

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

Liều Thuốc Dành Cho Kẻ Chán Ðời

 
Liều Thuốc Dành Cho Kẻ Chán Ðời

Một người đàn ông chán đời nọ đang đứng nhìn dòng nước từ một chiếc cầu cao. Ông đốt một điếu thuốc cuối cùng trước khi kết liễu cuộc đời.

Ông không còn lối thoát nào khác hơn nữa. Ông đã làm đủ mọi cách để lấp đầy nỗi chán chường trong tâm hồn. Ông đã đi đây đi đó, ông đã tìm lạc thú trong các cuộc vui trác táng, ông đã chạy đến với mọi thứ hơi men và khói thuốc. Nhưng chán chường vẫn cứ chán chường. Ông thử thời vận lần cuối cùng bằng một cuộc hôn nhân, nhưng không có một người đàn bà nào có thể ở bên cạnh ông được vài tháng, bởi vì ông đòi hỏi quá nhiều, nhưng lại không biết nghĩ đến người khác. Ông nhận ra rằng ông đã chán chường mà cũng không ai được hạnh phúc bên cạnh ông. Chỉ có dòng sông may ra mới mang lại cho ông sự thanh thản.

Người đàn ông chưa hút xong điếu thuốc thì cũng có một người hành khất cũng đi qua chiếc cầu. Con người rách rưới đó dừng lại nhìn người đàn ông và chìa tay xin giúp đỡ. Người đàn ông chán chường không ngần ngại rút cả ví tiền và trao cho người hành khất. Ông giải thích rằng bên kia thế giới ông không cần tiền bạc nữa. Người hành khất cầm lấy chiếc ví một lúc rồi trao lại cho khổ chủ. Ông ta nhìn thẳng vào đôi mắt của kẻ chán đời và nói: “Thưa ông, tôi không cần một số tiền lớn như thế. Tuy là một người hành khất, nhưng tôi không là một kẻ hèn nhát. Ông hãy giữ lại tiền của ông và đem qua bên kia thế giới của ông”. Nói xong, người hành khất ném cả ví tiền xuống dòng sông rồi lặng lẽ bước đi, bỏ mặc kẻ chán đời tiếp tục gặm nhấm nỗi đắng cay chua xót của ông.

Ðã hút xong điếu thuốc, nhưng kẻ chán đời vẫn muốn chưa kết liễu cuộc đời. Ông nhìn theo người hành khất đang khuất xa dần. Tự nhiên, ông không muốn chết nữa, mà chỉ muốn nhặt lại chiếc ví để trao tặng cho người hành khất. Chưa một lần trong đời, ông biết mở ví trao tặng cho bất cứ người nào. Giờ phút này. ông muốn mở rộng tâm hồn, mở rộng đôi tay để trao tặng và muốn tiếp tục sống. Nghĩ như thế, kẻ chán đời đứng thẳng lên, rời bỏ cây cầu và tiếp tục đuổi theo cho kỳ được người hành khất.

Không gì buồn chán cho bằng sống không có định hướng, không có lẽ sống. Sống mà không biết tại sao mình sống, mình sẽ đi về đâu là điều làm cho con người chán chường và đau khổ nhất.

Ai cũng khao khát hạnh phúc, ai cũng đi tìm hạnh phúc nhưng lắm khi người ta chỉ chạy theo ảo ảnh của hạnh phúc. Ai cũng biết rằng tiền tài, danh vọng và lạc thú trong cuộc sống tự nó không phải là hạnh phúc và lắm khi chúng cũng không mang lại hạnh phúc cho con người.

Hạnh phúc không phải là một nơi để đi đến, hạnh phúc là một hướng đi. Có đi theo hướng đó, con người mới cảm thấy được hạnh phúc. Vậy hướng đi của chúng ta là gì?

Chúa Giêsu, Ðấng là Ðường, là Sự Thật và là Sự Sống, đã vạch ra cho chúng ta hướng đi ấy. Và hướng đi Ngài đã vạch ra chính là Sống cho tha nhân. Ai càng tích trữ và chiếm giữ cho mình, người đó càng nghèo nàn và khốn khổ. Ai càng đóng kín quả tim và khép chặt bàn tay, người đó sẽ không được nhận lãnh. Hạnh phúc đích thực chính là trao ban, bởi vì như Thánh Phaolô đã ghi lại lời của Chúa Giêsu: “Cho thì có hạnh phúc hơn nhận lãnh”.

Cho là liều thuốc chữa trị được căn bệnh trầm trọng nhất trong tâm hồn chúng ta: đó là sự chán sống. Cho cũng là liều thuốc xoa dịu được mọi khổ đau trong tâm hồn chúng ta. Chúng ta đang đau khổ vì bị phản bội, vì thất chí, vì bệnh tật hay vì bất cứ một nguyên do nào: chúng ta hãy thử mở rộng tâm hồn để trao ban, để san sẻ. Chúng ta sẽ cảm thấy được xoa dịu trong tâm hồn

    Trích sách Lẽ Sống

Anh chị Thụ Mai gởi

Nếu địa đàng, chẳng còn gì để nhớ

Suy Tư Tin Mừng Trong tuần thứ 7 thường niên năm A 19/02/2017

 Tin Mừng: (Mt 5: 17-37)

 Hôm ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành. Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời.

 “Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt. Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan toà, quan toà lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng.

  “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục.

 “Luật còn dạy rằng: Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình.

  “Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được. Nhưng hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”.Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.”

                                  &    &   &

Nếu địa đàng, chẳng còn gì để nhớ”

“Hạt bụi rớt xuống đời, xin lẫn vào nhau…”

(dẫn từ thơ Bùi Thanh Tuấn)

 Mt 5: 38-48 

  Mai Tá lược dịch

Địa đàng cuộc sống, là chốn miền để gợi nhớ. Hạt bụi tình người, là chất liệu để yêu thương. Thương yêu, điều Chúa nhắc nhở, ở Tin Mừng, vẫn được thánh sử ghi chú, vẫn lâu nay.

Nhiều người, rất lấy làm lạ khi được bảo: Tin Mừng thánh sử viết, là bản văn viết không vào thời Chúa hoạt động, hoặc ngay sau ngày Chúa sống lại, nhưng được viết vào nhiều thập niên sau, như: “Tin Mừng theo thánh Mátthêu” chẳng hạn, đã chỉ được ghi chép vào giữa thập niên ’80, ở thế kỷ đầu. Và, người ghi chép “Tin Mừng” này không phải là Mát-thêu-thu-thuế thời Chúa sống. Cũng không là một trong số mười hai tông đồ, gần gũi Chúa. Mátthêu đây là học giả Do thái hiểu biết nhiều tiếng Hy Lạp, xuất thân sinh sống tại một quận ở ngoại ô Giêrusalem, mà người thời ấy có thói quen gọi là “thày dạy”, hoặc đấng bậc “tư tế”.

Tác giả “Tin Mừng theo thánh Mátthêu”, là vị thức giả từng hồi hướng về với Đạo Chúa, ngang qua các thừa sai của Chúa.Thánh sử Mát-thêu học được nhiều điều, qua hành động và cuộc sống từ các Đạo hữu theo chân Chúa. Đặc biệt, là các vị có liên hệ mật thiết với thánh Phêrô tông đồ, thời tiên khởi. Khi ghi chép Tin Mừng theo thánh Mát-thêu, tác giả đã ở vào độ tuổi cao niên khá cứng, nhưng ông lại là người có tầm nhìn thông thoáng, thi vị. Ông đề cập nhiều đến những con người và người con có tâm tư chân phương, bình dị nhưng có tư cách.

Sử gia Mátthêu, là cây viết rất sáng giá. Thánh nhân, tuy chung đụng nhiều với người Do thái, nhưng dùng tiếng Hy Lạp để ghi chép Tin Mừng. Và, qua văn phong văn thể cùng lập trường chuyên chính rất Kitô, nên các nhà chú giải cho rằng tác giả là một trong các Kitô-hữu đầu tiên, ở thời ấy.

Tin Mừng do tác giả viết, lại gồm lời lẽ ân cần, gửi đến các đấng bậc khôn ngoan/thông thái ở Israel. Nên, nhờ đó ta học được rất nhiều điều qua các dạng thức, như: lời sấm, dụ ngôn, phương châm, hoặc tư vấn, nhất nhất đều nhấn mạnh đến điều Chúa giảng rao cho mọi người. Bởi thế nên, người đọc nhận ra những 73 lần tác giả lập đi lập lại cụm từ “tông đồ”, ở “Tin Mừng” này.

Và vì thế, người đọc cũng nên hiểu cụm từ “tông đồ” theo nghĩa các “đấng bậc khôn ngoan/uyên bác” chuyên học hỏi những điều hay lẽ phải, do từ Chúa phán ra. Và cũng vậy, người đọc đừng nên hiểu rằng tác giả “Tin Mừng” là nhà thức giả thuộc tầm cỡ đại học, chuyên ngồi trong phòng lạnh để viết. Hãy cứ tưởng tượng rằng: khi ghi chép “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” tác giả đã suy tư dưới ánh đèn dầu leo lét, với tâm tình nguyện cầu trong bầu khí ẩm ướt, nặc mùi khô cháy có lưới cá đang hơ hóng, ở đâu đó…

Nay có người hỏi: thánh sử Mát-thêu muốn chuyển tải điều gì mới mẻ, khi ghi chép Lời Chúa?

Hầu hết các cộng đoàn tin theo Chúa sống ở Giêrusalem, đều mang tính chất rất “Do thái”. Hết thảy đều thấy nơi Đức Giêsu một Môsê rất mới để các vị nghe lời. Vì, xét cho cùng, Ngài còn mới hơn cả chính tiên tri Môsê, bởi Ngài là Đấng luôn chủ trương những điều mới mẻ, nơi Lề Luật. Và, điều mới mẻ khác nữa, là: Ngài không cất bỏ đi yếu tố quan trọng sẵn có từ hậu duệ của Đavít. Và, mọi người còn nhận ra nơi Đức Giêsu, hệt như ở Môsê và Đavít, ảnh hình của Đấng Bậc Hiền Từ, rất đặc biệt. Đặc biệt, là bởi người người đều nhận thấy rằng: qua Ngài và ở nơi Ngài “Ơn Cứu Độ” đã đến, là đến với cả Dân ngoại nữa. Ngài đến, qua trung gian Israel hoặc những người Do thái, tức: những người lúc ấy vẫn ở trong tư thế cách xa và tách rời khỏi dân-được-chọn.

Và, họ coi đó như ân sủng riêng tư, nhận từ Chúa. Bởi thế nên, trở thành người hết lòng tin tưởng vào Đức Giêsu, phải là người Do thái tích cực, phóng khoáng, những người chủ trương tuân giữ Luật Torah rất Đạo. Từ đó, cộng đoàn dân Chúa đã thấy mọi người tập trung nhấn mạnh đến Luật Torah. Quyết tuân giữ Lề Luật cách kiên trì, nhưng thông thoáng. Tuân và giữ, theo tinh thần tự do của người con Đức Chúa, mới đúng.

Vốn đặt nền tảng vững vàng lên truyền thống rao giảng kiểu thánh Phaolô Tông đồ, Hội thánh Chúa khi ấy đã có tầm nhìn rất khác lạ về Lề Luật. Và, Hội thánh đã coi Đức Giêsu là Đấng Bậc rất Do thái, chủ trương giữ Luật Torah thật đúng qui cách nhưng tự do, phóng khoáng, cho đúng nghĩa. Kể từ đó, Hội thánh vốn có sẵn tinh thần giảng rao của thánh Phaolô, lại đã khám phá ra rằng: tự do con cái Chúa là một hiện hữu rất đích thực, khi ta tuân thủ Lề Luật, rất Torah.

Là người Do thái sống ở miền Bắc xứ Palestin thời tiên khởi, thánh sử Mát-thêu xuất xứ từ một quá trình cuộc sống, có lập trường khá bảo thủ. Chí ít, là truyền thống giữ luật đúng qui cách, như Chúa dạy. Thánh sử cũng lo rằng nhiều truyền thống có thể sẽ mai một đi nếu không có người bận tâm lo duy trì nó. Và, thánh sử còn một mối lo ngại nữa, cứ e rằng: rồi ra sứ vụ tông đồ rao giảng kiểu Phaolô thánh nhân, có thể sẽ khiến truyền thống của người Do thái trở thành thứ yếu, mất đi tầm quan trọng. Do đó, thánh sử gia đã cảm thông với tình huống mà cộng đoàn Hội thánh ở Giêrusalem đang sống, dù cho thánh sử không thuộc về cộng đoàn này.

Cũng vì thế, tác giả quyết tâm tái cấu trúc cộng đoàn theo kiểu cộng đoàn dân Chúa ở Giuđêa, nghĩa là: không chỉ rập theo khuôn phép cũ của người Do thái, nhưng còn phổ biến lối sống của cộng đoàn Hội thánh Giêrusalem, hoặc có khuynh hướng mục vụ rao giảng theo kiểu của thánh Phaolô. Bởi thế nên, người đọc nhận ra rằng: “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” cũng mang dáng vẻ bảo thủ qua việc đòi mọi người giữ luật cho đúng qui cách. Chí ít, là cải cách niềm tin của người Do thái theo khuôn khổ “chiên lạc rời khỏi ràn nhà Israel”. Thành thử, tinh thần của thánh sử và của cộng đoàn nơi thánh nhân sinh hoạt vẫn có khả năng duy trì mối liên kết chặt chẽ với đền thờ người Do thái.

Tuy nhiên, thánh sử Mát-thêu không quên rằng: chính Đức Kitô mới là Đấng ta cần tin vào Ngài. Thánh sử diễn tả lập trường này theo lối viết giản đơn, rất thông thường, rằng: thay vì ta áp dụng nguyên tắc đền và bù như: “mắt đền mắt”, “răng đền răng”, tác giả lại khuyên người đọc Tin Mừng của ngài, hãy nên sử dụng đường lối bất-bạo-động. Và, thay vì phòng thủ hoặc trả thù, thánh sử đề nghị ta nên khoan dung, độ lượng.

Thay vì lo cho riêng mình, hãy quan tâm ái ngại đến người khác. Với thánh sử Mát-thêu, đây không phải là lạc quan sáng suốt, cũng chẳng là đường lối tư riêng độc quyền của người Hy Lạp, nghĩa là đường và lối chỉ chú trọng vào cuộc sống tư riêng của người khác, thôi. Nhưng, là: hãy áp dụng luật Torah theo qui cách thương yêu, như Chúa đã khuyên dạy.

Điều cốt thiết mà thánh sử nhận ra nơi lời dạy của Chúa, là: Ngài là người giữ luật Torah, rất đúng cách. Tuy nhiên, Ngài chú trọng đến tinh thần, chứ không phải chữ viết của Luật. Nói cách khác, người đọc “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu không thể hiểu Luật Torah cho đúng cách, nếu không thi hành lời dạy của Đức Giêsu cũng như cộng đoàn nhỏ bé của Ngài, là Hội thánh thời tiên khởi. Bởi, cộng đoàn Hội thánh mới là người sống thực Luật Torah theo tinh thần Chúa đề ra. Và, thánh sử lại thêm rằng: dân con thành thánh Giêrusalem không chắc đã nhận ra được điều này. Vì thế nên, người đọc “Tin Mừng” có thể kết luận rằng: tác giả “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” quả là phóng khoáng cũng rất đúng.

Vậy, người đọc hôm nay học hỏi được điều gì qua sự việc này?

So sánh kinh nghiệm của các thừa sai tông đồ thời tiên khởi với kinh nghiệm thời Hậu-Công Đồng Vatican II, dân con Hội thánh nhận ra được điều gì? Ta có nhận ra được năng lực và tự do con cái Chúa nơi cộng đoàn Hội thánh tiên khởi theo kiểu thánh Phaolô không? Phải chăng, so sánh kinh nghiệm về cố gắng ‘tái lập’ di sản được bảo tồn, đáng yêu từ một truyền thống rất đúng đắn? Truyền thống, có là qui cách mà tác giả “Tin Mừng theo thánh Mát-thêu” hằng cảnh báo Hội thánh hãy trở về với tính chất Do thái, ở lai thời không?

Nếu tác giả “Tin Mừng theo thánh Mátthêu” nay còn sống, hẳn ông sẽ yêu cầu các đấng bậc vị vọng trong Hội thánh hôm nay, hãy quan tâm nhiều hơn nữa đến việc tái tục truyền thống đã có từ thời tiên khởi? Và, Hội thánh cũng nên nhìn vào Đức Giêsu hơn là các truyền thống mà các ngài muốn duy trì, bảo vệ. Hẳn rằng thánh sử Mát-thêu cũng sẽ yêu cầu mọi thành viên Hội thánh hôm nay hãy có tầm nhìn phóng khoáng và cởi mở, tốt hơn là ở lại với truyền thống xưa/cũ. Như Đức Giêsu khi xưa, vẫn đứng về phía những người duy trì Luật Torah, bằng tinh thần chứ không theo từng chữ. Và, ảnh hình Chúa chấp nhận dìm mình thanh tẩy nơi sông Giođan, sẽ là bằng chứng điển hình cho việc tuân giữ Luật Torah, rất tự do lại có tinh thần thương yêu đúng qui cách.

Thật khó mà thiết-lập được quân bình cho cơn sóng dồn và sức ép từ Lề Luật, thế mà Ngài vẫn chấp nhận dầm mình dưới giòng sông Giođan để chứng tỏ tinh thần giữ Luật đúng cách. Nhưng, tác giả “Tin Mừng theo thánh Mátthêu” vẫn sẽ là vị học giả cao niên, chín chắn. Là vị thức giả hiểu rõ hơn ai hết tinh thần của người Do thái. Hiểu Đức Kitô và người nghèo, hơn ai hết. Tác giả “Tin Mừng theo thánh Mátthêu” chính là người có được nhận thức mới về sự khôn ngoan, thông suốt cho mỗi người chúng ta.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn

  Mai Tá lược dịch

Từng ngày nao, nồng-nàn từng câu ca dao,

httpv://www.youtube.com/watch?v=cJIScRWJcQY

Dòng thời gian – Phan Đình Tùng (st: Nguyễn Hải Phong)

Chuyện Phiếm Đọc Trong Tuần thứ 7 mùa Thường niên năm A 19/02/2017

“Từng ngày nao, nồng-nàn từng câu ca dao”,

Từng ngày lặng-lẽ sống với kỷ-niệm ngọt ngào.

Mình quên những giấc chiêm bao.

Qua rồi một thời yêu đương sớm tối

Giữa thênh-thang bầu trờ, nắng gió muôn nơi.”

(Nguyễn Hải Phong – Giòng Thời Gian)

(Mt 5: 12)

 Trần Ngọc Mười Hai

Với nhiều người, quả y như rằng: đời mình là như thế đấy. Với một số người khác, thì: cũng qua rồi “một thời yêu đương sớm tối giữa thênh-thang bầu trời”, rất khôn nguôi.

Với tất cả mọi người, thì: cuộc đời người thường có nghĩa: “giữa thêng-thang bầu trời”, người thời nay không còn nhìn thấy “một thời yêu thương sớm tối” nữa, thì làm sao thấy được cuộc sống xã hội hôm nay, ngày ngày gặp toàn chuyện trái khuấy, kỳ lạ như nhận-định của ai đó trên mạng vi-tính có những lời lẽ sau đây:

“Xã hội này lạ lắm! Con người nay vui lắm. Giới bác-sĩ, thì chỉ muốn con bệnh mình cứ bệnh mãi, bệnh hoài để còn tìm đến mà chữa-trị. Lớp kỹ-sư, lại cứ muốn đồ đạc trong nhà/ngoài ngõ cứ bị hư. Thợ làm răng, lại những muốn người bị bệnh rang sâu, sứt mẻ hoặc vỡ/bể để còn làm những bộ rang giả khá đắt tiền. Đến như thày/cô, lại vẫn cứ mong sao cho đám trẻ mãi mãi khờ-khạo cứ là dễ bảo, để dạy kèm tăng học-lực. Thợ xây-dựng, thì cứ muốn nhà cửa hư-hỏng suốt, để còn xây thêm và chữa mãi không thôi. Chủ tiệm áo quan vẫn muốn nhiều người chết tốt, để bán hòm. Duy, có mỗi tay ăn trộm lại cứ muốn mọi người khấm khá hơn xưa để có cơ-hội mà thăm viếng, kiếm chút cháo… Thế đó, là xã hội thời hôm nay và mai ngày, cứ thế mãi.”

 Thế, Giáo hội phụng thờ Đức Chúa, thì sao?

Vâng. Đây là câu-hỏi tuy nghe nhiều vẫn thấy hay hay, nên trả lời cho đúng đắn! Trả lời vấn-nạn ở đây, quả thật không dễ. Không dễ chút nào, bởi: hôm nay đây, trong lòng Hội thánh Công-giáo được tiếng là “Giáo-hội duy-nhất, thánh-thiện và tông-tryền”, rày đã thấy có dấu-hiệu rạn-nứt/bất-đồng giữa một số hồng-y giáo-chủ và Giáo-hoàng cùng một gốc gác với Giáo Tông, Giáo . Không tin ư?

Vậy thì, mời bạn và tôi, ta cứ để mắt nhìn vào một vài sự-kiện mới xảy ra ở La Mã, rất Vaticăng.

 Nhưng, trước khi đi vào tìm hiểu chi-tiết về một “rạn-nứt/bất-đồng trong Giáo hội, cũng mời bạn và tôi, ta nghe tiếp nhạc-bản vừa trích-dẫn để có hứng mà bàn cho kỹ. Nhạc bản “Giòng Thời-gian” lại có những ca-từ đầy thi-tứ như sau:

Thời gian qua đi… bộn bề nhiều lần suy nghĩ…

đời ngọt ngào thì đôi khi…
Tình yêu nơi đâu…

vội vàng tìm hoài không thấu…
Thôi… dừng làm chi… rồi lại đi…
Bao nhiêu năm rồi làm gì và được gì…

ngày tháng sao vội đi đôi khi không như ý…

trôi qua bao nhiêu năm nữa có lẽ ta không ngây ngô… như bây giờ…
Bao nhiêu cho vừa, từng ngày và từng giờ…

cành lá sao lặng im như thôi…
không mong nhớ…

cho ta bao nhiêu năm nữa có lẽ bao nhiêu đây thôi…
Cho ta nhìn thời gian trôi… “

(Nguyễn Hải Phong – bđd)

Rồi cứ thế, ca từ của bài hát cứ nhẩn nha đưa ta về cõi đường dài, “nhiều chông gai” có những“tháng ngày buồn ở lại”, ngày vui mau phai” có “cơn đau nặng nề”, “khốn khó lê thế”… rất như sau:

 “Đường còn dài… và còn nhiều hơn chông gai…
Rồi thì lặng lẽ những tháng ngày buồn ở lại…

ngày vui dễ lắng… mau phai…
Mai về nhìn lại cuộc đời vui ghê…

về nhìn lại yêu thương vẫn thế…

giữa cơn đau nặng nề…

khốn khó lê thê…
Thời gian qua đi…

bộn bề nhiều lần suy nghĩ…

đời ngọt ngào thì đôi khi…
(Nguyễn Hải Phong – bđd)

Vâng. Cuộc đời người là như thế. Thế nhưng, bên trong Giáo hội Công giáo hôm nay, cũng thấy xuất-hiện “nhưng cơn đau nặng nề, lê thê, khốn khó. Khốn và khó, nhưng bài viết bên dưới từng bật mí những bí mật sau đây:

“Một lần nữa, Đức Giáo Hoàng Phanxicô lại khiến cho các viên chức Vaticăng ngỡ ngàng khi ngài chúc mừng Giáng sinh 2016 bằng lời loan báo sẽ có cải-tổ Giáo-triều Rôma và cái-gọi-là “những hành-xử đầy cởi mở”, “việc giấu diếm” và các loại ảnh-hưởng xấu xuất tự chống-đối đang gặp.

 Ngỏ lời với các hồng-y và giới chức lão-thành của Giáo-triều Rôma tập-họp tại Vaticăng hôm ấy, Đức Phanxicô nói: sở dĩ có sự cải-tân Giáo triều này là do yêu-cầu của các hồng-y từng bàn-thảo trước mật-hội năm 2013. Đức Giáo-hoàng có liệt-kê 12 tiêu-chuẩn hướng-dẫn công-cuộc cải-tổ này và ngài cũng nói đến “ba thể-loại phản-chống” mà Giáo-hội đang gặp. Và, để trả lời với những người cho rằng cuộc cải-tổ này sẽ thành-tựu một cách không đáng kể và các vị ấy cũng chỉ đưa ra một số tiến triển không là bao.

 Đây là năm thứ 3 qua đó vị Giáo Hoàng người Argentina này đi sâu vào khía cạnh chính cuộc sống của Giáo triều Rôma, tức dịch-vụ dân-sự của Giáo hoàng. Năm 2014, ngài có vạch ra “15 căn bệnh” hoặc “yếu điểm” mà các giới chức trong Giáo triều đang gặp. Năm 2015, ngài lại đưa ra các phương thuốc giải-trừ cho các tật bệnh này bằng cách liệt kê danh-sách các đặc-tính thiết-yếu mà Giáo-triều cần nắm vững để trau-dồi.

 Năm nay 2016, Đức Phanxicô lại đóng khung cuộc nói chuyện của ngài quanh vấn-đề linh-đạo nhập-thể. Nhân lúc diễn-tả Giáng Sinh như lễ hội của “tình thương yêu khiêm-hạ của Thiên Chúa” đặt nặng lên lập-luận đầy khoa-học-tính của con người, ngài nhắc mọi người rằng: Thiên Chúa chọn sinh ra trong cảnh thấp hèn, vì Ngài muốn mọi người yêu mến Ngài” và vốn dĩ là người bé nhỏ, mỏng dòn, yếu ớt nên không ai cảm thấy xấu hổ khi đến với Ngài, không ai hãi sợ Ngài hết.

 Đức Phanxicô nói: lập-luận đầy khoa-học của Thiên-Chúa hối-thúc lập-luận đầy lý lẽ của thế-gian, thứ lập-luận của quyền-lực, đội binh, rất Pharisêu, đầy cơ-hội hoặc xác-định. Đức Giáo hoàng còn nói rõ rằng đây là thứ lập-luận thật sự tạo sức sống cho Giáo-triều Rôma và củng-cố việc cải-tổ rất cần-thiết…    

      Ngài nêu rõ: “Cải tổ” có nghĩa “thuận theo” tin vui an bình của Lời Chúa trong Phúc Âm vốn dĩ phải được công-bố một cách vui tươi đầy can-đảm cho hết mọi người, đặc-biệt là người nghèo và những người bị loại trừ khỏi xã-hội họ đang sống, “phù hợp với các dấu chỉ của thời-đại để ta có thể đáp trả một cách tốt đẹp với nhu-cầu của nam nhân và nữ phụ hôm nay. Điều đó còn có nghĩa “phù hợp” với thừa-tác-vụ của người kế vị thánh Phêrô và hỗ trợ ngài trong chức vụ quan-yếu này…

 Đức Phanxicô còn cho biết: công-cuộc cải-tổ chỉ thành-tựu một cách hiệu-năng nếu được các giới chức đã “cải-tân” chứ không phải các quan-chức mới vào làm. Bởi lẽ, thay đổi nhân-sự không thôi cũng chưa đủ. Cần thiết phải “cải-tân các thành-viên của Giáo-triều cả về mặt linh-thiêng, nhân-bản lẫn chức-nghiệp” nữa. Nếu không có sự “hồi hướng trở về của các vị” này và nếu không chịu “thanh-sạch-hoá thường-xuyên”, thì không thể có cải-tổ được.

 Trong cải tổ, ta luôn gặp các khó khăn, đó là chuyện bình thường và cũng an lành nữa; và ngày hôm nay những việc như thế đều gặp phải “nhiều thể-loại chống-đối” vừa theo cách cởi mở, công khai hoặc có ác ý cũng không chừng…” (X. Gerard O’Connel, Pope Francis speaks about the Reform of the Roman Curia and the Resistance to it, Dispatched 22/12/2016).

Nói cho cùng, thì: cải-tổ nào cũng gai góc, sơ cứng và đôi khi rất khó chịu. Riêng với Giáo hội Công-giáo, 50 năm về trước cũng đã có một cải tổ khá lớn rộng cả một giáo hội qua cái-gọi-là “Công Đồng Vaticăng 2”, chứ không chỉ mỗi Giáo triều Rôma mà thôi; thế nhưng, sau 50 năm có lẻ, mọi chuyện cứ “y nguyên”, vẫn như cũ.

Thành thử, cứ như ca từ của nhạc-bản ta vừa hát, cũng nên lập lại đôi ý-từ cùng ý-tứ những nhắn nhủ mọi người bằng giòng nhạc, cứ hát rằng:

“Tình yêu nơi đâu…

vội vàng tìm hoài không thấu…
Thôi… dừng làm chi… rồi lại đi…
Bao nhiêu năm rồi làm gì và được gì…

ngày tháng sao vội đi đôi khi không như ý…

trôi qua bao nhiêu năm nữa có lẽ ta không ngây ngô… như bây giờ…
Bao nhiêu cho vừa từng ngày và từng giờ…

cành lá sao lặng im như thôi
không mong nhớ…

cho ta bao nhiêu năm nữa có lẽ bao nhiêu đây thôi…
Cho ta nhìn thời gian trôi…”

(Nguyễn Hải Phong – bđd)

Cứ “nhìn thời gian trôi”, rồi sẽ thấy nhiều thay-đổi. Cứ tìm “Tình yêu nơi đâu”, “vội vàng tìm hoài không thấu”, rồi cũng thấy “bao nhiêu năm rồi làm gì và được gì…” và cứ thấy “ngày tháng vội đi khi không như ý”,… Bởi, Giòng thời gian cứ thế trôi qua, dù con người có phản-chống, cải-tổ hoặc làm gì đi nữa.

Nói thế không để bảo rằng: ta cứ thế mặc kệ mọi chuyện ciễn tiến trong/ngoài xã-hội và giáo-hội. Nói thế, chỉ để nói rằng: thời gian cuộc đời người còn trôi nhanh hơn mọi người tưởng. Thế nên, hay nhất là ta cứ vui hưởng cuộc sống rất hiện tại, dù mai ngày có ra sao, tích-cực hoặc tiêu-cực.

Nói thế, để đề-nghị với bạn và với tôi, ta lại sẽ đi vào vùng trời thánh-hiến có những Lời Vàng của đấng thánh-hiền từng bảo ban như sau:

“Anh em hãy vui mừng hớn hở,

vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời

thật lớn lao.”

(Mt 5: 12)

Hãy vui mừng và hớn hở, còn là và sẽ là những gì ta gặp không chỉ là phần thưởng ở trên trời mà thôi. Nhưng đã tỏ hiện ngay tại đây, lúc này ở Nước Trời Hội thánh hôm nay, trong đó mọi người không còn “đi tìm” tình-yêu nữa. Nhưng đã thấy và thực hiện tình yêu ấy cho nhau, suốt mọi ngày, trong đời.

Quyết thế rồi, nay mời bạn và mời tôi ta đi vào vườn hoa châm ngôn và truyện kể để sẽ thấy rằng “giòng thời gian” từng làm cho con người sống vui tươi, hớn hở dù lâu nay trải qua nhiều đoạn đường dài khắc khổ, sầu muộn đến chán nản.

Châm ngôn và truyện kể ở trong đời là những kinh nghiệm từng trải mà người đi trước viết lại cho người đi sau để thưởng lãm, suy-tư hầu có quyết-tâm sống những ngày dài sắp xảy đến. Châm ngôn và truyện kể, còn là những kể lể về thời gian trải dài trong cuộc sống, vẫn “cần đến một chữ duyên” như sau:

 “CUỘC SỐNG CŨNG CẦN MỘT CHỮ DUYÊN

1. Giữa người với người, có thể gần, cũng có thể xa.
Giữa việc với việc, có thể phức tạp, cũng có thể giản đơn.
Giữa tình cảm với nhau, có thể sâu, cũng có thể cạn.
2. Đừng mong cầu mọi người đối xử với mình đặc biệt, cũng chẳng nên hy vọng họ sẽ bớt đi những toan tính.
3. Cuộc sống có người nói ít làm nhiều, cũng sẽ có kẻ chỉ biết hoa chân múa tay. Bạn không nên quá bận lòng, chỉ cần quản tốt việc của bản thân, còn lại mọi việc hãy thuận theo nhân duyên.
4. Đức Phật từng nói: Với người không có duyên, dù bạn nói bao nhiêu lời cũng là thừa; còn như đã hữu duyên thì chỉ cần xuất hiện, bạn cũng có thể đánh thức mọi giác quan của họ.
5. Có một số việc, vừa phân trần trắng đen đã trở thành quá khứ.
Có một số người, giận hờn vài ngày đã trở thành dĩ vãng.
Có những nỗi đau, vừa cười lên đã tan thành bọt nước.
Có những hoàn cảnh, nhờ chịu chút thương đau mà trở nên kiên cường.
Cuộc sống cũng cần một chữ Duyên
6. Đôi khi hôm nay là việc lớn, ngày mai nhìn lại chẳng có gì đáng kể. Năm nay quan trọng, sang năm sẽ trở thành thứ yếu. Chuyện vĩ đại đời này, đời sau người ta gọi là truyền thuyết.
7. Chúng ta, nhiều nhất cũng chỉ là câu chuyện của một người. Vì thế trong cuộc sống hay công việc, nếu gặp chuyện không vừa ý, hãy nói với bản thân: “Hôm nay sẽ qua đi, ngày mai rồi cũng đến, hãy buông bỏ tất cả để bắt đầu ngày mới!”
8. Trên đời, có một số việc không phải không để tâm, mà để tâm cũng không làm được gì hơn.
9. Cuộc sống không có “Nếu Như”, chỉ có “Hậu Quả” và “Kết Quả”
10. Đón nhận đời mình như thế nào là do bản thân lựa chọn, người khác không thể quyết định thay.
11. Trưởng thành rồi, bạn sẽ biết cách lấy nụ cười đối diện với tất cả.” 
(tác giả ST Sưu tầm)

Nói cho cùng, thì “Giòng thời gian” là giòng chảy gồm nhiều giai-đoạn của cuộc đời làm nên đời người. Giòng chảy ấy, có tốt có xấu, có cả những sự và việc khiến mọi người như bạn và tôi đồng ý hay bất ưng, vui vẻ hay sầu buồn. Tất cả, vẫn chỉ là một quyết tâm. Quyết tâm sống những chuỗi ngày còn lại sau khi gặp nhiều sự việc diễn tiến trong đời mình.

Quyết thế rồi, nay mời bạn và tôi, ta cứ hiên ngang ngẩng đầu nhìn về đằng trước rồi se sẽ hát những ca-từ vừa trích dẫn ở trên mà rằng:

“Đường còn dài… và còn nhiều hơn chông gai…
Rồi thì lặng lẽ những tháng ngày buồn ở lại…

ngày vui dễ lắng… mau phai…
Mai về nhìn lại cuộc đời vui ghê…

về nhìn lại yêu thương vẫn thế…

giữa cơn đau nặng nề…

khốn khó lê thê…
Thời gian qua đi…

bộn bề nhiều lần suy nghĩ…

đời ngọt ngào thì đôi khi…
(Nguyễn Hải Phong – bđd)

Vâng. Đường đời vẫn còn dài, nhiều chông gai. Dù đó có là “những tháng ngày buồn” gì đi nữa, hãy cứ trông cậy vào “Giòng thời gian” cứ tuôn chảy mãi không thôi. Tuôn chảy rồi, sẽ thấy cuộc đời vẫn êm ả như những tháng ngày buông trôi thời thơ ấu, rất nên thơ.

 Trần Ngọc Mười Hai

Và ý-nghĩ thoáng qua

Khi kịp nghe bài hát Giòng thời gian

Của Nguyễn Hải Phong

Rất thường tình.

TÌNH YÊU BIẾN KẺ THÙ THÀNH BẠN HỮU

 TÌNH YÊU BIẾN KẺ THÙ THÀNH BẠN HỮU

 Tin Mừng các Chúa Nhật liên tiếp trình bày những giáo huấn mới mẻ của Chúa Giêsu so với luật cũ của Cựu ước.

 Chúa Nhật IV, Chúa Giêsu là Môisen mới, đứng trên núi Sinai mới (núi Bát Phúc) công bố luật mới của Nước Trời (Tám mối Phúc thật).

 Chúa Nhật V, sau khi công bố Hiến Chương Nước Trời, Chúa Giêsu khuyến khích các môn đệ, những công dân mới của Nước Trời, hãy đem những giáo huấn của Người ra thi hành.  Sứ mạng cao cả của người công dân Nước Trời là muối cho đời, ánh sáng thế gian.

 Chúa Nhật VI, Chúa Giêsu so sánh luật mới của Người với luật cũ của Môisen.  Luật mới kiện toàn luật cũ.  Chúa Giêsu đưa ra 4 trường hợp cụ thể:

 –      Luật cũ cấm giết người.  Luật mới dạy, phải coi người khác là anh em.  Thương yêu nhau, nếu có gì bất hòa thì hòa giải với nhau.

–      Luật cũ cấm hành vi ngoại tình.  Luật mới ngăn chặn ngoại tình từ ước muốn.  Cần chặn đứng những gì gây nên ước muốn xấu xa như con mắt, cái tay, cái chân…

–      Luật cũ quy định thủ tục li dị.  Luật mới triệt để cấm li dị.

–      Luật cũ cấm thề gian.  Luật mới dạy sống chân thực.  Khi đã sống chân thực rồi thì không cần thề nữa.

 Chúa Nhật VII, Chúa Giêsu tiếp tục giáo huấn hoàn thiện luật cũ.

–           Luật cũ dạy yêu thương, nhưng lòng yêu thương ấy chỉ giới hạn trong những người Israel với nhau.  Luật mới dạy phải mở rộng yêu thương đến kẻ thù nữa.

–          Tinh thần luật cũ “mắt đền mắt, răng đền răng”.  Pháp lý của Chúa Giêsu hoàn toàn mới mẻ.  Chúa mở ra con đường mới: thiện thắng ác, tình yêu thắng hận thù.

–          Tinh thần luật cũ là chỉ yêu thương người đồng bào.  Giáo huấn mới là hãy yêu thương thù địch và làm ơn để báo oán.

 1.  “Hãy yêu kẻ thù”

“Hãy yêu kẻ thù” là giáo huấn độc đáo nhất của Chúa Giêsu.  Người đã cắt nghĩa rất cụ thể.  Yêu thương kẻ thù là:

–          Làm ơn cho kẻ ghét mình.

–          Chúc phúc cho người nguyền rủa mình.

–          Cầu nguyện cho kẻ vu khống mình.

–          Ai vả má nầy thì đưa cả má kia.

          Ai lột áo ngoài thì cho cả áo trong.

–          Ai lấy gì thì đừng đòi lại…

 Lý do của thái độ nhân ái, lòng yêu thương bao la ấy là con cái phải noi gương Thiên Chúa là Cha ngự trên trời“Người làm cho mặt trời mọc lên trên người lành cũng như kẻ dữ, làm cho mưa xuống trên kẻ lành cũng như người bất lương…”.  “Yêu thương kẻ thù” là một nghĩa cử anh hùng, một nỗ lực vượt thắng tình cảm tự nhiên, vượt trên phản ứng thường tình của con người.  “Yêu thương kẻ thù” là bước vào thế giới siêu nhiên của con cái Chúa, sống nhân hậu và hoàn thiện như Cha trên trời.  Khi dạy “Hãy yêu kẻ thù”, Chúa Giêsu không có ý cổ võ sự nhu nhược, nhát đảm nhưng là để nêu cao tinh thần khoan dung hiền từ quảng đại tha thứ.

 “Hãy yêu kẻ thù”, đó là lệnh truyền khó thi hành nhất trong các lệnh truyền của Chúa Giêsu.  Khó nhưng không phải là không có thể.  Chính Chúa đã làm gương khi xin Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hạ, đóng đinh mình trên thập giá.  Chính hành vi cao cả này đã thể hiện trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa.  Đó cũng là nét cao quý nhất trong dung mạo Đấng Cứu Thế.  Người đến để yêu thương và cứu chuộc con người.  Người đến để tha thứ và đem lại cho con người cơ may để sám hối và canh tân.  Như vậy Chúa Giêsu mở ra con đường mới cho nhân loại.  Con đường lấy thiện thắng ác, lấy tình yêu vượt thắng hận thù.  Chỉ có yêu thương mới làm cho thù hận tiêu tan.

 2.  Tại sao phải yêu kẻ thù?

Yêu người yêu mình thì dễ.  Yêu kẻ làm hại mình thật khó biết bao!  Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: “Lấy oán báo oán, oán chập chùng.  Lấy đức báo oán, oán tiêu tan.”  Lấy oán báo oán chỉ thêm hận thù mà thôi.  Bạo lực sẽ kéo theo bạo lực.  Câu chuyện tình bất hủ Roméo và Juliette đã đi vào lịch sử nhân loại.  Nhiều thi sĩ, nhạc sĩ đã viết thi ca âm nhạc ca tụng tình yêu.  Những vở kịch những cuốn phim diễn tả hấp dẫn mối tình lãng mạn của đôi tình nhân trẻ.  Nếu câu chuyện tình của họ được kết thúc một cách tốt đẹp và bình thường, chắc sẽ không có ai nhắc đến.  Nhưng Roméo Juliette là nạn nhân của sự thù hận giữa hai gia tộc.  Không ai có thể tìm cách để giải hòa được sự thù hận ấy.  Sự thù hận dẫn đến mất mát cho cả hai bên.  Sự thù hận đã cướp đi mạng sống của đôi bạn trẻ yêu nhau tha thiết.  Sự thù hận giết chết một mối tình đẹp, nhân loại ngàn đời xót xa nuối tiếc.  Sự thù hận khởi đi từ tâm hồn ích kỷ.  Bảo vệ mình bằng sự trả thù, thì càng mất mát hơn và hận thù hận ngày càng dâng cao.

 Nhạc sĩ Phạm Duy viết trong một ca khúc: Kẻ thù tôi đâu có phải là người.  Giết người đi thì ta ở với ai?  Đã là người thì ai cũng có những sai lỗi.  Nhân vô thập toàn.  Hơn nữa, mỗi người lại có những tính tình và sở thích riêng biệt, bá nhân bá tánh.  Vì vậy, đã sống chung cùng nhau chúng ta không thể nào tránh đi cho hết những va chạm, những bực bội và những buồn phiền.  Vậy nếu hễ tức giận là báo thù, thì tôi sẽ phải báo thù kẻ lạ cũng như người quen, kẻ ngoài xã hội cũng như người trong gia đình, kẻ bên trái cũng như những người bên phải, kẻ đàng trước cũng như người đàng sau, nghĩa là phải tẩy chay, phải thanh toán hết mọi thứ người trên mặt đất này.  Phạm Duy khuyên đừng giết người vì tuy là kẻ thù, nhưng họ vẫn là người, vẫn giống chúng ta.

 3.  Tình yêu biến kẻ thù thành bạn hữu.

Trong cuộc sống, chúng ta va chạm nhau rất nhiều qua lời nói vô tình, cử chỉ vô ý, một câu truyện bịa đặt thêm nếm cũng có thể là nguyên nhân của chuyện thù ghét oán hờn.  Chúng ta cố gắng xây dựng hòa bình bằng sự chân thật và tình yêu thương tha thứ.  Thánh Phaolô khuyên dạy chúng ta: Anh em nổi nóng ư?  Đừng phạm tội: chớ để mặt trời lặn mà cơn giận vẫn còn (Ep 4,26).

 Thiên Chúa tạo dựng nên con người giống hình ảnh Chúa, lẽ nào Người lại tiêu diệt nó chứ?  Chúa Giêsu đến để đẩy lui sự ác, xóa bỏ tội lỗi.  Chúa không đến để tiêu diệt người tội lỗi mà để cứu vớt.  Tình yêu là vũ khí mạnh nhất để đẩy lui tội lỗi nơi con người, làm thay đổi một con người.  Chỉ có ánh sáng mới xóa tan được bóng tối.  Chỉ có tình thương mới xóa bỏ hận thù ghen ghét.  Tình yêu có phép mầu biến kẻ thù thành bạn hữu.  Tình yêu có sức mạnh sáng tạo và cứu độ.  Đối với người Kitô hữu, lý do căn bản để yêu thương kẻ thù chính là Lời Chúa: “Anh em hãy yêu kẻ thù…  Như vậy phần thưởng dành cho anh em sẽ lớn lao và anh em sẽ là con Đấng Tối Cao” (Lc 6,35).

 Câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Sư tử ốm đã một tuần nay và nằm trong hang không dậy được.  Nó buồn lắm vì là chúa tể sơn lâm mà chẳng con vật nào đến thăm hỏi hay mang cho nó chút quà gì cả.  Nhìn cây hoa hồng bên cạnh, lúc nào cũng có bướm, có ong, có chim chóc ríu rít, đến bay lượn vui vẻ.  Sư tử bèn hỏi cây hoa hồng: Hoa hồng ơi, vì sao ngươi mảnh dẻ yếu ớt như thế, mà lúc nào cũng có bạn bè đến thăm vui vẻ, còn ta là chúa tể sơn lâm mà chẳng có con vật nào đến thăm ta cả?

 Hoa hồng trả lời: Vì tôi luôn tặng cho mọi loài màu sắc tươi đẹp và hương thơm ngào ngạt khi mọi loài đến với tôi.  Còn ngài là chúa tể sơn lâm uy quyền, nhưng ngài có tặng cho những con vật bé nhỏ thuộc hạ của ngài cái gì đâu?

 Hoa hồng là hình ảnh của con người biết yêu thương.

 Lạy Chúa, trên thập giá, Chúa đã nêu gương tha thứ cho những kẻ giết Chúa.  Xin thương củng cố tình thương của Chúa trong trái tim con, để mỗi ngày con được tiến thêm và kiên trì đi trên con đường yêu thương của Chúa cho đến cùng.  Xin thánh hóa tình yêu trong con, cho con biết yêu mến mọi người.  Amen.

 LM Giuse Nguyễn Hữu An

Langthangchieutím gởi

NGĂN KIỆN Ở TOÀ ÁN QUỐC GIA, TA KIỆN RA TOÀ ÁN QUỐC TẾ

From facebook: Phạm Lê Vương Các
NGĂN KIỆN Ở TOÀ ÁN QUỐC GIA, TA KIỆN RA TOÀ ÁN QUỐC TẾ

Sự kiện hàng ngàn hộ dân ở vùng biển Quỳnh Lưu (Nghệ An) thực hiện quyền khởi kiện Formosa ra tòa trong một hành trình đẫm máu và nước mắt, buộc những người có lương tri phải tự hỏi rằng: “pháp luật ở đâu, công lý ở đâu?”

Việc ngăn cản và đàn áp người đi khởi kiện của nhà cầm quyền Nghệ An vào ngày hôm qua có phải đã gửi đi thông điệp khuyến khích người dân tự tìm kiếm công lý bằng các hành động “tự xử” ngoài vòng pháp luật?

Tiếp cận dưới góc độ này, thật tình tôi lo cho số phận của nhà cầm quyền hơn là lo cho người dân khởi kiện.

Nhu cầu thể hiện quyền lực và bảo vệ quyền lực có vẻ đã làm cho nhà cầm quyền mất tỉnh táo trong cách nhìn nhận sự việc và giải quyết vấn đề.

Nhưng tiếp cận ở góc độ khác, đối với người dân khởi kiện, công lý môi trường vẫn chưa bế tắc trong vụ việc này, mà vẫn còn con đường pháp lý khác.

Ngăn chặn khởi kiện ở tòa án quốc gia, ta kiện ra tòa án quốc tế.

Khởi kiện Formosa ra Toà Hình Sự Quốc Tế trước đây đã được nhiều luật sư thảo luận, nhưng có vẻ các ý kiến đều cho rằng việc này là rất khó và gần như là bất khả thi, vì trở ngại chính quyền Việt Nam vẫn chưa công nhận thẩm quyền xét xử của Toà án Hình sự Quốc tế, dẫn đến việc Toà án quốc tế sẽ nhanh chóng từ chối thụ lý đơn kiện.

Vấn đề khởi kiện Formosa ra Tòa án Hình sự Quốc tế, giờ đây không phải nằm ở điểm thụ lý hay không. Cũng giống như người dân Nghệ An đi khởi kiện, họ đã nhìn thấy trước việc sẽ bị chặn đường, bị đánh đập, và tòa án Việt Nam cũng sẽ bác đơn kiện của họ, nhưng đã không làm họ dừng bước đến toà án. Vậy điều gì đã thôi thúc họ đi kiện?

Câu trả lời cũng là thông điệp họ gửi tới tất cả người dân Việt Nam: Họ đã không im lặng và bất động trước tội ác môi trường của Formosa.

“Hãy giúp chúng tôi kiện Formosa”- là lời thỉnh cầu của những con người văn minh, đang tìm kiếm công lý bằng con đường luật pháp. Một nhu cầu đòi hỏi công lý như vậy xứng đáng nhận được đồng hành của tất cả chúng ta, đặc biệt là giới luật sư.

Giới luật sư Việt Nam hãy tiếp tục hướng dẫn, hỗ trợ các nạn nhân Formosa khởi kiện ra Tòa án quốc tế. Toà án Hình sự Quốc tế có thụ lý vụ việc hay không là không quan trọng nhưng chúng ta vẫn cứ kiện.

Khởi kiện Formosa ra Toà án Hình sự Quốc tế giờ đây như là một mệnh lệnh không thể không thực hiện vì đây là bộ mặt của quốc gia Việt Nam, thể hiện bộ mặt của cả một thế hệ người Việt Nam, và thể hiện bộ mặt của giới Luật sư Việt Nam. Hơn hết, nó thể hiện tinh thần yêu chuộng công lý dựa trên nền tảng pháp luật của người dân Việt Nam.

Qua việc xây dựng hồ sơ khởi kiện này, chúng ta sẽ cho thế giới thấy rõ tội ác môi trường của Formosa và những kẻ đang bao che cho tội ác này. Cho dù Toà án quốc tế không có thẩm quyền xử lý, nhưng cộng đồng quốc tế yêu chuộng công lý sẽ đồng hành cùng chúng ta có biện pháp xử lý khác.

Bỡi lẽ, chúng ta vẫn chưa thể hiện hết quyền lực của mình. Quyền lực của chúng ta-những người không có vũ khí: “hãy nói không với sản phẩm của Formosa trên toàn cầu”!

Image may contain: 3 people, people smiling, outdoor

Tôi và bạn, chúng ta là những kẻ đần độn ở một đất nước thất bại!

Tôi và bạn, chúng ta là những kẻ đần độn ở một đất nước thất bại!

Lê Hoàng

NHAU

 

 

 

 

 

 

 

 

Bài viết dành cho tôi và những thanh niên kém cỏi và đang lạc lối khác.

  1. Bức hình này đã được lan truyền trên mạng, nó bình thường đến nỗi người ta nhìn vào nó rồi sẽ hỏi:”Rồi sao nữa ? Bức hình này có vấn đề gì à ? Mấy đứa này bạn mày hả ? Chúng nó bị ung thư gan chết hết rồi à ?”
  1. Người ta nói, ở Việt Nam, đâu đâu cũng thấy đầy rẫy những chỗ nhậu nhẹt. Người ta vui cũng nhậu, buồn cũng nhậu, đám cưới cũng nhậu, đám ma cũng nhậu, thậm chí không biết làm gì cũng phải nhậu. Bởi thế cho nên chẳng mấy ngạc nhiên khi lượng rượu bia ở Việt Nam lại nằm trong tốp những nước tiêu thụ nhiều nhất trên thế giới. Tôi đã nghe ai đó đã nói, rượu bia, thuốc lá và ma túy là những thứ mà ngày xưa những nước thực dân khi đi xâm chiếm các thuộc địa đã sử dụng những thứ này để làm suy yếu nội lực, tinh thần phản kháng của dân tộc đó. Việt Nam mình có lẽ cũng đang may mắn và tình cờ bị như thế ? Ai đang cố làm suy yếu dân tộc ta ?
  1. Người ta nói, có một câu châm ngôn ở Việt Nam mà ai cũng thuộc và làm theo “Vì cuộc sống là không chờ đợi”. Đúng, chúng tôi không quen chờ đèn đỏ chuyển qua xanh để được đi. Chúng tôi không đủ kiên nhẫn xếp vào hàng để chờ đến lượt mua đồ ăn hay tấm vé xem một chương trình nào đó. Khi chúng tôi xảy ra va vẹt xe trên đường, chúng tôi không đợi người có thẩm quyền đến giải quyết, mà chúng tôi sẽ rút dao, mã tấu xông vào đối phương quyết một phen sống mái, để mọi ân oán được giải quyết bằng máu và nước mắt cho thỏa chí nam nhi, đầu đội trời chân đạp đất ung dung tự tại chả khác gì các vị hảo hán anh hùng Lương Sơn bạc.
  1. Người ta nói ở Việt Nam người ta đi làm gái nhiều lắm. Ừ thì không làm gái thì biết làm gì bây giờ. Rừng đã mất, biển đã chết, sông đã cạn thì lấy gì làm để mà nuôi thân.
  1. Người ta nói ở Việt Nam để được nổi tiếng dễ lắm. Chỉ cần bạn có mông to và ngực bự thì bạn đã có được 50% cơ hội được nổi tiếng rồi. 50% còn lại thì phụ thuộc vào độ chai của da mặt bạn, và sản phẩm make up mà bạn đang tin dùng để che đi lớp da mặt bị chai đó.
  1. Người ta nói ở Việt Nam làm quan dễ lắm. Bạn chỉ cần có bố hoặc mẹ đang là quan, hoặc cô dì chú bác, hoặc thậm chí là ông hàng xóm là tình cũ của mẹ bạn cũng có thể giúp bạn trên con đường quan lộ. Xin vào làm quan mới khó, chứ đã là quan rồi thì dễ í mà. Chức cao thì ăn cái to, chức nhỏ thì ăn nhỏ, quan trọng là có “vẽ” thì mới có ăn, và ăn chia sòng phẳng lúc nào cũng phải là điều kiện tiên quyết. Thành công thì chia cho trên, sẻ ở dưới. Thất bại thì rút kinh nghiệm, kiểm điểm, cảnh cáo thôi cũng đã đủ nghiêm khắc rồi.
  1. Người ta nói, sống ở Việt Nam vui lắm. Ừ thì suốt ngày trên tivi ra rả đủ chương trình thi hài, game show hài này nọ thì bảo sao không vui. Ở một đất nước, mà những diễn viên hài với những câu nói “hài là phải nhảm, phải xàm, càng nhảm càng xàm thì càng vui, thì mới là hài”. Tôi chưa thấy ở một đất nước nào, mà diễn viên hài lại được tôn vinh, được là thần tượng, là lấy làm mẫu chân lý sống cho giới trẻ như ở Việt Nam. Họ, những diễn viên hài đâu biết rằng hài là môn nghệ thuật lên án và châm biếm những mặt xấu xa của xã hội, và qua đó đằng sau những tiếng cười là để lại sự trăn trở về xã hội trong lòng người xem. Thay vì chúng ta tổ chức các chương trình kích thích sự tự học, rèn luyện sức khoẻ, ý chí vươn lên trong cuộc sống hay giúp các bạn trẻ khởi nghiệp thì chúng ta lại tổ chức các chương trình thi tuyển trở thành diễn viên hài. Dường như cái hài nhảm, hài xàm nó đang giúp người dân Việt quên đi cái nghèo, cái đói cái tủi nhục khi sống dưới cái xã hội này ? Cái đất nước này vốn đã là một sân khấu hài lớn, và dường như cả xã hội ai cũng muốn được là một diễn hài trong cái sân khấu lớn đó ?
  1. Người ta nói làm giới trẻ ở Việt Nam sướng lắm. Chỉ có “ăn, ngủ, phịch, ị”. Trong khi, giới trẻ các nước khác như Hong Kong, Hàn Quốc…ừ thì mà là…trong khi giới trẻ chúng ta…là mà thì ừ.
  1. Người ta nói…ừ thì cứ kệ người ta nói đi mà. Biết thì biết thế thôi chứ mình có thay đổi được gì đâu. Kệ đi!
  1. Việt Nam chúng ta luôn tự hào là Con Rồng, Cháu Tiên thông minh xuất chúng, minh chứng hùng hồn nhất là chúng ta chiến thắng được mọi kẻ thù xâm lược. Ừ thì giỏi đó, nhưng hậu thế lại biết đến những trận đánh là những cuộc nướng quân “quân địch chết ba, quân ta chết hết” hoặc qua những kế hoạch mang đậm dấu ấn cá nhân của anh Tám, chị Chín, thím Sáu nào đó: “chúng ta đã làm tiêu hao sinh lực địch đáng kể”, nhưng thật ra là những trận khủng bố kinh hoàng chẳng khác gì IS với “quân địch chết ba dân ta chết tá”. Ngoài những chiến tích đó ra, dường như chúng ta không có một thành công nào để minh chứng chúng ta là một dân tộc thông minh, không một công trình khoa học hay phát minh sáng chế nào đóng góp cho nhân loại.

Nếu tổ tiên ta thông minh, thì ngày xưa ba Quân mẹ Cơ đã ngồi xuống cùng giải quyết vấn đề, hoà hợp hoà giải chứ không phải phải đi đến quyết định ly thân, gia đình chia cắt kẻ dắt 50 con lên rừng, người dẫn 50 con xuống biển. Nếu vua Hùng thông minh, thì khi nghe câu nói của Mai An Tiêm thay vì sẽ ngồi suy nghĩ đúng sai về câu nói đó chứ không cố chấp đày chàng trai trẻ ra biển. Nếu An Dương Vương thông minh, thì đã không nhận đứa con của kẻ thù về làm rể, chứ không để con gái rượu cuối cùng phải thốt lên “Trái tim lầm lỡ để trên đầu/ Nỏ thần vô ý trao tay giặc”. Tuy đã là quá khứ, dân tộc nào cũng có sai lầm, nhưng chúng ta cần phải nhìn nhận, đối diện sự thật rằng dân tộc Việt Nam chúng ta không thông minh, và khi đã nhận thức được điều đó chúng ta cần phải mở mang đầu óc, tăng cường học hỏi những điều mới mẻ từ bên ngoài. Nhưng tiếc là thay vì chịu nhận ra điểm yếu và chịu khó học hỏi thì chúng ta lại cố chấp giữ gìn cái cũ với những sân si, hoang tưởng. Điều này thực sự là một bất hạnh cho dân tộc Việt. Tôi và bạn, chúng ta là những kẻ đần độn ở một đất nước thất bại !

Kỳ Anh

Giáo sư Nguyễn Phi Phượng gởi

TÌNH YÊU LÀ GÌ?

TÌNH YÊU LÀ GÌ?

Chúng ta thường nghe nói là người ta có thể nghĩ ngợi những việc trên trời nhưng lại kém cỏi những việc dưới đất.  Đó là điều mà chúng ta không thể qui trách Thiên Chúa được.  Thiên Chúa chúng ta là một Thiên Chúa quan tâm đến trần thế. “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một…” (Ga 3, 16).  Đó là Chúa Giêsu và “Ngài đã trở nên xác thịt và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1, 14).

Tình yêu bằng xương bằng thịt

Chúa kêu gọi chúng ta sống một tình yêu có tính cách trần thế, hữu hình, bằng xương bằng thịt và mang đặc tính thiết thực.  Tình yêu đó không bị gò bó trong khuôn khổ luật lệ.  Bạn có thể tuân giữ mọi luật lệ mà bạn bắt buộc phải giữ, nhưng rồi bạn cũng sa ngã trong những tội trọng.

Ân ái trong hôn nhân là một thí dụ.  Ân ái trong hôn nhân được luật lệ cho phép.  Trong thực tế, chính đó là thời gian duy nhất được phép, miễn là người ta không tìm kiếm sự khoái lạc “thái quá”!  Tôi thiết tưởng đó là từ ngữ được sử dụng trong những sách thần học luân lý cổ xưa.  May mắn thay, quan điểm đó đã được duyệt xét lại.

Trong hôn nhân, ân ái có thể bị cưỡng chế.  Như vậy, tuân giữ luật lệ cũng chưa đủ.  Tình yêu, chứ không phải luật lệ, mới là trắc nghiệm của hôn nhân.  Nói theo ngôn từ của Chúa Giêsu: cứ dấu nầy mà thế gian biết được anh là chồng của em, do bởi tình yêu của em đối với anh; hay ngược lại.

Điều có ý nghĩa nhất mà chúng ta có thể thực thi trong cuộc sống hằng ngày, theo như Chúa Giêsu, là “thực thi tình yêu.”  Nhờ có thực hành mới nên trọn hảo.  Tuy nhiên, chúng ta phải rất thận trọng trong việc “thực hành như thế nào.

Đa số trong chúng ta sống với những người mà chúng ta không bao giờ nói với họ là chúng ta yêu thương họ.  Chúng ta không bao giờ nắm tay họ.  Chúng ta không bao giờ làm cho họ cảm thấy thoải mái với chính họ.  Chúng ta không bao giờ khen họ một tiếng.  Mark Twain đã nói: “Tôi có thể viết một lời khen tặng trong hai tuần lễ.

Những bức thư tình

Có lần tôi nói chuyện ở sân trường học với một chị có chồng.  Chị là mẹ của hai em học sinh nhỏ tuổi.  Trước đó chị rời xa thành phố để thăm viếng mẹ già.  Chị nói về chồng của chị như sau: “Khi con mở va-li ra, con thấy một bức thư tình ngắn mà anh đã nhét vào trong đó để cho con đọc mà thôi.  Bức thư tình đó làm con sung sướng nhất trong ngày.”

Rồi bằng một cái chớp mắt, chị nói thêm: “Trước khi rời nhà, con cũng để lại cho anh một bức thư tình ngắn, dưới cái gối được quấn lại trong bộ đồ ngủ của anh, cùng với một gói sôcô-la mà anh ưa thích.

Tôi thiết nghĩ anh chị đó đã thắng cuộc.  Họ đang thực thi tình yêu và đã thành công.  Đó là một tình yêu đang mang dấu ấn của một tương giao vợ chồng thắm thiết.

Hẳn bạn đã kết hôn?  Lần cuối cùng bạn viết thư tình cho chồng hay vợ đã xảy ra bao lâu rồi?  Có phải đó là lần trước khi bạn sắp làm đám cưới?  Một tình yêu không mang sắc thái cá nhân và có tính cách thiết thực thì không phải là một tình yêu đậm đà cho lắm.

Nhiều đôi vợ chồng ngày nay gọi nhau bằng “Ba” hay “Mẹ’ hoặc “Ông” hay “”.  Họ không gọi nhau bằng chính tên riêng của người đó.  Thật là kỳ dị và chói tai biết bao, bởi vì chúng ta thích nghe người khác gọi đích danh chúng ta.  Tôi chắc chắn không âm thanh nào đầy xúc động và có tác dụng tâm lý mạnh mẽ cho bằng khi gọi người phối ngẫu bằng chính tên thật của họ.

Chúng ta có thể gọi người phối ngẫu bằng “cưng” hay “mìmh”, nhưng không có một chút căn bản nào để gọi bằng “Ba” hay “Mẹ”, “Ông” hoặc “Bà”.  Nếu quí bạn có thói quen gọi như thế, tôi đề nghị bạn làm như sau:

Trước khi bạn ngủ, bạn hãy quay sang người phối ngẫu nằm bên cạnh và thay vì nói “Ba”, “Mẹ”, “Ông” hay “Bà”… “ngủ ngon!” thì hãy vỗ vào lưng người đó và nói: “Humphrey, ngủ ngon!” hay “Cathy, ngủ ngon!”  Bạn chỉ làm như thế khi bạn thực sự ngủ với một người tên là “Humphrey” hay “Cathy”.

Hy vọng bạn hiểu ý tôi muốn nói.  Điều nầy xem ra không phải linh thiêng cho lắm nhưng nếu bạn càng suy tư, bạn sẽ thấy thật linh thiêng trong đó.  Thiên Chúa là tình yêu và ở đâu có tình yêu thì Thiên Chúa hiện diện nơi đó.

 Một chút chú ý

Điều trên đây cũng áp dụng cho trẻ con nữa.  Bạn thường nghe người ta nói: “Hết mọi trẻ con đều muốn được chú ý.”  Vậy thì một chút chú ý có gì sai lầm trong đó?  Chú ý là khởi điểm đưa vào tình yêu.  Tình yêu là chú ý đến những nhu cầu và ước muốn của trẻ con.

Các trẻ con cũng phải chú ý đến cha mẹ.  Cha mẹ bạn là song thân duy nhất mà bạn có trên đời.  Bao lâu bạn lưu tâm tới điều đó thì bạn sẽ thấy cha mẹ bạn là những người tốt nhất trên trần thế.  Vậy bạn nên nói với họ: họ là những người tuyệt vời nhất.  Ít ra bạn hãy nói với họ mỗi ngày một lần như thế.  Điều đó không làm mất mát gì cho bạn nhưng khiến cha mẹ bạn vui sướng khôn tả.

Hãy quan tâm đến những nhu cầu của những người làm chung sở với bạn.  Chẳng hạn dịp sinh nhật của một đồng nghiệp!  Bạn hãy gởi cho họ một tấm thiệp.  Cũng không phải chuyện gì to tát lắm đâu.  Điều đó không làm thâm thủng trương mục ngân hàng của bạn.  Nhưng, Chúa biết, điều đó mang lại một sự khác biệt lớn lao.

Gỏi một tấm thiệp trong những trường hợp tương tự có thể không phải là một việc linh thiêng cho lắm, nhưng đó là một cử chỉ đơn giản, thanh lịch mà trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã khuyên bảo và thối thúc.

 Tình yêu là thực tiễn, chứ không phải trừu tượng

Phúc Âm không kêu mời chúng ta đi vào một ý hướng mang nặng tính chất trí thức để vươn tới một ý niệm thiêng liêng.  Phúc Âm mời gọi chúng ta yêu thương trong những cảnh ngộ thường tình xảy ra hằng ngày.  Chúng ta được mời gọi yêu thương những người đối diện chúng ta trong cuộc sống thường nhật.

Không phải ai cũng dễ dàng trong việc bộc lộ tình cảm.  Đối với nam giới xem ra khó khăn hơn nữ giới.  Vậy nếu nam giới bộc lộ tình cảm trở thành một vấn nạn thì nên đánh rơi hình ảnh của một “đại trượng phu” và chấm dứt việc cư xử có tính cách câm nín thờ ơ.

Thoạt đầu, không dễ dàng gì để biểu lộ tình cảm.  Có thể bạn xem ra vụng về lúng túng.  Nhưng cứ tiếp tục, đừng buông xuôi.  Hãy cố thực tập.  Thực tập giúp trở nên hoàn hảo, nhất là khi bạn thực tập đúng cách.

Bất cứ ai cũng có thể nói: “Tôi tin tưởng Chúa.”  Điều đó thật dễ dàng.  Nhưng sống với tình yêu đó mới khó!  Trên bình diện nhân sinh, chúng ta yêu nhau một cách hiện thực, hữu hình và có thể đụng chạm được thì chắc chắn chúng ta đang ở một cao tầng, tốt đẹp nhất và cao quí nhất, đồng thời “cùng hòa nhịp với cuộc sống” nữa.

 LM Vincent Travers, OP

 Hương Vĩnh chuyển ngữ

Anh chị Thụ & Mai gởi

Họ nhận được lệnh đánh cho dã man làm sao cho hết đi được,

From facebook: Đài Á Châu Tự Do

“Họ nhận được lệnh đánh cho dã man làm sao cho hết đi được, đặc biệt là đánh vào chân và đầu gối. Hai người hai bên hai cái dùi cui, cứ thế họ đánh đập. Em chỉ biết co chân lên che ngực, lấy tay ôm đầu và chịu đòn như thế. Khoảng 10 phút họ mới dừng tay.

Họ đi một lúc rồi quay lại lấy điện thoại của em và đánh 1 trận nữa. họ cứ đè đầu mà đánh, em chỉ biết dùng tay che đầu. Họ đánh dã man lắm. Khoảng 30 phút sau họ chuyển em sang 1 cái xe thùng khác và đánh đập tiếp.

Họ đánh thì em ôm đầu, họ bảo che chỗ nào thì đánh chỗ đấy. Về sau họ thả tất cả anh em ra, còn em thì họ giữ lại. Sau họ cho vào đồn công an của trạm cảnh sát giao thông. Ở đó em tiếp tục bị đánh đập tiếp. Gần tối thì công an huyện Đông Thành xuống và đánh tiếp.”

Xem tiếp: http://www.rfa.org/…/protesters-repression-never-makes-us-s…

HỌ ĐẤU TRANH CHO CÁI GÌ?

From facebook: Hằng Lê
HỌ ĐẤU TRANH CHO CÁI GÌ?

Họ kiện Trump vì muốn bảo vệ người nước ngoài, nhưng lại im lặng khi người nước ngoài giết chết người Mỹ.

Họ chửi bới khi Trump nhậm chức, nhưng lại im lặng khi ISIS nổi dậy.

Họ chửi Mỹ kỳ thị chủng tộc vì tạm cấm 7 quốc tịch nhập cảnh, nhưng im lặng khi Qatar làm điều tương tự và khi trên thế giới có 16 nước Hồi Giáo cấm người Israel nhập cảnh.

Họ đấu tranh để được phá thai nhưng không hề nghĩ đến đứa trẻ trong bụng – nó cũng là một con người.

Họ đấu tranh vì hôn nhân đồng tính, nhưng im lặng khi biết rằng ở các nước Hồi Giáo, người đồng tính bị ném đá đến chết.

Họ đấu tranh vì tự do cho tất cả công dân, nhưng quên rằng niệm vụ của chính phủ Mỹ là để bảo vệ công dân Mỹ.

Họ đấu tranh vì công bằng nhưng quên rằng các nước Hồi Giáo không hề công bằng với họ.

Họ chửi bới khi Trump muốn xây bức tường để bảo vệ biên giới Mỹ, nhưng họ lại lặng thinh khi người nước ngoài tràn vào đất nước họ và ăn bám mồ hôi nước mắt của cha mẹ họ.

Họ chửi khi Trump đơn giản chỉ thực thi pháp luật quốc gia, nhưng họ im lặng khi người nước ngoài phá nát nó.

Họ tranh đấu cho cái gì? Cho cái gọi là “công lý xã hội” trong mắt họ. Nhưng cái gọi là biên giới, cái gọi là quốc gia, cái gọi là luật pháp thì sao? Họ tranh đấu cho sự an toàn của người khác bất chấp sự an ninh của chính đất nước họ.

Họ tranh đấu cho cái gì? Cho họ? Cho người khác? Cho sự sống còn của đất nước? Hay cho sự suy tàn của nền văn minh Tây Phương?

Họ đấu tranh cho cái gì?

Ku Búa @ Cafe Ku Búa

Image may contain: sky, cloud, bridge and outdoor