Di chúc của cha không bằng tờ giấy lộn

Di chúc của cha không bằng tờ giấy lộn

Trần Gia Huấn

Tác giả gửi tới Dân Luận

Kim Jong Nam là anh cùng cha khác mẹ với Kim Jong Un, đương kim lãnh tụ Bắc Hàn. Jong Nam vừa bị ám sát bởi một nhóm khoảng mười người, tại phi trường Kuala Lumpur, Mã Lai, vào sáng 13/2/2017. Dựa vào những nguồn tin đã được kiểm chứng, tôi tóm tắt lại đôi dòng về thân nhân của Jong Nam để bạn đọc có thêm thông tin.

Mẹ – Song Hye Rim

Kim Jong Nam là con trai đầu lòng của cố Lãnh tụ Bắc Hàn Kim Chính Nhất và mẹ Song Hye Rim.

Bà Song Hye Rim sinh tại Nam Hàn. Cha bà là đảng viên Đảng Cộng sản Triều Tiên, nên quyết định đi “tập kết” đưa cả gia đình đến miền Bắc sinh sống.
Là diễn viên điện ảnh xinh đẹp, tài năng, và nổi tiếng, bà Song Hye Rim đã kết hôn với tiểu thuyết gia kiêm dịch giả lừng danh Yi Ki Yong. Vợ chồng bà có con gái sinh năm 1956.

Kim Chính Nhất bấy giờ là con trai duy nhất của bậc khai quốc công thần Lãnh tụ Kim Nhất Thành. Vào khoảng 1967, Chính Nhất lãnh đạo ngành văn hoá và nghệ thuật Bắc Hàn thì gặp cô đào màn bạc Hye Rim. Dục vọng và ái tình đã làm cho vị hoàng tử trẻ 25 tuổi lao vào mê lộ.

Bạn gái thân của bà Song kể lại: Hình như Chính Nhất mất mẹ sớm nên ông thích phụ nữ lớn tuổi. Hơn nữa, Song Hye Rim có nhan sắc vừa mặn mà vừa quyến rũ, thông minh, nói năng duyên dáng, nhạy cảm, và rất khôi hài.

Bà Song sinh năm 1937, đã có chồng, có con. Kim Chính Nhất sinh năm 1941, độc thân. Bà Song dáng người khá cao. Chính Nhất thấp hơn. Bất chấp, Chính Nhất ép bà phải ly dị và bí mật sống với ông như vợ chồng. Kết quả, Kim Jong Nam là bông trái của mối tình đầy sóng gió này.

Xã hội Bắc Hàn khi đó mang đậm màu sắc phong kiến, không ai có thể chấp nhận vị hoàng tử trẻ độc thân, lãnh tụ tương lai của đất nước, lại có thể kết hôn với một phụ nữ hơn tuổi, đã có chồng, có con riêng, và đến từ miền Nam thù địch. Mối tình bị khai tử. Tuy vậy, bà Song vẫn nhận được mọi ân sủng, được thăm và nuôi con.

Năm 1974, bà mắc chứng trầm cảm, đi điều trị ở Moscow, Liên Xô, rồi ở lại luôn. Mỗi lần về lại Bắc Hàn, bà đều được Kim Chính Nhất mời ăn tối, và tiếp đón chu đáo. Ông dành cho bà tình cảm đặc biệt.

Sau khi chia tay với Kim Chính Nhất lúc 37 tuổi, bà Song không thấy có mối quan hệ với người đàn ông nào nữa. Bà qua đời năm 2002, ở tuổi 65, mai táng tại Moscow.

Cha – Kim Chính Nhất

Kim Chính Nhất được cha truyền ngôi, lãnh đạo đất nước 17 năm từ 1994 cho đến khi qua đời năm 2011. Có ít nhất năm người đàn bà đã bước qua cuộc đời tình dục đầy phóng túng của ông.

Người thứ nhất – Hong Il Chon, sinh năm 1942, là bạn cùng Đại học với Chính Nhất. Hai người sống với nhau từ 1966 tới 1969 có một con gái sinh năm 1968.
Người thứ hai – Song Hye Rim, sinh năm 1937, là diễn viên điện ảnh, mẹ của Kim Jong Nam vừa bị ám sát.

Người thứ ba – Kim Yong Suk, sinh năm 1947, được coi là vợ chính thức của Kim Chính Nhất, bởi vì bà được cha chồng Kim Nhật Thành chọn. Lễ cưới tổ chức vào tháng 10/1973. Họ có hai con gái Kim Sul-Song sinh 1974 và Kim Chun-Song sinh 1976. Bà và Chính Nhất chia tay vào khoảng những năm đầu thập kỷ 1980s.

Người thứ tư – Kim Yong Hui, sinh năm 1953 tại Osaka, Nhật Bản. Tổ tiên của gia đình bà gốc Bắc Hàn di cư tới Nhật đã lâu, nên cha bà đã đưa gia đình trở lại cố hương vào khoảng giữa năm 1960s. Bà là diễn viên múa trẻ và rất xinh đẹp trong đoàn nghệ thuật quốc gia. Hình ảnh bà phủ kín trên các trang bìa của truyền thông Bắc Hàn thời đó. Bà lọt vào mắt hoàng tử Chính Nhất, rồi trở thành người tình từ năm 1975.

Bà sinh con trai Kim Jong Chol vào năm 1981, Kim Jong Un (đương kim Lãnh tụ Tối cao Bắc Hàn) 1983, và cô gái út 1987. Tuy không phải vợ chính thức, không có hôn thú, nhưng bà thường tháp tùng Kim Chính Nhất, giữ vai trò của một Đệ nhất Phu nhân. Bà qua đời vào năm 2004, mới 50 tuổi, do ung thư vú.
Người thứ năm – Kim Ok, sinh năm 1964, là nghệ sỹ biểu diễn dương cầm tài năng trong đội nhạc công phục vụ cán bộ cao cấp. Bà đã lọt vào tầm ngắm, được Kim Chính Nhất tuyển dụng làm thư ký riêng.

Khi người tình thứ tư (mẹ của Kim Jong Un) chết thì Kim Ok xuất hiện như một Đệ nhất Phu nhân. Bà tháp tùng Kim Chính Nhất trong dịp lễ hội, thăm viếng các nước, đón tiếp nguyên thủ. Bà là người duy nhất được tham dự vào công việc hệ trọng, hội họp, hoạch định chính sách, hay ra những quyết định. Bà cũng được coi là người đàn bà sống bên cạnh vị Lãnh tụ Kính yêu lâu nhất, chăm sóc ông chu đáo liên tục 31 năm, từ 1980 đến 2011.

Bà cộng tác rất đắc lực với Jang Song Thaek (chú dượng của Kim Chính Ân) người chủ trương mở cửa, cải cách kinh tế đi theo đường lối của Trung Quốc.

Kim Chính Nhật chết. Kim Jong Un lên thay. Bà Kim Ok bị tước hết quyền hành, tịch thu tài sản, và cả gia đình bà (bố mẹ và anh chị em) bị đày đi cải tạo lao động. Hiện bà 53 tuổi, không có con với Kim Chính Nhất, đang sống trong một trại lao khổ ở Bắc Hàn.

Tóm lại, Kim Chính Nhất có tổng số bảy người con (ba trai bốn gái) với một vợ và bốn người tình. Trong đó, bà Song Hye Rim, người tình hơn tuổi, mẹ của Kim Jong Nam được mô tả là ông sủng ái nhất, với con trai Kim Jong Nam cũng được ông yêu thương nhất .

Dì: Song Hye Ring

Kim Jong Nam sinh 10/5/1971, tại Bình Nhưỡng. Thời gian đầu đời, Jong Nam sống với mẹ, bà ngoại và dì. Năm 1974, khi mẹ qua Moscow chữa bệnh, cha ông mời người dì ruột của Jong Nam, bà Song Hye Ring, em gái của người tình cũ, về kèm học cho Jong Nam mỗi ngày.

Dì Hye Ring, cũng là một minh tinh màn bạc đẹp và nổi tiếng, vừa ly dị chồng, có con nhỏ cùng lứa với Jong Nam. Hàng ngày, dì mang con mình và Jong Nam tới căn phòng bí mật gần nơi làm việc của Kim Chính Nhất để nuôi dạy. Bí mật bởi Chính Nhất không dám để cha biết mối quan hệ của ông.

Đến năm 1979, dì Hye Ring tháp tùng Jong Nam đi học tại trường Quốc Tế Geneva, Thụy Sỹ. Kim Chính Nhất sợ bà mang Jong Nam trốn sang phương Tây, nên lệnh cho hai dì cháu phải học ở Moscow, Liên Xô. Cả tuổi thơ của Jong Nam sống ở Moscow hoặc Geneva.

Jong Nam về lại Bắc Hàn với cha năm 1988. Dì Hye Ring đào thoát. Bà đang sống ẩn danh tại một nước châu Âu. Trong cuốn hồi ký của bà có đoạn viết về tình cha con giữa Kim Chính Nhất và Jong Nam: “Không có từ ngữ nào có thể mô tả nổi tình yêu thương của Kim Chính Nhất dành cho con trai. Vị hoàng tử trẻ tuổi lúc nào cũng ẵm đứa con trai trong giấc ngủ. Khi nó khóc, ông ẵm, ông đưa, ông ru cho đến khi nó nín. Cách ông vỗ về an ủi con chẳng thua kém gì những người mẹ giỏi.”

Sự kiện Disneyland ở Tokyo

Tròn 18 tuổi về lại Bắc Hàn, Jong Nam chứng kiến những đổi thay lớn trong đại gia đình họ Kim. Cha ông đã có vợ mới với những con trai, con gái trong đó có Kim Jong Un.

Jong Nam càng bị giấu kín hơn. Ông không bao giờ được báo chí đề cập tới như những người con khác. Mãi cho đến buổi sáng định mệnh 13/2/2017 khi bị ám sát tại Kuala Lumpur, cũng chỉ vài người Bắc Hàn biết tới ông.

Trong thời gian sống ở Bắc Hàn, Jong Nam không được phép ra khỏi Bình Nhưỡng. Những dịp lễ tết, họp mặt đại gia đình họ Kim, Jong Nam cũng không có mặt. Thảng hoặc, ông được phép đến nhà nghỉ của cha nằm trên bờ biển thuộc thành phố cảng Wonsan. Dì Hye Ring kể lại rằng “Bãi biển mêng mông thinh lặng, chỉ có hai đứa trẻ và người lái xe.”

Jong Nam theo học ngành Khoa học Chính trị, rồi chuyển sang Computer Science tại Thụy Sỹ. Ông được mô tả là người thân thiện, khiêm tốn, hòa đồng, nói tiếng Anh, Pháp và Nga lưu loát. Jong Nam rất gần gũi với những nhân vật chủ trương mở cửa, đặc biệt là người cô ruột (em gái của cha), bà Kim Kyong Hui và chồng bà là Jang Song Thaek. Jong Nam lúc ấy được Kim Chính Nhất chọn làm người kế vị.

Bất hạnh thay, trong lần đi du lịch tới Nhật, Jong Nam đã dùng hộ chiếu giả, bị bắt tại phi trường Narita, Tokyo. Jong Nam khai với cảnh sát Nhật rằng ông dùng hộ chiếu giả với mục đích muốn thăm khu du lịch Disneyland, Tokyo.

Sự cố này đã làm Kim Chính Nhất mất mặt. Ông bỏ Jong Nam, và quyết định đưa Jong Un lên nối ngôi. Sau khi cha mất, Jong Nam chính thức bước vào cuộc đời lưu vong.

Di chúc của cha

Jong Un tự phong mình là “Lãnh tụ Tối cao”. Tối cao nên muốn giết ai thì giết.

Un cho tử hình chú Jang Song Thaek, Đại tướng, Phó Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng Quốc gia, người đồng chí thân cận nhất của cha, và cũng là chồng của cô. Ông Jang bị lột trần truồng rồi thả cho bầy chó săn cắn xé cho đến khi tắt thở.

Jong Un đầu độc cô ruột Kim Kyong Hui, người em gái thân thiết của cha, vì cô dám đứng lên bảo vệ chồng. (Có tin nói bà bị đầu độc, đã chết. Có tin nói bà bị đầu độc hôn mê, chưa chết, đang sống đời sống thực vật)

Jong Un tử hình Tướng bốn sao, Bộ trưởng Quốc phòng Hyon Yong-Chol, bằng đại bác, tại một trường sỹ quan, trước mặt toàn bộ học viên.

Jong Un cho thiêu sống Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Giáo dục Kim Jong Jin chỉ vì ngủ gật, ngồi không ngay ngắn khi Lãnh tụ Tối cao đang phát biểu.

Jong Un đày ải mẹ kế Kim Ok, người cận kề an ủi, giúp đỡ cha trong những năm cuối đời sức tàn lực kiệt.

Năm năm lãnh đạo, Un tử hình 340 cán bộ cao cấp tương đương hàm bộ, thứ trưởng, bằng những hình thức dã man.

Trở lại năm 2009, cha Kim Chính Nhất đang nắm quyền lãnh đạo đất nước. Con trai Jong Un bấy giờ 25 tuổi, toàn quyền ngành an ninh và tình báo quốc gia. Jong Un cho khám nhà, và bắt Jong Nam cùng nhiều người khác.

Hình như thấy trước được những tai ương, Kim Chính Nhất trước khi chết khoảng một tháng, đã di chúc rõ ràng rằng: Kim Jong Un là người tiếp quyền ông lãnh đạo đất nước. Kim Jong Nam phải được sống một cuộc đời yên ổn. Tất cả mọi người, kể cả chính quyền, không được phép sách nhiễu, gây phiền toái, hay hãm hại Jong Nam. (Thời gian và nội dung của bản di chúc được cơ quan tình báo Nam Hàn thu thập từ những cán bộ cao cấp đào thoát qua miền Nam).

Thôi, cũng xong một kiếp người. Kể ra, Jong Nam còn may mắn và rất có hậu. Có lẽ người mẹ xinh đẹp tài năng, cùng bao oan hồn khác, sống khôn chết thiêng đã phù hộ cho Jong Nam, để ông được chết giữa thanh thiên bạch nhật, giữa phi trường quốc tế, tại một quốc gia không bưng bít thông tin. Công luận bây giờ đã biết tới Kim Jong Nam. Công lý sẽ tới với ông. Truyền thông thế giới khai thác, mổ xẻ, phân tích từng chi tiết. Hình ảnh Kim Jong Nam quỵ ngã khi trúng độc được chiếu nhiều lần trên nhiều kênh truyền hình quốc gia. Độc tố giết ông được xét nghiệm. Được bào chế ở đâu? Ai bào chế nó? Ai vận chuyển nó vào Malaysia? Các nghi phạm được phơi bày. Thi thể ông được bảo vệ và tôn trọng.

Còn bao nhiêu nạn nhân Bắc Hàn, chết âm thầm, chết tức tưởi, chết đớn đau, chết oan nghiệt, chết trần truồng, chết đói khát, chết cô đơn, chết không được toàn thây, không ai biết tới, không quan tài, không hương khói, không điếu văn, không kèn trống, không cả một nấm mồ.

Kim Jong Un (còn ai khác?) đã lệnh giết Kim Jong Nam, người anh cùng cha khác mẹ, người đã van xin có cuộc đời ẩn dật, lưu vong, người con trai cả yêu mến của cha, người đầu tiên trong dòng họ nhà Kim bị mưu sát.

Di chúc của cha, nhưng Kim Jong Un coi không bằng tờ giấy lộn.

Tháng Hai, 2017
Trần Gia Huấn

Chị  Kim Bằng Nguyễ gởi

CẨM NANG BIỂU TÌNH

From facebook: Linh Nguyen‘s post.

Linh Nguyen with Luc HoangQuan and 8 others.

CẨM NANG BIỂU TÌNH…..

ÁO TRẮNG XUỐNG ĐƯỜNG NGÀY 05 / 03 / 2017
Đòi lại Biển Sạch – Môi trường Sạch – Chính phủ Sạch

BIEU TINH

(Những điều nên ghi nhớ )…
Những điều nên làm:

1. Nên có liên lạc trước với ít nhất 5-7 người sẽ tham gia cùng mình, để có thay đổi ở phút chót về thời gian, địa điểm… thông tin sẽ được cập nhật ngay. Tránh hoang mang, xao động không cần thiết;
Nên thông báo địa điểm giả thật rầm rộ, và bàn kín với nhau địa điểm biểu tình thật. ( nên bàn bạc trước và mời bạn bè người thân của mình cùng đi biểu tình)

  1. Nên có các khẩu hiệu, biểu ngữ làm trên vải hay, giấy cứng, cỡ chữ càng to càng tốt. Biểu ngữ nên có nội dung rõ ràng, viết đúng chính tả, bảo đảm thẩm mỹ và bắt mắt;
  2. Nên mặc áo đồng một màu tốt nhất là chọn màu trắng, vết máu dính lên áo trắng sẽ rõ ràng hơn..
  3. Nên có một vài biểu ngữ lớn, ấn tượng để từ xa có thể đọc rõ. Khi các phóng viên chụp hình toàn cảnh thì độc giả vẫn đọc được nội dung biểu ngữ;
  4. Nên đi sát vào nhau tạo thành một khối vừa an toàn, vừa có sức mạnh, tránh bị xé lẻ thành các nhóm manh mún;
  5. Khi có thành viên gặp sự cố cả đoàn phải dừng lại hỗ trợ, dùng sức mạnh số đông để áp đảo nhằm trợ giúp cho đồng đội thoát hiểm;
  6. Nên mang theo đủ nước uống và mũ nón che nắng. Riêng nữ giới dùng kem chống UV để bảo vệ da trong ít nhất 2 tiếng là tốt
  7. Nên đi ngủ sớm đêm hôm trước để có đủ sức tham gia cùng đoàn
  8. Người trẻ nên đi bên cạnh người già để hỗ trợ cho nhau. Kinh nghiệm cho thấy lực lượng an ninh thường nể người già hơn. Và đặc tính của người Việt là kính lão đắc thọ
  9. Nên vận động những người thân quen của lực lượng an ninh (LLAN) tham gia biểu tình, hay con em, người thân của các lãnh đạo là tốt nhất;
  10. Nên mời các nhân sĩ trí thức có tên tuổi trong nước cũng như nổi tiếng ở nước ngoài tham gia với tư cách là người mở đường. Không phải chỉ LLAN mà ngay cả các lãnh đạo cấp cao cũng có sự kính trọng và kiêng dè nhất định đối với họ. Tuy nhiên, những nhân vật này đa số đã lớn tuổi nên tranh thủ mời một số người nhất định trong một lần Biểu tình để tránh hết nguồn.
  11. Nên tranh thủ trả lời Phóng viên các báo đài nước ngoài để tiếng nói phản kháng của chúng ta mạnh hơn nữa
  12. Cần có nhiều hơn các biểu ngữ tiếng tiếng Anh. Cần hô ứng các khẩu hiệu lần lượt bằng 2 thứ tiếng: Việt và Anh
  13. Nên có đội ngũ giỏi tay nghề chuyên trách ghi lại hình ảnh, âm thanh và không khí của cuộc Biểu tình. Nên có người ở nhà chịu trách nhiệm thu nhận, tổng hợp và phát ngay thông tin trực tiếp lên các blog, web kịp thời. Không nên kéo nhau xuống đường hết làm hậu phương đuối sức. Việc đưa tin ngay tại hiện trường cho thấy rất khó đáp ứng đầy đủ.
    Có người ở nhà tổng hợp vẫn tốt hơn
  14. Nên tổ chức phỏng vấn lẫn nhau tại hiện trường với các kịch bản soạn sẵn bằng các thứ tiếng Việt, Anh. Đây là dịp để sinh viên các trường Ngoại ngữ, Quan hệ Quốc tế phát huy tài năng của mình. Nếu phỏng vấn tiếng Việt. Gởi ngay về hậu phương làm phụ đề tiếng Anh, ,
  15. Tranh thủ cuốn hút những người đi đường hay hiếu kỳ tham gia đoàn biểu tình để không ngừng gia tăng lực lượng. Tuyên truyền để những người láng giềng hàng xóm tham gia cùng bạn vì thế ta sẽ có chung điểm xuất phát và điểm trở về không có cảm giác lạc lõng sau Biểu tình hay bơ vơ khi gặp sự cố không mong muốn. Người yêu là đối tượng dễ thuyết phục nhất.
  16. Nên phát hiện sớm những người không thuộc đoàn biểu tình sớm, tách họ ra để khỏi bị xé lẽ. Phải tham gia Biểu tình nhiều mới có khả năng nhận diện. Tuy nhiên, cũng không khó lắm vì nhân thì dân to như biển họ thì lạc lõng như đảo;
  17. Nên có tờ rơi để phát cho người đi đường và người ở hai bên đường đoàn đi qua. Nên có một số loa cầm tay để hô khẩu hiệu. Nếu có người biết chơi kèn mang theo kèn như trên sân bong càng tốt
  18. Nên in sẵn phù hiệu Biểu tình phát cho những người tham gia mang trên vai áo như ở Nhật để phân biệt với những người trà trộn.
  19. Chú ý bảo về lẫn nhau, đề phòng bọn móc túi tranh thủ cướp giật gây rối loạn đoàn Biểu tình.
  20. Thường xuyên liên lạc với gia đình và người thân để họ luôn biết bạn đang ở đâu làm gì.
  21. Nên có một ít thuốc men, bông băng, sơ cấp cứu và có người có nghề chuyên môn tham gia càng hay. Mời Bác sỹ và y tá đi cùng

23 . Điều cuối cùng hãy để những cô gái áo trắng tinh khôi lên phía trước của đoàn biều tình…..Một cô gái bị một chút máu cũng sẽ gây lên sự căm phẫn gấp mấy lần người khác..

( Tóm lược trong cuốn ” Từ Độc Tài Đến Dân Chủ ” của Gene Sharp)

Cục trưởng Cục chống (lưng) tham nhũng ngỏ ý nhận xe sang

Cục trưởng Cục chống (lưng) tham nhũng ngỏ ý nhận xe sang

Dân Đen (Danlambao)  Nếu doanh nghiệp tặng xe sang, tôi nhận và báo cáo thủ tướng” câu nói ấy tưởng chừng của một người tâm thần phân liệt, nhưng không, nó được thốt ra từ miệng lưỡi của quan sản có chức vụ Cục trưởng Cục chống tham nhũng của Thanh tra Chính phủ nhà nước. Chuyện chống tham nhũng là chuyên dài tập trong cái bình của cộng sản, tất cả nhũng con chuột trong đó không con nào là trong sạch cả. Chúng ăn tất cả mọi thứ trên đường sự nghiệp của chúng. Vì rằng chúng phải lấy lại những gì chúng đầu tư cho chức vị mà chúng đang nắm quyền. Thế nên cho dù là tổng Trọng lú, hay thủ Phúc niểng cũng không thể nào phòng hay chống tham nhũng. Chừ khi cộng sản đảng dám đập cái bể cái bình nuôi chuột của mình.

Phạm Trọng Đạt là một con chuột đứng đầu cái Cục chống (lưng) tham nhũng của Thanh tra Chính phủ cho biết: “Hiện Cục vẫn dùng chung xe với Thanh tra Chính phủ nên nhiều khi ảnh hưởng tới tính kịp thời và bí mật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ”. Chỉ với câu này của Đạt “Cục bự” cũng đã đủ phơi bày thói tham lam vô hạn của lũ quan quyền. Hàng năm cộng sản chi ngân sách nhà nước hàng tỷ đồng từ tiền thuế của dân để tổ chức hội nghị, hội thảo, đại hội từ cấp đảng bộ cho tới cấp phường xã. Thế mà Cục chống (lưng) tham nhũng không có nổi chiếc xe để đi công vụ sao.

Lấy lý do phải sử dụng chung xe với Thanh tra Cp mà Đạt “Cục bự” cho rằng sẽ nhận xe sang của doanh nghiệp tặng. Đạt “Cục bự” còn đưa ra điều kiện để nhận xe khi mà: “doanh nghiệp đang làm ăn thua lỗ, có nhiều vấn đề hoặc đang trong quá trình thanh tra thì tuyệt đối không được nhận vì xung đột lợi ích. Phải thỏa đáng mọi lý lẽ và quy định của pháp luật thì mới có thể nhận”. Bố khỉ cái anh Đạt “Cục bự” khó tính thế mà lại phát biểu như cục shit. Đang thua lỗ thì lấy shit tặng cho Cục của anh à anh Đạt, đã thế còn bắt “phải thỏa đáng mọi lý lẽ” mới chịu nhận. Nói thế chả khác anh Đạt ngửi shit của doanh nghiệp xem có thơm hay không rồi mới nhận à. Nói thiệt chứ phát ngôn của anh Đạt “cục bự” thúi như cái xác khô trong lăng Ba Đình.

Theo quyết định 64/2007/QD-TTg được cộng sản ban hành ngày 10/5/2007 nghiêm cấm các cơ quan, đơn vị, cán bộ, viên chức nhận quà có liên quan đến hoạt động công vụ. Thế nhưng anh Đạt “Cục bự” lại dám nhận xe sang nếu doanh nghiệp tặng, phải chăng anh Đạt xem thường quyết định của tưởng thú cộng sản? Không phải thế đâu, anh ấy chỉ nhận rồi sau đó sẽ báo cáo với tưởng thú để còn “thỏa đáng mọi lý lẽ và qui định” hòng ăn chia cho đồng đủ. Tránh tình trạng mâm trên mâm dưới không sòng phẳng sẽ dẫn tới “suy thoái tư tưởng đảng, tự diễn biến nội bộ đảng”.

Không biết ngài tưởng thú cộng sản nghĩ thế nào với câu phát biểu của anh Đạt “Cục bự”. Nếu đồng ý với những lý lẽ mà anh ấy đưa ra thì có thể tránh được “xung đột lợi ích” khi nhận xe sang của doanh nghiệp. Nhưng như thế chẳng khác nào tự vả vào mặt mình khi đi ngược lại quyết định 64. Quả này anh Đạt “Cục bự” chơi khăm tưởng thú của “chú phỉnh” rồi.

Thật ra những gì Dân đen tui nói nãy giờ chẳng qua là tui ghen ăn tức ở với doanh nghiệp mang tên Công ty Công Lý ở Cà Mau thôi. Tặng có hai chiếc Luxes trị giá khoảng 6,5 tỷ mà được tạm ứng tới 25 tỷ. Trong khi dân chợ trời tui buôn thúng bán bưng ngoài vỉa hè chợ mà tháng nào cũng phải đóng đủ thuế môn bài cho mấy cha bảo vệ chợ. Gặp lúc ế ẩm thua lỗ, nhờ mấy ông ứng chút vốn lấy hàng mà mấy ông chi cho đồng nào đâu. Có lẽ anh “Cục bự” Phạm Trọng Đạt cũng đã xét thật cặn kẽ các kiểu tặng quà nên anh ấy mới ngỏ ý “Nếu doanh nghiệp tặng xe sang” anh ấy sẽ nhận. Còn chuyện “xung đột lợi ích” hay quyết định 64 gì đó thì các doanh nghiệp cứ yên tâm. Anh Đạt ‘Cục bự” sẽ báo cáo với tưởng thú để lo “mọi lý lẽ cho thỏa đáng”.

Phạm Trọng Đạt, “Cục bự” của Cục chống (lưng) tham nhũng nay đã ngỏ ý thì mong các doanh nghiệp sớm có phúc đáp lại phát biểu của anh ấy. Nhằm tạo điều kiện cho Cục của anh ấy có xe sang để tiện đi lại thực hiện nhiệm vụ chống (lưng) tham nhũng.

28/2/2017

Dân Đen

danlambaovn.blogspot.com

Cùng chiến đấu với Chúa Giê-su

 Cùng chiến đấu với Chúa Giê-su

(Suy niệm thứ tư lễ tro)

 Con người vốn mang xác thịt nặng nề, là mục tiêu cho ma quỷ và dục vọng tấn công và xâu xé. Chỉ một phút yếu lòng, thiếu canh phòng là con người bị sa ngã, bị hư hỏng và ươn thối.

Vua Đa-vít vốn là một vị vua khôn ngoan, sáng suốt, tài năng đức độ được liệt vào hàng thánh vương, thế mà chỉ vì hình ảnh của một phụ nữ xinh đẹp là Bát-sê-ba lọt vào tâm trí cũng đủ làm nhà vua chao đảo, rồi sa ngã, phạm tội cướp vợ người khác và giết luôn cả người chồng là U-ri-gia, đang khi anh ta đang anh dũng chiến đấu ngoài chiến trường để bảo vệ ngai vàng của vua! (II Samuen 11)

THU TU LE TRO

Ngay cả Sa-lô-môn, một vị vua có tiếng là khôn ngoan vô tiền khoáng hậu, nhưng cũng vì chiều chuộng các người vợ ngoại giáo nên đã xiêu lòng theo các tà thần của dân ngoại, xây đền thờ cho họ đối diện với núi thánh Giê-su-sa-lem và đã làm sự dữ trước mắt Gia-vê (I Vua 11, 1-13).

Nói chung, dù ở bất cứ địa vị nào, đẳng cấp nào trong xã hội và tôn giáo cũng có những con người danh giá cao trọng đã phải ngã gục thảm thương và hư thối: hư thối vì lòng tham, hư thối vì những bê bối tình dục, hư thối vì lạm quyền, độc đoán…

Thân phận giòn mỏng của con người

Triết gia Platon diễn tả thân phận con người “như cỗ xe có hai ngựa kéo.” Một con ngựa trắng kéo ta về đường lành, đang khi con ngựa đen luôn lôi kéo ta về điều dữ. Thế là con người luôn bị giằng co xâu xé bởi hai thế lực đối kháng nhau.

Ngay cả thánh Phao-lô là vị tông đồ rất nhiệt thành và thánh thiện cũng cảm thấy những dục vọng đen tối làm xáo trộn tâm hồn của ngài. Ngài than thở: “Điều lành tôi muốn, tôi lại không làm; trong khi tôi lại làm những điều tôi gớm ghét …thật khốn thân tôi!” (Roma 7,16)

Thân phận con người cũng như những viên bi tròn được đặt trên những mặt phẳng nghiêng. Sức nặng của viên bi lôi kéo nó lăn xuống thế nào thì cũng chính sức nặng của xác thịt và bản năng hư hèn cũng thường xuyên lôi kéo chúng ta xuống bùn như thế.

Thân phận con người cũng như thân phận chiếc thuyền bơi ngược dòng nước, nếu không vững tay lái, không mạnh tay chèo thì vô vàn đam mê, dục vọng và tham muốn thấp hèn như những dòng nước ngược chảy xiết sẽ dìm chúng ta vào trong dòng xoáy của chúng và xô đẩy chúng ta xuống vực thẳm.

Hãy cùng chiến đấu với Chúa Giê-su 

Sống là tranh đấu. Bao lâu còn chiến đấu, con người mới có thể tồn tại như một con người. Khi ngừng chiến đấu, con người sẽ bị suy thoái và không còn giữ được phẩm chất cao đẹp của mình.

Khi làm người, Chúa Giê-su cũng mang thân phận con người có xác thịt hoàn toàn y như chúng ta. Ngài cũng từng bị cám dỗ y như ta. Những cơn cám dỗ mà hôm nay chúng ta đang phải chịu thì Ngài cũng đã từng chịu, có khác là Ngài đã chiến đấu rất anh dũng, rất kiên cường, không bao giờ lùi bước trước mọi cám dỗ và thử thách. Nhờ đó Ngài luôn luôn chiến thắng và chiến thắng rất vinh quang. Thư Do-thái viết: “Ngài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4, 15).

Lạy Chúa Giê-su,

Ý chí chúng con bạc nhược; xác thịt thì ươn hèn; trong khi đó, các đam mê tội lỗi thì mạnh như vũ bão cuồng phong… nên tự sức mình, chúng con không thể nào vượt thắng các thách thức và cám dỗ.

Vì thế, trong mùa chay nầy, xin cho chúng con tìm đến với Chúa nhiều hơn, gặp gỡ Chúa thường xuyên hơn qua việc cầu nguyện và siêng năng lãnh nhận bí tích Sám hối và Thánh thể, để nhờ Chúa ban ơn trợ lực, chúng con khỏi bị ngã gục thảm thương nhưng được vững mạnh chống trả ác thần.

Linh mục Inhaxiô Trần  Ngà 

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

BƯỚC VÀO MÙA TẬP LUYỆN CHIẾN ĐẤU THIÊNG LIÊNG

BƯỚC VÀO MÙA TẬP LUYỆN CHIẾN ĐẤU THIÊNG LIÊNG

Lễ Tro, khai mạc Mùa Chay Thánh, bằng nghi thức làm phép tro và mỗi người nhận tro trên đầu, cùng lúc đó sẽ nghe được một trong hai câu Lời Chúa: Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng, hoặc: Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi (SLRM).

Mỗi khi Mùa Chay về, chúng ta nghe văng vẳng bên tai lời Chúa mời gọi: “Các ngươi hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van” (Joel 2,12).

LE TRO

Như thế, hai ý tưởng trong Mùa Chay Thánh luôn song hành với nhau, thứ nhất: chúng ta là những con người yếu đuối, tội lỗi; thứ hai: Thiên Chúa là Người Cha giàu lòng thương xót, Ngài luôn yêu thương chúng ta, Ngài sẵn sàng tha thứ và ban cho chúng ta sức mạnh với tình thương.  Vì yếu đuối nên cần đến ơn Chúa, vì tội lỗi nên muốn được Chúa thứ tha, nhưng để lãnh nhận được ơn tha thứ thì cẩn phải trở về với Thiên Chúa trong cầu nguyện, trong chay tịnh và nước mắt, hướng tới tha nhân.  Đó là ba việc phải làm trong Mùa Chay Thánh:

Ăn chay

Cầu nguyện

Và bố thí

Là ba việc cần phải làm trong Mùa Chay, vì nó diễn tả ba chiều kích, ba mối tương quan giữa đương sự với Thiên Chúa và với anh em.  Tương quan với Thiên Chúa là cầu nguyện, với tha nhân là bố thí và với chính mình là ăn chay.  Ba tương quan này đồng hành với nhau và thể hiện cùng một lúc trong đời sống thường nhật của người kitô hữu.

Để ba tương quan này gắn kết với nhau, điều kiện đã được Chúa Giêsu nói rõ đó là: nội tâm.  Những việc chúng ta làm trong Mùa Chay xuất phát từ sâu thẳm của tâm hồn hướng lên Thiên Chúa và hướng đến anh em, chứ không phải là hình thức bên ngoài.  Vì thế, ăn chay, cầu nguyện cũng như bố thì là những việc được làm vì đẹp lòng Chúa, chứ không phải cho người ta thấy.

Trước hết phải khiêm nhường

Ăn chay, tiếng La tinh là jejunium, nghĩa là: “tự nhịn bất kỳ thức ăn nào.”  Khi nhịn chay, con người nhận ra mình lệ thuộc vào Thiên Chúa, “hạ mình” trước mặt Chúa, vì cảm thấy mình mỏng giòn, yếu đuối  như tác giả Thánh vịnh nói: “Phần tôi, những ngày chúng đau yếu, tôi đã từng khoác áo nhặm vào thân, lại ăn chay để hãm mình phạt xác, lòng tôi ấp ủ câu kinh lời nguyện” (Tv 34, 13).

Khiêm nhường khi ăn chay còn để Chúa thấy rằng chúng ta chẳng là gì nếu không có Chúa và thiết tha kêu cầu Chúa: “Bấy giờ tất cả con cái Ít-ra-en và toàn dân đã lên Bết Ên; họ ngồi khóc tại đây trước nhan Ðức Chúa.  Hôm ấy họ ăn chay cho đến chiều.  Rồi họ dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an lên trước nhan Ðức Chúa” (x. Tl 20, 26); “Vua Ða-vít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì nằm dưới đất; Vua trả lời: “Bao lâu đứa bé còn sống, ta ăn chay và khóc lóc vì ta tự bảo: “Biết đâu Ðức Chúa sẽ thương xót ta và đứa bé sẽ sống!” (2 S 12, 16.22), nhất là nhận biết mình là tội lỗi, là hư vô và cầu xin ơn Chúa thứ tha: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van” (Dn 9, 3).  Việc giữ chay thể xác chỉ có ý nghĩa khi nhịn ăn đi kèm với việc trách xa tội lỗi: “Chúng nói: “Chúng tôi ăn chay, sao Ngài không thấy, chúng tôi hãm mình, sao Ngài chẳng hay?”…  Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế?  Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Ðức Chúa?  Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc,trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? ” (x. Is 58, 1-12), nếu không nó chỉ là phô trương.

Đừng phô trương

Chính Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Các người hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để cho thiên hạ trông thấy… khi các người bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng…  Các ngươi có bố thì, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc ngươi bố thí được giữ kín.  Và Cha ngươi, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho người” (Mt 6, 1-6).

Trong Kinh Thánh, Chúa tố cáo mạnh nhất cái vẻ bề ngoài, hay là giả hình.  Vi khi giả hình, con người giáng cấp Thiên Chúa, họ đặt Ngài xuống hàng thứ hai, đặt tạo vật, công chúng lên chỗ nhất: “Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thí thấy tận đáy lòng” (1 Sm 16, 7).  Trau dồi dáng vẻ bên ngoài của chúng ta hơn tâm hồn chúng ta có nghĩa là coi người phàm trọng hơn Thiên Chúa.

Như vậy, vẻ bề ngoài hay sự giả hình tự bản chất là một sự thiếu đức tin: nhưng đó cũng là một sự thiếu đức bác ái đối với tha nhân theo nghĩa nó có xu hướng qui những con người thành những kẻ say mê.  Sự giả hình không công nhận phẩm giá thích đáng của họ, nhưng thấy họ tùy thuộc hình ảnh của chính mình.  Thiếu đức tin và thiếu đức bác ái, việc làm sẽ trở nên vô ích, nên không có được công phúc gì.

Sống cậy trông vào Chúa

Sai lầm lớn nhất của nền văn hóa hiện nay là tin rằng con người có thể có hạnh phúc mà không cần Thiên Chúa.  Như thế khi loại bỏ điều sâu thẳm trong con người, người ta chối bỏ điều liên kết con người với Thiên Chúa là Đấng ban sự sống… theo Đức Thánh Cha Phanxicô, đó là một tội ác, vì tước mất của người nghèo sự hiện diện của Thiên Chúa, mà cũng vì xem rằng con người có thể sống như thể không có Thiên Chúa, phủ nhận chiều kích thụ tạo và sự lệ thuộc của con người vào Thiên Chúa, không cậy dựa vào Chúa (x. Sứ điệp Mùa Chay 2014).

Người nghèo bị tước mất Thiên Chúa, và người giầu không cần đến Thiên Chúa, cả hai hạng người này đều được Giáo hội quan tâm.  Giáo hội nhìn đến những ai đang thiếu thốn, không chỉ do nỗi khốn khổ về tâm linh, vốn thường ẩn chứa trong lòng mọi người và làm cho họ day dứt, dù họ có nhiều của cải…  Khốn khổ vật chất là sống trong điều kiện không xứng với phẩm giá con người.  Khốn khổ luân lý là nô lệ cho thói xấu và tội lỗi, có thể dẫn đến khốn khổ vật chất, và luôn đi đến chỗ khốn khổ tâm linh, đó là khi người ta xa rời Thiên Chúa, khước từ tình yêu của Ngài.

Đó là lý do mùa chay năm nay Đức Thánh Cha Phanxicô đã mời gọi chúng ta suy tư lời của thánh Phaolô : “Thực vậy, anh chị em biết lòng quảng đại của Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta: Ngài giàu sang, nhưng đã trở nên nghèo vì anh chị em, để anh chị em trở nên giàu sang nhờ cái nghèo của Ngài” (2 Cr 8,9).  Sự giàu có đích thực của Chúa Giêsu là phận làm Con Thiên Chúa, đã nên người nghèo khó để chúng ta được làm con Thiên Chúa, trở nên giàu có nhờ sự khó nghèo của Ngài.  Con người giầu vì được làm con Thiên Chúa theo bản tính.  Con Thiên Chúa thấy cái nghèo của chúng ta, nên đã thi hành ý Chúa Cha, hạ mình nhập thể, chịu chết, sống lại để cứu chuộc chúng ta.  Chúng ta cũng thế, làm sao để cái nghèo của anh em chạm đến con tim chúng ta, hầu chúng ta có thế giúp người anh em ta đang khao khát ơn cứu độ (x. Sứ điệp Mùa Chay 2014).

Xin Chúa Thánh Thần nâng đỡ những quyết tâm của chúng ta trong suốt hành trình của Mùa Chay Thánh này cho nên.  Amen.

Antôn Nguyễn Văn Độ

Langthangchieutim gởi

Ánh Sáng Hồi Phục

Ánh Sáng Hồi Phục

Mới đây tại trường đại học y khoa Stanford bên Hoa Kỳ đã sáng chế ra một loại cửa sổ nhân tạo đặt trong các phòng hồi sức, nhằm giúp cho bệnh nhân chóng được hồi phục. Người vẽ kiểu cho loại cửa sổ nhân tạo này là một phó nhòm thuộc tiểu bang California. Ông đã chứng kiến cái cảnh thoi thóp thở của cha mình, khi nhìn lên trần bảng của phòng hồi sức chỉ thấy toàn một màu trắng với những lỗ đen. Các bác sĩ cho biết, vì phải nằm lâu ngày trong căn phòng thiếu cửa sổ, thiếu ánh sáng tự nhiên, cho nên không những bệnh nhân khó hồi phục mà còn để lộ những triệu chứng của bệnh tâm thần.

Với cánh cửa sổ nhân tạo nói trên, nhờ một hệ thống điện toán tinh vi, bệnh nhân có thể cảm thấy như đang tiếp xúc với ánh sáng bên ngoài. Trong 24 giờ đồng hồ, ánh sáng trên khung cửa nhân tạo thay đổi 650 lần. Bệnh nhân có thể nhìn thấy ánh mặt trời lên cũng như những áng mây bay qua khung cửa. Tất cả đều nhằm để giúp cho bệnh nhân cảm thấy mình gần gũi với thiên nhiên và nhờ đó cảm thấy bớt cô đơn.

Trong tương lai gần đây, người ta cũng có thể tạo ra cảnh trăng lên cũng như các vì lấp lánh trên khung cửa.

Con người cũng như vạn vật cần có ánh sáng để sống. Riêng với con người, ánh sáng không những cần cho sự sống của thân xác, mà còn giúp cho con người khỏi cô đơn. Bóng tối dễ làm cho con người cô đơn và sợ hãi…

Có nhiều thứ bóng tối trong cuộc sống chúng ta. Bóng tối của ích kỷ, của ganh ghét, của hận thù, của đam mê… Càng giam mình trong bóng tối ấy, chúng ta càng cảm thấy cô đơn và càng trở nên bệnh hoạn. Người càng sống ích kỷ, người càng nghiền ngẫm đắng cay, hận thù, người đó càng hạ giảm nhân tính của mình…

Chúng ta cần có ánh sáng để sống, để lớn lên trong tình người cũng như để chữa trị những băng hoại trong tâm hồn. Có ánh sáng của Lời Chúa để soi sáng dẫn từng đường đi nước bước của chúng ta. Có những ánh sáng của những nghĩa cử hằng ngày. Không có một nghĩa cử nào qua đi mà không thêm một chút ánh sáng để giúp chúng ta hồi phục vì những vết thương đau trong cuộc sống. Một hành động bác ái, một biểu lộ tin yêu dù nhỏ mọn đến đâu cũng là một tia sáng mang hy vọng đến cho tăm tối cô đơn trong tâm hồn chúng ta.

    Trích sách Lẽ Sống

Nhà giàu cũng khổ.

Nhà giàu cũng khổ.

 Tác giả: Phùng Văn Phụng

 Mấy câu sưu tầm trong net sau đây cũng làm cho chúng ta suy ngẫm:

Tiền mua được ngôi nhà nhưng không mua được một tổ ấm
Tiền mua được đồng hồ nhưng không mua được thời gian
Tiền mua được chiếc giường nhưng không mua được giấc ngủ
Tiền mua được sách nhưng không mua được kiến thức
Tiền mua được thuốc nhưng không mua được sức khỏe
Tiền mua được địa vị nhưng không mua được sự nể trọng
Tiền mua được máu nhưng không mua được cuộc sống
Tiền mua được thể xác nhưng không mua được tình yêu

Tiền mua được đời này nhưng không mua được đời sau.

Thông thường người nghèo mới khổ vì người nghèo không đủ tiền chi dùng trong gia đình, tiền cho con học hành, tiền nợ nhà phải trả , tiền ăn , tiền bảo hiểm, tiền thuế, v.v…ít có ai nói nhà giàu mà khổ? Nhưng thực tế, nhiều người rất giàu có, nhưng vẫn khổ.

Trường hợp ở Hoa Kỳ:

  • Trường hợp 1: Anh chị Nguyễn Khương H. đã vượt biên qua Mỹ năm 1980.  Một cuộc ra đi thừa sống, thiếu chết. Gặp sóng to, gió cả, không ăn uống được, ói mửa tới mật xanh, tưởng chết trên tàu, ở ngoài biển cả. Từ khi đặt chân đến đất Mỹ, hai vợ chồng làm đủ thứ việc, chạy bàn rồi nấu ăn trong nhà hàng. Làm việc cật lực, vất vả từ sáng sớm cho tới trời tối mịt mới về tới nhà. Làm 7  tới nhà để lo cơm nước. Mỗi ngày anh mất khoảng 14, 15 giờ cho tiệm giặt.

Anh H. năm nay đã sáu mươi bốn tuổi. Anh cho biết anh vừa mổ tim xong tốn khoảng 300,000 đô la nên phải làm giấy ly dị giả với vợ để không phải mất tài sản. Anh cũng cho biết đứa con trai ba mươi ba tuổi của anh đòi mua chiếc xe hơi đắt tiền anh không cho, nó bỏ nhà đi mất tiêu luôn. Còn đứa con trai mười lăm tuổi hiện nay ở trong tù vì có liên hệ đến bạch phiến, xì ke, ma túy. Lần này bị bắt vì đã bị cơ quan công lực cảnh cáo nhiều lần, theo dõi hắn, nhưng hắn không sợ, nên vẫn tiếp tục tham gia nên bị  bắt. Có lẽ đương sự sẽ ở tù lâu lắm mặc dầu còn vị thành niên.

Làm cha mẹ chỉ lo làm giàu, lo kiếm tiền, đến ngày hôm nay, có nhiều tiền, có tài sản, giàu có đó nhưng cũng không ăn uống được vì bị bịnh hoạn, con cái thì tứ tán, đứa thì bỏ nhà ra đi, đứa thì đi vào nhà tù.

Trường hợp 2: Anh Nguyễn văn T.

Một gia đình người bạn khác nữa, rất giàu có, chủ cây xăng và grocery, tài sản trên triệu đô la. Hai vợ chồng không sống được với nhau và đã thôi nhau. Người chồng về Việt nam cưới vợ khác, đã bảo lảnh vợ sau qua Mỹ.

Chị T. buồn quá, phải bỏ hết công ăn việc làm, chỉ lo làm thiện nguyện và lo tu hành. Tài sản cây xăng và tiện grocery giao cho con trai quản lý. Tuy nhiên, vì là con trai duy nhất, được cưng chiều từ nhỏ, buồn chuyện cha mẹ ly dị, nên cháu sa vào hút sì ke, không chịu làm ăn đàng hoàng đành phải bán cây xăng rồi.

Chị T. quá đau khổ, buồn chán, ăn uống không được, không ngủ được nên sức khỏe càng sa sút, sau cùng bị ung thư ruột mà mất.

Vợ sau của anh T. sau khi qua Mỹ được hai năm, có thẻ xanh, cũng ly dị anh, để bảo lảnh chồng cũ và các con ở Việt Nam qua.

Trường hợp ở Việt Nam:

  • Theo tin từ đài BBC, Cựu trưởng phòng Vinashin bị án tử hình (BBC)

Cáo trạng nói ông Giang Kim Đạt lấy 260 tỷ đồng hoa hồng của Vinashinlines, đưa 150.000 USD cho ông Liêm. Phần tiền còn lại được chuyển vào 22 tài khoản của bố để mua 40 bất động sản, mua đi bán lại 13 chiếc ôtô.


HINH 1

 

 

 

 

 

 

 

Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGES

Hình minh họa

TAND Hà Nội hôm 22/2 tuyên án tử hình với ông Giang Kim Đạt, nguyên quyền trưởng phòng kinh doanh của công ty TNHH một thành viên vận tải viễn dương Vinashin thuộc Tập đoàn Vinashin (gọi tắt Vinashinlines).

Một bị can khác, Trần Văn Liêm, nguyên tổng giám đốc Vinashinlines, cũng bị án tử hình.

Cả hai người bị kết tội Tham ô tài sản.

Tại phiên tòa, ông Trần Văn Khương, nguyên kế toán trưởng Vinashinlines, án tù chung thân.

Người bố, Giang Văn Hiển, cũng bị ra tòa và chịu án 12 năm về tội Rửa tiền.

Hai trăm sáu chục tỷ (khoảng 13 triệu đô la) tất nhiên là người quá giàu có nhưng bây giờ ông chịu án tử hình thì cũng không xài được số tiền mà ông đã tham nhũng.

nguồn tin từ đài BBC

2) Theo đ ài RFA,

Năm 2012 ông Hà Văn Thắm là một đại gia nổi tiếng trên sàn chứng khoán và đứng thứ 8 trong danh sách những người giàu nhất thời điểm bấy giờ, với tổng tài sản lên đến hơn 1.800 tỷ đồng.

Ông là cựu Chủ tịch Hội đồng quản trị Oceanbank. (Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Đại Dương)

Theo cáo trạng của Viện kiểm sát Nhân dân tối cao thì ông Hà Văn Thắm đã có hàng loạt hành vi sai phạm  khiến nợ xấu của ngân hàng này đến thời điểm 31/3/2014 tăng đến 15.000 tỷ đồng, lỗ hơn 10.000 tỷ đồng.

Tòa án Hà Nội đưa ra xét xử ông Hà Văn Thắm vào ngày 27 tháng 2 tới đây.

nguồn tin từ đài RFA (Á Châu Tự Do)

httpv://www.youtube.com/watch?v=Fbsj4437bAA

TIN NHANH | Xét xử thêm đại án kinh tế

Những người trên đây là tiêu biểu cho những nhà giàu mới, bằng mọi thủ đoạn bất chính để làm giàu.  Rất nhiều người chỉ biết đến tiền của, đặt tiền của là lý tưởng của đời họ, phải có thật nhiều tiền.

Nhưng Chúa nói: “Hãy xem chim trời, chúng không gieo không gặt, không thu tích vào kho, thế mà Cha anh em trên trời vẫn vẫn nuôi chúng.(Mt 6,câu 26)

Và Chúa nói:  “Trước hết hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”. (Mt 6, câu 33)

Vì sao vậy? Rõ ràng vì sự say mê tiền của quá đáng, đặt lý tưởng của họ là tiền, họ đã làm điều bất chính, phạm pháp, đã đưa họ vào tù tội vì lòng tham không đáy của họ.

Nếu họ biết đặt Thiên Chúa làm chủ của cuộc đời họ hơn là kiếm thật nhiều tiền bằng mọi giá, và biết dùng tiền để phục vụ Chúa, phục vụ tha nhân, giúp ích cho người nghèo khổ thì cuộc đời của họ chắc chắn đã khác.

Cho nên, Chúa nói hãy tìm kiếm nước Thiên Chúa trước, tiền của sẽ đến sau. Chúa sẽ ban cho sức khỏe, sự bình an để có gia đình vui tươi, hạnh phúc không cần phải có quá nhiều tiền rồi gặp những hoàn cảnh như đã nói ở trên.

Tội nghiệp thay cho những người làm giàu bất chính (tham nhũng, lường gạt…) và những người làm giàu chân chính, nhưng làm quá sức của họ, 7 ngày trong tuần, 15, 16 giờ mỗi ngày) vì những anh em này đã không nghe lời Chúa. Anh em đừng lo lắng về ngày mai, ngày mai cứ để ngày mai lo. (Mt 6, Câu 34)

Kết:  Vậy chúng ta (trong đó có tôi nữa) cần suy nghĩ: nên làm tôi Thiên Chúa hay làm tôi Tiền Của. Chúng ta chỉ có thể chọn một trong hai: Thiên Chúa hay Tiền Của làm ưu tiên đời sống của chúng ta, chứ không thể chọn ưu tiên cả hai được.

Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được. (Mt 6, câu 24).

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Cường Quyền & Nhân Sĩ

Cường Quyền & Nhân Sĩ –  S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Ảnh của tuongnangtien

Với tất cả trân trọng và thương cảm, nhà văn Ngô Thế Vinh vừa gửi đến cho mọi người một tin buồn lớn: Giáo sư Phạm Hoàng Hộ đã từ trần vào hôm 29 tháng 1 năm 2017.

Ông để lại một sự nghiệp đồ sộ, bộ sách Cây Cỏ Việt Nam  (gồm 6 quyển, hai tập) với lời đề tặng:

  • Những ai còn sống hay đã chết trong tù vì tháng Tư năm 1975 đã quyết định ở lại để tiếp tục dâng góp cho đất nước.
  •  Tặng giáo sư Nguyễn Duy Xuân nguyên viện trưởng Đại Học Cần Thơ, mất ngày 10/XI/1986 tại trại Cải Tạo Hà-Nam-Ninh.
  • Tặng hương hồn những ai trên biển Đông đã chết nghẹn ngào.

Tôi băn khoăn tự hỏi: Giáo sư Nguyễn Duy Xuân là ai? Sao một công trình nghiên cứu về thực vật học mà lại mở đầu bằng những “lời đề tặng” u ám, u uẩn và u uất thế? Chúng ta đang sống trong một thời đại, và một đất nước, bi thương đến độ này sao?

Những trang viết kế tiếp của nhà văn Ngô Thế Vinh, với nhiều dòng chữ  nghẹn ngào, đã giúp cho tôi lý giải những câu hỏi vừa nêu:

Giáo sư Nguyễn Duy Xuân cũng là người Cần Thơ, sinh năm 1925 hơn Giáo sư Phạm Hoàng Hộ 4 tuổi, tốt nghiệp Tiến sĩ Kinh tế tại Đại học Vanderbilt Hoa Kỳ, trở về Việt Nam 1963, giáo sư Luật. Nhận chức Viện trưởng từ Giáo sư Phạm Hoàng Hộ, Giáo sư Nguyễn Duy Xuân đã nỗ lực phát triển Viện Đại học Cần Thơ trên mọi lãnh vực từ chương trình giảng dạy, đào tạo ban giảng huấn, xây cất thêm giảng đường, phòng thí nghiệm, thiết lập ký túc xá như hệ thống campus cho sinh viên đến từ các tỉnh xa Miền Tây...

Chỉ trong vòng 9 năm [1966 – 1975] với công lao xây dựng của hai Viện trưởng tiền nhiệm: GS Phạm Hoàng Hộ, GS Nguyễn Duy Xuân, Viện Đại Học Cần Thơ như một Ngọn Hải đăng Miền Tây, trở thành một trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học, đặc biệt bước đầu ưu tiên phát triển hai lãnh vực Sư phạm và Nông nghiệp, vững vàng sánh bước với các Viện Đại học lâu đời khác của Miền Nam, đóng góp cho sự thăng tiến của vùng ĐBSCL...

 Chỉ mấy ngày trước biến cố 30 tháng 4, 1975, cũng như GS Phạm Hoàng Hộ, GS Nguyễn Duy Xuân như một trí thức dấn thân, quyết định ở lại và giữa cảnh dầu sôi lửa bỏng, ông vẫn can đảm nhận chức Tổng trưởng Bộ Văn hóa Giáo dục cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa. Giữ chức vụ đó chưa đầy một tuần lễ thì chính quyền Miền Nam xụp đổ, TT Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.

 GS Nguyễn Duy Xuân bị đưa vào trại tù cải tạo, sau đó bị đưa ra Bắcđã chết trong tù cải tạo Hà Nam Ninh ngày 10 tháng 11 năm 1986 trong đói khát và bệnh tật không thuốc men. Xác của ông được vùi nông trong nghĩa địa tù cải tạo trên triền núi phía sau trại tù Ba Sao.

Tôi đã có lần nhìn thấy tấm ảnh chụp bia thờ 626 linh hồn tử vong (từ năm 1975 đến năm 1988) của trại tù này, trên trang web của blogger Phạm Thanh Nghiên.

Có lẽ tên tuổi của giáo sư Nguyễn Duy Xuân cũng được ghi trên tấm bia này vì ông từ trần vào năm 1986, thời điểm mà giới truyền thông nhà nước vẫn xưng tụng (không tiếc lời) về sự “dũng cảm nhìn vào sự thực” và “quyết tâm đổi mới của ĐCSVN.

Nếu “dũng cảm nhìn vào sự thực” thì đây chỉ là sự quyết tâm “bẻ lái con tầu đất nước” theo hướng Trung Nam Hải – như nhận xét và cảnh báo của blogger Trần Huỳnh Duy Thức:

Trung Quốc và Việt Nam tạo ra một phiên bản khác về sự vi phạm tính toàn vẹn của các quyền con người. Hai nước này đã thừa nhận quyền kinh tế cho người dân nhưng vẫn tước đoạt không khoan nhượng quyền chính trị của họ, gây nên một kiểu tự do què quặt khác. Mặc dù mô hình này có thể tạo nên sự tiến bộ kinh tế và các thành tích ấn tượng về xóa đói giảm nghèo, nhưng nó cũng đồng thời nuôi dưỡng bất bình và suy thoái xã hội rồi nhốt chúng lại.

Khi sự trầm trọng này trở nên mục rỗng thì nó sẽ dẫn tới việc bộ máy chính trị tự dân chủ hóa hoặc sẽ kết thúc trong sụp đổ toàn diện về kinh tế, xã hội, chính trị và một chế độ bị lật nhào. Đây là tiến trình tất yếu vì nó phá vỡ sự toàn vẹn của các quyền con người vốn thuộc về luật của Tạo hóa. Dưới tác động của toàn cầu hóa và xã hội Internet, tiến trình này sẽ diễn biến rất nhanh, nhanh hơn đã từng chứng kiến trong thời gian chiến tranh lạnh dẫn đến sự tan rã của hệ thống Đông Âu và Liên Xô.

Lời cảnh báo này, tiếc thay, đã bị những người đứng đầu chế độ hiện hành coi như là một “lời nguyền” hay “trù ẻo.” Tuy mang tiếng là theo chủ nghĩa duy vật nhưng họ lại là những kẻ rất dị đoan. Vốn bệnh tật nên họ sợ “tiếng cú,” và đã vu vạ cho Trần Huỳnh Duy Thức đủ loại tội danh (trộm cắp cước điện thoại, hoạt động chính trị nhằm lật đổ chính quyền) cùng một bản án nặng nề –16 năm tù và 5 năm quản chế, vào ngày 20 tháng 1 năm 2010 – qua một phiên toà mà đại diện của Hội Ân Xá Quốc Tế đã mô tả như là “sự nhạo báng công lý.”

Hơn bẩy năm đã trôi qua nhưng chưa bao giờ người tù nhân lương tâm quả cảm này bị công luận lãng quên. Ông vẫn luôn được nhắc đến với rất nhiều trân trọng, qúi mến, cùng quan ngại:

  • BBC (21/01/2010) Người Có Án Nặng Nhất Nói Bị Bức Cung
  • BBC (21/01/2010) Các Nhóm Nhân Quyền Chỉ Trích Bản Án
  • RFI (30/01/2010) Bốn Nhà Bất Đồng Chính Kiến Ở Việt Nam Kháng Án
  • Bauxite VN (14/06/2013) Duy Thức Đã Không Ngủ Suốt 10 Ngày Biệt Giam
  • RFA (15/10/2013) Trần Huỳnh Duy Thức Được Vinh Danh Giải Nhân Quyền
  • RFA (07/05/2016) Tù Nhân Trần Huỳnh Duy Thức Bị Chuyển Trại Giam
  • BBC (17/05/2016) Ông Trần Huỳnh Duy Thức Sẽ Tuyệt Thực
  • Ba Sàm (28/05/2016) Trí Thức Tuyệt Thực Cùng Trần Huỳnh Duy Thức
  • VOA (31/01/2017) Ông Thức Nhất Quyết Không Lưu Vong

Tôi chưa bao có cái hân hạnh được giao tiếp với ông Trần Huỳnh Duy Thức. Tôi chỉ được biết người tù nhân lương tâm bất khuất này qua công luận. Và công luận thì đã vạch rõ sự ác độc và tính man rợ của những kẻ đứng đầu chế độ công an trị hiện hành. Họ đã gây ra không biết bao nhiêu là cái chết đớn đau và oan khuất:

Những người bị giết đều là những tinh hoa, là danh sĩ đạo cao đức trọng, yêu nước thương dân, có thành tựu văn hóa sáng giá cống hiến cho nền văn hiến nước nhà. Họ chết mỗi người mỗi cách đau xót và hàm oan: Nhà văn Lan Khai bị xô xuống vực, văn hào Ngô Tất Tố bị bức cho treo cổ tự vẫn, Khái Hưng bị bỏ rọ trắn sông, Phạm Quỳnh đối thủ đáng gờm của thực dân Pháp bị xử tử, Tạ Thu Thâu nhà yêu nước lớn bị tử bắn; nàng thơ nữ sĩ Thu Hồng bị bắn lén từ sau lưng; Nhượng Tống dịch giả tài hoa số 1 bị ám sát; Dương Quảng Hàm vị giáo sư đáng kính ra khỏi nhà đi mãi không về; vị bồ tát Thiều Chửubị bức hại nhảy xuống sông tự tận…

Đó là tất cả sự thực về những cái chết tức tưởi oan khuất của các nhà văn, nhân sĩ mà bọn gieo ác vẫn sống nhởn nhơ trên pháp luật với bộ mặt người lương thiện! Nguyên tắc bất di bất dịch nằm trong ý thức hệ tư tưởng của những kẻ sát nhân lương thiện này là: yêu nước và chính kiến là độc quyền của tao, mày không đi với tao, mày là kẻ thù của tao. Đã là kẻ thù thì mày không có quyền tồn tại!  (“Thái Doãn Hiểu – Những Cái Chết Tức Tưởi Của Nhà Văn, Chuyện Bây Giờ Mới Kể”).

Phạm Quỳnh, Ngô Tất Tố, Khái Hưng, Dương Quảng Hàm sinh vào cuối thế kỷ XIX. Lan Khai, Thu Hồng, Nhượng Tống, Nguyễn Duy Xuân sinh vào đầu thế kỷ XX. Kể từ khi cướp được quyền bính đến nay, những người cộng sản Việt Nam đã giết chết bao nhiêu là anh tài và nhân sĩ (thuộc mấy thế hệ kế tiếp nhau) rồi?

Chúng ta bắt buộc phải luôn quan ngại (và canh thức) về sinh mệnh của Trần Huỳnh Duy Thức, cùng hàng trăm tù nhân lương tâm khác, đang nằm trong vòng tay của cường quyền và bạo lực!

Tóm tắt lịch sử giết người của đảng Cộng sản Trung Quốc

From facebook:  Tinh Hoa

Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) thành lập năm 1921, giành được chính quyền năm 1949. Theo thống kê, có khoảng 80 triệu người Trung Quốc đã bị chết bất thường (bức hại, đói khổ, hành quyết…) dưới thời cai trị của ĐCSTQ. Con số này nhiều hơn số người chết trong hai cuộc chiến tranh thế giới. Hãy cùng điểm lại hành trình giết và giết của ĐCSTQ…

Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) thành lập năm 1921, giành được chính quyền năm 1949. Theo thống kê, có khoảng 80 triệu người Trung Quốc đã bị…
TRITHUCVN.NET

Nếu Ai Hỏi..

Nếu Ai Hỏi..

Nếu ai hỏi tôi sợ điều chi nhất ?

Tôi sợ nhiều.. bóng tối cõi lòng tôi

Danh lợi mất, xem như rằng chưa mất

Mất lương tri là mất đã nhiều rồi!

 

Nếu ai hỏi tôi ghét điều chi nhất ?

Ghét chính là đánh mất sự bình yên

Nếu không thương- tôi không ghét, không phiền!

    Có thương, ghét.. hồn nhiên như trẻ nhỏ. 

 

Nếu ai hỏi về tình yêu chân thật ?

– Biết nhịn nhường, sống chấp nhận lẫn nhau!

Yêu trói buộc làm người kia chật vật

Hạnh phúc song hành chiếc bóng khổ đau.


Nếu ai hỏi tôi biết ơn gì nhất ?

Thưa, chính là những trở ngại, chướng duyên..

Đời sóng gió giúp buông lòng kiêu ngạo

Sớm quay về nẻo Đạo, biết nhu khiêm.


Nếu ai hỏi điều làm tôi thất vọng ?

Đó chính là mơ mộng đổi thay đời.

Nếu tôi biết đổi chính mình quan trọng

Thay cái nhìn, thế giới đẹp tinh khôi!


Nếu ai hỏi điều gì tôi hy vọng ?

– Ước mong mình mở rộng cõi lòng hơn!.

Cái tôi lớn đất trời thu nhỏ lại

Tôi bé đi, đời bát ngát yêu thương..

Thích Tánh Tuệ – Như Nhiên 

ĐỪNG ĐỔ THỪA CHO CHÚA

ĐỪNG ĐỔ THỪA CHO CHÚA

Tôi có thói quen hay cắt nghĩa tất cả mọi sự đều do Chúa định.  Thói quen đó được tôi dùng như một giải pháp đạo đức dễ dàng để trấn an lương tâm.

Đối với những điều lành xảy ra, thì lối cắt nghĩa đó không gây thắc mắc.  Nhưng đối với những điều dữ, thì nhiều khi tôi nghĩ rằng lối giải thích đó hơi mơ hồ.

Chẳng hạn tôi bị ghẻ, tôi cho là do Chúa định.  Nhưng thực ra cũng có thể là do tôi không giữ vệ sinh.

Tôi nghèo, tôi cũng bảo là do Chúa muốn.  Nhưng thực ra cũng có thể là do tôi không biết làm ăn.

Tôi thấy chiến tranh tàn phá làng tôi, cướp mất gia đình tôi.  Tôi cho là do Chúa định.  Nhưng thực ra cũng có thể là do tội những người lãnh đạo chiến tranh.

Tôi thất bại trong chuyện đời, đạo.  Tôi cho là tại Chúa xếp đặt như thế. Nhưng thực ra cũng có thể là vì tôi đã thiếu tài thiếu đức.

Tôi thấy Xứ Đạo tôi, Địa Phận tôi, Giáo Hội tôi có những khuyết điểm lớn nhỏ.  Tôi cho là Chúa an bài như vậy.  Nhưng thực ra cũng có thể là tại lỗi lầm của tôi, của các bề trên tôi, của anh chị em đồng đạo và của cả cộng đoàn Kitô hữu.

Tôi không nên đổ thừa cho Chúa các tội lỗi và hậu quả tội lỗi của chính tôi và của người ta.

Tôi không nên gán cho Chúa những sự không thể hợp với sự thánh thiện, khôn ngoan và tình thương vô cùng của Chúa.

Tôi không nên lôi Chúa ra để bắt Chúa lãnh chịu những cái dở do tôi và người khác đã dại dột gây ra.

Tôi phải nhận rằng: trên đời này chỉ có Đức Giáo Hoàng là không sai, và Ngài chỉ được ơn không sai lầm trong một số trường hợp rất hiếm hoi, đó là khi Ngài phán quyết điều gì về đức tin và phong hóa nhân danh đại diện Chúa Kitô.

Chỉ có thế thôi.  Còn ngoài ra, mọi người đều có thể sai lầm trong bất cứ phương diện nào.  Lỗi lầm là điều thường tình theo sát thân phận con người.  Ai dám nói rằng: Cả đến Tòa Thánh cũng có thể tránh được hoàn toàn mọi lầm lỡ thiếu sót.

Nhìn nhận những sự thật đó mới là lương thiện.  Đừng đổ thừa cho Chúa những điều mà chẳng ai muốn nhận là của mình.  Oan cho Chúa quá!

Đã hẳn, Chúa quan phòng mọi sự.  Nhưng sự quan phòng của Chúa được thực hiện với sự cộng tác tự do của con người.  Chúa có chương trình của Chúa.  Nhưng Chúa không ngăn trở người ta làm sai chương trình của Chúa.  Chúa không cưỡng bách ai, kẻo họ mất hết tự do, hết trách nhiệm và hết điều kiện để thưởng phạt.

Vì thế, bao nhiêu sự không hay đã xảy ra rõ ràng không phải do Chúa.  Chỉ tại người ta đã thiếu cộng tác vào ý muốn của Chúa.

Nếu chân thành nhìn nhận như thế, rồi cố gắng sửa sai bằng cách rút ra từ những lỗi lầm đó các bài học hữu ích, đồng thời nỗ lực cộng tác với ơn Chúa mà vươn lên, thì đó mới là điều người ta quen nói: “Mọi sự đều có thể trở nên tốt cho những người có lòng mến Chúa.”

Nhưng để biết lợi dụng thất bại, thì cũng cần và càng cần cộng tác sự tự do của con người vào ơn Chúa.  Nếu không, thì thất bại vẫn chỉ là thất bại, hay có thể trở thành thất bại nặng nề hơn.  Nguyên nhân cũng lại do tại con người đã không cộng tác vào chương trình của Chúa.

Lạy Chúa, con nhìn nhận rằng: Tất cả mọi sự xấu xảy ra ở trần gian này đều phát xuất do tội lỗi con người đã thiếu cộng tác với ơn Thánh Chúa.  Lỗi của tổ tông, lỗi của riêng con, lỗi của người khác.  Con dốc lòng từ nay sẽ cố gắng cộng tác với ơn Thánh Chúa, để mọi chương trình Chúa muốn về con được hoàn toàn thực hiện.  Amen!

GM Bùi Tuần

Mạng Lưới Dũng Lạc

Langthangchieutim goi

Có hoa nào qua mùa không héo?

Suy Tư Tin Mừng Trong tuần thứ 8 thường niên năm A 26/02/2017

Tin Mừng: (Mt 6: 24-34)

Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được. Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. Anh em lại chẳng quý giá hơn chúng sao? Hỏi có ai trong anh em, nhờ lo lắng, mà kéo dài đời mình thêm được dù chỉ một gang tay? Còn về áo mặc cũng thế, lo lắng làm gì? Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy. Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin! Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho. Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.

“Có hoa nào qua mùa không héo?”

“Có tiếng nào, giàu đẹp hơn không?”

(dẫn từ thơ Lưu Trọng Lư)

Mai Tá lược dịch

Hoa nào lại không héo, vào mùa Đông? Tiếng nào giàu/đẹp hơn Lời Vàng được thánh Mátthêu Tin Mừng những ghi chép? Lời Vàng thánh Mátthêu Tin Mừng ghi, là hoa tươi, là tiếng nói giàu/đẹp thánh nhân đưa vào trình thuật truyện kể và bài giảng lấy hứng từ Tin Mừng thánh Mác-cô. Và, đó cũng là điều mà hầu hết các nhà chú giải đều đồng ý. Tuy nhiên, vẫn có những đoạn trình thuật mang tính chất rất riêng tư như thánh Mátthêu đề cập đến ở Lời Chúa, rất hôm nay.

Điển hình hơn cả, là: đoạn trích được thánh sử rút từ sách Ysaya, nhằm

phản ánh truyền thống sống động về sinh hoạt của Đức Giêsu và về Lời dạy rất thánh, của Ngài. Các đoạn trích tập trung nơi Tin mừng thời tiên khởi. Thời này, đã tràn lan xuất hiện các chỉ thảo có từ Sách Tanak như: thánh vịnh, Đệ Nhị Luật và Sách ngôn sứ Ysaya. Xem thế, ta có thể kết luận là: cộng đoàn Mát-thêu ngay từ đầu, đã thủ đắc các phó bản của sách Ysaya này.

Tuy là thế, Mátthêu đây vẫn dùng đến sách của các ngôn sứ khác, nhưng chỉ để hỗ trợ cho việc trưng dẫn sách Ysaya, trong chủ đích này. Tin Mừng thánh nhân ghi, tuy không trích dẫn từng lời nói của vị ngôn sứ, nhưng thánh nhân cũng sử dụng nhu liệu làm nền từ vị ngôn sứ này. Vì thế, có thể nói: thánh Mát-thêu nhận ra Đức Giêsu là Đấng đã thực thi những gì được ngôn sứ nói, từ thời Cựu Uớc.

Điều mà thánh nhân nhấn mạnh, là: bảo vệ niềm tin của cộng đoàn mình đặt nơi Chúa. Và từ đó, xác tín rằng chính Đức Giêsu là Đấng Mêsia, như chủ thuyết Giuđa minh định. Ngang qua sách Ysaya, thánh sử có nói về 3 chủ đề chính ngõ hầu hỗ trợ cho lập trường được nhắm đến, là: Tạo Dựng Mới. Tin Mừng Cứu Độ ở nơi Chúa. Và, Trở về từ đất miền lưu đày, ngang qua sa mạc.

Ngoài ra, Mátthêu Tin Mừng còn chứng minh điều mà Đức Giêsu nói: Ngài là Đấng Tạo Thành Mới. Tin Mừng là Tin Vui Cứu Độ gửi đến mọi người. Nếu ai cũng biết đặt mình vào Tạo Dựng Mới, sẽ chẳng còn ai phải lưu đày ở chốn khách này, nữa. Thế nên, thánh nhân coi Tin Mừng do mình viết, là một Khởi Nguyên mới. Là, công việc mới mẻ để mọi người hiểu rằng: Chúa đã và đang thực hiện vai trò Luật gia Torah rất đích thực. Và, những gì khi xưa sách Ysaya xưa đã đề cập, nay thành hiện thực nơi Ngài. Và, sự thực ấy, nay trải dài ở Tin Mừng của thánh nhân, ít là ở 10 bản văn.

Bản văn đầu, về Gia Phả, Mátthêu muốn minh định: lời ngôn sứ loan: “Nhà Đavít có Vị nối dõi tông đường nay đã thể hiện nơi Đức Kitô”. Loan báo, là loan và báo khác hẳn gia phả giòng tộc vua quan khác ở Đamát, Samari và Assyri (Is 7: 10, 9: 11). Vì thế, thánh nhân kể rõ từng chi tiết trong gia phả của Chúa. Và, việc Đức Mẹ đưa Hài Nhi Giêsu qua Ai Cập là để xác chứng rằng lời Chúa hứa giúp dân Do thái thoát khỏi ách nô lệ để trở về, nay đã thành chuyện có thực.

Bản văn thứ hai chứng minh thêm một điều, là: ngôn sứ Ysaya hứa giải cứu dân Do thái thoát ách nô lệ ngoại bang để trở về, nay hiện thực hiện ngay nơi hoang vắng có Chúa nguyện cầu. Đây, còn là chốn miền để Chúa gặp gỡ Cha Ngài. Ở Tin Mừng, Mátthêu nói nhiều về chốn hoang sơ/sa mạc ở Giuđêa, nơi đó thánh Gioan Tiền Hô từng rao báo những điều đã ghi ở sách Ysaya ở chương 40.

Với Ysaya, dân Do thái trở về, là về từ nơi chốn lưu lạc bên Ai cập, ngang qua chốn hoang vu sa mạc. Và trở về mà hoàn tất ơn cứu độ nhờ Đức Chúa dẫn dắt như vị Chủ chăn. Tổ phụ Môsê, vị chủ chăn từng giúp dân Do thái vượt biên/vượt biển thành công được, cũng nhờ có sự trợ giúp của Thần Khí Chúa. Với Tin Mừng, Mátthêu Tin Mừng kể về việc Chúa chấp nhận dìm mình dưới nước sông Giođan, để rồi dẫn dắt dân con Ngài vào chốn hoang vu, nhờ đó Thần Khí Chúa biến Ngài thành Con Thiên Chúa Hằng Sống. Ở Tin Mừng, Đức Giêsu là Môsê Mới cũng sử dụng lời lẽ từ sách Đệ Nhị Luật để đuổi xua tên cám dỗ sừng sỏ dám thách đố Ngài. Và, Ngài nói đến “chốn núi cao”, như Cựu Ước từng nói.

Bản văn thứ ba, đem đến cho người đọc nguồn ánh sáng chiếu rọi trên dân con Chúa. Họ đón nhận ánh sáng ấy nếu biết ứng dụng Luật Torah theo tinh thần Chúa sáng soi (Is 9: 4). Động lực ‘ánh sáng’ đưa mọi người đến ý nghĩ về “cặp mắt xấu” (tức lòng tham vô đáy) và năng lượng tạo lửa ngọn hực cháy. Tạo nên đá tảng cho an bình nội tâm, càng thêm vững.

Bản văn thứ tư gợi ý nói về Người Tớ Khổ Đau. Tức, tập trung vào nỗi khốn khổ, đớn đau của con người. Từ đó, thánh nhân diễn rộng thành truyền thống coi Chúa là Vị Thày Chữa Lành mọi sự. Các chương 8 và 9 gồm 10 trình thuật nói về việc Chúa chữa lành. Tất cả chia thành hai nhóm, mỗi nhóm gồm 5 trình thuật truyện kể. Mỗi nhóm, nói đến người bị ruồng bỏ như trẻ nhỏ, kẻ goá bụa và những người được chữa đến hai lần. Tất cả, nói lên lý lịch của Chúa là Đấng Mêsia, rất đích thực. Rõ nhất, là vai trò Chủ Chăn của Chúa (như vua Đavít), rút từ sách Isaya chương 53. Và từ đó, Chúa nói đến chiên lạc nhà Israel. Rồi, Ngài diễn rộng bằng bài thuyết giảng về sứ vụ rao báo, ngõ hầu giúp tông đồ Ngài trở nên sứ giả chuyên phổ biến Tin Vui An Bình, ngang qua trình thuật kể về nỗi khổ đau của Tôi Tớ Đau Khổ.

Bản thứ năm trích nhiều từ đoạn 42, qua đó người đọc thấy được lý lịch của Chúa như Con Người. Và, như Người Con của Giavê Thiên Chúa, Đấng sẽ đến lại vào ngày Quang Lâm. Đức Chúa của ngày Sabát, là Con vua Đavít, vẫn cao sang hơn đền thánh. Hơn Yôna, Salômôn khôn ngoan/quyền quý mà mọi người quý trọng. Với Mátthêu, cung cách của Người Tớ Khổ Đau nói ở Cựu Ước được đánh giá cao qua công việc Ngài làm. Việc này, còn được diễn bày rất nhiều, về sau. Nhưng trước mắt, thành công đạt được là nhờ Thần Khí Chúa dẫn dắt. Và Mátthêu định danh Thần Khí Chúa như Nguồn Mạch chữa lành và trừ tà.

Bản văn thứ sáu, là trình thuật về lời mời gọi Ysaya trở thành ngôn sứ. Lời mời, ăn khớp với việc Chúa quan phòng dẫn dắt dân con Ngài ngang qua lưu đầy, khốn khổ. Thời đó, các nhiệm tích được chuyển tải theo cung cách kín ẩn cho đến khi dân con kết cuộc mọi lưu lạc, trở về thành “hạt giống thánh”. Hạt giống đâm chồi nảy lộc ngay trên đất của mình. “Hạt Giống Thánh Thiêng” đây, là Đấng Mêsia thuộc giòng họ rất Đavít.

Bản văn thứ bảy, rút từ chương 29 được thánh Mát-thêu coi như cảnh tình của dân con mọi người có nghe biết, mà chưa hiểu. Và, thánh nhân diễn rộng điểm này ở chương 6. Ở Isaya 29, toàn bộ thị kiến của ngôn sứ là sách quí dành cho cả người không biết đọc, lẫn người học rộng. Bởi, Chúa giấu kín mọi nhiệm tích khỏi người khôn ngoan. Ngài khiến kẻ điếc được nghe, kẻ mù được thấy, để họ hiểu rõ những gì mình nghe và biết, điều quan trọng hơn là lập đi lập lại giới luật do Pharisêu và Xađốc quảng bá. Chính vì thế, Mátthêu đưa ra các khích bác về Lời của Chúa, cho người thời đại, cả đến hôm nay.

Truyền thống Giáo Hội liên kết các khích bác ấy với trình thuật Chúa làm dấu lạ qua nhân rộng 5 chiếc bánh và hai con cá, cho cả ngàn người no đầy. Đây là chi tiết rất ăn khớp với truyện kể ở Isaya 29, câu 8 khi tác giả sách ngôn sứ kể về người đói bụng chìm trong giấc mơ tuy ăn nhiều nhưng không mãn nguyện. Và, qua trình thuật phép lạ về bánh và cá, Mátthêu Tin Mừng muốn đề cập đến việc Chúa chữa lành cho cả người điếc lẫn người mù, khiến họ thoả mãn, thích thú.

Bản văn thứ 8 là chương 68-69, tóm lược từ đoạn Zakaria 9, được thánh Mát-thêu sử dụng cốt ý nói đến việc Chúa về với Giêrusalem. Chủ đề này, là để đền bù đáp ứng lòng thù hận; lấy xót thương, tử tế, sẻ san nỗi thống khổ mà đoàn dân quay trở về từ đất miền lưu lạc, nay cảm nghiệm. Đavít xưa tuy toàn thắng nhưng vẫn khiêm hạ. Ông quyết ngồi trên lưng lừa, chứ không dùng ngựa, bởi ngựa bị cấm không được trở về với Giêrusalem. Nhất nhất mọi điều nói lên lòng xót thương/khiêm hạ của Đấng chủ chăn cộng đoàn.

Bản văn thứ 9 là từ Ysaya 56 đặt nặng nhu cầu bảo vệ công lý/chính trực cho kẻ thấp cổ bé họng, những người bị bỏ rơi, cô quạnh. Ngài có nói: đền thờ là nơi nguyện cầu, dành cho hết mọi người. Đối nghịch tính đồi bại, nguy hại của thể chế rất thành văn, của tôn giáo. Điều này đuợc nhắc đến ở Gêrêmia 7, là sách nói đến sào huyệt của dân cướp cạn. Bởi, ở nơi đó, họ thực hiện những bất công, cùng tệ nạn sùng bái ngẫu thần và cả chuyện hy sinh giết trẻ nhỏ để tế lễ. Các sự kiện cuối đời hoạt động của Chúa, soi rọi quanh chủ đề cánh chung, ngày Chúa đến lại, trong vinh quang mai ngày.

Và, bản văn 10 từ Isaya 53: 4-6, cho chí Is 52: 13 và 53: 12, được thánh Mát-thêu sử dụng để tóm kết đoạn sách Gerêmia 13: 7. Mátthêu dùng chương này, cốt để nói lên cố gắng của Chúa Chiên Lành là Đức Giêsu trước âm mưu ám hại Ngài. Chúa vẫn âm thầm, câm nín như chiên con đi vào lò sát sinh. Chủ đề, thấy rõ ở sách ngôn sứ Gêrêmia, qua đó vị chủ chăn bị đánh, chiên con chạy tán loạn. Ở Tin Mừng, Mátthêu thánh nhân thêm vào đoạn nói ở sách Ysaya, qua đó cho biết Đức Giêsu sẽ trỗi dậy từ cõi chết. Và, Ngài về lại Galilê là để gặp gỡ hết mọi người, cả tông đồ cũng như dân con, hằng mong đời.

Nói cho cùng, hai sách Đệ Nhị Luật và Ysaya gộp lại thành tấn thảm kịch diễn lại sự giải thoát dân Israel, qua Cyrus và dân con người Ba Tư. Nhưng Mátthêu dùng sách, để trình bày về Đức Giêsu là Đavít Mới. Là, Đức Vua. Là, Thi nhân Đavít Mới quyết đem mọi điều tích cực đến với mọi người. Chứ Ngài không chỉ dành ân huệ cao quí ấy cho mỗi dân Do thái. Đavít không chỉ là vua quan/lãnh chúa, mà còn là “nhà thơ” từng chứng kiến mọi đổi thay nơi dân mình, qua các thánh vịnh do ông sáng tác. Ở đó, có sự nối kết giữa Đavít toàn thắng về binh bị với Đavít chuyên gia âm nhạc và thơ. Tất cả, đều là ý của vị ngôn sứ.

Đức Giêsu, đích thực là hậu duệ của “thi sĩ” Đavít. Ở nơi hoang vu, Ngài học hát những bài ca của Môsê. Là Môsê Mới, Ngài chữa lành hết mọi người bằng thi ca/âm nhạc, biến Giêrusalem là chốn Ngài lấy lại, thành Vương Quốc Nước Trời. Nước Trời, không theo nghĩa của trần gian mà là sự công chính. Vương quốc của Ngài biến thành bài ca/giọng hát, cho muôn người. Trên thập tự, “vương quốc” bình thường đã qua đi. Nhưng, nhờ sống lại, “Nước Trời” ấy trổi lên thành thi ca/âm nhạc vượt quá văn xuôi, rất tầm thường. Từ đó, thánh Mát-thêu đã lấy lại chất thơ rất Ysaya. Bởi, Đức Giêsu đã cấu trúc Giuđêa lại, qua cung cách rất thơ của ngôn sứ Ysaya.

Xem thế thì, Đức Giêsu là hậu duệ của nền thơ Đavít. Thứ thi ca đã kinh qua hoang vắng, và qua cả cốt cách Môsê, rất đổi mới. Ngài là Đấng chiếu sáng muôn dân bằng thơ. Chữa lành mọi người bằng nhạc, chứ không thuần mỗi chính trị, hoặc, binh bị cho mọi người, cả những người đang có, lẫn các kẻ còn thiếu thốn. Nơi Ngài, Nhà Thơ Tối Cao, Thiên Chúa đã đến để lấy lại Giêrusalem vì mục đích cao cả hơn chính trị.

Công lý, hoà bình và ơn cứu độ sẽ theo đó mà về với mọi người, chứ không chỉ với một dân tộc. Dù dân tộc ấy đã được chọn. Trên thập tự, vương quốc của Ngài đã qua đi. Nhưng qua sự sống lại, hồn thơ đã trỗi dậy. Hồn thơ ấy, là sự giải thoát. Là Đức Giêsu, Đấng chữa lành/giải thoát hết mọi dân tộc, mọi người. Ở đây đó.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn – 

Mai Tá lược dịch