CÂU CHUYỆN THÁNH KINH

CÂU CHUYỆN THÁNH KINH

 Bác sĩ Phùng Văn Hạnh

Ở Colombie có cô học sinh

Nhà trường cho quyển Thánh Kinh dặn rằng

Mỗi ngày nhớ đọc siêng năng

Và cô thích thú chuyên cần sớm trưa

Nhưng cha cô bất ngờ thấy được

Bảo con rằng : ‘’chớ đọc sách nầy

Dạy điều gian dối trái sai”

Khuyên con nghe lấy lời cha dặn dò’’

Tuần sau cũng bất ngờ ông thấy

Con gái đoc mê mãi Phúc âm

Muốn con từ bỏ quyết tâm

Ông tịch thu sách, nhẹ nhàng trách con

rồi nhét sách vào trong túi áo.

Ông lên xe đến sở mỏ than

Ngày ấy ông phải xuống hầm

Kiểm tra khai thác ở tầng dưới sâu

Một giờ sau bỗng đâu báo động

Hơi than nổ chôn sống công nhân

Cứu cấp gặp phải khó khăn

5 ngày sau mới đến tầng hầm sâu

Nhưng đã trễ, thương đau đến trước

31 người chết ngột thảm thay

Ông kỷ sư cầm trong tay

Quyển thánh kinh ông lấy ngày ra đi

Cuối sách ông có ghi hàng chữ:

“Con ơi hãy gìn giữ sách nầy

Những lời dạy dỗ trong đây

Sự thật vĩnh cửu tràn đầy yêu thương

Cha tìm lại Thiên đường đánh mất

Vì đam mê vật chất, kiêu căng

Trước mặt Thiên Chúa từ nhân

Cha đã sám hối ăn năn thật lòng.

Con nhớ đọc những dòng cha viết

Và không ngừng đọc tiếp Phúc âm

Lạ thay 30 công nhân

Cùng ký vào sách tâm thành tuyên xưng:

Thánh kinh là tin mừng mạc khải

Vì yêu thương nhân loại lạc loài

Thượng đế xuống thế làm người

Nối kết giao hảo giữa Trời, thế gian

Trong ta Chúa ẩn tàng cùng sống

Dìu đắt ta vào chốn vĩnh hằng

Bác sĩ Phùng Văn Hạnh

Bỏ qua oán hờn

Bỏ qua oán hờn

OAN HON
Một thương gia trong một thị trấn nhỏ nọ, có hai người con trai sinh đôi. Hai chàng trai cùng làm việc tại cửa hàng của cha mình. Khi ông qua đời, họ thay ông trông coi cửa hàng đó. Mọi việc đều êm đẹp cho đến một ngày kia, khi một tờ giấy bạc biến mất.

Người em đã để tờ giấy bạc đó trên máy đếm tiền rồi đi ra ngoài với khách hàng. Khi anh quay lại, tờ giấy bạc đã biến mất.

Người em hỏi người anh: – Anh có thấy tờ giấy bạc đâu không ?

Người anh đáp: – Không. Tuy thế người em vẫn không ngưng tìm kiếm và gạn hỏi: – Anh không thể không đụng đến nó. Tờ giấy bạc không thể tự đứng dậy và chạy đi được! Chắc chắn anh phải thấy nó !

Sự buộc tội phảng phất trong giọng nói của người em. Căng thẳng bắt đầu tăng lên giữa hai anh em họ. Sự oán giận cũng theo đấy mà len vào. Không lâu sau một hố ngăn cách gay gắt và sâu thẳm đã chia cách hai chàng trai trẻ. Họ không thèm nói với nhau một lời nào. Cuối cùng họ quyết định không làm chung với nhau và một bức tường ngăn cách đã được xây ngay giữa cửa hàng. Sự thù địch và oán giận cũng lớn lên tiếp theo 20 năm sau đó, lan đến cả gia đình của họ.

Một ngày nọ, một người đàn ông đỗ xe ngay trước cửa hàng. Ông ta bước vào và hỏi người bán hàng: – Anh đã ở đây bao lâu rồi . Người bán hàng đáp rằng anh đã ở đây cả cuộc đời. Vị khách nói tiếp: – Tôi phải nói với anh điều này. 20 năm trước tôi đã đi xe lửa và tạt vào thị trấn này. Lúc đó tôi đã không ăn gì suốt ba ngày. Khi tôi đến đây bằng cửa sau và thấy tờ giấy bạc trên máy tính tiền, tôi đã bỏ vào túi mình rồi ra ngoài. Những năm qua tôi không thể quên điều đó. Tôi biết nó không phải là món tiền lớn nhưng tôi phải quay lại đây và xin anh thứ lỗi .

Người đàn ông lạ mặt ngạc nhiên khi thấy những giọt nước mắt lăn trên má của người bán hàng trạc tuổi trung niên này.

Anh ta đề nghị: – Ông có vui lòng sang cửa bên và kể lại chuyện này cho người đàn ông trong cửa hàng đó được không ? Rồi người đàn ông lạ càng ngạc nhiên hơn khi thấy hai người đàn ông trung niên, trông giống nhau, ôm nhau khóc ngay trước cửa hàng. Sau 20 năm, rạn nứt giữa họ đã được hàn gắn. Bức tường thù hận chia cắt hai anh em họ đã được đập bỏ.

&   &   &

Trong cuộc sống có những điều nhỏ nhặt vẫn thường xảy ra và vô tình chia cắt con người với nhau, những lời nói vội vàng không suy nghĩ, những lời chỉ trích, buộc tội hay những lời trách cứ oán hờn. Và khi đã bị chia cắt, họ có thể không bao giờ quay lại với nhau được nữa. phương cách tốt nhất để tránh những tình huống gây tổn thương này là bỏ qua những lỗi lầm nhỏ của nhau. Điều này không dễ dàng nhưng cũng chẳng phải là quá khó khăn. Bỏ đi những bực dọc rồi bạn có thể sẽ ngạc nhiên khi thấy mình chẳng mất bao nhiêu năng lượng để xây dựng sự gắn bó với những người bạn yêu mến

Danh sách 300 đại học hàng đầu châu Á không có trường Việt Nam


Sinh viên ĐH Bách khoa Hà Nội nghe phát biểu của Chủ tịch Microsoft Bill Gates, 22/4/2006

Sinh viên ĐH Bách khoa Hà Nội nghe phát biểu của Chủ tịch Microsoft Bill Gates, 22/4/2006

Tạp chí uy tín về giáo dục trên thế giới Times Higher Education mới đây công bố bảng xếp hạng 300 trường đại học ở châu Á năm 2017. Không một trường đại học nào của Việt Nam lọt vào danh sách này.

Đảo quốc Singapore bé tí hon có tới 2 trường trong nhóm 10 đại học đứng đầu châu Á là Đại học NUS tiếp tục giữ vị trí số 1 và Đại học Công nghệ Nanyang đứng thứ tư. Trong khi vị trí thứ nhì thuộc về Đại học Bắc Kinh của Trung Quốc. Đất nước có dân số khổng lồ này còn có 3 trường khác nằm trong danh sách top 10.

Nhật Bản, cường quốc kinh tế thứ 3 thế giới, có trường Đại học Tokyo ở vị trí thứ 7, còn các trường Hàn Quốc nắm 3 vị trí cuối trong danh sách 10 trường đỉnh cao.

Tính chung trong danh sách 300 trường hàng đầu châu Á, tuy không giữ vị trí cao nhất nhưng Nhật có nhiều trường nhất với 69 trường, kế đến là Trung Quốc với 54 trường, Ần Độ 33 trường, và Hàn Quốc 26 trường.

Trong số các nước láng giềng ASEAN có nền kinh tế không chênh lệch quá lớn so với Việt Nam, Thái Lan có nhiều trường lọt vào danh sách này nhất với 10 trường. Malaysia có 9 trường, Indonesia có 2 và Philippines có 1.

Nếu như các trung tâm giáo dục, nghiên cứu của mình mà vẫn chưa đặt nghị sự lớn vào việc tạo ra tri thức và công bố cọ sát toàn cầu thì khả năng để lọt vào những bảng những trường trên cùng này là rất khó khăn. Thế mà bây giờ vẫn còn tranh cãi nhiều lắm. Một số nơi vẫn tìm kiếm những đặc thù để né tránh

Bảng xếp hạng của Times Higher Education căn cứ vào việc tính điểm trong 4 lĩnh vực. Thứ nhất là giảng dạy, chiếm 25% số điểm, trong đó riêng danh tiếng học thuật chiếm 10%.

Lĩnh vực nghiên cứu chiếm 30% số điểm. Tầm ảnh hưởng nghiên cứu cũng chiếm 30%, cách tính điểm là dựa trên số lần công trình nghiên cứu của trường được các học giả toàn cầu trích dẫn.

Lĩnh vực cuối cùng chiếm 15% số điểm bao gồm triển vọng quốc tế và chuyển giao kiến thức. Triển vọng quốc tế được đánh giá dựa vào tỷ lệ sinh viên trong và ngoài nước, tỷ lệ giảng viên trong và ngoài nước và hợp tác quốc tế. Chuyển giao kiến thức được xem là thu nhập của trường từ việc bán nghiên cứu cho các doanh nghiệp.

Theo các chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục, các trường đại học nước ngoài rất quan tâm đến việc được đánh giá, xếp hạng bởi các tổ chức quốc tế uy tín, vì điều này nói lên năng lực và uy tín học thuật, chất lượng đào tạo và khả năng cạnh tranh của họ. Những yếu tố này có tính quyết định đến việc thu hút sinh viên cũng như các khoản tài trợ cho các hoạt động nghiên cứu.

Trong khi đó, các trường Việt Nam lâu nay xem nhẹ, thậm chí né tránh điều này. Tiến sĩ Vương Quân Hoàng, người được đào tạo ở Bỉ và hiện giảng dạy tại Viện Quản trị Kinh doanh FPT, nói với VOA:

“Nếu như các trung tâm giáo dục, nghiên cứu của mình mà vẫn chưa đặt nghị sự lớn vào việc tạo ra tri thức và công bố cọ sát toàn cầu thì khả năng để lọt vào những bảng những trường trên cùng này là rất khó khăn. Thế mà bây giờ vẫn còn tranh cãi nhiều lắm. Một số nơi vẫn tìm kiếm những đặc thù để né tránh. Nó cũng nói lên cái nhược điểm hiện giờ của hệ thống công bố khoa học ở trong nước. Nó có liên quan đến chất lượng giáo dục”.

Rất nhiều trung tâm nghiên cứu của mình là không có danh tiếng và thương hiệu cần thiết để lọt vào những cuộc chơi đòi hỏi cái uy tín rất là gắt gao, thế thì đó là thiệt hại thực tế thấy rõ ngay. Nếu mà trong nền kinh tế mà Việt Nam cái gì cũng phải mang nguồn lực ở nước ngoài vào thì nói thẳng thắn là mình lệ thuộc nhiều quá

 

Tiến sĩ Hoàng lưu ý rằng khi các trường đại học không có chất lượng tốt, không có khả năng cạnh tranh ở tầm quốc tế, điều đó cũng có những hậu quả kinh tế. Ông nói:

“Nguyên nội cái chuyện các trường đại học họ tăng được năng lực và giữ được sinh viên giỏi ở trong nước thôi thì nó tăng khả năng tự chủ của các trường đại học và cái danh tiếng trong tương lai. Cái thứ hai là cũng tiết kiệm được rất nhiều chi phí bởi vì đào tạo ở Việt Nam dẫu sao chăng nữa cũng rẻ hơn rất nhiều so với các nước. Và cũng rất tự nhiên là nếu anh có danh tiếng và khả năng cọ sát toàn cầu thì khả năng hợp tác của anh với khu vực công thương và chính sách mới mạnh lên. Rất nhiều trung tâm nghiên cứu của mình là không có danh tiếng và thương hiệu cần thiết để lọt vào những cuộc chơi đòi hỏi cái uy tín rất là gắt gao, thế thì đó là thiệt hại thực tế thấy rõ ngay. Nếu mà trong nền kinh tế mà Việt Nam cái gì cũng phải mang nguồn lực ở nước ngoài vào thì nói thẳng thắn là mình lệ thuộc nhiều quá”.

Một chuyên gia kinh tế, Tiến sĩ Võ Trí Thành cũng bình luận với VOA rằng giáo dục đào tạo có “độ vênh” so với thực tế khi nhiều người tốt nghiệp đại học không tìm được việc làm. Ông nói chất lượng đào tạo người lao động là một trong những nguyên nhân khiến năng suất lao động của Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực.

Một báo cáo mới đây của 2 nhà nghiên cứu thuộc Đại học Kinh tế Quốc dân ở Hà Nội chỉ ra rằng mức tăng năng suất lao động của Việt Nam trong 5 năm trở lại đây đã thấp hơn Lào.

Tôi trở thành một Kitô Hữu

Tôi trở thành một Kitô Hữu

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tháng ba năm 1983, tôi được trả tự do, trở về đời sống bình thường, với gia đình vợ và các con. Nhưng những dấu ấn gần tám năm trong các trại cải tạo của Cộng Sản tôi không thể nào quên đuợc, như ngay bây giờ lúc viết bài bày, dấu ấn kỷ niệm khó quên đã in hằng sâu đậm trong tâm hồn tôi.

Tôi thích nhất năm năm dạy học tại trường Lương văn Can, ở đây tôi được nói những tư tưởng, những ý nghĩ mà tôi cho rằng đúng, có một nơi để trình bày, diễn tả nỗi lòng, tâm sự của tôi và có những em học trò nhỏ đã đến tuổi hiểu biết, suy nghĩ để tiếp thu, phán đoán những lời nói, những điều tôi trình bày.

Về những năm dài đi học, tôi chỉ giữ lại nhiều kỷ niệm nhất là thời gian tôi học tại trường trung học Cần Giuộc và hai năm tôi học tại trường Chính Trị Kinh Doanh thuộc Viện Ðại Học Ðà Lạt nhưng dạy ở Thương Xá Tax Sài gòn.

Về những kỷ niệm khó quên, in sâu đậm trong tâm hồn tôi là thời gian bảy năm chín tháng mười lăm ngày tôi bị giam giữ ở trong các trại gọi là trại cải tạo của Cộng Sản từ các trại Long Thành, Thủ Ðức, Lào Cai, Vĩnh Phú và Hà Nam Ninh.

Những chuổi dài sự kiện thúc đẩy, ảnh hưởng đến tâm hồn tôi, đưa đẩy diễn biến tư tưởng lâu ngày của tôi để tôi được trở thành  Kitô hữu.

Niên khoá 1961-1962, tôi học lớp 12 của trường Trung học Chu văn An, thầy dạy Anh văn của tôi là vị Linh Mục. Bộ áo màu đen của Ngài đã gây cho tôi sự chú ý và tôi đã có ý nghĩ tốt về Ngài do màu áo đen mà Ngài đang mặc. Tôi tự nhiên có cảm tình với Ngài vì tôi biết rằng các Linh Mục không có vợ.

Nhưng vì lo dùi mài  kinh sử, lo học trối chết các môn học Toán, Lý Hóa và Triết học để làm sao phải thi cho đậu Tú Tài hai, vì nếu rớt thì phải đi lính ngay. Tôi chỉ cần học ba môn Toán, Lý Hóa và Triết là có thể qua được phần thi viết, còn phần thi vấn đáp thì sẽ tính sau. Nên môn Anh văn lúc đó được coi là môn phụ, chúng tôi ít chú ý tới môn này và màu áo đen của Thầy Linh Mục dần dần phai mờ trong tâm trí tôi.

Khoảng năm 1970, tôi có ý định làm Luật sư, tôi tìm một Luật sư để xin tập sự, nhưng tôi đã không tìm được vì ba tôi chỉ là người lao động bình thường chạy xe Lam ba bánh ngày hai buổi, không quen biết nhiều, tôi thì mới tốt nghiệp trường luật vài năm, còn trẻ cũng không quen biết ai, tôi có người bạn thân là Nguyễn văn Bái, người Công Giáo hứa giúp tôi, bạn tôi đến gặp Linh Mục Chánh Xứ Bắc Hà ở đường Lý Thái Tổ. Bạn tôi dẫn vào gặp Cha, nhờ Cha giúp đỡ, tìm giùm một Luật sư  để nhận tôi làm một Luật sư tập sự. Thế là tôi được Luật sư Lê Quang Trọng nhận tôi tập sự. Tôi tự hỏi tại sao chỉ một lời nói của Cha Chánh Xứ Bắc Hà mà Luật sư Trọng lại đồng ý giúp. Phải có sự gì đó, một cái gì đó tôi không hiểu nổi một lời nói của Cha Xứ  lại có giá trị đến như vậy.

Sau này tôi học ở trường Chính Trị Kinh Doanh, tôi được Linh Mục Kim Ðịnh đến thuyết trình những đề tài thuộc về dân tộc học, về Kinh Dịch. Ngài mặc áo toàn màu trắng, tôi rất có cảm tình với Ngài, rất quí mến Ngài vì sự hiểu biết rộng rãi của Ngài. Ðặc biệt tôi quí mến Ngài vì Ngài sống độc thân, không có vợ.

* * *

Cuối năm 1976, Cộng Sản còng tay chúng tôi hai người cùng chung một cái còng, họ đưa chúng tôi xuống hầm tàu chở than đá bẩn thỉu, hôi hám để đưa chúng tôi ra Bắc để trả thù chúng tôi vì tội theo “ Mỹ Ngụy” dám chống lại Cộng Sản.

Trên chuyến tàu định mệnh này, bạn tôi Lê Như Ninh (1), Luật Sư, người Công giáo chỉ cho tôi biết Ðức Cha Nguyễn văn Thuận (2), người cao ráo khoảng 1m70, nước da trắng đang đứng nói chuyện cùng anh em ở một góc trong khoang tàu lúc nhúc các tù nhân chen chúc trong khoang dùng để chở súc vật hay chở than đá vì dưới chân chúng tôi than đá còn rải rác khắp nơi. Lê Như Ninh có nói Ðức Cha Thuận biết nhiều thứ tiếng và có thể nói được cả tiếng La tinh nữa, khi đi họp ở La Mã, Ngài đã phát biểu bằng tiếng la tinh trong các phiên họp này.

Tại trại tù K3 Vĩnh Phú, tôi ở chung với ba vị Linh Mục Cha Nguyễn văn Khoa tự Khải, Cha Thấy và một cha trẻ nữa ( tôi quên mất tên) bị bắt ở Mỹ Tho chuyển ra Bắc cùng một lượt với tôi.

Cha Khoa, cha Thấy và Cha còn rất trẻ ở chung phòng với chúng tôi một thời gian ngắn rồi chuyển qua K5 Vĩnh Phú. Sau này tôi được tin Cha Khoa, trước là Hiệu Trưởng trường Ðồng Tiến?, đã chết trong sà lim, trại giam riêng, nhà tù của trại giam, nếu bị giam ở trong sà lim thì bị bớt phần ăn hàng ngày. Ở trong trại giam hàng ngày đã đói, khi bị giam ở trong trại giam riêng còn đói hơn nữa, hạn chế bớt nước uống và không được tắm rửa, chân bị cùm. Sau khi ở trong sà lim này được thả ra nhiều người đi không nổi phải cỏng xuống bịnh xá để điều trị bịnh, nhiều người bị cùm lâu ngày, ống chân bị lỡ loét  có khi những chỗ lỡ loét đó vòi bọ làm ổ trong đó. Ðược tin Cha Khoa tự Khải đã mất ở trong tù vì Ngài lớn tuổi không chịu nổi sự đói khát, bị hành hạ về tinh thần lẫn thể xác của cán bộ Cộng Sản. Còn Cha Thấy tôi nghe các bạn bên K5 Vĩnh Phú nói Cha bị bịnh mà mất. Nguyên nhân bị bịnh là vì chúng tôi bị suy dinh dưỡng vì thiếu ăn, thiếu vitamin, thiếu đủ thứ chất để nuôi sống cơ thể. Chúng tôi ở trong trại một thời gian có người mất 10 kí lô, 20 kí lô hay hơn nữa cũng là sự thường. Có lần tôi hỏi Cha Thấy vì sao Cha bị bắt? Cha nói có lẽ trên xe của tôi lúc đó có một triệu đồng, tiền của năm 1975, tương đương với 25 cây vàng vào thời điểm đó nên Cộng Sản bắt tôi để lấy số tiền đó.

Trong thời gian bị giam giữ, các vị Linh Mục đã sinh hoạt, lao động như các tù nhân khác, sống cuộc sống tù nhân như anh em cải tạo, ăn uống thiếu thốn, ngủ chật chội, nằm ngủ không thể cong chân đuợc, vì nếu cong chân mình thì đụng vào lưng người bên cạnh. Các vị Linh Mục cũng cuốc đất, gánh nước trồng khoai, trồng bắp, trồng rau cũng đói khát như các anh em tù nhân, cũng làm việc nặng nhọc như các anh em tù nhân khác. Nhưng các vị được sự chú ý đặc biệt của Cộng Sản vì họ biết các vị Linh Mục này luôn luôn có uy tín với tín đồ của mình. Họ cũng biết rằng các vị Linh Mục này không vợ con, thường không hoạt động chính trị, nhưng bị bắt chỉ vì có một tội duy nhất là tội làm Linh Mục.

Tôi còn nhớ tôi đã đọc trong một bài báo của Hồ Hữu Tường (3) có phân tích trên thế giới có ba nền văn minh: văn minh chính ủy, văn minh tu sĩ và văn minh kỹ sư. Văn minh kỹ sư là nền văn minh khoa học, kỷ thuật. Ðại biểu cho nền văn minh này là sự tiến bộ về khoa học, kỷ thuật  của quốc gia Hoa Kỳ, do Mỹ dẫn đầu lảnh đạo.

Văn minh chính ủy, tức là cách cai trị, là cách thức tổ chức chính quyền đó là sức mạnh của Ðảng Cộng Sản do Nga Sô chỉ huy để chống lại phe tư bản. Trước năm 1975, phe Cộng Sản lấn lướt phe tư bản, thống trị các nước Ethiopie, Angola, Afganistan, Việt Nam.

Còn văn minh tu sĩ, theo Hồ Hữu Tường là văn minh Thiên Chúa Giáo dưới sự lảnh đạo của Ðức Giáo Hoàng. Ngài không có phi cơ chiến đấu, oanh tạc, không có súng đạn, không có hoả tiển, vệ tinh, không có bom nguyên tử, nhưng tiếng nói của Ngài trên một tỉ người nghe theo.

Từ năm 1989 trở đi, Cộng Sản Ðông Âu tan rã dần, đảng Cộng Sản Liên Sô phải tự giải tán vào năm 1991, điều đó chứng tỏ rằng văn minh chính ủy, theo cách nói của Hồ Hữu Tường, đã thất bại và hiện nay đảng Cộng Sản lần lượt tự giải tán chỉ còn vài nước như Trung Hoa, Bắc Hàn, Cu ba, Việt Nam cố gắng duy trì đảng Cộng Sản trên hình thức, thực chất chủ nghĩa Cộng Sản đã lỗi thời, đang dần dần bị đào thải theo thời gian.

Hiện nay khoa học kỷ thuật càng ngày càng tiến bộ, vệ tinh, điện tử, máy vi tính v.v. . phát minh rất nhiều điều mới lạ nhưng con người vẫn cần có đời sống tâm linh, cần có đời sống tôn giáo vì chỉ có tôn giáo mới giải quyết được những vấn nạn của con người về sự sống, sự chết, bịnh hoạn, tai nạn… sự sống đời sau sau khi chết…

Chính sự tan rã của Liên Bang Sô Viết hơn bảy mươi năm ngự trị ở Liên Sô là một điều kỳ diệu, lạ lùng nếu chúng ta tin có Thượng Ðế giúp sức đến lúc cần thiết tạo nên hoàn cảnh, con người để cho đảng Cộng Sản tan rã.

Năm 1917 khi đảng Cộng Sản Liên Sô nắm được quyền hành lảnh đạo ở Liên Sô, họ chủ trương vô thần, độc tài, độc đảng, độc quyền tư tưởng, tiêu hủy tất cả quyền tự do của con người, trong đó có quyền tự do tôn giáo. Họ tìm đủ mọi cách để triệt hạ các hình thức tôn giáo ở Liên Bang sô viết để đưa chủ thuyết Cộng sản lên làm một thứ tôn giáo mới, tuyên truyền bắt buộc người dân phải  theo “tôn giáo Cộng Sản”.

Cũng trong năm 1917, Ðức Mẹ hiện ra ở Fatima nói với ba trẻ mục đồng rằng “ nước Nga sẽ trở lại”. Và năm 1991 lời nói ấy của Ðức Mẹ hồi năm 1917 đã ứng nghiệm về sự tan rã của chủ nghĩa Cộng Sản tại Liên Sô.

Từ năm 1970 đến năm 1975, tôi làm thơ ký Hội Phụ Huynh học sinh trường trung học Lương văn Can, lúc đó ông Ðỗ Ðăng Lợi làm Hội Trưởng, khi tôi đi cải tạo về, tôi ghé thăm ông Lợi thì ông đã theo đạo Tin lành. Có một điều lạ là ông Lợi trước đây theo Phật giáo, có chức sắc ở các hội đình làng, về thủ tục cúng kiến rất rành. Sự kiện này gây cho tôi một sự chú ý đặc biệt. Sau năm 1983 mỗi lần tôi ghé thăm ông Lợi thì  ông Lợi thường đem Kinh Thánh ra bàn, thảo luận, thường nói về Chúa Kitô với tôi. Ông Lợi cho tôi mượn cuốn Thánh Kinh về nhà để đọc.

Sau này một người bạn khác dạy cùng trường trung học Lương văn Can là anh Tạ văn Hười giáo sư Việt Văn, một giáo sư biết nhiều về Hán văn, Pháp văn và Anh văn. Sau khi đi cải tạo về, gia đình anh cũng theo đạo Tin Lành.

Tôi băn khoăn nhiều vì mẹ tôi theo đạo Cao Ðài, tôi có người bạn thân theo Phật Giáo đêm nào anh cũng gõ mõ, tụng kinh. Tôi biết một số kinh của Ðạo Cao Ðài. Tôi có đọc cuốn sách Tận Thế và Hội Long Hoa của Vương Kim. Tôi cũng có đọc kinh Kim Cang, Kinh Pháp Hoa do anh Ngô Thanh Nhàn, cựu Giáo sư trường Trương Vĩnh Ký trước năm 1975, người anh bà con theo đạo Phật cho mượn. Tôi cũng đọc cuốn Thánh Kinh do ông Lợi đưa. Tôi nhớ rất kỹ những câu như “ Hãy yêu thương ngay cả kẻ thù của mình nữa.” Làm sao mà yêu được kẻ thù của mình. Hồi còn bị giam giữ tại trại cải tạo Vĩnh Phú, tôi có sống với tên Phạm Ðình Thanh, cán bộ xây dựng nông thôn ở Bình Dương, làm Ðội trưởng đội hai, đội trồng khoai lang, khoai mì, trồng bắp. Sau đương sự lên làm thi đua ở K3 Vĩnh Phú, không cho tôi khai bịnh vào cuối năm 1978 đầu năm 1979, mặc dầu lúc đó tôi bị cảm liên miên, sức cùng lực kiệt, tôi phải đi lao động dưới trời mưa tầm tả, suốt ngày đêm hơn hai tháng trời cộng thêm với giá rét của miền Bắc mùa đông, mà mỗi ngày chỉ ăn được nắp bình thủy cơm trộn với khoai mì, khoai lang hay bắp hột, bo bo không xay cùng với canh rau muống luộc với muối có khi trong một tô canh lềnh bềnh vài cọng rau muống mà thôi. Bắp thì cứng, loại để nuôi súc vật ở miền Bắc. Không phải là loại bắp mềm, ngon ngọt như loại bắp trong Nam, bà con đem ra chợ bán mỗi buổi sáng. Tên Thanh đã hành hạ anh em, làm khó dễ bạn tù. Ðể lấy lòng cán bộ trại giam, hy vọng được tha về sớm, đã báo cáo từng chuyện đổi thuốc rê hay thuốc lào để lấy muối ăn, chuyện lấy rau, khoai sắn đem vào trại, báo cáo những lời than vãn, chán nản và tư tưởng chống đối của anh em bạn tù. Ngay cả anh em trong trại lấy miếng sắt nhỏ mài thành con dao chiều dài chừng 5,6 phân để gọt khoai, xắt rau cũng bị báo cáo, tịch thu.

Ðến nay tôi vẫn còn nhớ rất rõ như in vào ký ức tôi khuôn mặt lạnh như tiền, luôn luôn nhăn nhó, lúc nào cũng hiển hiện sự hằn học, nhớ khuôn mặt lúc nào cũng tái mét, anh em gọi là khuôn mặt “ gà mái ” của Phạm đình Thanh. Khuôn mặt bành bạnh ra, đôi mắt thì láo liên như tìm kiếm, như chờ đợi sự sơ hở nào đó của anh em để hắn hành hạ cho thoả mản bản năng “sung sướng trong sự đau khổ của người khác ”.

Nhưng tôi suy nghĩ nếu tôi thù ghét tên Thanh thì tim tôi đập mạnh, tôi tự làm khổ tôi, tôi bực dọc với chính mình chứ tên Thanh đâu có biết gì. Sự thù ghét này chỉ có hại cho tôi mà thôi, chứ tên Thanh chẳng có hề hấn gì. Trong khi tôi thù ghét hắn, tôi tức giận hắn, thì biết đâu tên Thanh đang ăn nhậu với bạn bè hay đang đi nghĩ mát ở bãi biển Vũng Tàu, đang ăn uống vui vẻ với vợ con đương sự. Chúa nói “ Hãy yêu thương ngay cả kẻ thù của mình nữa” thật là điều vô cùng khó khăn đối với tôi vì làm sao tôi có thể yêu thương người đã hành hạ tôi nhiều năm trong trại cải tạo, tôi oán ghét đương sự còn nhiều hơn là oán ghét cán bộ giam giữ tôi nữa. Tuy nhiên tôi suy nghĩ lại nếu mình thù ghét tên Thanh chỉ hại cho mình mà thôi, tôi đã chuyển ý nghĩ, tư tưởng sang tình yêu thương, mình tôi nghiệp người đó vì họ muốn về sớm quá nên họ có hành động không phải, không tốt đối với anh em trong trại tù. Chúa ơi con cố gắng không thù hận và cầu nguyện cho người đã hành hạ con để họ thay đổi tấm lòng của họ nhưng khó khăn lắm Chúa ơi.

Con vẫn nhớ trong Thánh Kinh có những câu: “Nếu người ta tát con má bên phải, con hãy đưa má bên trái cho người ta tát. Ngươi chỉ thấy cọng rơm trong mắt người ta mà không thấy đà ngang trong mắt mình.” Những câu này bản thân tôi còn phải học tập, thực hành, tự sửa chữa mình hằng ngày không biết có làm được, làm nỗi hay không.?

Cộng sản có mấy chục triệu đảng viên, có chính quyền có súng đạn, có xe tăng, có máy bay, có vệ tinh, hỏa tiển, bom nguyên tử, có nhà tù để giam giữ những thành phần chống đối, có lực lượng an ninh hùng hậu, có KGB, cơ quan tình báo anh ninh chặt chẻ mà sao chỉ tồn tại có 73 năm. Còn tôn giáo như Thiên Chúa Giáo gần hai ngàn năm sao không tan rã. Ngay cả những lúc bị cấm đạo gắt gao là những lúc đạo phát triển, tăng thêm tín đồ. Nếu đạo Thiên Chúa làm sai, không thích hợp với tâm tình của con người thì đã tan rã từ lâu chứ sao lại tồn tại đến ngày hôm nay đã có nhiều người theo và đã chết vì đạo Thiên Chúa. Lịch sử các Thánh Tử Ðạo Việt Nam đã chứng minh điều đó.

Những chiếc xe lưu thông trên đường phố cần có bảng chỉ đường, cần có đèn xanh đèn đỏ để tránh tai nạn. Những lời Chúa dạy trong Thánh Kinh là bảng chỉ đường như luật lệ giao thông rất cần thiết để tránh được nhiều va chạm trong đời sống hàng ngày. Nếu chúng ta sống đúng như lời dạy trong Thánh Kinh thì cuộc sống chúng ta rất hạnh phúc, mọi người đều được bình an, vui vẻ thì Thiên Ðàng đã có ở trên trái đất của chúng ta rồi vậy.

Gương các Thánh Tử đạo Việt Nam, gương nhiều bà Sơ phục vụ trong các nhà thương, trong các trại cùi hay sống kham khổ thiếu thốn trên các vùng rừng núi hiểm trở với đồng bào thiểu số xa rời đời sống văn minh hiện tại, xa rời cuộc sống tiện nghi vật chất bình thường.

Tại sao Mẹ Theresa thành Calcutta, 86 tuổi vẫn còn chịu khó lặn lội các nơi để phục vụ người nghèo khổ, bịnh hoạn, những người tàn tật không nơi nương tựa, những người cùng khổ, hôi hám, dơ dáy mà Mẹ vẫn không nản lòng. Ðiều gì để Mẹ có thể làm việc đó nếu không phải Mẹ đã nghe tiếng gọi của tình thương, tiếng gọi của Thiên Chúa. Con người là chi thể của Chúa. Thương người hôi hám, què quặt, bịnh hoạn đó chính là yêu Chúa vì con người là chi thể của Chúa cơ mà. Mẹ cũng đã từng nói: “Không phải tôi làm mà chính Chúa đã làm trong tôi” Hay chính Mẹ cũng từng nói tôi chỉ là cây viết chì của Chúa. Trong một bài báo đăng trong số 206 của Nguyệt san Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp có chép về công việc phục vụ của các sơ dòng tu của Mẹ Têrêsa có một đoạn như sau: “ Sau đó chúng tôi đã nhặt được một người đàn ông ở một cống rãnh, một nửa thân mình đã bị sâu bọ rút rỉa, và sau khi chúng tôi đã mang ông ta vào nhà, ông chỉ nói rằng: “ tôi đã sống như một con thú trên đường phố, nhưng tôi sắp chết như một thiên thần, được yêu thương và săn sóc’’. Ðoạn, sau khi chúng tôi đã lấy hết mọi thứ sâu bọ khỏi mình mẩy của ông, tất cả những gì ông nói với chúng tôi kèm theo nụ cười tươi là “Sơ ơi, tôi sắp về cùng Thiên Chúa” rồi ông tắt thở. Bài báo ấy viết tiếp: “Thật là tuyệt vời khi chứng kiến thấy sự cao cả của con người đàn ông đã có thể nói như thế mà không trách cứ một ai, không so sánh bất cứ sự gì.”

*  *  *

Hồi hai mươi ba tuổi, sau khi tốt nghiệp trường sư phạm Sài Gòn, tôi được đổi về dạy học ở quận Ðất Ðỏ, tỉnh Bà Rịa. Khi tôi đến thăm một phụ huynh học sinh, ngồi nói chuyện bình thường với chủ nhà, bà này là người Công giáo bà ấy nói: “ Nếu gia đình nào có một người con đi tu, làm Linh Mục thì gia đình đó có phước lớn lắm”. Hồi đó còn trẻ, tôi không có đạo, tôi nghe, nhưng mà tôi không để ý lắm. Bây giờ, ba mươi năm sau, tôi đã chứng kiến, đã thấy, đã hiểu và đã cảm nghiệm cuộc đời của chính mình, gia đình mình và gia đình bạn thân, gia đình những người quen biết thì tôi phần nào cảm nghiệm câu trên là rất đúng, vì nếu gia đình nào có người anh, người em hay bà con xa gần làm Linh Mục, hy sinh cuộc sống cá nhân, không vợ con không nhà cửa, không tài sản thì những người thân trong gia đình nếu có ý nghĩ hành động nào sai quấy, trái với lương tâm cũng e dè, ngại ngùng không dám làm bậy vì không có lý do gì cuộc sống mình về vật chất vẫn đang sung sướng hơn người bà con đang làm Linh Mục sống không tài sản, không vợ con, mà còn muốn kiếm thêm nhiều hơn nữa bằng hành động bất chánh thì làm sao dám nhìn người thân đang làm Linh Mục hay Bà Sơ đang tu, đang làm công tác ở nhà thương, ở các trại cùi, đang giúp đỡ những người cùng khổ, nghèo nàn bịnh hoạn, tàn tật ở bất cứ nơi nào dù hẻo lánh xa xôi ở trên miền núi non hiểm trở. Bà con anh em mình đang tu hành làm những điều tốt, điều phúc đức, chịu cực khổ lo săn sóc cho người nghèo, người tàn tật, hướng về đời sống tâm linh, tu đức thì làm sao không ảnh hưởng đến mình về đời sống hướng đến điều thiện nhiều hơn, đến đời sống tâm linh, tu đức nhiều hơn. Chưa kể nhờ trong gia đình có người tu hành, Ngài sẽ cầu nguyện, Chúa ban cho nhiều ơn phước mà những gia đình khác có thể không có được.

Trong suốt cuộc sống của con người ai chẳng có lúc làm ăn thất  bại, chịu nhiều thử thách gian nan, chịu nhiều đau khổ về tinh thần lẫn vật chất, bị tù đày bị lường gạt, bị bịnh hoạn, bị tai nạn v.v.. Khi gặp những trường hợp cực kỳ khó khăn, cảm thấy dường như không thể nào vượt qua nổi, Chúa đã hứa nếu có ba người họp lại nhân danh Chúa Kitô để cầu xin thì Chúa sẽ ở giữa họ. Nếu ngược lại không có đức tin gì về tôn giáo nào cả, mình sẽ tự dày vò mình, sẽ than thở, tự dằn vặt lấy mình và nhiều khi vượt quá khả năng giải quyết của mình, không tìm thấy lối thoát hay cách giải quyết, nhiều khi đưa tới tâm lý khủng hoảng dữ dội, bốc đồng, không kịp suy nghĩ có thể đưa đến trường hợp tự quyên sinh.

Tôi có danh sánh đi Mỹ theo diện HO vì đi cải tạo gần tám năm. Trên nguyên tắc trước khi đi Mỹ tôi phải ký giấy giao nhà cho nhà nước Cộng Sản vì tôi có chức vụ là Phó Bí Thư đảng Tân Ðại Việt cấp quận. Nhà này trị giá trên 50 cây vàng. Hồi nhỏ lúc còn đi học lớp 12, ba tôi đã để tôi đứng tên một nền nhà. Sau này, ba tôi xin phép cất nhà và chính ba tôi đã tự bỏ tiền ra xây cất do công lao mồ hôi, nước mắt, công sức của ba tôi chạy xe lam, dành dụm từng đồng, từng cắc mới có tiền để xây căn nhà trên. Nhưng Cộng Sản muốn lấy căn nhà của ba tôi nên họ cho rằng tôi đi ngoại quốc thì phải giao nhà cho họ vì họ xếp tôi thuộc diện phải hiến nhà, giao nhà cho họ.

Tôi áy náy không yên, vì nhà này có phải là nhà của tôi đâu mà tôi có quyền ký giao nhà này cho nhà nước.Thật ra nếu là nhà của tôi, do công sức của tôi làm ra, thì tôi cũng sẵn sàng ký giao cho Cộng Sản, để sớm được đi ra nước ngoài, thoát khỏi chế độ độc tài bất nhân, mình ký giao cho họ coi như cúng cô hồn. Nhưng ngặt một nổi nhà này được xây dựng do công sức của cha mẹ tôi, tôi chỉ đứng tên dùm chứ không có công sức gì. Tôi không phải là chủ căn nhà này vì trên nguyên tắc tôi chỉ đứng tên trên cái nền nhà mà thôi.

Tôi đã hoàn toàn bất lực để giải quyết vấn đề căn nhà, nếu tôi được đi Mỹ thì tôi phải giao nhà cho nhà nước quản lý. Từ khi tôi bước trở về ngôi nhà cũ đầu năm 1983, vài tháng sau tôi đã làm hồ sơ chui xin đi Mỹ, tôi gởi hồ sơ qua Thái Lan, trong thời gian này lúc nào tôi cũng bồn chồn, bực tức, tôi lo âu để giải quyết căn nhà làm sao cho hợp tình, hợp lý không làm cho ba má tôi buồn. Tôi đi hỏi thăm bà con, bạn bè, nhờ họ giúp sang tên căn nhà. Tất cả mọi người quen biết đều trả lời không thể được, muốn đi Mỹ chỉ còn có cách giao nhà cho nhà nước mà thôi, vì đây là chủ trương của Cộng Sản muốn lấy nhà của những người muốn đi ra nước ngoài.

Tôi đã nhờ Nguyễn Gia Phách, bạn dạy học cùng trường trung Học Lương văn Can, dẫn tôi đến nhà thờ Fatima ở Thủ Ðức để cầu nguyện, mặc dầu lúc đó tôi chưa có đạo, tôi chưa phải là Kitô hữu, tôi chưa tin vào Chúa Kitô. Tôi cứ đi cầu nguyện vì tôi không còn cách nào khác, tôi bị khủng hoảng thật sự về vấn đề giải quyết căn nhà của ba tôi mà tôi đã đứng tên hồi còn nhỏ, làm thế nào để có thể sang tên căn nhà này cho ba má tôi hay cho em tôi thì khi ra đi tôi mới bình an được.

Tôi bất lực và buồn khổ hết sức. Nếu đi Mỹ mà giao nhà cho nhà nước ba má tôi sẽ buồn ghê gớm lắm. Tôi đứng ngồi không yên, lo lắng quá, đau khổ rất nhiều. Tôi ở trong tình trạng hoàn toàn bế tắc, không có lối thoát.

Cuối cùng, tôi chỉ còn biết có cầu nguyện mà thôi. Khi đi lên Fatima tôi chỉ cầu xin có ba điều:

  • Xin được rời khỏi nước Việt Nam sớm vì tôi có trong danh sách HO 23 nên chắc sẽ ra đi rất trễ.
  • Xin được giao nhà cho em ruột tôi để cho cha mẹ tôi vui. Khi tôi ra đi, rời khỏi nước mới được thoải mái, không còn vướng bận, lo âu về chuyện nhà cầm quyền Cộng Sản quản lý căn nhà của mình.
  • Xin cho con cái tôi được đi hết vì có đứa muốn ở lại, muốn lập gia đình ở Việt Nam, không tha thiết chuyện ra đi.

Ba vấn đề trên là ba vấn đề then chốt, lo âu nhất của tôi, vô cùng quan trọng trong đời của tôi, nhưng ba vấn đề này hoàn toàn nằm ngoài khả năng giải quyết của tôi. Tôi rất lo âu, ăn không ngon, ngủ không yên và thường xuyên bị cảm vì quá lo lắng.

Tôi nghĩ với tấm lòng thành của tôi, Ðức Mẹ đã ban ơn riêng đặc biệt cho gia đình tôi, ba điều cầu xin của tôi, Ðức Mẹ đã nhậm lời hết.

Gia đình tôi được ra đi trong danh sách HO19, sớm hơn thường lệ gần một năm, vì gia đình tôi được đôn lên danh sách RD4. Các con tôi đều qua Mỹ đầy đủ cả, không có đứa nào còn sót lại ở Việt Nam, nhất là vào giờ chót, trước 24 giờ, Sở nhà đất Thành phố mới chấp thuận cho tôi sang nhượng nhà cho em ruột tôi vào chiều thứ bảy mà chiều Chúa Nhật thì tôi có chuyến bay rời khỏi nước.Trước đó ngày thứ năm tôi đã nhận đươc giấy đình chỉ chuyến bay với lý do chưa khai trình nhà đất. Hoang mang và lo âu tột độ. Thất vọng nặng nề. Lo lắng quá làm cho tôi bị cảm liên miên trong tháng cuối cùng. Mọi công việc làm ăn đã thanh toán hết, đã bán hết chỉ còn chờ ngày ra đi mà thôi. Ðình chỉ chuyến bay, ở lại vài tháng có thể gặp nhiều biến cố bất ngờ một đứa con nào đó có thể thay đổi ý kiến đòi ở lại. Mấy tháng trời chờ đợi giấy phép ra đi của nhà cầm quyền Cộng Sản, chờ chuyến bay sắp tới, không làm gì ra tiền cả, ăn không ngồi rồi mà còn phải tiêu xài tốn kém nữa không biết việc gì sẽ xảy ra.

Tôi đã chầu chực ở Sở Nhà đất từng ngày một nhất là tuần lễ cuối cùng, để tìm cách làm quen để xin giấp phép của Sở Nhà đất. Trước 24 giờ, Sở nhà đất mới đồng ý cho tôi sang tên nhà cho em tôi và giải tỏa lệnh đình chỉ chuyến bay.

            Nhờ cầu nguyện mà tôi bớt được nhiều âu lo.

Tôi có một người bạn là anh Hà Hớn Liếu , hiện nay ở Virginia gần Washington DC, trước năm 1992, nhà ở đường Âu Dương Lân, anh có người vợ rất hiền hậu, thật tử tế với bạn bè. Anh chị có bốn đứa con, nhỏ nhất khoảng 5, 6 tuổi lớn nhất khoảng 17 tuổi. Anh Liếu đi cải tạo về khoảng năm 1980. Hai vợ chồng làm sirô để bán. Tôi bán bia và nước ngọt có bán thêm sirô nên đến gia đình anh để mua về bán. Trước năm 1992 trông chị mập mạp khỏe mạnh. Tôi thường đến mua sirô của anh chị, hơn nữa lúc đó tôi nghiện thuốc lào, cứ hàng ngày tạt ngang qua nhà anh Liếu để hút một vài điếu, nói với nhau vài ba câu chuyện, tin tức kẻ ở người đi, hay những tin sốt dẽo truyền miệng của anh em HO đang mong ngóng về những điều tốt, những chuyện vui khi đi ra nước ngoài.

Gia đình anh thờ Phật. Ngoài bàn thờ Phật còn có bàn thờ Quan Công nữa. Anh cũng rất rành về nghi thức cúng kiến vì anh gốc người Hoa. Một hôm tôi đến nhà anh để hút thuốc lào, như thường lệ mỗi ngày, bất ngờ tôi không còn thấy bàn thờ Phật nữa. Tôi hỏi anh bàn thờ Phật đâu rồi.? Anh nói vợ anh lúc bịnh ung thư khi biết mình sắp mất đã xin theo đạo Công giáo và yêu cầu chồng con theo đạo luôn.

Tôi hết sức ngạc nhiên về sự thay đổi quá đặc biệt của bạn tôi và từ khi chị Liếu mất, anh Liếu và các con anh đã đi lễ nhà thờ đều đặn vào các ngày Chúa Nhật và cũng thường xuyên cầu nguyện cho chị Liếu theo nghi thức công giáo.

Tôi cũng nhiều lần đến nhà anh rũ anh qua nhà thờ Chợ Quán để tham dự các Thánh Lễ, gặp các ngày lễ lớn như lễ Giáng Sinh tôi cũng cùng anh đi dự lễ ở các nhà thờ khác trước ngày anh và các con đi Mỹ. Tôi cảm thương hoàn cảnh gà trống nuôi con của anh, một mình phải lo cho đàn con nhỏ dại không biết rồi anh có lo nổi không? Tháng 9 năm 1999, tôi có lên nhà anh để dự lễ đám cưới của con trai trưởng của anh cưới vợ. Ðứa con gái nhỏ nhất nay đã học hết lớp 12. Tôi mừng cho anh vì thấy các cháu đã lớn cả rồi.

Tháng 9 năm 2004 tôi lại đến nhà anh để làm chủ hôn cho đứa con trai kế vì anh đã mất tháng  giêng năm 2004. Cháu này trong đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể nên các anh chị trong nhà thờ đã lo giúp cho cháu. Đám cưới đầy đủ tất cả nghi thức ở nhà trong gia đình hai bên đàng trai,  đàng gái và các nghi thức ở nhà thờ Công giáo. Anh chị em trong nhà thờ đã tham dự rất đông.

Tôi tin một điều từ ngày anh có Chúa và Ðức Mẹ thì tâm hồn anh bình an hơn. Tôi cũng vậy, cũng cảm thấy bình an, vui vẻ hơn nhiều so với trước khi tôi chưa có đạo, chưa có niềm tin vào Ðấng siêu nhiên nào cả.

Tôi cũng suy nghĩ nếu mình đi tham dự đều đặn các Thánh lễ ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc khác, để tự xét mình, tự sám hối mỗi tuần xem mình có làm điều gì sai trái, có làm phật lòng Thiên Chúa hay không? Mình có thực hiện bốn chữ “Kính Chúa yêu người chưa?”

Tự vấn lương tâm thường xuyên, cầu nguyện thường xuyên thì cuộc đời mình sẽ hạnh phúc biết bao nhiêu vì biết rằng mình không cô đơn mà luôn có Chúa đồng hành, có Ðức Mẹ hướng dẫn trong cuộc sống hiện tại, trong cuộc sống ngày mai và ngay cả đời sau nữa.

__________________________________________________________

(1) Lê Như Ninh mất vào khoảng tháng giêng năm 2000

(2) Ðức Cha Nguyễn văn Thuận là Chủ tịch Ủy Ban Công Lý và Hòa bình tại Tòa Thánh Roma và được phong Hồng Y ngày 21/02/2001.

( 3) Hồ Hữu Tường, Cựu Dân biểu Ðệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa. Bị Chánh quyền ông Ngô đình Diệm kết án tử hình vì theo Bình Xuyên.

Houston, ngày 17 tháng 3 năm 2000

Phùng Văn Phụng

Những nghịch lý chết người hay bi kịch của một quốc gia

Những nghịch lý chết người hay bi kịch của một quốc gia

Viet-studies

Nguyễn Quang Dy

19-3-2017

“Chính trong những khoảnh khắc đen tối nhất, ta phải tập trung để thấy được ánh sáng”. (It is during our darkest moments that we must focus to see the light – Aristotle)

Một số nghịch lý chết người có thể làm chính trị suy đồi và kinh tế tụt hậu, dẫn đến bi kịch quốc gia. Nguyên nhân chính là do hội chứng cực đoan và ngộ nhận, vì cực đoan thường dẫn đến vô cảm và ngộ nhận thường dẫn đến vô minh. Vô cảm và vô minh vốn là bi kịch lớn của con người, như một căn bệnh mãn tính rất khó chữa.

Tại các nước đang chuyển đổi (nhưng “không chịu phát triển”), cực đoan và ngộ nhận cản trở cải cách thể chế và hòa giải dân tộc, bỏ qua những cơ hội sống còn để phát triển, làm đất nước ngày càng suy yếu, cạn kiệt, và phụ thuộc, dễ mất độc lập và chủ quyền. Vì vậy, muốn thoát khỏi vấn nạn đó, để “kiến tạo” và phục hưng đất nước, người Việt phải nâng cao dân trí và đổi mới tư duy, để cải cách thể chế và dân chủ hóa.

Nhưng trong bối cảnh phân hóa nội bộ hiện nay, ai ủng hộ và ai chống lại cải cách thể chế? Theo Lê Kiên Thành, “Nếu những người có chức có quyền giàu lên nữa thì đất nước này sẽ sụp đổ… Chúng ta sẽ phải đứng về một phía chống lại 1/3 chúng ta, mà 1/3 này là những người vừa có tiền vừa có quyền, những người đang được hưởng lợi từ thể chế hiện giờ… Đó là những nghịch lý mà chúng ta đang phải đối mặt”.

Cực đoan và hận thù hay “tù nhân của quá khứ” 

Khi xem xét lại chiến tranh Việt Nam, người ta nhận ra “một cuộc chiến sai lầm, sai lầm về địa điểm, sai lầm về thời điểm, và sai lầm về địch thủ” (a wrong war, at the wrong place, at the wrong time, with the wrong enemy – John Kennedy, Oct 13, 1960). Đó là một bài học lịch sử cho cả hai bên, vì ngộ nhận dẫn đến nghịch lý chết người. Phải chăng lịch sử có thể rẽ ngả khác, nếu John Kennedy nghe lời khuyên của George Ball (thứ trưởng ngoại giao, đã khuyên tổng thống đừng đưa quân vào Việt Nam). Những người “thông minh tài giỏi nhất” (the best and the brightest) cũng có thể ngộ nhận và mắc sai lầm.

Tuy chiến tranh Việt Nam đã kết thúc hơn bốn thập kỷ, nhưng bóng ma Việt Nam vẫn còn ám ảnh hai đất nước, và hai thế hệ người Mỹ cũng như người Việt. Tuy hai nước cựu thù đã bình thường hóa và trở thành đối tác toàn diện, nhưng hai cộng đồng người Việt đến nay vẫn chưa thể hòa giải được. Thậm chí trong cùng một cộng đồng, các phe phái cũng coi nhau như thù địch, dùng bạo lực để triệt hạ lẫn nhau. Vì vậy mới có bi kịch “Terror in Little Saigon” và “tiếng súng Yên Bái”, như một nghịch lý của người Việt.

Những người cộng sản cực đoan và những người chống cộng cực đoan thực ra rất giống nhau, vì họ đều độc tài, không chấp nhận ai nghĩ khác mình, nói khác mình. Chính họ đã tiếp tay cho nhau, ngăn cản hòa giải và đổi mới. Chừng nào những ân oán của hai bên chưa được hóa giải,  cực đoan và hận thù (chứ không phải ôn hòa và nhân ái) còn ngự trị trong tâm thức họ như “tù nhân của quá khứ” thì bi kịch này còn tiếp diễn.

“Kinh tế thị trường định hướng XHCN” hay “Frankenstein”  

Suốt bốn thập kỷ sau chiến tranh Việt Nam, tuy trải qua bao biến động trên thế giới và trong nước, nhưng Việt Nam vẫn kiên trì định hướng XHCN, vẫn “đi tìm cái không có” (như lời Bộ trưởng Bùi Quang Vinh). Chính là cực đoan và ngộ nhận đã xô đẩy Việt Nam vào bãi lầy ý thức hệ, nên vẫn loanh quanh tại ngã ba đường.

Chủ nghĩa tư bản hoang dã hay chủ nghĩa xã hội thân hữu, về bản chất đều như nhau, đã đi đêm và đẻ ra cái quái thai “kinh tế thị trường định hướng XHCN”, nay trở thành Frankenstein đang thao túng quyền lực, làm đất nước suy yếu và tụt hậu. Nói cách khác, các nhóm lợi ích đã trở thành “tư bản đỏ”, thao túng quyền lực và lũng đoạn chính sách, tạo ra bất ổn vĩ mô, làm cạn kiệt tài nguyên quốc gia, gây ra thảm họa môi trường, đẩy đất nước đến chỗ hỗn loạn, dễ mất chủ quyền quốc gia và độc lập dân tộc.

Trước vấn nạn nợ công khổng lồ, như một đám mây đen lớn đang đe dọa làm vỡ nợ quốc gia, chính phủ kiến tạo không thể tiếp tục đầu tư tràn lan vào những dự án lợi bất cập hại, duy trì các tập đoàn nhà nước thua lỗ và tham nhũng. Làm sao có thể kiến tạo và chống tham nhũng nếu không đổi mới thể chế toàn diện để triệt tiêu nguyên nhân gốc rễ? Chính phủ không thể bảo lãnh mãi cho con tàu đắm Vinashin và các “quả đấm thép” (nợ đến 237 tỷ USD, bằng 120% GDP), trong khi ngân sách phải “chạy ăn từng bữa”.

Liệu có “ổn định chính trị” nếu bất ổn về kinh tế

Theo chuyên gia Vũ Quang Việt, nợ công của Việt Nam không phải chỉ sát ngưỡng báo động 65% GDP (khoảng 94,8 tỷ USD). Nếu tính cả nợ của các doanh nghiệp nhà nước (được chính phủ bảo lãnh) thì nợ công lên tới 210% GDP, và nợ xấu lên đến 11% GDP (khoảng 22 tỷ USD).

Trong khi đó dự trữ ngoại hối chỉ có 40 tỷ USD (theo Ngân hàng Nhà nước), nhưng 1/3 trong số đó là trái phiếu chính phủ Mỹ (không khả dụng).

Theo Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VERP), nguồn kinh phí chi cho các tổ chức công chiếm 1,7% GDP (khoảng 71,000 tỷ VNĐ). Trong khi đó hàng năm Viêt Nam phải trả nợ đến hạn (20 tỷ USD năm 2015, và 12 tỷ USD năm 2016). Trong tháng 11/2016, Chính phủ phải vay tới 17 tỷ USD để chi thường xuyên cho 11 triệu người ăn lương ngân sách và trả lãi các khoản vay đến hạn, thâm hụt ngân sách hàng trăm ngàn tỷ VNĐ/tháng. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã cảnh báo khả năng “sụp đổ tài khóa quốc gia”.

Dù Bộ Tài Chính có bán hết vốn các doanh nghiệp lớn mà nhà nước nắm cổ phần, cũng chỉ thu về được 7 đến 15 tỷ USD, chỉ đủ chi ngân sách từ một tháng rưỡi đến ba tháng. Trong khi đó  kiều hối năm 2016 giảm 30% (khoảng 3 tỷ USD). World Bank tuyên bố chấm dứt ODA cho Việt nam vào tháng 7/2017 (tiếp theo sẽ là ADB).

Bức tranh kinh tế hiện nay làm người ta liên tưởng đến Venezuyela.  Nếu Trung Quốc không thể cứu Venezuyela (lạm phát tới 700%), liệu họ có thể cứu Việt Nam? Theo Financial Times (4/2016) nợ công Trung quốc năm 2016 tăng vọt lên 237% GDP (khoảng 28 ngàn tỷ USD). Trong khi đó dự trữ ngoại hối (tính đến đẩu 2017) đã giảm xuống còn khoảng 3000 tỷ USD, nhưng chỉ một nửa số đó là khả dụng (theo Gordon Chang).

“Tập trung dân chủ” hay “tam quyền phân lập”

Làm sao để “kiểm soát quyền lực”, nếu không áp dụng “Tam quyền phân lập”?  Cái gì đã tạo ra bộ máy hành chính quan liêu khổng lồ, chồng chéo và bất cập?  Làm thế nào để “nhất thể hóa” nếu Đảng vẫn độc quyền lãnh đạo, không dựa trên “pháp quyền” (rule of law)? Trên thế giới không có chính phủ nào có nhiều bộ trưởng và thứ trưởng như Viêt Nam (22 bộ trưởng và 130 thứ trưởng). Chính phủ Mỹ và Nhật cũng chỉ có 15-16 bộ trưởng và 16 thứ trưởng. Làm thế nào để giảm chi tiêu ngân sách, nếu Việt Nam vẫn duy trì hai bộ máy hành chính khổng lồ, với những “tổ chức quần chúng” phi sản xuất và ăn bám?

Mô hình nhà nước do một Đảng độc quyền lãnh đạo toàn diện, theo thể chế “tập trung dân chủ” đã lỗi thời và bất cập trước yêu cầu phát triển của kinh tế thị trường và tiến bộ xã hội. Nếu muốn “kiến tạo” và chấn hưng đất nước, để đối phó với những nguy cơ và thách thức mới, Viêt Nam phải “cải cách vòng hai” bằng cách đổi mới thể chế toàn diện, bao gồm cải cách thể chế chính trị và hiến pháp, theo hướng “tam quyền phân lập”.

“Theo Tàu hay theo Mỹ” là tâm thức đầy ngộ nhận

Trước đây Việt Nam đã phải đối phó với nan đề “theo Liên Xô hay theo Trung Quốc”. Có lúc Viêt Nam đã “theo cả hai” bằng cách cân bằng để tranh thủ nguồn lực chống Mỹ (trước 1975). Có lúc Việt Nam đã theo Liên Xô để chống Trung Quốc (giai đoạn 1979-1989). Thậm chí Việt Nam đã từng ghi vào Hiến pháp rằng Trung Quốc là “kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất” (mà Nayan Chanda chơi chữ gọi là “Brother Enemy”).

Nhưng rồi sau đó Việt Nam lại “xoay trục” theo Trung Quốc tại Thành Đô (9/1990) với phương châm “16 chữ vàng”. Đó là quyết sách cực đoan do ngộ nhận về bạn thù và ý thức hệ, mà quên mất “chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh viễn”. Khi Washington bắt tay với Bắc Kinh (từ 1972) họ đã bỏ rơi Đài Loan và Nam Việt Nam, mặc cho Trung Quốc chiếm Hoàng Sa (1974). Khi Moscow hòa hoãn với Bắc Kinh, họ cũng mặc cho Trung Quốc đánh chiếm Gac Ma và 4 đảo Trường Sa (1988), tuy họ là “đồng minh chiến lược” với ta. Đó là những bài học đau đớn để chúng ta đừng ngộ nhận và ngây thơ về quan hệ các nước lớn.

Muốn độc lập dân tộc và bảo vệ chủ quyền quốc gia, phải dựa vào sức mạnh nội lực là chính.  Muốn vậy phải hòa giải dân tộc và cải cách thể chế để “khai dân trí”, giải phóng năng lượng yêu nước và tinh thần dân tộc, “chấn dân khí” để phục hưng đất nước. Chính sách “cân bằng thụ động” (“đu dây” bằng nguyên tắc “ba không”) tuy cần thiết như một sách lược (nhất thời) để đối phó tình huống, nhưng “cân bằng tích cực” mới là chiến lược (lâu dài).

Người Việt phải học hỏi người Đức về hòa giải dân tộc và thống nhất đất nước. Phải cải cách thể chế và dân chủ hóa mới chấn hưng được đất nước, để đối phó với những biến động chính trị bất thường và bất định (như Brexitism và Trumpism). Muốn “cân bằng tích cực” với Mỹ và Trung Quốc, Việt Nam phải tăng cường hợp tác chiến lược với các cường quốc khu vực (như Nhật, Ấn Độ, Úc) trong một khuôn khổ đối tác chiến lược mới.

“Còn Đảng còn mình” hay chuẩn bị tháo chạy 

Theo IOM (International Organization for Migration) sau 25 năm tính từ 1990 đến 2015, đã có 2.558.678 người Việt di cư ra nước ngoài, tính trung bình mỗi năm có khoảng 100.000 người Việt di cư.  Việt Nam nằm trong “Top 10” các quốc gia có số du học sinh nhiều nhất thế giới.

Trong tổng số trên 4,5 triệu người Việt đã di cư (tính đến 2015), số người định cư bằng đầu tư đang tăng lên đáng kể. Chỉ riêng loại visa EB-5 (dành riêng cho các đối tượng đầu tư vào Mỹ) đã tăng chóng mặt so với các loại visa khác (như EB-1, EB-2). Số lượng visa EB-5 từ 6.418 suất (năm 2014) đã tăng vọt lên 17.662 suất (năm 2015).

Đến nay, Viêt Nam có 21,000 du học sinh ở Mỹ, trong đó đa số là con em các gia đình quan chức cao cấp và trung cấp. Hồ sơ Panama tiết lộ Việt Nam có tới 189 cá nhân và tổ chức, với 19 công ty vỏ bọc được thành lập ở nước ngoài, chủ yếu là tại các “thiên đường trốn thuế” (như Cayman và Virgin Islands). Sau khi ông Trump thay đổi chính sách nhập cư vào Mỹ, nhiều người Việt chuyển hướng di cư sang Canada và Australia. Người Việt Nam (cũng như người Mỹ) đang đối mặt với quá nhiều biến số và ẩn số.

Tại hội thảo “Kịch bản Kinh tế Viet Nam 2017” (tp HCM, 9/3/2017) tiến sỹ Trần Đình Thiên (Viện trưởng Viện Kinh tế) đã cảnh báo về tình trạng “tẩu tán tư bản”, với số triệu phú người Việt di cư ra nước ngoài ngày càng tăng. Ngoài dòng tiền đầu tư chính đáng ra nước ngoài, còn có dòng tiền chạy ra ngoài bất hợp pháp theo dòng người di cư, trong đó nhiều triệu phú là quan chức đã có sẵn kế hoạch bỏ chạy (một khi bị truy cứu trách nhiệm). Đến nay, tổng cộng đã có 92 tỷ USD được chuyển phi pháp ra khỏi Viêt Nam.

Lượng tiền bất hợp pháp chảy khỏi Việt Nam từ năm 2004 đến 2013. (Nguồn GFI).

“Hoàng hôn nhiệm kỳ” hay tranh thủ vơ vét  

Các nhóm lợi ích tranh nhau vơ vét, chia chác mọi thứ, làm cạn kiệt tài nguyên quốc gia. Họ “ăn không từ một cái gì” (theo lời phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan). Hết nạc họ vạc đến xương. Sau khi đã bán rẻ Vũng Áng cho Formosa, họ định bán nốt Cà Ná. Sau khi đã ăn hết dầu khí, than, thủy điện, bauxite, vonphram, ruộng đất…làm rừng vàng biển bạc cạn kiệt, họ tìm cách ăn nốt cát nhiễm mặn. Phải chăng dự án thép Cà Ná và chủ trương khai thác cát để xuất khẩu là “làn ranh đỏ” (red line) của thực trạng “hoàng hôn nhiệm kỳ”?

Năm 2010, chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã ký văn bản cấm xuất khẩu cát nhiễm mặn. Nhưng đến 2013, Bộ Xây dựng lại cho phép xuất khẩu cát nhiễm mặn qua hình thức “xã hội hóa” với lý do “nhằm tiết kiệm chi phí nạo vét thông luồng”. Đây là nhiệm vụ của Bộ Giao thông Vận tải dùng ngân sách để làm, tại sao phải “xã hội hóa” để các doanh nghiệp khác thác cát tràn lan, tiếp tay cho các nhóm lợi ích bán rẻ nốt tài nguyên quốc gia?

Theo phóng sự điều tra nhiều kỳ của báo Tuổi trẻ (1-3/3/2017), hầu hết các tàu chở cát từ Phú Quốc đều đến Singapore (đảo Tekong và Changi). Từ năm 2013 đến cuối năm 2016, Việt Nam đã xuất 43 triệu m3 cát. Theo các hợp đồng xuất khẩu, giá bán cát chỉ từ 0,8 đến 1,3 USD/khối, trong khi giá bán trên thực tế là hơn 4 USD/khối. Vậy chênh lệch giá đi đâu? Việt Nam không chỉ mất tài nguyên cát, thất thu ngân sách (vì giá bán cát trên giấy tờ là quá thấp), mà còn gây sụt lở ngiêm trọng, và nguy hại cho an ninh quốc gia.

Theo số liệu thống kê, từ năm 2016 Bộ Xây dựng, Bộ Giao thông Vận tải, Bộ Quốc phòng và các địa phương (là “chủ đầu tư”) đã phê duyệt 40 dự án nạo vét, tận thu một khối lượng cát khoảng 250 triệu m3. Dẫn đầu hoạt động “xã hội hóa” này là Bộ Quốc Phòng và chính quyền 11 tỉnh ven biển: Kiên Giang, Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Ðịnh, Quảng Nam, Thừa Thiên-Huế, Quảng Bình, Quảng Trị, Hà Tĩnh. Cuộc chiến giành quyền nạo vét cát không chỉ dọc các tỉnh ven biển, mà còn trên các dòng sông. Tranh chấp tại Sông Cầu giữa Bắc Ninh và Bộ GTVT là “phần nổi của tảng băng chìm”.

Ngoài Singapore, Trung Quốc cũng tích cực thu mua cát giá cao nhằm bồi đắp các đảo, đá mà họ chiếm của Việt Nam. Các hoạt động nạo vét, bồi đắp các đảo nhân tạo, nhằm mở rộng diện tích các đảo, đá mà họ chiếm đóng trái phép (như Châu Viên, Chữ Thập, Gạc Ma, Ga Ven và Ken Nan) đã diễn ra với quy mô lớn. Từ năm 2014, diện tích các đảo, đá mà họ chiếm tại Biển Đông đã tăng lên 400 lần (tương đương 800ha). Vậy họ lấy cát ở đâu? Không loại trừ doanh nghiệp của ta đã lặng lẽ bán cát cho họ. Nếu đúng là có chuyện này, thì đó có phải là hành động phản quốc? Không thể vừa bảo vệ chủ quyền quốc gia, vừa dung túng cho những kẻ làm tay sai cho ngoại bang (như Formosa & MCC, Huawei & OPPO).

Như trước khi con tàu đắm  

Theo Wikileaks (6/1/2017), có khoảng 65% quan chức cấp cao đã có kế hoạch chạy khỏi Việt Nam (một khi có biến). Như đã thành thông lệ, khi có quan chức tham nhũng nào bị “sờ gáy”, là lại nghỉ phép trốn ra nước ngoài “chữa bệnh” (không biết bệnh gì). Kèm theo dòng người di cư là dòng vốn đi theo. Chỉ tính riêng năm 2015, đã có 19 tỷ USD chạy ra khỏi Việt Nam. Đó là hiện tượng tẩu tán vốn hay “bỏ phiếu bằng chân”, trước thực trạng của đất nước ngày càng bi đát như hình ảnh con tàu Vinashin đang chìm.

Bức tranh Viêt Nam là một bản sao bức tranh Trung Quốc. Theo phó chủ tịch nước TQ Lý Nguyên Triều (Đại Kỷ Nguyên, 30/12/2016), điều tra nội bộ trước đại hội Đảng 18 cho thấy trên 85% quan chức cấp cao đã cho vợ con định cư, mua nhà ở nước ngoài, chuẩn bị ra đi trước nguy cơ “vong Đảng”. Theo Reuters, dự trữ ngoại hối đã giảm 70 tỷ USD (trong tháng 11/2016) và 41 tỷ USD (trong tháng 12/2016), nay chỉ còn 3.010 tỷ USD.

Mỹ không còn là địa chỉ an toàn để rửa tiền tham nhũng. Liệu chính quyền Trump có triển khai “Luật Nhân Quyền Magnisky” (mà ông Obama đã ký) nhằm cấm nhập cảnh và đóng băng tài sản của những người vi phạm nhân quyền? Liệu chính phủ Việt Nam có tiến hành một chiến dịch “Săn Cáo” như chính quyền Tập Cận Bình đang làm?

Theo giáo sư Minxin Pei, chiến dịch chống tham nhũng của Tập Cận Bình cho thấy tình trạng tham nhũng đã ăn sâu vào mọi ngõ ngách của chế độ (nhất là từ thời Giang Trạch Dân). Tuy nhiên, hoạt động chống tham nhũng vẫn chưa chạm đến cái gốc rễ quan trọng nhất là “tham nhũng đất đai”. Có đến 90% quan chức có thể bị bắt bất cứ lúc nào, trong khi số “quan thanh liêm” chỉ chiếm có 0,000001% dân số. (VOA, 29/10/2016).

Chỉ cần quan sát dòng người và dòng vốn chạy đi đâu là biết tình trạng đất nước ra sao. Dòng người di cư ngày càng đông, gồm cả doanh nhân, trí thức, và quan chức, là dấu hiệu bất ổn về “chảy máu chất xám” (brain drain) và “tẩu tán vốn”, làm đất nước kiệt quệ. Đó là bi kịch của một quốc gia thiếu dân chủ, bị các nhóm lợi ích thao túng, trì hoãn đòi hỏi cấp bách phải đổi mới thể chế, để họ tranh thủ vơ vét nốt trước khi con tàu đắm.

NQD. 18/3/2017

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 18-3-17

Yêu nước không đồng nghĩa với yêu Nazi

From facebook:  Lê Hữu Nghiệp and Anhtuan Tran shared Dưa Leo – Stand up comedian‘s photo.
Image may contain: 3 people, people sitting, child and outdoor
Dưa Leo – Stand up comedian

Yêu nước không đồng nghĩa với yêu Nazi

Trong thời gian Hitler thống trị nước Đức, cả nước Đức chìm trong bạo lực và dối trá. Hitler đã dùng cỗ máy truyền thông nhà nước tuyên truyền làm cho tư duy đa số người dân chìm trong u mê, còn những người yêu nước chân chính thì bị cho là “phần tử phản động”.

Để bảo vệ quyền lực độc tài, Hitler đã áp dụng hai thủ đoạn: dùng lực lượng Gestapo (mật vụ) theo dõi nhất cử nhất động của dân chúng, chỉ cần phát hiện ai đó “có dấu hiệu khác thường” là người đó sẽ lập tức bị tống vào nhà lao, thậm chí không ít người bị hành hình bí mật; một thủ đoạn khác là Hitler dùng cỗ máy quốc gia, đặc biệt là bộ máy truyền thông quảng bá “tư tưởng Hitler”, đẩy mạnh đưa thông tin giả mạo nhằm tẩy não nhân dân.

1. Lẫn lộn khái niệm “Quốc gia” và “đảng Quốc xã” (Nazi)

Đa số dân chúng Đức bị tẩy não nên tưởng rằng: Không có Nazi thì không có sự tồn tại của nước Đức, sự phát triển của nước Đức cần nhờ vào sự thống trị của Nazi. Thậm chí nhiều người ngộ nhận không có Nazi thống trị thì nước Đức sẽ rối loạn. Thực tế, nước Đức không vì Nazi mà được hùng cường, ngược lại còn bị cuốn vào Thế chiến thứ Hai. Sau Thế chiến thứ Hai, Tây Đức không nằm trong kiểm soát của Nazi đã nhanh chóng đạt được trạng thái ổn định, kinh tế phát đạt, nhân dân hạnh phúc.

2. Không nhận rõ ai thực sự nuôi sống ai

Cho dù trong thời gian cai trị nước Đức, Hitler đã thực hiện nhiều mục tiêu kinh tế, tưởng như kinh tế nước Đức phát triển được là nhờ cải cách của Hitler, thực tế là tài sản của nhân dân Đức bị bào mòn rất nhiều. Để đảm bảo cuộc sống xa xỉ của bản thân và tình nhân, để duy trì hoạt động của lực lượng Gestapo hùng hậu thì Hitler không có cách nào khác là phải vơ vét tài sản của nhân dân.

Vì trước khi Hitler lên cầm quyền vừa đúng dịp nền kinh tế nước Đức đi xuống, ông ta đã tóm chặt cơ hội qua nắm bắt được tâm lý người dân sợ thất nghiệp, đã đẩy mạnh phát triển công nghiệp quân sự, lợi dụng lao động giá rẻ giúp ông ta kiếm được bộn tiền. Nhưng người dân Đức tội nghiệp cứ tưởng rằng Hitler và đảng Quốc xã đã thay đổi cuộc sống của họ, vì thế có thiện cảm với ông ta, họ không ý thức được cuộc sống của họ tồn tại là nhờ vào chính sức lao động khổ nhọc của họ. Trái lại, chính Hitler và lực lượng Gestapo hùng hậu giám sát người dân nhờ ăn bám vào sức lao động cực khổ của người dân Đức mới có thể sống được.

3. Nhận kẻ thù làm bạn

Dưới trò tẩy não của Hitler, dân chúng Đức xem Mussolini (Thủ tướng độc tài cai trị phát xít Ý) là “bạn tốt nhất của người Đức”, đa số người dân Đức khi đó nghĩ rằng, ngoài nước Ý, các nước khác đều là “thế lực thù địch thèm muốn nước Đức”, nhưng chính “người bạn tốt nhất” đã làm tăng thêm bi kịch của nước Đức.

4. Lính gác khắp nơi

Dưới giám sát theo dõi vô cùng kín kẽ của hệ thống Gestapo, cho dù nhiều người dân Đức có trái ý với Nazi cũng không dám lên tiếng. Vì an toàn của bản thân, mọi người dân đều sống trong cảnh giác ai cũng có thể là Gestapo, thậm chí ngay cả giữa hai người bạn thân thiết cũng luôn phải dè chừng nhau.

5. Người yêu nước thật sự lại trở thành cái gai trong mắt nhân dân

Dưới thời Hitler cũng có nhiều nhân sĩ yêu nước với trí tuệ thông sáng, họ dám phản đối cỗ máy nhà nước độc tài thực hiện chính sách ngu dân, nhưng họ bị Gestapo vu khống là “giặc bán nước”. Từ đây, những người yêu nước đích thực lại bị dân chúng căm ghét, bị cho là phần tử “nguy hiểm cho ổn định quốc gia”, mãi đến khi kết thúc Thế chiến thứ Hai khi người dân Đức nhìn lại lịch sử mới ngộ ra chân lý “yêu nước không có nghĩa là yêu Nazi, yêu nước thực sự là phải biết bảo vệ quốc gia không để cho Nazi tùy tiện thao túng, phải lấy bảo vệ quyền lợi của nhân dân làm gốc”.

Nhân dân Đức bị lừa dối khiến cả nước Đức chìm trong thảm cảnh. Sự tồn tại của Nazi chính là nguyên do mấu chốt làm hại nước Đức. Khi nước Đức không còn Nazi mới là lúc cuộc sống của nhân dân thực sự có mùa xuân, thu nhập quốc dân tăng cao, đời sống quốc dân ngày càng tươi sáng hơn, nước Đức mới trở thành cường quốc của thế giới.

——————————-

Nguyễn Đoàn

http://trithucvn.net/…/yeu-nuoc-khong-dong-nghia-voi-yeu-na…

1 bài viết rất hay từ page nghiên cứu lịch sử!!!

Xứng đáng được tôn vinh những người vợ của các Tù Nhân Lương Tâm.

From facebook: Phan Thị Hồng with Hoang Le Thanh and 9 others.
Xứng đáng được tôn vinh những người vợ của các Tù Nhân Lương Tâm.

FB Cô Mười Họ Lê, vợ anh Lưu Văn Vịnh

Từ khi anh Lưu Văn Vịnh bị bắt oan và giam giữ ở số 4 Phan Đăng Lưu đến nay mẹ con em được mọi người điện thoại quan tâm chia sẻ. Nhưng cũng có người gọi là “có học” điện thoại tư vấn cho em như này:

– Alo chị à , mấy mẹ con chị khỏe không ?

– Cảm ơn em mẹ con chị vẫn khỏe.

– Anh Vịnh giờ sao rồi hả chị?

– Anh Vịnh vẫn bị giam giữ oan sai chưa được về.

– Đợt này anh Vịnh về chị nói anh khùng vừa thôi, toàn rảnh đi lo chuyện không đâu !

– Em nói vậy không đúng, anh Vịnh khùng mà biết lao động nuôi vợ con, mà biết dành tâm huyết và thời gian hoạt động bảo vệ nhân quyền, bảo vệ môi trường, phản đối TQ xâm lược biển đảo VN và giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn do bị áp bức, bất công, bị oan sai.

Sống có trách nhiệm với xã hội và đất nước là khùng ư?

– Nhà em ko rảnh để quan tâm tới những việc đấy và em cũng không cần biết về chính trị làm gì.

– Em nói hay nhỉ? Vợ chồng em làm trong cơ quan nhà nước, lại là bên ngân hàng, liên quan đến kinh tế, đến đồng tiền, mà nói không biết về chính trị thì ai phải biết về chính trị?

Thế em có biết Formosa xả độc tháng 4 năm 2016 đã làm kinh tế Việt Nam tụt giảm mấy % so với kế hoạch không, và hàng triệu người dân miền Trung mất nghiệp không, và vì thế mà lạm phát tăng, đồng tiền VN mất giá so với đô la không? giá cả tăng, đời sống khó khăn hơn không?

Em có biết nước ta có hơn 3000km bờ biển mà sắp phải nhập khẩu muối không?

– Em thấy trong cơ quan em họ cũng không quan tâm và các khu công nghiệp xung quanh họ có nói gì đâu? Anh Vịnh toàn thích sống khác người!

– Chị lại thấy chính các em mới sống khác người. Các em luôn phải cúi đầu theo lệnh cấp trên mà không dám nói lên tiếng nói của mình.

Em nên dành chút thời gian vào Facebook, vào trang Con Đường Việt Nam, Dân Làm Báo, Dân Luận, BBC, RFA, VOA, Anhbasam, Huỳnh Ngọc Chênh, … để tìm hiểu về quyền con người, những tiếng nói khách quan về thế giới, về đất nước, nhân dân em nhé.

Nhiều người đã hiểu được sự bất công, thối nát của chế độ này rồi, nhưng họ nói mà em không nghe đấy thôi.

Hoặc em không đọc nên tưởng họ khùng thôi. Họ không vô cảm, sợ hãi, ích kỷ chỉ biết tiền, tiền, tiền … ko lười đọc, lười suy nghĩ, như thế là khác người?

– Vậy như anh bây giờ có giúp được gì cho gia đình và con cái hay để vợ con xấu hổ?

– Ồ! không đâu em, mẹ con chị không xấu hổ, mà còn tự hào về anh.

Anh chấp nhận gian khổ để hi vọng sau này con cháu anh, con cháu em và tương lai người VN có một xã hội bình đẳng, tự do nhân quyền, văn minh như các nước dân chủ không còn độc tài cộng sản: Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc, … hay Anh, Nhật, Mỹ, Pháp, Úc.

Có nước độc tài cộng sản nào mà dân được tự do sung sướng hả em? Em có thấy Quan chức cộng sản và người giầu ở Trung Quốc cộng sản, VN lũ lượt bỏ nước sang Mỹ, Canada, Úc, … không?

– Anh giờ bị tù như vậy chị nghĩ xem, sau này các con chị đi học đại học hoặc xin đi làm sẽ ảnh hưởng trong hồ sơ lý lịch thì làm sao?

– Nhà chị các cháu có học đại học thì cũng không vào đoàn thanh niên CS đâu!

Anh chị chỉ ủng hộ các cháu tham gia các hoạt động xã hội thiện nguyện, bảo vệ môi trường, hay những việc hữu ích tốt cho dân, không lừa dân, không vì danh hão đâu, nên sợ gì lý lịch các cháu khi vào đại học?

Còn khi các cháu xin việc làm, chúng sẽ thi tuyển vào những nơi cần người làm thật, không phải vào cơ quan để tiếp khách, để pha trà cho sếp, hay vào ê-kip hành dân, nhũng nhiễu dân đâu, …?

Nếu kinh tế thị trường tự do, các công ty muốn phát triển sẽ tuyển người lao động dựa vào kỹ năng chuyên môn và đạo đức, chứ họ không cần là đảng viên cs, không cần lý lịch như vợ chồng em nghĩ đâu.

Và chị có tiền chị cũng không nịnh nọt nhờ vả, hay đút lót mấy trăm triệu để vào cơ quan nhà nước, DNNN nhằm chui kỳ được vào guồng máy cs tham nhũng đâu em ạ. Vào đó con người mất tự do, mất hết hứng thú sáng tạo, bị hạ thấp nhân phẩm, nó buộc con người thành cái máy trung thành với sự giả tạo, vô đạo đức, con người bị tha hóa theo bộ máy độc tài, độc quyền em ạ.

– Nhưng dù sao anh vẫn mang tiếng là bị đi tù.

– Chị hiểu ý của em rồi. Tù tham nhũng, bán nước, giết người, ăn cắp ăn trộm thì mới phải xấu hổ em ạ!

Tù vì để cho một xã hội tốt hơn, để bảo vệ Tổ quốc, thì chỉ có tự hào thôi!. Em xem, thế giới chỉ đòi tự do cho những tù nhân lương tâm chứ có ai đòi tự do cho bọn tham nhũng ko?

TNLT là người đấu tranh cho tự do nhân quyền, cho quyền lợi của công nhân, đấu tranh cho nông dân bị mất đất mất nhà, bị oan sai, hay vì chủ quyền quốc gia, vì chống độc tài cộng sản, vì chống Trung Quốc cộng sản xâm lược biển đảo, chống TQ đầu độc môi trường của VN, …

Em có biết những tấm gương đi tù được nhân dân kính phục chưa? Em hãy tìm hiểu về những tù nhân lương tâm thì sẽ hiểu.

Nhân dân quý mến họ là vì họ chống độc tài, chống tham nhũng quyền tiền, chống suy đồi đạo lý, chống vi phạm tự do nhân quyền, chống mua bán bản án bất nhân oan ức, chống bất công, chống ô nhiễm môi trường, chống ấu dâm, …

Và Nhân dân coi khinh những kẻ đương chức, đương quyền là tay sai Tầu cộng chỉ vì tham quyền cố vị để tham nhũng, để hút máu dân, để vinh thân phì gia, lừa dân, bán nước, chúng như “một đàn sâu” đục khoét tài sản quốc gia như ông Trương Tấn Sang đã nói, và “Hở ra là ăn, ăn không từ thứ gì” như bà Nguyễn Thị Doan Phó chủ tịch nước đã phải thừa nhận.

Thử hỏi cán bộ cộng sản các em đi tù vì tội gì?

Họ đi tù vì họ là những kẻ tham nhũng, những kẻ hủ hóa, ấu dâm, những kẻ bất nhân bất nghĩa, (chỉ đáng thương cho kẻ tham ít nhưng bị lừa mà phải gánh tội thêm cho cấp trên). Không những dân khinh mà vợ con họ, đồng nghiệp họ cũng khinh, cũng xa lánh.

Anh Vịnh từ khi bị công an HCM bắt giam oan trái, chị và các cháu có bị một số người quen cũ xa lánh, dè bỉu, nhưng số người mới chia sẻ, quan tâm, giúp đỡ gia đình chị lại nhiều hơn nhiều lần số người quay lưng.

Nên các em đừng vơ đũa cả nắm đánh đồng cái chữ “tù”. Các em nên đọc thêm thông tin báo chí nước ngoài, trang mạng xã hội, facebook để hiểu cho khách quan, đừng mù quáng, vô cảm mãi nữa.

– Chị bây giờ nói cứng quá không như dạo trước.

– Chị vẫn vậy thôi, chị nghĩ đáng lẽ em là người có học, mang danh trí thức thì khi nói chuyện với một người dân ít học như chị em khai sáng cho chị mới đúng, đằng này như là ngược lại, nên chị buồn thôi.

Kết thúc câu chuyện với người “có học”, tôi cứ thấy buồn vô tận.

Tại sao người “có học” đó lại cho rằng: “ai dám nói nên tiếng nói của mình là khùng là hoang tưởng”.

Sao nhiều người bình dân, không có bằng cấp như người “có học” đó lại hiểu được thực tế cái chế độ thối nát này, và họ động viên giúp đỡ mẹ con em rất nhiều .

Tại sao người “có học” đó lại cam chịu cúi đầu sống trong guồng máy của chế độ thối nát, mục ruỗng, sắp sụp đổ này?

Thật buồn!

FB Cô Mười Họ Lê, vợ anh Lưu Văn Vịnh.

Ảnh chụp NSUT Kim Chi đến thăm chị Mười, vợ TNLT Lưu Văn Vịnh.

Image may contain: 2 people, people smiling, people sitting

IM LẶNG LÀ VÀNG

IM LẶNG LÀ VÀNG

 LM Jos Tạ Duy Tuyền

Im lặng là vàng.  Đó là câu châm ngôn mang nhiều ý nghĩa và được coi như là một triết lý sống.  Triết lý sống ấy, phần lớn do người ta ngao ngán với “nhân tình, thế thái”.  Mặt khác,  cũng có một số người nghĩ  im lặng sẽ đảm bảo cho sự an toàn của bản thân trong mọi lúc, mọi nơi.  Rồi từ chỗ ít nói, ngại nói, không dám nói  những điều mình đang trăn trở, nghĩ suy, người ta trở nên dửng dưng trước mọi biến động của xã hội.  Dẫn đến tình trạng tôn thờ chủ nghĩa MAKENO, dửng dưng với những bất hạnh của tha nhân.  Im lặng là vàng cũng rất cần thiết để mình cân nhắc sự việc, để mình suy tính, không vội vã mà hành động khôn ngoan hơn.

Im lặng là vàng đôi khi còn là cơ hội để đón nhiều sự may mắn và niềm vui.

Người ta kể rằng: Edison vừa phát minh một dụng cụ điện tử, ông muốn bán phát minh này với giá 3.000 USD, và tự nhủ nếu các thương gia chỉ trả 2.000 USD cũng được.  Lúc gặp nhau, họ hỏi ông về giá cả, Edison lúng túng im lặng chưa biết phải nói như thế nào.  Một người trong số họ đành phải bắt đầu trước:

– Chúng tôi không trả cao đâu, ông nghĩ sao với cái giá 40.000 USD?

Đúng là “Im lặng là vàng”.  Ở đời người ta chỉ cần học được chữ nhẫn, chữ nhịn trong im lặng sẽ mang lại biết bao niềm vui của chiến thắng hân hoan.

Hôm nay, chúng ta chiêm ngắm một con người đã làm nên chuyện phi thường trong im lặng.

Trước  mọi vấn đề Ngài đều im lặng để tìm hiểu, để suy xét và đón nhận.  Sự im lặng của Ngài không phải là của kẻ khiếp nhược trước sự dữ của cuộc đời.  Sự im lặng của ngài thể hiện lòng phó thác tin yêu trong sự quan phòng của Thiên Chúa.

THANH GIUSE

Ngài im lặng để tìm kiếm ý Chúa.  Ngài im lặng để lắng nghe tiếng nói của con tim luôn rung nhịp yêu thương.  Ngài im lặng để cho tiếng Chúa vang lên trong tâm hồn của mình mà nhờ đó Ngài đã hết lòng phụng sự theo thánh ý Chúa.

Đó chính là thánh cả Giuse.  Một vị đại thánh không để lại một lời huấn dụ nào nhưng lại được cả Giáo hội qua bao thế hệ yêu mến, tôn kính.  Ngài không để lại di ngôn nhưng để lại một đời sống nội tâm thật phong phú.

Phúc âm ghi lại trước mỗi biến cố xảy đến ngài thường chọn im lặng để lắng nghe tiếng Chúa.  Ngài đã im lặng khi biết tin Maria đã mang thai, nhờ đó mà ngài nghe được tiếng Chúa bảo ngài đón nhận Maria về nhà làm bạn mình.  Ngài im lặng trước biết bao phong ba bão tố trong cuộc đời hài nhi, nhờ đó mà ngài đã làm cho mọi sự nên trọn khi ngài gìn giữ hài nhi Giê-su vượt qua giông tố cuộc đời.  Ngài đã im lặng khi tìm kiếm con bôn ba suốt ba ngày trời, nhờ đó mà ngài đã vâng theo thánh ý Chúa dù rằng ngài chưa hiểu hết những gì đang xảy ra.

Lý do cho sự im lặng của ngài không phải là do sợ hãi hay nhu nhược mà là ngài tin vào sự quan phòng của Thiên Chúa.  Thử hỏi, nếu ngài không tin vào Thiên Chúa có lẽ ngài đã ngã lòng trước biết bao biến cố xảy ra trong cuộc đời hài nhi Giê-su?  Từ khi nhập thể cho đến khi chào đời, khôn lớn phải trải qua biết bao sóng gió.  Nhờ đức tin ấy mà ngài đã dẫn dắt gia đình sống trong bình yên.  Nhờ đức tin ấy mà ngài đã chu toàn mọi sự theo thánh ý Thiên Chúa.

Cuộc đời luôn có biết bao điều xảy ra ngoài dự định của chúng ta, và đôi khi còn vượt lên trên trí hiểu của chúng ta.  Xin cho chúng ta biết im lặng để tìm ra ý Chúa trong từng biến cố cuộc đời.  Xin cho chúng ta biết noi gương thánh Giu-se luôn tận tụy với bổn phận của mình trong niềm phó thác vào quyền năng của Thiên Chúa.  Ước gì chúng ta cũng học bài học im lặng để khôn ngoan cân nhắc trước mọi biến cố xảy ra.  Amen

 LM Jos Tạ Duy Tuyền

Langthangchieutim  gởi

Tưởng Năng Tiến – Buồn Vào Hồn Không Tên

Tưởng Năng Tiến – Buồn Vào Hồn Không Tên

Tưởng Năng Tiến

17-3-2017

Có lần, tôi nghe giáo sư Nguyễn Văn Lục phàn nàn: “Người cộng sản có một sự sắp xếp rất máy móc, đơn giản về con người và sự việc. Hoặc họ coi là bạn, hoăc là kẻ thù của họ. Miền Nam sau 1975 có chiến dịch đi ‘tìm thù’ và biến miền Nam thành mảnh đất hung bạo với những ngữ từ quen thuộc như: Quét sạch, đánh phá, truy lùng, tố cáo.”

Hơn bốn mươi năm sau, sau cái chiến dịch “tìm thù” bắt đầu từ năm 1975, có bữa tôi đang ngồi lơ tơ mơ hút thuốc thì chuông điện thoại reo:

– Tiến hả?
– Dạ…
– Vũ Đức Nghiêm đây…
– Dạ…
– Anh buồn quá Tiến ơi, mình đi uống cà phê chút chơi được không?
– Dạ …cũng được!

Tôi nhận lời sau một lúc tần ngần nên tuy miệng nói “được” mà cái giọng (nghe) không được gì cho lắm. Tôi cũng thuộc loại người không biết làm gì cho hết đời mình nên thường rảnh nhưng không rảnh (tới) cỡ như nhiều người trông đợi. Sống ở Mỹ, chớ đâu phải Mỹ Tho mà muốn đi đâu thì đi, và muốn đi giờ nào cũng được – mấy cha?

Khi Mai Thảo và Hoàng Anh Tuấn còn trên dương thế, thỉnh thoảng, tôi cũng vẫn nghe hai ông thở ra (“anh buồn quá Tiến ơi”) y chang như thế. Chỉ có điều khác là ông nhà văn khi buồn thì thích đi uống rượu, ông thi sĩ lúc buồn lại đòi đi … ăn phở, còn bây giờ thì ông nhạc sĩ (lúc buồn) chỉ ưa nhâm nhi một tách cà phê nóng. Ai sao tui cũng chịu, miễn đến chỗ nào (cứ) có bia bọt chút đỉnh là được!

Vũ Đức Nghiêm sinh sau Mai Thảo và trước Hoàng Anh Tuấn. Ông chào đời vào năm 1930. Hơn 80 mùa xuân đã (vụt) trôi qua. Cả đống nước sông, nước suối – cùng với nước mưa và nước mắt – đã ào ạt (và xối xả) chẩy qua qua cầu, hay trôi qua cống. Những dịp đi chơi với ông (e) sẽ cũng không còn nhiều lắm nữa. Tôi chợt nghĩ như thế khi cho xe nổ máy.

Nhạc sĩ Vũ Đức Nghiêm. Ảnh:honque

Quán cà phê vắng tanh. Nhạc mở nhỏ xíu nhưng tôi vẫn nghe ra giai điệu của một bài hát rất quen:

“Gọi người yêu dấu bao lần.
Nhẹ nhàng như gió thì thầm.
Làn mây trôi gợi nhớ chơi vơi thương người xa xôi.
Gọi người yêu dấu trong hồn.
Ngập ngừng tha thiết bồn chồn.
Kỷ niệm xưa mơ thoáng trong sương cho lòng nhớ thương…”

– Hình như là nhạc của Vũ Đức Nghiêm … Anh nghe xem có đúng không? Tôi đùa.

– Em nói nghe cái gì?

– Anh thử nghe nhạc coi…

– Nhạc của ai?

Tôi chợt nhớ ra là ông anh đã hơi nặng tai nên gọi cô bé chạy bàn:

– Cháu ơi, người ngồi trước mặt chúng ta là tác giả của bản nhạc Gọi Người Yêu Dấu mà mình đang nghe đó. Cháu mở máy lớn hơn chút xíu cho ổng … sướng nha!

Thấy người đối diện có vẻ bối rối vì cách nói vừa dài dòng, vừa hơi quá trịnh trọng của mình nên tôi cố thêm vào một câu tiếng Anh (vớt vát) nhưng ngó bộ cũng không có kết quả gì. Đúng lúc, chủ quán bước đến:

– Cháu nó mới từ Việt Nam sang, ông nói tiếng Mỹ nó không hiểu đâu. Ông cần gì ạ?

– Dạ không, không có gì đâu. Never mind!

Tôi trả lời cho qua chuyện vì chợt nhận ra sự lố bịch của mình. Cùng lúc, bản nhạc của Vũ Đức Nghiêm cũng vừa chấm dứt. Tôi nhìn anh nhún vai. Vũ Đức Nghiêm đáp lại bằng một nụ cười hiền lành và … ngơ ngác!

Tự nhiên, tôi thấy gần và thương quá cái vẻ ngơ ngác (trông đến tội ) của ông. Tôi cũng bị nhiều lúc ngơ ngác tương tự trong phần đời lưu lạc của mình. Bây giờ hẳn không còn ai, ở lứa tuổi hai mươi – dù trong hay ngoài nước – còn biết đến tiếng “Gọi Người Yêu Dấu” (“ngập ngừng tha thiết bồn chồn”) của Vũ Đức Nghiêm nữa. Thời gian, như một giòng sông hững hờ, đã vô tình bỏ lại những bờ bến cũ.

Vũ Đức Nghiêm, tựa như một cây cổ thụ hiếm hoi, vẫn còn đứng lại bơ vơ bên bờ trong khi bao nhiêu nhạc sĩ cùng thời đều đã ra người thiên cổ. Trúc Phương là một trong những người này. Qua chương trình Bẩy Mươi Năm Tình Ca Trong Tân Nhạc Việt Nam, nhà phê bình âm nhạc Hoài Nam đã cho biết nhiều chi tiết vô cùng thê thiết về cuộc đời của người viết nhạc (chả may) này.

Trang sổ tay hôm nay, chúng tôi xin được nắn nót ghi lại đây những nhận xét của Hoài Nam, và mong được xem như một nén hương lòng (muộn màng) gửi đến một người đã khuất:

Trúc Phương là một trong những nhạc sĩ gốc miền Nam được yêu mến nhất, từng được mệnh danh là ông vua của thể điệu Bolero tha thiết trữ tình. Ông tên thật là Nguyễn Thiện Lộc, ra chào đời năm 1939 tại xã Mỹ Hoà, quận Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh, tức Vĩnh Bình – một xứ Chùa Tháp thu nhỏ ở vùng hạ lưu sông Cửu Long…”

“Nhạc của Trúc Phương thường buồn, rất buồn. Trong số những ca khúc của ông, hình như, chỉ có hai bản vui. Đó là: Tình Thắm Duyên Quê và Chiều Làng Em. Riêng bản Chiều Làng Em nói rằng vui là so sánh với những sáng tác khác của ông. Chứ Thực ra, bản nhạc này tuy có nội dung êm đềm trong sáng nhưng giai điệu của nó cũng man mác buồn. Không hiểu vì cuộc đời của Trúc Phương vốn nhiều chuyện buồn và đã được ông gửi gấm vào dòng nhạc hay vì ông thích sáng tác nhạc buồn nên riết rồi nó ám vào người, chỉ biết những sáng tác phổ biến nhất, nổi tiếng nhất của ông đều là những ca khúc buồn: Chiều Cuối Tuần, Nửa Đêm Ngoài Phố, Tầu Đêm Năm Cũ, Bóng Nhỏ Đường Chiều …”

Tháng 4 năm 1975, Trúc Phương bị kẹt lại. Năm 1979, ông vượt biên nhưng bị bắt và bị tù. Sau khi được thả, cuộc sống của ông trở nên vô cùng thê thảm về thể xác vật chất cũng như tinh thần. Trong một đoạn video phỏng vấn ông, được Trung Tâm Asia phổ biến tại hải ngoại, Trúc Phương cho biết:.

“Sau cái biến cố cuộc đời, tôi sống cái kiểu rài đây mai đó,’bèo dạt hoa trôi’… Nếu mà nói đói thì cũng không đói ngày nào, nhưng mà no thì chẳng có ngày nào gọi là no…Tôi không có cái mái nhà, vợ con thì cũng tan nát rồi, tôi sống nhà bạn bè, nhưng mà khổ nổi hoàn cảnh họ cũng bi đát, cũng khổ, chứ không ai đùm bọc ai được…đến nửa lúc đó thì vấn đề an ninh có khe khắc, lúc đó thì bạn bè tôi không ai dám “chứa” tôi trong nhà cả, vì tôi không có giấy tờ tùy thân, cũng chẳng có thứ gì trong người cả.Tôi nghĩ ra được một cách..là tìm nơi nào mà có khách vãng lai rồi mình chui vào đó ngủ với họ để tránh bị kiểm tra giấy tờ…Ban ngày thì lê la thành phố, đêm thì phải ra xa cảng thuê một chiếc chiếu, 1 chiếc chiếu lúc bấy giờ là 1 đồng…thế rồi ngủ cho tới sáng rồi xếp chiếc chiếu trả người ta..thế là mình lấy 1 đồng về….như là tiền thế chân…Một năm như vậy, tôi ngủ ở xa cảng hết 9 tháng…Mà nói anh thương…khổ lắm….Hôm nào mà có tiền để đi xe lam mà ra sớm khoảng chừng năm giờ có mặt ngoài đó thế rồi thuê được chiếc chiếu trải được cái chỗ lịch sự chút tương đối vệ sinh một tí mà hôm nào ra trễ thì họ chiếm hết rồi, những chỗ sạch vệ sinh họ chiếm hết rồi ,tôi đành phải trải chiếu gần chỗ ‘thằng cha đi tiểu vỉa hè’, thế rồi cũng phải nằm thôi.Tôi sống có thể nói là những ngày bi đát…mà lẽ ra tôi nên buồn cho cái hoàn cảnh như thế nhưng tôi không bao giờ buồn …Tôi nghĩ mà thôi , còn sống cho tới bây giờ và đó cũng là một cái chất liệu để tôi viết bài sau này…”

Chất liệu, rõ ràng, đã có (và có quá dư) nhưng cơ hội để Trúc Phương viết bài sau này (tiếc thay) không bao giờ đến – vẫn theo như lời của nhà phê bình âm nhạc Hoài Nam:

Vào một buổi sáng năm 1996, Trúc Phương không bao giờ thức dậy nữa. Ông đã vĩnh viễn ra đi. Tất cả gia tài để lại chỉ là một đôi dép nhựa dưới chân. Thế nhưng xét về mặt tinh thần Trúc Phương đã để lại cho chúng ta một di sản vô giá.”

“Chúng ta ở đây là những người yêu nhạc, trong nước cũng như hải ngoại, bên này cũng như bên kia chiến tuyến. Bởi vì hơn ba mươi ca khúc nổi tiếng của ông cho dù có một hai bài có nhắc đến chữ ‘cộng hoà’ vẫn phải được xem là những tình khúc viết cho những con người không phải cho một chế độ chính trị nào. Những con người sinh ra và lớn lên trong một cuộc chiến không lối thoát với niềm khắc khoải chờ mong một ngày thanh bình . Cuối cùng thanh bình đã tới nhưng không phải là thứ thanh bình mà những ‘con tim chân chính’ trong nhạc của Lê Minh Bằng hằng mơ ước mà là thứ thanh bình của giai cấp thống trị, của một thiểu số may mắn nào đó. Chính cái thanh bình ấy đã cướp đi bao nhiêu sinh mạng trong đó có người Việt Nam xấu số đáng thương tên Nguyễn Thiện Lộc, tức nhạc sĩ Trúc Phương nổi tiếng của chúng ta.”

Thôi thì cũng xong một kiếp người! Và dòng đời, tất nhiên, vẫn cứ lạnh lùng và mải miết trôi. Sáng nay, tôi lại chợt nhớ đến Trúc Phương sau khi tình cờ đọc được một mẩu tin ngăn ngắn – trên báo Pháp Luật:

Ngày 31-1, một số cán bộ hưu trí, người dân ở phường Bình Hưng Hòa B (quận Bình Tân, TP.HCM) bức xúc phản ánh cuộc họp mặt đầu năm do phường tổ chức … Ngay phần khai mạc lúc gần 9 giờ sáng, trên nền nhạc hip hop, hai phụ nữ ăn mặc hở hang, thiếu vải lên nhún nhảy, múa những động tác khêu gợi. Hai thanh niên múa phụ họa. Quan sát đoạn video chúng tôi thấy nhiều cán bộ hào hứng xem tiết mục ‘lạ mắt’ này. Có cán bộ còn dùng điện thoại quay lại cảnh hai cô gái biểu diễn, ưỡn người và ngực về phía khán giả. Nhiều người tham gia rất hào hứng, chỉ trỏ, thì thầm vào tai nhau…

Chúng tôi tiếp tục liên lạc với bà Nguyễn Thị Bích Tuyền, Phó Chủ tịch phường kiêm Chủ tịch Công đoàn phường … bà Tuyền lý giải: ‘Tiết mục múa chỉ diễn ra gần 3 phút và đây là vũ điệu theo phong cách Hawaii nên hơi lạ…”

Nếu ngay sau khi chiếm được miền Nam mà qúi vị cán bộ cộng sản cũng có được cách “lý giải” tương tự thì thì Mai Thảo, Hoàng Anh Tuấn … đã không phải bỏ thân nơi đất lạ. Vũ Đức Nghiêm cũng đã tránh được những giây phút bơ vơ, ngơ ngác, lạc lõng ở xứ người. Và Trúc Phương thì chắc chắn vẫn sẽ còn ở lại với chúng ta, vẫn có những đêm khắc khoải buồn vào hồn không tên, thay vì nằm chết cong queo trong đói lạnh – trên một manh chiếu rách – với tài sản duy nhất còn lại chỉ là một đôi dép nhựa.

Mọi cuộc cách mạng luôn luôn có cái giá riêng của nó. Riêng cái thứ cách mạng (thổ tả) của những người cộng sản Việt Nam thì đòi hỏi mọi người đều phải trả cái giá (hơi) quá mắc mà thành quả – xem ra – không có gì, ngoài tội ác!

Cửu Bình – Cuốn sách giải thích vì sao người Trung Quốc ngày càng “xấu xa”

From facebook: Tinh Hoa with Sự Thật and Khai Tri.
ĐCSTQ nhận ra tầm quan trọng của văn hóa, nên đã thành lập “văn hóa Đảng”, kiểm duyệt thông tin gắt gao, loại bỏ “đức nhân” truyền thống của con người như: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Cuộc tấn công vào các giá trị đạo đức thể hiện rõ trong chiến dịch “Phá Tứ Cựu” trong Đại Cách mạng Văn hóa, nghĩa là phá bỏ quan niệm cũ, văn hóa cũ, phong tục cũ và thói quen cũ.

Văn hóa Đảng là văn hóa tranh đấu, đạp đổ và phá bỏ, hiện đã thấm nhuần trong tư tưởng từng người dân Trung Quốc bởi quá trình đầu độc bài bản và có hệ thống từ khi họ bước vào độ tuổi cắp sách đến trường. Văn hóa ấy trở thành máu huyết lưu thông trong tư tưởng mà chính bản thân họ cũng không thể nhận ra. Đây là điều độc ác nhất mà ĐCSTQ thực hiện với người dân của họ, mục tiêu là biến đổi lương tri, gieo vào đầu con người những quan điểm, chuẩn mực lệch lạc, làm méo mó và biến dị tư tưởng, cuối cùng người dân sẽ hoàn toàn “thuần phục” Đảng.

. Cửu Bình, cuốn sách miêu tả chân thực và sâu sắc bản chất của Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ),…
TINHHOA.NET

Nước chảy mây tan, tình bất diệt,

Suy Tư Tin Mừng Trong tuần thứ 3 mùa Chay năm A 19/3/2017

Tin Mừng: (Ga 4: 5-42)

Khi ấy, Đức Giêsu đến một thành xứ Samari, tên là Xykha, gần thửa đất ông Gia-cóp đã cho con là ông Giuse. Ở đấy, có giếng của ông Giacóp. Người đi đường mỏi mệt, nên ngồi ngay xuống bờ giếng. Lúc đó vào khoảng mười hai giờ trưa.

Có một người phụ nữ Samari đến lấy nước. Đức Giêsu nói với người ấy:”Chị cho tôi xin chút nước uống!” Lúc đó, các môn đệ của Người đã vào thành mua thức ăn. Người phụ nữ Samari liền nói: “Ông là người Do-thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samari, cho ông nước uống sao?” Quả thế, người Do-thái không được giao thiệp với người Samari. Đức Giêsu trả lời: “Nếu chị nhận ra ân huệ Thiên Chúa ban, và ai là người nói với chị: “Cho tôi chút nước uống”, thì hẳn chị đã xin, và người ấy đã ban cho chị nước hằng sống.” Chị ấy nói: “Thưa ông, ông không có gầu, mà giếng lại sâu. Vậy ông lấy đâu ra nước hằng sống? Chẳng lẽ ông lớn hơn tổ phụ chúng tôi là Gia-cóp, người đã cho chúng tôi giếng này? Chính Người đã uống nước giếng này, cả con cháu và đàn gia súc của Người cũng vậy.” Đức Giê-su trả lời: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời.”

Người phụ nữ nói với Đức Giêsu:”Thưa ông, xin ông cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây lấy nước.”

Người phụ nữ lại nói với Ngài:”Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ. Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo:Giêrusalem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa.” Đức Giêsu phán:”Này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha, không phải trên núi này hay tại Giêrusalem.Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do-thái. Nhưng giờ đã đến -và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là thần khí, và những kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong thần khí và sự thật.” Người phụ nữ thưa:”Tôi biết Đấng Mêsia, gọi là Đức Kitô, sẽ đến. Khi Người đến, Người sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.” Đức Giêsu nói: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây.” Vậy, khi đến gặp Người, dân Samari xin Người ở lại với họ, và Người đã ở lại đó hai ngày. Số người tin vì lời Đức Giêsu nói còn đông hơn nữa. Họ bảo người phụ nữ: “Không còn phải vì lời chị kể mà chúng tôi tin. Quả thật, chính chúng tôi đã nghe và biết rằng Người thật là Đấng cứu độ trần gian.”

&   &   &

“Nước chảy mây tan, tình bất diệt,”

Tình theo bước khách bốn phương trời.”

(dẫn từ thơ Hồ Dzếnh)

Bốn phương trời, tình theo bước khách, phải chăng là bước chân âm thầm của Đấng Nhân Hiền hằng đưa dẫn mọi người về lại với Cha như trình thuật thánh sử, đà ghi chép?

Trình thuật thánh Gioan hôm nay ghi, là ghi về một đối thoại hãn hữu giữa Đức Giêsu và nữ phụ xứ Samari. Đây là biến cố ít khi thấy nơi người Do Thái, mọi thời đại. Do thái xưa, vẫn coi nữ phụ xứ Samari là kẻ vô dụng, về nhiều thứ. Phụ nữ muốn múc nước về dùng, đều phải ra giếng. Thông thường, muốn ra giếng Gia-cóp, phụ nữ phải đi thành đoàn. Trình thuật hôm nay, kể về nữ phụ hôm ấy, không chỉ một thân một mình đến múc nước giếng mà thôi, nhưng còn dám tiếp chuyện với Đấng lạ mặt, một nam nhân Do thái. Đó, là điều tối kỵ. Đó, chính là vấn đề.

Vấn đề nặng nề hơn, khi người tiếp chuyện với nữ phụ ngoài luồng giữa “thanh thiên bạch nhật”, lại là Đấng Nhân Hiền từng hành xử nghiêm minh, nhất mực. Thật hiếm khi thấy Đức Giêsu đối thoại cả với nữ phụ về nhiều vấn đề, ngay cạnh giếng Gia-cóp, tức chốn thánh thiêng truyền thống, rất gắt gao.

Cũng vì tính cách gắt gao/nghiêm túc ấy, nên cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và nữ phụ Samari đầy những chuyện ngoại lệ. Vì ngoại lệ, nên nữ phụ Samari cứ phân tâm nói chuyện khác, khiến Chúa cứ phải gạt sang một bên những chuyện không cần thiết. Vì, Ngài có một số điều quan trọng muốn nói và tặng ban để chị lưu tâm. Cuối cùng, Ngài đành chấp nhận ở vào cảnh huống có ngoại lệ.

Trình thuật hôm nay đưa ra một số điều ngoại lệ không mang ý nghĩa gì, như câu:“còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt”, “đồng lúa chín vàng chờ ngày gặt hái”, “kẻ này gieo, người kia gặt”, càng làm cho cuộc đối thoại giữa Chúa và người nữ phụ trở nên “ngoại lệ” hơn. Câu chuyện ngoại lệ còn thấy ở nhiều điểm khác, rất tinh tế.

Trước hết, là giới tính. Ngày nay, nam nhân được phép nói chuyện thẳng thắn, công khai với phụ nữ ở chốn đông người, đâu thành vấn đề. Khi xưa, thì không dễ. Và, đối thoại với nữ phụ Samari, Đức Giêsu như ngầm bảo: ta hiện diện nơi đây, cũng là chuyện bình thường, rất mọi ngày?

Và, một ngoại lệ khác, về sắc tộc. Cũng không hẳn là chuyện kỳ thị, nhưng hỏi rằng: người Do thái xưa có được nói chuyện dễ dàng với người Samari “ngoài luồng” không? Hoặc, vì luật cấm, nên đôi bên cứ phải tránh né nhau? Đối thoại với nữ phụ Samari, Đức Giêsu như ngầm chứng tỏ một luận cứ: nói chuyện với nữ phụ, không là vấn đề! Chúng ta đều là con người!

Rồi, ngoại lệ khác, về giáo dục. Chắc hẳn có người hỏi: các thày tư tế có được nói chuyện với người ít học không? Cuộc đối thoại với nữ phụ Samari, ra như Chúa muốn ngầm tỏ bày một nhận xét, là: xem ra chị cũng là người thông minh, dù chưa từng đến trường lớp để được học!

Ngoại lệ kế tiếp, là về lịch sử. Ngày nay, ta có nên suy tư về hiện tại và về con người ở đây, ngay thời này không? Hỏi là hỏi thế, chứ dường như Sách thánh chỉ kể về quá khứ với chuyện lão phu hay lão phụ đáng kính, mà thôi. Đối thoại được kể lại hôm nay, chừng như Đức Giêsu muốn ngầm nhắn với người đọc, rằng: bản thân TA cũng đâu muốn đem Kinh với Sách ra mà bàn. Thật sự, điều TA muốn đề cập chỉ là về chị, thôi.

Và, thêm một ngoại lệ nữa, về chốn phụng thờ. Có câu hỏi, rằng: thờ phượng Chúa nơi nào là thích hợp hơn cả? Với người Do thái, câu trả lời sẽ là: đền Giêrusalem. Với người Samaritanô, đương nhiên là núi thánh Gerizim, gần Sechem. Đối thoại với nữ phụ ngoài Đạo, dường như Đức Giêsu muốn ngầm bảo rằng: một ngày kia, TA đâu cần đền thờ nào nữa. Tất cả chỉ cần yêu kính Chúa, thế là đủ.

Cuối cùng, là ngoại lệ thật rõ nét về bí nhiệm của cuộc sống trong quá khứ mà người người cứ tưởng rằng chẳng ai biết đến, dù là Chúa. Bí nhiệm cuộc sống riêng tư, như nữ phụ Samari được biết có đến năm bảy đời chồng. Và thêm nữa, ta có nên cho đó chuyện quan trọng bậc nhất, trong cuộc sống không? Đối thoại với nữ phụ Samari, Đức Giêsu như muốn nói: Tốt. TA biết tất cả mọi sự về con. Bởi thế nên, cũng đừng lo lắng gì về Ta, hết.

Đức Giêsu thật kiên nhẫn. Dù, nghe đủ thứ chuyện, nhưng Ngài lại không mấy quan tâm thích thú. Ngài chỉ muốn đem đến cho nữ phụ Samari, cũng như mọi người, thông điệp thật sự quí giá, đó là: sự sống là quà tặng. Và, khi nhận được quà, mọi người cũng nên cảm kích biết ơn, thế mới phải.

“Nếu chị nhận ra đó là quà tặng Chúa ban”“Nếu chị biết rằng Chúa đang ban ơn cho chị”… chính là khẳng định rất chắc nịch. Khẳng định rằng: Tất cả là quà tặng, từ Chúa. Quà Ngài ban, vẫn đổ tràn xuống với mọi người. Quà ấy, là tình thương yêu trìu mến xuất từ Thiên Chúa. Tất cả những gì mà mọi người cho là mình sở hữu, tất cả những gì mình làm hoặc suy nghĩ, nhất nhất đều là quà tặng.

Chính đó là điều mà mọi người lâu nay vẫn tuyên tín. Vẫn tin vào một Thiên Chúa, Đấng tạo thành vạn vật. Đấng ban cho ta hết mọi thứ, như quà tặng không, biếu không. Và hiểu rằng, ý nghĩa quà tặng sự sống Chúa trao ban, làm cho cuộc sống của ta nên đáng sống. Nhưng oái oăm thay, đôi lúc ta cứ muốn độc lập hẳn với Chúa. Cứ suy nghĩ và hành động như thể mọi sự là của ta, do ta kiếm ra. Chứ chẳng phải của ai cho, hết.

Bởi thế nên, lắm lúc ta cứ hành xử như mình là chủ-nhân-ông đích thật mọi sự vật. Chủ, mọi sự vật cũng như tài sản mình đang nắm giữ. Rồi từ đó, lại có cảm giác cứ trách móc cho rằng Thiên Chúa không tạo dựng nên mọi sự cho ta sử dụng, ngay từ đầu. Sau các cơn địa chấn với sóng thần gây kinh hoàng ở đây đó, nhiều người xem ra mới mở mắt, biết rằng: những gì mình lâu nay sở hữu, thật sự không phải là của mình, do mình kiếm ra. Mà là, do Chúa tặng để mình tạm thời sử dụng, thôi. Sử dụng, theo cung cách rất độ lượng ngõ hầu mình có thể giùm giúp người khác, đang cần thiết hơn.

Quà tặng lớn nhất trong đời mọi người, chính là sự sống. Tựa hồ như giòng chảy ở trên sông. Như mạch suối ngầm trồi lên từ lòng đất. Như Chúa từng quả quyết: “Nước Ta ban, sẽ nên mạch suối trong đó có nước vọt, đem lại sự sống đời đời.” (Ga 4: 14)

Bởi thế nên, hãy dừng lại! Đừng hành xử như người ai oán, sầu thảm, chẳng biết ơn. Hãy ngưng trách móc người đời không còn nhớ đến mình. Không nhớ, để giúp tôi sung sướng, hạnh phúc. Trái lại, hãy trở thành động lực sinh động, trong thiên nhiên. Giống thiên nhiên. Và, hãy làm chút gì đó cho cuộc sống. Như, rao truyền niềm vui cho mọi người, ở mọi nơi chứ không chỉ tập trung vào chính mình. Hoặc, chỉ gia đình mình, mà thôi.

Sống, và cảm nhận rằng sự sống là quà tặng, tức: sống biết ơn. Sống như thế, không cần đến đền thờ, nguyện đường hay chùa chiền cho nhiều mà làm gì. Điều chính yếu, là biết nói lời cảm tạ, với mọi người. Ngừng suy nghĩ, nhưng đừng ngưng cảm tạ. Trái lại, hãy cùng nhau cảm nhận cùng biết ơn nhau. Đó, là điều cần suy tư, chiêm niệm. Đừng nên coi mọi chuyện như của cho-không/biếu-không, hoặc từ trời rơi xuống. Nhưng, cứ nhận quà tặng/ân huệ với lòng cảm kích, biết ơn. Và, tự hỏi: đã lâu chưa ngày mình nói lời “cảm tạ” người nào đó? Lâu rồi chứ, giây phút mà ai đó vẫn cảm ơn mình mãi.

Đã lâu chưa, ngày mình thưa: “Tạ ơn Chúa’, bên ngoài thánh lễ? Và khi nói “Tạ ơn Chúa” như thế, thực sự thì điều đó có nghĩa gì? Bởi, Lời Chúa hôm nay ghi rõ: “Nhưng giờ đã đến -và chính là lúc này đây- những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Cha trong Thần khí và sự thật, vì Cha chỉ tìm những ai thờ phượng Người như thế. Thiên Chúa là Thần khí, và kẻ thờ phượng Người phải thờ phượng trong Thần khí và sự thật.” (Ga 4: 23-24)

Đức Giêsu ra như vẫn ngầm nói với nữ phụ Samari và mọi người, rằng: Ta ở đây, nơi này, là để loan tin vui về sự cảm kích biết ơn. Biết ơn, vì đã nhận được quà tặng sự sống gửi đến cho mỗi người. Nếu mọi người đồng ý, thì vai trò của mọi người hôm nay, là thực hiện điều đó, và chứng tỏ cho mọi người thấy, rằng: ta đây cũng có thể làm được nhiều điều khác biệt. Tựa như nữ phụ Samari xưa, biết nhận lĩnh vai trò Chúa uỷ thác, sẽ hành xử theo cung cách riêng:“Người phụ nữ để vò nước lại, vào thành và nói với mọi người…” rằng: vẫn có cung cách khác, để sống. Là, sống cảm kích, biết ơn.

Hội thánh chọn trình thuật này, giữa Mùa Chay, là để con dân mình biết mà đón mừng Phục Sinh. Bởi, Phục Sinh là quà tặng Chúa sống lại gửi đến cho ta. Để rồi, lời Chúa mời mọi người nói lời cảm kích biết ơn về quà tặng sống lại mà cái chết không tài nào lấy đi được, khỏi tay ta.

Sở dĩ, Hội thánh chọn Tin Mừng này là để: vào với Phục Sinh, ta sẽ cảm kích biết ơn nhiều hơn, vì đã lĩnh nhận ơn thanh tẩy. Bởi, chính đó là nước. Là, quà tặng sự sống. Sự sống mới trong Đức Kitô, để rồi ta sẽ không bao giờ quên sót thái độ cảm kích biết ơn. Và, đó cũng là lý do khiến ta có mặt ở Tiệc Thánh. Tiệc, là cung cách để ta nói lời cảm tạ đưa ra với Chúa. Với mọi người. Về tất cả mọi sự gửi đến cho ta.

Trong tinh thần cảm kích biết ơn quà tặng Chúa ban, cũng nên về với lời thơ trên mà ngâm tiếp:

“Mây nước vô tình, lãnh đạm trôi, Tình không giống nước, tình không xuôi;

bao lần lá thắm xuôi theo nước, nước chảy, tình duyên ở với người.” (Hồ Dzếnh – Nước Chảy Chân Cầu)

Nước, là giòng chảy sự sống. Vô tình là bản tính của nước, nhưng tình không giống nước, vì tình vẫn ở với nước, với đời. Để cùng đời cảm tạ Đấng Tạo Thành nước. Tạo ra đời. Rất khôn nguôi.

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn – 

Mai Tá lược dịch.  

Yêu nhau một thời xa nhau một đời

httpv://www.youtube.com/watch?v=prz6pp5h6zc

 

GIỌT LỆ CHO NGÀN SAU – Từ Công Phụng – Vũ Khanh

 

Chuyện Phiếm Đọc Trong Tuần thứ 3 mùa Chay năm A 19/3/2017

 

“Yêu nhau một thời xa nhau một đời
Lệ này em sẽ khóc ngàn sau…”

(Từ Công Phụng – Giọt Lệ Cho Ngàn Sau)


(Mt 4: 10-11)

 

Trần Ngọc Mười Hai

Đôi khi, ta cũng nên bắt đầu bài phiếm bằng một truyện kể nhè nhẹ nào đó, cho dễ nghe và dể đọc chứ, phải thế không bạn, phải thế không tôi? Nếu thế thì, đây là truyện kể thật không dễ, mỗi khi nghe:

“Truyện kể là truyện kể rằng:

 Hôm đó, có buổi tham-vấn giữa thày trò chú tiểu đồng và hoà-thượng ở ngôi chùa không nổi tiếng với bá tánh, chỉ nổi danh thiên-hạ ở Tây Tạng về tính thân-thương thày trò khi học hỏi. Vốn là buổi học để hỏi và có nhiều câu hỏi cũng rất dễ, nên Lão hoà-thường bèn cất tiếng hỏi chú tiểu:

 -Nếu bước lên trước một bước là tử, lùi lại một bước là vong, con sẽ làm thế nào?

Chú tiểu trả lời nhanh như chớp, không do dự:

-Con sẽ đi sang bên cạnh!”

Và người kể truyện từ đó rút ra bài học để đời rằng: “Khi gặp khó khăn, hãy đổi góc độ mà suy nghĩ, có thể ta sẽ hiểu được rằng: bên cạnh vẫn có con đường đế tiến hoặc thoái, không hề hấn…” 

Vâng. Đúng thế. Trong đời người, cũng có rất nhiều bài học nên rút tỉ để mà sống. Sống hiên-ngang không vương-vấn, bận tâm hoặc nề hà chuyện gì. Dù, đó có là chuyện triết-học hoặc thần-học chốn cao sang vời vợi ấy.

Truyện nghe rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta đi thẳng vào chủ-đề để suy-nghĩ. Suy và nghĩ, chứ đừng cãi vã hoặc tranh-luận để làm gì cho thêm mệt. Chủ đề, là luận-đề thật không dễ, xin trình làng để bà con ta hôm nay bàn tán cho rộng đường dư-luận rồi con có quyết tâm mà sống đời mạnh-mẽ rất không thôi. Chủ-đề cũng nhè nhẹ như mọi đề-luận rất triết và cũng rất thần như mọi bữa.

Thế nhưng, trước khi đi vào câu chuyện để bàn luận cho rõ một/hai, mời bạn và tôi, ta cứ nhè nhẹ ngâm nga câu hát cứ vang-vọng mãi không thôi, như bên dưới:

“Lối rêu xưa sẽ mờ dấu chân người,
người buồn cho mai sau, cuộc tình ta tan mau.

Thoáng như chiếc là vàng bay,
mùa thu qua, mùa thu qua hững hờ.
Nhìn nhau cho thêm đau, nhìn nhau cho mưa mau.
Mưa trên nụ cười mưa trên tình người,
lệ nào em sẽ khóc ngàn sau.

Với đôi tay theo thời gian tôi còn,
một trời mây lang thang, một mình tôi lang thang.
Lá vẫn rơi bên thềm vắng,
từng thu qua, từng thu qua võ vang.
Nhìn nhau cho thêm đau, nhìn nhau cho mưa mau.
Mưa trên cuộc đời mưa như nghẹn lời
lệ này em sẽ khóc ngàn sau …
(Từ Công Phụng – bđd)

Thôi thế, cũng xong một bài hát. Nay, ta tiến vào vùng trời luận phiếm với những ý-tưởng về triết/thần đặt ra như sau:

“Điểm nhấn khi vẽ Chân-dung Đức Giêsu ở Tin Mừng là ngang qua danh-xưng: Đấng Chữa lành/Trừ tà hoặc Bậc Thày Vô-địch của Vương Quốc Nước Trời, nhất nhất đều là mấu chốt lịch-sử mà tác-giả Tân-Ước cứ từ-từ che-đậy, gây mờ nhạt.

 Nhiều sự-kiện cho thấy Đức Giêsu có được mọi người công-nhận là Đấng Thiên-Sai hay không, Ngài vẫn khởi-đầu tiến-trình phức-tạp thiêt-lập nền thần-học dài những ba thế kỷ tập-trung vào việc nâng-cấp Bác Thợ Mộc làng Nadarét lên hàng quan-trọng bậc nhì nơi Ba Ngôi linh-thánh.

 Nói cách khác, hiện có lo-ngại bảo rằng: việc đưa ra các chứng-cớ thấy có ở Tân-Ước đã hỗ-trợ cho các sử-gia tài-ba xoay sở, để các ngài tái định-vị Đức Kitô của Tin Mừng. Đức Giêsu của ông Máccô cũng bị giấu nhẹm, cốt để biến Ngài thành con người phàm-tục cứ rảo bộ suốt trên con đường sỏi đá đầy bụi bặm ở Galilê vào thế-kỷ thứ nhất sau Công nguyên.

 Phải chăng khi ấy, ta mới thấy là tác-giả Tin Mừng đã phục-hồi toàn bản-vị Đức Giêsu Nadarét vượt quá “tầm tay với” của mọi người? Tựa hồ thế-hệ học-giả, tôi cũng đã tỏ-bày nỗi u-sầu về sự việc Tin Mừng đã để mất đi chứng-cớ rõ ràng khi các ngài viết về Đức Giêsu như thể chính Ngài đã tỏ-lộ mọi sự để các ngài viết và/hoặc tóm-tắt lập-trường tư-tưởng do Ngài đề-xướng và hiện-thực.

 Rủi thay, nội-dung các bản văn thiếu tính học-thuyết này, lại thấy một số vị cứ quả-quyết rằng: mọi sự được Đức Giêsu chuyển cho vua Abgar Edessa ở Lưỡng Hà Địa hồi thế-kỷ đầu rồi. Rõ ràng là, điều đó đã nguỵ-tạo hoặc giả-mạo rất dễ. Và, chẳng tài-liệu nào vốn dĩ tồn-tại để rồi, qua đó, những người như tôi lại có hy-vọng tìm được bằng-chứng rất như thế.

 Cách hay nhất để ta biến-cải Đức Giêsu thành nhân-vật sống-động, khả dĩ lôi cuốn mọi người ở thế-giới Do-thái-giáo hôm nay cho bằng tái-tạo lại môi-trường sống giống thời Ngài. Có làm thế, may ra mới bắt chụp được lằn sáng cũng như tầm nhìn nào đó để thấy rõ bản-vị đích thật của Ngài.

 Thành thử, ở đây, thiết tưởng ta cũng nên tìm cách tái tạo lại bầu không-khí mà Ngài hít thở, cùng với ý-tưởng và lý-tưởng lại đã khiến cho những người sống ở Palestine vào thế-kỷ đầu thêm sống động mới là việc phải lẽ.

 Đặc-biệt, vùng nước lặng ở Galilê nơi đó mọi ước-mộng đạo-giáo cũng như các ganh-tương vặt-vãnh của người xưa và nhất là những người Galilê, lại là: lòng mến của bà con ta vẫn co-dãn từ sự tự-do mong thoát khỏi thể-chế do người La Mã cũng ảnh-hưởng lên hàng tư-tế ở Giuđêa và tạo co-dãn do bởi giai-cấp trí-thức có đại-diện là đám người Pharisêu nòng-cốt thống-trị.” (X. Gs Geza Vermes, Khuôn Trăng Diện Mạo Ngài Thay Đổi, nxb Tôn Giáo 2017)

Như người nghệ-sĩ vẫn cứ hát những ca-từ rõ mồn một, những là: “Sống buông xuôi theo ngày tháng, từng thu qua vời trông theo đã mờ, lệ rơi trên tim tôi, lệ rơi trên đôi môi…” thế mà người nghe vẫn cứ thích. Thích nghe và thích hát, dù ca-từ ấy đã khiến mình ngẫm nghĩ lại, thấy không đúng.

Nói về chuyện đúng/sai ở địa-hạt triết/thần, thật sự cũng khó nói. Khó đến độ, khi hát xuống đến những câu cuối mới thấy sững-sờ, ngờ ngợ như sau:

“Một mai khi xa nhau,
người cho tôi tạ lỗi,
dù kiếp sống đã rêu phong rồi.


Giọt nước mắt xót xa.
nhỏ xuống trái tim khô một đời tôi tê tái.
Lắng nghe muôn cung sầu hắt xuống đời.
Một trời tôi thương đau, một trời em mưa mau.


Sống buông xuôi theo ngày tháng,
từng thu qua vời trông theo đã mờ.
Lệ rơi trên tim tôi, lệ rơi trên đôi môi.
Yêu nhau một thời xa nhau một đời.
Lệ này em nhỏ xuống hồn tôi.


Yêu nhau một thời xa nhau một đời.
Lệ này em nhỏ xuống hồn tôi…”

(Từ Công Phụng – bđd)

Chẳng biết người viết nhạc, khi hát vang ca-từ ở trên có thấy sợ hay không, cũng chẳng rõ. Chỉ rõ có một điều là: hát những lời như: “Yêu nhau một thời, xa nhau một đời, Lệ này em nhỏ xuống hồn tôi.”Là, nói lên tâm-trạng của những người từng xót xa khi xa nhau. Và, khi đã “xa nhau một đời” rồi, thì khi ấy mới thấy “Lệ này nhỏ xuống hồn tôi”. Lệ nhỏ xuống hồn, là vì tôi và em từng “Sống buông xuôi theo ngày tháng, từng thu qua vời trông theo đã mờ” nên mới nhớ.

Nhà Đạo mình, đôi lúc cũng thấy mình sống giống hệt như thế. Sống xa cách nhau nhiều, mới thấy rằng: những cãi-tranh, biện-luận về triết/thần chỉ khiến người trong cuộc “dễ xa nhau” mà thôi. Và khi đã xa nhau rồi, mới thấy là: “Giọt nước mắt xót xa nhỏ xuống trái tim khô một đời tôi tê tái. Và nhất là: “Lệ này em nhỏ xuống hồn tôi” đến chết thôi. 

 Hôm nay đây, lại cũng thấy có đôi giòng lệ be bé cứ “nhỏ xuống hồn tôi”, hồn em và hồn của nhiều người, như đấng bậc chóp bu trong Đạo lại đã giảng-giải những điều rất thông-thường như sau:

“Satan là tên vô-lại đã nói dối rồi còn lừa đảo, hứa hão đủ mọi chuyện để rồi khi nó rời khỏi hiện-trường rồi, người đối-thoại với nó thấy là mình trần-truống, trơ trụi.” Trên đây, là ý/lời trong bài chia sẻ Tin Mừng được Đức Giáo Hoàng Phanxicô tỏ bày trong thánh-lễ sáng ngày 10/2/2017 tại nguyện-đường thánh Martha, ở Rôma.

 Trong bài chia-sẻ hôm ấy, ngày 10/2/2017, Đức Phanxicô đã cho thấy sự tương-phản giữa cung-cách do người nữ đầu đời là Eva tương-tác với con rắn trong vườn Địa Đàng và cách-thức Đức Giêsu phản-ứng lại với ác-thần/sự dữ sau 40 ngày ở chốn hoang-vu, sa mạc.

 Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói: “Đối với Eva, “sư tổ của sự dối-trá đã” cho thấy y ta đúng là chuyên-gia trong việc lừa-đảo con người. Trước nhất, y ta làm cho Eva cảm thấy thoải-mái cái đã, sau đó y ta bắt đầu cuộc đối-thoại với bà, từng bước và từng bước đem bà đến nơi đến chốn mà hắn muốn bà ta đến.

 Đức Giáo-Hoàng còn bảo: Hắn ta là tay lừa-đảo chánh-hiệu. Hắn hứa hẹn quí vị đủ mọi điều và rồi khi rời bỏ hiện-trường, quí vị mới nhận ra là mình trần-truồng, trơ-trụi một mình.

 Đức Giêsu thì khác. Ngài không đi vào cuộc đối-thoại với ác-thần/sự dữ, nhưng Ngài đáp trả lại cơn cám-dỗ bằng cách trích-dẫn Kinh Sách. Đức Giáo Hoàng Phanxicô lại nói thêm: Con rắn tượng-trưng cho ác-thần/sự dữ lại tinh-khôn, ranh mãnh đến độ quí vị không thể nào đối-thoại với hắn ta được. Chúng ta đều biết thế nào là cám-dỗ, chúng ta đều biết tất cả những điều như thế là bởi chúng ta đều có tất cả những thứ cám-dỗ như: phù hoa, kiêu-hãnh, tham-lam, thèm muốn.

 Đức Giáo Hoàng nói tiếp: Con người, thay vì nghe lời ác-thần/sự dữ rồi trốn chạy khỏi Đức Chúa, khi ta rơi vào cơn cám-dỗ, thì việc tốt nhất ta cần làm là: cầu nguyện. Khi ấy, hãy thưa với Chúa rằng: “Lạy Chúa xin giúp con. Con thật yếu đuối. Con không muốn trốn chạy khỏi Ngài đâu!” Cầu nguyện, là dấu-hiệu của sự can đảm, bởi lẽ giả như ta bị lừa vì thấy mình yếu kém đi nữa, ta cũng sẽ có can đảm để đứng lên mà tiến về phía trước xin Chúa thứ tha mọi yếu đuối lỡ lầm của mình, cũng được thôi.” (X. Cindy Wooden, Tin Mới Nhất tiếng Anh trong Catholic Herald 10/02/2017)

Đức Giáo Hoàng Phanxicô khi san-sẻ Lời Chúa ở nguyện-đường hôm ấy mới nói thế, chứ hỏi rằng: thời nay, Satan xuất-hiện ở đâu? Khi nào? Làm sao tránh được những kẻ như thế. Bởi, Satan nay rất khôn, chúng đội lốt dưới lằn áo của người an lành, hạnh đạo nữa, thì sao đây?

Lại nữa, bạn nghĩ sao khi nghe những câu như: “Đi với Hy Lạp thì như người Hy Lạp, với Do-thái thì như người Do-thái. Nói nôm na, là nói như người Việt mình vẫn bảo: “Đi với Bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”, là như vậy.

Dù, “Áo Dòng không làm nên thày tu” đi nữa, thật cũng khó. Khó, không chỉ với trẻ nhỏ, thôi; nhưng còn khó cả với ông già/bà cả nay cứ “ù ù cạc cạc” mỗi khi tiếp xúc với truyền-thông/vi-tính những làTwitter, Instagram, Face Time và gì gì đi nữa, cũng đều thế.

Nói tóm lại, nói thì dễ thực-hành mới thật là khó. Bởi, nếu Satan không khôn-khéo, lanh-lẹ và biến-thái muôn mặt, ắt ta không thể nào gọi chúng là ác-thần/sự dữ được. Chửa biết chừng, các đấng bậc hiền-lành/hạnh đạo cho lắm có khi càng biến-chất thành đám “quỉ tha ma bắt”, cũng không chừng.

Bước vào vườn thượng-uyển đầy lời lành thánh có câu truyện được đấng thánh-hiền kể như sau:

“Bấy giờ, Đức Giêsu phán bảo nó:

“Xéo đi! Satan! Vì đã viết:

Ngươi phải bái lạy Chúa, Thiên Chúa của ngươi,

và chỉ thờ-phượng một mình Ngài mà thôi.”

Thế rồi, ma quỷ bỏ Ngài,

và này các Thiên-thần tiến lại hầu hạ Ngài.”

(Mt 4: 10-11)

Phiếm luận và phiếm “loạn” ngày đầu năm 2017, tưởng cũng nên về với ý-kiến/suy-tư của rất nhiều vị và nhiều người, trong đó có thiền-sư Đạo Bụt là Thích Tánh Tuệ về cuộc đời, như sau:

Ngẫm nghĩ về cuộc đời:

1- Nếu ai hỏi tôi, điều gì tôi biết ơn nhiều nhất?

Tôi sẽ nói rằng, tôi biết ơn những điều tốt đẹp cũng như những điều xui xẻo tôi trải qua trong cuộc đời. Vì qua đó luyện cho tôi tính bớt kiêu ngạo, cũng như sự nhẫn nhục. Ngày xưa dịp Xuân về, tôi hay xuất hiện trên sân khấu, từng hát những bài tình ca, dành cho tình yêu, dành cho quê hương, nhưng nay, Trời đã lấy mất đi của tôi giọng hát, khiến tôi ngẫm rằng, sức khỏe của con người mong manh như giữa có và mất, sống và chết chỉ cách nhau trong gang tất, từ đó tôi trân trọng sức khỏe, sự sống, những khả năng, bạn hữu còn lại của mình hơn.

2- Nếu ai hỏi tôi, điều gì đã giúp tôi vẫn còn nuôi hy vọng trong cuộc sống?

 Tôi sẽ nói rằng, niềm hy vọng là một cái gì đó tuy mơ hồ nhưng luôn tiềm ẩn trong tâm hồn tôi. Sống mà không còn niềm tin yêu hy vọng là chết khi đang sống. Vì thế tôi thích gần cỏ cây, tôi yêu thương súc vật, tình yêu thiên nhiên ban cho tôi nghị lực để thắng những chông gai. Con người chẳng khác nào thân cây cỏ.

 3- Nếu ai hỏi rằng, tôi sợ lời chỉ trích của ai nhất ? Của bạn thân hay từ kẻ ghét mình ?

– Tôi sẽ nói rằng, không sợ lời chỉ trích của ai cả ! Vì chính tôi đã từng động não, chất vấn với chính lương tâm mình trong từng lời nói. Từng hành động. Chính mình có trách nhiệm với những điều mình viết. Những gì mình làm. Tránh không làm tổn thương người khác.

 4- Nếu ai hỏi tôi rằng, điều gì khiến cho tôi thất vọng ?

 – Tôi học được bài  học ở đời là: đừng nuôi tham vọng sửa đổi được người khác như ý mình muốn. Trên đời này không ai nghĩ giống ai, cho nên, bình an nhất cho mình là hãy chấp-nhận-họ-như-họ-vậy và đòi hỏi, họ-phải-chấp-nhận-lại-tôi-như- tôi-từng-là. Không ai chạm tự ái của ai hết. Có thế mới có hòa bình được. Vì nếu ai cũng háo thắng, ham danh, trách người mà không nhìn lại mình, chẳng khác nào cười chê Con Lừa có lưng gù xấu xí, trong khi mình cũng là một Con Lừa không khác chi nó.

 5- Nếu ai hỏi tôi rằng: Tình yêu chân thật là gì ? Làm sao nhận diện được nó ?

Tình yêu chân thật trong đời sống lứa đôi chỉ xảy ra được, khi hai người nhường nhịn, chấp nhận điểm xấu tốt của nhau, tặng cho nhau sự tin tưởng và sự tự do, không gò bó, gượng ép, ích kỷ. Như hai người bạn đồng hành nương tựa nhau mà đi. Cùng xây dựng mái ấm. Đó mới là tình yêu chân thật. Dĩ nhiên, đòi  hỏi thời gian thử thách mới đạt được tình yêu chân thật đó.

 6- Nếu ai hỏi tôi rằng, có thù những kẻ ác tâm với mình không?

 Tôi sẽ trả lời rằng không. Vì nếu ghét họ, tức tôi sẽ mất tự chủ, tôi để hình ảnh họ điều khiển trí não của mình, tôi sẽ tự đánh mất tôi. Điều đó tôi không muốn, nên thà tha thứ để cho tâm mình bình an, nhưng tôi không dám kết bạn với kẻ xấu nữa.

 7- Nếu ai hỏi tôi rằng….

Cứ thử gieo ai những muộn phiền

Chân về nghiêng bước, dạ không yên..

Xốn xang như mắt vừa vương bụi

Biết nỗi buồn kia ta nhận riêng!

Hãy thử trao ai chút dịu dàng!

Hạ nồng sao ngỡ lúc thu sang!

Mắt Từ đưa khắp trong trần thế

Ấm áp thay nghìn tiếng hỏi han..

Nhắm mắt một lần, để lắng nghe!

Nghe niềm đau.. trải khắp sơn khê..

Nhiệm mầu giọt lệ thành mây khói

Đời đẹp từ khi sống vỗ về…
Cứ thử ngồi gần bên cạnh nhau

Cùng khâu vá lại những cơn đau

Có khi, xa cách vì câm lặng

Lắm lúc ngôn lời chia hố sâu..
Hãy thử cho nhau những nụ cười

Đất trời như mở lượng đầy vơi

Khi Thương và Hiểu tràn muôn lối

Cõi sống địa đàng, vui khắp nơi.” 

(Như Nhiên Thích Tánh Tuệ)

Dĩ nhiên, ý-kiến và ý-hướng của thiền-sư nói ở trên không hẳn đã đúng hay sai hoặc là tất cả. Nhưng vẫn là ý-kiến tư-riêng cốt phản-hồi hầu tôi và bạn ta nghe thử rồi suy-tư, quyết chí cho đời mình, mỗi thế thôi.

Trần Ngọc Mười Hai

Nhiều lúc cũng muốn nghe thử

Các ý-kiến phản hồi

của các bạn đạo

khác với mình.