Tại sao người xưa nói: ‘Người tính không bằng Trời tính’

Tại sao người xưa nói: ‘Người tính không bằng Trời tính’

Trong kiếp nhân sinh này, mỗi người đều có sự lựa chọn của mình, 8 câu chuyện rất ngắn sau có thể giúp bạn nhận ra lựa chọn nào là quý trong đời.

  1. Chiếc đồng hồ ở đâu

Chiếc đồng hồ của người cha biến đâu mất tìm không  thấy, làm cha rất khó chịu, lật khắp nơi cũng tìm không ra. Đợi người cha đi ra khỏi phòng, cậu con trai liền lặng lẽ vào phòng, không lâu sau thì tìm thấy. Người cha hỏi: Sao con tìm thấy vậy? Con trai trả lời: Con chỉ ngồi yên lặng một chút, không lâu sau nghe thấy tiếng tích tắc của đồng hồ ….

Chúng ta càng nôn nóng tìm kiếm, càng không tìm thấy thứ mà mình muốn, chỉ có bình tâm, mới có thể nghe thấy tiếng vọng trong tâm mình.

  1. Khi nào thì được là chính mình

Khi cho đầy sữa vào một cái cốc thủy tinh, mọi người nói: đây là cốc sữa; khi cho đầy dầu vào đó, mọi người lại nói: đây là một cốc dầu. Chỉ có khi cốc trống rỗng, mọi người mới nhìn nhận nó là cái cốc.

Khi trong lòng chúng ta đong đầy học vấn, tiền tài, quyền lực thành quả và định kiến, thì không phải là bản thân chúng ta. Thường thường có được tất cả, ngược lại không thể có chính bản thân mình.

  1. Ai hạnh phúc

Có hai con hổ, một con ở trong lồng sắt, một con ở ngoài thiên nhiên hoang dã. Cả hai con hổ đều cho rằng hoàn cảnh sống của mình không tốt, nên đều ước ao ngưỡng mộ đối phương.

Thế là chúng quyết định thay đổi thân phẩn, khi mới bắt đầu cả hai đều rất vui vẻ. Nhưng không lâu sau đó, cả hai con hổ đều bị chết; một con chết vì đói khát, một con chết vì u buồn.

Có lúc, mọi người coi thường hạnh phúc bản thân mình đang có mà chỉ chăm chăm ngưỡng mộ hạnh phúc của người khác. Kỳ thực, tất cả những điều bạn có có thể chính là điều người khác đang ngưỡng mộ. Chỉ là bạn không đủ trân trọng nó mà thôi

  1. Nhân quả không sai

Có một người lính bị quân địch truy sát bất ngờ nên tháo chạy vào một hang núi. Quân địch đuối sát đằng sau gần bắt được anh ta, anh ta ở trong hang cầu nguyện để không bị quân địch phát hiện. Bỗng nhiên cánh tay bị đau như ai cắn, hóa ra đó là một con nhện, anh ta đang muốn giết con nhện đó, bỗng nhiên trong tâm nảy sinh thương cảm, liền thả con nhện ra. Không ngờ con nhện bò ra cửa hang dệt một cái mạng nhện mới hoàn chỉnh, quân địch truy sát tới cửa hang nhìn thấy một cái mạng nhện che kín, đoán là trong động không có người liền bỏ đi.

Có nhiều khi, giúp đỡ người khác cũng đồng thời là đang giúp đỡ chính mình.

  1. Có bao nhiêu tiền thì mua được xe

Có một chàng trai đi mua xe, cần số tiền là 10 ngàn USD nhưng chàng trai chỉ mang có 9998 USD tiền mặt, thiếu  2 USD.  Bỗng nhiên anh ta phát hiện ngoài cửa có một người ăn mày, liền qua nói với người ăn mày: “Cầu xin anh, cho tôi 2 USD nhé, tôi muốn mua xe” Người ăn mày nghe xong, hào phóng đưa cho anh chàng 4 USD và nói: “ Mua giúp tôi luôn một chiếc xe nhé.”

Nếu bạn hoàn thành tới hơn 90% nhiệm vụ, thì người khác có thể hỗ trợ giúp bạn thành công một cách nhẹ nhàng như trở bàn tay, ngược lại, nếu bạn không làm bất kể việc gì, thần tiên cũng không cứu được bạn.

  1. Đun nước thế nào

Sư phụ hỏi: Nếu con phải đun sôi một ấm nước, nhóm lửa đun được một nửa thì phát hiện không đủ củi, vậy thì con phải làm như thế nào? Có đệ tử nói vậy thì phải nhanh chóng đi tìm, có người nói đi mượn, có người nói đi mua. Sư phụ lại hỏi: ‘Tại sao không đổ bớt nước trong ấm ra nhỉ?’

Vạn sự việc trên thế giới này không phải đều như ý, có thể xả bỏ thì mới có thể đắc được.

  1. Người tính không bằng Trời tính

Có một người thành phố, năm 1984 vì mong muốn xuất ngoại, nên bán đi căn nhà lầu bốn tầng với giá 300 nghìn tệ, rời quê hương đến Italia để đào vàng. Dầm mưa dãi nắng chịu bao vất vả, ban đêm thức học ngoại ngữ, bị cướp 7 lần và bị đánh 3 lần ở khu dân nghèo. Vất vả tiết kiệm, đến nay đã tóc điểm sương mai, 30 năm rồi, cuối cùng tiết kiệm được 1 triệu ERO,  (khoảng 7 triệu 450 NDT), dự định về nước để hưởng thụ vinh hoa phú quý. Vừa về nước, phát hiện ra căn nhà lầu bốn tầng mà năm xưa đã bán đi, đang được treo bảng bán với già 80  triệu NDT, nhìn lại cái thời gian dài, công sức cực khổ mà ông ta trải qua trong hơn vài chục năm qua thực là vô ích, cũng vì sự sai lầm trong tính toán..!!   Tinh thần suy sụp và khổ đau vô cùng.

Có lẽ nhân sinh cả kiếp người ta hơn một nửa là bận rộn mù quáng… có những lúc, lựa chọn đúng còn quan trọng hơn sự chăm chỉ.

8.Sự khác biệt trong mùi thơm của nước hoa

Nước hoa trong các công ty mỹ phẩm, 95% đều là nước, chỉ có 5% là khác nhau, đó là bí quyết của từng công ty.

Con người cũng như vậy, 95% cơ bản là đều như nhau, sự khác biệt là tầm quan trọng đặc biệt trong 5% kia, đó chính là những đặc biệt về phẩm chất tu dưỡng đạo đức của con người, những vui buồn đau khổ và dục vọng của con người.

Tinh dầu thơm của nước hoa phải chiết xuất từ 5 năm hay đến 10 năm mới có thể cho vào làm thành nước hoa, con người ta cũng như vậy, phải trải qua quá trình rèn luyện trưởng thành, mới có sự thú vị độc đáo độc nhất vô nhị của bản thân.

Kiên Định biên dịch 

From: Do Tan Hung & Nguyễn Kim Bằng

“Bước đã mỏi, mà trông càng dễ mỏi,”

 Suy Tư Tin Mừng Trong tuần thứ 4 mùa Chay năm A 26/3/2017

 Tin Mừng: (Ga 9: 1, 6-9, 13-17, 34-38)

 Khi ra khỏi đền thờ, Đức Giêsu nhìn thấy một người mù từ thuở mới sinh.

Nói xong, Đức Giêsu nhổ nước miếng xuống đất, trộn thành bùn và xức vào mắt người mù, rồi bảo anh ta: “Anh hãy đến hồ Silôác mà rửa” (Silôác có nghĩa là: người được sai phái). Vậy anh ta đến rửa ở hồ, và khi về thì nhìn thấy được.

Các người láng giềng và những kẻ trước kia thường thấy anh ta ăn xin mới nói: “Hắn không phải là người vẫn ngồi ăn xin đó sao? “Có người nói: “Chính hắn đó!” Kẻ khác lại rằng: “Không phải đâu! Nhưng là một đứa nào giống hắn đó thôi!” Còn anh ta thì quả quyết: “Chính tôi đây!”

Họ dẫn kẻ trước đây bị mù đến với những người Pharisêu. Nhưng ngày Đức Giêsu trộn chút bùn và làm cho mắt anh ta mở ra lại là ngày sabát. Vậy, các người Pha-ri-sêu hỏi thêm một lần nữa làm sao anh nhìn thấy được. Anh trả lời: “Ông ấy lấy bùn thoa vào mắt tôi, tôi rửa và tôi nhìn thấy.” Trong nhóm Pharisêu, người thì nói: “Ông ta không thể là người của Thiên Chúa được, vì không giữ ngày sabát”; kẻ thì bảo: “Một người tội lỗi sao có thể làm được những dấu lạ như vậy?” Thế là họ đâm ra chia rẽ. Họ lại hỏi người mù: “Còn anh, anh nghĩ gì về người đã mở mắt cho anh?” Anh đáp:”Người là một vị ngôn sứ!” Họ đối lại: “Mày sinh ra tội lỗi ngập đầu, thế mà mày lại muốn làm thầy chúng ta ư?” Rồi họ trục xuất anh.

Đức Giêsu nghe nói họ đã trục xuất anh. Khi gặp lại anh, Người hỏi: “Anh có tin vào Con Người không?” Anh đáp: “Thưa Ngài, Đấng ấy là ai để tôi tin?” Đức Giêsu trả lời: “Anh đã thấy Người. Chính Người đang nói với anh đây.” Anh nói:”Thưa Ngài, tôi tin.” Rồi anh sấp mình xuống trước mặt Người.

&  &  &

“Bước đã mỏi, mà trông càng dễ mỏi,”

Ta dừng chân nhắm mắt, một đêm nay.”

(dẫn từ thơ Vũ Hoàng Chương)

Mai Tá lược dịch.

Với nhà thơ, dừng chân nhắm mắt mỗi đêm nay, vì bước chân dài/vắn, người đã mệt. Với người thường, chân dừng mắt nhắm cả một đời, là bởi thân phận hiu hẩm, chẳng mở ra. Trình thuật thánh Gioan nay cho thấy thân phận hẩm hiu của người mù từ bẩm sinh được Chúa giúp đỡ, đã mở ra cả hai con mắt thể xác, lẫn tinh thần. Chẳng thế mà, anh lại cứ reo vui suốt đời để ngợi khen Chúa.

Trình thuật kể, là kể về nam-nhân Do thái nọ rất mù lòa, do mầm sống bị thoái hoá khiến anh chưa một lần nhìn thấy ánh sáng, từ dạo ấy. Cứ sự thường, người sáng mắt có xác thân thơm tho/lành lặn lại vẫn không ưa gần gũi người có khuyết tật, bệnh hoạn. Chính vì thế, họ đến với Chúa bằng những câu hỏi khá cắc cớ: mù lòa/tật bệnh có do tội của ai đó, không?

Nếu bảo, mù loà/ tật bệnh về thể xác là do tội và lỗi của ta mà ra, thì chắc hẳn các người bệnh trên thế gian này phải chịu thế, cả khi chưa lọt lòng mẹ? Phải chăng, nguyên nhân đích thực gây mù lòa, là do bậc cha mẹ phạm lỗi nặng? Hoặc khi sinh, người thân thuộc đã mắc phải tật/bệnh nghiệt ngã như thế?

Người xưa coi tật bệnh thể xác là kết cuộc của những suy đồi về luân lý, đạo đức. Chí ít, là lỗi của ai đó đã đem lại kết quả tệ hại, cho người tật bệnh. Đời nay, chẳng ai dám quyết đoán rằng: mù lòa là hệ quả của lối phạm luật đạo đức, chức năng. Kỳ thực, đó cũng chỉ là trạng huống rất khiếm khuyết nơi cơ năng con người.

Đặc biệt, ngày nay con người không còn lẫn lộn giữa khiếm thị với chứng bệnh hiểm nghèo nào khác, như: SIĐA miễn nhiễm, huyết áp thấp/cao, hoa liễu/nghiện ngập quậy phá tưng bừng trời đất, nữa. Nhất nhất người người đều tin rằng: nguyên nhân dẫn đến mù loà chẳng phải vì cha mẹ bệnh nhân khi xưa từng mắc tội. Bởi nếu không, thì khác gì quan niệm thiếu hiểu biết của người xưa về y khoa hiện đại.

Về mù loà, ta chỉ nên coi đó như một hạn chế/khiếm khuyết nơi con người, mà thôi. Nói cho cùng, là người, ai mà chẳng thấy mình còn hạn chế, về nhiều thứ. Hạn chế trước tiên, là có khiếm khuyết về mầm sống, cũng rất gien. Nghiên cứu kỹ, người người nay thấy DNA của mình chỉ là hợp chất không ‘toàn hảo’.

Bởi thế nên, khi bước vào giai đoạn mới lớn, ai cũng thấy mình có ít nhiều hạn chế mà mình không thể điều khiển được cuộc sống của chính mình, theo đúng cách. Do đó, có suy thoái. Do đó, khó thoát khỏi tật/bệnh. Có khi lại còn bị vi trùng tung hoành đào khoét suốt thân xác mình, kết cuộc dẫn đến tật/bệnh, đến cõi chết. Đời người là thế. Có than có vãn cũng chẳng giúp ích được gì. Thành thử, người người đi đến động thái chỉ sống qua ngày, đợi chờ. Đợi và chờ thứ gì tốt đẹp hơn, sẽ tới. Bao nhiêu nghị lực xưa kia vẫn có, nay cứ thế mất dần.

Vì thế, có người để nhiều thì giờ ra mà chăm chút dáng vẻ bề ngoài cho tốt đẹp, kẻo người khác phát giác ra sẽ chẳng còn ưa mình, nữa. Có người lại gặp rắc rối về dục tính. Có người gặp khó khăn trong tương quan với mọi người. Khó, mà làm hoà với mọi người.

Và từ đó, nhiều người mắc phải tật/bệnh cứ tự hỏi: mình đã làm gì nên tội? Phải chăng, đó là thừa kế các tệ hại từ gia đình giòng họ? Và, lại kéo Chúa vào chuyện riêng tư của mình bằng một lý luận rất viển vông: chắc Chúa giáng phạt mình đây. Cuối cùng, lại sẽ trở thành kẻ bối rối, về Đạo. Và cứ thế, hết bối rối chuyện này đến chuyện khác, như thế.

Sách Sáng Thế Ký, ghi lại câu truyện hình thành vũ trụ mọi loài, có Giavê Thiên Chúa thở hơi sống vào bùn đất đỏ, thành con người. Tiếng Do thái gọi bùn này là Adamah. Thế nên, Thiên Chúa gọi người đàn ông A-Dong là “Bụi đỏ”. Về bụi, hẳn nhiều người lại cứ liên tưởng đến bụi đất nằm ở nơi con người, do thừa kế mầm sống? Vì đó là bụi là đất, nên chẳng ai muốn giữ gìn nó hết. Cứ gạt, và cứ phủi mọi bụi đất có khi còn phủi sang người khác, để họ lãnh.

Với Giáo hội, ta có thói quen suy tưởng rằng: nhờ Chúa chết trên thập tự, con người mới được cứu rỗi. Thế nên, dù ta có là người tệ bạc, nhưng Chúa không chấp nê, vẫn thứ tha. Thế nên, hãy yên tâm sống xứng hợp với ơn cứu độ của Chúa.

Lối suy nghĩ này tuy mang dáng vẻ bi quan, hài hước mà ta vẫn cứ phải chấp nhận nó và đưa vào thực tại cuộc sống hay sao? Không. Không hẳn thế. Giả như ta có thể thay đổi câu truyện trên bằng nhiều giả thuyết, bảo rằng: chính Chúa đã quyết định để rớt lại vài ba hạn chế/bất toàn nơi con người, có thế loài người mới tăng trưởng chính mình được. Và, cũng vì có hạn chế, nên người người vẫn từ từ thực hiện việc cải biến chính mình cho hoàn thiện hơn.

Nay, vì hạn chế còn rớt lại nơi con người mình, hãy giáp mặt với sự thật là mình đang đi dần vào cõi chết. Giáp mặt với sự thật ấy, để rồi sẽ nỗ lực cất đi mọi oán giận bạo lực khỏi cái chết của chính mình. Cố gắng biến sự chết trở thành thân cận, mật thiết để chính mình sẽ về với Đức Chúa hiền từ, tử tế vẫn đợi chờ mỗi người và mọi người.

Đành rằng, ta vẫn còn nhiều khiếm khuyết, như tật/bệnh, người người hãy làm mọi sự để nhận được sự tiếp tay giúp mình và giúp mọi người thấy được rằng: vẫn còn đó rất nhiều điều tươi vui/hạnh phúc trong cuộc sống, hơn là ngồi đó khoác vào mình cặp kính đen đầy bi đát. Và, khi biết mình là kẻ bất toàn rồi, tự khắc mỗi người sẽ cảm thấy thoải mái chấp nhận bất toàn xảy đến với mình, hơn.

Về lỗi phạm, một khi mình đã vướng mắc, hãy kể cho Chúa nghe sự việc phạm lỗi cách trung thực, tự khắc Ngài sẽ cảm thông, hiểu rõ chính con người mình hơn. Thực ra, thì hành vi phạm lỗi dù rất tội, nhưng nào đã sờ chạm đạt tới Chúa. Tất cả mọi vướng mắc hoặc lỗi phạm chỉ để cho thấy con người vẫn phải đối đầu với hạn chế, mà tăng trưởng. Những lỗi phạm như các hành xử trong giận dữ, hoặc thiếu bác ái vẫn mang ý nghĩa của một hạn chế mà con người phải ngang qua. Có gặp trục trặc/rắc rối trong đời, mình mới có kinh nghiệm để trưởng thành mà gặp Chúa.

Thế nên, hãy quyết tâm sống thư giãn/thoải mái không trách móc bất cứ một ai để tự mình dựng xây, tăng trưởng. Cũng đừng tự trách mình hoặc gia đình mình. Đừng trách Chúa. Và, cũng chẳng nên than phiền trách móc nhà cầm quyền đã không quan tâm giúp đỡ chính mình.

Bởi, Chúa đâu dựng nên con người để họ đi tìm ra ai đó mà trách móc. Hãy đọc trình thuật Chúa tạo dựng trời đất, một cách tích cực. Đọc, để hiểu rằng: Giavê Thiên Chúa dựng nên con người là để họ ra đi làm điều gì đó có tính sáng tạo và tích cực.

Thế nên, hãy cứ can đảm mà ra đi, dù có thấy mình vẫn còn nhiều hạn chế. Bởi, một ngày nào đó, tất cả đều sẽ khám phá ra được nhiều điều tốt đẹp hơn. Và khi đó, ta sẽ không còn mù lòa, nhưng rất sáng.

Giống như người mù từ thuở mới sinh ở trình thuật, ta sẽ được Chúa cho mở mắt thấy sáng và nói:“Điều tôi biết, là khi xưa tôi đã mù, và nay tôi được thấy.”(Ga 9: 25) Rồi, một ngày kia, ta cũng sẽ gặp người mù từ thuở bình sinh ở đâu đó, chốn Nước Trời. Và rồi, ta cũng sẽ cùng nhau hẹn ngày tái ngộ, để nói được câu: “Trước đây, tôi không thấy gì nhiều, nhưng mắt tôi nay sẽ thấy nhiều điều tốt đẹp hơn.”

Lm Kevin O’Shea CSsR biên-soạn –

Mai Tá lược dịch.

Hãy yêu chàng! Hãy yêu chàng!

httpv://www.youtube.com/watch?v=lmQHcsIIw6w

HÃY YÊU CHÀNG

Ý thơ : Nguyễn Tất Nhiên
Nhạc : Phạm Duy

Chuyện Phiệm Đọc Trong Tuần thứ 4 mùa Chay năm A 26/3/2017

“Hãy yêu chàng! Hãy yêu chàng!”
Như yêu giòng sông ngậm ánh trăng non,

mộng ước quanh năm
Yêu chàng, chàng chở tình về cho mắt em ngoan…

Hãy yêu chàng! Hãy yêu chàng!
Như yêu làn mây lờ lững trôi xuôi, ủ đóa hoa tươi
Yêu chàng, chàng thổi tình ngời cho tóc em bay.”
(Nhạc: Phạm Duy – Thơ: Nguyễn Tất Nhiên: Hãy Yêu Chàng)

(1Corinthô 4: 21/1Côrinthô 8: 21-24)

Trần Ngọc Mười Hai

Hãy thử đưa ra giả thuyết này, là: ta thay túc-từ “chàng” ở câu trên bằng chữ: “nànghoặc “Ngài” hoặc “Người”, hẳn sẽ có một gợi hứng nhỏ gửi đến các bậc giảng thuyết ở nhà Đạo làm bài giảng, cũng rất nên.

Nên, là vì: lời khuyên nhủ “Hãy yêu chàng (hay yêu nàng), vẫn như “yêu giòng sông ngậm ánh trăng non, mộng ước quanh năm”; hoặc, yêu thứ gì khác tựa hồ lời hát ở bên dưới vẫn cất tiếng:

“Hãy yêu chàng! Hãy yêu chàng!
Như yêu luống mạ xanh mơn mởn, tuổi thơ mau lớn.
Yêu chàng, chàng hôn tình đầy cho ngực em căng.
Hãy yêu chàng! Hãy yêu chàng!
Như yêu những giọt sương tươi mát, cỏ hoang thơm ngát.
Yêu chàng, chàng kết tình vào hơi thở em nồng…
Hãy yêu chàng! Hãy yêu chàng!
Như yêu niềm hy-vọng mãi không thôi, trong trái tim vui.
Yêu chàng chàng thổi tình bùi cho ấm đôi tay.
Hãy yêu chàng! Hãy yêu chàng!
Như yêu mặt trời lửa sáng hân hoan, sưởi nắng mơ màng
Yêu chàng, chàng bật đèn tình soi dáng em thon.”

(Phạm Duy/Nguyễn Tất Nhiên – bđd)

 Hãy cứ yêu chàng hay yêu nàng như thế, cho thật nhiều. Và, hãy yêu nhiều và yêu mãi đến thiên-thu. Yêu, như những người chưa từng yêu, chưa bao giờ biết yêu và như không còn nhiều năm tháng/ngày giờ để yêu như thế. Yêu thế, tức là vẫn cứ hát những ca-từ như sau:

“Hãy yêu chàng! Hãy yêu chàng!
Như yêu cánh gió, gió tung tăng hai vạt áo hường.
Hãy yêu chàng! Hãy yêu chàng!
Như yêu mưa xuống.
Nước mưa tuôn, mát ngọn cỏ ngoan.
Hãy yêu chàng! Hãy yêu chàng!
Hãy yêu chàng! Hãy yêu chàng!
Hãy yêu chàng!

(Phạm Duy/Nguyễn Tất Nhiên – bđd)


Với đời người, lại có những lời khuyên không xa-xôi, diệu vợi hoặc “lem lẻm”, nhưng toàn những yêu-thương, chân-chất, rất giống truyện kể để mào đầu bài phiếm, hôm nay:

“Truyện rằng:

Có 3 vị: một bác sĩ, một luật sư, một cậu bé và một cha xứ tình cờ đi cùng nhau trên một chiếc chuyên cơ riêng. Bất thình lình, động cơ máy bay gặp trục trặc. Mặc dù phi công đã cố gắng hết sức nhưng không thể sửa được. Máy bay bắt đầu rơi tự do khiến tất cả ai nấy đều hoảng loạn.

 Cuối cùng, người phi công vơ vội một chiếc dù và hét lên “tất cả mọi người hãy nhảy xuống” trước khi lao ra khỏi chuyên cơ. Tuy nhiên, vấn đề là trên máy bay chỉ còn lại đúng 3 chiếc dù trong khi có tới 4 người đang gặp nạn.

 Vị bác sĩ vội vàng xí một cái và nói: “Tôi là bác sĩ. Công việc của tôi là cứu người nên tôi phải sống” và nhảy ngay ra ngoài. Vị luật sư cũng nói: “Tôi là luật sư và luật sư là những người thông minh nhất trên thế giới nên tôi đáng được sống”. Nói đoạn, ông này lập tức chiếm một chiếc dù và nhảy ra ngoài.

 Lúc này trên máy bay chỉ còn lại đúng một chiếc dù. Chính vì vậy, cha xứ nhìn cậu bé và bảo:

-Con trai, cha đã sống đủ cuộc đời của mình. Con còn nhỏ và có cả cuộc đời rộng mở phía trước. Con hãy cầm chiếc dù cuối cùng và sống an bình nhé.

Cậu bé với thái độ rất bình tĩnh đưa lại chiếc dù cho cha xứ và nói:

-Cha không cần phải lo cho con. Người đàn ông thông minh nhất thế giới kia đã “hạ cánh” với chiếc ba lô của con rồi, cha ạ”.

 Truyện kể, đơn giản chỉ mỗi thế. Không oang-oang, hoành-tráng cũng chẳng lốp-xốp/lộp bộp như phần lớn các truyện được đấng bậc cha/cố giảng ở nhà thờ. Thế nhưng, người kể hôm nay lại minh-định bằng một bài học để đời, rút từ câu truyện kể ở trên, nói thế này: “Công việc không định nghĩa được con người bạn nhưng làm một người tốt thì luôn được mọi người ghi nhận và những nhiều điều tốt đẹp chắc chắn sẽ đến với bạn. “Khôn ngoan không lại với trời”, vạn vật trên đời đều có nhân quả báo ứng.”

 Bài học nhân/quả, kể cũng lạ. Nhưng, lạ nhất là ở chỗ: người kể truyện cứ muốn áp-dụng vào cuộc sống ở đời không cần phải khôn-ngoan, bởi có khôn ngoan cũng “không lại được với trời.”

Sống Đạo ở đời, cũng thế. Nhiều lúc, ta tưởng đó chỉ là những chuyện Đạo rất khô-khan/đạo-mạo hoặc chuyện mô-phạm chẳng liên-quan đến người đời, và cũng chẳng thích-hợp với sự sống có ý-nghĩa của cuộc đời, thôi. Cũng hệt như đề-tài được người trong Đạo bàn bạc, rất hôm nay.

Hôm nay, có những chuyện xảy ra ở trong Đạo/ngoài đời, lại là vấn-đề sống Đạo được đấng “lờ mờ” ở Sydney gợi ý bằng những lời hỏi/đáp rất như sau:

“Thưa cha.

Tôi quen một cô bạn từng làm mẹ của 4 người con nhỏ, trai gái đủ cả. Chị đã quyết-định triệt-sản vì không còn khả-năng chịu nổi sức ép của việc nuôi nấng, giáo-dục được nữa rồi. Chị nói: vẫn biết là Giáo-hội ta không chuẩn-thuận cho những hành-xử tựa hồ như thế, nhưng chị thấy trong hoàn-cảnh tư-riêng của mình, là làm sao để mọi người cảm thông với mình, là tốt chán. Câu hỏi tôi đặt ra hôm nay, là: có thể nào, ta dựa vào lương-tâm trong trắng để có lựa chọn nào đó giống thế, không?”

 Câu hỏi đây, tuy không đơn-giản, nhưng rất dễ có câu trả lời khái-quát, đại-trà. Thế nhưng, câu trả lời của đấng bậc phụ-trách mục giải-đáp thắc-mắc trên tuần báo The Catholic Weekly ở Sydney,cũng đại-để như sau:

“Lâu nay, Giáo-hội ta vẫn dạy rằng: nhiều hành-xử, tự nó đã sai sót rồi, chính vì thế ta không nên theo đó mà làm, bất luận hoàn-cảnh mình sống có ra sao, tốt/xấu thế nào, cũng mặc. Tự thân, đây là việc của ác-thần/quỉ dữ mà thôi. 

Danh-sách sự việc nói trên gồm các thứ như sau: giết người vô tội, phá thai, trộm cắp, hãm hiếp, ngoại tình, tra-tấn, đánh đòn thật dã man, vv… Vâng. Trực-tiếp triệt-sản, được thực-hiện như biện-pháp tránh sinh thêm con, cũng là hành-xử tắc trách, rất tệ lậu. Bởi, người thực-thi triệt-sản đã sử-dụng việc tránh thai cốt nhằm mục đích ấy. (X. Giáo-lý Hội-thánh Công-giáo đoạn 2399, 2370). 

Bảo rằng, đó là hành-động tự nó đã sai trái là vì đi ngược lại sự tốt lành của người phàm. Mà, những gì đi ngược lại sự tốt lành, đều không là hành-động tốt, bất kể lúc ấy người xử sự có nghĩ là mình đang làm điều tốt lành hay không. Việc này, làm hại cho người ra tay hành động và cũng gây ảnh-hưởng lên người khác. Có thể là, ngay khi ấy, người ra tay hành-động không am-tường sự thật, nên mới thế.       

 Vai-trò của lương-tâm chức-năng diễn-giải ở sách Giáo-lý Hội-thánh Công-giáo như “phán-quyết của lý-trí” qua đó bản thân con người am-tường phẩm-chất của hành-vi cụ thể sắp thực-hiện hoặc đã xảy ra rồi.” (X. GLHTCG đoạn 1778)

Lời lẽ thật quan-trọng. Và, vai-trò của lương-tâm là nhận ra được phẩm-chất đạo-đức ở trong đó. Mọi người đều hàm-ngụ nhiều ý-tưởng khi nghĩ rằng: mọi hành-xử đều có phẩm-chất ở bên trong. Nói thế có nghĩa bảo rằng: để xem chúng có phù-hợp với luật của Chúa không; và có làm lợi cho người nào khác không? Sách Giáo-lý Hội-thánh Công-giáo lại cũng viết: Nhờ vào phán-quyết của lương-tâm, con người mới nhận-chân/am-tường các điều-khoản trong luật của Chúa. (X. GLHTCG đoạn 1778)

 Con người xưa nay đều nhận ra giáo-huấn Hội-thánh vốn dạy rằng: hành-vi nào đi ngược lại luật của Chúa, thì vai trò của lương-tâm sẽ áp-dụng phán-quyết cho mọi vụ/việc ngay tại chỗ. Và từ đó, quyết được rằng: dù có khó khăn, con người cũng không được phép hành-xử như thế.

 Nhiều lúc, đương-sự thấy khó mà ra quyết-định cho phải lẽ. Sách Giáo lý Hội-thánh còn viết thêm: “Con người có lúc ở vào hoàn-cảnh ít chắc chắn để đưa ra được phán-quyết đúng-đắn. Và đôi lúc, cũng thấy khó để quyết-định điều gì cho phải lẽ. Nhưng, ai cũng phải nghiêm-túc nhận ra được điều phải/trái; và nhận rõ ý Chúa diễn-bày nơi luật thần thiêng của Ngài.” (X. GLHTCG đoạn 1787)

 Khi hoàn-cảnh thúc-bách ai làm việc gì đó và người ấy biết rõ sự việc chống lại lề-luật của Chúa, thì tốt nhất hãy nhớ rằng: Thiên-Chúa đích-thực là người Cha đầy lòng thương mến chỉ muốn tạo điều tốt cho con cái, đem đến cho ta điều tốt lành như mệnh lệnh hoặc lời khuyên hầu giúp ta có được hạnh phúc ở đây, bây giờ, và sau này nữa.

 Và, khi Giáo-hội là người Mẹ yêu-thương vẫn chuyển đến cho ta các lệnh-truyền ấy là để giúp ta dấn bước lên đường mang theo lời khuyên bảo của Mẹ hiền. Giả như đôi lúc Mẹ có dạy đôi điều vương-vấn sự xấu nằm bên trong mà đàn con không thực-hiện được, điều đó có nghĩa là bởi vì hành-động ấy sẽ tác-hại lên ta gây trở-ngại cho hành-trì ta tiến vào với hạnh-phúc đích-thực, mà thôi.

 Có thể là, ngay khi ấy ta chưa hiểu nổi, nhưng dù sao đi nữa, ta vẫn phải tiến bước tuân theo lời dẫn-dụ của bậc Mẹ Cha. Việc này cũng giống như thể người mẹ nọ khuyên con mình đừng bao giờ nhận lời theo chân người lạ mặt hoặc theo-dõi chương-trình nào đó trên truyền-hình. Cho dù đám con trẻ không hiểu lý do tại sao phải làm thế, nếu chúng là những đứa trẻ mẫn-cảm, chúng sẽ nghe theo lời dẫn-dụ của mẹ mình.  

        Về vấn-đề này, ta cũng nên nhớ rằng: Chúa không đòi ta phải làm những việc không thể làm được; và, Ngài luôn ban cho ta thêm ân-huệ để thực-thi những gì Ngài yêu cầu. Rất nhiều lần, ta nhận ra là mình đang đi ngược lại phán-quyết nhân-bản của chính mình và chống-cự lại những gì Ngài yêu-cầu ta thực-hiện, mọi việc đều có thể diễn-tiến một cách tốt đẹp hơn ta tưởng. Bởi lẽ, người đàn bà có thêm đứa con nữa thay vì biến cho mình thành vô-sinh hoặc thay vì tìm đến phá thai, tức: tìm đến kết-quả tốt nhất xảy đến cho bà.

 Hãy học cách tin-tưởng vào Chúa và thực-hiện những gì Ngài yêu-cầu. Bằng cách đó, ta tránh được mọi thứ tội và như thế sẽ tăng-trưởng một cách lành-thánh và đạt được phúc hạnh.”  (X. Lm John Flader, The Church says it is wrong, but I felt it was the right thing to do, The Catholic Weekly Question Time 22/01/2017 tr. 16)

Rất đúng. Lương tâm, lâu nay vẫn là chức-năng tiềm-tàng trong con người. Thứ chức-năng vẫn luôn giùm giúp ta ứng-xử mọi tình-huống khó khăn, cần sáng-suốt. Đích-thị là lương-tâm chức-năng không bao giờ khuyên con người làm việc sằng bậy.

Nói cho cùng, lương-tâm có sẵn trong con người vẫn là chức-năng nội-tại giúp ta nói chung và giúp người mẹ có 4 con kể ở trên, có thể thực-hiện vai-trò làm mẹ cho tốt với 4 người con nhỏ, tức: làm điều ích lợi cho người khác.

Cuối cùng thì, ta cũng nên nhớ lời bậc thánh-hiền từng khuyên-nhủ dân con mọi người, rằng:

“Anh em không thể vừa uống chén của Chúa,

vừa uống chén của ma quỷ được;

anh em không thể vừa ăn ở bàn tiệc của Chúa,

vừa ăn ở bàn tiệc của ma quỷ được.

Hay là ta muốn làm cho Chúa phải ghen tương?

Chẳng lẽ ta mạnh sức hơn Người?
“Được phép làm mọi sự”; nhưng không phải mọi sự đều có ích.

“Được phép làm mọi sự”; nhưng không phải mọi sự đều có tính cách xây dựng.

Đừng ai tìm ích lợi cho riêng mình, nhưng hãy tìm ích lợi cho người khác.”

(1Côrinthô 8: 21-24)

Xem thế thì, sống đời hạnh-đạo chung đụng với mọi người, là phải “tìm ích-lợi cho người khác”. Có như thế, cuộc sống của mình và của người khác mới có ý nghĩa. Mới, sống cho ra hồn. Đó, còn là lời khuyên được người nghệ-sĩ diễn-bày ở câu hát được trích-dẫn, có ca-từ rằng:

“Hãy yêu chàng! Hãy yêu chàng!”
Như yêu giòng sông ngậm ánh trăng non,

mộng ước quanh năm
Yêu chàng, chàng chở tình về cho mắt em ngoan…

Hãy yêu chàng! Hãy yêu chàng!
Như yêu làn mây lờ lững trôi xuôi, ủ đóa hoa tươi
Yêu chàng, chàng thổi tình ngời cho tóc em bay.”

(Nhạc: Phạm Duy/Thơ: Nguyễn Tất Nhiên – bđd)

 Để minh-hoạ những điều nói ở trên, mời bạn/mời tôi, ta tìm về với vườn hoa truyển kể mà đi về một kết-luận rất nhanh gọn, như sau:

“Tiểu bang Georgia nước Mỹ có một cụ bà làm nông sống 132 tuổi 91 ngày. Lúc cụ được 130 tuổi, có phóng viên hỏi bí quyết trường thọ của cụ là gì, cụ trả lời: Trước hết là sự hòa thuận trong gia đình.

Đại học Harvard có một khảo sát trên 268 người nam cũng phát hiện: Điều thật sự quan trọng trong cuộc sống một người chính là mối quan hệ với người khác, khuyết thiếu sự ủng hộ của xã hội, thì ảnh hưởng đến sức khỏe cũng tương đồng với hút thuốc và không vận động.
Một chuyên gia tâm lý học người Mỹ có một nghiên cứu “Quan hệ giữa tính cách và trái tim” trong 25 năm đã phát hiện: Người có lòng dạ hẹp hòi, nặng danh lợi, nặng thù hằn thì tỷ lệ tử vong lên đến 14%; còn người có lòng dạ rộng rãi, vui vẻ giúp người, tính cách hiền hòa thì tỷ lệ tử vong chỉ có 2.5%. Tỷ lệ bệnh tim thì người trước cao hơn người sau gấp 5 lần.


Khi phân tích nguyên nhân, ông nói: Quan hệ xã giao và thân thuộc không tốt, làm cho nội tâm một người đầy phẫn nộ, oán hận, bất mãn… sẽ khiến thần kinh giao cảm thường xuyên trong trạng thái kích thích, adrenalin và hoóc-môn stress sẽ bài tiết ra rất nhiều.


Nhà tâm lý học Maslow đã tổng kết nhu cầu của một người như sau, từ thấp đến cao, theo thứ tự: “nhu cầu sinh lý, nhu cầu an toàn, nhu cầu xã giao, nhu cầu được tôn trọng và nhu cầu được thể hiện”.


Ngoại trừ nhu cầu sinh lý, còn lại đều liên quan đến quan hệ xã giao và thân thuộc. “Nhu cầu” khi được thỏa mãn sẽ mang đến cảm giác vui vẻ thoải mái. Sự hòa thuận trong gia đình là bí quyết hàng đầu của trường thọ. 
(truyện kể do St sưu-tầm)   

Đọc truyện rồi, nay mời bạn và mời tôi, ta cứ hiên-ngang hãnh-tiến bước về phía trước, mà hát thêm những lời ca làm kết-đoạn cho một phiếm-luận có lời rằng:

Hãy yêu chàng! Hãy yêu chàng!
Như yêu luống mạ xanh mơn mởn, tuổi thơ mau lớn.
Yêu chàng, chàng hôn tình đầy cho ngực em căng.
Hãy yêu chàng! Hãy yêu chàng!
Như yêu những giọt sương tươi mát, cỏ hoang thơm ngát.
Yêu chàng, chàng kết tình vào hơi thở em nồng…
Hãy yêu chàng! Hãy yêu chàng!
Như yêu niềm hy-vọng mãi không thôi, trong trái tim vui.
Yêu chàng chàng thổi tình bùi cho ấm đôi tay.
Hãy yêu chàng! Hãy yêu chàng!
Như yêu mặt trời lửa sáng hân hoan, sưởi nắng mơ màng
Yêu chàng, chàng bật đèn tình soi dáng em thon.”

(Phạm Duy/Nguyễn Tất Nhiên – bđd)

 Cuối cùng thì, “Hãy yêu chàng” hay “yêu nàng”, tức người khác chứ không chỉ mỗi chính mình, lại là cứu cánh cuộc đời người ở mọi nơi và mọi thời. Và, lương-tâm/chức-năng là cơ-quan nội-tại giúp ta nhớ mãi điều ấy, suốt một đời.

Trần Ngọc Mười Hai

Và những lời ca văng vẳng

mãi khuyến khích

một lập-trường sống

rất thân-tâm.

Tạ ơn đời – Tạ ơn bạn gần xa

Tạ ơn đời – Tạ ơn bạn gần xa

 TA ON

 

 

 

 

 

Thăm hỏi bạn, biết rằng người còn đó

Bạn còn đó! Tôi còn đây! Mừng lắm!
Vì chúng ta còn cơ hội gặp nhau
Để trao nhau lời nói với câu chào
Đầy thân ái, đầy yêu thương, quý mến

Chuyện dĩ vãng, chuyện tương lai sắp đến
Hãy quên đi, xin nhớ hiện tại thôi
Nếu tâm bình trí lạc! Thế đủ rồi!
Người còn đó! Tôi còn đây! Phúc lắm!,

Bạn còn đó, tôi còn đây, đúng lắm !
Nhưng còn đâu cơ hội để gặp nhau ?
Để trao nhau trăm ngàn chuyện tào lao
Giữa bàn tiệc đầy món ăn thơm phức

Chuyện tương lai một ngày nào đến lúc
Nói làm chi, hiện tại cũng vậy thôi
Hãy nhắc lại dĩ vãng cũng đủ rồi
Đó và đây nhiều chuyện vui vui lắm !

Còn nhớ không ?

Tạ ơn đời hôm nay Tôi còn sống
Mắt còn nhìn, còn đọc được Emails
Đời còn vui, đâu đến nỗi cô liêu.
Thêm kiến thức, thêm từ tâm hỷ xả !

Tạ ơn các bạn gần xa
Hằng ngày chia sẻ cùng ta đủ điều.
Emails nhận được bao nhiêu
Là bao tình cảm thương yêu nồng nàn.

BẠN TA

Thăm hỏi Bạn, biết rằng người còn đó
Nỗi mừng vui tràn ngập cõi lòng tôi
Cuộc đời này bao sóng gió, nổi trôi
Vui được biết, Bạn bình an vui sống

Đời trần thế ví như là huyễn mộng
Kiếp nhân sinh là sinh tử, tử sinh
Quý nhau chăng chỉ ở một chữ Tình
Tình cha mẹ, tình vợ chồng, bè bạn

Tình cảm ấy ta không treo giá bán
Khi con tim không đơn vị đo lường
Bàn cân nào, cân được chữ Yêu Thương
Thế mới biết Thương Yêu là vô giá!

Cuộc đời dẫu đảo điên, nhiều dối trá
Nếu chúng ta thực sự mến thương nhau
Thì tiếc chi một lời nói, câu chào
Hãy trao gửi, sưởi ấm tình nhân thế

Có hơn không dù biết rằng chậm trễ
Vì con người ai cũng thích yêu thương
Được thương người và cũng được người thương
Hãy bày tỏ yêu thương dù có chậm

Bạn còn đó! Tôi còn đây! Mừng lắm!
Vì chúng ta còn cơ hội gặp nhau
Để trao nhau lời nói với câu chào
Đầy thân ái, đầy yêu thương, quý mến

Chuyện dĩ vãng, chuyện tương lai sắp đến
Hãy quên đi, xin nhớ hiện tại thôi
Nếu tâm bình trí lạc! Thế đủ rồi!
Người còn đó! Tôi còn đây! Phúc lắm!

S.T.

Thầy Uông Đại Bằng gởi

 

Tổng Thống Abraham Lincoln làm gì khi bị sĩ nhục.

Tổng thống Mỹ thứ 16 Abraham Lincoln xuất thân trong một gia đình thợ giày. Lúc đó, xã hội Mỹ rất coi trọng thành phần xuất thân trong gia đình quyền quý.

Cổ ngữ có câu: “Cái trán của Tướng quân rộng đến mức có thể phi ngựa, bụng của Tể Tướng rộng đến mức có thể chèo thuyền”. Ý nói, một người có tấm lòng quảng đại bao nhiêu thì sự nghiệp sẽ to lớn bấy nhiêu. Câu chuyện về Tổng thống Lincoln dưới đây là 1 ví dụ.
SI NHUC

Tổng thống Mỹ thế kỷ 19 Abraham Lincoln được xem là vị tổng thống xuất chúng hàng đầu nước Mỹ. (Ảnh: Internet)

Tổng thống Mỹ thứ 16 Abraham Lincoln xuất thân trong một gia đình thợ giày. Lúc đó, xã hội Mỹ rất coi trọng thành phần xuất thân trong gia đình quyền quý. Đại bộ phận nghị sĩ thượng nghị viện Mỹ đều xuất thân trong gia đình thế gia vọng tộc. Là những người của xã hội thượng lưu Mỹ, họ thấy khó chấp nhận một vị Tổng thống là con trai của một thợ giày rất tầm thường.

Ngày đầu tiên làm tổng thống, ngay khi Lincoln lên phát biểu trong lễ nhậm chức Tổng thống, một nghị sĩ đã chen vào giữa bài phát biểu của ông. Ông ta nói: “Thưa ngài Lincoln, đừng quên rằng cha ngài thường đóng giày cho gia đình tôi”. Tất cả các nghị sĩ đều cười ầm lên. Họ nghĩ rằng họ đã khiến Lincoln trở thành trò hề.

Tuy nhiên, khi tiếng cười vừa chấm dứt, Tổng thống Lincoln không cao ngạo, cũng không tự ti mà chân thành nói: “Thưa ngài, tôi biết rằng cha tôi đã đóng giày cho gia đình ngài, cũng như nhiều gia đình các nghị sĩ khác… bởi vì không người thợ nào có thể làm được như ông. Ông là một người sáng tạo.

Giày của ông không chỉ là giày, ông đã đổ cả tâm hồn vào nó. Tôi muốn hỏi các ngài rằng, các ngài đã từng phàn nàn về giày của ông chưa? Bản thân tôi cũng biết cách đóng giày; nếu các ngài có phàn nàn gì, thì tôi có thể đóng cho các ngài một đôi giày khác. Nhưng theo tôi thấy thì, chưa ai từng phàn nàn về những đôi giày mà cha tôi đóng. Ông là một thiên tài, một nhà sáng tạo, và tôi tự hào vì cha tôi!”

 

LE NHAM CHUC
 

 

 

 

 

 

 

 

Lễ nhậm chức của Tổng thống Lincoln. (Ảnh: Getty Images)

Toàn bộ các nghị sĩ nín lặng. Họ nhận ra rằng họ chưa hiểu gì về Tổng thống Lincoln. Lincoln tự hào về người cha đánh giày của mình, vì chưa ai từng phàn nàn về những “tác phẩm” của ông. Và mặc dù đã là Tổng thống, Lincoln vẫn sẵn sàng đóng một đôi giày mới nếu có bất cứ ai phàn nàn.

Sau này có người đã khuyên Lincoln trả đũa người nghị sĩ nọ, nhưng Lincoln nói rằng: “Khi chúng ta trở thành bạn thì đối thủ đã không còn!” Chính sự chân thành và lòng khoan dung của Lincoln đã trở thành một phần nền tảng của văn hóa Mỹ.

Nhà văn Victor Hugo, Pháp từng nói: “Trên thế giới thứ rộng lớn nhất là đại dương, nhưng thứ rộng lớn hơn lại là bầu trời, mà thứ còn rộng hơn cả bầu trời lại chính là lòng người”. Bao dung thì luôn được lợi và người làm thành được sự nghiệp thì nhất định phải có lòng bao dung rộng lớn.

Nhà thơ nổi tiếng Gibran từng nói: “Một con người vĩ đại có hai trái tim: Một trái tim chảy máu và một trái tim bao dung”. Khổng Tử nói: “Khoan dung thì được lòng mọi người”. Trong kinh Phật cũng dạy: “Chỉ một ý niệm cũng khiến hoàn cảnh thay đổi”. Cho nên, chỉ một câu nói, một hành động nhỏ hay chỉ một nụ cười thôi đã đủ để khiến cho người xấu quay đầu hướng thiện.

Lẽ trời cũng là lẽ của con người, chính bởi vì có thể bao dung mới có thể thành tựu được biển rộng, núi cao, cũng cải thiện được mối quan hệ giữa con người và con người, thành tựu được sự nghiệp to lớn lưu mãi ngàn đời của các bậc anh hùng, hào kiệt xưa nay.

Tục ngữ nói: “Vàng không thuần khiết, người không ai hoàn mỹ”. Khi đối mặt với sai lầm của người khác, nếu như canh cánh để ở trong lòng và đòi đáp trả thì sẽ chỉ khiến cho tâm linh của bản thân thêm nặng, thêm trầm trọng mà thôi. Thay vì để cho thù hận gặm nhấm tâm linh, chịu đựng thống khổ chi bằng hãy mở rộng lòng mà bao dung hết thảy, chẳng phải chúng ta sẽ được thản nhiên và tự tại sao?

Theo Tri Thức VN

Còn bao lâu nữa !

             Còn bao lâu nữa !

Tụi mình trên dưới bảy mươi;

Nhìn đi ngó lại chỉ mười năm thôi.

Số đông biến mất đâu rồi;

Số hên còn lại lẻ loi chắc buồn.

Đếm kỹ còn mấy trăm tuần;

Thời gian vun vút, bao lần gặp nhau?

Thôi thì còn lại ngày nào;

Hãy vui ngày ấy, miệng chào thật tươi.

Khác biệt gì cũng thế thôi;

Mai kia nằm xuống để rồi được chi.

Sao bằng ta cứ vui đi;

Hơn thua dẹp hết, ôm ghì bạn xưa.

 

Tay với trời cao không thấu nổi

Tuổi già mất bạn cũng mồ côi

Suy gẩm
&  &   &
Con người được sống khỏe mạnh chính là hạnh phúc nhất rồi, những thứ khác đều là phù du cả. Đừng cho rằng bạn có tiền, nếu không có sức khỏe thì tiền nhiều cũng chẳng có chút gì đáng giá.

Tuyệt đối đừng nói rằng bạn có tiền, đọc xong 8 câu…châm ngôn dưới đây, bạn sẽ hiểu rõ ràng tất cả:

  1. Đừng có xem áp lực thành động lực, lao động quá sức, để rồi tổn hại bản thân.
  2. Đừng quên sức khỏe mới là tiền vốn, không có sức khỏe, thì không cách nào tận hưởng được hết niềm vui của đời người.
  3. Đừng xem nặng danh lợi quá, sau khi hào nhoáng qua đi, mới nhận ra mọi thứ đều chỉ là mây khói thoáng qua.
  4. Đừng có nghĩ rằng bác sĩ là người có thể cứu lấy mạng sống của bạn, thật ra không phải như vậy, chính bạn mới là người quyết định, dưỡng sinh quan trọng hơn cứu mạng.
  5. Đừng mong nghĩ rằng cho đi sẽ được báo đáp lại, chỉ có không kể báo đáp, mới có thể thực hành được việc hành thiện, lấy đức báo oán.
  6. Chớ nghĩ rằng làm quan thì “ngầu” hơn dân, một khi bị mất chức, cuối cùng vẫn chỉ là một thường dân thôi.
  7. Đừng bỏ mặc những người có duyên với bạn, bởi vì sau khi vinh hoa qua đi, bạn mới hiểu được rằng rất nhiều người sẽ rời xa bạn, khi ấy bạn mới thấy tri kỷ thật khó tìm.
  8. Đừng nghĩ rằng hỏi han là quấy rầy, những người thường gửi tin nhắn cho bạn nhất định là người ở trong tâm có hình bóng của bạn.

Một nhà doanh nghiệp rất nổi tiếng, cứ cách một đoạn thời gian, ông lại dẫn theo vợ con đến nơi hỏa táng để xem. Có người không hiểu, hỏi ông nguyên do. Ông nói rằng, chỉ cần đến nơi hỏa táng, cái tâm nóng nảy sẽ rất mau chóng an tĩnh lại, thấy danh lợi tiền tài thật nhẹ nhàng.

Ở nơi hỏa táng này, không kể bạn là quan to quý tộc quyền cao chức trọng, uy danh hiển hách hay là một người dân bình thường, nghèo rớt mồng tơi, không ai biết đến, cuối cùng đều sẽ phải đến đây, chung một tư thế, lặng yên nằm xuống, sau đó bị đưa vào bên trong lò hỏa táng đang bốc cháy ngùn ngụt, khi trở ra lần nữa, thì chỉ là một chiếc hộp vuông nho nhỏ được bọc trong tấm vải đỏ.

Khi đến chẳng mang theo thứ gì, khi đi chỉ như một làn khói. Đời người chính là đơn giản như vậy! Vinh hoa phú quý phút chốc thoáng qua, ân ái tình thù cũng chỉ như cát bụi.

Hôm nay sống trong một thế giới vật chất dục vọng tràn lan, bên cạnh chúng ta là đầy những cám dỗ mê hoặc: quyền lực, địa vị, tiền bạc, mỹ sắc…, hễ không cẩn thận, thì trong tâm sẽ dậy sóng. Nội tâm chúng ta vốn dĩ trong sáng, thuần tịnh, bình lặng sẽ trở nên ngông cuồng, ngạo mạn và tư lợi.

Khi bạn cảm thấy hiện thực và lý tưởng có sự chênh lệch,
Khi bạn cảm thấy uất ức thương tâm, không có người hiểu bạn,

Khi bạn vì ân oán tình thù mà canh cánh trong lòng,

Khi bạn vì lợi ích được mất mà so đo tính toán,

Khi bạn khom lưng chau mày đối với quyền thế,

Khi bạn vì địa vị cao thấp mà mưu tính hại nhau…,

sao bạn không đi đến nơi hỏa táng xem thử, đối diện với một nắm tro bụi,

bạn còn có gì không buông xuống được đây?


Suy gẩm .

Anh chị Thụ & Mai gởi

THỜI GIỜ ĐÃ GẦN ĐẾN

THỜI GIỜ ĐÃ GẦN ĐẾN

 Trầm Thiên Thu

Mùa Chay về.  Tiếp theo là Tuần Thánh và mùa Phục Sinh.  Đây là Mùa Hồng Ân, là Mùa Cứu Độ.  Bạn đã xưng tội chưa?  Có vẻ như không thể mùa Chay nào cũng trọn vẹn nếu không xưng tội.  Nhiều nơi thường xuyên có giải tội, nhất là vào mùa Chay.  Xưng tội và rước lễ trong mùa Chay cũng là giáo luật: “Xưng tội trong một năm ít là một lần” và “rước Mình Thánh Chúa mùa Phục Sinh”.

Kinh thánh xác định: “Dù tội đỏ như son cũng ra trắng như tuyết, dù như vải điều thẫm cũng hoá trắng như bông” (Is 1:18).
Có nhiều lý do khiến người ta trì hoãn hoặc từ chối xưng tội.  Có lẽ đây là vài lý do phổ biến:

  1. Tôi không cần xưng tội.  Thật vậy không?  Chắc chắn là nói dối, vì “ai cũng phạm tội” (x. Rm 5:12), đúng như người ta thường nói: “Nhân vô thập toàn.”  Mới sinh ra người ta đã có tội nên mới cần rửa tội.  Hằng ngày, mỗi khi dâng lễ, ai cũng thú nhận: “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.”  Và rồi tiếp tục “xin Chúa thương xót chúng con” ba lần (đối và đáp thành sáu lần) và “lạy Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian, xin thương xót chúng con” hai lần nữa.  Chúa không muốn chúng ta “nói nhỏ” với riêng Ngài mà muốn chúng ta công khai thú tội: “Anh em hãy thú tội với nhau và cầu nguyện cho nhau để được cứu thoát.  Vì lời cầu xin tha thiết của người công chính rất có hiệu lực” (Gc 5:16).  Công khai thú tội để được công chính hóa: Lời cầu xin tha thiết của người công chính rất có hiệu lực. Như vậy xưng thú tội lỗi là điều cần thiết, vì đó là một phần không thể thiếu trong đời sống của người Kitô giáo.
  2. Tôi ngại vì bỏ xưng tội lâu rồi.  Đừng quên lời thánh Phaolô: “Ở đâu nhiều tội lỗi thì ở đó nhiều ân sủng” (Rm 5:20).  Hãy cầu nguyện bằng kinh Ăn Năn Tội để có thể cảm nghiệm được Hồng Ân Chúa dành cho chúng ta.  Thật vậy, Chúa Giêsu đã xác định: “Con Người đến để cứu cái gì đã hư mất” (Mt 18:11), và Ngài nhấn mạnh: “Cha của anh chị em, Đấng ngự trên trời, không muốn cho một ai trong những kẻ bé mọn này phải hư mất” (Mt 18:14).  Có lẽ chúng ta chưa đủ tin nên mới thấy ngại.  Tuy nhiên, đừng coi xưng tội chỉ là một nghi thức, vấn đề là thành tâm.  Nghĩa là tội lỗi chúng ta có được Thiên Chúa tha thứ hay không là do chúng ta, vì “nhờ đức tin mà được cứu” (x. Mt 9:22; Mc 5:34; Mc 10:52; Lc 7:50; Lc 8:48; Lc 17:18; Lc 18:42) và “người công chính nhờ đức tin sẽ được sống” (Rm 1:17).  Biết vậy rồi thì đừng ngại gì hết!
  3. Tôi không có thời gian và không thuận tiện.  Người muốn thì tìm ra phương tiện, người không muốn thì tìm ra lý do.  Đó là loại triết lý dễ hiểu.  Chúa Giêsu thiết lập chức linh mục để hối nhân có thể dễ dàng giao hòa với Thiên Chúa, đồng thời cũng để chúng ta có Chúa ở cùng chúng ta mọi ngày cho đến tận thế (x. Mt 28:20).  Có những xứ có linh mục giải tội hàng ngày trước hoặc sau giờ phụng vụ, có những nhà dòng giải tội cả sáng và chiều các ngày trong tuần.  Như vậy, nếu không tiện giờ này thì xưng tội giờ khác, không tiện ở nơi này thì xưng tội ở nơi khác.  Có nhiều nơi để chọn lựa, đừng viện cớ mà biện hộ cho sự lười biếng của mình.  Chúa luôn mong chờ tội nhân ăn năn sám hối, vì Ngài sẵn sàng bỏ 99 con chiên ngoan mà đi tìm 1 con chiên lạc (x. Mt 18:12-14; Lc 15: 4-7).  Chúng ta có thời gian rảnh rỗi hoặc làm những thứ khác, sao lại không có thời gian giao hòa với Thiên Chúa?
  4. Tôi không có tội trọng nên không cần xưng tội.  Có những vị thánh xưng tội hằng ngày.  Đã đành chỉ phải xưng những tội trọng, nhưng đó là “điều kiện ắt có và đủ.”  Đối với những tâm hồn đạo hạnh, tội nhẹ cũng khiến người ta cảm thấy “xa cách” Thiên Chúa.  Tội trọng là những tội “nặng ký” thì dễ hiểu và dễ thấy, nhưng nhiều tội nhẹ cũng có thể làm tăng trọng lượng.  Hãy tưởng tượng tội nhẹ như trái bong bóng hoặc nắm bông, một vài trái bóng hoặc một vài nắm bông không thấm vào đâu, nhưng nhiều trái bóng hoặc nhiều nắm bông có thể làm thay đổi trọng lượng rất rõ.  Một bên là 1kg sắt và một bên là 1kg bông, có người có thể nghĩ ngay là sắt nặng hơn, nhưng thực sự hai bên bằng nhau vì đều là 1kg.  Không thể nói hết thần học về tội lỗi, nhưng có những thứ tội “nổi cộm” như làm tổn thương người khác, tự dễ dãi với mình với những tư tưởng xấu, xem phim ảnh “đen”, bỏ lễ Chúa nhật, kiêungạo, tự ái thái quá, lạm dụng Thánh Danh Chúa, từ chối bác ái với người nghèo,…  Nhiều thứ trong số đó có thể là tội trọng hoặc biến thành tội trọng.  Tục ngữ cổ nói: Nemo judex in sua causa (không ai là thẩm phán trong vụ án của chính mình).  Chúng ta thường không thấy cái đà trong mắt mình mà lại thấy cái rác trong mắt người (x. Mt 7:3-5; Lc 6:41-42).                                                       Ca dao Việt Nam cũng có câu:

xung toi

Chân mình còn lấm bê bê
Lại cầm bó đuốc mà rê chân người

Thật là nhiêu khê!  Nhưng đừng lấy cớ “tôi không có tội trọng” mà thoái thác.  Xưng tội thường xuyên (hàng tuần hay hàng tháng) là động thái khiêm nhường, đem lại lợi ích cho chúng ta là nhận lãnh thêm hồng ân và tránh được dịp tội trong tương lai.

  1. Tôi không biết xưng tội gì.  Ngày nay, đây là vấn đề phổ biến, vì việc đào tạo luân lý trong văn hóa của chúng ta, thậm chí cả những người Công giáo, không được chú trọng và có vẻ mơ hồ.  Vả lại, ngày nay người ta muốn loại bỏ Chúa ra khỏi cuộc đời mình nên không còn cảm giác tội lỗi.  Nếu thẳng thắn và nghiêm túc xét mình thì chúng ta sẽ thấy mình phạm nhiều tội hằng ngày.  Vì không xét mình rõ ràng nên mới cảm thấy “không có tội gì để xưng.”  Cơ bản là xét mình theo Mười Điều Răn và Sáu Điều Răn Hội Thánh, nếu cần thì dùng Kinh thánh – chẳng hạn đoạn Kinh thánh này:

Vậy anh em hãy giết chết những gì thuộc về hạ giới trong con người anh em: Đó là gian dâm, ô uế, đam mê, ước muốn xấu và tham lam, mà tham lam cũng là thờ ngẫu tượng.  Chính vì những điều đó mà cơn thịnh nộ của Thiên Chúa giáng xuống trên những kẻ không vâng phục.  Chính anh em xưa kia cũng ăn ở như thế, khi anh em còn sống giữa những người ấy.  Nhưng nay, cả anh em nữa, hãy từ bỏ tất cả những cái đó: nào là giận dữ, nóng nảy, độc ác, nào là thoá mạ, ăn nói thô tục.  Anh em đừng nói dối nhau, vì anh em đã cởi bỏ con người cũ với những hành vi của nó rồi, và anh em đã mặc lấy con người mới, con người hằng được đổi mới theo hình ảnh Đấng Tạo Hoá, để được ơn thông hiểu.  Vậy không còn phải phân biệt Hy Lạp hay Do Thái, cắt bì hay không cắt bì, man di, mọi rợ, nô lệ, tự do, nhưng chỉ có Đức Kitô là tất cả và ở trong mọi người.  Anh em là những người được Thiên Chúa tuyển lựa, hiến thánh và yêu thương. Vì thế, anh em hãy có lòng thương cảm, nhân hậu, khiêm nhu, hiền hoà và nhẫn nại.

Hãy chịu đựng và tha thứ cho nhau, nếu trong anh em người này có điều gì phải trách móc người kia.  Chúa đã tha thứ cho anh em, thì anh em cũng vậy, anh em phải tha thứ cho nhau.  Trên hết mọi đức tính, anh em phải có lòng bác ái: Đó là mối dây liên kết tuyệt hảo.  Ước gì ơn bình an của Đức Kitô điều khiển tâm hồn anh em, vì trong một thân thể duy nhất, anh em đã được kêu gọi đến hưởng ơn bình an đó.  Bởi vậy, anh em hãy hết dạ tri ân.  Ước chi lời Đức Kitô ngự giữa anh em thật dồi dào phong phú.  Anh em hãy dạy dỗ khuyên bảo nhau với tất cả sự khôn ngoan.  Để tỏ lòng biết ơn, anh em hãy đem cả tâm hồn mà hát dâng Thiên Chúa những bài thánh vịnh, thánh thi và thánh ca, do Thần Khí linh hứng.  Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha (Cl 3:5-17).

Chắc hẳn chúng ta không thấy “thoải mái” khi đọc những đoạn Kinh thánh như vậy, do đó mà cảm thấy… ngại xưng  tội!  Chúa Giêsu nói: “Ai phạm tội là làm nô lệ cho tội” (Ga 8:34).  Không ai muốn mình làm nô lệ cho người khác, huống chi là làm nô lệ cho tội lỗi!

Vậy hãy quyết tâm dành thời gian đi xưng tội, càng sớm càng tốt.  Hãy quyết tâm sống mùa Chay theo lời thánh Phaolô: Chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy.  Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa.  Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người.  Quả thật, Chúa nói: “Ta đã nhận lời ngươi vào thời Ta thi ân, phù trợ ngươi trong ngày Ta cứu độ.”  Vậy, đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ (2 Cr 5:20-21; 2 Cr 6:2).

Đến với Bí tích Hòa giải là đến với Tình Yêu của Thiên Chúa, đến ẩn náu trong Thánh Tâm Chúa Giêsu, được tắm gội trong Nguồn Hồng Ân của Lòng Chúa Thương Xót.  Đừng chần chừ, đừng lần lữa, vì “thời giờ đã gần đến!” (Kh 1:3; Kh 22:10).  Nếu chúng ta “hâm hẩm, chẳng nóng chẳng lạnh, Chúa sẽ mửa chúng ta ra khỏi miệng Ngài” (x. Kh 3:16).

Trầm Thiên Thu

Một đoạn văn khắc trên tấm bia làm chấn động cả thế giới

Một đoạn văn khắc trên tấm bia làm chấn động cả thế giới

Một đoạn văn khắc trên tấm bia làm chấn động cả thế giới,

Đoạn văn đáng suy ngẫm nỗi tiếng trên tấm bia mộ vô danh ở London

Một đoạn văn khắc trên tấm bia làm chấn động cả thế giới, rất nhiều người thấy hối tiếc vì đã không phát hiện ra nó từ sớm hơn!

Tại hầm mộ trong tầng hầm nhà thờ Westminster nổi tiếng thế giới ở Luân Đôn, có một tấm bia mộ nổi tiếng thế giới. Kỳ thực, đây chỉ là tấm bia mộ rất bình thường, nó được làm bằng đá hoa cương thô ráp, hình dáng cũng rất bình thường. Xung quanh nó là những tấm bia mộ của vua Hery III đến George II và hơn hai mươi tấm bia mộ của những vị vua nước Anh trước đây, cho đến Newton, Darwin, Charles Dickens và nhiều nhân vật nổi tiếng khác. Vì thế nó trở nên bé nhỏ và không được để ý tới, trên đó không có đề ngày tháng năm sinh và mất, thậm chí một lời giới thiệu về người chủ ngôi mộ này cũng không có.

Mặc dù là tấm bia mộ vô danh như vậy, nhưng nó lại trở thành tấm bia mộ nổi tiếng khắp thế giới. Mọi người mỗi khi đến nhà thờ Westminster, họ có thể không tới bái yết những ngôi mộ của các vị vua đã từng có những chiến công hiển hách nhất thế giới, hay mộ của Dickens, Darwin và những của người nổi tiếng thế giới khác, nhưng không ai là không tới chiêm ngưỡng bia mộ bình thường này. Họ đều bị ngôi mộ làm cho xúc động mạnh mẽ. Chính xác ra, họ bị xúc động bởi những dòng chữ khắc trên tấm bia mộ này. Trên tấm bia mộ này có khắc một đoạn văn tự:
Khi tôi còn trẻ, còn tự do, trí tưởng tượng của tôi không bị giới hạn, tôi đã mơ thay đổi thế giới.

Khi tôi đã lớn hơn, khôn ngoan hơn, tôi phát hiện ra tôi sẽ không thay đổi được thế giới, vì vậy tôi rút ngắn ước mơ của mình lại và quyết định chỉ thay đổi đất nước của tôi.

Nhưng nó cũng như vậy, dường như là không thể thay đổi được. Khi tôi bước vào những năm cuối đời, trong một cố gắng cuối cùng, tôi quyết định chỉ thay đổi gia đình tôi, những người gần nhất với tôi.
Nhưng than ôi, điều này cũng là không thể. Và bây giờ, khi nằm trên giường, lúc sắp lìa đời, tôi chợt nhận ra:

Nếu như tôi bắt đầu thay đổi bản thân mình trước, lấy mình làm tấm gương thì có thể thay đổi được gia đình mình, với sự giúp đỡ, động viên của gia đình mình, tôi có thể làm điều gì đó thay đổi đất nước và biết đâu đấy, tôi thậm chí có thể làm thay đổi thế giới!”

Người ta nói, nhiều nhà lãnh đạo và những người nổi tiếng trên thế giới đều bị xúc động mạnh khi đọc dòng chữ này, có người nói đó là bài học giáo lý cuộc sống, có người nói đó là một nhân cách hướng nội.

Khi còn trẻ, Nelson Mandela đã đọc những dòng chữ này, đột nhiên có cảm xúc rất nghiêm túc rằng phải tự mình tìm được con đường cải biến Nam Phi, thậm chí là chìa khóa vàng để cải biến toàn thế giới. Sau khi trở về Nam Phi, với tham vọng này, vốn là một thanh niên da đen ủng hộ chính sách phân biệt chủng tộc đầy bạo lực để cai trị, thoáng một cái, ông đã cải biến tư tưởng và thái độ đối xử của mình, từ việc cải biến chính mình, ông bắt tay vào việc cải biến gia đình và bạn bè thân hữu của mình. Sau nhiều thập kỷ, ông đã thay đổi được đất nước của mình.

Hãy luôn mang một tấm lòng lương thiện và làm những điều đúng đắn, nhắc nhở, cải biến bản thân thành một người tốt. Nếu mỗi người đều biết tự quay lại vào trong và cải biến bản thân mình cho tốt hơn, thì thế giới chắc chắn sẽ thay đổi.

ST

CÂU CHUYỆN THÁNH KINH

CÂU CHUYỆN THÁNH KINH

 Bác sĩ Phùng Văn Hạnh

Ở Colombie có cô học sinh

Nhà trường cho quyển Thánh Kinh dặn rằng

Mỗi ngày nhớ đọc siêng năng

Và cô thích thú chuyên cần sớm trưa

Nhưng cha cô bất ngờ thấy được

Bảo con rằng : ‘’chớ đọc sách nầy

Dạy điều gian dối trái sai”

Khuyên con nghe lấy lời cha dặn dò’’

Tuần sau cũng bất ngờ ông thấy

Con gái đoc mê mãi Phúc âm

Muốn con từ bỏ quyết tâm

Ông tịch thu sách, nhẹ nhàng trách con

rồi nhét sách vào trong túi áo.

Ông lên xe đến sở mỏ than

Ngày ấy ông phải xuống hầm

Kiểm tra khai thác ở tầng dưới sâu

Một giờ sau bỗng đâu báo động

Hơi than nổ chôn sống công nhân

Cứu cấp gặp phải khó khăn

5 ngày sau mới đến tầng hầm sâu

Nhưng đã trễ, thương đau đến trước

31 người chết ngột thảm thay

Ông kỷ sư cầm trong tay

Quyển thánh kinh ông lấy ngày ra đi

Cuối sách ông có ghi hàng chữ:

“Con ơi hãy gìn giữ sách nầy

Những lời dạy dỗ trong đây

Sự thật vĩnh cửu tràn đầy yêu thương

Cha tìm lại Thiên đường đánh mất

Vì đam mê vật chất, kiêu căng

Trước mặt Thiên Chúa từ nhân

Cha đã sám hối ăn năn thật lòng.

Con nhớ đọc những dòng cha viết

Và không ngừng đọc tiếp Phúc âm

Lạ thay 30 công nhân

Cùng ký vào sách tâm thành tuyên xưng:

Thánh kinh là tin mừng mạc khải

Vì yêu thương nhân loại lạc loài

Thượng đế xuống thế làm người

Nối kết giao hảo giữa Trời, thế gian

Trong ta Chúa ẩn tàng cùng sống

Dìu đắt ta vào chốn vĩnh hằng

Bác sĩ Phùng Văn Hạnh

Bỏ qua oán hờn

Bỏ qua oán hờn

OAN HON
Một thương gia trong một thị trấn nhỏ nọ, có hai người con trai sinh đôi. Hai chàng trai cùng làm việc tại cửa hàng của cha mình. Khi ông qua đời, họ thay ông trông coi cửa hàng đó. Mọi việc đều êm đẹp cho đến một ngày kia, khi một tờ giấy bạc biến mất.

Người em đã để tờ giấy bạc đó trên máy đếm tiền rồi đi ra ngoài với khách hàng. Khi anh quay lại, tờ giấy bạc đã biến mất.

Người em hỏi người anh: – Anh có thấy tờ giấy bạc đâu không ?

Người anh đáp: – Không. Tuy thế người em vẫn không ngưng tìm kiếm và gạn hỏi: – Anh không thể không đụng đến nó. Tờ giấy bạc không thể tự đứng dậy và chạy đi được! Chắc chắn anh phải thấy nó !

Sự buộc tội phảng phất trong giọng nói của người em. Căng thẳng bắt đầu tăng lên giữa hai anh em họ. Sự oán giận cũng theo đấy mà len vào. Không lâu sau một hố ngăn cách gay gắt và sâu thẳm đã chia cách hai chàng trai trẻ. Họ không thèm nói với nhau một lời nào. Cuối cùng họ quyết định không làm chung với nhau và một bức tường ngăn cách đã được xây ngay giữa cửa hàng. Sự thù địch và oán giận cũng lớn lên tiếp theo 20 năm sau đó, lan đến cả gia đình của họ.

Một ngày nọ, một người đàn ông đỗ xe ngay trước cửa hàng. Ông ta bước vào và hỏi người bán hàng: – Anh đã ở đây bao lâu rồi . Người bán hàng đáp rằng anh đã ở đây cả cuộc đời. Vị khách nói tiếp: – Tôi phải nói với anh điều này. 20 năm trước tôi đã đi xe lửa và tạt vào thị trấn này. Lúc đó tôi đã không ăn gì suốt ba ngày. Khi tôi đến đây bằng cửa sau và thấy tờ giấy bạc trên máy tính tiền, tôi đã bỏ vào túi mình rồi ra ngoài. Những năm qua tôi không thể quên điều đó. Tôi biết nó không phải là món tiền lớn nhưng tôi phải quay lại đây và xin anh thứ lỗi .

Người đàn ông lạ mặt ngạc nhiên khi thấy những giọt nước mắt lăn trên má của người bán hàng trạc tuổi trung niên này.

Anh ta đề nghị: – Ông có vui lòng sang cửa bên và kể lại chuyện này cho người đàn ông trong cửa hàng đó được không ? Rồi người đàn ông lạ càng ngạc nhiên hơn khi thấy hai người đàn ông trung niên, trông giống nhau, ôm nhau khóc ngay trước cửa hàng. Sau 20 năm, rạn nứt giữa họ đã được hàn gắn. Bức tường thù hận chia cắt hai anh em họ đã được đập bỏ.

&   &   &

Trong cuộc sống có những điều nhỏ nhặt vẫn thường xảy ra và vô tình chia cắt con người với nhau, những lời nói vội vàng không suy nghĩ, những lời chỉ trích, buộc tội hay những lời trách cứ oán hờn. Và khi đã bị chia cắt, họ có thể không bao giờ quay lại với nhau được nữa. phương cách tốt nhất để tránh những tình huống gây tổn thương này là bỏ qua những lỗi lầm nhỏ của nhau. Điều này không dễ dàng nhưng cũng chẳng phải là quá khó khăn. Bỏ đi những bực dọc rồi bạn có thể sẽ ngạc nhiên khi thấy mình chẳng mất bao nhiêu năng lượng để xây dựng sự gắn bó với những người bạn yêu mến

Danh sách 300 đại học hàng đầu châu Á không có trường Việt Nam


Sinh viên ĐH Bách khoa Hà Nội nghe phát biểu của Chủ tịch Microsoft Bill Gates, 22/4/2006

Sinh viên ĐH Bách khoa Hà Nội nghe phát biểu của Chủ tịch Microsoft Bill Gates, 22/4/2006

Tạp chí uy tín về giáo dục trên thế giới Times Higher Education mới đây công bố bảng xếp hạng 300 trường đại học ở châu Á năm 2017. Không một trường đại học nào của Việt Nam lọt vào danh sách này.

Đảo quốc Singapore bé tí hon có tới 2 trường trong nhóm 10 đại học đứng đầu châu Á là Đại học NUS tiếp tục giữ vị trí số 1 và Đại học Công nghệ Nanyang đứng thứ tư. Trong khi vị trí thứ nhì thuộc về Đại học Bắc Kinh của Trung Quốc. Đất nước có dân số khổng lồ này còn có 3 trường khác nằm trong danh sách top 10.

Nhật Bản, cường quốc kinh tế thứ 3 thế giới, có trường Đại học Tokyo ở vị trí thứ 7, còn các trường Hàn Quốc nắm 3 vị trí cuối trong danh sách 10 trường đỉnh cao.

Tính chung trong danh sách 300 trường hàng đầu châu Á, tuy không giữ vị trí cao nhất nhưng Nhật có nhiều trường nhất với 69 trường, kế đến là Trung Quốc với 54 trường, Ần Độ 33 trường, và Hàn Quốc 26 trường.

Trong số các nước láng giềng ASEAN có nền kinh tế không chênh lệch quá lớn so với Việt Nam, Thái Lan có nhiều trường lọt vào danh sách này nhất với 10 trường. Malaysia có 9 trường, Indonesia có 2 và Philippines có 1.

Nếu như các trung tâm giáo dục, nghiên cứu của mình mà vẫn chưa đặt nghị sự lớn vào việc tạo ra tri thức và công bố cọ sát toàn cầu thì khả năng để lọt vào những bảng những trường trên cùng này là rất khó khăn. Thế mà bây giờ vẫn còn tranh cãi nhiều lắm. Một số nơi vẫn tìm kiếm những đặc thù để né tránh

Bảng xếp hạng của Times Higher Education căn cứ vào việc tính điểm trong 4 lĩnh vực. Thứ nhất là giảng dạy, chiếm 25% số điểm, trong đó riêng danh tiếng học thuật chiếm 10%.

Lĩnh vực nghiên cứu chiếm 30% số điểm. Tầm ảnh hưởng nghiên cứu cũng chiếm 30%, cách tính điểm là dựa trên số lần công trình nghiên cứu của trường được các học giả toàn cầu trích dẫn.

Lĩnh vực cuối cùng chiếm 15% số điểm bao gồm triển vọng quốc tế và chuyển giao kiến thức. Triển vọng quốc tế được đánh giá dựa vào tỷ lệ sinh viên trong và ngoài nước, tỷ lệ giảng viên trong và ngoài nước và hợp tác quốc tế. Chuyển giao kiến thức được xem là thu nhập của trường từ việc bán nghiên cứu cho các doanh nghiệp.

Theo các chuyên gia trong lĩnh vực giáo dục, các trường đại học nước ngoài rất quan tâm đến việc được đánh giá, xếp hạng bởi các tổ chức quốc tế uy tín, vì điều này nói lên năng lực và uy tín học thuật, chất lượng đào tạo và khả năng cạnh tranh của họ. Những yếu tố này có tính quyết định đến việc thu hút sinh viên cũng như các khoản tài trợ cho các hoạt động nghiên cứu.

Trong khi đó, các trường Việt Nam lâu nay xem nhẹ, thậm chí né tránh điều này. Tiến sĩ Vương Quân Hoàng, người được đào tạo ở Bỉ và hiện giảng dạy tại Viện Quản trị Kinh doanh FPT, nói với VOA:

“Nếu như các trung tâm giáo dục, nghiên cứu của mình mà vẫn chưa đặt nghị sự lớn vào việc tạo ra tri thức và công bố cọ sát toàn cầu thì khả năng để lọt vào những bảng những trường trên cùng này là rất khó khăn. Thế mà bây giờ vẫn còn tranh cãi nhiều lắm. Một số nơi vẫn tìm kiếm những đặc thù để né tránh. Nó cũng nói lên cái nhược điểm hiện giờ của hệ thống công bố khoa học ở trong nước. Nó có liên quan đến chất lượng giáo dục”.

Rất nhiều trung tâm nghiên cứu của mình là không có danh tiếng và thương hiệu cần thiết để lọt vào những cuộc chơi đòi hỏi cái uy tín rất là gắt gao, thế thì đó là thiệt hại thực tế thấy rõ ngay. Nếu mà trong nền kinh tế mà Việt Nam cái gì cũng phải mang nguồn lực ở nước ngoài vào thì nói thẳng thắn là mình lệ thuộc nhiều quá

 

Tiến sĩ Hoàng lưu ý rằng khi các trường đại học không có chất lượng tốt, không có khả năng cạnh tranh ở tầm quốc tế, điều đó cũng có những hậu quả kinh tế. Ông nói:

“Nguyên nội cái chuyện các trường đại học họ tăng được năng lực và giữ được sinh viên giỏi ở trong nước thôi thì nó tăng khả năng tự chủ của các trường đại học và cái danh tiếng trong tương lai. Cái thứ hai là cũng tiết kiệm được rất nhiều chi phí bởi vì đào tạo ở Việt Nam dẫu sao chăng nữa cũng rẻ hơn rất nhiều so với các nước. Và cũng rất tự nhiên là nếu anh có danh tiếng và khả năng cọ sát toàn cầu thì khả năng hợp tác của anh với khu vực công thương và chính sách mới mạnh lên. Rất nhiều trung tâm nghiên cứu của mình là không có danh tiếng và thương hiệu cần thiết để lọt vào những cuộc chơi đòi hỏi cái uy tín rất là gắt gao, thế thì đó là thiệt hại thực tế thấy rõ ngay. Nếu mà trong nền kinh tế mà Việt Nam cái gì cũng phải mang nguồn lực ở nước ngoài vào thì nói thẳng thắn là mình lệ thuộc nhiều quá”.

Một chuyên gia kinh tế, Tiến sĩ Võ Trí Thành cũng bình luận với VOA rằng giáo dục đào tạo có “độ vênh” so với thực tế khi nhiều người tốt nghiệp đại học không tìm được việc làm. Ông nói chất lượng đào tạo người lao động là một trong những nguyên nhân khiến năng suất lao động của Việt Nam còn thấp so với các nước trong khu vực.

Một báo cáo mới đây của 2 nhà nghiên cứu thuộc Đại học Kinh tế Quốc dân ở Hà Nội chỉ ra rằng mức tăng năng suất lao động của Việt Nam trong 5 năm trở lại đây đã thấp hơn Lào.

Tôi trở thành một Kitô Hữu

Tôi trở thành một Kitô Hữu

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Tháng ba năm 1983, tôi được trả tự do, trở về đời sống bình thường, với gia đình vợ và các con. Nhưng những dấu ấn gần tám năm trong các trại cải tạo của Cộng Sản tôi không thể nào quên đuợc, như ngay bây giờ lúc viết bài bày, dấu ấn kỷ niệm khó quên đã in hằng sâu đậm trong tâm hồn tôi.

Tôi thích nhất năm năm dạy học tại trường Lương văn Can, ở đây tôi được nói những tư tưởng, những ý nghĩ mà tôi cho rằng đúng, có một nơi để trình bày, diễn tả nỗi lòng, tâm sự của tôi và có những em học trò nhỏ đã đến tuổi hiểu biết, suy nghĩ để tiếp thu, phán đoán những lời nói, những điều tôi trình bày.

Về những năm dài đi học, tôi chỉ giữ lại nhiều kỷ niệm nhất là thời gian tôi học tại trường trung học Cần Giuộc và hai năm tôi học tại trường Chính Trị Kinh Doanh thuộc Viện Ðại Học Ðà Lạt nhưng dạy ở Thương Xá Tax Sài gòn.

Về những kỷ niệm khó quên, in sâu đậm trong tâm hồn tôi là thời gian bảy năm chín tháng mười lăm ngày tôi bị giam giữ ở trong các trại gọi là trại cải tạo của Cộng Sản từ các trại Long Thành, Thủ Ðức, Lào Cai, Vĩnh Phú và Hà Nam Ninh.

Những chuổi dài sự kiện thúc đẩy, ảnh hưởng đến tâm hồn tôi, đưa đẩy diễn biến tư tưởng lâu ngày của tôi để tôi được trở thành  Kitô hữu.

Niên khoá 1961-1962, tôi học lớp 12 của trường Trung học Chu văn An, thầy dạy Anh văn của tôi là vị Linh Mục. Bộ áo màu đen của Ngài đã gây cho tôi sự chú ý và tôi đã có ý nghĩ tốt về Ngài do màu áo đen mà Ngài đang mặc. Tôi tự nhiên có cảm tình với Ngài vì tôi biết rằng các Linh Mục không có vợ.

Nhưng vì lo dùi mài  kinh sử, lo học trối chết các môn học Toán, Lý Hóa và Triết học để làm sao phải thi cho đậu Tú Tài hai, vì nếu rớt thì phải đi lính ngay. Tôi chỉ cần học ba môn Toán, Lý Hóa và Triết là có thể qua được phần thi viết, còn phần thi vấn đáp thì sẽ tính sau. Nên môn Anh văn lúc đó được coi là môn phụ, chúng tôi ít chú ý tới môn này và màu áo đen của Thầy Linh Mục dần dần phai mờ trong tâm trí tôi.

Khoảng năm 1970, tôi có ý định làm Luật sư, tôi tìm một Luật sư để xin tập sự, nhưng tôi đã không tìm được vì ba tôi chỉ là người lao động bình thường chạy xe Lam ba bánh ngày hai buổi, không quen biết nhiều, tôi thì mới tốt nghiệp trường luật vài năm, còn trẻ cũng không quen biết ai, tôi có người bạn thân là Nguyễn văn Bái, người Công Giáo hứa giúp tôi, bạn tôi đến gặp Linh Mục Chánh Xứ Bắc Hà ở đường Lý Thái Tổ. Bạn tôi dẫn vào gặp Cha, nhờ Cha giúp đỡ, tìm giùm một Luật sư  để nhận tôi làm một Luật sư tập sự. Thế là tôi được Luật sư Lê Quang Trọng nhận tôi tập sự. Tôi tự hỏi tại sao chỉ một lời nói của Cha Chánh Xứ Bắc Hà mà Luật sư Trọng lại đồng ý giúp. Phải có sự gì đó, một cái gì đó tôi không hiểu nổi một lời nói của Cha Xứ  lại có giá trị đến như vậy.

Sau này tôi học ở trường Chính Trị Kinh Doanh, tôi được Linh Mục Kim Ðịnh đến thuyết trình những đề tài thuộc về dân tộc học, về Kinh Dịch. Ngài mặc áo toàn màu trắng, tôi rất có cảm tình với Ngài, rất quí mến Ngài vì sự hiểu biết rộng rãi của Ngài. Ðặc biệt tôi quí mến Ngài vì Ngài sống độc thân, không có vợ.

* * *

Cuối năm 1976, Cộng Sản còng tay chúng tôi hai người cùng chung một cái còng, họ đưa chúng tôi xuống hầm tàu chở than đá bẩn thỉu, hôi hám để đưa chúng tôi ra Bắc để trả thù chúng tôi vì tội theo “ Mỹ Ngụy” dám chống lại Cộng Sản.

Trên chuyến tàu định mệnh này, bạn tôi Lê Như Ninh (1), Luật Sư, người Công giáo chỉ cho tôi biết Ðức Cha Nguyễn văn Thuận (2), người cao ráo khoảng 1m70, nước da trắng đang đứng nói chuyện cùng anh em ở một góc trong khoang tàu lúc nhúc các tù nhân chen chúc trong khoang dùng để chở súc vật hay chở than đá vì dưới chân chúng tôi than đá còn rải rác khắp nơi. Lê Như Ninh có nói Ðức Cha Thuận biết nhiều thứ tiếng và có thể nói được cả tiếng La tinh nữa, khi đi họp ở La Mã, Ngài đã phát biểu bằng tiếng la tinh trong các phiên họp này.

Tại trại tù K3 Vĩnh Phú, tôi ở chung với ba vị Linh Mục Cha Nguyễn văn Khoa tự Khải, Cha Thấy và một cha trẻ nữa ( tôi quên mất tên) bị bắt ở Mỹ Tho chuyển ra Bắc cùng một lượt với tôi.

Cha Khoa, cha Thấy và Cha còn rất trẻ ở chung phòng với chúng tôi một thời gian ngắn rồi chuyển qua K5 Vĩnh Phú. Sau này tôi được tin Cha Khoa, trước là Hiệu Trưởng trường Ðồng Tiến?, đã chết trong sà lim, trại giam riêng, nhà tù của trại giam, nếu bị giam ở trong sà lim thì bị bớt phần ăn hàng ngày. Ở trong trại giam hàng ngày đã đói, khi bị giam ở trong trại giam riêng còn đói hơn nữa, hạn chế bớt nước uống và không được tắm rửa, chân bị cùm. Sau khi ở trong sà lim này được thả ra nhiều người đi không nổi phải cỏng xuống bịnh xá để điều trị bịnh, nhiều người bị cùm lâu ngày, ống chân bị lỡ loét  có khi những chỗ lỡ loét đó vòi bọ làm ổ trong đó. Ðược tin Cha Khoa tự Khải đã mất ở trong tù vì Ngài lớn tuổi không chịu nổi sự đói khát, bị hành hạ về tinh thần lẫn thể xác của cán bộ Cộng Sản. Còn Cha Thấy tôi nghe các bạn bên K5 Vĩnh Phú nói Cha bị bịnh mà mất. Nguyên nhân bị bịnh là vì chúng tôi bị suy dinh dưỡng vì thiếu ăn, thiếu vitamin, thiếu đủ thứ chất để nuôi sống cơ thể. Chúng tôi ở trong trại một thời gian có người mất 10 kí lô, 20 kí lô hay hơn nữa cũng là sự thường. Có lần tôi hỏi Cha Thấy vì sao Cha bị bắt? Cha nói có lẽ trên xe của tôi lúc đó có một triệu đồng, tiền của năm 1975, tương đương với 25 cây vàng vào thời điểm đó nên Cộng Sản bắt tôi để lấy số tiền đó.

Trong thời gian bị giam giữ, các vị Linh Mục đã sinh hoạt, lao động như các tù nhân khác, sống cuộc sống tù nhân như anh em cải tạo, ăn uống thiếu thốn, ngủ chật chội, nằm ngủ không thể cong chân đuợc, vì nếu cong chân mình thì đụng vào lưng người bên cạnh. Các vị Linh Mục cũng cuốc đất, gánh nước trồng khoai, trồng bắp, trồng rau cũng đói khát như các anh em tù nhân, cũng làm việc nặng nhọc như các anh em tù nhân khác. Nhưng các vị được sự chú ý đặc biệt của Cộng Sản vì họ biết các vị Linh Mục này luôn luôn có uy tín với tín đồ của mình. Họ cũng biết rằng các vị Linh Mục này không vợ con, thường không hoạt động chính trị, nhưng bị bắt chỉ vì có một tội duy nhất là tội làm Linh Mục.

Tôi còn nhớ tôi đã đọc trong một bài báo của Hồ Hữu Tường (3) có phân tích trên thế giới có ba nền văn minh: văn minh chính ủy, văn minh tu sĩ và văn minh kỹ sư. Văn minh kỹ sư là nền văn minh khoa học, kỷ thuật. Ðại biểu cho nền văn minh này là sự tiến bộ về khoa học, kỷ thuật  của quốc gia Hoa Kỳ, do Mỹ dẫn đầu lảnh đạo.

Văn minh chính ủy, tức là cách cai trị, là cách thức tổ chức chính quyền đó là sức mạnh của Ðảng Cộng Sản do Nga Sô chỉ huy để chống lại phe tư bản. Trước năm 1975, phe Cộng Sản lấn lướt phe tư bản, thống trị các nước Ethiopie, Angola, Afganistan, Việt Nam.

Còn văn minh tu sĩ, theo Hồ Hữu Tường là văn minh Thiên Chúa Giáo dưới sự lảnh đạo của Ðức Giáo Hoàng. Ngài không có phi cơ chiến đấu, oanh tạc, không có súng đạn, không có hoả tiển, vệ tinh, không có bom nguyên tử, nhưng tiếng nói của Ngài trên một tỉ người nghe theo.

Từ năm 1989 trở đi, Cộng Sản Ðông Âu tan rã dần, đảng Cộng Sản Liên Sô phải tự giải tán vào năm 1991, điều đó chứng tỏ rằng văn minh chính ủy, theo cách nói của Hồ Hữu Tường, đã thất bại và hiện nay đảng Cộng Sản lần lượt tự giải tán chỉ còn vài nước như Trung Hoa, Bắc Hàn, Cu ba, Việt Nam cố gắng duy trì đảng Cộng Sản trên hình thức, thực chất chủ nghĩa Cộng Sản đã lỗi thời, đang dần dần bị đào thải theo thời gian.

Hiện nay khoa học kỷ thuật càng ngày càng tiến bộ, vệ tinh, điện tử, máy vi tính v.v. . phát minh rất nhiều điều mới lạ nhưng con người vẫn cần có đời sống tâm linh, cần có đời sống tôn giáo vì chỉ có tôn giáo mới giải quyết được những vấn nạn của con người về sự sống, sự chết, bịnh hoạn, tai nạn… sự sống đời sau sau khi chết…

Chính sự tan rã của Liên Bang Sô Viết hơn bảy mươi năm ngự trị ở Liên Sô là một điều kỳ diệu, lạ lùng nếu chúng ta tin có Thượng Ðế giúp sức đến lúc cần thiết tạo nên hoàn cảnh, con người để cho đảng Cộng Sản tan rã.

Năm 1917 khi đảng Cộng Sản Liên Sô nắm được quyền hành lảnh đạo ở Liên Sô, họ chủ trương vô thần, độc tài, độc đảng, độc quyền tư tưởng, tiêu hủy tất cả quyền tự do của con người, trong đó có quyền tự do tôn giáo. Họ tìm đủ mọi cách để triệt hạ các hình thức tôn giáo ở Liên Bang sô viết để đưa chủ thuyết Cộng sản lên làm một thứ tôn giáo mới, tuyên truyền bắt buộc người dân phải  theo “tôn giáo Cộng Sản”.

Cũng trong năm 1917, Ðức Mẹ hiện ra ở Fatima nói với ba trẻ mục đồng rằng “ nước Nga sẽ trở lại”. Và năm 1991 lời nói ấy của Ðức Mẹ hồi năm 1917 đã ứng nghiệm về sự tan rã của chủ nghĩa Cộng Sản tại Liên Sô.

Từ năm 1970 đến năm 1975, tôi làm thơ ký Hội Phụ Huynh học sinh trường trung học Lương văn Can, lúc đó ông Ðỗ Ðăng Lợi làm Hội Trưởng, khi tôi đi cải tạo về, tôi ghé thăm ông Lợi thì ông đã theo đạo Tin lành. Có một điều lạ là ông Lợi trước đây theo Phật giáo, có chức sắc ở các hội đình làng, về thủ tục cúng kiến rất rành. Sự kiện này gây cho tôi một sự chú ý đặc biệt. Sau năm 1983 mỗi lần tôi ghé thăm ông Lợi thì  ông Lợi thường đem Kinh Thánh ra bàn, thảo luận, thường nói về Chúa Kitô với tôi. Ông Lợi cho tôi mượn cuốn Thánh Kinh về nhà để đọc.

Sau này một người bạn khác dạy cùng trường trung học Lương văn Can là anh Tạ văn Hười giáo sư Việt Văn, một giáo sư biết nhiều về Hán văn, Pháp văn và Anh văn. Sau khi đi cải tạo về, gia đình anh cũng theo đạo Tin Lành.

Tôi băn khoăn nhiều vì mẹ tôi theo đạo Cao Ðài, tôi có người bạn thân theo Phật Giáo đêm nào anh cũng gõ mõ, tụng kinh. Tôi biết một số kinh của Ðạo Cao Ðài. Tôi có đọc cuốn sách Tận Thế và Hội Long Hoa của Vương Kim. Tôi cũng có đọc kinh Kim Cang, Kinh Pháp Hoa do anh Ngô Thanh Nhàn, cựu Giáo sư trường Trương Vĩnh Ký trước năm 1975, người anh bà con theo đạo Phật cho mượn. Tôi cũng đọc cuốn Thánh Kinh do ông Lợi đưa. Tôi nhớ rất kỹ những câu như “ Hãy yêu thương ngay cả kẻ thù của mình nữa.” Làm sao mà yêu được kẻ thù của mình. Hồi còn bị giam giữ tại trại cải tạo Vĩnh Phú, tôi có sống với tên Phạm Ðình Thanh, cán bộ xây dựng nông thôn ở Bình Dương, làm Ðội trưởng đội hai, đội trồng khoai lang, khoai mì, trồng bắp. Sau đương sự lên làm thi đua ở K3 Vĩnh Phú, không cho tôi khai bịnh vào cuối năm 1978 đầu năm 1979, mặc dầu lúc đó tôi bị cảm liên miên, sức cùng lực kiệt, tôi phải đi lao động dưới trời mưa tầm tả, suốt ngày đêm hơn hai tháng trời cộng thêm với giá rét của miền Bắc mùa đông, mà mỗi ngày chỉ ăn được nắp bình thủy cơm trộn với khoai mì, khoai lang hay bắp hột, bo bo không xay cùng với canh rau muống luộc với muối có khi trong một tô canh lềnh bềnh vài cọng rau muống mà thôi. Bắp thì cứng, loại để nuôi súc vật ở miền Bắc. Không phải là loại bắp mềm, ngon ngọt như loại bắp trong Nam, bà con đem ra chợ bán mỗi buổi sáng. Tên Thanh đã hành hạ anh em, làm khó dễ bạn tù. Ðể lấy lòng cán bộ trại giam, hy vọng được tha về sớm, đã báo cáo từng chuyện đổi thuốc rê hay thuốc lào để lấy muối ăn, chuyện lấy rau, khoai sắn đem vào trại, báo cáo những lời than vãn, chán nản và tư tưởng chống đối của anh em bạn tù. Ngay cả anh em trong trại lấy miếng sắt nhỏ mài thành con dao chiều dài chừng 5,6 phân để gọt khoai, xắt rau cũng bị báo cáo, tịch thu.

Ðến nay tôi vẫn còn nhớ rất rõ như in vào ký ức tôi khuôn mặt lạnh như tiền, luôn luôn nhăn nhó, lúc nào cũng hiển hiện sự hằn học, nhớ khuôn mặt lúc nào cũng tái mét, anh em gọi là khuôn mặt “ gà mái ” của Phạm đình Thanh. Khuôn mặt bành bạnh ra, đôi mắt thì láo liên như tìm kiếm, như chờ đợi sự sơ hở nào đó của anh em để hắn hành hạ cho thoả mản bản năng “sung sướng trong sự đau khổ của người khác ”.

Nhưng tôi suy nghĩ nếu tôi thù ghét tên Thanh thì tim tôi đập mạnh, tôi tự làm khổ tôi, tôi bực dọc với chính mình chứ tên Thanh đâu có biết gì. Sự thù ghét này chỉ có hại cho tôi mà thôi, chứ tên Thanh chẳng có hề hấn gì. Trong khi tôi thù ghét hắn, tôi tức giận hắn, thì biết đâu tên Thanh đang ăn nhậu với bạn bè hay đang đi nghĩ mát ở bãi biển Vũng Tàu, đang ăn uống vui vẻ với vợ con đương sự. Chúa nói “ Hãy yêu thương ngay cả kẻ thù của mình nữa” thật là điều vô cùng khó khăn đối với tôi vì làm sao tôi có thể yêu thương người đã hành hạ tôi nhiều năm trong trại cải tạo, tôi oán ghét đương sự còn nhiều hơn là oán ghét cán bộ giam giữ tôi nữa. Tuy nhiên tôi suy nghĩ lại nếu mình thù ghét tên Thanh chỉ hại cho mình mà thôi, tôi đã chuyển ý nghĩ, tư tưởng sang tình yêu thương, mình tôi nghiệp người đó vì họ muốn về sớm quá nên họ có hành động không phải, không tốt đối với anh em trong trại tù. Chúa ơi con cố gắng không thù hận và cầu nguyện cho người đã hành hạ con để họ thay đổi tấm lòng của họ nhưng khó khăn lắm Chúa ơi.

Con vẫn nhớ trong Thánh Kinh có những câu: “Nếu người ta tát con má bên phải, con hãy đưa má bên trái cho người ta tát. Ngươi chỉ thấy cọng rơm trong mắt người ta mà không thấy đà ngang trong mắt mình.” Những câu này bản thân tôi còn phải học tập, thực hành, tự sửa chữa mình hằng ngày không biết có làm được, làm nỗi hay không.?

Cộng sản có mấy chục triệu đảng viên, có chính quyền có súng đạn, có xe tăng, có máy bay, có vệ tinh, hỏa tiển, bom nguyên tử, có nhà tù để giam giữ những thành phần chống đối, có lực lượng an ninh hùng hậu, có KGB, cơ quan tình báo anh ninh chặt chẻ mà sao chỉ tồn tại có 73 năm. Còn tôn giáo như Thiên Chúa Giáo gần hai ngàn năm sao không tan rã. Ngay cả những lúc bị cấm đạo gắt gao là những lúc đạo phát triển, tăng thêm tín đồ. Nếu đạo Thiên Chúa làm sai, không thích hợp với tâm tình của con người thì đã tan rã từ lâu chứ sao lại tồn tại đến ngày hôm nay đã có nhiều người theo và đã chết vì đạo Thiên Chúa. Lịch sử các Thánh Tử Ðạo Việt Nam đã chứng minh điều đó.

Những chiếc xe lưu thông trên đường phố cần có bảng chỉ đường, cần có đèn xanh đèn đỏ để tránh tai nạn. Những lời Chúa dạy trong Thánh Kinh là bảng chỉ đường như luật lệ giao thông rất cần thiết để tránh được nhiều va chạm trong đời sống hàng ngày. Nếu chúng ta sống đúng như lời dạy trong Thánh Kinh thì cuộc sống chúng ta rất hạnh phúc, mọi người đều được bình an, vui vẻ thì Thiên Ðàng đã có ở trên trái đất của chúng ta rồi vậy.

Gương các Thánh Tử đạo Việt Nam, gương nhiều bà Sơ phục vụ trong các nhà thương, trong các trại cùi hay sống kham khổ thiếu thốn trên các vùng rừng núi hiểm trở với đồng bào thiểu số xa rời đời sống văn minh hiện tại, xa rời cuộc sống tiện nghi vật chất bình thường.

Tại sao Mẹ Theresa thành Calcutta, 86 tuổi vẫn còn chịu khó lặn lội các nơi để phục vụ người nghèo khổ, bịnh hoạn, những người tàn tật không nơi nương tựa, những người cùng khổ, hôi hám, dơ dáy mà Mẹ vẫn không nản lòng. Ðiều gì để Mẹ có thể làm việc đó nếu không phải Mẹ đã nghe tiếng gọi của tình thương, tiếng gọi của Thiên Chúa. Con người là chi thể của Chúa. Thương người hôi hám, què quặt, bịnh hoạn đó chính là yêu Chúa vì con người là chi thể của Chúa cơ mà. Mẹ cũng đã từng nói: “Không phải tôi làm mà chính Chúa đã làm trong tôi” Hay chính Mẹ cũng từng nói tôi chỉ là cây viết chì của Chúa. Trong một bài báo đăng trong số 206 của Nguyệt san Ðức Mẹ Hằng Cứu Giúp có chép về công việc phục vụ của các sơ dòng tu của Mẹ Têrêsa có một đoạn như sau: “ Sau đó chúng tôi đã nhặt được một người đàn ông ở một cống rãnh, một nửa thân mình đã bị sâu bọ rút rỉa, và sau khi chúng tôi đã mang ông ta vào nhà, ông chỉ nói rằng: “ tôi đã sống như một con thú trên đường phố, nhưng tôi sắp chết như một thiên thần, được yêu thương và săn sóc’’. Ðoạn, sau khi chúng tôi đã lấy hết mọi thứ sâu bọ khỏi mình mẩy của ông, tất cả những gì ông nói với chúng tôi kèm theo nụ cười tươi là “Sơ ơi, tôi sắp về cùng Thiên Chúa” rồi ông tắt thở. Bài báo ấy viết tiếp: “Thật là tuyệt vời khi chứng kiến thấy sự cao cả của con người đàn ông đã có thể nói như thế mà không trách cứ một ai, không so sánh bất cứ sự gì.”

*  *  *

Hồi hai mươi ba tuổi, sau khi tốt nghiệp trường sư phạm Sài Gòn, tôi được đổi về dạy học ở quận Ðất Ðỏ, tỉnh Bà Rịa. Khi tôi đến thăm một phụ huynh học sinh, ngồi nói chuyện bình thường với chủ nhà, bà này là người Công giáo bà ấy nói: “ Nếu gia đình nào có một người con đi tu, làm Linh Mục thì gia đình đó có phước lớn lắm”. Hồi đó còn trẻ, tôi không có đạo, tôi nghe, nhưng mà tôi không để ý lắm. Bây giờ, ba mươi năm sau, tôi đã chứng kiến, đã thấy, đã hiểu và đã cảm nghiệm cuộc đời của chính mình, gia đình mình và gia đình bạn thân, gia đình những người quen biết thì tôi phần nào cảm nghiệm câu trên là rất đúng, vì nếu gia đình nào có người anh, người em hay bà con xa gần làm Linh Mục, hy sinh cuộc sống cá nhân, không vợ con không nhà cửa, không tài sản thì những người thân trong gia đình nếu có ý nghĩ hành động nào sai quấy, trái với lương tâm cũng e dè, ngại ngùng không dám làm bậy vì không có lý do gì cuộc sống mình về vật chất vẫn đang sung sướng hơn người bà con đang làm Linh Mục sống không tài sản, không vợ con, mà còn muốn kiếm thêm nhiều hơn nữa bằng hành động bất chánh thì làm sao dám nhìn người thân đang làm Linh Mục hay Bà Sơ đang tu, đang làm công tác ở nhà thương, ở các trại cùi, đang giúp đỡ những người cùng khổ, nghèo nàn bịnh hoạn, tàn tật ở bất cứ nơi nào dù hẻo lánh xa xôi ở trên miền núi non hiểm trở. Bà con anh em mình đang tu hành làm những điều tốt, điều phúc đức, chịu cực khổ lo săn sóc cho người nghèo, người tàn tật, hướng về đời sống tâm linh, tu đức thì làm sao không ảnh hưởng đến mình về đời sống hướng đến điều thiện nhiều hơn, đến đời sống tâm linh, tu đức nhiều hơn. Chưa kể nhờ trong gia đình có người tu hành, Ngài sẽ cầu nguyện, Chúa ban cho nhiều ơn phước mà những gia đình khác có thể không có được.

Trong suốt cuộc sống của con người ai chẳng có lúc làm ăn thất  bại, chịu nhiều thử thách gian nan, chịu nhiều đau khổ về tinh thần lẫn vật chất, bị tù đày bị lường gạt, bị bịnh hoạn, bị tai nạn v.v.. Khi gặp những trường hợp cực kỳ khó khăn, cảm thấy dường như không thể nào vượt qua nổi, Chúa đã hứa nếu có ba người họp lại nhân danh Chúa Kitô để cầu xin thì Chúa sẽ ở giữa họ. Nếu ngược lại không có đức tin gì về tôn giáo nào cả, mình sẽ tự dày vò mình, sẽ than thở, tự dằn vặt lấy mình và nhiều khi vượt quá khả năng giải quyết của mình, không tìm thấy lối thoát hay cách giải quyết, nhiều khi đưa tới tâm lý khủng hoảng dữ dội, bốc đồng, không kịp suy nghĩ có thể đưa đến trường hợp tự quyên sinh.

Tôi có danh sánh đi Mỹ theo diện HO vì đi cải tạo gần tám năm. Trên nguyên tắc trước khi đi Mỹ tôi phải ký giấy giao nhà cho nhà nước Cộng Sản vì tôi có chức vụ là Phó Bí Thư đảng Tân Ðại Việt cấp quận. Nhà này trị giá trên 50 cây vàng. Hồi nhỏ lúc còn đi học lớp 12, ba tôi đã để tôi đứng tên một nền nhà. Sau này, ba tôi xin phép cất nhà và chính ba tôi đã tự bỏ tiền ra xây cất do công lao mồ hôi, nước mắt, công sức của ba tôi chạy xe lam, dành dụm từng đồng, từng cắc mới có tiền để xây căn nhà trên. Nhưng Cộng Sản muốn lấy căn nhà của ba tôi nên họ cho rằng tôi đi ngoại quốc thì phải giao nhà cho họ vì họ xếp tôi thuộc diện phải hiến nhà, giao nhà cho họ.

Tôi áy náy không yên, vì nhà này có phải là nhà của tôi đâu mà tôi có quyền ký giao nhà này cho nhà nước.Thật ra nếu là nhà của tôi, do công sức của tôi làm ra, thì tôi cũng sẵn sàng ký giao cho Cộng Sản, để sớm được đi ra nước ngoài, thoát khỏi chế độ độc tài bất nhân, mình ký giao cho họ coi như cúng cô hồn. Nhưng ngặt một nổi nhà này được xây dựng do công sức của cha mẹ tôi, tôi chỉ đứng tên dùm chứ không có công sức gì. Tôi không phải là chủ căn nhà này vì trên nguyên tắc tôi chỉ đứng tên trên cái nền nhà mà thôi.

Tôi đã hoàn toàn bất lực để giải quyết vấn đề căn nhà, nếu tôi được đi Mỹ thì tôi phải giao nhà cho nhà nước quản lý. Từ khi tôi bước trở về ngôi nhà cũ đầu năm 1983, vài tháng sau tôi đã làm hồ sơ chui xin đi Mỹ, tôi gởi hồ sơ qua Thái Lan, trong thời gian này lúc nào tôi cũng bồn chồn, bực tức, tôi lo âu để giải quyết căn nhà làm sao cho hợp tình, hợp lý không làm cho ba má tôi buồn. Tôi đi hỏi thăm bà con, bạn bè, nhờ họ giúp sang tên căn nhà. Tất cả mọi người quen biết đều trả lời không thể được, muốn đi Mỹ chỉ còn có cách giao nhà cho nhà nước mà thôi, vì đây là chủ trương của Cộng Sản muốn lấy nhà của những người muốn đi ra nước ngoài.

Tôi đã nhờ Nguyễn Gia Phách, bạn dạy học cùng trường trung Học Lương văn Can, dẫn tôi đến nhà thờ Fatima ở Thủ Ðức để cầu nguyện, mặc dầu lúc đó tôi chưa có đạo, tôi chưa phải là Kitô hữu, tôi chưa tin vào Chúa Kitô. Tôi cứ đi cầu nguyện vì tôi không còn cách nào khác, tôi bị khủng hoảng thật sự về vấn đề giải quyết căn nhà của ba tôi mà tôi đã đứng tên hồi còn nhỏ, làm thế nào để có thể sang tên căn nhà này cho ba má tôi hay cho em tôi thì khi ra đi tôi mới bình an được.

Tôi bất lực và buồn khổ hết sức. Nếu đi Mỹ mà giao nhà cho nhà nước ba má tôi sẽ buồn ghê gớm lắm. Tôi đứng ngồi không yên, lo lắng quá, đau khổ rất nhiều. Tôi ở trong tình trạng hoàn toàn bế tắc, không có lối thoát.

Cuối cùng, tôi chỉ còn biết có cầu nguyện mà thôi. Khi đi lên Fatima tôi chỉ cầu xin có ba điều:

  • Xin được rời khỏi nước Việt Nam sớm vì tôi có trong danh sách HO 23 nên chắc sẽ ra đi rất trễ.
  • Xin được giao nhà cho em ruột tôi để cho cha mẹ tôi vui. Khi tôi ra đi, rời khỏi nước mới được thoải mái, không còn vướng bận, lo âu về chuyện nhà cầm quyền Cộng Sản quản lý căn nhà của mình.
  • Xin cho con cái tôi được đi hết vì có đứa muốn ở lại, muốn lập gia đình ở Việt Nam, không tha thiết chuyện ra đi.

Ba vấn đề trên là ba vấn đề then chốt, lo âu nhất của tôi, vô cùng quan trọng trong đời của tôi, nhưng ba vấn đề này hoàn toàn nằm ngoài khả năng giải quyết của tôi. Tôi rất lo âu, ăn không ngon, ngủ không yên và thường xuyên bị cảm vì quá lo lắng.

Tôi nghĩ với tấm lòng thành của tôi, Ðức Mẹ đã ban ơn riêng đặc biệt cho gia đình tôi, ba điều cầu xin của tôi, Ðức Mẹ đã nhậm lời hết.

Gia đình tôi được ra đi trong danh sách HO19, sớm hơn thường lệ gần một năm, vì gia đình tôi được đôn lên danh sách RD4. Các con tôi đều qua Mỹ đầy đủ cả, không có đứa nào còn sót lại ở Việt Nam, nhất là vào giờ chót, trước 24 giờ, Sở nhà đất Thành phố mới chấp thuận cho tôi sang nhượng nhà cho em ruột tôi vào chiều thứ bảy mà chiều Chúa Nhật thì tôi có chuyến bay rời khỏi nước.Trước đó ngày thứ năm tôi đã nhận đươc giấy đình chỉ chuyến bay với lý do chưa khai trình nhà đất. Hoang mang và lo âu tột độ. Thất vọng nặng nề. Lo lắng quá làm cho tôi bị cảm liên miên trong tháng cuối cùng. Mọi công việc làm ăn đã thanh toán hết, đã bán hết chỉ còn chờ ngày ra đi mà thôi. Ðình chỉ chuyến bay, ở lại vài tháng có thể gặp nhiều biến cố bất ngờ một đứa con nào đó có thể thay đổi ý kiến đòi ở lại. Mấy tháng trời chờ đợi giấy phép ra đi của nhà cầm quyền Cộng Sản, chờ chuyến bay sắp tới, không làm gì ra tiền cả, ăn không ngồi rồi mà còn phải tiêu xài tốn kém nữa không biết việc gì sẽ xảy ra.

Tôi đã chầu chực ở Sở Nhà đất từng ngày một nhất là tuần lễ cuối cùng, để tìm cách làm quen để xin giấp phép của Sở Nhà đất. Trước 24 giờ, Sở nhà đất mới đồng ý cho tôi sang tên nhà cho em tôi và giải tỏa lệnh đình chỉ chuyến bay.

            Nhờ cầu nguyện mà tôi bớt được nhiều âu lo.

Tôi có một người bạn là anh Hà Hớn Liếu , hiện nay ở Virginia gần Washington DC, trước năm 1992, nhà ở đường Âu Dương Lân, anh có người vợ rất hiền hậu, thật tử tế với bạn bè. Anh chị có bốn đứa con, nhỏ nhất khoảng 5, 6 tuổi lớn nhất khoảng 17 tuổi. Anh Liếu đi cải tạo về khoảng năm 1980. Hai vợ chồng làm sirô để bán. Tôi bán bia và nước ngọt có bán thêm sirô nên đến gia đình anh để mua về bán. Trước năm 1992 trông chị mập mạp khỏe mạnh. Tôi thường đến mua sirô của anh chị, hơn nữa lúc đó tôi nghiện thuốc lào, cứ hàng ngày tạt ngang qua nhà anh Liếu để hút một vài điếu, nói với nhau vài ba câu chuyện, tin tức kẻ ở người đi, hay những tin sốt dẽo truyền miệng của anh em HO đang mong ngóng về những điều tốt, những chuyện vui khi đi ra nước ngoài.

Gia đình anh thờ Phật. Ngoài bàn thờ Phật còn có bàn thờ Quan Công nữa. Anh cũng rất rành về nghi thức cúng kiến vì anh gốc người Hoa. Một hôm tôi đến nhà anh để hút thuốc lào, như thường lệ mỗi ngày, bất ngờ tôi không còn thấy bàn thờ Phật nữa. Tôi hỏi anh bàn thờ Phật đâu rồi.? Anh nói vợ anh lúc bịnh ung thư khi biết mình sắp mất đã xin theo đạo Công giáo và yêu cầu chồng con theo đạo luôn.

Tôi hết sức ngạc nhiên về sự thay đổi quá đặc biệt của bạn tôi và từ khi chị Liếu mất, anh Liếu và các con anh đã đi lễ nhà thờ đều đặn vào các ngày Chúa Nhật và cũng thường xuyên cầu nguyện cho chị Liếu theo nghi thức công giáo.

Tôi cũng nhiều lần đến nhà anh rũ anh qua nhà thờ Chợ Quán để tham dự các Thánh Lễ, gặp các ngày lễ lớn như lễ Giáng Sinh tôi cũng cùng anh đi dự lễ ở các nhà thờ khác trước ngày anh và các con đi Mỹ. Tôi cảm thương hoàn cảnh gà trống nuôi con của anh, một mình phải lo cho đàn con nhỏ dại không biết rồi anh có lo nổi không? Tháng 9 năm 1999, tôi có lên nhà anh để dự lễ đám cưới của con trai trưởng của anh cưới vợ. Ðứa con gái nhỏ nhất nay đã học hết lớp 12. Tôi mừng cho anh vì thấy các cháu đã lớn cả rồi.

Tháng 9 năm 2004 tôi lại đến nhà anh để làm chủ hôn cho đứa con trai kế vì anh đã mất tháng  giêng năm 2004. Cháu này trong đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể nên các anh chị trong nhà thờ đã lo giúp cho cháu. Đám cưới đầy đủ tất cả nghi thức ở nhà trong gia đình hai bên đàng trai,  đàng gái và các nghi thức ở nhà thờ Công giáo. Anh chị em trong nhà thờ đã tham dự rất đông.

Tôi tin một điều từ ngày anh có Chúa và Ðức Mẹ thì tâm hồn anh bình an hơn. Tôi cũng vậy, cũng cảm thấy bình an, vui vẻ hơn nhiều so với trước khi tôi chưa có đạo, chưa có niềm tin vào Ðấng siêu nhiên nào cả.

Tôi cũng suy nghĩ nếu mình đi tham dự đều đặn các Thánh lễ ngày Chúa Nhật và các ngày lễ buộc khác, để tự xét mình, tự sám hối mỗi tuần xem mình có làm điều gì sai trái, có làm phật lòng Thiên Chúa hay không? Mình có thực hiện bốn chữ “Kính Chúa yêu người chưa?”

Tự vấn lương tâm thường xuyên, cầu nguyện thường xuyên thì cuộc đời mình sẽ hạnh phúc biết bao nhiêu vì biết rằng mình không cô đơn mà luôn có Chúa đồng hành, có Ðức Mẹ hướng dẫn trong cuộc sống hiện tại, trong cuộc sống ngày mai và ngay cả đời sau nữa.

__________________________________________________________

(1) Lê Như Ninh mất vào khoảng tháng giêng năm 2000

(2) Ðức Cha Nguyễn văn Thuận là Chủ tịch Ủy Ban Công Lý và Hòa bình tại Tòa Thánh Roma và được phong Hồng Y ngày 21/02/2001.

( 3) Hồ Hữu Tường, Cựu Dân biểu Ðệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa. Bị Chánh quyền ông Ngô đình Diệm kết án tử hình vì theo Bình Xuyên.

Houston, ngày 17 tháng 3 năm 2000

Phùng Văn Phụng