“1984” nằm ở hàng đầu trong danh sách “bestsellers” của Amazon.

“1984” nằm ở hàng đầu trong danh sách “bestsellers” của Amazon.

George Orwell mất năm 1950, tức là cách đây 67 năm. Ấy thế mà một trong những tác phẩm của ông mới đây, Tháng Giêng 2017, đột ngột nằm ở hàng đầu trong danh sách “bestsellers” của Amazon.

George Orwell là ai? Ông là tác giả của tập truyện hư cấu nổi tiếng toàn thế giới nói về thế giới Cộng Sản: Trại Súc Vật (Animal Farm). Tác phẩm này đã từng được đài BBC dịch ra tiếng Việt và đọc vào chương trình phát thanh hàng đêm khoảng thập niên 1980. Nó cũng đã được xuất bản ở trong nước nhưng dưới một cái tựa đề rất “vô duyên,” “Chuyện ở Nông Trại,” có lẽ để tránh kiểm duyệt.

Tác phẩm “bestseller” này là gì? Là Nineteen Eighty-Four, sau này được đổi thành “1984” cho gọn, được Amazon đặt in lại 75 ngàn ấn bản. Xin lưu ý: Con số 1984 ở đây chỉ là cách nói ngược với năm 1948, năm hoàn tất tác phẩm, nhằm mục đích đưa ra một khái niệm về tương lai. Tác phẩm này chưa hề được dịch ra tiếng Việt. Truyện mô tả một thế giới bị chi phối bởi ba siêu cường quốc: Eurasia, Eastasia và Oceania. Oceania luôn luôn sống trong tình trạng chiến tranh với hai siêu cường kia, đẩy toàn thế giới ở trong một tình trạng thù hận, cô lập và sợ hãi. Xứ sở này được cai trị bởi đảng và nhà lãnh tụ nắm giữ quyền hành tuyệt đối có tên là “Big Brother” (Ðại Ca), mà khuôn mặt của ông ta hiện diện khắp nơi trên các tấm pa-nô tuyên truyền lớn với dòng chữ “Big Brother Is Watching You” (Big Brother Ðang Theo Dõi Bạn). Người dân không có bất cứ một thứ quyền riêng tư nào, “ngoại trừ một ít phân khối nằm bên trong cái sọ của anh,” theo cách mô tả trong truyện.

“Ðại Ca” kiểm soát đất nước bằng bốn bộ: Hòa Bình, Tình Yêu, Thịnh Vượng và Sự Thật. Chức năng của bốn bộ này là một nghịch lý: Bộ Hòa Bình thì đảm nhiệm chiến tranh, Bộ Tình Yêu thì phụ trách chuyện hành hạ, Bộ Thịnh Vượng thì chuyên lo về bỏ đói, chuyên môn công bố những bản thống kê hoang đường và Bộ Sự Thật thì đảm trách chuyện nói láo. Nhân vật chính là Winston Smith, 39 tuổi, một nhân viên làm việc cho Bộ Sự Thật. Tất cả những gì lưu trữ trong bộ này đều không mảy may liên hệ gì đến thực tại bên ngoài. Chúng được hoàn toàn dựng nên bởi đảng, nghĩa là bằng sự dối trá. Bộ Sự Thật không những chỉ lo thay đổi hiện tại mà còn tiêu hủy cả quá khứ.

Một trong những phương cách thống trị quần chúng hữu hiệu của đảng là sáng tạo ra một hệ thống ngôn ngữ mới gọi là “Newspeak,” bắt buộc tất cả mọi người đều phải sử dụng. Rất nhiều từ sẽ không còn hiện hữu như “tự do,” “dân chủ,” “công bằng,” “tôn giáo,” “danh dự,” vân vân… Mục đích của việc tạo ra thứ chữ mới là giới hạn “tầm tư tưởng” (range of thought) của con người và đồng thời nhằm mục đích xóa bỏ tất cả ký ức về những gì đã xảy ra trong quá khứ. Xin nêu một vài từ điển hình trong tự điển này:

– duckspeak/nói như vẹt: nói mà không suy nghĩ; nói như con vịt kêu quạc quạc.

– blackwhite/đen-trắng: cùng một vật mà nói đen cũng được, trắng cũng được.

Không chịu đựng nổi một nhà nước như thế, Winston âm thầm chống đối. Anh liên kết với một người tên là Charrington và O’Brien, người làm cùng sở với anh. Ngoài ra, anh còn lôi kéo cô tình nhân Julia. Họ gặp nhau và thảo luận về việc gia nhập tổ chức bí mật “Brotherhood” có mục đích lật đổ nhà độc tài. Chưa làm được gì thì anh đã bị bắt. Hóa ra, Charrington là một cảnh sát tư tưởng còn O’brien là thành viên cao cấp của đảng. Winston và Julia bị bắt Nàng thú nhận rằng nàng cũng đã phản bội anh. Sau khi bị tra tấn và tẩy não, Winston hoàn toàn bị khuất phục.

Cốt truyện không có gì gây cấn. Tác giả chỉ muốn đẩy ý niệm về một nhà nước toàn trị đến chỗ tuyệt đối của nó. Trong ý niệm đó, nhà nước toàn trị là một xã hội hoàn toàn mới, trong đó, đảng là Thượng Ðế. Xã hội đó sẽ như thế nào? Ðó là một xã hội, “Sẽ không còn sự trung thành nào khác ngoài trung thành với đảng. Sẽ không còn tình yêu nào ngoài tình yêu đối với Big Brother. Sẽ không còn nụ cười nào ngoài nụ cười mừng chiến thắng khi kẻ thù bại trận. Sẽ không còn nghệ thuật, không còn văn chương, không còn khoa học. Khi chúng ta có quyền năng vô biên thì chúng ta đâu có cần gì đến khoa học. Sẽ không còn phân biệt giữa đẹp và xấu. Sẽ không còn sự tò mò, không còn cái thú hưởng thụ cuộc sống. Tất cả những lạc thú sẽ bị hủy diệt (…). Nếu anh muốn có một hình ảnh về tương lai thì hãy tưởng tượng đó là một chiếc giày ống đạp lên trên một khuôn mặt người – mãi mãi,”

Khác với “Trại Súc Vật” đề cập đến một cuộc cách mạng kiểu Cộng Sản và sự phá sản của nó, 1984 mô tả một thế giới trong đó hình thức nhà nước toàn trị đã đạt đến giai đoạn ổn định và đang trên đường hoàn chỉnh lý tưởng mà nó đã đặt ra. Ðó là một nhà nước mà quyền lực đạt mức cao nhất đến độ trở thành vô chính phủ. Xã hội đó hầu như vô luật pháp, vì không có gì còn được gọi là bất hợp pháp nữa. Một xã hội nghịch đảo.

***

Tại sao “1984” lại trở thành “bestseller” lúc này? Theo nhận định của Peter Stansky, người viết tiểu sử Orwell, thì sự gia tăng số lượng sách bán ra xuất hiện từ sau khi nữ cố vấn của Trump, Kellyanne Conway, sử dụng từ “alternative facts” để biện hộ cho phát ngôn viên tòa Bạch Ốc Sean Spicer khi ông này nhất quyết cho rằng số lượng người tham dự buổi lễ nhậm chức của Tổng Thống Trump nhiều hơn Obama trước đây, mặc dù các hình ảnh và số thống kê cho thấy điều ngược lại. “Alternative facts” có nghĩa là “những sự kiện chọn lựa.” Nghĩa là, theo ý Conway, Spicer vẫn đúng dù không phù hợp với những gì diễn ra trong thực tế. Ðiều đó nhắc người ta nhớ đến loại từ vựng trong tự điển “Newspeak” mà Orwell nêu ra trong 1984, “whiteblack,” “duckpeak,” nghĩa là nói sao cũng được miễn phù hợp với ý định của nhà cầm quyền. Ý kiến này được dư luận trên mạng xã hội và nhiều cơ quan truyền thông như CNN, New York Times, USA Today, Quarzt, vân vân – cái mà ông Trump cho là chuyên môn đưa tin giả (fake news) và nặng nề hơn, bị ông kết án là “kẻ thù của nhân dân Mỹ” (Media is the enemy of the American People) – chia sẻ.

Thực ra, “1984” đã bắt đầu bán chạy kể từ khi Trump đắc cử tổng thống Hoa Kỳ, 8 Tháng Mười Một 2016 và đạt đến cao điểm sau khi bà Conway phát biểu từ “alternative facts.” Ðây là một phản ứng với một Trump trở thành tổng thống Hoa Kỳ. Cách vận động tranh cử bất thường cũng như các sử dụng ngôn ngữ không nhất quán (flip-flop) để hạ bệ và vượt thắng các đối thủ cũng như để tấn công và bôi nhọ truyền thông của Trump khiến người ta lo sợ một Trump-tổng-thống sẽ thao túng sự kiện và ngôn ngữ và do đó, có nguy cơ đưa Hoa Kỳ đến một sự khủng hoảng chính trị tệ hại. Hiện tượng “bestseller” của“1984” có vẻ như là một lời cảnh cáo của công luận về một chế độ độc tài toàn trị có thể thoát thai từ cơ chế dân chủ. Ðây không phải là lần đầu tiên, 1984 gia tăng số lượng bán. Thời Tổng Thống Reagan mới lên cầm quyền năm 1981, sách cũng bán chạy vì người ta sợ rằng Reagan có thể trở thành độc tài. Và gần đây nhất vào năm 2013, lúc Edward Snowden, nhân viên hợp đồng của của cơ quan National Security Agency, tiết lộ chương trình dò thám cá nhân quy mô của chính phủ Hoa Kỳ, sách cũng bán rất chạy.

Nhưng Stansky đồng thời cũng cho rằng, chính Internet cũng đã góp phần khiến cho các sự kiện bị bóp méo. Ðó là nơi chồng chất thông tin, đúng lẫn sai vì là nơi “cha chung không ai khóc,” người ta có thể điều chỉnh, sửa đổi, ngụy tạo tin tức và sự kiện một cách dễ dàng để ảnh hưởng đến công luận.

Tóm lại, một lần nữa, “1984” của George Orwell lại xuất hiện đúng lúc như một lời cảnh báo đến các nước dân chủ về nguy cơ của một chế độ toàn trị được khởi đầu bằng những lời lẽ mỵ dân và gây xúc động.

————–
Tham khảo:
– “Nineteen Eighty-Four,” George Orwell, nxb Hatcourt, Brace and Company, New York, 1949
– USA Today, CNN, New York Times, Quarzt… các ngày 25, 26/1/2017

Bác sĩ Phùng Văn Hạnh gởi

NHƯ MỘT DÒNG SÔNG

 NHƯ MỘT DÒNG SÔNG

Từ một dòng sông…

Dòng sông ấy vẫn lững lờ trôi theo năm tháng.  Hôm qua cũng như hôm nay, con nước vẫn âm thầm lên xuống và ngược xuôi theo dòng chảy của thời gian.  Dòng sông đón nhận và chuyển tải bao ghe thuyền cập bến.  Dòng sông đem nước về tưới mát bao cánh đồng, đem phù sa bồi đắp bao ruộng vườn.  Dòng sông phát sinh và nuôi sống bao tôm cá, bao sinh vật lớn lên nhờ dòng sông ấy.  Dòng sông thơ mộng đã trở nên khởi hứng cho bao bài thơ, cho những bức tranh sinh động và những ca khúc bất hủ.  Dòng sông êm đềm nhưng cũng đã hứng chịu bao mùa mưa nắng và bão táp.  Có những ngày tháng hạn, dòng sông gần như khô cạn, và rồi có những mùa nước lũ ngập tràn làm dòng sông tan tác đôi bờ.  Nhưng dòng sông cũng vẫn luôn là dòng sông của trời và đất, của vạn vật và con người.  Nước của dòng sông ấy vẫn thấm nhập vào mọi nơi, len lõi vào mọi chỗ, ứng dụng vào mọi thời.  Nước sông ấy dập tắt bao cuộc hoả hoạn, tẩy rửa mọi dơ bẩn hôi tanh, làm sạch đẹp và trong sáng những gì đã lấm láp bụi mờ.

Dòng sông tưởng chừng như đã cũ nhưng thực ra vẫn luôn mới trong từng ngày.  Dòng sông tưởng chừng luôn đứng yên nhưng thật ra vẫn di chuyển không ngừng.  Dòng nước tưởng chừng như ngừng trôi nhưng thực ra vẫn thay đổi từng hồi.  Dòng sông vẫn đón nhận, tích chứa và lan toả không ngơi. Không giây phút nào dòng sông không chuyển động và đổi mới.  Bởi vậy “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông” (Héraclite).  Dòng sông bên bồi bên lở, khúc thẳng khúc quanh, nhưng vẫn là chính nó trong mọi đổi thay và biến động.  Người ta chỉ thấy được dòng sông, nhưng không ai biết được lòng sông.  Người ta chỉ biết có con sông nhưng không ai thấy hết được những thay đổi sâu rộng nơi nó. Người ta chỉ nhận ra dáng vẻ của dòng sông, nhưng không mấy ai ý thức được tác dụng hiệu năng và biến dịch khôn cùng của nó trong vũ trụ, cũng giống như chính vũ trụ vậy: tất cả đểu trôi chảy, biến đổi, không có gì ngừng lại, nhưng rồi vũ trụ hôm nay cũng vẫn là vũ trụ của ngày hôm qua.

…Đến một con người

Cuộc sống của mỗi con người cũng giống như một dòng sông.  Những gì nói về một dòng sông cũng là nói về chính mỗi con người: một con người được nối kết thông giao giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và vạn vật; một con người bị giới hạn bởi xác thể nhưng có một tâm hồn linh thiêng siêu vượt không gian và thời gian; một con người được định hình cụ thể tạm thời trong hiện tại nhưng lại có một định mệnh tương lai vĩnh cửu.  Con người nhỏ nhoi, mỏng dòn và yếu đuối nhưng cao cả và lớn lao hơn mọi sự vì được dựng nên giống hình ảnh của Thiên Chúa, vì nguồn gốc sự sống con người là chính hơi thở của Thiên Chúa, vì mọi biến chuyển sinh động trong sự sống đó chính là Thánh Thần, và luôn được tái tạo không ngừng trong nguồn ơn cứu độ của Đức Giêsu.  Con người không còn là ngày hôm qua, không phải là những gì đã qua, nhưng cũng vẫn là con người ấy của ngày hôm nay sau những thăng trầm và biến đổi.  Con người còn là những mơ ước của ngày mai, của sự triển nở, lan rộng và vươn tới một chân trời mới.  Không ai thấy hết những biến đổi sâu xa của một đời người, cho dù có những biến đổi tiêu cực và thấp hèn làm huỷ hoại ít nhiều sự sống đang trải rộng, nhưng bên trong vẫn là những khao khát CHÂN THIỆN MỸ đang tiềm ẩn và muốn lan toả không ngừng, cho dù bị mai một và ngưng trệ tạm thời bởi hoàn cảnh và những tình huống hạn chế của môi trường xã hội, văn hoá, tôn giáo, luân lý, ý thức hệ… 

Tham vọng của con người cũng chỉ là mặt trái của khát vọng tâm linh.  Hận thù ghen ghét nơi con người cũng chính là mặt sau của một tình yêu thiếu hụt không được đáp trả.  Chiến tranh điêu linh cũng chỉ là một khúc quanh co của sự khao khát hoà bình yên ấm.  Ích kỷ kiêu căng cũng chỉ là một hình thức che lấp sự thấp kém nghèo hèn của một ý thức nông cạn.  Không ai đang tâm cố ý làm điều ác chỉ vì đó là điều ác, nhưng vì thiển cận nghĩ rằng sẽ tìm thấy điều lành qua sự bất đắc dĩ làm điều ác.  Mọi suy nghĩ và hành động sẽ được thiết đặt lại sau những dở dang và hư hại, sẽ được tái tạo lại khi ý thức được nâng cao trong việc trở lại với lòng mình.  Mọi diễn biến của sự sống nhiều lúc có vẻ như tiêu cực nhưng thực ra đang chuyển vận tích cực ở vùng sâu của mọi ý thức.  Nhân loại đôi khi có vẻ đứng bên bờ vực thẳm của tai ương phát xuất từ những công trình mưu lược của chính con người làm nên, nhưng thực ra nó đang được tái định hướng trên một lộ trình phức tạp.  Tất cả đang được tiếp tục làm nên, đang được đổi thay, đang được biến chuyển và qui hướng không ngừng đến nguồn sự sống vô biên là chính Thiên Chúa, Đấng đang quan phòng và điều hướng mọi sự trong chính sự sống thâm sâu của mỗi con người.

Dưới cái nhìn trên, sự dữ cũng chỉ là sự “khuyết phạp”(privation) trong giai đoạn; sự hư hỏng xấu xa cũng chỉ là sự mất mát tạm thời để gây nên một chuyển biến tích cực; tội lỗi cũng chính là dịp phát hiện những nhân đức cao cả hơn.  Trong sự quan phòng, Thiên Chúa cũng đã an bài có cả những điều dữ và điều xấu như một phản chứng cấn thiết cho sự thiện và sự lành.  Trong sự khôn ngoan, Thiên Chúa cũng ân ban cho người lành và người dữ như nhau, để từ những khuyết điểm vẫn luôn có thể phát sinh những điều tốt đẹp hơn.  Như những khúc quanh co trắc trở có thể tạo thành vẻ đẹp nên thơ của dòng sông, thì sự khôn ngoan của Thiên Chúa cũng làm nên những vẻ đẹp lạ thường nơi một con người đầy uẩn khúc.  Như dòng nước có khả năng thấm nhập mọi nơi mọi chỗ, biến mảnh đất hoang khô cằn thành ruộng vườn mầu mỡ xanh tươi, thì quyền năng của Thiên Chúa trong sự sống của mỗi con người cũng làm nên như vậy nơi chính tâm hồn của họ.  Tội nhân trở thành Thánh nhân là như thế. Không có gì để bi quan, không có gì để lo sợ, không có gì để lên án, dù rằng có những điều cần cảnh giác và tiên liệu.  Điều tối cần thiết chính là sức sống của một niềm tin vươn lên mãnh liệt và đều đặn tuôn chảy như một dòng sông.

Hạnh phúc thay cho ai biết nhận ra chân lý sự sống đang tiềm ẩn nơi chính mình và mọi người, vì họ sẽ được nối kết với nguồn sống bất tận.  Hạnh phúc thay cho ai nhận ra một sự sống thâm sâu đang chuyển vận và tái tạo không ngừng trong chính mình và mọi người, vì họ sẽ được phấn khởi hân hoan trong đời sống mới vững bền.  Hạnh phúc thay cho ai biết tích cực khơi dậy sự sống Thần Linh đang cư ngụ trong trái tim mình và mọi người, vì họ sẽ được vui hưởng trọn vẹn niềm hoan lạc của một tình yêu sung mãn muôn thuở. 

Một lần kia, Đức Khổng-tử đứng ngắm nhìn dòng sông và cất tiếng nói : “Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ” (Vũ trụ hằng luôn luân chuyển, như dòng nước chảy ngày đêm không ngừng).  Ngài muốn cho đệ tử hiểu rằng: Thể theo Mạng Trời, mọi vật trong vũ trụ đều biến hoá.  Dù ngày dù đêm, dù trong phút chốc, không có vật gì là ngưng nghỉ.  Vì thế, Kẻ tìm Chân phải ngộ được Lý ấy trên con đường đạo: mỗi ngày cải hoá lấy đời mình.

Vũ trụ như một dòng sông.  Hãy ngắm nhìn dòng sông để thấy được sự sống của Thiên Chúa đang tuôn chảy, trào dâng, lan toả, thấm nhập và tái tạo không ngừng trong cuộc đời của mình và của mọi người. 

Ôi !
Dòng sông của sự sống đời tôi
Dòng sông vẫn tuôn chảy không ngơi
Dòng sông của tình yêu muôn thuở
Dòng sông của sự sống muôn đời. …

 LM Thái Nguyên

Langthangchieutim gởi

Tôi dân miền Bắc xin có đôi lời với các bác miền Nam

From facebook:  Dung Nguyen shared Ngô Trường An‘s post.
 
 
Image may contain: one or more people, people walking, wedding and outdoor

Ngô Trường AnFollow

 

Tôi dân miền Bắc xin có đôi lời với các bác miền Nam

Fb Bùi Quang Hải

Sai lầm lớn nhất của miền Bắc chúng tôi là đi giải phóng miền Nam. Bởi sau cái ngày 30/4 có quá nhiều những thay đổi ngoài dự kiến của chúng tôi đã xảy ra tại miền Bắc Bởi khi đoàn quân miền Bắc kéo về mang theo lỉnh kỉnh toàn hàng tiêu dùng của miền Nam làm dân Bắc chúng tôi sững sờ. Những chiếc đồng hồ seiko của tư bản Nhật nhìn nó long lanh thẩm mỹ hơn quá nhiều cái anh pôn giốt cục mịch của Nga . Những chiếc quạt Nhật , Mỹ đứng cạnh anh quạt con cóc của Bắc Việt và anh quạt tai voi của Liên Xô không bảo hiểm trông chẳng khác gì công so với cú . Những cái đài chạy băng cát sét và băng cối chỉ thấy trong mơ giờ đã hiện ra trước mặt để thay thế cho mấy cái đài VEC206 củ chuối của Liên Xô Ôi !!!!! còn vô vàn các thứ khác không thể kể hết.

Chúng tôi khi đó tự hỏi . Ơ hóa ra dân trong Nam toàn dùng những thứ này à ? Hàng hóa tiêu dùng toàn đồ tốt như vậy chứng tỏ xã hội trong đó phải phát triển hơn chúng tôi và những nhà sản xuất ra thứ đó sẽ phải coi trọng con người hơn những nhà sản xuất của Liên Xô và Bắc Việt Tiếp đó lại là nguồn sách và truyện rất phong phú được giấu kín để đưa chui ra Bắc vì chúng tôi chủ trương đốt sạch sách báo trong Nam .

Ôi văn hóa trong Nam phong phú và đa dạng quá . Rất nhân văn và điều đó làm chúng tôi thấy rất hoang mang bởi làm sao mà tẩy não được người miền Nam bây giờ Học tập cải tạo của chúng tôi nhằm mục đích để tẩy não người nam đã thất bại thảm hại bởi thấy các học viên toàn ngủ gật . Động não mãi chúng tôi cũng nhận ra rằng dùng kiến thức của khỉ thì không thể giáo dục được con người . Nếu cứ để cái văn minh của miền Nam mà tràn ra Bắc thì vô cùng nguy hiểm cho chế độ của chúng tôi .

Một kế thượng sách là chúng tôi cứ giam mẹ nó lâu dài là các bác miền Nam hết đường về để chúng tôi bớt đi cái lo dân chí Chúng tôi vẫn tăng cường nhồi sọ dân Bắc là văn hóa miền Nam là đồ trụy , Vô nhân tính nhưng chúng tôi vẫn cố gắng cóp nhặt tiền để mua những đồ tiêu dùng của miền Nam và chỉ những cán bộ mới đủ tiền sở hữu chúng Và nhân dân miền Bắc của chúng tôi cũng dần dần vỡ ra rất nhanh rằng tại miền Bắc đang thực hiện chủ trương ngu dân và thần tượng hóa Đảng cùng lãnh tụ

Trước 30/4 ngày Bác Hồ mất dân Bắc chúng tôi đứng dưới mưa bên loa công cộng khóc quá bố đẻ mình chết .

Bác Lê Duẩn nghẹn ngào đọc điếu văn như cảm súc trào dâng hóa ra sau này mới biết Bác Duẩn giả vờ khóc vì Bác Duẩn đã hạ bệ Bác Hồ từ những năm 1960 , Thế mà Bác Duẩn cũng rớm nước mắt như đúng rồi . Có lẽ Bác Duẩn đã học Bác Hồ về diễn xuất trong vụ cải cách ruộng đất. Những người Bắc chúng tôi khi từ Nam ra lại thành một cái loa tuyên truyền kín đáo về văn minh miền Nam và thế là đồng bào miền Bắc chúng tôi lại nối tiếp con đường của người Nam thi nhau đu chân vịt tàu vượt biên sang tư bản để được cùng giãy chết với công dân bên đó

Ôi !!!!! vô cùng tồi tệ . Khi kế hoạch ngu dân của chúng tôi bị phá sản.

Nhân dân nhìn lãnh đạo và công an như nhìn kẻ thù . Ngồi quán nước thì 99% chửi chế độ quả thật không thể tồi tệ hơn. Giá mà đừng có giải phóng miền Nam để giờ này lãnh đạo chúng tôi vẫn là những thần tượng của nhân dân và đến đâu cũng được nhân dân vỗ tay sờ mông sờ đít và khóc rưng rức thì hạnh phúc biết mấy dẫu biết rằng đó chỉ là sự biểu cảm của những bộ não đã bị tê liệt vì thuốc lú nhưng như vậy chúng tôi vẫn thấy hạnh phúc dâng trào mặc dù dân chúng tôi khi đó chắc chắn vẫn đang ăn bo bo Thật sai lầm khi giải phóng miền Nam !

CỨ IM LẶNG RỒI SẼ ĐẾN CHÚNG TA!

From facebook: Cat Bui shared Cao Duy‘s post — with Hung Quoc Pham and 47 others.
 
Image may contain: 1 person, text and food
Cao Duy with Hoa Kim Ngo and 90 others.

 

CỨ IM LẶNG RỒI SẼ ĐẾN CHÚNG TA!
#

Bà Đầm Trẻ

Xã hội Việt Nam bây giờ như một mớ hỗn độn chứa đầy sự ngang trái và bất công. Sự bất công giống như một căn bệnh, mà môi trường để cho nó sinh sôi nảy nở đó chính là sụ vô cảm của người dân. Đã có không ít clip được chia sẻ lên mạng xã hội, với nội dung là những con người bàng quan đứng nhìn những đồng bào của họ đang gặp nạn. 2 anh thanh niên đang nằm dãy dụa trên đường vì vừa bị tai nạn, không một ai giúp đỡ, nhiều người hiếu kì chỉ nán lại một chút rồi quay phim, đứng nhìn một lát rồi đi. Một em học sinh bị bạn đánh cho thừa sống thiếu chết, nhưng mọi người kể cả người lớn cũng chỉ đứng nhìn mà không can thiệp. Rất, rất nhiều những trường hợp như vậy diễn ra hằng ngày trong cái xã hội này. Và chúng ta nhìn vào nó rồi giận dữ trước sự vô cảm đến lạnh lùng của họ, có bao giờ chúng ta tự hỏi rằng: Chúng ta có như họ (?!)

Với tâm lý chung là sợ bị liên lụy, liệu chúng ta có dám đứng ra đưa người bị nạn đi cấp cứu, hay can ngăn cuộc ẩu đả của các em học sinh? Với lòng tham lam của mình liệu chúng ta có hôi của khi một chiếc xe chở bia, hoặc một xe chở trái cây bị lật? Điều đó cũng đã xảy ra rất nhiều. Không thể lấy chuyện riêng tư để biện minh cho những hành vô cảm một cách tàn nhẫn như vậy. Có thể trước mắt ta làm ngơ để tránh phiền phức, nhưng liệu lương tâm của chúng ta có bỏ qua cho bản thân mình? Khi những hình ảnh ngang trái đó vẫn ăn sâu trong ký ức? Sẽ như thế nào nếu như chúng ta dửng dung mặc kệ những người đó, nhưng họ lại chính là những người thân của chúng ta? Nếu một ngày đang đi giữa đường mà gặp một tai nạn thương tâm, ta có thể cứu họ bằng cách đưa đi cấp cứu, nhưng ta lại bỏ đi mặc kệ. Rồi khi về đến nhà mới hay đó là anh, chị, con, cháu của mình thì ta sẽ làm gì? Hoặc hôm nay chúng ta không giúp đỡ người gặp nạn, để rồi ngày mai người gặp nạn lại chính là chúng ta, lúc đó chúng ta có oán trách được ai không? Ai sống trên đời cũng có lúc gặp khó khăn, điều đó là rất khó tranh khỏi. Nhưng liệu việc đối nhân xử thế của mình như vậy thì liệu khi chúng ta gặp khó, có còn ai giúp chúng ta? Cách thay đổi nó là mỗi chúng ta phải biết yêu thương nhau, quan tâm đến nhau, sống vì cái tình thì mới mong nhận lại được những điều đó. Chúng ta không thể dùng sự vô cảm, bàng quan trước những gì đang diễn ra để rồi muốn nhận lại sự quan tâm của mọi người khi mình gặp khó được.

Với bản tính vô cảm của mình ta làm ngơ trước cảnh cướp đất của chính quyền đối với một xã khác, cách xa nơi mình ở. Chắc chắn với tâm lý sợ bị liên lụy, ta sẽ thả phào mà nghĩ: “May quá, không phải họ cướp của mình”. Để rồi chỉ ít lâu sau, nơi ta ở bị chính quyền làm việc tương tự, như đã làm với xã kia trước đó. Đến lúc đó chúng ta sẽ nghĩ gì? Chắc chắn điều chúng ta muốn là được sự quan tâm của cộng đồng để gây sức ép lên chính quyền, để chính quyền ngừng làm việc đó. Nhưng ta đâu biết, trước đó những người ở xã nọ bị cướp đất cũng cần sự quan tâm của chúng ta? Đừng nghĩ rằng hôm nay chuyện xấu chưa xảy đến với mình thì cũng đồng nghĩa rằng nó sẽ không bao giờ đến. Với sự tham lam của những kẻ nắm quyền, họ sẽ liên tục tạo ra bất công, cùng với sự lạnh lùng của chúng ta họ sẽ không bao giờ dừng lại. Và rồi, tất nhiên một ngày đẹp trời sự bất công đó lại nhằm chính chúng ta. Những con cừu sống trong môt cái chuồng chờ bị vặt lông, chúng im lặng trước những con khác được đưa lên bàn cạo, để rồi một ngày khác chính chúng cũng phải đối mặt với điều đó. Vấn đề không phải là hôm nay chúng ta có gặp bất công hay không, mà là sống ở trong một xã hội bất công thì sớm muộn gì nó cũng xảy đến với mình. Đó chỉ là vấn đề thời gian mà thôi.

Người Việt Nam hiện tại giống như là thấy rõ sự bất công nhưng không ai dám lên tiếng, giống như họ đang chạy trốn khỏi sự bất công vậy. Làm sao có thể thoát nếu chúng ta cứ để nó hoành hành? Trong khi chính sự chạy trốn một cách vô cảm đó chính là môi trường cho căn bệnh bất công leo thang. Không gì là không thể thay đổi. Ngay bây giờ chúng ta có thể bắt đầu chống lại sự bất công đó bằng cách lên tiếng. Một tiếng nói nhỏ không thể làm gì, nhưng nhiều tiếng nói nhỏ kết hợp lại sẽ tạo ra một phương thuốc đặc trị sự bất công. Đó cũng là khắc tinh của độc tài. Hãy tin tưởng vào điều đó. Một xã hội chỉ tốt đẹp khi chúng ta thôi vô cảm. Một chính quyền chỉ trong sạch, làm việc tốt và biết lo cho dân khi chúng ta biết lên tiếng. Sự thay đổi đến từ chính chúng ta chứ không phải là từ chính quyền. Đừng mong đợi sự từ bi của kẻ cướp, thay vào đó hãy làm cho kẻ cướp được hoàn lương.

Bà Đầm Trẻ

http://kekhopk.com/forums/index.php?showtopic=72959

42 năm sau ngày 30.4.1975 qua cái nhìn của người trẻ

42 năm sau ngày 30.4.1975 qua cái nhìn của người trẻ

Cát Linh, phóng viên RFA
 

Người Sài Gòn di tản hôm 29/4/1975.

Người Sài Gòn di tản hôm 29/4/1975.

AFP photo
 
 Những người trẻ sinh ra sau khi chiến tranh chấm dứt có sự hiểu biết về ngày 30 tháng 4 năm 1975 như thế nào và họ nhìn thấy gì trong sự thay đổi của đất nước mấy mươi năm qua?

Cách gọi

Cứ đến tháng Tư của mỗi năm, tấm ảnh đen trắng về những đứa trẻ đứng nhìn ra ngoài ô cửa nhỏ xíu trong một chiếc phi cơ đã được tháo hết những băng ghế ngồi, trên mặt sàn máy bay thì chật kín những đứa trẻ khác đang nằm, ngồi lẫn lộn, lại xuất hiện trên các diễn đàn như một lời nhắc nhở…

42 năm, kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975, sẽ là quá nửa đời người với những cậu bé cô bé trong tấm ảnh ấy. 42 năm sau, họ sẽ nhớ lại ngày đó với một ký ức mang màu sắc của “số phận”, là cách nói của một người trên mạng xã hội khi xem tấm ảnh ấy.

Để cố tình xây dựng những sự học và truyền thông dối trá để mị dân. Khi hiểu ra thì rất đau khổ, gọi là vỡ oà cảm xúc.
– Sỹ Bình

Nhưng, với những người sinh năm 80, 90, sẽ là một thời đại hoàn toàn độc lập, về tư tưởng, thể chế, chung hơn hết là ý thức hệ.

Họ là những người được tiếp nhận từ ngữ mới, văn hoá mới, phong cách xã hội mới. Họ không trải qua giai đoạn gọi là “chuyển giao chế độ”. Chính vì vậy, không ít người ở lứa tuổi này nhìn về ngày 30 tháng 4 với một tâm thế hoàn toàn trung dung.

Sao Mai, thế hệ 9X, là một trong số những người ấy. Rất đơn giản, cô gọi đó là ngày giải phóng, theo văn hoá giáo dục mà cô được truyền dạy.

“Tức là thường thì từ khi đi học đến khi lớn lên, em được biết 30 tháng 4 là ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ngày 1 tháng 5 là ngày Lễ Lao động. Nếu đi học hay đi làm thì sẽ được nghỉ hai ngày đó.”

Cụ thể hơn, nhưng cũng không kém phần đơn giản khi Sao Mai hiểu về ngày giải phóng.

“Ngày trước thì có thể là miền Bắc được giải phóng trước, không bị ách đô hộ cũng như không bị giặc ngoại xâm lấn chiếm, được hoà bình trước. Miền Nam thì vẫn phải chống chọi với giặc ngoại xâm, với kẻ thù. Ngày 30 tháng 4 là ngày đánh dấu mốc miền Nam cũng được hoà bình như miền Bắc và thống nhất đất nước.”

Không phải chỉ riêng Sao Mai, mà tất cả những ai trải qua nền giáo dục dưới mái trường Xã hội chủ nghĩa đều biết đến cách gọi của cụm từ “Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.”

Nguyễn Khang, một thế hệ 9X khác, từ Sài Gòn cho biết anh không xa lạ với cách nói ấy:

“Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đó là theo quan niệm của em thời còn đi học.”

Còn cho đến bây giờ, Khang cho biết anh chỉ chấp nhận một nửa của cách gọi ấy, vì không thể phủ nhận sự thật là Nam, Bắc một nhà từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.

“Còn cho tới thời điểm bây giờ, em gọi nó là ngày thống nhất đất nước. Gọi là giải phóng miền Nam thì không hợp lý vì không thể nào một thằng nghèo đi giải phóng một thằng giàu. Nhưng không thể phủ nhận được ngày đó là ngày thống nhất đất nước.”

Cũng chia ra hai thời điểm để có hai sự hiểu biết và chấp nhận, là ý kiến của Sỹ Bình, thế hệ 8X.

“Ở thời điểm ngày xưa, ngồi trên mái nhà trường đó, gọi ngày 30 tháng 4 là ngày giải phóng. Nhưng mãi sau này, hiểu ra được vấn đề, thì ngày 30 tháng 4 là ngày buồn của dân tộc Việt Nam. Là một ngày gọi là thấm máu, nhuộm máu quê hương. Người ta thường gọi là Tháng Tư đen.”

Tính chất

Babylift-400.jpg
Bên trong một chiếc phi cơ của chương trình Babylift tháng 4/1975. Bên trong một chiếc phi cơ của chương trình Babylift tháng 4/1975.

‘Cái sự hiểu ra vấn đề’ đó được Sỹ Bình cho biết là từ lúc internet phát triển, truyền thông nhà nước và báo chí không còn là “nhà trường thứ hai” của người dân. Thay vào đó, các bạn trẻ như Sỹ Bình nói rằng họ đã tìm thấy “sự thật khác ẩn chứa trong đó”.

“Một cái ngày gọi là người Cộng sản Bắc Việt đã vào đánh cướp giết đất quê hương của người miền Nam. Những trận đánh mà cộng sản cho là giải phóng đó thì chính là những trận đánh giúp cho Tàu Cộng và Liên Xô.”

Cho dù các bạn trẻ ấy đều nhìn nhận có hai sự hiểu đến từ hai thời điểm khác nhau, dẫn đến hai cách gọi khác nhau, thế nhưng, theo Nguyễn Khang thì có một điều mà anh cho rằng không thể phủ nhận.

“Không phủ nhận là Cộng sản đã thắng. Việt Nam Cộng hoà đã thua. Nhưng những hệ luỵ của nó thì thật sự ngày đó là một ngày đen tối, một ngày đáng buồn.”

Còn với quan điểm của Sỹ Bình, anh nói rằng khi sự thật được phơi bày, nhìn quay lại những gì đã học, tất cả hoàn toàn được tô vẽ, cùng với sự trợ giúp của những ngòi bút mà anh gọi là “dối trá”

“Để cố tình xây dựng những sự học và truyền thông dối trá để mị dân. Khi hiểu ra thì rất đau khổ, gọi là vỡ oà cảm xúc.”

Nếu với Sỹ Bình là một cảm xúc vỡ oà đau khổ thì Nguyễn Khang gọi đó là “một ngày đau thương”:

“Bởi vì em biết được hệ luỵ, hậu quả của ngày đó, những người chết trong trại cải tạo. Em biết cuộc sống sau 1975 như thế nào, nên em biết được ngày đó là một ngày đau thương. Cái ngày không tồn tại luật pháp, thậm chí họ có thể giết người công khai mà không cần chờ đợi đến pháp luật….

Nếu mà không có ngày đó thì sẽ tốt hơn.”

Tích cực và tiêu cực

Những câu chuyện về cuộc chiến được vẽ lại trong sách vở hào hùng, oanh liệt thật sự đã lấy đi khá trọn vẹn niềm tin của thế hệ trẻ khi còn ngồi trên mái trường. Hình ảnh “cô du kích nhỏ giương cao súng” và “Thằng Mỹ lom khom bước cúi đầu” hay “ngọn đuốc sống Lê Văn Tám” từng là những hình ảnh tự hào đi trong tâm trí của những đứa trẻ hát quốc ca vào mỗi buổi sớm.

Niềm tự hào ấy trong trí nhớ của của các bạn trẻ, nó đã được xây dựng và lớn lên từng ngày với niềm tin đất nước mình “rừng vàng, biển bạc.”

000_APP2000040598414-400.jpg
Lính bắc việt trên những chiếc xe tăng tràn vào thành phố Sài Gòn sáng 30/4/1975. AFP photo

Không ít người thuộc thế hệ 8X, 9X, qua mạng internet, họ biết đến câu nói nổi tiếng của cố Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Lê Duẩn từng tuyên bố nhân dịp Têt 1976, một năm sau ngày Giải phóng:

“Trong vòng mười năm nữa, mỗi gia đình ở Việt Nam sẽ có một radio, một Tivi và một tủ lạnh.”

Những thanh niên tham gia buổi nói chuyện trong bài viết này đều chưa ra đời vào thời điểm ông Lê Duẩn vạch ra tiêu chuẩn đời sống của một gia đình Việt Nam. Tuy nhiên, như Nguyễn Khang đã nói, anh không chấp nhận gọi là giải phóng miền Nam vì không thể nào một thằng nghèo đi giải phóng một thằng giàu.

Có lẽ qua kho tàng internet, Khang đã tìm hiểu cuộc sống của người miền Nam trước 1975 có được tủ lạnh và radio hay chưa.

Thế nhưng, chính Khang vẫn nhận thấy những điểm tích cực của cột mốc 30 tháng 4 năm 1975. Anh đưa ra cái nhìn có tính chất khá nhân sinh quan, đó là những mất mát trong chiến tranh sẽ không còn nữa.

“Ít nhất người dân không còn hoang mang khi mỗi sáng thức dậy thấy cái chết. Những chết chóc của chiến tranh sẽ không còn nữa. Không còn chiến tranh là mặt tích cực rồi.”

Thế nhưng, cũng theo Khang, bên mặt tích cực vẫn tồn tại những tiêu cực. Khang muốn nói đến cuộc bỏ phiếu bằng chân lớn nhất lịch sử Việt Nam.

“Hệ luỵ của vấn đề không còn chiến tranh lại khác đi. Không còn tự do. Không còn quyền được sống. Có người phải bỏ quê hương, bỏ cha mẹ, con cái để ra đi.”

Tuy nhiên, nói rằng cần phải nhìn nhận khách quan, Nguyễn Khang cho biết anh vẫn thấy có điểm tích cực trong 42 năm kể từ ngày 30 tháng 4 năm 1975.

“Sự thay đổi đến thời điểm bây giờ, giống như thời bao cấp thì không thể sống được. Hay nếu không thống nhất thì cũng giống như với Triều Tiên hay Hàn Quốc thôi.

Sự chuyển biến tốt nhất bây giờ là đã có những công ty nước ngoài vào. Việc mở cửa cho những công ty nước ngoài vào trong 42 năm vẫn là chuyển biến em cho là tốt nhất, để cho công ty nước ngoài vào đầu tư rồi dần dần cuộc sống người dân từ đó có những nhận thức khác đi.”

Còn cho tới thời điểm bây giờ, em gọi nó là ngày thống nhất đất nước. Gọi là giải phóng miền Nam thì không hợp lý vì không thể nào một thằng nghèo đi giải phóng một thằng giàu.
– Nguyễn Khang

Không đồng ý với ý kiến này, Sỹ Bình phản biện bằng cách đưa ra nhìn nhận ở nhiều khía cạnh khác trong xã hội hiện tại. Theo anh, không thể nhìn vào một góc phát triển của một sự vật mà có thể đưa ra đánh giá toàn diện. Sỹ Bình cho rằng cần phải nhìn thêm ở các vấn đề khác bên cạnh kinh tế.

“Không phải mình nhìn thấy xây dựng, giao thông, các quy trình kiến trúc hạ tầng đồ sộ mà nói phát triển được.

Ví dụ an ninh quốc phòng, tại sao người dân ngoài biển bị quân giặc Tàu cưới giết nhiều như vậy? Giáo dục thì học trò đánh nhau hội đồng gây tử vong hàng năm, hằng tháng. Y tế thì xuống cấp, trẻ em chết rất nhiều.

Tại sao lại có những ngôi nhà đồ sộ như vậy? thứ nhất, có thể của nhà đầu tư nào đó ở nước ngoài hoặc những nhà tham nhũng, tư bản đỏ dùng đồng tiền bất chính, lấy ngân khố của đất nước trái pháp luật để xây dựng lên những công trình cá nhân làm lợi ích riêng.”

Cuộc sống của người dân Việt Nam có thật như trong bài giảng là ‘dân giàu, nước mạnh’ hay không? Sự phát triển của xã hội Việt Nam như thế nào trong hơn 40 năm qua? Thế hệ trẻ có tự hào về một Việt Nam hùng cường từng ‘đánh cho Mỹ cút, đánh cho Nguỵ nhào” hay không? Câu trả lời“Không có gì phát triển ngoài hiểu biết của người dân về sự thật lịch sử sau 42 năm”, và “phải chi đừng có ngày ấy”, là nhận định chung của những bạn trẻ thế hệ 8X, 9X, những người được sinh ra và lớn lên khi chiến tranh đã chấm dứt.

Sau 42 Năm

    Sau 42 Năm

 Nguyễn Thị Thêm 

Gia đình tôi cổ hũ và tôi là đứa con gái duy nhất nên bị ràng buộc trong tầm suy nghĩ của mẹ.” Trai thời trung hiếu làm đầu, gái thời tiết hạnh làm câu trao mình” Cái ông Khổng tử ở tuốt bên Tàu vậy mà uy lực ổng thật to rộng. Một người phụ nữ ít học, quê mùa như má tôi lại thuộc nằm lòng mấy câu giáo điều đó . Thuộc để ép mình vào khuôn khổ cả một đời và truyền lại cho con gái.

Chúng tôi cùng dạy tư cho một trường trung học công giáo do cha đạo mở ra. Khi ấy anh đã là lính mang lon chuẩn úy. Có nghĩa là anh cũng thuộc lính mới tò te. Một sĩ quan mới ra trường còn mang nhiều món nợ áo cơm từ cha mẹ. Nơi anh được bổ nhiệm là một quận lỵ nằm giữa những vùng xôi đậu. Ban ngày là của Quốc Gia, ban đêm Việt Cộng về thăm dân. Họ nhận tiếp tế, tuyên truyền  và rải truyền đơn.

Người dân như mang mặt nạ, không dám biểu lộ tình cảm của mình với lính Quốc Gia. Xung quanh hàng xóm không biết ai là bạn, ai là Việt Cộng nằm vùng. Cuộc sống bấp bênh trong những trận càn của lính và đêm sục xạo, gỏ cửa rình mò của phía bên kia. Ấp chiến lược sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị giết đã không còn hiệu lực. Một con đường vô hình đã mở ra cho sự phát triển của phe đối nghịch. Đưa đẩy người dân vô tội vào hai gọng kìm Quốc Gia và Việt Cộng..

Khi những người bạn đồng minh lần lượt đổ quân vào thôn xóm thì như giọt nước đã tràn ly. Người dân càng hoảng loạn không biết đâu là chính nghĩa. Những người Mỹ, người Đại Hàn, người Thái Lan súng ống rầm rộ khắp mọi ngõ ngách xóm làng. Người dân quê sợ sệt vì lần đầu tiên thấy người ngoại quốc lùng sục khắp nơi. Đó là cái mồi lửa thật tốt châm ngòi cho phía bên kia. Họ tuyên truyền trong dân chúng để kéo  chính nghĩa về phía họ.

Tôi nói điều này ra có nhiều người sẽ phản đối. Nhưng đó là sự thật khi người dân không có được một sự giáo dục rõ ràng về phía chính phủ. Họ không hiểu thế nào là Thế Giới Tự Do và thế nào là Cộng Sản. Họ không hiểu tại sao người Mỹ có mặt ở nước mình.

Nhan nhản trên đường những người lính Mỹ say sưa. Những cô gái thôn quê bỗng chốc thay da đổi thịt. Từ ăn mặc đơn giản lại lòe loẹt chói mắt. Một số biến thành gái mãi dâm mua vui cho những người lính Mỹ đen, Mỹ trắng. Những người phụ nữ bỏ quên chồng con, diêm dúa trong những bộ quần áo mini ngắn ngủn, son phấn sặc sỡ đi làm sở Mỹ. Những áp phe buôn đồ Mỹ, bán đồ quân tiếp vụ Mỹ, quán rượu  mọc ra như nấm. Những đứa bé con lai ra đời, những bào thai bị vất bên đường và thỉnh thoảng phát hiện xác con gái nằm chết trong bãi rác. Những tin xấu tràn về thôn xóm, những hình ảnh xa đọa lung lay xã hội.

Đau đớn là ở chỗ chính nghĩa bị hiểu lầm và kẻ gian ngoa đã giành chiến thắng. Những người học sinh trong bộ đồng phục tới lớp buổi sáng. Nhưng sẽ là một liên lạc viên báo cáo tin tức vào buổi tối cho phía bên kia. Những em học sinh mặt thì già nhưng giấy tờ nhỏ tuổi. Có em đã có vợ , có con nhưng vẫn mang giấy tờ giả đến trường để trốn lính. Những chị ngồi trên xe lam đi chợ nói nói cười cười. Những cô gái đẹp làm người tình hờ của lính. Họ là những người nằm vùng của phía bên kia. Nhiệm vụ hoạt động mật, báo tin tức, tiếp tế lương thực,thuốc men và tiếp nhận chỉ thị của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam.

Trong bộ ngực căng tròn của cô gái đẹp chứa đầy thuốc trụ sinh. Dưới lằn vải quần mỹ a đen mượt mà kia là những lớp nylon bó thật chặc vào đùi để tiếp tế.  Trong gà mên cơm đem đi ăn một ngày, họ ém thật chặc cho 2, 3 người ăn. Sau giờ làm, họ để lại bên rừng cho người của mặt trận về lấy đem đi. Trong làng, đa số là phụ nữ. Nhưng những đứa bé không cha tiếp tục ra đời mà không ai đặt vấn đề.

Chiến tranh đã đẩy những người dân chơn chất thành những kẻ phản bội ” Ăn cơm Quốc Gia, thờ ma Cộng Sản” Đừng trách họ, mà hãy trách nhà cầm quyền không bảo vệ được họ. Những người có nhiệm vụ tuyên truyền không dẫn giải cho dân hiểu được sự thật, đâu là bạn, đâu là thù. Những người làm  công tác chiến tranh chính trị chỉ làm trên giấy tờ mà không đi vào cái gốc chính là người dân- những người dân quê an phận, hiền lành-

Trong khi đó kẻ gian rình mò trong bóng đêm. Những bộ mặt giả nhân nghĩa vừa tỉ tê dụ dỗ, vừa hù dọa khủng bố đã len lỏi vào từng gia đình Những tổ chức bí mật được thành hình,  biến người dân thiệt thà thành tai mắt, những người đàn bà quê mùa thành những bà mẹ anh hùng.

Thành phố rộn rã tiếng cười, những bar rượu, những đêm vui thâu đêm suốt sáng. Thành phố không có chiến tranh cho nên thành phố đẹp, thành phố sang. Đất nước VN không phải chỉ là thành phố mà có cả  thôn làng, núi, đồi, sông, biển. Thôn làng càng xa xôi nghèo nàn, Việt Cộng trà trộn càng nhiều, càng khó bảo vệ. Người dân không thương yêu gì CS nhưng sợ bị trả thù, sợ bị theo dõi, sợ bị nghi ngờ và bị giết oan. Tội nghiệp người dân, một cổ hai tròng. Dù đang sống dưới chế độ Cộng Hòa nhưng vẫn bị Mặt Trận khống chế hàng ngày, hàng đêm.

Gần gũi dân nhất là những người lính Địa Phương Quân. Họ đóng quân ngay trong làng, sống với dân và người họ sợ nhất lại chính là những người dân. Ai đã từng đi lính thì khắc biết điều tôi nói là sự thật. Chỉ một câu nói lỡ lời thì tin tức hành quân được bên kia nắm bắt. Và những chuyến phục kích kể như thất bại. hay bị đảo ngược thế cờ.

Người lính sống trong đường tơ kẻ tóc và người con gái chấp nhận lấy lính là chấp nhận mọi sự rủi may trong đời. Đám cưới đôi khi không dám tổ chức tại địa phương vì gia đình sợ bị theo dõi và trả thù. Thôn làng do chính phủ VNCH làm chủ mà người dân sợ Việt Cộng hơn Quốc Gia.

Đã trễ quá rồi khi nói đến điều này, nhưng tất cả chúng ta đều là nạn nhân của một cuộc lừa đảo. Bao nhiêu nhân mạng oan khiên đã chết một cách thảm thương cho cuộc chiến tương tàn. Bao nhiêu thanh niên của nước Mỹ giàu đẹp đã bỏ thây một cách oan uổng trên chiến trường VN. Vì sự sai lầm của cả hai phía. Tất cả tang thương đó đã đổ lên vai, lên đầu của thế hệ chúng tôi. Những người lính, những người vợ lính và những trẻ thơ vô tội.

42 năm qua rồi, nhưng mỗi khi tháng Tư Đen lại về tôi lại xoay cuồng trong suy nghĩ. Tôi khâm phục cái nhìn thật rõ ràng cốt lõi cuộc chiến VN  của Tống Thống Ngô Đình Diệm. Ngài biết thật rõ ràng về Cộng Sản kể cả sách lược bảo vệ quốc gia. Ngài không muốn người Mỹ hay đồng minh đổ bộ vào Việt Nam. Ngài  chỉ muốn đựợc tiếp tế vũ khí và ngân sách để bảo vệ và xây dựng đất nước. Ngài lập ra ấp chiến lược là để cắt đứt nguồn tiếp tế lương thực và thuốc men cho phía bên kia. Đồng thời xây dựng một lực lượng bảo vệ xóm làng từ người dân. Nhưng tiếc thay ngài đã bị giết chết. Chế độ Đệ nhị Cộng Hòa không xoay nỗi thế cờ chính trị. Mỹ bỏ rơi VN. Và sự thất trận đau thương xóa sổ VNCH trong ngày 30/4/75 lịch sử. Vận mạng đất nước nhược tiểu nằm trong tay của những đại cường. Một cuộc mua bán, sang nhượng chính trị. Đất nước ta là món hàng đưa lên bàn cân ngã giá. Kẻ thắng chẳng oai hùng, người thua đầy uất ức.

Bốn mươi hai năm qua rồi, nhắc lại thêm ngậm ngùi, đau đớn. Bao nhiêu mạng người đã bỏ thây trong cuộc chiến, trên con đường chạy loạn 30/4/1975. Bao nhiêu xác người tù CS bị bỏ thây trên rừng thiêng nước độc. Bao nhiêu xác người bị chết trên biển đông và trong bàn tay của hải tặc. Bao nhiêu? bao nhiêu? Một câu hỏi làm nghẹn lòng người Việt trên khắp năm châu.

Thoắt một cái đã 42 năm. những người có mặt và tham dự trong cuộc chiến ngày đó đều đã già. Những mái tóc bạc trắng hay hoa râm, những tâm hồn đầy những vết thẹo quá khứ và chiến tranh. Cố gắng xây dựng một thế hệ tiếp nối. Cố gắng sống tốt và làm sống lại một thuở hào hùng. Đôi chân đã yếu, cơ thể hao mòn. Những người cha, người ông đã tận lực mình vì hai chữ tự do. Họ thật đáng kính trọng và tự hào. Nhưng trong họ biết bao nhiêu đêm trăn trở, dằn vặt vì sức tàn, lực kiệt.

42 năm cho những người di tản. Mấy chục năm cho những người HO đang sống ở một nước khác quê hương mình. Sau 30/4 người sĩ quan VNCH bị tù đày nơi rừng thiêng nước độc. Không một bản án, không biết ngày về. Họ được thả ra với một thân thể suy nhược, một tâm hồn loang lỗ những thương đau. Trong họ mọi thứ đều đỗ vỡ, bi thương. Được thả từ nhà tù hẹp ra nhà tù lớn với vài chục đồng lộ phí và một túi hành trang nhẹ tênh. Nhưng họ lại mang quá nặng cái lý lịch đen “Ngụy Quân” đè bẹp cuộc đời và cả gia đình .Có người tìm lại được mái ấm gia đình. Có vợ, có con để dựa nương, bám víu. Có người không còn nhà cửa, vợ con thân thích.

Nếu không có chương trình HO không biết bây giờ cuộc sống của những người tù CS sẽ ra sao? Không có chương trình HO. Không có những người liều chết vượt biển tìm tự do. Chúng ta sẽ không có một thế hệ thứ hai thứ ba thành công trên đất nước Hoa kỳ hay trên thế giới. Chúng ta sẽ không bao giờ có một Little Sai Gon  trên đất Mỹ. Chúng ta sẽ không thể hảnh diện giơ cao lá cờ vàng và hát Quốc ca. Chúng ta không có xe hoa diễn hành ngày tết Nguyên Đán, Chúng ta cũng không thể có những bảo tàng lịch sử “Quân lực VNCH”. Không có tượng đài Đức Trần Hưng Đạo và cũng không thể có những nghị quyết “Vinh Danh cờ vàng” tại nhiều thành phố trên nước Mỹ, Úc, Canada.

Cám ơn Bà Hạnh Nhơn. Cám ơn những ân nhân đã cứu vớt, đã mở con đường sống cho những người liều chết tìm tự do  như chúng tôi.

42 năm, một thời gian quá nửa đời người. Những chứng nhân lịch sử rất nhiều người đã nằm xuống vì tuổi già, vì bệnh tật. Những văn nhân, thi sĩ, họa sĩ, nhạc sĩ nỗi danh cũng quá nửa đã ra đi. Một thế hệ VNCH lần lần đi vào quá khứ. Thế hệ tiếp nối lớn lên tại Mỹ, sinh ra tại Mỹ và chúng gia nhập vào dòng chính để làm một người Mỹ thực thụ.

Hôm tuần trước tôi đi dự một đám ma. Người chết là một bà bác 90 tuổi. Con cái, người thân quen đến viếng tang đa phần là người Việt, nói tiếng Việt. Nhưng quỳ dưới kia các cháu dâu rễ đa phần là người Mỹ. Bầy cháu cố cũng là những đứa bé Mỹ lai nói toàn tiếng Mỹ. Cả một đại gia đình nói chuyện với nhau bằng tiếng Mỹ. Người chết chắc hẳn sẽ buồn và không hiểu chúng đang nói chuyện gì. Người tham dự như tôi cũng xót xa cho ngay bản thân mình. Rồi thì cũng thế mà thôi hay sao?

Không? Chúng ta đã có những lớp dạy tiếng Việt. “Tiếng Việt còn, nước ta còn.” Chúng ta không thể không hòa nhập nhưng không thể để mất nguồn cội. Những thế hệ VNCH thứ hai thứ ba đang học hỏi để hiểu lý do tại sao chúng có mặt nơi này. Các cháu đang làm sống lại dòng sử Việt. Các cháu giương cao lá cờ vàng và các cháu tự hào về nó.

Dù muốn dù khôngchúng ta cũng đã rời khỏi VN. Mọi việc của quê hương đất nước phải do người trong nước quyết định. Có thay đổi được vận mệnh, có bảo vệ VN khỏi bàn tay xâm lược của Tàu Cộng hay không là do người trong nước thực hiện. Chúng ta chỉ có thể ủng hộ tinh thần, tiếp tay đưa mọi việc ra dư luận quốc tế để làm áp lực.

Các bạn ơi! 42 năm rồi cho một cuộc chiến, cho một đời người.Con gái tôi sinh ra 3 tháng sau ngày mất nước. Bây giờ cháu đã 42 tuổi, là một phụ nữ trung niên, con cái đã vào Trung học. Người lính VNCH trẻ nhất cũng đã ngoài 60. Những người lính già bây giờ đều đã đi gần cuối cuộc đời.  Sống nơi xứ người tuy đầy đủ vật chất nhưng vẫn là nỗi khắc khoải khôn nguôi cho những giấc mơ về một VN tự do dân chủ.

Tôi yêu quê hương VN tôi lắm. Tôi nhớ gia đình, họ hàng anh em và bạn bè tôi. Tôi nhớ từng con đường, từng góc vườn kỷ niệm của tuổi thơ và tuổi trẻ. Thú thật tôi sợ lắm. Sợ một ngày nào đó tôi trở về không nhận ra đất nước của mình. Tôi sợ Trung Cộng sẽ chiếm trọn Việt Nam. Người Việt mình sẽ bị làn sóng người Tàu tràn xuống tịch thu nhà cửa, chiếm cứ ruộng vườn. Họ sẽ đày người Việt mình đi vào những nơi rừng núi hay đồng khô cỏ cháy. Họ sẽ xóa một nước VN như chính quyền hiện nay xóa sổ VNCH. Họ sẽ tàn bạo hơn, quyết liệt hơn, dã man hơn để đồng hóa chúng ta. Vì mộng bá chiếm VN ấp ủ mấy ngàn năm nay đã toại nguyện.

Một SàiGòn xưa đã mất. Một nền văn hóa nhân bản đã mất. Có thể rồi đây nước Việt Nam sẽ bị xóa sổ trên bản đồ thế giới . Chẳng ai còn nhớ đến bà Trưng, bà Triệu, Hưng Đạo Vương, vua Quang Trung….

Tôi có bi quan quá hay không? Xin nhường câu trả lời cho tất cả mọi người. Chỉ mong sẽ không bao giờ là sự thật. Chỉ mong được như vậy.

Xin các đấng tiền nhân, hương linh những anh hùng tử sĩ phò hộ cho nước Việt mình vượt qua cơn bão giông này.

42 năm đã quá đủ cho những thương đau.

Nguyễn thị Thêm

Tháng 4/2017

Vì sao người quân tử không tranh cãi với kẻ tiểu nhân?

Vì sao người quân tử không tranh cãi với kẻ tiểu nhân?

Khổng Tử có một cậu học trò rất thích tranh luận. Một hôm, người học trò này đến thăm Khổng Tử thì gặp một người đang đứng ở cổng nhà.

Người khách này ngăn vị học trò  kia lại hỏi: “Nghe nói thầy dạy của ngài là Khổng thánh nhân, như vậy thì học vấn của ngài chắc phải cao lắm. Ngài cho ta hỏi một năm có mấy mùa? Nếu ngài trả lời đúng, ta sẽ dập đầu quỳ lạy ngài, còn nếu trả lời sai thì ngài phải bái lạy ta.”

Vị đệ tử kia suy nghĩ một lát rồi nói: “Xuân, Hạ, Thu, Đông, có bốn mùa!”

Người khách kia cãi lại: “Sai! Có ba mùa!”

Vị đệ tử cảm thấy thực sự là kỳ quái nói: “Rõ ràng là một năm có bốn mùa, sao ngươi lại nói là có ba mùa?”

Đúng lúc hai người tranh luận không thôi thì Khổng Tử đi ra. Vị khách kia hỏi: “Thánh nhân! Xin ngài hãy phân xử, một năm rốt cuộc là có mấy mùa?”

Khổng Tử nhìn vị khách một lượt rồi nói: “Ba mùa!”

Vị khách vô cùng đắc thắng, quay sang cậu học trò của Khổng Tử: ‘Ngươi nghe đã rõ chưa, còn không bái ta một lạy tạ lỗi sao?’. Nói rồi đắc chí cười ha hả đi thẳng.

Cậu học trò thấy hết sức quái lạ, bèn hỏi Khổng Tử: “Thưa thầy! Một năm rõ ràng là có bốn mùa, sao vừa rồi thầy lại nói là có ba mùa?”

Khổng Tử trả lời: “Con không thấy người kia sao? Đó là một con châu chấu biến hóa mà thành. Một năm, châu chấu chỉ sống có ba mùa, xuân, hạ và thu, nó đâu có biết mùa đông? Con tranh luận với nó chẳng phải là không bao giờ có kết thúc sao?”

Vị đệ tử bừng tỉnh hiểu ra đạo ý cao thâm của bậc Thánh nhân: Tranh cãi với người không cùng cảnh giới là việc phí thời gian vô ích. Lão Tử nói: “Thiện giả bất biện, biện giả bất thiện” (Nghĩa là: người thiện thì không tranh biện, người tranh biện thì không phải thiện). Sự tu dưỡng, trưởng thành trong đời một người thể hiện ở việc làm, không phải ở lời nói, tranh biện. Xưa nay, phàm đã là chân lý thì đâu cần tranh biện?

(Ảnh minh họa)

Kẻ tiểu nhân nhầm tưởng rằng tranh luận không ngớt là khẳng định được chân lý thuộc về mình. Kỳ thực, chân lý vốn không thuộc về người, mà là đạo của vũ trụ. Việc của người quân tử là dụng tâm tu dưỡng đến cảnh giới của chân lý, gọi là giác ngộ, viên mãn. Kẻ tiểu nhân lấy cái ngu xuẩn của mình khăng khăng tranh luận cao thấp với người khác. Trong Đạo đức kinh, Lão Tử viết: “Đạo của bậc Thành nhân là làm mà không tranh.Một trong ba nguyên lý tu dưỡng tối cao của Phật gia chính là NHẪN. Nhẫn nhịn không tranh biện mới là cảnh giới tu dưỡng cao nhất của đời người.

Phú Bật thời Bắc Tống khi còn trẻ, ông đang đi bộ trên đường phố thành Lạc Dương thì bỗng nhiên có một người mắng chửi ông. Một người đi đường đã ghé tai Phú Bật mà nói nhỏ: “Chàng trai trẻ, có người đang mắng chửi cậu kìa.” Phú Bật nghe xong liền nói: “Hình như là mắng người khác đó.” Người đó lại nói: “Người ta còn gọi tên của cậu mà chửi đó.” Phú Bật suy nghĩ một chút rồi nói: “Có lẽ là mắng người khác, rất có thể người đó trùng tên họ với tôi.” Sau đó, người mắng chửi Phú Bật nghe được phản ứng của ông nên thấy rất hổ thẹn, đến xin lỗi Phú Bật.

Phú Bật chẳng phải chính là đã hành xử như người quân tử, không tranh biện với kẻ tiểu nhận. Đó không phải là nhu nhược mà là không để tâm vào những chuyện vụn vặt, lùi một bước biển rộng trời cao. Cho nên, người xưa cho rằng người thông minh nhưng giả ngốc mới là đạo xử thế của nhà thông thái. Đời người quá ngắn ngủi và quý giá, việc cần làm lại quá nhiều, sao phải vì điều khó chịu mà lãng phí thời gian? Hiểu được cái đạo của người giả ngốc, bạn sẽ thấu một cảnh giới khác của đại trí tuệ.

Trong Luận ngữ, Khổng Tử giảng: “Quân tử thực vô cầu bão, cư vô cầu an, mẫn vu sự nhi thận vu ngôn.” (Tạm dịch: Bậc quân tử ăn nhưng không cầu ăn no, ở không cầu an, nhanh nhẹn, minh mẫn trong việc làm nhưng rất thận trọng về lời nói). Lại thêm: “Quân tử dục nột vu ngôn nhi mẫn vu hành” (Bậc quân tử thường chậm trong lời nói nhưng hành động thì nhanh nhạy).

Rõ ràng là người xưa xem phẩm chất người quân tử là ở hành động, nói ít làm nhiều, lấy hành động chứng minh thay vì xảo biện, có nói cũng lấy khiêm nhường, đúng mực, thậm chí im lặng không nói. Kẻ tiểu nhân ngược lại, nói nhiều nhưng chẳng làm gì cả. Thế nên nhân gian mới có câu: ‘Ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo…’

Một lẽ hết sức dễ hiểu là những người nhẫn nhịn không tranh biện bởi họ còn đang phải… miệt mài làm việc. Kẻ tiểu nhân làm ít nên rảnh rỗi nói nhiều, về bản chất thực sự không phải có năng lực. Người tài trí biết trân quý thời gian hữu hạn, một khi qua đi không trở lại nên dốc lòng toàn tâm toàn trí vào công việc, không muốn phí tiếc cho việc tranh cãi đúng sai. Tâm tranh đấu hơn thua cao thấp họ đã buông bỏ từ lâu rồi.

Kẻ tiểu nhân khoa ngôn xảo ngữ nhưng thực ra mọi việc đều để người khác làm cả. Như vậy tranh cãi với kẻ tiểu nhân há chẳng phải hạ mình xuống bằng họ mà phí thời giờ vô ích sao? ‘Người tốt không tranh biện, người tranh biện không tốt. Người biết không học rộng, người học rộng không biết.

Hàm ý là: Người thông minh không nhất định là kẻ học rộng. Người học rộng lại cũng không nhất định là người thông thái trí huệ. Bởi thứ quyết định trí tuệ của một người không phải ở tri thức tích lũy nhiều bao nhiêu mà là ở tâm thái cảnh giới tư tưởng cao bao nhiêu. Kẻ thông minh dùng khoa ngôn xảo ngữ để hùng biện. Bậc trí giả, ngược lại, đã tu dưỡng đến độ hiểu rằng, nói là một loại năng lực, còn im lặng là một loại trí huệ. Vậy há chẳng phải sống trên đời, không cần tranh cãi với kẻ tiểu nhân?

 Lam Thư 

Anh chị Thụ & Mai gởi

Nền báo chí KHUYẾT TẬT Việt Nam

Nền báo chí KHUYẾT TẬT Việt Nam

 Lê Mẫn

(VNTB)

Đó là nền báo chí Việt Nam dưới sự chỉ đạo, định hướng của nhà cầm quyền cộng sản khiến những thông tin trên mặt báo lệch lạc, sai sự thật, còn người làm báo mang tiếng là dân “trí thức” nhưng lại làm việc không khác gì những người thiếu nhận thức, thiếu lương tri…

Báo chí dưới sự cai trị của nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam là một nền báo chí méo mó, nửa báo chí nửa “công văn” khi đưa thông tin theo “định hướng”. Nền báo chí sống nhờ dân nhưng lại phục vụ cho nhà cầm quyền… nói đúng hơn thì đây là một nền báo chí khuyết tật, tờ báo, người làm báo chưa hiểu hết nghĩa thật sự của cụm từ Báo chí, truyền thông là gì.

Các hoạt động báo chí ở Việt Nam không phải chịu sự kiểm soát của luật pháp quốc gia, luật báo chí mà là chịu sự kiểm soát của các cơ quan đại diện cho nhà cầm quyền cộng sản đó là người đứng đầu Bộ Thông tin và Truyền thông (Bộ 4T), và nội dung thì do Ban Tuyên giáo Trung ương kiểm duyệt, định hướng. Điều này khiến nhiều thông tin trên mặt báo sai sự thật, còn nhận thức của người làm báo thì lệch lạc, cam chịu, thui chột về ý chí.

Thông tin KHUYẾT TẬT

Một trong những nguyên tắc, yêu cầu quan trọng nhất của báo chí chính là SỰ THẬT. Thế nhưng, nhiều cơ quan báo chí ở Việt Nam đã không có được điều này. Chỉ đưa thông tin theo “định hướng”, né tránh những sự việc liên quan đến chính trị, quyền lợi của nhà cầm quyền cộng sản vì “nhạy cảm” (trừ một số thông tin được bật đèn xanh, phục vụ cho việc tranh giành quyền lực, thanh trừng nhau, mà bên có thế lực mạnh hơn sẽ chỉ đạo. Ví dụ như vụ Trịnh Xuân Thanh).

Điển hình nhất chính là vụ Fomosa, nhiều tờ báo, đặc biệt là VTV đã thông tin sai sự thật, khi chỉ thông tin một chiều ý kiến của nhà cầm quyền cộng sản. Trong khi biển đang bị đầu độc nặng, rất nhiều người dân bị nhiễm độc kim loại, nhân dân đói khổ vì thất nghiệp thì nhiều tờ báo liên tục đưa tin theo ý kiến của nhà cầm quyền là biển đã sạch, ngư dân phấn khởi ra khơi… không dừng lại đó, các tờ báo này còn vu vạ cho những ngư dân đi đòi quyền lợi chính đáng của mình là “phản động”, quá khích, gây rối an ninh trật tự…

Không một tờ báo nào dám phỏng vấn, đưa tin về những ngư dân-nạn nhân của thảm họa Fomosa, xem cảm nghĩ của họ như thế nào? Sau khi biển bị đầu độc, họ thất nghiệp và sống ra sao? Tại sao nhiều thanh niên ở vùng thảm họa lại không đạt yêu cầu về sức khỏe (bị nhiễm độc kim loại) khi tham gia đi xuất khẩu lao động? Tại sao người dân không đi làm, không ở nhà chăm lo sức khỏe của mình và gia đình mà lại hành hạ bản thân khi đi chang nắng, chang mưa để biểu tình, rồi bị đánh đập?…

Mặc dù, hơn 99% các tờ báo này đều sống bằng số lượt truy cập của bạn đọc, tức là người dân. Nhưng họ lại thờ ơ với quyền lợi, nỗi đau của nhân dân, thậm chí là vu vạ cho dân để đẩy dân vào đường cùng. Các tờ báo này đang tự giết chính mình, khi chọn con đường đối đầu với nhân dân.

Vâng, một nửa sự thật không phải là sự thật.

Người làm báo thui chột

Phần lớn những người làm báo tại Việt Nam là những người được xem là có trình độ học vấn cao trong xã hội, được xếp vào tầng lớp trí thức. Thế nhưng họ không có tư duy độc lập, khiến nhận thức của họ bị méo mó, cam chịu và chấp nhận làm việc trong một môi trường báo chí KHUYẾT TẬT.

Một trong những yêu cầu quan trọng của báo chí chính là tính KHÁCH QUAN. Thế nhưng, báo chí Việt Nam chịu sự định hướng của nhà cầm quyền cộng sản, nên tính khách quan này trở thành một mỹ từ xa xỉ. Họ sống bằng lượt truy cập của nhân dân nhưng lại chịu sự lệ thuộc từ nhà cầm quyền một cách vô lý!

Ngay trong quy định của “Luật Báo chí” về việc cấp thẻ báo chí đã là 1 sự vô lý đến hài hước. Khi, trước đây, người được cấp thẻ nhà báo phải hoạt động báo chí liên tục tại một tờ báo từ 3 năm trở lên và phải do Bộ 4T cấp thẻ. Điều này khiến nhiều phóng viên khốn đốn trong quá trình tác nghiệp vì chưa có thẻ nhà báo, khi các cơ quan chỉ tiếp nhà báo chứ không tiếp phóng viên… Rồi Bộ 4T thích thì phạt các tờ báo, tước thẻ báo chí của nhà báo. Thích thì dọa khi ra “đề án quy hoạch báo chí” để các chủ tờ báo chạy tiền cho Bộ 4T, trong khi Bộ này vẫn vô tư cấp phép cho tờ báo khác ra đời.

Báo chí hoạt động dựa trên những nền tảng, nguyên tắc về thông tin, chịu sự quản lý của luật pháp, vậy tại sao lại phải chịu sự quản lý vô lý của Bộ 4T, Ban Tuyên giáo Trung ương? Trong khi một tờ báo sống được là nhờ vào người dân. Vậy LUẬT PHÁP đứng ở đâu trong nền báo chí Việt Nam?

Rõ ràng, nền báo chí Việt Nam đang bị cai trị một cách sâu sắc. Mà những người bị cai trị này lại là bộ phận không nhỏ tầng lớp được xem là trí thức, họ đang có rất nhiều lợi thế trong việc tác động đến xã hội. Thế nhưng, họ lại chấp nhận sự cai trị này một cách ngoan ngoãn như những con cừu.

Nhiều người làm báo cho rằng họ đang cần mẫn, họ đang dũng cảm đấu tranh chống lại cái xấu, phơi bày những sự thật của xã hội trên mặt báo, không có họ thì nhiều người dân sẽ không biết được những sự thật này (?!) Và nếu họ đấu tranh cho quyền lợi hợp pháp của mình thì sẽ bị tước giấy phép hoạt động, bị thu thẻ nhà báo… lúc này họ sẽ chẳng làm được gì?

Tôi chỉ mong các bạn tìm hiểu lại nghĩa đúng nhất của cụm từ BÁO CHÍ. Các bạn “dám” đấu tranh cho cái xấu, sự bất công của người dân, vậy tại sao các bạn không dám đấu tranh cho quyền lợi của mình? Quyền tự do báo chí của mình, để chấm dứt những vô lý trong quy định về hoạt động báo chí? Các bạn có dám đấu tranh để tờ báo, nhà cầm quyền cộng sản đưa thông tin chính xác về vụ Fomosa không? Có dám đấu tranh để chấm dứt sự cai trị vô lý không?…

Những quyền lợi, nghĩa vụ hợp pháp của các bạn mà các bạn không dám đòi, chưa đòi được thì các bạn đòi được cho ai? Các bạn có thấy mình đang tự lừa dối mình không? Nếu sự đấu tranh của các bạn không phải vì cái nghề mà mình đang mưu sinh thì các bạn dám đấu tranh không?

Rõ ràng, những người làm báo trong nền báo chí cai trị Việt Nam đã bị nhà cầm quyền cộng sản “đánh” què tư duy, làm thui chột ý chí chiến đấu.

Nền báo chí của nước Việt đã và đang là nền báo chí KHUYẾT TẬT kể cả về mặt thông tin, lẫn con người làm báo.

L.M.

Nguồn: http://www.ijavn.org/2017/04/vntb-nen-bao-chi-khuyet-tat-viet-nam.html

Kẻ gieo rắc sợ hãi cũng biết sợ hãi

Kẻ gieo rắc sợ hãi cũng biết sợ hãi

Vũ Đông Hà (Danlambao) – Ngày 4 tháng 6 năm 1989, quảng trường Thiên An Môn nhuộm máu. Quân đội và xe tăng được lệnh của lãnh đạo đảng CSTQ xả súng vào quần chúng. Trong suốt gần 7 tuần lễ trước đó, bắt đầu từ 15 tháng 4, nửa triệu người dân Trung Hoa, phần lớn là sinh viên, đã vượt qua sợ hãi để làm người tự do đúng nghĩa tại quảng trường có hình chân dung vĩ đại của Mao. Cả ngàn thanh niên thiếu nữ đã chết. Họ đã thắng nỗi sợ hãi nhưng bị dẹp tan trong máu và nước mắt vì một điều đơn giản: họ đã đẩy một guồng máy cai trị tàn ác vào vị trí đường cùng khi thiểu số lãnh đạo và tập đoàn thừa hành của guồng máy ấy chưa biết sợ; vẫn còn những cái đầu điên cuồng tuân lệnh và những ngón tay chưa biết run bấm vào cò súng. 

Cuộc cách mạng của sợ hãi không chỉ là một cuộc cách mạng một chiều: làm người dân hết sợ. Nó còn cần được thực hiện theo một tiến trình khôn ngoan, có lượng giá để từng bước: làm cho độc tài bắt đầu biết lo; chùn bước chùng tay; hãi sợ; và cuối cùng là đầu hàng.

Cách mạng chỉ nên được đẩy đến giai đoạn dứt điểm để thành công khi “cán cân sợ hãi” bắt đầu nghiêng về phía độc tài. Nếu không sẽ có nhiều xác suất dẫn đến một cuộc tắm máu vì vũ khí đang nằm trong tay kẻ thống trị. Ngay cả khi buộc phải có “sự thương lượng” với tập đoàn độc tài, cán cân sức mạnh giữa quần chúng và guồng máy lúc đó phải được tương đối cân bằng thì những đòi hỏi chính đáng và lâu dài của nhân dân mới có thể được đáp ứng. Nếu không thì “sự thương lượng” sẽ mở cho độc tài một giải pháp thoát hiểm và công cuộc đấu tranh bị rơi vào một trò chơi chính trị. 

Câu chuyện của một cô gái xuất khẩu lao động một cán bộ công an phường

Hồng Lĩnh là một sinh viên ở một tỉnh miền Tây. Trong khi bạn bè rủ nhau trở thành cô dâu Đài Loan thì Hồng Lĩnh làm đơn xin đi lao động hợp tác. Cán bộ phường là một gã côn đồ, hống hách, xem dân như cỏ rác. Hồng Lĩnh cũng không thoát khỏi hoàn cảnh đó, vừa sợ hãi, vừa căm giận, vừa phải nhịn nhục khi đến xin chữ ký. “Cuối cùng em nghiệm ra rằng em là nô lệ cho sự sợ hãi của chính em và từ đó danh dự, nhân phẩm của em đã trở thành nô lệ cho chúng nó “ – Hồng  Lĩnh tâm sự. 

3 năm sau, Hồng Lĩnh về nước. Những cảm nhận ở nước ngoài làm em có một nhận thức mới về chính mình. Ngày lên phường để khai báo, cũng tên cán bộ phường đó, cũng thái độ hống hách, coi thường người dân. “Em đã đứng thẳng dậy, nhìn thẳng vào mắt nó và rất nghiêm trang nhưng rất dữ, “quạt” nó cả 10 phút không ngừng nghĩ. Anh biết gì không? Mặt mày nó tái mét, khi em dừng nói nó bối rối dữ lắm, không biết phản ứng ra sao. Cuối cùng nó lí nhí xin lỗi và bỏ tuốt vào bên trong. Từ đó đến nay, thái độ của nó đối với em khác hẳn. Em ngộ ra một điều là qua nhiều năm, tụi em vì thời thế đã tự tạo cho mình khả năng tự vệ khi bị làm khó làm dễ; ngược lại có kẻ quen tấn công người khác thì không có khả năng phản ứng khi bị tấn công vì chưa có kinh nghiệm bao giờ. Tụi nó chỉ biết núp bóng bộ đồng phục ở trên người và cái bóng của hệ thống…”

Nỗi sợ hãi của kẻ bị tách riêng để tấn công

Không riêng gì đảng CSVN, những cá nhân cầm quyền và thuộc hạ của các nước độc tài khác đều núp bóng cơ chế để vừa trốn tránh trách nhiệm vừa mang cảm giác an toàn. Những tấn công vào cơ chế không làm cho cá nhân trong tập đoàn cai trị lo sợ nhiều mà đôi khi lại gia tăng cảm giác an toàn của họ khi chúng ta vô tình kết họ vào một khối. 

Viễn ảnh về ngày tàn của chế độ không phải không có trong đầu của một bộ trưởng hay bí thư tỉnh ủy hoặc một tên công an côn đồ. Hình ảnh của Muammar Gaddafi bị lôi ra khỏi ống cống và bị giết không phải không ẩn hiện trong đầu của họ. Nhưng trong viễn ảnh nhiều ác mộng đó, họ tự nhủ rằng, cùng lắm thì cả một thể chế sụp đổ, một vài “đồng chí” cao cấp nhất sẽ bị đem ra xử còn “ta” sẽ hạ cánh an toàn. Từ đó, họ “yên tâm” tiếp tục thủ ác trong khung cảnh toàn cơ chế, hệ thống bị tấn công.

Không ai có thể phản biện được với khuynh hướng lên án toàn bộ, không để sót kẻ gây ra tội ác vì đó là phán xét hợp lý và mang tính công bằng, phù hợp với chuẩn mực của công lý. Tuy nhiên, trong tiến trình tranh đấu, đôi khi cảm xúc, công bằng và công lý đành phải nhường chỗ cho nhu cầu thực tiễn của mục tiêu xóa bỏ độc tài: hiệu quả đạt được. Sẽ không mang lại nhiều hiệu quả mong đợi khi tấn công cả hệ thống tham nhũng, cả tập đoàn công an còn đảng còn mình là ác ôn, trong khi mỗi cá nhân trong tập thể xấu xa đó không có cảm giác cá nhân mình đang bị tấn công. Đối với những kẻ gieo ác, khi một tên sợ hãi sẽ dẫn đến tâm lý sợ hãi của đồng bọn. Bệnh sợ hãi là bệnh hay lây cho dù chúng là những kẻ nắm quyền. Ngược lại, khi lực chúng ta còn mỏng và còn yếu, tập trung tấn công vào một điểm vẫn mang lại nhiều kết quả hơn là tấn công cả một tảng núi. 

Khi bắt đầu bằng những kế hoạch, việc nhắm vào một cá nhân, một thành phần đang bị oán ghét nhất trong bộ máy cai trị sẽ có khả năng làm nhiều người tham gia hơn. Nó sẽ tạo ảnh hưởng đến cá nhân kẻ thủ ác. Nỗi sợ hãi sẽ lây lan, ảnh hưởng và làm suy yếu guồng máy. Khi gió bắt đầu xoay chiều, chính những người phục vụ trong guồng máy sẽ xé rào và chạy về phía nhân dân – đó là trường hợp của một số đại sứ, bộ trưởng của chế độ Gaddafi trong thời điểm quyết định của cuộc cách mạng tại Lybia.

Đánh vào những tên cai ngục, nhà tù sẽ đổ.

25.04.2017

Vũ Đông Hà

danlambaovn.blogspot.com

Mẹ chết 107 ngày vẫn sinh được con.

Một người mẹ dũng cảm đến từ Bồ Đào Nha quyết định giữ lại đứa trẻ trong bụng dù biết gặp nguy hiểm. Khi cô qua đời 107 ngày, đứa trẻ được sinh ra ở trạng thái khỏe mạnh.

 Sandra Pedro – một phụ nữ đã sống với con trai mình ở Bragadas (Bồ Đào Nha) trong 8 năm. Khi nhận ra đang mang thai lần 2, Sandra đã đến bác sĩ để nhận lời khuyên. Tại đây, các bác sĩ đã cảnh báo cô về nguy cơ rất lớn phải đối mặt trong thời kỳ mang thai. Sandra trước đây đã từng chiến đấu với bệnh viêm phổi, bị các vấn đề về tim thậm chí là hôn mê sâu. Cô cũng từng trải qua phẫu thuật thận. Tuy vậy, tình yêu thương con và khát khao trở thành mẹ lần nữa, người phụ nữ 37 tuổi quyết định chấp nhận rủi ro và giữ lại đứa trẻ.

Image result for sandra pedro - 107 days


Dù biết trước gặp nguy hiểm nhưng Sandra Pedro quyết định không phá thai mà giữ lại đứa trẻ trong bụng mình.

Vào tháng 2/2016, một cơn chảy máu não đã khiến Sandra trên bờ vực cái chết ở trong phòng chăm sóc đặc biệt Vào thời điểm đó Sandra đã biết giới tính con mình là nam nhưng không thể tiếp tục xem bụng mình phát triển như thế nào. Ngày 20/2, Sandra qua đời. Nhưng cái chết này mở ra những điều chưa bao giờ xảy đến ở Bồ Đào Nha và có lẽ là rất hiếm trên thế giới. Khi người phụ nữ 37 tuổi qua đời, các bác sĩ đã siêu âm và phát hiện dấu hiệu sự sống của đứa bé trong bụng cô là rất tốt. Trái tim của đứa bé mạnh mẽ và đập bình thường.

Người mẹ đã qua đời nhưng dấu hiệu sự sống của đứa bé trong bụng cô là rất tốt.
Người mẹ đã qua đời nhưng dấu hiệu sự sống của đứa bé trong bụng cô là rất tốt.

Quá ngạc nhiên trước hiện tượng này, các bác sĩ đã gửi kết quả xét nghiệm tới Ủy ban đạo đức Bệnh viện St. Joseph ở Lisbon. Ủy ban này cùng với gia đình Sandra và gia đình Michael Angelo Faria (cha của đứa trẻ) đồng ý tiếp tục để cô mang thai nhằm đảm bảo khả năng sống sót của thai nhi.

Đứa trẻ được đặt tên là Lourenço Salvado.
Đứa trẻ được đặt tên là Lourenço Salvado.

Cơ thể Sandra từ đó được hoạt động bằng máy móc. Đó là khoảng thời gian đáng buồn cho mọi người trong gia đình cô nhưng họ phải mạnh mẽ. Mặc dù Sandra không còn chức năng não và được tuyên bố lâm sàng là đã chết nhưng vẫn còn sự sống phát triển trong cô. Sandra trở thành một vườn ươm sống. Một đội ngũ hơn 80 người đã làm việc ngày đêm để giữ cho cơ thể mẹ hoạt động và duy trì tuần hoàn tử cung.

Em bé trong bụng Sandra được sinh ra ở tuần thứ 32 thai kỳ.
Em bé trong bụng Sandra được sinh ra ở tuần thứ 32 thai kỳ.

107 ngày sau đó, phép màu đã xảy ra: em bé trong bụng Sandra được sinh ra ở tuần thứ 32 thai kỳ. Đây là tình huống mà không bác sĩ nào tại đó từng gặp phải và rất nhiều người dã khóc. Sau đó, các máy móc được tắt đi, cơ thể mẹ được giao cho gia đình còn em bé thì có sức khỏe hoàn hảo.

Điều thần kỳ xảy ra khi 107 ngày sau cái chết, Sandra vẫn sinh được con.
Điều thần kỳ xảy ra khi 107 ngày sau cái chết, Sandra vẫn sinh được con.

Sandra là một người mẹ can đảm, từ cái chết của cô, một cuộc sống mới được sinh ra. Lourenço Salvado chính là tên được mọi người đặt cho em bé mà Sandra sinh ra 107 ngày sau khi chết.

nói ” Thượng tôn pháp luật” là xúc phạm ĐCS.

From facebook: Trần Bang shared Manh Dang‘s post.
Ngay lời nói đầu của Hiến pháp 2013 có đoạn: “Thể chế hoá cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, kế thừa Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1990… “. Tất cả các Hiến pháp đã nêu do ĐCSVN biên soạn và Hiến pháp 2013 không công nhận Tam quyền phân lập, nên không có Tư pháp độc lập, không có độc lập thì làm gì có Quyền lực của Tư pháp?

Có thẩm phán, kiểm sát viên nào không phải là đảng viên đảng cộng sản VN?

Đảng CS nắm cả ba quyền, gọi là “đảng thống nhất lãnh đạo”.

Ông Chung là 1/200 ủy viên BCH trung ương đảng, cơ quan lãnh đạo cao nhất của ĐCSVN giữa hai kỳ Đại hội đảng.

Ông Chung được BCH phân công là Chủ tịch TPHN, và vụ này ông được phân công giải quyết, thương lượng với Dân Đồng Tâm. Nên Toà án, VKS, Công an điều tra HN thực tế đều là cấp dưới (về mặt đảng) của ông Chung, nên họ đều phải chấp hành ông Chung.

Điều 4, Hiến pháp 2013: ” ĐCSVN là lực lượng lãnh đạo nhà nước và XH”.

Đảng cộng sản đẻ ra pháp luật, luôn đứng trên pháp luật. Pháp luật chỉ là công cụ của đảng, nên nói ” Thượng tôn pháp luật” là xúc phạm ĐCS.

Tết đến vẫn có khẩu hiệu ” Mừng đảng mừng xuân”,

Không có ” Mừng nhà nước, mừng nhân dân VN” đâu?

Nên nói “Đồng Tâm Vô Pháp” không sai, nhưng chưa đủ!

Vì VN vô pháp từ khi đảng cướp chính quyền năm 1945!