Thủ tướng Mark Rutte ( Hà Lan ) hàng ngày đạp xe đạp đi làm

From facebook:  Linh Võ and Hoà Lưu Văn shared Trần Khải‘s post.
Image may contain: 1 person, sitting, tree and outdoor
Trần Khải

 

Thủ tướng Mark Rutte ( Hà Lan ) hàng ngày đạp xe đạp đi làm, kể cả lúc tới gặp Obama .
– Không thèm đi xe hơi của công
– Không cần cảnh vệ đi kèm
– Không cần cảnh sát dẫn đường

* Điều đó cho thấy :
– Đất nước họ ” giàu mà bình yên “
– Thủ tướng nước họ rất có ý thức tiết kiệm tiền ngân sách và gương mẫu giữ gìn môi trường trong sạch
– Nhìn Thủ tướng rất gần gũi thân thiện .

Kết luận : Hình ảnh Thủ tướng Mark Rutte ( Hà Lan ) như vậy thì dân Hà Lan ai dám bôi nhọ ? Ai dám ám sát

Khâu đít chuột

Khâu đít chuột

Từ Thức 

– Tôi nhớ suốt đời một buổi ngồi coi TV với một gia đình người Pháp. Một phóng sự về ẩm thực VN. Một ông đầu bếp cầm dao, rạch bụng con rắn quằn quại, lấy máu, uống và mời khách.
Ông ta cười cợt, hãnh diện như vừa thực hiện một kỳ công, trước con mắt hãi hùng của người làm phóng sự. Ông chủ nhà người Pháp nhăn mặt, bà chủ nhà che mắt không dám nhìn. Nếu nền nhà không bằng xi măng, tôi đã đào một cái hố chui xuống cho đỡ xấu hổ. Lại thêm một cơ hội muốn chối không phải là người Việt. 

Những cảnh bạo lực trong xã hội VN càng ngày càng nhiều trên Internet, trên Facebook. Những cảnh ẩu đả tàn nhẫn, trẻ em bị đối xử dã man, bị bắt nhịn ăn, phơi nắng, học sinh kéo bầy đánh đập một cách hung bạo một em nhỏ yếu ớt hơn, công an tàn nhẫn với dân thấp cổ bé miệng, người ta chửi nhau thậm tệ, thượng cẳng tay, hạ cẳng chân, sau một tai nạn lưu thông hay một chuyện bất đồng. 

Ở các nước Tây phương, thỉnh thoảng người ta đưa những vidéo về cảnh súc vật bị đối xử dã man trong các nhà hoả lò. Những vidéo này chiếu trên TV, gây phẫn nộ, hoả lò bị đóng cửa, ban giám đốc bị cách chức. 

Ở VN, người ta đưa những hình ảnh tàn bạo, dã man, không phải chỉ giữa người với vật, mà giữa người với người. Và đưa lên Internet, ít khi để tố cáo, nhiều khi để khoe khoang một hành động vẻ vang, anh dũng. Cảnh một tên lỗ mãng, cầm gậy đập đầu con chó dẫy đành đạch, cắt tiết, uống máu trước máy quay phim. Cảnh một đàn xúm lại đạp vào đầu, vào mặt một cô bé, một chú bé gầy yếu. Cảnh ông chủ nắm tay đấm mặt một cô bé sưng vù, trước sự hỗ trợ, tán thưởng của gia đình, vì cô bé ăn trộm tiền, đưa lên facebook, với dòng chữ: “hãy nhớ mặt con chó này”. Và thiên hạ chuyển đi, thú vị như chuyển một bài thơ, một tác phẩm nghệ thuật.

Ở những xứ có văn hóa, luật pháp cấm đưa hình, đưa tên những vị thành niên trên báo, dù tội nặng tới đâu. Để đương sự có cơ hội làm lại cuộc đời. Ở VN, người ta đưa hình những cô gái, nhiều khi vị thành niên, bị bắt về tội mại dâm lên báo, lên mạng, với những lời bình phẩm độc ác, thô bỉ, khiến gia đình nhục nhã và nạn nhân phải tự vẫn. Những cô gái bán mình để nuôi thân, nuôi gia đình ở cái tuổi, tại một xứ khác, chắc chắn còn cắp sách đi học, đi coi hát, đi du lịch, chạy nhẩy, cười đùa với bạn bè. 

Những người đã rời quê hương từ nhiều năm không tưởng tượng đất nước mình sa đọa đến như vậy. Người Việt có nhiều khuyết điểm, nhưng người ta vẫn nghĩ người Việt bản chất hiền lành, từ tâm, chất phác. Ngay cả cái tính tốt cuối cùng ấy cũng đã mất? Người ta nói đến một xã hội vô cảm. Ghê rợn hơn cả một xã hội vô cảm, đó là một xã hội bất nhân. 

Bất cứ một người bình thường nào, ở một xứ bình thường nào, cũng không có can đảm nhìn những video man rợ trên Internet, facebooks VN, nhưng người Việt ta coi, dửng dưng, thích thú, đồng lõa. Đối xử với nhau như vậy, trách gì người Tầu đối xử tàn bạo với anh em mình?

Lần đầu tôi có cái cảm tưởng ngỡ ngàng khi tiếp xúc với một nhóm học sinh du học. Một nhóm nữ sinh viên khả ái, thông minh, có kiến thức, có kiến thức hơn là tôi nghĩ, với cái thành kiến của những người đứng từ xa nhìn về. Tôi hỏi: các cô nghĩ VN sẽ có thay đổi gì không. Một cô bé, rất dễ thương, rất lễ độ, trả lời: “thưa chú, cháu nghĩ đéo có gì thay đổi. Đâu lại vào đó”. Hai người sững sờ là tôi và một ông bạn đã xa nhà từ lâu. Những cô bạn của người phát biểu không bày tỏ một chút khó chịu. Đó là chuyện tự nhiên. Chữ “đéo” trở thành một chữ hàng ngày, rất bình thường, như chào ông, chào bà… 

Sự bạo hành bắt đầu bằng ngôn ngữ. Tôi không chê trách cô bé. Tôi rùng mình. Nếu sống trong xã hội đó, giờ này tôi cũng ăn nói như vậy. Cũng nói với khách: Dạ, cám ơn, đéo muốn ăn cơm, còn no bụng quá. Tôi nhìn cô bé, rất dễ thương, ái ngại. Chúng ta chỉ là sản phẩm của xã hội, của môi trường sống. 

Nhưng đó là chuyện nhỏ, so với cái văn hoá man rợ, người này trèo lên cổ người khác để sống. Hay chỉ để chứng minh mình hiện diện. Đạp mặt người khác chứng tỏ tôi hiện diện. Je cogne donc je suis (1). Tại sao có thể mất nhân tính đến như vậy? Bởi vì sống trong một xã hội độc tài, suốt đời bị chèn ép, bị áp bức, bị đối xử như con vật, người ta không có cách gì giải tỏa hơn là quay lại hành hạ những người yếu hơn mình. Lại càng kính nể hơn nữa những người sống trong xã hội chụp dựt đó nhưng vẫn giữ cái thiện, giữ lòng nhân ái.

Tất cả những nghiên cứu xã hội đứng đắn đều đi tới kết luận: những người có hành vi bạo hành thường thường đã là nạn nhân của bạo hành. Là nạn nhân, người ta có một trong hai thái độ. Hoặc đứng về phe kẻ yếu, tranh đấu chống bất công, nhưng rất hiếm. Hiếm, bởi vì phải có nghị lực và lòng bao dung phi thường. Hoặc để trả thù đời, trút lên đầu những người yếu hơn mình những cái mình đã phải chịu đựng. 

Đó là cái vòng di truyền luẩn quẩn, bệnh hoạn (cercle vicieux) trong một gia đình. Trên tầm vóc quốc gia, một đại họa. Mỗi người theo hay chống chủ nghĩa CS vì những lý do khác nhau. Tôi từ chối chủ nghĩa CS trước hết vì lý do đó: nó làm tiêu tan cái đẹp của một xã hội tử tế. Nó đưa chúng ta lại gần với thú vật. Ở một xã hội văn minh, người ta kính trọng, lễ độ với mọi người, kể cả, nhất là, những người yếu hơn mình.

Trên Internet, người ta dạy cách trừ chuột hữu hiệu nhất, không cần thuốc độc, không cần bẫy. Mổ đít con chuột, cắt tinh hoàn của con vật, thay vào đó hai hạt đỗ tương, rồi khâu lại. Dần dần hạt đậu chương lên, con chuột đau quá, phát khùng, cắn đồng loại như điên dại. Đám chuột sợ quá, bỏ chạy, nhà hết chuột. Trước đây có một truyện ngắn, rất hay, tựa là “Khâu đít chuột”, quên tên tác giả, nói bóng nói gió về một xã hội như vậy.

Người Việt ta là những con chuột bị thiến, bị khâu, nổi khùng, cắn nhau chí choé. Viết mấy giòng này, tôi nghĩ cả tới những người quá khích, chống bạo lực thì ít, chống nhau, hại nhau, chụp mũ nhau thì nhiều. 

Chúng ta đều là những con chuột điên cuồng. Bao giờ mới ý thức được mình bị khâu, những người chung quanh cũng chỉ là nạn nhân bị khâu như mình. Và nhận diện những người khâu đít chuột, thực sự là những kẻ làm khổ mình, biến đời mình, đất nước mình thành địa ngục?

Paris, 05 /2017

Từ Thức

( 1 ) Je cogne donc je suis. Tôi đánh đập vậy tôi hiện hữu. Nhại câu nổi tiếng của Descartes, ‘’Je pense donc je suis ‘’, tôi suy nghĩ, vậy tôi hiện hữu.

Bờ cát trắng mây xanh vờn gió nhẹ

From facebook:   Thuc Tran Uyển Thi (Danlambao)

Bờ cát trắng mây xanh vờn gió nhẹ
Biển hiền hòa ôm dáng mẹ miền trung
Sớm tinh sương thau giỏ đợi thuyền chồng
Chở tôm cá bắt nơi lòng biển cả

Tôi phụ mẹ gỡ lưới giăng tôm cá
Ra chợ làng để mặc thỏa bán mua
Bữa cơm quê vất vả mái tranh lùa
Nhưng vẫn sống hồn nhiên đùa cùng biển

Cơn ác mộng bỗng từ đâu ập đến
Bờ cát dài cá chết trắng nổi trôi
Hà Tĩnh ơi biển đã chết thật rồi
Ngày mai biết lấy gì nuôi cuộc sống

Biển là bạn bỗng thét gào cơn sóng
Những kẻ nào đã giết biển quê ta
Báo đảng đưa tin tại phọt mo sà
Đã xả thải giết cá tôm và hủy diệt

Nhớ thủa trước biển một mầu xanh biếc
Thì ngày nay nước đỏ thiệt lạnh lùng
Cá tôm còn chẳng sống được nữa là dân
Biển đã chết và dân mình sẽ chết

Biển đã chết và dân mình sẽ chết
Phải đứng lên phải cứu biển anh ơi
Bởi nếu không sẽ đói rách tả tơi
Dân bán đất di cư nơi xứ khác

Đến lúc đó bọn giặc Tàu hiểm ác
Sẽ nhảy vô mua đất để lập làng
Chúng dựng xây phố phường thật khang trang
Người Hà Tĩnh sẽ không còn đất ở

Uyển Thi
danlambaovn.blogspot.com

NHẮN GỬI BẠN GIÀ

   NHẮN GỬI BẠN GIÀ   

 

Hỡi các bạn già của tôi ơi!

Đừng có tủi thân, hoặc trách đời

Thời gian, năm, tháng, qua nhanh lắm

Hãy sống từng giây phút tuyệt vời.

 

Bao năm lăn lóc, cũng đủ rồi

Bôn ba thời vận, sống nổi trôi

Nhục vinh, sướng khổ, đều có cả

Giờ chỉ mình ta, với đất trời.

 

Cuộc đời là thế đó bạn ơi

Có trách, có than, cũng đã rồi

Chỉ gây mâu thuẫn, thêm buồn khổ

Chẳng ích lợi chi, lúc cuối đời.
 Buông bỏ hết đi, cất làm gì

Để hồn thư thả, lúc ra đi

Tiền bạc, lo âu, giờ vô nghĩa

Hận thù, xung đột, chẳng ích chi.

                  

Thời gian còn lại, có là bao

Hãy cố vui lên, chớ u sầu

Thực hiện những gì mình mơ ước

Để đừng hối tiếc, lúc lìa nhau.

  

Sức khoẻ, là niềm vui lúc tuổi già

Là liều thuốc bổ, chẳng gì qua

Tình thương, tha thứ là sức mạnh

Hạnh phúc, bình an, đến mọi nhà! 

( tác giả )????

CÓ NHỮNG ĐIỀU CẦN SUY NGẪM,…

CÓ NHỮNG ĐIỀU CẦN SUY NGẪM,…

Tôi đã nhiều lần trải nghiệm thực tế trong đời sống của mình, khi suy ngẫm và nhìn về những diễn biến trước mắt qua những hoàn cảnh và trường hợp khác nhau để tôi và chúng ta cùng suy ngẫm thật sâu sắc.

Có nhiều người thích sống đời sống hưởng thụ cho bản thân và họ xem thường việc giúp đỡ người khác cho đến vô tâm đến những cảnh khó khổ của ười thân trong gia đình thì chẳng được mấy ai muốn quan tâm hay để ý đến.

Nên hãy suy ngẫm:

KHI bạn mạnh khỏe, THÌ hãy nghĩ đến khi bạn ốm đau. Phải cần có người chăm sóc.

KHI bạn thành công, THÌ hãy nghĩ đến khi mình thất bại. Phải cần có người sẻ chia và giúp đỡ.

KHI bạn vinh quang, THÌ hãy nghĩ đến khi mình vấp ngã. Phải cần có người đỡ mình lên để đi tiếp.

KHI bạn có đầy đủ người thân, THÌ hãy nghĩ đến khi mình chẳng còn ai bên cạnh. Phải cần có người để an ủi và động viên.

KHI bạn còn sống, THÌ hãy nghĩ đến khi mình mất đi. Phải cần có người đưa bước về nơi an nghĩ cuối cùng.

Có một kinh nghiệm mà tôi thường lưu tâm. Khi đi đến những đám tang, hay bắt gặp đám tang đi ngang qua, tôi thường quan sát chung quanh. Để phần nào đoán được khi sinh tiền người này đã sống ra sao, giữa sự so sánh một bên thì hiu quạnh không người đưa tiễn, một bên thì đầy ấm người thương tiếc đi sau.

Đó gọi là tinh thần Nhân quả một cách rất vi tế trong đạo Phật. Nếu chúng ta để tâm và quan sát. Và hãy sống theo tinh thần “làm gì được cho đời thì cứ làm”.

Vì BIẾT ĐÂU,…ngày mai ta sẽ ra sao.

Thì hôm nay hãy trân quý cuộc sống và yêu thương nhiều hơn khi có thể.

Giác Minh Luật

Lucie 1937 gởi

Những Đoá Hoa Hồng Của Ngành Lập Pháp

Những Đoá Hoa Hồng Của Ngành Lập Pháp

 
Đến cục cứt cũng là cứt rởm – Trần Ái Dân
S.T.T.D Tưởng Năng Tiến (Danlambao) – Tui sợ học, và lười đọc nên rất ngại chuyện sách đèn. Má tui hay ghẹo:
 

 

U ơi học để làm chi?

 

Hễ sờ đến sách là y như buồn!

 

 
Thưở thơ ấu thì buồn ngủ, đến già thì buồn phiền và (lắm khi) phiền muốn chết luôn. Tuần rồi, rượu hết, xe hư, bấm điện thoại rủ rê bạn bè tới đón (ra quán uống sương sương vài ly chơi) nhưng ai cũng từ chối thẳng thừng: “Bận quá, sorry, để bữa khác đi.”
 

 

Đa bệnh cố nhân sơ!

 

 
Loay hoay không biết làm chi cho hết ngày nên tôi đành lôi cuốn hồi ký của luật sư Nguyễn Mạnh Tường (xuất bản đã lâu) ra coi qua vài đoạn, rồi ngồi thừ ra cả buổi:
 

 

“Thảm cảnh đầu tiên mà tôi và gia đình phải chịu: đó là cái đói…

 

 
Vợ tôi đã nghĩ đến chuyện bán thuốc lá bên lề đường để kiếm sống, nhưng làm sao có được mớ vốn ban đầu và có chút tiền để bôi trơn móng vuốt làm khó của những tên công an hay cán bộ thuế, để chúng để yên cho chúng tôi khó khăn kiếm sống?” (Un Excommunié – Hanoi 1954-1991: Procès d’un intellectual – Kẻ Bị Mất Phép Thông Công, Hà Nội 1954-1991: Bản Án Cho Một Trí Thức, bản dịch Nguyễn Quốc Vĩ).
 
Ủa! Sao phu nhân của một vị luật sư mà phải “nghĩ đến chuyện bán thuốc lá bên lề đường để kiếm sống,” kỳ cục vậy cà? Lại phải loay hoay lục tìm, và xem thêm mấy đoạn nữa – từ một cuốn sách khác – mới tìm được nguyên do:
 

 

“Ngày 17-11-1950, Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 158-SL, quyết định việc bổ sung cán bộ công nông vào ngạch thẩm phán và thăng bổ các thẩm phán toà án nhân dân huyện lên toà án nhân dân tỉnh…Từ đây, theo ông Vũ Đình Hòe: ‘các thẩm phán huyện, đa số là đảng viên cộng sản, chỉ qua lớp chính trị và nghiệp vụ’. Quan điểm lựa chọn thẩm phán chủ yếu ‘đứng trên lập trường nhân dân’ của Hồ Chí Minh đã ảnh hưởng lâu dài đến nền tư pháp Việt Nam.” (Huy Đức. Bên Thắng Cuộc, tập II. OsinBook, USA: 2012).

 

 
Sợ là ông bạn Huy Đức diễu chơi (và diễu dở) chớ ai dè là bác Hồ làm thiệt. Thật cứ như đùa: CỦA CHỦ TỊCH NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ SỐ 158/SL NGÀY 17 THÁNG 11 NĂM 1950
 
Theo quyết nghị của Hội đồng Chính phủ, sau khi Ban thường trực Quốc hội thoả thuận;
 
RA SẮC LỆNH:
 
Điều 1: Những cán bộ công nông có thành tích kinh nghiệm có thể được bổ vào một ngạch thẩm phán thích đáng theo đề nghị của một Hội đồng tuyển trách.
 
Điều 2: Các thẩm phán toà án nhân dân huyện nếu có năng lực và tinh thần phục vụ có thể được thăng bổ lên ngạch thẩm phán toà án nhân dân tỉnh, theo đề nghị của Hội đồng tuyển trách…
 
Hồ Chí Minh (Đã ký)
 
Luật sư Nguyễn Mạnh Tường, rõ ràng, đã hành nghề không đúng lúc và không đúng chỗ (wrong time and wrong place). Giữa lòng một xứ sở cách mạng mà vị Chủ Tịch Nước đang quyết tâm “công nông hoá tư pháp” thì một ông tiến sĩ luật khoa (tốt nghiệp ở tận trời Tây) bị … rút phép thông công là phải!
 
Chỉ có điều không phải (lắm) là qúi ông/qúi bà cán của Đảng và Nhà Nước đã biến pháp đình thành một sân khấu, chỉ dành riêng cho đám phường chèo cách mạng. Nhạc sĩ Tô Hải – người có mặt trong phiên toà xử Phan Thắng Toán và những người đồng vụ, hồi năm 1971 – đã ghi lại (vài câu đối thoại) như sau:
 
Chánh án: – Anh có nhận là đã đánh nhạc của tư sản, là đồi truỵ không?
 
Toán xồm: – Dạ! Thưa quý toà, con chỉ đánh những gì in trên đĩa của Liên Xô, của Tiệp Khắc, của Cộng Hoà Dân Chủ Đức thôi ạ!
 
Chánh án: – Anh nói láo! Thế Paloma, Santa Lucia là của ai?
 
Toán Xồm: – Dạ! Paloma là của nước bạn Cu Ba ạ! Còn Santa Lucia là dân ca Ý ạ! Nhà xuất Bản của nhà nước đã in và sân khấu nhà nước đã có nhiều ca sỹ biểu diễn ạ!
 
Chánh án: – Vậy anh có biết cha cha cha là cái gì không?
 
Toán Xồm: – Dạ! Có ạ!! Đây là một nhịp điệu xuất xứ cũng tại nước bạn Cu Ba ạ!
 
Chánh án: – Thế còn Tango bleu chắc anh cũng đổ cho Cu Ba hết hả?
 
Toán xồm: – Dạ không! Tango là một điệu nhảy Ác-giăng-tin nhưng đã được quốc tế hoá. Vừa giờ Đoàn xiếc Tiệp Khắc sang ta và các nước XHCN đều xử dụng cả ạ!
 
Chánh án: – Nhưng người ta đánh khác, còn anh đánh khác. Đừng có ngụy biện!
 
Toán Xồm: – Dạ! Đánh y hệt ạ! Chỉ có thua họ về nhạc cụ họ tốt hơn… chứ nếu chúng con có đầy đủ nhạc cụ như họ thì chúng con chẳng thua gì họ cả ạ!
 
Chánh án: – Anh hãy im miệng! Đồ ngoan cố!
 
Và cứ như vậy, suốt phiên tòa Chánh án chỉ sử dụng câu “Im miệng! Đồ ngoan cố” để cắt lời người bị buộc tội. Không hề có ai bào chữa. 
 
Cuối cùng, toà luận án và tuyên án:
 
Việc làm của bọn này đã gây ảnh hưởng xấu cho phong trào trật tư trị an, phá hoại việc thực hiện một số chính sách của Nhà nước, nhất là chính sác lao động sản xuất, chính sách nghĩa vụ quân sự… xâm phạm nghiêm trọng đến hạnh phúc, phẩm giá của phụ nữ, đến đạo đức và đời sống của nhiều người, và tuyên truyền xuyên tạc lại chế độ xã hội chủ nghĩa trong lúc cả nước đang chiến đấu chống Mỹ xâm lược.
 
Do tính chất nghiêm trọng của vụ án nói trên, toà quyết định xử phạt Phan Thắng Toán 15 năm tù giam và sau đó 5 năm bị tước quyền công dân; Nguyễn Văn Đắc, 12 năm tù giam và sau đó 5 năm bị tước quyền công dân; Nguyễn Văn Lộc 10 năm tù giam và 4 năm bị tước quyền công dân…” (“Phan Thắng Toán và Đồng Bọn Đã Bị Xét Xử” – báo Hà Nội Mới, 12 – 01 – 1971)
 
Sau đó, sau khi “đảng hoá” tư pháp, bước kế tiếp của Nhà Nước Pháp Quyền Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam là công nông hoá luôn ngành lập pháp:
 
“Có đại biểu Quốc hội là thợ rèn, thợ tiện. Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh còn có đại biểu là một nữ công nhân quét rác. Ông Hồ Giáo, một người chăn bò nổi tiếng, được đưa vào ngồi trong Quốc hội tới ba khoá liền (IV, V, VI). Ông Giáo thừa nhận, vốn ít học và những năm ấy vẫn độc thân, nên ông dồn tất cả tình cảm, tâm trí và sức lực cho những con bò mà ông yêu quý. Những lần đi dự họp Quốc hội, theo ông Hồ Giáo, ông phải rất gắng gượng, mỗi khi Quốc hội cần ông lên diễn đàn phát biểu để chụp hình, có người sẽ viết sẵn cho ông bài phát biểu.” (H. Đức, sđd, tr. 229).
 
Lại sợ tác giả Huy Đức đùa (dai) nên gu gồ chút xíu, cho nó chắc ăn, và quả nhiên là có hình ảnh và tiểu sử của vị đại biểu là nữ công nhân quét rác (thật) chứ không phải bỡn:
 
 
Lê Thị Thêu (sinh năm 1937) là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa VI (1976-1981), là Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất.
 
Không hiểu trong thời gian (1976-1981) có bao giờ bà Thêu đăng đàn phát biểu gì không, và nếu có thì bà ấy ăn nói ra sao nhưng cách ăn mặc thì rõ ràng là bình dị quá. Chỉ chiếc áo bà ba lấm tấm điểm hoa, chớ không thấy lụa là, gấm vóc gì ráo trọi.
 
Qúi vị nữ đại biểu quốc hội hiện nay thì ăn mặc xem bắt mắt hơn nhiều nhưng ăn nói thì nghe hơi chối tai chết mẹ:
 
– ĐBQH Nguyễn Thị Quyết Tâm: “Con lãnh đạo làm lãnh đạo là hạnh phúc của dân tộc.”
 
– ĐBQH Nguyễn Thị Thủy: “Xâm phạm an ninh quốc gia là tội bất trung, đại nghịch.”
 
– ĐBQH Nguyễn Thị Xuân: “Đề nghị xử hình sự hành vi bôi nhọ lãnh đạo đảng, nhà nước.”
 
– PCTQH Tòng Thị Phóng: “Không được lợi dụng tôn giáo để chống phá nhà nước.”
 
– CTQH Nguyễn Thị Kim Ngân: “Luật sư biết thân chủ phạm tội rất nghiêm trọng mà làm ngơ là không được.”
 
 
Blogger Song Chi kết luận rằng: “Chỉ qua một vài ví dụ như vậy để thấy Quốc hội là một cơ quan ‘bù nhìn’ ra sao và bà Chủ tịch Quốc hội có tầm nhìn, lối suy nghĩ cho tới trình độ, sự hiểu biết ở mức nào.” 
 
Tôi sợ rằng đây là một kết luận hơi khắt khe, và cách diễn đạt cũng có phần khe khắt. Thay vì gọi họ là những con bù nhìn, chúng ta nên dùng loại từ ngữ nhẹ nhàng hơn: “những đoá hoa hồng để trang điểm cho chế độ hiện hành,” chả hạn. Với ngành lập pháp công nông của nước nhà mà có những vị nữ dân biểu biết ăn mặc, trang điểm (mầu mè) và thỉnh thoảng cũng đăng đàn phát biểu – linh tinh, đôi câu – như thế là đã qúi hóa lắm rồi. Đặt vấn đề “tầm nhìn, trình độ…” nữa thì e là xa xỉ quá!
 

Tâm tĩnh lặng…Những câu nói giúp bạn sống an nhiên hơn

Tâm tĩnh lặng…Những câu nói giúp bạn sống an nhiên hơn

Cuộc sống này quá ngắn để yêu thương. Hãy sống cho thật an nhiên bạn nhé, để những bão giông của cuộc đời không thể nào chạm đến được tâm hồn của bạn. Hãy  điểm qua những câu nói cho phút giây tĩnh lặng…

Cuộc sống này luôn chuyển động từng giây, từng phút, chưa lúc nào và cũng sẽ không bao giờ ngừng lại. Và mỗi con người đều bị cuốn xoáy vào dòng chảy đầy cạm bẫy, chông gai, khó khăn và thử thách này. Có lúc bạn tưởng mình gục ngã, có lúc bạn thấy mình mệt mỏi, muốn buông xuôi tất cả nhưng lại không thể nào buông. Hãy nghỉ ngơi, hãy để tâm hồn mình được tĩnh lặng, lắng đọng mà suy ngẫm về cuộc đời, bạn sẽ thấy lòng nhẹ nhõm và thanh thản hơn nhiều.

Cuộc sống này quá ngắn để yêu thương. Nên hãy luôn yêu thương nhau khi còn có thể.

Khi bạn thức dậy vào buổi sáng, hãy nghĩ rằng mình còn sống là một đặc ân lớn lao được hít thở, được suy nghĩ, được tận hưởng và được yêu thương.

Nếu đã là con đường của bạn, bạn phải tự bước đi. Người khác có thể đi cùng, nhưng không ai có thể bước hộ bạn.

Trong cuộc đời này, có một số chuyện nhất nhất phải tự mình giải quyết. Dù đêm tối đến đâu, đường xa đến mấy thì vẫn cứ phải một mình kiên cường tiến lên phía trước.

Bạn không thể nào thẳng tiến bước trên đường đời cho đến khi bạn biết cho qua và học hỏi từ những thất bại, sai lầm và đau buồn trong quá khứ.

Tình yêu bắt đầu bằng nụ cười, đơm hoa kết trái bằng nụ hôn và kết thúc bằng những giọt nước mắt…

Dù đó là giọt lệ buồn hay vui thì tình yêu ấy đã cho bạn những kỷ niệm thật ấn tượng và sâu sắc, là dấu ấn của tâm hồn và đánh dấu bước trưởng thành của bạn.

Hãy ngước lên cao để thấy mình còn thấp và hãy nhìn xuống thấp để thấy mình chưa cao.

Sao phải lo lắng về những thứ bạn không thể thay đổi? Hãy buông bỏ và tiếp tục tiến lên vì cuộc sống không chờ đợi ai.

Tầm nhìn của bạn sẽ trở nên rõ ràng chỉ khi bạn biết nhìn vào trái tim bạn.

Ai nhìn ra ngoài, Mơ.

Ai nhìn vào trong, Thức Tỉnh.
Cuộc sống rất ngắn. Đừng lãng phí nó bởi nỗi buồn. Hãy là chính mình, luôn vui vẻ, tự do, và trở thành bất cứ gì bạn muốn.

Đừng nghĩ mãi về quá khứ. Nó chỉ mang tới những giọt nước mắt.

Đừng nghĩ nhiều về tương lai. Nó chỉ mang lại lo sợ.

SỐNG Ở HIỆN TẠI VỚI NỤ CƯỜI TRÊN MÔI NHƯ TRẺ THƠ. Nó sẽ mang lại niềm vui cho bạn.
Đừng nhìn dáng vẻ bề ngoài, vì đó là lừa dối.

Đừng vì của cải vật chất, vì có thể mất đi.

Hãy tìm người nào có thể làm bạn mỉm cười, bởi vì nụ cười mới có thể làm ngày âm u trở nên tươi sáng.
Có lẽ cuộc sống muốn chúng ta chọn lầm người trước khi gặp đúng người, để rồi chúng ta mới biết cảm ơn món quà của cuộc sống.

Hãy tự đặt mình trong vị trí của người khác. Nếu trong hoàn cảnh ấy bạn cảm thấy bị tổn thương, thì người khác cũng sẽ cảm nhận như vậy.

Người hạnh phúc nhất không nhất thiết phải là người có mọi thứ tốt nhất, mà là người biết tận hưởng và chuyển những gì xảy đến với mình trong cuộc sống một cách tốt nhất.

Đừng sợ khi bị chỉ trích,

Nếu nó không đúng sự thật, bỏ qua nó.

Nếu nó không công bằng, tránh bị tổn thương vì nó.

Nếu nó khờ khạo, mỉm cười với nó.

Còn nếu nó đúng, học từ nó…

Học cách sống tức là học cách tự do, và tự do tức là chấp nhận việc gì phải đến sẽ đến.

Anh chị Thụ & Mai gởi

33 NĂM SAU

33 NĂM SAU

Với tựa đề “33 năm sau”, đó là một câu chuyện thuật lại như sau: “Những gì đã xảy ra cho đứa bé năm nào?”  Một trong ba vua đã đi triều bái vua Do Thái mới sinh tự hỏi.  Suốt cuộc đời mình, nhà vua không thể nào quên được cuộc hành trình cách đây khoảng 33 năm, một cuộc hành trình dõi theo ánh sáng sao lạ dẫn ông đến hang đá Bêlem.

Câu hỏi: “Liệu đứa bé ấy có trị vì dân Israel được không?”  Làm cho nhà vua bồn chồn đứng ngồi không yên.  Rồi chẳng dừng được, một lần nữa nhà Vua quyết định lên đường đi đến Palestine.  Tại Giêrusalem, những bậc bô lão còn nhớ đến những vì sao lạ, nhưng không ai biết gì đến đứa bé được sinh ra dưới điềm lạ ấy.  Còn tại Bêlem mọi người được hỏi đều lắc đầu, ngoại trừ một cụ già cho nhà Vua biết: Làm gì có ông Giêsu Bêlem, chỉ có ông Giêsu Nagiarét, một người nói phạm thượng tự xưng mình là Con Thiên Chúa, nên cách đây mấy tuần đã bị xử “tử hình thập giá”.

Thất vọng ê trề, nhà Vua thẫn thờ nhập vào đoàn những người hành hương trở lại Giêrusalem, vào đúng ngày Lễ Ngũ Tuần.  Chen lấn vào đoàn lũ đang mừng lễ Tạ Ơn Sau Mùa Gặt, nhà Vua chú ý đến một đám đông đang bu quanh một nhóm người.  Tò mò ông lấn qua đám đông để đến gần và nghe có kẻ nói: “Tưởng gì chứ lại gặp mấy tên say rượu nói tầm xàm.”

Nhưng tai nhà Vua lại nghe một người trong nhóm nói tiếng nước mình và rõ ràng ông ta nói về ông Giêsu Nagiarét, người đã bị đóng đinh, nhưng đã được Thiên Chúa cho sống lại từ cõi chết.  Như bị một sức mạnh vô hình thúc đẩy, nhà Vua chen vào đám đông cất tiếng hỏi: “Vậy bây giờ ông Giêsu đó ở đâu?”  Ðại diện nhóm người đứng ở giữa đám đông là Simon Phêrô trả lời: “Ngài đang ở giữa chúng tôi.  Ngài đang ở trong chúng tôi.  Chúng tôi là môi miệng, là tai mắt, là đôi tay, là đôi chân của Ngài.”

Trong lúc Phêrô đang nói, bỗng có một luồng gió thổi mạnh và hình lưỡi lửa một lần nữa thổi tràn xuống mọi người.  Nhà Vua bỗng lại thấy ánh sao Bêlem, nhưng lần này ánh sao ấy chia ra nhiều ánh sao khác rơi xuống mọi người.  Trong tâm hồn, nhà Vua chợt hiểu: Mỗi người phải trở nên máng cỏ nơi Ðức Giêsu sinh ra và mỗi người phải mang Ngài đến cho mọi người xung quanh.

Câu chuyện trên nối liền ý nghĩa của Lễ Giáng Sinh, mừng biến cố Ngôi Lời nhập thể với Lễ Tưởng Niệm Biến Cố Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.  Ðồng thời câu chuyện cũng nêu nổi bật bổn phận của mọi người Kitô, là những kẻ phải trở nên tai mắt, trở nên môi miệng và chân tay của Ðức Kitô để mang Tin Mừng của Ngài đến cho mọi người chúng ta gặp gỡ và cộng tác hằng ngày.

Trích Lẽ Sống

Langthangchieutim gởi

Lúc nào là giai đọan đẹp nhất của cuộc đời?

   Lúc nào là giai đọan đẹp nhất của cuộc đời?
Một chàng trai sắp bước sang tuổi 34 nhưng luôn lo lắng về tương lai mình. Anh tự hỏi không biết giai đoạn đẹp nhất của cuộc đời mình đang ở phía trước hay là những năm tháng đã qua rồi. Thói quen hằng ngày của anh là đến phòng tập thể dục trước khi đến sở làm.

Một buổi sáng, anh chú ý tới một ông lão đã lớn tuổi nhưng vẫn giữ được vẻ cường tráng và lạc quan. Anh đến làm quen và hai người trò chuyện với nhau về những kinh nghiệm trong cuộc sống. Cuối cùng, chàng trai hỏi:

– Đâu là giai đoạn đẹp nhất của cuộc đời ông?

Không chút lưỡng lự, ông lão đáp:

– Khi tôi còn là một đứa bé, tôi được chăm sóc, nuôi dưỡng bởi cha mẹ. Tôi còn giữ được tâm hồn trong sáng từ tiên thiên. Đó là giai đọan đẹp nhất của cuộc đời tôi.

– Ở tuổi đến trường, tôi học được những kiến thức mới mẻ từ thầy cô, bạn bè. Đó là giai đoạn đẹp nhất của cuộc đời tôi.

– Ngày tôi nhận được việc làm đầu tiên, được gánh vác trách nhiệm và trả luơng bởi những nỗ lực của mình. Đó là giai đoạn đẹp nhất của cuộc đời tôi.

– Khi tôi gặp vợ tôi, chúng tôi đã cùng nhau xây dựng gia đình và cùng chí hướng trong cuộc sống. Đó là giai đoạn đẹp nhất của cuộc đời tôi.

– Ngày tôi thực sự trở thành một người cha, rồi nhìn những đứa con của mình lớn lên theo năm tháng. Đó là giai đoạn đẹp nhất của cuộc đời tôi.

– Và bây giờ ở tuổi 79, tôi có sức khoẻ, tôi cảm thấy hạnh phúc. Tôi đã tìm thấy ý nghĩa chân chính nhất của cuộc đời mình nhờ những cuốn sách Đại Đạo quý giá một người bạn tặng tôi. Tuy rằng tôi nhận được nó hơi muộn, nhưng Thần Thời Gian vẫn ưu ái tôi.

Tôi không lo sợ cái chết nữa và biết giờ đây tôi phải làm gì để chuẩn bị cho kiếp sống tới. Đây là giai đoạn đẹp nhất của cuộc đời tôi.

Tôi sẽ chia sẻ nó với anh, bởi vì anh đã may mắn được Thần Thời Gian ưu ái.

Ngân hàng đó như thế nào? Đó không phải là ngân hàng thông thường, mà được cai quản bởi một vị Thần, có tên Thần Thời Gian.

Mỗi sáng, Thần Thời Gian cung cấp vào tài khoản của bạn 86,400.00 USD, số dư trong tài khoản không được phép chuyển từ ngày này qua ngày khác;

Mỗi buổi khuya Thần Thời Gian sẽ hủy bỏ hết số dư còn lại mà bạn đã không dùng hết trong ngày.

Mỗi người trong chúng ta đều có một tài khoản ở ngân hàng đó. Vị Thần cai quản ngân hàng đó chính là THẦN THỜI GIAN.
Mỗi buổi sáng, Thần Thời Gian cung cấp 86,400.00 giây.
Vào mỗi buổi tối, Thần Thời Gian sẽ xóa bỏ, coi như bạn đã mất, thời gian mà bạn không đầu tư được vào các mục đích tốt. Thần Thời Gian không cho phép bạn được để lại số dư trong tài khoản. Cũng không cho phép bạn bội chi.

Mỗi ngày, Thần Thời Gian lại mở một tài khoản mới cho bạn, lại cho bạn một cơ hội mới để bắt kịp lại là bạn.

Mỗi tối Thần Thời Gian lại hủy hết những gì còn lại trong ngày.

Nếu bạn không dùng được hết thời gian mà bạn có trong ngày, người bị mất chính là bạn. 

Mỗi giai đoạn của cuộc đời đều là những giai đoạn đẹp nhất nếu chúng ta biết trân trọng từng phút giây và không để thời gian trôi qua một cách vô ích, bởi trên cõi đời này có một ngân hàng đặc biệt dành cho bạn.

Không có chuyện quay lại ngày hôm qua. Bạn phải sống bằng những gì bạn đang có trong tài khoản ngày hôm nay. Bạn hãy trân quý từng giây từng phút. Thời gian không quay trở lại.

Đồng hồ cát vẫn đang chạy những hạt cát cuối cùng.

Hãy cố thực hiện thật nhiều điều ý nghĩa trong ngày hôm nay!

From anh chi Thu & Mai

Châu Á tìm cách lập đồng minh chống Trung Quốc

From facebook:   Hoang Le Thanh with Phan Thị Hồng.
Châu Á tìm cách lập đồng minh chống Trung Quốc

trithucvn.net -Thứ hai, 05/06/2017

Một số quốc gia Châu Á đang tìm cách thiết lập khối đồng minh không chính thức để tự mình chống lại sự bành trướng của Trung Quốc, trong bối cảnh chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong khu vực này chưa rõ ràng, các nguồn tin ngoại giao nói với Reuters ngày 4/6.

Các quốc gia này bao gồm Úc, Nhật, Ấn Độ và Việt Nam. Reuters cho hay các nước này đang âm thầm xúc tiến các cuộc đàm phán và hoạt động hợp tác, đồng thời thận trọng không làm Bắc Kinh tức giận.

Vẫn chưa có tiếng nói nào về một khối đồng minh chính thức, nguồn tin ngoại giao cho hay.

Ảnh: Bộ trưởng Quốc phòng Hàn Quốc (trái), Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ (giữa) và Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản trong hội nghị an ninh Đối thoại Shangri-La 2017

Nguồn: http://trithucvn.net/…/chau-tim-cach-lap-dong-minh-chong-tr…

 

Đảng và dân, ai tớ, ai thầy?


Cờ Nước và cờ Đảng trên đường phố Hà Nội.

Cờ Nước và cờ Đảng trên đường phố Hà Nội.

Đứa con hỏi cha rằng:

– Đất nước mình đã có chính phủ rồi, vì sao lại có thêm đảng, mà đảng lại có quyền hơn chính phủ? Quốc gia đã có một người đứng đầu là Chủ tịch nước rồi, vì sao lại có thêm một ông Tổng Bí thư đảng, mà Tổng Bí thư đảng lại quyền lực hơn ông Chủ tịch nước? Một tỉnh đã có ông Chủ tịch Ủy ban Nhân Dân tỉnh rồi, vì sao trên ông Chủ tịch này có ông Bí thư Tỉnh ủy? Trong quân đội sao cấp chỉ huy không có quyền hành mà phải thống thuộc Đảng ủy, chỉ huy chỉ biết thi hành mệnh lệnh, nhận chỉ thị, kế hoạch để điều hành đơn vị thực hiện; Đảng ủy lãnh đạo về mọi mặt, người chỉ huy chỉ có nhiệm vụ thi hành?

Về quân đội, tức là các lực lượng võ trang, để nắm chắc và giữ quyền độc tôn lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác lập cơ chế Đảng lãnh đạo quân đội ngay từ những tổ chức vũ trang đầu tiên: Tự vệ đỏ (xích vệ) trong cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), các đội du kích Bắc Sơn, Nam Kỳ (1940), Cứu quốc quân (1941), Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân (1944), Du kích Ba Tơ và Việt Nam Giải Phóng Quân (1945).

Tư Lệnh không có quyền, tiến thoái, đánh hay không đánh là do đảng ủy đơn vị quyết định! Cấp Sư đoàn có đảng bộ Sư đoàn gồm 15 đến 17 người chỉ huy bởi một Chính ủy.

Như vậy, để điều hành một đất nước, thay vì tiền thuế dân nuôi một công chức, nay lại phải nuôi thêm một quan chức nữa, nghĩa là cơ chế nặng gấp đôi và tốn phí cũng tăng gấp đôi. Dân nuôi đảng để đảng chỉ huy dân.

Người cha trả lời theo Hồ Chí Minh trong sách vở rằng: “Đảng ta là đảng cầm quyền, đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.” (Đầy tớ thì ở nhà lầu- cha con ông chủ gầm cầu sống chui.)

Theo lời Hồ Chí Minh thì “sau hàng chục năm lãnh đạo nhân dân làm cách mạng, chiến đấu vô cùng gian khổ, Đảng ta mới giành được chính quyền, mới trở thành Đảng cầm quyền.”

Theo lý luận ở đoạn trên thì “đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân,” như vậy đảng và dân là hai cá thể khác nhau, chiến đấu vô cùng gian khổ, nhân dân được chết, còn đảng thì cướp được chính quyền.

Tuy vậy, đảng Cộng sản có chủ trương lúc nào cũng đề cao dân, như “đảng là đầy tớ của nhân dân,” “nhân dân làm chủ,” “dễ trăm lần không dân cũng chịu- khó vạn lần dân liệu cũng xong!”

Sách vở ghi lại lời Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định dân là trên hết: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân.”

Nhưng chính quyền từ xã đến chính phủ trung ương chưa bao giờ do dân bầu ra. Chính phủ do Quốc Hội bầu ra, nhưng ứng cử viên Quốc hội là do “đảng cử dân bầu.” Tổng cộng danh sách chính thức ra tranh cử Đại biểu Quốc hội năm nay gồm 870 ứng viên, trong đó chỉ có 11 người tự ứng cử, không có người nào thuộc thành phần bất đồng chính kiến. Trong số 496 đại biểu được bầu, chỉ có 21 đại biểu là người ngoài đảng (chiếm 4,2%). Quốc hội khóa 14 có tỷ lệ đảng viên cao nhất từ trước đến nay.

18 ghế Ủy viên Bộ Chính trị và 200 ghế Ủy Uỷ Viên Trung ương đảng được chia cho các chức vụ quan trọng: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội, Thường trực Ban Bí thư, Phó Chủ tịch nước, Phó Thủ tướng, Phó Chủ tịch Quốc hội, Trưởng và một số Phó Trưởng ban các Ban của đảng, Bộ trưởng các bộ và chức vụ tương đương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và Thứ trưởng Bộ Công an…

Đến nay, Đảng bộ Khối Các cơ quan Trung ương có 63 đảng bộ trực thuộc, trong đó có 34 đảng bộ cấp trên cơ sở, 29 đảng bộ cơ sở, với gần 5.500 chi bộ và hơn 6,5 vạn đảng viên, chưa kể con số 4,5 triệu đảng viên hiện có tại Việt Nam.

Điều 4 của Hiến pháp là “giấy phép độc quyền” cho Đảng cầm quyền lãnh đạo, không có một đảng phái nào khác được tồn tại. Ở Việt Nam, đảng Cộng Sản đứng trên cả chính phủ và Quốc hội. Lập pháp, hành pháp, tư pháp là một. Quốc hội, chính phủ, tòa án đều là công cụ của đảng. Quốc hội làm theo chỉ thị của đảng, chính phủ thi hành triệt để chính sách của đảng, tòa án xét xử người theo bản án có sẵn của đảng.

Đảng là tất cả, cấu kết với nhau thành ra một băng đảng nên đảng mới có câu: “Còn đảng, còn mình!” Quốc gia, đất nước là thứ yếu, nên thà mất nước nhưng không chịu để mất đảng!

Nguyên tắc của Cộng Sản là “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý và dân làm chủ!” Đảng lãnh đạo tức là người chỉ đường, rẽ phải rẽ trái, đi lên, chạy xuống là do đảng. Dân chỉ đi theo như con ngựa thồ kéo xe, bị bịt mắt, chỉ cho nhìn ra đằng trước. Mọi sự, tất cả vật chất, tài sản, tiền bạc đều do nhà nước quản lý, mà nhà nước là con sinh ra của đảng, Thủ tướng, Bộ trưởng, công an, quân đội… cũng là tay chân do đảng sinh ra. Chỉ còn một cái bánh vẽ nghìn đời sót lại dứ vào mồm dân, đó là cái quyền làm chủ…trên khẩu hiệu, diễn văn.

Đảng là ông Thủ trưởng chỉ đạo mọi thứ, có quyền hành. Nhà nước là anh thủ kho ôm trong tay của cải. Còn thằng dân trên danh nghĩa là chủ nhân của đất nước, không có tiền mà cũng không có quyền, lại bị bóc lột tận cùng. Ngân sách nhà nước đảng nắm. Nợ nần nhà nước dân lo, đời này trả không hết thì đến đời sau. Nếu dân phản kháng là phá hoại, là do thế lực thù địch phá hoại “thành quả” của đảng, sẽ có công bộc của dân (tức là cán bộ, công an) lập tức có mặt để đàn áp, vì công bộc của dân do đảng đẻ ra, có còng, có roi, có nhà tù, có quyền giết hay cho phép người dân ‘tự tử’ ngay trong đồn trại của mình.

Đã có trường hợp công an bắt dân xuống xe, quỳ xuống giữa đường và đánh đập, cũng như tài xế taxi bị đòn, phải quỳ gối giữa đường lạy vái công an. Nhìn lại thời nô lệ Pháp thuộc cũng chưa bao giờ có cảnh tượng như thế.

Bản báo cáo của Mạng Lưới Nhân Quyền Việt Nam ghi nhận sự mâu thuẫn giữa Hiến pháp CSVN và sinh hoạt chính trị ở trong nước: “Hiến pháp nhà nước Việt Nam sau khi được sửa đổi, bổ sung có qui định rằng người dân có quyền tham gia quản lý nhà nước qua bầu cử và ứng cử, tự do ngôn luận, hội họp, lập hội và biểu tình. Tuy nhiên, cũng chính Điều 4 của Hiến Pháp lại khẳng định vai trò lãnh đạo tuyệt đối của đảng CSVN trong mọi sinh hoạt của đất nước.”

Chính ở sự mâu thuẫn này và ý đồ duy trì độc quyền chính trị bằng mọi giá mà tất cả những quy định về quyền chính trị được công nhận nơi Điều 20, Điều 21 trong Bản Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền và Điều 21, Điều 22 trong Công ước Quốc tế về Quyền Dân Sự và Chính Trị mà Việt Nam cam kết tôn trọng đã bị triệt tiêu.

Xin hãy xem bảng vận động công dân đóng thuế treo đầy đường: “Nộp thuế để xây dựng và bảo vệ đảng!” À ra thế! Tóm lại đảng lãnh đạo, và đảng phải bám vào dân mới có cơm ăn. Dân hì hục đóng thuế để “vỗ béo” đảng. Tình đảng với dân như cá với nước. Cá không có nước thì cá chết. Nước không có cá, thì nước…khoẻ re!

Xin cầu nguyện cho một ngày Việt Nam không có đảng, như khẩu hiệu của dân oan biểu tình: “đảng Cộng Sản, chết đi!”

Phép bỏ dấu hỏi – ngã trong Tiếng Việt

From facebook:  Phan Thị Hồng added 2 new photos — with Hoang Le Thanh and 7 others.

Phép bỏ dấu hỏi – ngã trong Tiếng Việt

Nguyên tắc chung về thinh

Tiếng Việt gồm hai loại, tuy liên hệ nhau nhưng vẫn giữ đặc tính riêng rẽ:

– Tiếng HÁN VIỆT là chữ Hán đọc theo giọng Việt.
– Tiếng NÔM là tiếng do người Việt-nam tạo nên với những tiếng mượn của nước ngoài nhưng đã Việt-hoá.

1 TIẾNG HÁN-VIỆT

Tiếng Hán-Việt là tiếng mượn của tiếng Hán nhưng đọc theo giọng của người Việt. Phần lớn tiếng Hán-Việt là những tiếng gồm hai tiếng trở lên. Ví dụ: quốc gia, kinh tế, quân sự, chánh trị, xã hội, ngoại giao, văn hoá, dân chủ, công ty, v.v. Trong tiếng Việt hiện nay, khoảng 60% là tiếng Hán-Việt. Chúng ta xử dụng khá nhiều tiếng Hán-Việt trong mọi giao tiếp và nói năng hằng ngày.

Ví dụ: “Hôm qua nghiệp đoàn công nhân tổ chức hội nghị thảo luận vấn đề gia tăng niên liễm”. Chỉ có hai chữ thuần Việt là “hôm qua”, còn các chữ khác đều là tiếng Hán-Việt.

Tiếng Hán-Việt có quy luật riêng về dấu Hỏi Ngã. Vì vậy, nếu xử dụng được Luật Hỏi Ngã trong tiếng Hán-Việt thì chúng ta đã giải quyết được hơn 60% công việc về dấu Hỏi Ngã.

Tiếng Hán-Việt có hai đặc tính:

1. Về Chánh tả: giữa âm và giọng có sự liên quan chặt chẽ.

– Các tiếng Hán-Việt khởi đầu bằng một Nguyên-âm, chỉ có thể có dấu Sắc, dấu Hỏi, hoặc Không dấu.

– Các tiếng Hán-Việt khởi đầu bằng các Phụ-âm: L, M, N, NG, NH, D, V, chỉ có thể có dấu Ngã hay Nặng.

2. Về vị trí của các tiếng dùng chung:

Tiếng Chỉ-định luôn luôn đứng trước tiếng được chỉ-định, gọi là Ngữ-pháp đặt ngược

Ví dụ:
Bạch tượng. Bạch chỉ định, làm cho rõ nghĩa tiếng tượng.
Ký sinh trùng. Ký chỉ định sinh, ký sinh chỉ định trùng.

CÁCH NHẬN BIẾT TIẾNG HÁN-VIỆT

1. Các tiếng Hán-Việt thường không tách ra dùng riêng một mình, mà phải dùng trọn từ.

Chẳng hạn chỉ có thể nói làm thương mãi chớ không thể nói làm thương, làm mãi, hoặc nói làm chánh trị chớ không thể nói làm chánh, làm trị v. v…

Vậy mỗi khi gặp một từ ghép, ta thử tách các tiếng cấu tạo từ ấy ra riêng rẽ, nếu chúng không dùng độc lập được, thì đó là một tiếng Hán-Việt.

2. Về nghĩa của một tiếng Hán-Việt.

Các tiếng hợp lại để làm thành một từ Hán-Việt đều có nghĩa, nhưng nghĩa của chúng rất mơ hồ đối với những người không có một trình độ Hán học nhất định. Ví dụ như nếu đem xét riêng biệt các chữ: dĩ, nhiên, hành, chánh, lãnh, tụ, thì chúng đều có nghĩa cả, nhưng hỏi nghĩa thế nào thì không dễ trả lời.

Cho nên khi gặp một từ ghép, nếu cả hai tiếng đều mơ hồ về nghĩa ví dụ như: cảnh giác, mãnh liệt, dũng cảm, thì đó là từ Hán-Việt.

Còn các Tiếng-Nôm-đôi và Tiếng-Nôm-Lấp-láy thì đều có khả năng dùng riêng ra từng chữ và nghĩa của chữ dùng riêng đều rõ và dễ nhận biết. Ví dụ: xe lửa, máy bay, tàu ngầm, xe đạp.

Do đó, dựa vào cách phân biệt như trên, chúng ta dễ dàng biết được tiếng nào là tiếng Hán-Việt và tiếng nào là Tiếng Nôm.

a) Tóm lại: Tất cả tiếng HÁN-VIỆT khởi đầu bằng các nguyên-âm: A, Â, Y, O, Ô, U, Ư, đều viết DẤU HỎI vì các nguyên-âm của Tiếng Hán-Việt thuộc Thanh-âm (Bổng).

Ví dụ: Ải quan, Ảnh hưởng, Ẩm thực, Ẩn dật, Ỷ lại, Oải nhân, Ổn thỏa, Ủy hội, Ưởng.

Phụ chú: Sách của G.s. Lê-ngọc-Trụ có ghi Ê và I vào nhóm nguyên âm nầy. Nhưng vì chữ HÁN-VIỆT không có chữ nào khởi đầu bằng Ể, Ễ hoặc Ỉ, Ĩ nên tôi không ghi hai nguyên âm nầy vào, cho người học đỡ mệt trí [Đ-s-T].

b) Tất cả tiếng HÁN VIỆT khởi đầu bằng phụ âm CH, GI, KH, PH, TH, S, X, đều viết DẤU HỎI vì các phụ-âm nầy cũng thuộc Thanh-âm (Bổng).

Ví dụ:
– CHẩn đoán, CHỉ huy, CHỉnh tề, CHiểu chi, CHủ tọa, CHưởng quản.
– GIải phẫu, GIảm thiểu, GIản tiện, GIảng đường, GIảo quyệt, học GIả.
– KHả dĩ, KHải hoàn, KHảo thí, KHẩu hiệu, KHổng giáo, KHủng hoảng
– PHản bội, PHẩm cách, PHỉ báng, PHổ thông, PHủ nhận. (trừ PHẫn nộ)
– THải hồi, THảm thương, THản nhiên, THảo mộc, (trừ Mâu THuẫn, Phù THũng)
– Sản khoa, Sảnh đường, Sỉ nhục, Siểm nịnh, Sở dĩ, Sủng hạnh, (trừ Sĩ = học trò)
– Xả thân, Xảo trá, công Xưởng, (trừ Xã hội, Xã trưởng, Hợp tác Xã)

Để khỏi bỏ sai dấu, xin độc giả đừng lẫn lộn tiếng Hán Việt với những tiếng Nôm sau đây:

CHĨNH=hủ bằng đất; GIÃ (giã gạo, từ giã); GIÃI (giãi bày); GIÃN (co giãn, giãn ra= tăng độ dài: dây cao su bị giãn); PHŨ (phũ phàng); THÃI (thừa thãi); SŨNG (ướt sũng)

c) Tất cả tiếng HÁN VIỆT khởi đầu bằng Bảy phụ âm L, M, N, NG, NH, D, V, đều thuộc Trọc-âm, cho nên viết DẤU NGÃ (trừ một ngoại lệ duy nhất là Ngải cứu).

Ví dụ:
– Lãng mạn, Lãnh đạm, Lão ấu, Lẫm liệt, Lễ nghĩa, Lũng đoạn, thành Lũy, Lãng phí.
– Mã não, Mãi mại, Mãn nguyện, Mỹ Mãn, Mãnh hổ, Mẫn tiệp, Mẫu nghi, Mỹ nữ.
– Não tủy, Noãn sào, Nỗ lực, phụ Nữ.
– NGẫu nhiên, NGũ cốc, đội NGũ, ngôn NGữ.
– NGHĩa khí, NGHiễm nhiên, NGHĩa trang.
– NHã ý, NHãn khoa, NHẫn nại, NHĩ mục, NHiễm bệnh, NHũ mẫu, NHãn hiệu.
– Dẫn lực, Dĩ nhiên, Diễm lệ, Diễn đàn, Dũng cảm, Dưỡng dục, Dĩ vãng, Dã man.
– Vãn bối, Vãng lai, Vĩ đại, Viễn thị, Vĩnh viễn, Võ trang, Vũ trụ, Vĩ tuyến.

Xin đừng lộn tiếng Hán-Việt với những tiếng Nôm sau đây:

– LẢ (lả lơi, ẻo lả); LẢNG (lảng vảng); LẢNH (lảnh lót); LẢO (lảo đảo) LẨM (lẩm rẩm); LỂ (lể ốc, lể gai); LIỂM (cờ bạc đặt tiền ở giữa hai ô, ra ô nào mình cũng trúng); LƯỞNG (lưởng thưởng);
– MẢ (mồ mả); MẢI (mải miết); MẢNH (mảnh mai); MẨN (mê mẩn); MẨU (mẩu chuyện);
– NẢO (viết thử trước); NỔ (nổ bùng);
– NGẢ (ngả quỵ); NGỦ (đi ngủ);
– NHẢ (nhả mồi, nhả tơ) NHẢN (nhan nhản); NHỈ (vui nhỉ!); NHỦ (khuyên nhủ);
– DẨN (dớ dẩn) DỈ (dỉ hơi);
– VẢNG (lảng vảng); VỈ (vỉ lò, vỉ bánh); VIỂN (viển vông) VỎ (vỏ ốc, vỏ sò).

d) Mấy phụ-âm khởi-đầu khác, gồm có B, C, Đ, H, K, QU, và T, vì đều có ở cả hai bậc Thanh và Trọc, khó phân biệt, nên phải tra tự điển; nhưng cũng theo luật “Thanh viết dấu HỎI, Trọc viết dấu NGÔ.

Vì tiếng giọng Ngã ít hơn tiếng giọng Hỏi nên chúng tôi biên ra dưới đây các tiếng Hán-Việt giọng Ngã của mấy phụ-âm khởi đầu vừa nói trên, để giúp bạn đọc:

Bãi : thôi, nghỉ (bãi công, bãi khóa, bãi thị)
Bão : ẵm bồng (hoài bão, bão hòa, bão mãn)
Bĩ : xấu (bĩ cực thái lai, bĩ vận)
Cưỡng : gắng ép (cưỡng bách, cưỡng chế)
Cữu : cậu vua (quốc cữu), hòm (linh cữu)
Đãi : thết, xử với (đãi bôi, bạc đãi, biệt đãi, khoản đãi, trọng đãi, ưu đãi, đãi lịnh)
Đãng : rộng, phóng túng (đãng tử, du đãng)
Đễ : kính nhường (hiếu đễ)
Điễn : điện (điễn khí, điễn học, điễn lực)
Đỗ : họ Đỗ, chim đỗ quyên, cây đỗ trọng
Hãi : kinh sợ (kinh hãi, hãi hùng, sợ hãi)
Hãm : xông phá (hãm địch, hãm trận)
Hãn : mồ hôi (xuất hãn, phát hãn, liễm hãn)
Hãnh : may mắn (hãnh diện, kiêu hãnh)
Hoãn : chậm (trì hoãn, hoãn đãi, hoãn binh)
Hỗ : lẫn nhau (hỗ trợ, hỗ tương)
Hỗn : lộn xộn (hỗn chiến, hỗn loạn, hỗn hợp)
Huyễn : hoa mắt (huyễn hoặc, huyễn mục)
Hữu : có (hữu cơ, hữu hạn, hữu dụng, hữu lý)
Kỹ : tài năng (kỹ sư, kỹ thuật, kỹ nghệ, kỹ xảo)
Quẫn : khốn đốn (quẫn bách, cùng quẫn)
Quỹ : tủ cất tiền (thủ quỹ, công quỹ, ký quỹ)
Tễ : thuốc huờn (dược tễ, điều tễ, thuốc tễ)
Tiễn : đưa (tiễn biệt, tiễn hành, tiễn khách)
Tiễu : dẹp trừ (tiễu trừ, tuần tiễu, tiễu phỉ)
Tĩnh : im lặng (tĩnh dưỡng, tĩnh mịch)
Tuẫn : liều chết (tuẫn tiết, tuẫn nạn)
Trãi : Nguyễn-Trãi
Trẫm : tiếng vua tự xưng
Trĩ : trẻ (ấu trĩ), bịnh trĩ (trĩ nội, trĩ ngoại)
Trữ : chứa (lưu trữ, oa trữ, tàng trữ, tích trữ)
CÁCH NHỚ LUẬT HỎI NGÃ CHO TIẾNG HÁN-VIỆT

Xem vậy Luật viết dấu Hỏi Ngã cho tiếng Hán-Việt khá phức tạp. Tuy nhiên ta có thể dùng mẹo để nhớ một cách dễ dàng.

a) Chỉ cần nhớ những trường hợp viết dấu Ngã trong tiếng Hán-Việt, tức là nhớ BẢY phụ âm đầu viết dấu Ngã và khoảng 30 trường hợp ngoại lệ phải viết dấu Ngã.

Các trường hợp viết dấu hỏi không cần nhớ vì các tiếng Hán-Việt có âm đầu khác hơn Bảy phụ âm nói trên đều viết dấu hỏi.

b) Để nhớ Bảy Phụ-âm-đầu viết dấu Ngã, các bạn học thuộc lòng câu sau đây:

Mình Nên NHớ Vũ Là Dấu NGã
(M N Nh V L D Ng)

Như vậy là bạn đã nắm được luật viết dấu Hỏi Ngã của tiếng Hán-Việt. Còn các ngoại lệ thì xin chịu khó học thuộc lòng.

2 TIẾNG NÔM

Tất cả những tiếng không phải là tiếng Hán-Việt, được gọi chung là Tiếng Nôm.

PHÂN BIỆT TIẾNG NÔM VÀ TIẾNG HÁN-VIỆT

1. Về ý nghĩa. Tiếng Nôm là những tiếng nói sao hiểu vậy. Trái lại tiếng Hán-Việt thường có thể dịch ra bằng một tiếng thông thường hơn (tiếng thông thường đó gọi là tiếng Nôm).

Ví dụ:

– tiếng Nôm: tập vở, tờ giấy (nói sao hiểu vậy)
– tiếng Hán-Việt: bệnh viện (nhà thương), phi cơ (máy bay)

Tuy nhiên cũng có một số tiếng Hán-Việt không thể dịch ra bằng một tiếng thông thường hơn. Ví dụ: kết quả, hạnh phúc, thành công v.v…

Ngoài ra, nhiều tiếng Hán-Việt, nhất là những tiếng đơn được dùng làm tiếng Nôm (gọi là Tiếng Nôm gốc Hán Việt) vẫn giữ nguyên giọng đọc cũ. Ví dụ: danh, pháp, hải, lao, lãnh v. v…

2. Nhờ quan sát Ngữ Pháp ta sẽ phân biệt tiếng Hán-Việt và tiếng Nôm rất dễ dàng.

Ví dụ:

– LẠC CẢNH: lạc (hình dung từ) làm rõ nghĩa tiếng cảnh (danh từ). Hình dung từ đứng trước danh từ, tức là thuộc Ngữ-pháp đặt ngược. Vậy LẠC là tiếng Hán-Việt.

– TIỂU QUỐC: tiểu (hình dung từ) làm rõ nghĩa tiếng quốc (danh từ). Hình dung từ đứng trước danh từ, thuộc Ngữ-pháp đặt ngược. Vậy TIỂU là tiếng Hán-Việt.

– GẠCH TIỂU: tiểu làm rõ nghĩa tiếng gạch. Hình dung từ tiểu đứng sau danh từ gạch, tức thuộc Ngữ-pháp đặt xuôi.

Vậy tiểu nầy là TIẾNG NÔM GỐC HÁN VIỆT.

3. Trong TIẾNG ĐÔI thì:

– tiếng Nôm liên kết với tiếng Nôm.
– tiếng Hán-Việt liên kết với tiếng Hán-Việt.

Ví dụ:

– LỖI LẦM: khi ta biết lỗi là tiếng Nôm, thì ta có thể quả quyết lầm cũng là tiếng Nôm.
– TƯƠI TỐT: biết chắc tốt là tiếng Nôm, ta có thể quả quyết rằng tươi cũng là tiếng Nôm.
– HỌA SĨ: biết chắc sĩ là tiếng Hán-Việt, ta có thể quả quyết rằng họa là tiếng Hán-Việt.
– LUẬT SƯ: khi biết sư là tiếng Hán-Việt thì ta có thể quả quyết luật cũng là tiếng Hán-Việt.

Cũng có một số tiếng-đôi hợp thành bởi một tiếng Nôm và một tiếng Hán-Việt. Tuy nhiên đó là trường hợp đặc biệt của những tiếng Hán-Việt đã được dùng đơn độc làm tiếng Nôm. Chỉ có những tiếng Hán-Việt ấy mới có thể liên kết với tiếng Nôm để tạo thành tiếng-ghép. Ví dụ:

– máu huyết: huyết là tiếng Hán-Việt có nghĩa “máu”. Tiếng huyết cũng được dùng đơn độc làm tiếng Nôm, như: cháo huyết, huyết heo.

– lý lẽ: lý là tiếng Hán-Việt có nghĩa “lẽ”, nhưng cũng được dùng đơn độc làm tiếng Nôm, như: lời nói có lý, không có lý nào.

– ưa thích: thích là tiếng Hán-Việt được dùng đơn độc làm tiếng Nôm.

TIẾNG NÔM GỐC HÁN-VIỆT

Dấu giọng của những Tiếng-Nôm Chuyển gốc từ tiếng Hán-Việt, phải theo dấu giọng của tiếng gốc, nghĩa là:

a) khi tiếng HÁN GỐC là một tiếng Không dấu hoặc dấu Sắc hoặc dấu Hỏi, thì Tiếng Nôm có Gốc Hán-Việt viết dấu Hỏi. (KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI)

hô > thở; tu > sửa; giá > gả (con); giả > kẻ

b) khi tiếng HÁN GỐC là tiếng dấu Huyền hoặc dấu Nặng hoặc dấu Ngã thì Tiếng-Nôm có Gốc Hán-Việt viết dấu Ngã. (HUYỀN, NẶNG, NGÃ = NGÃ)

hàng > hãng (buôn); kỵ > cỡi; dĩ > đã

TRỪ ngoại lệ:

lý > lẽ; miếu > miễu; nỗ > (cung) nỏ; ngưỡng > ngẩng (ngửng, ngửa), nhĩ > nhử (mồi); dụ > rủ (rê)…

TIẾNG NÔM KHÔNG GỐC HÁN VIỆT

Những Tiếng-nôm không chuyển gốc từ tiếng Hán-Việt thì gọi là TIẾNG-NÔM-LÕI. Có hai loại Nôm-Lõi: Tiếng-Đơn và Tiếng-Đôi.

A. TIẾNG NÔM ĐƠN

Những Tiếng Nôm Đơn, trại ra từ một tiếng khác (không phải là tiếng HÁN), đều tùy tiếng chánh mà viết Hỏi hay Ngã theo luật:

KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI
HUYỀN, NẶNG, NGÃ = NGÃ

Không dấu chuyển ra Hỏi và ngược lại như:

cản/can; chăng/chẳng; chửa/chưa; không/khổng quẳng/quăng; nhủi/chui;

Sắc chuyển ra Hỏi và ngược lại

búa/bửa; thế/thể; hả/há; lén/lẻn; rải/rưới;

Hỏi chuyển ra Hỏi

bảo/biểu; cổi/cởi; tỏa/tủa; xẻ/chẻ; nhỉ/rỉ;
tủi lòng/mủi lòng; rủ/xủ; quên lảng/quên lửng;

Huyền chuyển ra Ngã và ngược lại như:

cùng/cũng; dầu/dẫu; đã/đà; cỗi/còi; lãi/lời; bõ/bù; giũa/giồi; mõm/mồm; ngỡ/ngờ;

Nặng chuyển ra Ngã và ngược lại như:

cội/cỗi; đậu/đỗ; chõi/chọi; giẵm/giậm; trĩu/trịu; chậm/chẫm (chẫm rãi);

Ngã chuyển ra Ngã:

đĩa/dĩa; hẵng/hãy; khẽ/sẽ; nỗi/đỗi; ngẫm/gẫm; dõi/rõi; giễu/riễu; ruỗng/rỗng

TRỪ ngoại lệ:

gõ/khỏ; hõm/(sâu) hóm; kẻ/gã; rải/vãi; mặn/mẳn; (thuộc) lảu/làu; (mệt) lử/(đói) luỗi; phồng/phổng; ngõ/ngả; quãng/khoảng; rõ/tỏ; trội/trổi; lõm/lóm.

B. TIẾNG NÔM ĐÔI

Bởi tánh cách ĐỘC VẬN (mono-syllabic) ngắn ngủn, nên tiếng Việt thường hợp thành Tiếng-Đôi để cho dịu giọng.

TIẾNG NÔM ĐÔI khác hơn TIẾNG GHÉP (là tiếng HÁN-VIỆT do hai hoặc ba tiếng có nghĩa riêng ghép lại để chỉ một ý niệm mới).

TIẾNG NÔM ĐÔI là Tiếng-nôm do hai hoặc nhiều tiếng hiệp lại để cho rõ ý, hoặc dịu giọng.

* Có loại Tiếng Nôm Đôi do Hai tiếng đều có nghĩa hợp lại mà thành.

* Có loại Tiếng Nôm Đôi khác, gọi là Tiếng Đôi LẤP-LÁY, do một tiếng có nghĩa hợp với một tiếng không nghĩa; hoặc do hai tiếng không nghĩa hợp lại nhưng giọng nghe hài hoà, thuận tai, dễ đọc.

Tiếng Nôm Đôi mà CẢ HAI TIẾNG ĐỀU CÓ NGHĨA THÌ KHÔNG THEO LUẬT TRẦM BỔNG mà mỗi tiếng giữ chánh tả riêng của nó về Âm về Vần (Vận) cũng như về Giọng (Thinh).

Ví dụ: mồ mả; cú rũ; rỗi rảnh; bàn ghế; bồng ẵm; cổi gỡ; chống chõi; đầy đủ; lỡ dở; mỏi mệt; ủ rũ; sàng sảy; sâu xa; trồng tỉa; siêng năng; tìm kiếm; kiêng cữ; tỏ rõ; lú lẫn…

Tiếng Nôm Đôi còn chia thành hai loại: Tiếng Nôm Đôi Liên Hiệp và Tiếng Nôm Đôi Độc lập.

Tiếng Nôm Đôi Độc Lập là tiếng đôi mà hai tiếng đều có nghĩa và bình đẳng: thôn xóm, tốt tươi.
Tiếng Nôm Đôi Liên Hiệp là tiếng đôi mà nghĩa của hai tiếng phụ thuộc lẫn nhau để làm cho rõ thêm nghĩa: cà chua, máy cày, xe đạp.

C. TIẾNG NÔM ĐÔI LẤP LÁY

Tiếng Nôm Đôi Lấp Láy là những Tiếng-đôi gồm hai tiếng có liên hệ với nhau về âm thanh mà trong đó phải có ít nhất là một tiếng không có nghĩa.

Ví dụ: đẹp đẽ, mới mẻ, lạnh lùng, vội vàng, v. v… những tiếng đẽ, mẻ, lùng, vàng, đều không có nghĩa. Sự phân biệt tiếng có nghĩa và tiếng không có nghĩa giúp ta nhận ra Tiếng-đôi Lấp-láy dễ dàng.

1. Các mối liên hệ về âm trong Tiếng Đôi Lấp Láy:

a) Liên hệ ở phụ âm đầu. Có những Tiếng Đôi chỉ láy lại phụ-âm đầu: (m-m) mát mẻ, (đ-đ) đồn đãi, (l-l) lểnh lảng, (n-n) nói năng.

b) Liên hệ về vần. Có những Tiếng Đôi chỉ có phần vần được láy lại: lai rai, lải nhải, lạng chạng, lằm bằm, lẫm đẫm, lễ mễ, lơ thơ.

c) Liên hệ cả phụ-âm đầu lẫn vần. Có những Tiếng Đôi láy lại cả phụ-âm đầu lẫn vần như: cào cào, ba ba, bươm bướm, rầm rầm, châu chấu, khinh khỉnh.

Do đó, khi nói về Tiếng Đôi Lấp Láy ta cần chú ý đến sự liên hệ của phụ-âm đầu và vần.

2. Liên hệ về giọng điệu.

a) Cùng một giọng điệu với nhau.

lui cui, lung tung (không dấu)
chí chóe, chíu chít (dấu sắc)
lỏng chỏng, thỉnh thoảng (dấu hỏi)
lễ mễ, dễ dãi (dấu ngã)

b) Cùng một nhóm giọng với nhau.

Tiếng Việt được chia thành hai nhóm giọng:

Nhóm giọng cao gọi là giọng Bổng
Nhóm giọng thấp gọi là giọng Trầm.

Nhóm cao (Bổng), gồm có các giọng: Ngang (còn gọi là Không), Sắc, và Hỏi.

Nhóm thấp (Trầm), gồm có các giọng: Huyền, Nặng, và Ngã.

Trong Tiếng Đôi Lấp Láy, giọng của hai tiếng bao giờ cũng thuộc cùng một nhóm. Nếu một tiếng của Tiếng Đôi Lấp Láy có giọng cao thì giọng của tiếng kia cũng thuộc nhóm giọng cao.

Ví dụ: vui vẻ, mới mẻ, lửng lơ, nho nhỏ…

Ngược lại nếu một tiếng của Tiếng Đôi Lấp Láy có giọng thấp thì tiếng kia cũng có giọng thấp, ví dụ: mạnh mẽ, đẹp đẽ, ngại ngùng, lạnh lùng…

Qui luật về giọng-điệu giữa các tiếng trong Tiếng Đôi Lấp Láy gọi là Qui luật Thuận-thinh-âm (cũng còn gọi là Luật Trầm Bổng).

Tóm lại, TIẾNG ĐÔI LẤP LÁY bỏ dấu theo luật Trầm Bổng:

KHÔNG, SẮC, HỎI đi với HỎI
HUYỀN, NẶNG, NGÃ đi với NGÃ

Tiếng đầu Không dấu hoặc dấu Sắc hoặc dấu Hỏi thì tiếng sau phải bỏ dấu HỎI.

Tiếng đầu dấu Huyền hoặc dấu Nặng hoặc dấu Ngã thì tiếng sau phải bỏ dấu NGÃ.

Thí dụ:

BỔNG

Không dấu đi chung với HỎI và ngược lại: nghỉ ngơi, bảnh bao, lẻ loi, hăm hở, thong thả, sởn sơ, viển vông, run rẩy, vẻ vang, vui vẻ.

Sắc đi chung với HỎI và ngược lại: mải miết, nhắc nhở, thẳng thớm, dí dỏm, bóng bảy, chải chuốt, khỏe khoắn, nhảm nhí, mắt mỏ.

Hỏi đi chung với HỎI: hể hả, lỏng lẻo, nhỏng nhẻo, thỏ thẻ, bải hoải, mỏng mảnh, thỉnh thoảng, tỉ mỉ, xửng vửng.

TRẦM:

Huyền đi chung với NGÃ và ngược lại: vỗ về, rầu rĩ, tầm tã, não nề, đãi đằng, nòng nã, sẵn sàng, kỹ càng, chẵn chòi, lời lãi…

Nặng đi chung với NGÃ và ngược lại: gỡ gạc, vội vã, dữ dội, cặn kẽ, não nuột, lạt lẽo, cãi cọ, lũ lượt, đẹp đẽ, chập chững, gãy gọn…

Ngã đi chung với NGÃ: dễ dãi, lỗ lã, cãi lẫy, mãi mãi, kỹ lưỡng,…

Như vậy, theo luật nầy thì khi gặp Tiếng Đôi Lấp Láy như: bẽ bàng, rõ ràng, vững vàng, chúng ta yên tâm viết bẽ, rõ, vững với dấu ngã vì các chữ bàng, ràng, vàng, đã có dấu huyền.

Đối với Tiếng Đôi Lấp Láy như cãi cọ, chập chững, dọ dẫm, đẹp đẽ, chúng ta viết cãi, chững, dẫm, đẽ, với dấu ngã vì các chữ cọ, chập, dọ, đẹp, là những chữ đã viết dấu nặng.

Đối với Tiếng Đôi Lấp Láy như lỗ lã, dễ dãi vì ta đã biết dễ và lỗ viết dấu ngã (do suy biết từ lỗ lời, dễ dàng) thì theo luật nầy ta biết chắc lã và dễ phải viết dấu ngã.

Khi một chữ của Tiếng Đôi Lấp Láy viết dấu sắc, không dấu, hoặc dấu hỏi, thì chữ kia phải viết dấu hỏi chớ không thể viết dấu ngã.

Ví dụ:

– cứng cỏi, trống trải, trắng trẻo vì đã có các chữ cứng, trống, trắng viết dấu sắc nên các chữ cỏi, trải, trẻo phải viết dấu hỏi.

– trong trẻo, bươn chải, trả treo vì các chữ trong, bươn, treo viết không dấu nên các chữ trẻo, chải, trả phải viết dấu hỏi.

– các Tiếng Đôi Lấp Láy như lẩm bẩm, lủng củng, bỏm bẻm cũng vậy, vì các chữ lẩm, lủng, bỏm, mang dấu hỏi, thì chữ đứng sau phải viết dấu hỏi.

CÁCH NHẬN RA TIẾNG ĐÔI LẤP LÁY

Khi hai tiếng của một từ mà hai phụ âm đầu của hai tiếng ấy giống nhau, hoặc cả âm đầu lẫn vần đều giống nhau (cùng giọng Bổng cả, hoặc cùng giọng Trầm cả), thì đó là Tiếng Đôi Lấp Láy.

DỰA VÀO NGHĨA: Một Tiếng Đôi mà cả hai tiếng đều có nghĩa, thì Tiếng Đôi đó KHÔNG PHẢI là Tiếng Đôi Lấp Láy.

ĐẢO NGƯỢC TRẬT TỰ: Khi đảo ngược trật tự của một tiếng-đôi mà tiếng-đôi đó vẫn còn y nghĩa như khi chưa bị đảo trật tự, thì tiếng đó là tiếng ghép chớ KHÔNG PHẢI là Tiếng Đôi Lấp Láy.

Ví dụ: giữ gìn, lả lơi, lơ lửng, hờ hững, là tiếng ghép chớ không phải là Tiếng Đôi Lấp Láy, vì khi đảo ngược, nó vẫn giữ nghĩa như trước. (gìn giữ, lơi lả, lửng lơ, hững hờ).

TIẾNG ĐÔI BỎ BỚT MỘT DẤU GIỌNG: Có nhiều Tiếng-Đôi vì muốn cho êm tai nên

1) phải bỏ bớt một dấu giọng. Mấy tiếng mất dấu giọng đó là tiếng chánh lập lại, chớ không phải tiếng đệm, nên những tiếng đôi đó không bỏ dấu theo luật Trầm Bổng. Thí dụ: khe khẽ, là khẽ khẽ; dê dễ là dễ dễ; đăng đẵng là đằng đẵng.

2) Có nhiều Tiếng-Đôi bị đổi giọng, như hẳn hoi trở thành hẳn hòi; kỹ càng trở thành kỹ cang.

Ngoài ra, NHỮNG TIẾNG NÓI TẮT do ghép với tiếng ẤY, đều viết dấu Hỏi. (Nói Tắt là nói thúc hai chữ thành một, theo lối giản ước). Ví dụ như:

anh + ấy = ảnh; bà + ấy = bả; cậu + ấy = cẩu; chị + ấy = chỉ; hôm + ấy = hổm; mợ + ấy = mở; năm + ấy = nẳm; thằng cha + ấy = thằng chả; con mẹ ấy = con mẻ

NHỮNG NGOẠI LỆ CỦA TIẾNG-ĐÔI (Không còn theo luật Trầm Bổng)

bền bỉ, chàng hảng, chèo bẻo, dòm dỏ, ẻo ẹo, giãy nảy, hoài hủy, hẳn hòi, ĩnh ương, khe khẽ, lảng xẹt, lý lẽ, luồn lỏi, lẳng lặng, mình mẩy, se sẽ, mủ mĩ, niềm nở, ngoan ngoãn, nhểu nhão, phỉnh phờ, rẻ rề, rỗng tuếch, sành sỏi, sừng sỏ, sửng sờ, thỏng thừa, thung lũng, trễ nải, trọi lỏi, trơ trẽn, ve vãn, vỏn vẹn, xảnh xẹ.

MUỐN BIẾT PHẢI BỎ DẤU GÌ?

1) Cách lẹ nhất là thử tìm một Tiếng Đôi khác, có cái chữ mình đang phân vân về dấu hỏi hay ngã.

Ví dụ chữ dễ dãi: Chỉ cần biết được một trong hai chữ dễ hoặc dãi mang dấu gì thì biết được luôn cả dấu của chữ kia. Thử chọn chữ dễ trước. Với chữ dễ ta có Tiếng đôi Lấp-láy dễ dàng. Với dễ dàng ta biết chữ dễ phải viết dấu ngã vì chữ dàng có dấu huyền. Khi đã biết chữ dễ viết dấu ngã thì ta xác định được là chữ dãi phải viết dấu ngã do luật “HUYỀN, NẶNG, NGà = NGÔ

Đối với các chữ mang dấu Hỏi cũng làm như vậy.

2) Khi không tìm ra một Tiếng-đôi Lấp-láy trong đó có chữ mà ta cần biết là mang dấu gì thì ta nên thử đưa nó vào loại chữ-láy bốn tiếng.

Ví dụ chữ đủng đỉnh: Ta có đủng đa đủng đỉnh, về lủng lẳng ta có lủng la lủng lẳng. Khi ta thấy đủng đa, lủng la, thì ta có thể khẳng định đủng và lủng phải viết dấu hỏi theo luật “KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI”. Khi đã biết đủng và lủng phải viết dấu hỏi rồi thì ta biết được đỉnh và lẳng củng phải viết dấu hỏi theo luật Trầm Bổng “KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI”.

3) Đối với Tiếng-Nôm-đơn, và Chữ-ghép.

Khi gặp tiếng Nôm-đơn hoặc một tiếng trong các Chữ-ghép mà ta phân vân về dấu hỏi ngã, thì ta tìm một Tiếng-đôi Lấp-láy có tiếng đó, rồi áp dụng luật đễ tìm dấu hỏi hay ngã.

Ví dụ 1: ta gặp các chữ: nghỉ, nghĩ, dở, dễ, khoẻ… Ta tìm xem các chữ nầy viết hỏi hay ngã. Ta xem tiếng Lấp-láy phải viết dấu gì?

nghỉ: nghỉ ngơi –> dấu hỏi
nghĩ: nghĩ ngợi –> dấu ngã
dở: dở dang –> dấu hỏi
dễ: dễ dàng –> dấu ngã
khoẻ: khoẻ khoắn –> dấu hỏi

Ví dụ 2: như gặp chữ sửa chữa, không biết chữ nào viết hỏi, chữ nào viết ngã, thì ta tách chữ đó ra để mà tìm.

Ta sẽ có Tiếng-đôi sửa sang. Khi đã có sửa sang thì ta yên tâm viết sửa với dấu hỏi vì “KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI”.

Đến chữ chữa thì ta biết chữa là Tiếng-nôm có Gốc-Hán-việt là chữ Trị, vậy phải viết dấu ngã, vì “HUYỀN, NẶNG, NGà = NGÔ.

Ví dụ 3: gặp chữ ủ rũ, không biết chữ nào viết hỏi, chữ nào viết ngã, thì ta cũng tách chữ đó ra, rồi tìm cách đưa thành một Tiếng-đôi Lấp-láy.

Ta sẽ có ủ ê. Khi đã có ủ ê thì ta yên tâm viết ủ với dấu hỏi, vì ê là chữ không dấu, theo luật “KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI”

Đến chữ rũ thì ta có Tiếng-đôi Lấp-láy rũ rượi nên ta biết là rũ phải viết dấu ngã vì rượi là chữ có dấu nặng, theo luật “HUYỀN, NẶNG, NGà = NGÔ

CHÚ Ý: Khi tạo Tiếng-đôi Lấp-láy để dựa vào đó mà xác định dấu hỏi ngã, ta cần chọn Tiếng-đôi Lấp-láy sao cho nghĩa của Tiếng-đôi đó, khi tách ra một mình, phải cùng nghĩa với chữ mình đang muốn tìm dấu.

Thí dụ: dễ (dễ làm) và dễ trong Tiếng-đôi Lấp-láy dễ dàng, dễ ợt, cùng có nghĩa giống nhau.

Nếu tìm được một Tiếng-đôi Lấp-láy hay không Lấp-láy nhưng chữ trong tiếng đó lại khác nghĩa với nghĩa của chữ mình đang tìm dấu thì không thể dùng được. Chẳng hạn như rũ trong ủ rũ mà ta lại dùng chữ rủ của rủ rê, rủ ren thì không cùng nghĩa cho nên ta sẽ viết sai dấu ngay.

Image may contain: text
No automatic alt text available.