Cách Mạng Lên Đồng – S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Cách Mạng Lên Đồng –

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Ảnh của tuongnangtien

Tôi vừa nhìn thấy qua F.B hình Đền Thờ Quan Lớn Đệ Tam cao ngất ngưởng, ở giữa lòng Hà Nội.

Ảnh: Ngô Nhật Đăng

Bức ảnh khiến tôi nhớ đến một đoạn văn mô tả cảnh “bắt đồng” trong hồi ký (Chiều Chiều) của Tô Hoài.

Chúng tôi xộc lên gác. Cái gác lửng cạnh sân thượng, trong phòng mù mịt khói hương. Góc trong, người cung văn già, áo đại cán, chòm râu lưa thưa, quần vải nhuộm cậy, cây đàn với người nghiêng ngả ê a bên một bà, tôi đã nhận ra mụ Na béo phục phịch. Mụ Na kéo trên đầu xuống một vuông nhiễu điều, miệng nhai trầu, mặt đỏ như uống rượu. Xung quanh, mấy bà nạ dòng đương rì rầm khấn vái.

Thấy người lố nhố, tất cả im bặt.

Trên bàn thờ, khói hương trắng mờ. Mấy nải chuối xanh chồng lên nhau giữa mâm ngũ quả. Hai bên chân án thư dán hai con thanh sà bạch sà bằng giấy viền trang kim vàng choé miệng há ngậm hòn ngọc giấy điệp nhấp nhánh. Cái đuôi con rắn ngoắt lên.

Mấy người quay ra, ơ mặt nhìn cô công an. Cô Đàng đội mũ lưỡi trai, áo kà ki vàng cứng nếp, nom oai vệ nhất. Tưởng cô ấy sắp lấy còng số 8 ra xích cả lại.

Mụ chủ nhà bỏ hẳn vuông nhiễu trên đầu xuống, trông rõ không phải vuông lụa vuông nhiễu, mà là hai ba cái khăn quàng đỏ của trẻ đi học khâu ríu lại.

Tôi hỏi:

– Bà là bà Na?

– Thưa vâng.

– Thế này là tụ tập trái phép làm mê tín dị đoan... Tôi nhân danh chính quyền cấm gia đình từ nay không được phạm vào đồng bóng dị đoan. Chúng tôi tịch thu các đồ mê tín. Yêu cầu các đồng chí bảo vệ làm việc...”

Hề Hoài Linh hầu đồng: Ảnh: Đất Việt

Tô Hoài qua đời đã lâu. Đám công an và dân phòng cùng đi “bắt đồng” với nhà văn năm xưa, nếu không mồ yên mả đẹp, cũng đều đã trở thành những ông già bà lão cả rồi. Chả ai còn sức để có thể “xộc lên” những cao ốc cao chót vót, giữa lòng Hà Nội, để “nhân danh chính quyền cấm đồng bóng dị đoan” như trước nữa.

Việc “chính quyền cấm đồng bóng dị đoan” nay cũng đã qua. Đất nước đã bước vào thời kỳ đổi mới. Mọi người, nhất là giới quan chức, đang có những “đam mê” mới – theo tin loan của báo Người Tiêu Dùng:

Hầu đồng còn gọi là hầu bóng hoặc lên đồng. Đây là một nghi lễ, một hiện tượng tâm linh còn chứa đựng nhiều điều “bí ẩn” mà không ít người đam mê.

Trong số những người theo nét văn hóa tín ngưỡng “Hầu đồng” này, một số cán bộ có chức, có quyền rất thành tâm khi đi “hầu đồng”, có cán bộ của Bộ Y tế đi “hầu đồng” điều một lúc 7 chiếc xe ô tô, đi cả trong giờ hành chính, đến bao trọn đền Bảo Lộc (tỉnh Nam Định) để ngồi “hầu đồng” mong được “thăng quan tiến chức”...

Theo ghi nhận, trong khoảng thời gian từ 12h đến 17h30 ngày thứ 7 (ngày 1/10/2016), một trong những ngày mà ông Phạm Văn Tác, Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ (Bộ Y tế) kéo đoàn xe đi “hầu đồng”, đền Bảo Lộc chỉ tiến hành cầu “may mắn” cho ông Tác và không cho người lạ vào khu vực. Có tất cả 7 chiếc ô tô trong đoàn “hầu đồng” đến đền Bảo Lộc.

Trong buổi hầu đồng, theo nguồn tin cung cấp, ông Phạm Văn Tác mua lễ 110 triệu đồng, đặt lễ 80 triệu đồng và mục đích chính của việc này là cầu “thăng quan tiến chức”.

Được biết, trong 4 tháng qua, ông Tác đi “hầu đồng” đến 17 lần và mục đích chính cũng chỉ như lần này: “Thăng quan tiến chức”.

Trong một chế độ mà “ghế ít đít nhiều” thì việc cầu cõi âm (hay “cõi trên”) cho được “thăng quan tiến chức” là một nhu cầu tất yếu, và được luật pháp “bảo đảm” – như thông tin của báo An Ninh Thủ Đô:

Ngày 10-10, Bộ Y tế đã nhận được đơn kiến nghị của ông Phạm Văn Tác phản ánh về việc ngày 9-10, Báo điện tử Người tiêu dùng thuộc Hội tiêu chuẩn và bảo vệ Người tiêu dùng Việt Nam có đăng bài phản ánh về việc ông Phạm Văn Tác, Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ – Bộ Y tế đi “hầu đồng” cầu thăng quan tiến chức.

Sau khi nghiên cứu vụ việc, đối chiếu với các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, Bộ Y tế có ý kiến như sau: “Việc ông Phạm Văn Tác tổ chức lễ tạ đền Bảo Lộc thờ Đức thánh Trần là việc cá nhân, gia đình đồng chí, không liên quan đến công việc của ngành y tế.

Dùng một lúc bẩy chiếc xe ô tô đi hầu đồng, trong giờ hành chính (và mua lễ cả trăm triệu) để cầu thăng quan tiến chức … mà được coi chỉ “là việc cá nhân, gia đình đồng chí, không liên quan đến công việc của ngành y tế” thì quan niệm của bà Bộ Trưởng Kim Tiến về tình đồng chí – rõ ràng – rất thoáng!

Vụ trưởng Phạm Văn Tác hầu đồng. Ảnh: nguoitieudung

Thiệt là may phước cho ông Vụ Trưởng. Nếu không có chút tình “đồng chí” thì phen này nếu không bị lôi thôi lớn, e cũng lôi thôi lắm. Ông Tống Hồ Phương, người dựng tượng Ðức Thánh Trần – ở xã Ninh Gia, huyện Ðức Trọng, tỉnh Lâm Ðồng – không có được sự may mắn tương tự – theo tường trình của biên tập viên Hoà Ái, RFA:

“Vụ việc chính quyền địa phương không cho phép người dân đặt tượng thờ Đức Thánh Trần-Hưng Đạo Vương trên bục, trong khuôn viên gia đình ở Lâm Đồng làm dấy lên quan ngại rằng dân chúng Việt Nam thể hiện tín ngưỡng thuần Việt của họ như thế nào mới là đúng luật?

Ông Tống Hồ Phương kêu cứu kể từ ngày 4 tháng 1 năm 2017, là thời điểm dựng tượng Đức Ông-Trần Hưng Đạo, cao khoảng 1,6 mét lên bục. Trong vòng ba ngày liên tiếp, cho đến ngày mùng 6 tháng 1, chủ tịch và phó chủ tịch cùng công an và cán bộ địa chính xã Ninh Gia đến tận nhà yêu cầu gia đình hạ tượng. Anh Nguyễn Xuân Quang, cháu của ông Tống Hồ Phương kể lại diễn tiến của vụ việc:

“Bắt đầu xây cái bục tầm khoảng ngày 9, ngày 10 tháng 12. Mình xây xong thì họ chẳng nói gì hết. Khi đưa tượng Ông về thì họ nói là vi phạm không có giấy phép xây dựng. Họ kêu phải tháo dỡ tượng Ông xuống. Biên bản lập yêu cầu tháo dỡ xuống. Gia đình em xin không tháo dỡ mà để Ông đứng đó. Họ mới nói dời cái lư hương, không cho để bát nhang, thắp nhang. Gia đình mới dời cái lư hương. Mình xin thì họ đồng ý như vậy, nhưng họ nói miệng rằng trong vòng 60 ngày nếu không có một công văn nào phản hồi cho họ thì họ vào làm việc; không có giấy phép xây dựng thì họ phạt từ 3 đến 5 triệu đồng và họ cưỡng chế.”

Việc “tháo dỡ” và “cưỡng chế” một pho tượng, trong khuôn viên của gia đình, với số tiền phạt vài ba triệu bạc – nói nào ngay – chỉ là chuyện nhỏ, và có tính cách cá nhân. Ở tầm mức quốc gia, liên quan đến tôn giáo/tín ngưỡng, nước Việt còn có lắm chuyện kinh thiên/động địa hơn nhiều, theo lời của blogger Nguyễn Anh Tuấn:

“Trước thì san bằng Chùa Liên Trì, nay lại định giật sập Tu viện và Nhà thờ Thủ Thiêm có lịch sử tới 177 năm trước cả khi thực dân Pháp đến Việt Nam, chính quyền TPHCM đang cho thấy vì tiền họ có thể cạn tàu ráo máng với lịch sử như thế nào …”

Vì tiền thì “chính quyền TPHCM” hay “chính quyền Hà Nội” đều giống y như nhau thôi: Họ ăn tất tần tật không từ một cái gì, và “cạn tầu ráo máng” với tất cả mọi thứ, chứ nào có riêng chi “lịch sử.” Tuy nhiên, theo một blogger khác – Viết Từ Sài Gòn – thì “vấn đề không nằm ở yếu tố kinh tế mà lại nằm ở lĩnh vực chính trị.”

Theo tôi chắc cả hai. Ngoài việc cưỡng chế đất đai vì lợi nhuận, chuyện phá bỏ đình/chùa/đền/miếu/thánh thất/giáo đường và những cơ sở tôn giáo (ngoài vòng kiểm soát của nhà nước) vốn là chủ trương bất biến và xuyên suốt của những người CSVN. Họ cũng đang họ “cổ võ” hay “khuyến khích” loại tín ngưỡng thực dụng như Hầu Đồng hay Hầu Bóng. Bởi thế, nên giới quan chức dùng cả chục chiếc xe ô tô (trong giờ hành chính) để đi “hầu” mà vẫn được coi như là chuyện riêng tư, được pháp luật cho phép và bảo vệ!

Khi mà cả nước đều “lên đồng” và “đời sống tâm linh” của mọi người chỉ còn giới hạn vào việc cầu xin lợi lộc cho cá nhân (hoặc gia đình) thôi thì bọn cầm quyền hiện hành – tất nhiên – cũng cảm thấy sẽ bớt lo lắng hơn nhiều về sự tồn vong của chế độ. Bởi thế, Wikipedia (tiếng Hà Nội) nay có đoạn sau:

Trong cách mạng, các đền phủ không chỉ là nơi hương khói phụng sự mà nhiều nơi là căn cứ cách mạng nơi cứu dân độ thế.

“Ai bảo là đồng không giúp nước

Âm phù dương trợ chẳng kể công”

Phong trào dân chủ bị đe dọa

Phong trào dân chủ bị đe dọa

Kính Hòa, phóng viên RFA
2017-01-30
Người dân biểu tình trước Tòa án nhân dân Hà Nội, nơi diễn ra phiên xử blogger Basam Nguyễn Hữu Vinh ngày 23 tháng 3 năm 2016. Ảnh minh họa.

Người dân biểu tình trước Tòa án nhân dân Hà Nội, nơi diễn ra phiên xử blogger Basam Nguyễn Hữu Vinh ngày 23 tháng 3 năm 2016. Ảnh minh họa.

AFP photo

Cuộc trấn áp vẫn tiếp tục

Thêm một người phụ nữ hoạt động dân sự nữa bị bắt. Bà Trần Thị Nga bị công an ập vào nhà bắt giữ vào ngày 21 tháng giêng, chỉ vài ngày trước Tết nguyên đán để lại hai con còn nhỏ.

Bà Nga được biết đến là người đấu tranh chống những sai trái trong việc đưa công nhân ra nước ngoài đi làm thuê, và đấu tranh cho những nông dân bị mất đất.

Blogger Châu Đoàn đặt ra câu hỏi tại sao nhà cầm quyền lại bắt giam một người phụ nữ không một tấc sắt trong tay:

Bắt để đe doạ những người đấu tranh khác? Có thể đấy là tư duy của những người đưa ra quyết định nhưng đấy là một sai lầm. Những người đã tham gia vào đấu tranh, nếu sợ họ đã không làm từ đầu. Việc bắt bớ một người với lý do thiếu thuyết phục sẽ chỉ khiến họ phẫn nộ hơn và có thể sẽ khiến cả những người không quan tâm tới chính trị sẽ ít thiện cảm hơn với chính quyền.

Những người đã có đủ dũng khí để đấu tranh đều hiểu một điều đơn giản là đời chỉ có một lần, thời gian sống thực ra cũng không là bao nhiêu, sống làm sao cho có ý nghĩa nhất và để được thế thì họ cần phải sống đúng là mình. Nỗi sợ, nếu có chỉ là thoáng qua và sẽ bị chôn vùi bởi khát vọng đẹp đẽ. Do vậy mà càng sống, nỗi sợ trong họ càng ít đi, và nếu đã đấu tranh, họ sẽ ngày càng quyết liệt hơn mà thôi.

Bắt để đe doạ những người đấu tranh khác? Có thể đấy là tư duy của những người đưa ra quyết định nhưng đấy là một sai lầm.
– Blogger Châu Đoàn

Hình ảnh gương mặt không sợ hãi của bà Nga được lan truyền khắp các trang blog và mạng xã hội, bên cạnh những nét mặt mà blogger Cánh Cò mô tả là hoàn toàn thiếu tự tin, đầy tự ti của các nhân viên công an, điều mà Cánh Cò cho rằng thể hiện rõ ràng sự nhỏ mọn của nhà cầm quyền:

Sự nhỏ mọn mà chính quyền Việt Nam dung dưỡng cho công an các cấp biểu hiện trên từng khuôn mặt của những cán bộ thi hành lệnh bắt giam chị. Mỗi ánh mắt hay từng cái nhếch mép, hành động đều toát lên vẻ ác độc và đầy tự ti. Chiếc còng số 8 tra vào tay chị trong khi kẻ cầm nó lại không dám nhìn vào mắt người mà chúng cho là phản động. Chị Nga đúng là phản động theo ngữ nghĩa tích cực nhất: Thay đổi tư duy nhỏ mọn của bọn cầm quyền.

Nhạc sĩ Tuấn Khanh nhìn thấy trong cuộc bố ráp vây bắt bà Nga của lực lượng an ninh, có một điều gì đó mỉa mai khi so với những cuộc tìm kiếm vô vọng, cũng của cơ quan an ninh, đối với các quan chức cao cấp của nhà nước phạm tội tham nhũng,

Cuộc vây bắt rầm rập và quá chuyên nghiệp đến mức người ta nhớ đến các cuộc ra đi khỏi Việt Nam một cách thư thả, của các quan tham nhũng như Trịnh Xuân Thanh, mà tiếng hô vang truy tìm giống như một trò chơi trốn tìm của trẻ con.

Thật dễ nhận ra, ở đâu cũng vậy, khi một nhà nước kinh sợ công lý và sự thật, tìm cách trấn áp, thì chắc chắn đó là một nhà nước tăm tối và vô luân.

image-400.jpg
Truyền hình Việt nam đưa tin vụ bắt bà Trần Thị Nga hôm 21/1/2017Screen shot

Đề cập tới công lý, Thiên Luân nhắc lại câu chuyện một quyển sách về pháp luật Việt Nam in hình một diễn viên hài mặc quần ngắn cách đây đã lâu, tác giả viết trên trang Dân Luận về sự bế tắc của ngành tư pháp Việt Nam dưới sự lãnh đạo tòan diện của đảng cộng sản Việt Nam:

Tòa án theo nghĩa là biểu tượng của Công lý, là nơi công dân gửi gắm niềm tin rằng bất kỳ vi phạm pháp luật nào cũng bị xử lý nghiêm minh. Nhưng tòa án ở nước ta không làm được như vậy. Các tranh tụng tại tòa không được coi trọng, vai trò luật sư thì mờ nhạt – phiên tòa như “đấu tố”. Nên nói không ngoa rằng, tòa án chỉ là cơ quan hợp thức hóa các khâu trước của cơ quan điều tra và viện kiểm sát.

Chiếc còng số 8 tra vào tay chị trong khi kẻ cầm nó lại không dám nhìn vào mắt người mà chúng cho là phản động.
– Blogger Cánh Cò

Nói thêm rằng, với cơ chế hiện nay, tòa án khó mà độc lập khi xét xử và người thẩm phán khó có thể có đủ bản lĩnh để độc lập. Tòa án như một cơ quan hành chính và người thẩm phán như là một công chức trong hệ thống hành chính và họ điều là Đảng viên mà Đảng viên phải chịu sự chỉ đạo cấp ủy. Cho nên chỉ có ở xứ ta mới những quy tắc “bất thành văn” như báo cáo án, thỉnh thị án, duyệt án… Nhà văn Vũ Thư Hiên nhận xét: “Cái này thì rõ ràng, rằng là những gì tôi biết tới nay thì đảng đều có sự can thiệp vào công việc của tòa án.”

Trở lại với vụ bắt giữ bà Trần Thị Nga, đây là vụ mới nhất trong một loạt vụ bắt bớ các nhà hoạt động xã hội dân sự và bất đồng chính kiến trong một thời gian rất ngắn. Giải thích hiện tượng này, tác giả Trương Nhân Tuấn nhắc lại nhận định của ông cách đây không lâu rằng bây giờ giới đấu tranh dân chủ ở Việt Nam rất đơn độc, vì các quốc gia dân chủ phương Tây vốn chống lưng cho phong trào dân chủ khắp nơi trên thế giới đang phải lo toan những việc khác trong đất nước của họ.

Xã hội công an trị bị tháo ra từng mảnh

Những hành động trấn áp bất đồng chính kiến được blogger Nguyễn Anh Tuấn cho là nằm trong cách hành xử của những kẻ chưa kịp khôn lớn nhưng đã lên cầm quyền. Những người cầm quyền này áp dụng một tiêu chuẩn đạo đức mà Nguyễn Anh Tuấn gọi lại là một thói quen đạo đức nước đôi:

Liên tục dẫn lời tiền bối cách mạng của chính họ: ‘Dân chủ là để cho dân được mở miệng ra’, song họ lại thường xuyên xuyên tạc ý nghĩa câu nói này bằng cách thêm thắt, phân loại lời nói của dân lúc thì ‘mang tính xây dựng’, khi thì ‘có ý phá hoại’, tùy vào ý thích chủ quan của họ. Dán nhãn ‘phá hoại’ xong thì cứ theo đó mà trấn áp người dân, họ như đứa trẻ ngông cuồng hành xử theo cảm tính yêu ghét cá nhân nhưng lại được giao quá nhiều quyền lực nên bỗng dưng trở thành mối đe dọa đối với ổn định xã hội.

Nếu chúng ta trung thực với chính mình thì chúng ta sẽ phải nói thật rằng: hiện nay dân chủ hoá chưa phải là nhu cầu của đa số chúng ta.
– Blogger Nguyễn Thị Từ Huy

Nhưng cũng xin nhắc lại rằng những người cộng sản luôn quan niệm rằng cơ quan công an là một công cụ trấn áp của họ chống lại những lực lượng đối lập trong xã hội, tạo nên một xã hội mà nhiều người trong đó có blogger Đoan Trang gọi là xã hội công an trị.

Đoan Trang viết rằng lực lượng này sử dụng những biện pháp lừa đảo và khủng bố để gieo rắc nỗi sợ trong dân chúng, từ đó trấn áp, cô lập những người đối lập trong xã hội.

Nhưng những biện pháp như vậy được cho là đã tạo nên một xã hội chia rẽ, bị tháo rời ra từng mảnh, theo lời của blogger Viết Từ Sài Gòn:

Lẽ ra, Việt Nam đã tốt đẹp hơn nhiều và dân chủ hơn nhiều nếu như không có sự can thiệp thô bạo bằng những chính sách xóa bỏ dân tộc, xóa bỏ văn hóa và tâm linh nhằm sáp nhập vào cái giáo điều gọi là “quốc tế Cộng sản”. Nhưng không, đất nước đã không được như thế, dân tộc không những không đoàn kết, tình yêu thương bị mất mà qua thời gian, những chính sách gắt máu, công an trị và bóp chết tự do của người dân, để giới cán bộ, quan chức lộng hành đã nhanh chóng đẩy xã hội Việt Nam đến vực thẳm của lòng thù hận, sự mạt sát và máu lạnh.

Tác giả viết thêm rằng sự chia rẽ đó có cả trong nội bộ những người mong muốn có một xã hội Việt Nam dân chủ hơn.

000_D28R1-400.jpg
Nhà hoạt động Lã Việt Dũng bị côn đồ hành hung hôm 10/7/2016. AFP photo

Sự chia rẽ đó lại càng trầm trọng hơn khi số đông người Việt Nam hiện nay vẫn chưa có một nhu cầu về một xã hội dân chủ. Blogger Nguyễn Thị Từ Huy viết rằng:

Nếu chúng ta trung thực với chính mình thì chúng ta sẽ phải nói thật rằng: hiện nay dân chủ hoá chưa phải là nhu cầu của đa số chúng ta. Đa số vẫn chỉ đang dừng lại ở nhu cầu thoát nghèo và nhu cầu tiêu dùng. Tầng lớp trung lưu chủ yếu vẫn đang bị cuốn vào lô gic của xã hội tiêu thụ, và đặt mục tiêu kiếm tiền, nhưng chưa tự đặt cho mình nỗi băn khoăn về việc kiếm tiền theo cách nào và kiếm tiền để làm gì.

Đoạn văn trên đây được bà viết trong bài cảm ơn Giáo sư người Mỹ Jonathan London khi ông vừa công bố một bức thư giửi cho tất cả những người Việt Nam, và tự nhận mình là một người bạn thân. Bức thư vạch ra những khó khăn của tiến trình dân chủ hóa tại Việt Nam trên nhiều lãnh vực, trong tình hình thế giới biến động nhiều bất an, mà cả một nền dân chủ lớn như nước Mỹ cũng bị đe dọa.

Tuy nhiên ông London vẫn cho rằng dân chủ vẫn là nguồn cảm hứng cho tất cả mọi người, trong đó có người Việt Nam:

Muốn Việt Nam trở thành một thị trường hấp dẫn, hãy chọn con đường chính đại. Hãy dũng cảm và sáng suốt để bảo vệ người lao động Việt Nam.
– Jonathan London

Muốn Việt Nam trở thành một thị trường hấp dẫn, hãy chọn con đường chính đại. Hãy dũng cảm và sáng suốt để bảo vệ người lao động Việt Nam. Hãy dứt khoát nói không với những dự án không đảm bảo môi trường. Hãy hiểu và biết quý trọng giá trị câu “dân cần nước sạch”. Làm như thế thì Việt Nam mới có lực để ‘chịu phát triển’ bền vững, và có chất lượng hơn so với những năm gần đây.

Tinh thần sẵn sàng đầu tư cho giáo dục của con cái sẽ vô cùng lãng phí nếu chúng ta (tức là cộng đồng nhà giáo và người dân) không đòi hỏi và xây dựng được một hệ thống giáo dục thực sự phản ánh tinh thần cởi mở, phản biện khoa học. Nếu không thế, chúng ta không có cơ sở gì để kỳ vọng đất nước Việt Nam cất cánh.

Hiện nay người dân Việt Nam ngày càng quan tâm hơn đến số phận của đất nước mình. Và đây chính là lúc để cởi trói cho những giá trị chính trị quan trọng nhất đối với người dân Việt Nam từ thời Pháp đến nay: tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do báo chí, tự do tư duy chính trị. Nếu bạn hỏi tại sao tôi lại lạc quan khi những giá trị này chưa được tôn trọng đúng mức? Bởi vì tôi thấy ngày càng nhiều người Việt nhìn nhận rằng những quyền này là cần thiết hơn bao giờ hết.

Trong tình trạng bất an hôm nay, tôi tin rằng người dân Việt Nam sẽ tiếp tục nỗ lực học hỏi, tham gia đóng góp và ra sức thúc đẩy một xã hội dân chủ hơn, văn minh, minh bạch, công bằng, và có trật tự. Tôi nghĩ rằng dù ở Việt Nam hay ở Mỹ hay bất cứ ở nơi nào trên trái đất, những nỗ lực phát triển xã hội thể theo nguyện vọng dân chủ và nhân dân vẫn là vấn đề cốt lõi và cần được khuyến khích hơn bao giờ hết.

Nhà báo Trần Phong Vũ nhận xét bức thư của Giáo sư London:

Đấy là sự đồng nhất trong quan điểm của một trí thức luôn tỏ ra quân bình trong mọi phê phán, nhận định về đường lối, chính sách của đảng và nhà nước Cộng Sản Việt Nam cũng như khát vọng sâu xa của người dân, các nhà đấu tranh cho dân chủ và các tổ chức Xã hội Dân sự ở Việt Nam lâu nay.

Ông Trần Phong Vũ cho rằng đây là một bức thư thẳng thắn và đầy thiện chí, một cái phao để đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam tìm ra một sinh lộ, tránh điều mà blogger Nguyễn Anh Tuấn lo ngại rằng Bất ổn xã hội như một lẽ tự nhiên nếu không có gì thay đổi.

Đảng cộng sản Việt Nam, ngã ba đường lịch sử: Tồn tại và diệt vong?

 Đảng cộng sản Việt Nam, ngã ba đường lịch sử: Tồn tại và diệt vong?

FB Lang Anh

29-1-2017

Các ông tổ cộng sản Karl Marx, Angels, Lenin, Stalin được so sánh với nhà lãnh đạo độc tài phát xít Hitler. Nguồn: internet

Phong trào cộng sản toàn cầu, được khởi xướng từ những nhà tư tưởng thủy tổ là Marx và Engels, cho đến khi được nhào nặn thành một nhà nước thực tế bởi một người có tư duy thực dụng là Lenin, đã trải qua một thời kỳ dài với những phép thử liên tiếp về mặt tư tưởng. Hầu hết những lý luận cốt lõi của lý thuyết cộng sản đều khá mù mờ, với nền tảng là một xã hội ảo tưởng dựa trên khao khát và hiện nay thì đã bị phủ nhận hoàn toàn.

Trong khi đó, con đường mà những đệ tử của Marx tìm cách đến với xã hội chỉ có trong mơ đó thì lại đầy rẫy sai lầm. Kết quả của những phép thử về mặt tư tưởng này là một thế giới bị cày xới bởi những biến động xã hội sâu sắc. Có nhiều triệu sinh mạng đã phải trả giá trong những cuộc chiến đẫm máu, nhiều quốc gia chìm vào vài chục thập niên trong bóng tối để đến lúc nhận ra thì đất nước đã phải trả giá nặng nề và họ lại phải bắt đầu lại từ vạch xuất phát, trong khi phần còn lại của thế giới đã có những bước tiến quá xa trong lộ trình hướng tới văn minh.

Thời hoàng kim của những lý thuyết cộng sản là những năm 1960. Khi đó người ta thống kê được trên dưới 100 quốc gia áp dụng theo hoặc mô phỏng theo các mô hình tổ chức xã hội mang sắc thái cộng sản. Sự đào thải của thực tế là một phép thử rất đắt giá. Ngày nay chỉ còn năm quốc gia tự nhận là hậu duệ của những nhà cách mạng cộng sản, gồm Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Triều Tiên, Lào và CuBa. Toàn bộ các chế độ cộng sản còn lại đều đã bị lịch sử đào thải.

Với 5 chế độ cộng sản còn đang thoi thóp, họ cũng chẳng còn chút bóng dáng nào của những mô hình xã hội mà họ tuyên bố kế thừa. Cốt lõi lý luận của họ đều đã bị chính họ đào thải về mặt thực tiễn, phần còn lại chỉ là một xã hội lai căng quái đản giữa thể chế cai trị độc tài và nền kinh tế thị trường vay mượn từ các nước phương tây. Trong năm quốc gia đó, Trung Quốc đạt được những bước tiến rất mạnh mẽ trong khoảng 45 năm qua và hiện được coi là cường quốc số hai thế giới. Việt Nam có những cải cách vay mượn học theo ở một trình độ thấp hơn và lọt tốp các quốc gia có mức thu nhập trung bình thấp, trong khi đó, Bắc Triều Tiên thoái lui trở lại thành một xã hội phong kiến, hai quốc gia kế chót còn lại thì đang ngấp nghé bởi những trào lưu hứa hẹn sự tan rã của các chính thể độc tài.

Sự phát triển của Trung Quốc thường được các tay tuyên huấn cộng sản tuyên truyền như một khởi đầu mới của các lý thuyết cộng sản. Trên thực tế, chính bản thân những nhà lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc cũng hiểu rất rõ họ đang đối mặt với sự sụp đổ từ bên trong, và thời gian tồn tại của nền cái trị độc tài cộng sản ở quốc gia này là một chiếc đồng hồ đếm ngược. Sự lai căng quái đản giữa mô hình cái trị độc tài và nền kinh tế thị trường ở Trung Quốc và Việt Nam đã tạo ra những vấn nạn mà các chế độ này không thể tự giải quyết được. Toàn bộ nền tảng lý luận của họ đã bị thực tế phủ nhận và lộ rõ tính ảo tưởng, những đảng viên từ cấp thấp nhất đến cấp cao nhất lâm vào sự khủng hoảng khi không còn lý tưởng soi đường. Trong khi đó, quyền lực độc tài và những món lợi kinh tế được tạo ra từ sự cấu kết giữa quyền lực chính trị và các hoạt động kinh tế tư bản rừng rú đã khiến bộ máy cai trị của họ tha hoá nhanh chóng đến tận gốc rễ. Trên thực tế, tất cả các đảng viên từ cấp thấp nhất đến cấp cao nhất tại Trung Quốc và Việt Nam đều không sống bằng những nguồn thu nhập công khai, họ vơ vét tiền và làm giàu nhanh chóng từ những lợi thế quyền lực và thông tin mà chế độ ban phát cho họ. Bằng cách vay nợ và đánh đổi các giá trị môi trường, Trung Quốc đạt được nhiều thành tích kinh tế ngắn hạn, nhưng đi kèm với nó là sự tha hoá của toàn bộ đội ngũ cầm quyền. Tập Cận Bình khá thực lòng khi phát biểu công khai trong một hội nghị cấp cao của Đảng Cộng Sản Trung Quốc vào năm 2012: “Chúng ta đang phải dựa vào một đội ngũ tội phạm để cai trị đất nước”

Hầu như không còn ai tại Trung Quốc và Việt Nam còn tin rằng chế độ cai trị có thể trường tồn. Câu cửa miệng của các quan chức Trung Quốc khi gửi vợ con và các tài sản vơ vét được ra nước ngoài là: “Cũng chẳng còn được lâu nữa đâu”. Trên thực tế các xã hội như Trung Quốc và Việt Nam từ lâu đã biến thành những xã hội phân biệt đẳng cấp sâu sắc. Nếu có những thống kê thực tế về tài sản của các Đảng viên Đảng cộng sản cỡ trung cao cấp và toàn bộ phần còn lại của đất nước thì chắc chắn rằng hầu hết các tài sản và nguồn lực kinh tế của những quốc gia này đều nằm dưới sự chi phối, sở hữu và thao túng của các hậu duệ cộng sản. Khởi nguồn từ những cuộc đấu tranh giai cấp, nhưng hiện nay chính họ lại là một giai cấp mới, sở hữu hầu kết các nguồn lực kinh tế và sở hữu tuyệt đối về quyền lực chính trị. Tất nhiên, kiểu tồn tại của họ sẽ không thể lâu dài, vì tự thân nó là nguyên nhân của sự diệt vong. Vậy nhưng các nhà nước cộng sản tại Trung Quốc và Việt Nam vẫn đang tồn tại và cố tìm mọi cách níu kéo quyền lực của mình.

Bằng cách tận diệt tài nguyên và đánh đổi các giá trị môi trường, Trung Quốc tạo được nhiều thành tích ấn tượng về phát triển kinh tế ngắn hạn. Đây được coi là thứ bùa thiêng để các nhà tuyên huấn của Đảng Cộng Sản Trung Quốc tuyên truyền nhằm duy trì tính chính danh của mình. Tuy nhiên, đó là sự phát triển không có ngày mai vì đó là sự vay mượn tận diệt từ tương lai để đốt hết cho hiện tại. Trong lúc các vấn nạn về tham nhũng, tha hoá, bất bình đẳng và sự kìm kẹp xã hội đến nghẹt thở càng lúc càng nặng nề. Ở chiều ngược lại là một nền tảng dân chúng ngày một khao khát tự do. Một điều gần giống như thế cũng diễn ra ở Việt Nam, tuy nhiên chế độ cộng sản ở Việt Nam kém thành công hơn trong việc tạo ra các thành tích kinh tế ngắn hạn (điều không may) và đồng thời cũng kém thành công hơn trong việc bóp nghẹt sự giao lưu về các lý tưởng tự do (điều may mắn). Giữa hai chế độ độc tài cộng sản có thể coi là còn hùng mạnh này, Việt Nam có nhiều cơ sở để tạo ra sự đổi thay nhanh hơn Trung Quốc.

Mặc dù biết chắc phía trước là vực thẳm, nhưng đội ngũ lãnh đạo chóp bu ở cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đều tin rằng họ có thể trì hoãn được thời gian. Những nỗ lực của họ không phải để hướng tới tương lai mà là để kéo dài cái chết. Điểm kết cuối cùng là những tay cộng sản nặng túi sẽ tìm cách đào thoát khỏi con tàu sắp đắm. Còn những gì diễn ra sau lưng thì có lẽ đúng với câu ngạn ngữ cổ xưa: “Khi trẫm đã thôi trị vì thì dẫu có nạn hồng thủy trên vương quốc cũng mặc”. Có những cách thức để họ có thể thay đổi và trì hoãn ngày tàn, và đó cũng chính là thứ mà các tay lý luận cộng sản cố gắng tìm kiếm. Bài viết này sẽ bàn đến những cách thức đó.

Lời chúc đầu năm

15 câu châm ngôn tuyệt diệu.

15 câu châm ngôn tuyệt diệu.

 CHAM NGON

 

 

 

 

 

 

 

 

Tài sản lớn nhất của đời người chính là sức khỏe, sự giàu có lớn nhất chính là sự thỏa mãn, thắng lợi lớn nhất chính là không tức giận, thành tựu lớn nhất không gì hơn chính là dù ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào đều ung dung tự tại

  1. Thuốc tốt trên đời này, mỗi một loại thuốc chỉ có thể chữa một loại bệnh; còn thuốc tốt của tâm linh, trí tuệ và từ bi thì có thể chữa trị tất cả mọi đau khổ.
  1. Con người vẫn hay than phiền không thể tìm thấy sự bình yên trong tâm hồn, nhưng kỳ thực, trước giờ nó vẫn ở sâu trong lòng, bạn không cần phải tìm kiếm. Chỉ cần bạn có thể giữ tâm bất động, không“vì dục vọng mà cực khổ, bận rộn suốt cả ngày”  thì tự nhiên sẽ cảm nhận được sự tồn tại của nó.
  1. Khi trong lòng bạn ngập tràn sự yên vui, thì đi đến đâu cũng đều là hoan hỷ tự tại; khi trong tâm tràn đầy trí huệ thì một cành hoa, cọng cỏ cũng khiến bạn thấy được chân lý.
  1. Thế giới mà bạn đang nhìn thấy, chỉ là phản ứng của nội tâm. Trong lúc tâm trạng cởi mở, nhìn thấy ai cũng là bạn bè thân thiết; còn khi đang buồn bực, đi đâu cũng chỉ thấy những khuôn mặt đáng ghét.
  1. Mọi người đều cho rằng giàu có và nổi tiếng đồng nghĩa với vui vẻ. Nhưng thực ra, nếu trong lòng bạn ngập tràn niềm vui, bạn vốn dĩ không cần danh lợi. Còn nếu trong lòng bạn không có niềm vui, hiển nhiên là có sở hữu giàu có và nổi tiếng của cả thế giới cũng không có ý nghĩa gì. Nếu bạn chỉ biết suốt ngày bận rộn mong kiếm được nhiều tiền hơn và bảo vệ sự giàu có mà bạn sở hữu, thì thật ra đối với bạn mà nói, chúng đã không có lợi ích thực sự nào nữa rồi.
  1. Nếu bạn nhìn cuộc đời bằng đôi mắt phán xét, thế giới này sẽ chỉ toàn những người có  khiếm khuyết; nhìn bằng đôi mắt kiêu ngạo, thế giới này sẽ chỉ toàn những người thấp hèn và ngu ngốc; nhìn bằng đôi mắt trí tuệ, bạn sẽ phát hiện ra rằng mỗi người bạn gặp phải,  đều có những điểm đáng để bạn học hỏi và tôn trọng.
  1. Người có trí tuệ, khi ở một mình sẽ quản thúc tốt tâm của mình và coi đó là cơ hội tốt để tự kiểm điểm bản thân. Còn khi tiếp xúc với người khác, họ sẽ quản tốt cái miệng của mình và coi đó là cơ hội để khiêm tốn học hỏi.
  1. Kẻ tự biết mình là ngốc thì không phải kẻ ngốc, còn kẻ tự cho mình là thông minh thực ra lại là kẻ ngốc trong số những kẻ ngốc.
  1. Mỗi một người bạn gặp hàng ngày đều là thầy của bạn: Người thông thái dạy đạo lý từ bi, người ngang ngược dạy bạn đạo lý nhẫn nhục.
  1. Tất cả mọi người, tất cả mọi sự vật trên thế gian này đều là có sự liên quan, tương hỗ với nhau. Trong lúc cho đi, thật ra là bạn đang làm lợi ích cho chính mình. Vũ trụ, vạn vật đều là nhất thể. Khi bạn làm hại mặt đất, dòng sông và các sinh linh sống trên đó, thật ra là bạn đang làm hại chính mình.
  1. Nếu như bạn muốn thường xuyên vui vẻ, đừng đem niềm vui đặt vào những thứ phù phiếm bề ngoài. Hãy xem sự giàu có của bạn, nhà và xe của bạn đều là mượn của người khác, lợi dụng chúng thật tốt, nhưng không được si mê chúng. Chỉ cần làm được như vậy bạn sẽ hưởng thụ được một cuộc đời đơn giản nhưng vui vẻ.
  1. Tài sản lớn nhất của đời người chính là sức khỏe, sự giàu có lớn nhất chính là sự thỏa mãn, thắng lợi lớn nhất chính là không tức giận, thành tựu lớn nhất không gì hơn chính là dù ở bất cứ nơi đâu, bất cứ lúc nào đều ung dung tự tại.
  1. Nếu như vấn đề có thể giải quyết, bạn không cần phải lo nghĩ. Nếu vấn đề không cách nào giải quyết, bạn có lo nghĩ mấy cũng không giúp ích được gì.
  1. Mọi người đều thích có thể sống tự chủ, nhưng nếu như bạn nghe người khác nói câu gì đó khó chịu liền nổi nóng, thì bạn chính là đang giao quyền tự chủ cho người khác, rồi dần dần, ngoài bản thân bạn ra, mọi người đều trở thành chủ nhân của tâm bạn. Nếu bạn muốn có thể sống tự do tự tại, thì bạn nên đi học cách làm chủ tâm của mình trước.
  1. Tâm là nguồn gốc của sự an vui và cũng là nguồn gốc của sự đau khổ. Thân – khẩu – ý do một cái tâm chứa đầy hận thù và tham vọng gây ra thì chỉ mang đến đau khổ; ngược lại, những hành động, suy nghĩ, lời nói mà xuất phát từ một cái tâm thiện lành thì điều mang lại chính là phúc lạc.

Châu Yến biên dịch .

THỜI ĐẠI BỊP

From facebook:  Tran Dat shared Hung Le‘s post.
Image may contain: 2 people, text
Hung Le

THỜI ĐẠI BỊP

——

Lịch sử Việt Nam đã và đang tồn tại một thời đại như vậy, điều mà chúng ta gọi là: Thời Đại Bịp. Mới hay rằng, thế gian này chuyện ngược đời đến mấy cũng có thể xẩy ra, sự thể đã 70 năm nay rồi. Có thể nói, dân ta đã chịu đựng nổi bất công nhiều như sao trên trời, dân tộc ta phải hứng chịu một cơn đại hồng thủy phá hủy văn hóa ngàn năm.

Nhà nước hiện nay nói rằng, họ đang xây dựng sự nghiệp “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Thực tế thì như thế nào?

Họ (nhà nước) lấy của dân 10 đồng, rồi lại chia cho dân 2 đồng. Sau đó hệ thống truyền thông làm rùm beng lên, cho đó là công lao trời biển của đảng. Người dân cho dù nhìn thấy bất công, có phát hiện ra trò bịp thì cũng đành phải im lặng. Đảng sẽ giành một thái độ trìu mến cho những người biết sợ và phục tùng, và đàn áp bất cứ ai dám phản đối. Lâu dần xã hội hình thành một thói quen ứng xử: Nếu người dân chịu để cho đảng bóc lột và lừa dối thì mới được đảng tôn trọng.

Theo họ lý luận, đảng là người đầy tớ trung thành, nhân dân là chủ, nhưng người chủ đó phải chấp nhận các nguyên tắc sau: Đảng nói gì, dân cũng không được cãi lại, đó mới là một công dân tốt. Khi nhà nước ban hành các chủ trương chính sách, dân chỉ việc ngoan ngoãn làm theo, không phản đối và thắc mắc, có như vậy mới không phải là “phản động”. Trung ương bao giờ cũng đúng, chỉ có cấp dưới làm sai và ý thức chấp hành pháp luật của người dân chưa tốt, vì vậy mà đảng không bao giờ phải chịu trách nhiệm. Đảng còn nói rằng, mọi việc người dân không cần phải quan tâm, đã có đảng và nhà nước lo tất cả.

Người dân cúi đầu sợ hãi mà tuân thủ các nguyên tắc do đảng đặt ra, kết quả là dân tình khốn khổ, mất hết nhân quyền, nước mất nhà tan.

Với một sự vô lý to lớn như vậy, đảng biết rằng sẽ có ngày người dân nổi lên để mà đòi tự do đa đảng. Nhằm ngăn chặn quy luật tất yếu đó, đảng tung ra luận điệu “đảng nào cũng giống nhau mà thôi, rồi cũng tham nhũng cả. Thôi thì cứ để cho đảng Cộng Sản lãnh đạo mãi mãi cho khỏe chuyện. Vả lại, đa đảng thì lộn xộn và phức tạp lắm, khủng bố suốt ngày”. Để minh chứng cho nhận định trên, đảng cho chiếu trên truyền hình nhà nước tin tức khủng bố ở các nước dân chủ, để người dân xem đó thấy sợ mà không dám đòi tự do nữa.

Trong thời đại bịp này, báo chí, truyền hình, phát thanh tư nhân không có, tất cả đều là của nhà nước. Vì vậy mà tiếng nói của người dân vô cùng nhỏ bé, có muốn phản đối cũng không thắng nổi truyền thông của chế độ. Với một hệ thống truyền thông độc quyền hùng hậu như vậy, bao giờ đảng cũng đúng, cũng tốt và vĩ đại, chỉ có nhân dân là có tội. Đảng nắm phần cán dao, nhân dân thì nắm phần lưỡi dao, vì vậy không thể nào mà xoay chuyển tình thế được.

Tình cảnh đó khiến người ta luôn phải sống trong dối trá và bưng bít. Một xã hội không biết đến sự thật thì cũng giống như con người ta bịt mắt cho kẻ khác dắt đi. Dân tộc Việt Nam đã bị đảng Cộng Sản bịt mắt và dẫn dắt theo ý muốn của họ. Người dân không được biết gì khác ngoài những điều mà đảng cho phép biết, những điều mà đảng tuyên truyền.

Quay lại 70 năm về trước, đó là câu chuyện của những tầng lớp người thấp nhất vùng lên cướp chính quyền và sau đó lãnh đạo toàn bộ xã hội. Một nhà nước “vô sản” được dựng nên, và những người trí thức, bác học, nhà khoa học, kỹ sư, luật sư, giáo viên….phải phục tùng tuyệt đối những người Công Nhân và Nông Dân. Đó là một mô hình nhà nước hoang tưởng và ngược đời nhất mà nhân loại từng được chứng kiến, nó hoàn toàn đi ngược lại quy luật tự nhiên. Đó là một chế độ độc tài toàn trị, là kẻ thù không đội trời chung của các giá trị tự do, dân chủ. Là nơi mà con người bị đày đọa và trói buộc một cách có hệ thống nhất, nơi mà cái phí lý trở nên có lý. Và rồi những người công nhân và nông dân cũng bị lừa, bị chính chế độ đại diện cho họ phản bội, bị bóc lột và đàn áp hơn xưa.Từ đó mới dẫn đến một thời đại bịp như ngày hôm nay.

Đảng không bao giờ nhận lỗi, mà luôn có những đối tượng chịu trách nhiệm thay, đó là: Các thế lực thù địch, thiên tai, nhận thức yếu kém của người dân, đế quốc Mỹ, bệnh dịch…

Lừa dối nhân dân, biến sai thành đúng, biến trắng thành đen, cho nên nó thật xứng với danh xưng: Thời Đại Bịp.

Không có bất cứ luận điệu nào có thể biện minh cho một chế độ độc tài toàn trị, vì sự tồn tại của nó đã là một tội ác tày trời. Bởi nó tồn tại bằng cách lừa bịp, đàn áp, tham nhũng, và cướp đi các quyền tự do dân chủ của nhân dân.

Minh Văn.

“Hương xông lên lời ca ngợi sum hòa”

Ave Maria! Như Song Lộc Triều Nguyên – Thơ: Hàn Mạc Tử, Nhạc: Hải Linh

Video 

httpv://www.youtube.com/watch?v=YUTwJDYzYNc

Suy tư tuần thứ 4 mùa thương niên năm nay, lại đã thấy giòng thi-ca những chảy dài rằng:

 “Hương xông lên lời ca ngợi sum hòa”

Người có nghe xôn xao muôn tinh tú

Người có nghe náo động cả muôn trời?

Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời

Để ca tụng , bằng hương hoa sáng láng.”

Thơ ngâm rồi, người tìm đến với âm-nhạc, mà ca/hát những lời như:

“Vầng trăng từ độ lên ngôi”
năm năm bến cũ em ngồi quay tơ
em ngồi quay tơ
Quay đều..quay đều..quay đều..”

Thế nghĩa là, có ngâm thơ và ca hát lời gì đi nữa, cũng chỉ để gửi đến bà con ta trong thánh hội Nước Trời một niềm vui ẩn tàng một dáng dấp rất “quay đều” của thơ và “tơ” cứ quay hoài và quay mãi đến hết đời.

Thế nghĩa là, dù bạn và tôi, ta có “quay đều” niềm vui Tin Mừng đến thế nào đi nữa, thì đời người và đời mình cũng theo đó mà nhận lãnh những tâm-can hoặc nỗi niềm của nhà Đạo, rất nên thơ.

Thế đó, lại là tâm tình của người đang lặn l65i miền sâu miền xa đất Úc, gửi về bà con thân thương còn ở nhà đang vui sống.

Mai Tá

Từ miền xa bên Tây Úc xin được trân trọng gửi những tâm-tình như thế đó.

www.giadinhanphong.com
Suy Tư Tin Mừng Trong tuần thứ 4 thường niên năm A 29/01/2017

Tin Mừng: (Mt 5: 1-12a)

Thấy đám đông, Đức Giêsu lên núi. Ngài ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên. Ngài mở miệng dạy họ rằng:
“Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó,
vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay ai hiền lành,
vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.
Phúc thay ai sầu khổ,
vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.
Phúc thay ai khát khao nên người công chính,
vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.
Phúc thay ai xót thương người,
vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.
Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch,
vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.
Phúc thay ai xây dựng hoà bình,
vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.
Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính,
vì Nước Trời là của họ.
Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại
và vu khống đủ điều xấu xa.
Anh em hãy vui mừng hớn hở,
vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.

 +      +      +      +

“Hương xông lên lời ca ngợi sum hòa”

Người có nghe xôn xao muôn tinh tú

Người có nghe náo động cả muôn trời?

Người có nghe thơ mầu nhiệm ra đời

Để ca tụng , bằng hương hoa sáng láng.

(dẫn nhập từ thơ Hàn Mặc Tử)

 Thơ mầu nhiệm ra đời, nghe xôn xao náo động muôn tinh tú. Náo động, phải chăng người thi sĩ muốn nói đến mầu nhiệm cứu chuộc dân gian nơi trần thế? Bằng Hiến Chương/Cương Lĩnh Nước Trời?

Trình thuật Cương Lĩnh hôm nay, là những chương đoạn về hạnh phúc ở trần gian. Nơi đất miền thân thương, dẫy đầy phúc đức có chen lẫn những cực hình. Hiến chương/Cương lĩnh Nước Trời mà thánh sử lược ghi, là để người người được thấy dung mạo Đức Chúa, một Mô-sê rất mới.

Giống hệt như Môsê thời buổi trước, Đức Giê-su nay khởi đầu cuộc đời Ngài giảng rao bằng 5 bài giảng thuyết có những đề xuất, rất nghịch thường. Giống hệt như sách Ngũ Thư của Cựu Ước, Hiến chương Hạnh phúc Chúa ban hành trên non cao chốn núi vắng, là để tỏ bày cho người Do thái biết về đường lối Chúa dạy. Tức, những điều Ngài muốn ta thực hiện, trong cuộc sống.

Bài thuyết giảng đầu đời Chúa tuyên bố, không là băng hình đậm nét về những sự kiện vừa xảy ra trên núi thánh. Mà, là sưu tập tóm tắt những lời vàng Thầy gửi đến với đồ đệ rất thân thương. Lời Thầy khuyên dạy sẽ giúp những ai dấn bước theo Thầy, biết đường nghe theo mà sống những chuỗi ngày hạnh phúc, với anh em. Núi thánh ở đây, là địa điểm Thầy ban hành Hiến Chương mới. Là, điểm mốc lịch sử nơi diễn tiến mọi sự kiện đổi đời, có từ Thầy.

Vị thế Thầy ngồi khi tuyên bố Hiến Chương Hạnh Phúc, nói lên quyền uy rất mực của Đấng Vị Vọng, rất Tối Cao. Cách Chúa ngồi giảng rao, còn diễn tả quyền uy thế thượng mà các vị cha chung trong Giáo hội, vẫn đương làm khi có phán quyết quan trọng, gửi đến con dân. Phán quyết quan trọng, là quyết định có liên quan đến cuộc sống hạnh phúc của mỗi người, cho mọi người.

Phán quyết Chúa ban, là Hiến Chương còn hệ trọng hơn cả Mười Điều Giáo Lệnh Mô-sê rao truyền, vào thuở trước. Các giáo Lệnh Mô-sê chuyển giao, là luật sống cho con dân Do Thái để thi hành, không mấy khó. Không khó, vì luật là luật chẳng cần đến tình thương, chẳng cần phải tôn trọng. Cứ theo phương cách vị kỷ, tập trung vào chính mình. Hệt như thái độ chàng thanh niên rất giàu mà Tin Mừng từng nhắc đến: anh giữ trọn đủ 10 điều, từ hồi nhỏ. Giữ, nhưng chẳng cần tình thương yêu tha thứ. Anh là công dân tốt, nhưng không thể là đồ đệ đúng nghĩa của Chúa.

Hiến chương Thầy công bố, không là giới lệnh rất dễ làm. Tuy rằng, mỗi điều khoản bắt đầu bằng cụm từ “Phúc thay!”. Cụm từ này, xuất xứ từ tiếng Hy Lạp makarios, hoặc felix, tiếng La-tinh, cả hai bao hàm ý niệm hạnh phúc, rất cao trọng. Muốn am hiểu niềm hạnh phúc Chúa tuyên ban, có lẽ cũng nên am tường bối cảnh Nước Trời, Ngài tỏ bày. Tức, cần có tương quan tốt đẹp giữa ta và Đức Chúa. Cần chấp nhận Ngài là Chúa, Đấng hướng dẫn cuộc đời mà mọi người nên giữ.

Về bối cảnh Nước Trời, không chỉ người giàu sang, thành đạt hoặc quyền uy mới là người cao trọng, nhiều hạnh phúc. Trái lại, chỉ người hiền biết chấp nhận khổ đau mới đích thực là người được Chúa chúc phúc. Đây, không hẳn là hiến chương bình thường, cho muôn nước. Nhưng là Hiến Chương Hạnh Phúc Nước Trời Chúa đã ban. Hiến chương Hạnh Phúc Ngài ban, chú trọng nhiều đến nhu cầu thiết thực đổi thay cách sống. Đổi cả quan niệm về giá trị cuộc đời. Giá trị, nơi uy lực của kẻ yếu mềm, bị bỏ rơi.

Tìm hiểu ý nghĩa đích thực của Hiến Chương Hạnh Phúc, mọi người sẽ nhận ra điều Chúa thách thức lối suy tư bình thường, theo qui ước. Có tìm và có hiểu, ta mới thấy được ý nghĩa Ngài đưa ra:

*Hạnh phúc thay, người có tinh thần khó nghèo vì Nước Trời là của họ: người có tinh thần khó nghèo chính là người biết phó mặc hoàn toàn cho Đức Chúa. Có thái độ như thế, người người mới thực sự bước vào triều đại của Ngài. Không ỷ vào những gì mình đang có.

*Hạnh phúc thay cho người sầu khổ, vì họ sẽ được ủi an: sầu buồn và khổ đau nói ở đây, không là tâm trạng của người vừa có mất mát. Mất bạn bè. Mất người thân. Nhưng, còn vì ác thần/sự dữ cứ xảy đến với thế giới nhân trần. Nên, sầu buồn và khổ đau vẫn cứ đến. Hạnh phúc, là bởi họ vẫn cùng với mọi người đã giáp mặt khổ đau. Giáp mặt và sẻ san, chứ không bỏ chạy.

*Hạnh phúc thay cho người mềm yếu, vì họ sẽ thừa hưởng trái đất này: cụm từ “mềm yếu” trong Tin Mừng thánh Mat-thêu xuất từ tiếng Hy Lạp praus có nghĩa là: từ bi, bác ái. Trái ngược hẳn tính kiêu căng trịch thượng, chèn ép hoặc bạo tàn. Điều Chúa nói, ám chỉ sự tôn kính, tính hiền hoà phải có, với mọi người. Đây, còn là thái độ lùng kiếm bản chất thiện căn hầu tỏa sáng khắp nơi. Điều này trái với tính nhút nhát, đớn hèn mà người Do Thái đương thời thường lây nhiễm.

 *Hạnh phúc thay, những ai đói khát sự công chính, vì họ sẽ được no đầy: điều Thầy Chí Thánh muốn nói, là: những ai sống ở đất miền ứ tràn những của ăn cùng thức uống, sẽ chẳng bao giờ có được kinh nghiệm về sự đói khát người dân vùng sa mạc, vẫn hứng chịu. Người đói khát sự công chính mà Chúa nói, từng hiến trọn công sức và cuộc đời ngõ hầu tái tạo công bằng và bình an ở xã hội, họ đang sống. Những người như thế, chắc chắn thuộc về Triều đại Nước Trời. Làm Chúa yên vui.

 *Hạnh phúc thay,những ai có lòng thương xót vì sẽ được xót thương: đây không cốt ý chỉ sự thương hại hoặc cảm xúc hời hợt, nhưng là tâm tình thương cảm sẻ san. Tâm tình bước vào với nỗi niềm buồn đau, nơi người khác. Những người như thế, chắc chắn sẽ được Chúa đoái thương. Ở đoạn khác trong Tin Mừng, Đức Giê-su cũng khuyên môn đệ mình bắt chước lòng thương yêu của Đức Chúa. Điều này có nghĩa: ta hãy bỏ qua một bên mọi thành kiến lẫn ác cảm. Bỏ mọi ghét ghen miệt thị trong giao tiếp, đối xử.              

 *Hạnh phúc thay, những ai có tâm hồn trong trắng vì họ sẽ được diện kiến Đức Chúa: trong trắng ở đây không là sự trinh trong xác thịt. Nhưng, nhìn sự vật với cặp mắt không thành kiến, méo mó. Không kỳ thị hoặc có đầu óc hẹp hòi như các luật sĩ đầy xung khắc, vị kỷ. Có tâm hồn trong trắng, là người nhận ra tình yêu Đức Chúa đang ở với họ. Người như thế quả thật họ đang có phúc.

 *Hạnh phúc thay, những người biết dựng xây hòa bình, vì họ được gọi là con Thiên Chúa. Hạnh phúc là phúc cho ai hoạt động cho việc hòa giải, hòa hợp ở khắp nơi. Hòa giải – hòa hợp, không chỉ bãi bỏ tâm tình kình chống mà thôi. Nhưng còn là, đến với nhau. Chữa lành cho nhau. Cùng nhau kiến tạo sự hòa hoãn trong gia đình. Nơi phố chợ. Tại công sở. Ở chốn thị thành. Bình an trong chung sống, không để cho bất cứ ác tậm sự xấu được tồn đọng với nội tâm. Sự xấu, chính là thành kiến, xung khắc, kỳ thị; và cả đến những khai thác, bóc lột nữa. Tóm lại, có dựng xây hòa bình, mới tự nhận mình là dân con Đức Chúa.

 *Hạnh phúc thay, những người bị bách hại vì sự công chính, bởi Nước Trời thuộc về họ: ở đây, có lẽ có người sẽ hỏi: tại sao kẻ đau buồn cực khổ lại được Chúa chúc phúc? Lý do, những gì khiến họ đau buồn cực khổ là vì Tin Mừng. Do sự công bình và lành thánh, Tin Mừng Ngài đem đến. Người chịu đựng khổ đau, là cốt đem chân lý và bình an đến với thế giới nhân trần. Làm thế, họ đem niềm an vui hạnh phúc đến cho ta. Niềm vui ta có được, khi đã hoàn thành mục đích Ngài giảng rao. Lịch sử nhân loại dẫy đầy gương sáng của những người như thế. Ở Ấn Độ, Trung và Nam Mỹ, và khắp nơi. Đâu đâu cũng thấy những gương lành thánh những người như thế. Thế kỷ 20 là thế kỷ sản sinh nhiều gương lành tử đạo hơn các thế kỷ trước. Các vị, đã chấp nhận tử đạo vì niềm tin. Vì bình an và công bình. Ngày nay, nhiều người vẫn chấp nhận hy sinh thân xác cho lý tưởng cao đẹp, hơn bao giờ.

Hiến Chương Nước Trời, quả thật sâu sắc. Rất cao đẹp. Hiến chương vẫn kêu mời mọi người kiến tạo tương quan mật thiết, giữa ta với Chúa, với mọi người. Hiến chương cũng đòi ta quan tâm sâu sắc, tham gia dựng xây thế giới đương đại cho tốt đẹp. Và, kêu gọi mọi người hãy tìm cách biến đổi thế giới thành nơi ngập tràn tình yêu thương. Ngập tràn chân lý công bình và lòng xót thương. Đầy ngập sự tự do và hài hòa giữa mọi người. Đó là ý nghĩa của Hiến Chương Hạnh Phúc. Của Cương Lĩnh Nước Trời. Là mục tiêu của cuộc sống. Sống hạnh phúc đích thật.

Tham dự tiệc thánh hôm nay, ta cầu cho mỗi người và mọi người sẵn sàng tham gia dựng xây Nước Trời đầy hạnh phúc, ở nơi đây. Nơi ta chung sống, chốn gian trần. Trong tinh thần ấy, ta cùng cất tiếng hát lên bài ca tạ ơn khi xưa:

“Ôi ơn đời chói vói, nhớ khi thân tròn ôm gối

Ba trăm ngày trong gói, ngóng trông ra đời góp mối chung vui

Ôi ơn đời mãi mãi, thoát theo đời vun sới

Bao nhân tình thế giới, lớn lên trong vườn ân ái muôn đời.”

(Phạm Duy-Tạ ơn đời)

Tạ ơn đời. Nhưng, đích thực là tạ ơn Người. Tạ ơn Thầy đã ban cho mọi người Hiến Chương Hạnh Phúc Nước Trời. Hiến Chương “xông lên lời ca ngợi sum hoà”. Rất yêu thương.

 Frank Doyle sj biên-soạn – 

Mai Tá lược dịch 

“Vầng trăng từ độ lên ngôi”

Chuyện Phiệm Đọc Trong Tuần thứ 4 mùa Thường niên năm A 29/01/2017

 “Vầng trăng từ độ lên ngôi”
năm năm bến cũ em ngồi quay tơ
em ngồi quay tơ
Quay đều..quay đều..quay đều..”

(Nhạc: Phạm Duy/Thơ: Lưu Trọng Lư – Vầng Trăng Sầu Rụng)

 (Cv 3: 25-26)

 Trăng sầu nên trăng rụng, phải thế không anh? Và, khi trăng đã rụng rời hay rụng rồi, thì đâu còn sầu với đau nữa, phải vậy không em? “Năm năm bến cũ”, chắc em vẫn còn quay tơ hay quay cuồng một đời người, đấy chứ nhỉ? Quay cuồng cả một đời, vẫn là chuyện bạn và tôi nên lưu tâm/chú ý đến độ rụng rời cả mùa trăng, thôi!

Rụng thì rụng, nay mời bạn/mời tôi, ta nghe thêm câu hát nữa, rồi sẽ tính. Nghe, thế này đây:

“Để tóc rối vần câu thơ sầu rụng,
mái tóc cũng buồn theo thơ.
Cũng buồn theo thơ.
Quay đều..quay đều..quay đều..

Năm năm tiếng lụa se đều,
trong cây gió lạnh đưa vèo.
Hằng năm tiếng lụa đưa theo,
đêm đêm gió rét đưa vèo trong cây,
đưa vèo trong cây.
Quay đều..quay đều..quay đều..

Nhẹ tay nhè nhẹ đôi tay,
hương thơm lối xóm bay đầy thinh không,
bay đầy thinh không.
Quay đều..quay đều..quay đều..

Nghiêng nghiêng mái tóc hương nồng.
Quay đều..quay đều..quay đều..
thời gian lặng rót một giòng buồn tênh.
một dòng buồn tênh.
Quay đều..quay đều..quay đều…”

(Phạm Duy – bđd)

“Thời-gian lặng rót một giòng buồn tênh”. Ôi thôi là buồn. Dù có bảo, đó chỉ là thơ và nhạc cùng những ý/từ của nhiều văn thơ/nhạc bản ở đời, khiến con người thêm “hỷ, nộ, ái, ố, ai hoan lạc” đủ bảy thứ tình. Duy, có một thứ tình-tự vẫn linh-tinh tạo nỗi “buồn đời người”, được một tác-giả khác đưa vào truyện kể, như sau:

Bà vợ trẻ lúc nào cũng áy náy lo âu sợ chồng không yêu thương săn sóc, bà bị tư tưỡng tiêu cực lúc nào cũng ám ảnh đưa đến bệnh nặng phải vào viện. Tại bệnh viện sau nhiều xét nghiệm , bác sỉ cho chồng bà biết rằng: “ Ông ko tìm ra bất cứ triệu chứng bệnh gì!

 Thể xác bà khỏe mạnh không có dấu hiệu bệnh nào cả “ Bệnh của bà thuộc loại tâm thần. Giữa 2 người đã nghĩ ra một cách bí mật. Họ mời một cô y tá rất trẻ đẹp săn sóc cho bà. Sau đó ông chồng thử ý bà vợ và nói rằng:

Em yêu, em luôn trăn trối với anh rằng: – Để cho anh được hạnh phúc nếu không may mà em có mệnh hệ gì. Em à, anh đã suy nghĩ k, anh đã tìm được một người mà người đó s thay cho em được để làm cho anh hạnh phúc . Anh tin tưởng rằng cô y tá trẻ đẹp săn sóc cho em đó có thể trở thành người làm cho anh hạnh phúc.

 Sau một thời gian ngắn ngủi thôi, phép lạ đã xy ra, vợ anh bình phục và đòi xuất viện ngay về nhà!

 Chuyện “phép lạ xảy ra” cho bạn và cho tôi, vẫn là chuyện đời thường hoặc chuyện bên lề cuộc đời của mọi người. Thế nhưng, có một “sự-kiện lạ” ít xảy ra ở nhà Đạo, mà quan-viên các cấp cứ là hay thắc mắc/nghĩ-ngợi về chuyện “4 hồng-y giáo-chủ của Đạo đã tỏ ý bất đồng với Đức Giáo Tông về thông-điệp Amoris Laetitia” cách đây không lâu. Nay, Đức Thày John Flader ở Sydney đặt câu hỏi/đáp rất như sau:

“Thưa, hôm rồi có bài viết trên báo nói rằng: 4 hồng y nọ viết thư yêu-cầu Đức Giáo Hoàng làm sáng tỏ những điều ngài viết trong thông-điệp Amoris Laetitia về hôn-nhân và gia-đình, khiến nhiều vị hết sức ngỡ ngàng. Xin hỏi, phải chăng đây là dấu hiệu khá khiếm-nhã đối với Đức Giáo-hoàng hoặc vẫn là chuyện bình thường trong Đạo?

 Và, Đức thày Flader, đã trả lời như sau:

“Nhiều vị đã luận-bình về vấn-đề này, ở đây đó, nên tôi nghĩ: ta cũng nên làm sáng-tỏ sự-kiện vừa xảy ra để có một lập-trường chính-xác hơn.

 4 hồng-y nói đây, lâu nay vẫn được mọi người trong Đạo kính-nể, đó là: Hồng y Walter Brandmũller, nguyên Chủ-tịch Uỷ-Ban Giáo-hoàng về Khoa-học Lịch-sử; Hồng y Raymond Burke, nguyên là niên-trưởng Toà Án Tối Cao của Vatican gọi là Signatura, Hồng y Carlo Caffara, Tổng Giám-Mực hồi-hưu của Bologna và Hồng y Joachim Meisner Tổng Giám-mục Cologne nay hưu-dưỡng. Trong buổi phỏng vấn trên mạng, dành cho cơ-quan có tên là Ban Hành-Động Công Giáo về Niềm Tin và Gia Đình hôm 14/11/2016, Hồng y Burke có giải-thích lý-do tại sao các hồng-y như ngài lại đã yêu cầu Đức Giáo Hoàng làm sáng-tỏ sự việc nói ở đây.

 Hồng y Burke từng giải-thích rằng: khi có ai nghi-ngờ hoặc quan-ngại điều gì về một số vấn-đề niềm tin hoặc luân-lý; hoặc đặc-biệt hơn, về ý-nghĩa xác-đáng ở văn-bản nào đó trong các tài-liệu của Toà Thánh, thì thông thường là: các giám-mục, linh-mục hoặc ngay đến giáo-dân cũng nên yêu-cầu Đức Giáo Hoàng giải-thích cho rõ. Đây là mộng-ước bình-thường của giáo-dân thường-tình không theo cách “sách mé”, thiếu tôn-kính.

 Thật ra thì, Đức Giáo Hoàng từng có những lời phát-biểu đưa ra, là để đáp trả những thắc-mắc tương-tự. Những năm về trước, các phát-biểu tương-tự đều từ các nhóm hội/ ban ngành hoặc đoàn-thể như: Uỷ-Ban Kinh-Thánh về ý-nghĩa các đoạn-văn trong thánh kinh, Uỷ-ban Giáo Hoàng về Văn-bản Luật-Pháp có trọng-trách giải-thích các điều-khoản của Giáo-luật và Thánh-bộ Tín-Lý Đức Tin cũng có trách-nhiệm về các vấn-đề về niềm tin của mọi người.

 Hồng y Burke có nói: Thông-điệp Amoris Laetitia từng nêu lên một số thắc mắc và nghi-ngại có trong đầu các Giám mục, linh-mục và giáo-dân, mà một số những điều như thế từng đệ-đạt lên Đức Giáo Hoàng và được công-khai bàn-bạc. Trường-hợp nói ở đây, bốn hồng-y đã chính-thức trình-bày lên Đức Giáo-hoàng 5 câu hỏi nền-tảng hoặc còn gọi là mối nghi-ngại về tín-điều và luân-lý đặt nền-tảng trên việc đọc thông-điệp “Amoris Laetitia” như thế nào. Đức Hồng-y công-nhận rằng: ngay bên trong Giám-mục-đoàn cũng có nhiều vị bất-đồng với nhau về cách giải-thích chương 8 của thông điệpAmoris Laetitia và vì thế, các vị này mới cần đến Đấng Bản-quyền làm sáng-tỏ cách chính-thức. Nên, các ngài mới chính-thức gửi một bản sao bức thư đến Hồng Y Gerard Mũller, Bổ trưởng Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin.

 Nhiều ngày trôi qua mà không thấy có câu trả lời, các Hồng-y mới quyết-định để cho quần-chúng biết sự việc này để họ có thể bàn-luận với mọi tín-hữu Công-giáo, đặc-biệt là các Giám-mục. Các Hồng-y đây cũng đã sử-dụng từ-vựng chính-xác về thần-học qui-chiếu về các tài-liệu trước đó của Giáo-hội. Ta có thể tóm tắt như bên dưới:

 Thứ nhất, có thể nào Giáo hội ta cho phép xá-giải bằng bí tích Hoà-giải và cho phép những người từng ly-dị và có gia-thất mới và đang có tương-quan hôn-phối với nhau được rước lễ chứ?

 Thứ hai, là: có phải các điều-luật về luân-lý chặt-chẽ vẫn cấm-đoán các hành-động của sự ác ngấm-ngầm bên trong và đang ràng buộc mọi sự không biệt-lệ?

 Thứ ba nữa, có thể nào khẳng-định rằng người nào đó vẫn có thói quen sống chống lại lại giới răn của Chúa, chẳng hạn như luật cấm ngoại tình, vẫn ở vào đối-tượng của tội trọng?                            

 Thứ tư, phải chăng vẫn là trường-hợp cảnh-huống hoặc ý-định không bao giờ có thể thay-đổi một hành-động ngấm-ngầm tội-ác như việc “đối-đế” đã là đối-tượng của hành-động chủ-quan là tốt hoặc có thể biện-hộ được như một chọn lựa được?

 Thứ năm, phải chăng vẫn là chuyện đúng bảo rằng lương-tâm không bao giờ cho phép có luật trừ để xá-giải các luật-lệ về luân-lý khiến cấm ngặt hành-động nào ngấm-ngầm là tội ác do có tác-dụng là đối-tượng của họ được chăng? 

Các hồng-y nói trên cảm thấy rằng lời lẽ trong thông-điệp Amoris Laetitia đã bỏ qua những nguyên-tắc căn-bản của nền luân-lý Công-giáo vẫn dạy phải cởi mở đối với vấn-đề này; chính vì vậy, các ngài mới cần câu đáp trả của giới chức có thẩm-quyền. Không phải là Đức Giáo Hoàng đã công khai chối bỏ bất cứ nguyên-tắc nào trong đó nhưng là vì có một số các giám-mục và thần-học-gia đã giải-thích tài-liệu của ngài theo cách sao đó khiếm có người hiểu là ngài đề-xuất rằng những điều đó đã được mở rộng cho dư-luận thắc mắc.

 Xin mọi người cầu nguyện để vấn-đề nêu trên được giải-quyết theo cách nào đó để rồi không còn ai tỏ ra thắc mắc điều gì nữa.” (X. Lm John Flader, What on earth is going on with the pope and those cardinals?, The Catholic Weekly Question Time, 11/12/2016 tr. 24)  

Chuyện giải-đáp thắc mắc cùng khiếu nại, bao giờ cũng không đơn giản khiến người thường ở huyện có thể hả hê, hiểu mọi chữ. Chuyện thế-gian hay đạo hạnh trong luồng đôi khi cũng không dễ hiểu hoặc dễ theo như các đấng bậc mình kỳ vọng.

Chuyện mình và chuyện mọi người sống ở đời, nhiều lúc sẽ dễ hiểu và dễ theo hơn, nếu được kể bằng truyện kể có đính kèm nhiều phẩm-bình khá xác đáng mỗi khi nói về hạnh-phúc của nhiều người, rất ở đời, như câu nói: “Hạnh phúc không nằm trong thành-tựu hay đổi đời, nó không nằm ở bên ngoài mà nằm trong sự xác tín của chúng ta.

 Tựa như lời bàn về hạnh phúc của con người là thứ phúc hạnh giữa vợ và chồng, lại được quan-niệm một cách khác, như sau: 

“Tình cảm lớn nhất của một người là tình cảm vợ chồng, và sự kết nối ý nghĩa nhất cũng chính là sợi dây kết nối giữa vợ và chồng.

 Lòng khoan dung vô bờ bến nhất là lòng khoan dung mà vợ chồng dành cho chau; sự nhường nhịn ân cần nhất cũng là sự nhường nhịn giữa hai vợ chồng; và sự quan tâm không thể thiếu của một người cũng chính là sự quan tâm giữa vợ và chồng.

 Người ta ví hôn nhân giống như một tách trà. Khi vợ chồng êm ấm thuận hòa thì tách trà mang vị ngọt, khi bền lòng vượt qua bão tố thì tách trà nồng đượm hương thơm…Ngay cả những tách trà đắng thì cuối cùng vẫn để lại vị ngọt trên môi. Khi vợ chồng cùng nắm tay bước đến cuối con đường, thì hết thảy những khổ đau trong đời đều tỏa ra hương vị!

 Sau khi kết hôn, vì những điều vụn vặt trong cuộc sống mà vợ chồng không thể tránh khỏi ma sát hay va chạm. Khi chung sống lâu dài, người chồng có thể thấy vợ mình không còn xinh đẹp bằng những cô gái khác, còn người vợ cũng nhận ra rằng chồng mình không còn lịch lãm như xưa…

Cũng có một số người, khi đã có trong tay tiền tài và địa vị sẽ đi tìm cho mình một bến đỗ mới mẻ hơn. Nhưng bạn đã bao giờ nhìn lại? Vợ mình khi xưa cũng là cô gái xinh đẹp trẻ trung, nhưng vì toàn tâm toàn ý với gia đình mới trở thành đóa hoa tàn úa?

 – Là người chồng, đừng bao giờ hỏi dáng vẻ yểu điệu thục nữ của vợ mình đã đi đâu mất?… Xin hãy quay đầu nhìn về phía các con, bởi vì cô ấy giờ đây đã là mẹ của các con mình rồi.

 – Là người chồng, cũng xin đừng bao giờ hỏi dung nhan xinh đẹp của vợ khi xưa đã đi đâu mất?… Là bởi vì cô ấy đã dốc sức chăm lo cho gia đình để bạn yên tâm gây dựng sự nghiệp lâu dài !

– Là người chồng, xin đừng trách vợ tại sao không thích đi dạo phố như xưa? Tại sao không thường xuyên mua quần áo đẹp như xưa?

– Cũng đừng trách cô ấy vì sao không được gọn gàng, chỉnh tề như thuở còn hò hẹn? … Đó là bởi vì người vợ giờ đây đã là người phụ nữ toàn tâm toàn ý cho chồng, cho con, cho gia đình,  không còn thời gian cho bản thân nhiều như xưa nữa!

 Một người vợ tốt luôn vì gia đình, vì người chồng mà cam tâm tình nguyện làm hết thảy, không cần báo đáp. Đó chẳng phải là vì người chồng chính là người mà cô ấy yêu nhất trên đời, là người cô ấy coi trọng nhất hay sao?

 Người vợ, người chồng luôn là người mà đêm khuya nóng ruột chờ đợi khi bạn chưa trở về, là người không ghét bỏ và rời xa khi bạn nghèo khó, luôn lặng lẽ ở bên bạn, cổ vũ khích lệ bạn, hỗ trợ bạn cho đến khi công thành danh toại. Khi bạn sinh bệnh, họ sẽ là người thời thời khắc khắc ở bên để chăm sóc bạn không quản ngày đêm.

 Đó chẳng phải đã đủ là ân nhân của nhau rồi sao?

Người vợ là con thuyền mang đến sự ấm áp cho chồng.

Người chồng là bến cảng mang đến sự bình an cho vợ.

Cho nên, bất kể một loại tình cảm nam nữ nào khác trên thế gian này đều không thể so sánh được với tình cảm giữa vợ và chồng!

 Hãy luôn yêu thương và trân quý người vợ, người chồng của mình,

Hãy cho họ một khoảng không gian và thời gian, đừng xem nhẹ hết thảy những gì họ đã làm cho bạn!

Yêu thương là phải trân quý, đừng để đến khi mất đi mới nhận ra những điều tốt đẹp của họ, lúc ấy hối hận cũng đã muộn màng!

 Thế đó, là lời lẽ cùng ý-niệm của người đời về chuyện đời, thật rõ nét. Thế nhưng, nhà Đạo mình nói thế nào về những chuyện như thế ấy? Trả lời cho câu hỏi này, thật không phải là chuyện đơn giản.

Thông thường thì, người người đều giải-quyết các khó-khăn/khúc mắc trong đời của mình và của người bằng những lý-luận hoặc lời giảng-giải này khác. Hôm nay đây, tôi mời bạn và cả tôi nữa, ta nghe câu truyện kể cũnt rất nhẹ, để xem sao. May ra cũng vui được một vài giây phút, dù chẳng giải-quyết được chuyện gì trong đời người và đời mình.

Truyện kể, đôi khi cũng là những giòng chữ nghe giống như truyện người khác từng kể cho mình, nhưng mình lại không tin. Truyện ấy nó nhẹ đến thế này đây:

“Truyện rằng:

Chiều đi làm về, trời nóng, anh tạt vào quán ngay gần công ty làm cốc café, chờ lát cho vãn người rồi về cho đỡ đông. Nhìn người ta chen chúc nhau mồ hôi nhễ nhại cũng ngán, lè lưỡi lắc đầu. Thế nên là thôi, nghỉ, làm hớp đã, đang khát! 

-Chú ơi đánh giầy không chú? 

-ưmmm… Anh vừa cúi ngậm uống hút vừa lắc đầu. 

-Rẻ mà chú, con chỉ xin cái bánh mỳ ăn cho đỡ đói thôi… 

-Giầy chú sắp cho vào bảo tàng đến nơi rồi, thử hỏi người khác xem nhé!

Anh cười nhìn nó, nó xị mặt nhìn anh, buông thõng 2 vai có vẻ mệt mỏi rồi thất thểu đi ra mé cửa ngồi. 

Mụ chủ quán ngồi ngay đó cất giọng chua ngoa: 

– Đi chỗ khác kiếm ăn đi 2 cái thằng kia! Chúng mày ngồi đó án ngữ thì ai dám vào hàng nhà tao nữa. Hãm vừa chứ!!!

Đúng là cái miệng xinh không đồng nghĩa với những lời nói đẹp. Nó hắt hủi thân phận của đồng loại. Anh với tay lấy chùm chìa khoá trên bàn gọi thanh toán, mình cũng đếch thèm ngồi ở cái quán này lần nào nữa luôn. Hãm!!!

Lao xe theo hướng 2 đứa nhỏ đi để tìm mà mãi không thấy. Quái! vừa thấy ở đây xong ngoắt cái đã không thấy đâu, bọn này nó bay đi chắc?? Anh tự hỏi. 

-Chú ơi… 

Anh giật mình, quay lại thấy thằng bé con đang ngồi sát ngay sau vách tường lúc nãy chìa tay ra.
-Sao lại ngồi đây? Anh cháu đâu? 

-Anh đi kiếm đồ ăn rồi, chú ơi …đói…!!!

Tội nghiệp, thằng bé còm nhom, chắc chỉ tầm 3-4 tuổi, bằng đứa cháu con ông anh trai anh là cùng. Đáng lẽ ra bây giờ nó phải đang được chăm sóc ăn uống đầy đủ, được đi mẫu giáo, có bố và có mẹ bên cạnh như bao đứa trẻ khác. Thế mà…

Anh lần túi quần ra được hơn 30k đưa cho nó: 

-Này cháu, cầm bảo anh đi mua đồ ăn cho nhé! 

-KHÔNG!!!

Chưa kịp đưa đến tay thằng bé thì thằng anh từ đâu chạy lại giật tay thằng em vào. 

-Con cám ơn chú nhưng anh em con không dám nhận đâu ạ. Bọn con đâu phải ăn xin. Chú có lòng tốt thì để con đánh giầy cho chú. Giọng nó có vẻ dứt khoát.

-Thế mày định để cho em nó đói chết à thằng kia?

Nó cúi gằm mặt xuống không nói gì. Thằng em thì cứ cầm lấy tay anh giật giật. Anh bước gần đến ấn tiền vào tay thì nó lại hẩy ra, xong quay ra ôm lấy thằng bé. 

-Thôi được rồi, Âyz, thế qua quán nước mía kia ngồi, chú trả công đánh giầy và mời 2 thằng nước mía. Được chưa?

Nó lí nhí: 

-Vâng, thế thì được ạ.

Vừa đặt cốc nước mía xuống bàn 2 đứa nó hút 1 mạch hết sạch, còn toàn đá. Anh quay qua chị bán nước giơ 2 ngón tay ý ra hiệu thêm 2 cốc nữa, chị hiểu ý ngay, gật lia lịa.

Đợi 2 cốc nước nữa đến, anh bắt chuyện. 

-Uống từ từ thôi không lạnh cổ, về đau họng đấy. Ngon không? 

-Dạ. Ngon ạ! Thằng bé con mút chùn chụt rồi quay sang anh. 

-Nước mía ngon quá anh hai, thế mà hôm trước anh bảo đắng lắm!

Nó cười hề hề rồi xoa đầu em. Thấy cốc thằng em đã gần hết, nó lấy cốc của mình đổ sang cho em.
-Ơ, anh hai không uống à? 

-Không, anh không thích uống nước mía. Em uống nốt đi.

Nó nhìn xuống chân anh. 

-Giầy chú bẩn quá rồi, con đánh giầy cho chú nha. 

-Ok! Hy vọng nó còn đánh được. Không cần sạch quá đâu.

Anh vừa tụt đôi giầy vừa xỏ đôi dép tổ ong nó đưa. Mặt nó đen nhẻm, nhưng nhìn kỹ khá sáng sủa.
– Cháu bao tuổi? 

-Tám chú ạ. 

-Tám?
-Dạ
-Quá nhỏ! 

Nó cười trừ – Con lớn rồi mà. 

-Mà sao cháu cứ xưng con với chú thế? Chú đâu quen cháu nhỉ. 

-Mẹ con bảo ra đường gặp người lớn phải xưng con hết, phải lễ phép với người lớn tuổi, mình không có gì thì cũng không để người ta coi thường được. Xưng con để thấy con người gần gũi nhau hơn chú ạ.

Anh tay chống cằm thở dài. Mình còn cố chấp hơn 1 đứa con nít. 

-Thế mẹ cháu… à con đâu? nhà ở đâu? 

-Mẹ con mất rồi ạ, gần 2 năm nay rồi. Nhà con ở đằng kia, nhưng bị phá rồi chú ơi. Người ta giải toả rồi, giờ tụi con ngủ ở sau chợ. 

-Thế bố? bố đâu? 

-Con không có bố. Lúc sinh ra đến giờ con chỉ biết có mẹ thôi. Con không được đến trường, mẹ dạy con viết, dạy con làm toán, cái gì mẹ cũng dạy con hết.

Nó vừa nói, 1 tay luồn vào trong giầy, 1 tay quệt xi thoăn thoắt, mặt trùng xuống. Anh cũng thôi, chẳng hỏi thêm nữa, quá khứ của mẹ nó chắc nó cũng chẳng biết đâu mà hỏi làm gì, nhưng trong đầu anh thì hiện lên cả đống giả thiết: nào là mẹ nó bị gã nào lừa xong không chịu cưới, bị nhà chồng hắt hủi hay cũng có thể người nhà ruồng bỏ… Nhưng có điều, anh chắc chắn đó là một bà mẹ tốt. Cứ nhìn cách thằng bé ăn nói và đối xử với người khác thì biết, hẳn nó phải bị ảnh hưởng rất nhiều từ mẹ. Anh bế thằng bé con lên cho ngồi lên đùi, nó cười, nụ cười như chưa từng được một lần như thế. Nó còn bé quá, còn chưa biết gì đang ở phía trước đợi chờ nó.

-Con định tích góp tiền để bữa nào nó lớn cho nó đến trường chú ạ, con không muốn nó giống như con. Nhưng mà sao giờ người ta khó quá, trước 1 ngày con đánh được hai chục đôi mà giờ chỉ được năm, sáu… Hôm mưa thì có khi chẳng đôi nào. Không có cái cho nó ăn nên nó còm nhom chú ạ.

-Ây za…Mà sao nhìn 2 đứa chả giống nhau nhỉ? 

-Dạ, con nhặt được nó ở góc chợ, nó khóc to lắm, con không biết ai để nó ở đấy nữa. 

-Sao không đem nó trả lại, con có nuôi nổi nó đâu. 

-Biết người ta ở đâu mà trả hở chú? Người ta đâu có thương nó, bỏ nó giữa chợ thế kia còn gì. Ít ra con còn có chỗ ngủ, kiếm được cái ăn cho nó. Nó chẳng có gì.

-Xong rồi chú. Có mấy chỗ con chà mãi không sạch. 

-Ừ, nó nát rồi thì sạch sao được, thế này là tốt lắm rồi, chú cảm ơn. Hết bao nhiêu chú gửi tiền

nào?
Dạ,7 ngàn chú. Nhưng thôi ạ, chú cho anh em con uống nước mía coi như hoà rồi ạ. 

-Hoà là hoà thế nào, nước mía là chú mời bọn mày. Đây, ví chú còn có ngần này, cầm lấy đưa em đi ăn cơm đi. Tối rồi. 

-Sao nhiều thế chú, con không dám cầm đâu. Mẹ con mắng đấy! 

-Sao con bảo mẹ con mất rồi? Không được nói dối nha, xấu lắm đấy. 

-Con không nói dối, mẹ con vẫn ở đây mà.

Nói rồi nó thò tay vào túi áo lôi ra cái ảnh be bé đen trắng có hình người phụ nữ tóc dài, đôi mắt buồn nhìn rất hiền. Lần đầu tiên anh thấy những tia nắng vàng cuối ngày nó nặng trĩu trên khoé mắt đến thế…

Anh xoa đầu nó:

-Cầm lấy, coi như chú đặt trước cả tháng, mai lại đánh giầy cho chú nhé.

Nó lưỡng lự một hồi, cuối cùng cũng chịu cầm rồi lí nhí: 

-Thế mai con sẽ đánh giầy cho chú nữa. Con cám ơn chú! 

-Ừ…

Thằng anh cầm tay thằng em lũng cũng đi theo. 

-Bữa nào kiếm được tiền mình đi uống nước mía nữa nha anh hai, ngon lắm!!!

 Anh nghe mà chẳng nhấc chân được lên. Giá mà ngay lúc này chú có thể làm được điều gì đó tốt hơn cho 2 đứa. Cảm ơn con, hôm nay là ngày may mắn của chú, con đã chỉ lại cho chú một con đường mà chú dường như đang mất dần niềm tin vào cái xã hội này. Chú vẫn tin là có điều kỳ diệu trên thế giới này, và con là một ví dụ. Cố gắng lên nhé! Mọi chuyện rồi sẽ ổn cả thôi.”(Theo benh.vn (st))

Vâng. Các truyện kể nhè nhẹ ở trên chỉ để phiếm cho vui, chứ không có ý thuyết-phục một ai ở huyện nhà, hết. Và, có kể truyện cũng chỉ để nhắc nhở người đọc cũng như bạn và tôi, rằng thì là: đời mình còn rất nhiều chuyện để kể và để nghe, cho quên buồn. Chứ không để giảng hoặc dạy bất cứ ai trong đời, mỗi thế thôi.

Nghĩ thế rồi, nay ta hãy về với Lời Vàng hiển thánh mà ngâm-nga suy-nghĩ, rồi cứ thế mà “quay đều” cuộc đời mình, cho đúng cách như đã được dạy rằng:

“Phần anh em,

anh em là con cháu của các ngôn sứ

và của giao ước mà Thiên Chúa đã lập với cha ông anh em,

khi Ngài phán với ông Abraham:

Nhờ dòng dõi ngươi, mọi gia tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc.

Thiên Chúa đã cho Tôi Trung của Ngài trỗi dậy

để giúp anh em trước tiên,

và sai đi chúc phúc cho anh em,

bằng cách làm cho mỗi người trong anh em

lìa bỏ những tội ác của mình.”

(Cv 3: 26-28)

Trần Ngọc Mười Hai

Vẫn cứ quay tròn

cuộc đời mình

cũng rất đều.

NẺO VỀ HẠNH PHÚC

NẺO VỀ HẠNH PHÚC

Thi đàn Trung Quốc từ cổ chí kim nổi lên một tên tuổi lớn, đó là nhà thơ Lý Bạch, thời Thịnh Đường (701 – 762).  Ông tự xem mình như tiên ông bị lưu đày xuống thế.  Ông ưa sống kiếp lãng du, say mê vẻ đẹp đất trời, vẻ đẹp sông núi, trăng sao…

 Theo truyền tụng nhân gian, vào một đêm trăng tỏ, Lý Bạch buông thuyền xuôi theo giòng sông Thái Trạch lấp lánh ánh trăng đêm.  Ông đàn hát ngâm vịnh và uống rượu thưởng thức trăng.  Càng về khuya, men rượu nồng bốc lên càng làm ngây ngất lòng thi sĩ.  Sông nước, cảnh vật lúc ấy càng huyền ảo nên thơ.  Thi nhân cảm thấy mình như đang lạc vào bồng lai tiên cảnh.  Mảnh trăng diệu huyền in hình dưới làn nước lung linh như đang gọi mời ông tao ngộ.  Trong hơi men chếnh choáng, ông nhoài mình qua mạn thuyền, cúi thật sâu xuống nước để ôm lấy vầng trăng mà ông say đắm lâu nay.

 Than ôi! Ông đã bỏ hình bắt bóng và giòng sông oan nghiệt đã kết liễu đời ông.  Trên cao, vầng trăng thật như đang mỉm cười chế giễu ông.

Câu chuyện của nhà thơ họ Lý cũng là câu chuyện thời sự của thế kỷ chúng ta.  Nhân loại hôm nay đang kêu gào hạnh phúc, đang khao khát kiếm tìm hạnh phúc.  Nhưng họ đâu biết rằng Thiên Chúa là Cội Nguồn của hạnh phúc.

Một vầng trăng thật in thành hàng tỷ bóng trăng trên các ao hồ khe suối.  Một Cội Nguồn Hạnh Phúc (là Thiên Chúa) tỏa xuống vô vàn mảnh vụn hạnh phúc trong các sự vật phù du ở đời.  Thay vì tìm về Cội Nguồn hạnh phúc là Thiên Chúa, người ta dại dột đâm đầu vào những chiếc bóng của hạnh phúc nơi những tạo vật chóng tàn.  Quả thế, người ta tưởng hạnh phúc nằm nơi bạc tiền, của cải, nơi lạc thú vật chất… rồi người ta đâm đầu vào đó như những những con thiêu thân lao vào lửa, như Lý Bạch nhào xuống nước tìm trăng.

Thiên Chúa là Cội Nguồn hạnh phúc, Thiên Chúa là nguồn mạch của hoan lạc và an bình, Thiên Chúa là Tình Yêu.  Tất cả những ai đang khao khát tình yêu, an bình, hạnh phúc là đang khao khát Chúa.  Nhưng tiếc thay, người ta đã bỏ hình bắt bóng.  Người ta săn đuổi ảo ảnh của hạnh phúc mà không chịu tìm đến cội nguồn hạnh phúc là Chúa Cả trên trời.

Thời thanh xuân, Augustino là con người khao khát hạnh phúc cách mãnh liệt.  Anh bôn ba kiếm tìm hạnh phúc trong văn chương và triết lý, trong dục vọng và lạc thú trần gian… nhưng anh đã thất vọng ê chề và cảm thấy tâm hồn chất đầy sầu đau khắc khoải.  Mãi đến năm ba mươi tuổi, Augustino mới cảm thấy tất cả những gì Anh đạt được chỉ là ảo ảnh của hạnh phúc, chẳng khác chi bóng trăng in hình đáy nước và chỉ có Thiên Chúa mới là “Vầng Trăng” thật, là Hạnh Phúc thật mà thôi.  Bấy giờ, với tâm hồn tràn đầy hoan lạc, Augustino thưa với Chúa: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con cho Ngài nên hồn con thổn thức khôn nguôi cho đến khi được an nghỉ trong Ngài.”

Thiên Chúa mới là nguồn Hạnh Phúc đích thật mà loài người luôn vươn tới, luôn khát khao.  Chính Thiên Chúa đã đặt vào cõi lòng mỗi người chúng ta một khát vọng vô biên hướng về hạnh phúc mà không gì trên đời nầy có thể khoả lấp được, và để lòng khao khát đó luôn thôi thúc chúng ta kiếm tìm, kiếm tìm không mệt mỏi cho đến khi gặp được Ngài là Hạnh Phúc đích thật.

Qua trích đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta tám nẻo đường đưa nhân loại về cội nguồn hạnh phúc mà ta quen gọi là tám mối phúc thật.  Ai bước theo tám nẻo đường nầy chắc chắn sẽ đi đến Cội Nguồn Hạnh Phúc là Thiên Chúa, là Nước Trời, là Đất hứa:

* Tinh thần nghèo khó: biết nhận ra sự nghèo nàn của nội tâm mình, nhận biết rằng mình không là gì cả, tất cả những gì ta có là của Chúa ban…

* Cư xử hiền lành, biết nhường biết nhịn và mềm mỏng với mọi người…

* Chấp nhận sầu khổ hơn là gây khổ đau cho người khác…

* Khao khát trở nên người công chính,

* Đầy lòng xót thương, đối xử nhân ái với mọi người…

* Tâm hồn trong sạch, không chất chứa điều tà, điều gian ác, điều bất công…

* Chung tay xây dựng hoà bình, sống hoà thuận với mọi người cũng như làm cho mọi người hoà thuận với nhau…

* Sẵn lòng chịu bách hại vì sống công chính thanh liêm…

Nẻo về Hạnh Phúc đã rộng mở.  Bí quyết vào Nước Trời đã được giải bày.  Vấn đề còn lại là chúng ta hôm nay có đủ khôn ngoan và bản lãnh để chọn cho mình con đường mà Chúa đã đề nghị với chúng ta hay không.

LM Ignatiô Trần Ngà (trích từ “Cùng Đọc Tin Mừng”)

From: langthangchieutim

LỄ TANG KHÔNG MỘT VÀNH KHĂN TRẮNG

LỄ TANG KHÔNG MỘT VÀNH KHĂN TRẮNG
 

Thân phụ tôi cũng đã bước vào cái tuổi thất thập cổ lai hy và trong người đầy bệnh tật để rồi chúng tôi sẵn sàng đón nhận cái ngày sau chót của Cha trên cõi tạm. Hình dung ra cái ngày đau đớn ấy chắc có lẽ chỉ vài mảnh khăn tang bởi gia đình đơn chiếc lắm. Thế nhưng, chiều hôm nay, tôi lại tham dự một Lễ tang không vành khăn trắng. Lễ tang ấy của một nữ tu đang ở cái tuổi mọng chín của cuộc đời.

Lúc 9 giờ 30 sáng ngày thứ Hai, 16 tháng 1 năm 2017 chị Matta Nguyễn Thị My đã trở về nhà Cha sau nhiều ngày tháng đớn đau với bệnh tật. Chị ra đi không tránh khỏi bàng hoàng cho kẻ thân người thiết và nhất là Hội Dòng.

Hoàn cảnh của chị Matta ai nào đó nghe đến không khỏi phải chạnh lòng !

Trong một chuyến ghe định mệnh để tìm kế sinh nhai, thân phụ mẫu của Chị đã ra đi vĩnh viễn. Nỗi đau đớn không thể nào bù đắp nỗi lại dồn dập đến đời chị với những vành khăn tang thật đau đớn chít lên đầu chị với những người thân.

Phận mồ côi chua xót đã đẩy đưa chị đến nương nhờ nơi gia đình ông bà ngoại. Rồi một ngày nào đó ông bà ngoại cũng đã xuôi tay và chị về với ông bà nội. Và, cũng chẳng bao lâu sau đó ông bà nội cũng chẳng còn.

Sau những biến cố bi thương ấy, chị bước vào tìm hiểu và dấn thân trong con đường ơn gọi.

Và với 10 năm khấn dòng làm một nữ tu Dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn và chỉ với 42 năm làm con Chúa nay chị đã được Chúa gọi về.

15 giờ 00 chiều nay, 17 tháng 1 năm 2017, Hội Dòng và những người quenbiết đã ngậm ngùi đưa tiễn Chị nữ tu Matta về nơi an nghỉ sau cùng chờ ngày Phục Sinh với Chúa.

Thánh Lễ của chị hết sức đặc biệt bởi lẽ chẳng có một vành khăn tang.

Bày tỏ lòng hiệp thông sâu sắc, chủ tế Thánh Lễ an táng cho chị Matta là Cha Gioan Baotixita Lê Đình Bạch – Cha Sở họ đạo Cái Mơn. Cùng đồng tế với Cha G.B. có 16 Cha trong và ngoài giáo phận, trong đó có 2 cha thuộc Dòng Chúa Cứu Thế đang phục vụ tại họ đạo Giồng Trôm và TTHH La Mã.

Trong tâm tình chia sẻ, Cha Gioan Baotixita Lê Đình Bạch gợi lên hình ảnh của thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu với 24 tuổi đời cho cộng đoàn phụng vụ. Cha G.B. nhắc đến hình ảnh của chị nữ tu Matta đã ở thế gian này 42 năm với nhiều bệnh tật theo đuổi và chị đã chuẩn bị thật chu đáo để trở về với Chúa … Chúng ta nhìn chiếc quan tài với thân phận con người chúng ta cầu xin Chúa ban ơn tha thứ cho Chị và cho Chị mau hưởng Nhan Thánh Chúa.

Cha G.B. cũng không quên nhắc đến tấm lòng của vị Cha Chung Phêrô Huỳnh Văn Hai đang dâng Thánh Lễ cử hành Bí Tích Thêm Sức nên không hiện diện trong Thánh Lễ này. Đức Cha Phêrô vẫn nhớ đến chị Matta bởi lẽ mão, áo Giám Mục của Đức Cha do chính bàn tay của chị Matta may cho Đức Cha.

Lời nguyện Hiệp Lễ kết thúc, Cha Phanxicô Xaviê Lê Quang Dũng đã chủ sự nghi thức tiễn biện chị Matta.

Sau đó, Chị Matta được đưa ra trước núi Đức Mẹ để chào Đức Mẹ lần cuối trước khi ra đất Thánh của Hội Dòng.

Đặc biệt, Cha Giuse Nguyễn Hữu Trí – người con của họ đạo Cái Mơn hiện là phó họ Cái Nhum đã đưa Chị Matta đến mộ phần.

Nhiều và nhiều người ngậm ngùi đưa tiễn người thân yêu trong ơn gọi, trong mối thân tình vào lòng đất Mẹ. Xin gửi thân xác chị trong lòng đất này để chờ đợi ngày chị được phục sinh. Xin Chúa là Cha giàu lòng thương xót đón nhận chị Matta vào và cho Chị mau được hưởng Nhan Thánh Chúa như lòng Chị hằng mong ước.

Tác giả:  Người Giồng Trôm

Quan chức đào tị Bắc Hàn nói chế độ Kim Jong Un sắp sụp đổ

VOA

Quan chức đào tị Bắc Hàn nói chế độ Kim Jong Un sắp sụp đổ

26-1-2017

h1Lãnh đạo Bắc Hàn Kim Jong Un kiểm tra một đơn vị quân đội. (Ảnh tư liệu / Thông tấn xã Trung ương Triều Tiên KCNA)

Một trong những quan chức Bắc Hàn cao cấp nhất từng đào tị sang Hàn Quốc tuyên bố rằng “vận mệnh của ông Kim Jong Un chỉ còn tính từng ngày”. Nhân vật đào tị đã chia sẻ những hiểu biết trực tiếp hiếm có và những nhận định sâu sắc về những gì mà ông mô tả là tình hình đang xấu đi của chế độ Kim Jong Un, một chế độ bưng bít và đàn áp.

Ông Thae Yong-ho, cựu Phó đại sứ Bắc Hàn tại London, đã đào thoát sang Hàn Quốc hồi tháng 7/2016. Ông nói: “Tầng lớp ưu tú lâu nay là trụ cột của xã hội Bắc Hàn giờ đã quay lưng lại với ông Kim Jong Un. Những cấu trúc truyền thống của hệ thống Bắc Hàn đang sụp đổ”.

Ông Thae bây giờ là một nhà phân tích tại Viện Chiến lược An ninh Quốc gia, một tổ chức nghiên cứu gắn với Vụ Tình báo Quốc gia của Hàn Quốc.

Phát biểu với các nhà báo tại Seoul vào hôm thứ Tư, ông Thae nói ông ngày càng tỉnh mộng về lãnh tụ trẻ của Bắc Hàn, người lên nắm quyền vào tháng 12/2011, và ông hoàn toàn không mơ hồ gì nữa vào năm ngoái, khi ông Kim đề ra một mục tiêu mà ông cho là “cuồng tín”, là tăng cường khả năng để có thể thực hiện một cuộc tấn công hạt nhân tầm xa vào năm 2017, trong bối cảnh Hoa Kỳ và Hàn Quốc trải qua một thời kỳ chuyển giao quyền lực chính trị.

Về tình hình bên trong Bắc Hàn, ông Thae cho biết ngày nay các chợ cóc bất hợp pháp mở ra ngày càng nhiều, tham nhũng tràn lan và các dòng thông tin bên ngoài đang làm sôi sục thêm sự bất bình của công chúng và làm suy yếu khả năng vốn có của chính phủ nhằm duy trì trật tự thông qua hăm dọa và gây sợ hãi.

Những khu chợ tư nhân mở ra làm cho mọi người càng bực tức về các hạn chế của nhà nước, đồng thời nỗi sợ hãi của họ đối với cảnh sát và nhân viên an ninh đã giảm bớt phần nào, vì thành phần này ngày càng quan tâm đến việc đòi hối lộ hơn là thực thi pháp luật.

Ông Thae đang cổ súy cho nỗ lực gia tăng phổ biến các thông tin bên ngoài vào Bắc Hàn. Ông nói làm như vậy cũng giống tưới thêm dầu vào ngọn lửa giận dữ, cuối cùng sẽ làm bùng lên một cuộc tổng khởi nghĩa để lật đổ chế độ gia đình trị họ Kim.

Nhà ngoại giao Bắc Hàn trước đây so sánh nỗi bất mãn ngày càng tăng trong nước ông với tình hình ở Liên Xô trước khi chế độ tại đó sụp đổ, ông hy vọng về một kết cục hòa bình dẫn đến một nước Triều Tiên thống nhất và dân chủ.

Tuy nhiên cũng có nguy cơ cao là giới lãnh đạo ở Bình Nhưỡng sẽ đáp trả các cuộc biểu tình bằng bạo lực chết người và đàn áp như Trung Quốc đã từng làm với các cuộc biểu tình ở Quảng trường Thiên An Môn vào năm 1989.

Ông Thae cảnh cáo Hoa Kỳ và Hàn Quốc chớ tung ra bất kỳ cuộc tấn công phủ đầu nào nhắm vào Bắc Hàn. Ông cho rằng một hành động quân sự như vậy có thể bắt đầu một cuộc chiến tranh.

Ông Thae cũng cảnh báo không nên xoa dịu ông Kim Jong Un bằng cách lơ là lệnh trừng phạt hay ngừng cuộc tập trận chung giữa Hoa Kỳ-Hàn Quốc để đổi lấy việc đình chỉ hoạt động hạt nhân. Ông Thae nói đó là một “cái bẫy” mà cuối cùng sẽ hợp pháp hóa Bắc Hàn như một quốc gia hạt nhân, tương tự như đã diễn ra với Ấn Độ và Pakistan trước đây.

Ông nói khả năng xảy ra đảo chính quân sự bên trong Bắc Hàn còn xa vời vì giới lãnh đạo vẫn trung thành với ông Kim. Mặc dù vậy, ông lưu ý rằng nhiều người trong các lực lượng vũ trang cũng đang thất vọng với chính thể hiện nay.

Vẫn theo ông Thae thì các nhà lãnh đạo ở Bình Nhưỡng không sợ bị Trung Quốc trả đũa về chương trình hạt nhân của mình, bởi vì họ nghĩ rằng Bắc Kinh thà có một Bắc Hàn sở hữu vũ khí hạt nhân giáp với đường biên giới của họ, còn hơn phải đối mặt với một nước Triều Tiên thống nhất dân chủ, và là đồng minh của Hoa Kỳ.

CẢM HẬN

From facebook:   Phạm Đăng Quỳnh‘s post.
Image may contain: 1 person, outdoor
Phạm Đăng Quỳnh with Quynh Pham.

CẢM HẬN

Đất nước tôi những tượng đài ngàn tỉ
Những công trình thế kỷ… bỏ hoang vu?
Những cuộc tiệc tiền chùa… vua chúa sợ?!
Mà sao em…liều sinh mạng đến trường?!
Đất nước tôi dư nhà thơ, nhà báo
Xúm tung hô ngụy tạo, xạo, lăng nhăng…
Có ai biết những mảnh đời bất hạnh
Mái tranh nghèo từng bữa ruột thiếu ăn?!
Đất nước tôi thừa giáo sư, tiến sĩ
Làm thầy đời hô khẩu hiệu… trăng sao!
Phòng máy lạnh, xe công xài…quý tộc
Những sinh linh nầy mạng sống tựa lông bay.
Đất nước tôi có lắm điều oan khuất
Bao người nghèo, nghèo đến chết thì thôi.
Hai ổ bánh mì thành phiên tòa quái gỡ
Vạn vạn tỉ đồng… rút kinh nghiệm trơn tru.
Ôi đất nước của ngàn năm văn vật
Có lẽ nào bọn thánh vật nhởn nhơ!?
Mạng các em thua con gà, con chó
Chưa biết cười đã đẫm lệ tuổi thơ.
(Tác giả : MAI CHIÊU SƯƠNG)
8/8/2016