HÒA THƯỢNG NÓI KHÔNG SAI!

From facebook: Thuan Chau An Le added 4 new photos.
HÒA THƯỢNG NÓI KHÔNG SAI!

 

“Các con lớn lên trong thời đại thanh bình, nhưng các con lại bị ném vào giữa một xã hội mất hướng. Quê hương và đạo pháp là những mỹ từ thân thương nhưng đã trở thành sáo rỗng. Các bậc cao tăng thạc đức, một thời đã đánh thức lương tâm nhân loại trước cuộc chiến hung tiền, đã giữ vững con thuyền đạo pháp trong lòng dân tộc; nay chỉ còn lại bóng mờ, và quên lãng.”

“Chớ khoa trương bảo vệ Chánh Pháp, mà thực tế chỉ là ôm giữ chùa tháp làm chỗ ẩn núp cho Ma Vương, là nơi tụ hội của cặn bã xã hội. Chớ hô hào truyền pháp giảng kinh, thực chất là mượn lời Phật để xu nịnh vua quan, cầu xin một chút ân huệ dư thừa của thế tục, mua danh bán chức.”

Thích Tuệ Sỹ

Image may contain: 1 person, sitting
Image may contain: 1 person, sky, mountain, nature and outdoor
Image may contain: 1 person, sitting
Image may contain: 3 people, people standing and indoor

Người Bắc Âu: Sống đơn giản, ít ham muốn vật chất để tâm linh an bình

Người Bắc Âu: Sống đơn giản, ít ham muốn vật chất để tâm linh an bình

Để ý một chút, người ta nhận thấy, ở các quốc gia ở Bắc Âu đa phần không có nhà cao tầng to lớn, người dân ăn mặc rất mộc mạc, đi những chiếc xe cũ kỹ và ăn những món ăn đơn giản.

Người Bắc Âu: Sống đơn giản, ít ham muốn vật chất để tâm linh an bình
Một ngôi làng đẹp như trong tranh ở Bắc Âu (Ảnh: Qua Nairaland)

Cứ sau 7 giờ tối, gần như trên các ngả đường đều rất yên ắng, không có cuộc sống “xa hoa trụy lạc” vào ban đêm, cũng không có những dịch vụ cao cấp xa xỉ, kích thích thần kinh con người. Vậy, hạnh phúc của những người dân Bắc Âu đến từ đâu?

Người Bắc Âu thường xuyên nhắc đến cụm từ “Chất lượng cuộc sống”. Người Thụy Điển có câu châm ngôn: “Tiền là thứ có thể để dành được còn thời gian thì không để dành được. Bạn sử dụng thời gian như thế nào thì nó sẽ quyết định chất lượng cuộc sống của cuộc đời bạn.”

Giữa: “Cuộc sống đầy đủ nhà cao cửa rộng, tiền bạc và xe hơi sang trọng” và “Cuộc sống có đầy đủ vợ chồng, con cái, sân vườn”, người Bắc Âu sẽ lựa chọn cái vế thứ hai bởi vì thứ mà họ muốn là “phẩm chất” (chất lượng) chứ không phải là “vật chất”.

Nếu sống luôn trong trạng thái vội vã, bận rộn, bạn có nghĩ rằng linh hồn của mình sẽ không theo kịp thể xác không? Người Bắc Âu lựa chọn cách sống “chậm một chút!”, nhưng họ có thể tìm được hạnh phúc thực sự từ đây.

Sống đơn giản – Giảm ham muốn vật chất, trở về với tâm linh yên bình

Người Bắc Âu: Sống đơn giản, ít ham muốn vật chất để tâm linh an bình
(Hình minh họa: Qua Flickr)
 Hoàn cảnh thiên nhiên hà khắc khiến cho thói quen tiết kiệm đã trở thành điều tất nhiên ở Bắc Âu. Họ quan niệm rằng: Cơm không thể không ăn, nhưng không nhất thiết phải ăn quá ngon. Tiền không thể không có, nhưng không nhất thiết phải có quá nhiều.

Cuộc sống đơn giản của người Bắc Âu rất dễ để người khác nhận ra. Nó thể hiện trong cách ăn mặc, không quan trọng là đắt hay rẻ nhưng cần phải phù hợp. Những phụ nữ 70-80 tuổi thường mặc áo khoác màu nhạt kết hợp chân váy, đi giày nữ tính, khăn trùm đầu phong cách nữ hoàng Anh. Nhìn họ vừa nữ tính vừa trang nghiêm nhưng cũng không mất đi vẻ cuốn hút.

Ngoài ra, nếu nhà ai đó mới sinh em bé thì những nhà hàng xóm hay bạn bè đều sẽ mang những bộ quần áo cũ đã được giặt rũ thơm tho đến cho em bé sử dụng. Điều này là rất bình thường và có vẻ như nó cũng trở thành một thói quen lâu đời của người Bắc Âu.

Nếu một anh chàng thanh niên, một ông lão hay một cô gái đang đi trên đường mà bất chợt gặp bạn bè, thì quán cà phê ở đầu đường hay cuối ngõ sẽ là lựa chọn đầu tiên của họ. Một cốc cà phê nồng nàn trong không gian tĩnh lặng sẽ khiến họ ấm áp và thân thiết hơn.

Đường ở một số quốc gia Bắc Âu thường hẹp, ở thành thị thì phần lớn nó không phải những con đường thẳng mà là những ngõ, hẻm.

Người dân nơi đây chủ yếu sử dụng những loại xe ô tô cá nhân cỡ nhỏ. Rất nhiều người họ đều là đạp xe đạp đi làm. Bảo vệ môi trường đối với họ không phải là một loại “mốt” mà là một sự “cao thượng”.

Hiệu suất cao – Làm việc để cuộc sống tốt hơn

Người Bắc Âu: Sống đơn giản, ít ham muốn vật chất để tâm linh an bình
(Hình minh họa: Qua Flickr)

Cả ngày nhàn rỗi, không làm việc gì và làm việc cả ngày từ sáng đến tối muộn là hai trạng thái mà người Bắc Âu không lựa chọn.

Công việc của họ không quá khắt khe về thời gian, họ có thể làm thêm được việc khác nhưng họ không chọn cách ấy mà sẽ ngồi uống cà phê với bạn hay đọc sách. Dù vậy, bạn đừng nghĩ rằng, người Bắc Âu suốt ngày chỉ biết uống cà phê nhé! Điều kiện tiên quyết để họ được hưởng cuộc sống hạnh phúc là từ một thể chế phúc lợi do chính thái độ và hiệu suất làm việc của họ đem lại. “Đừng suy xét đến thu nhập, trước tiên hãy hỏi mình thích hay không thích, bởi vì công việc mình phải thích thì mới làm tốt được nó”, đây là quan niệm của người Bắc Âu. Cho nên, đối với người Bắc Âu mà nói, công việc không phải là một loại “dằn vặt, giày vò”.

Vì đề cao năng suất, nên người Bắc Âu nghĩ mọi cách để sáng tạo, như vậy để họ có nhiều thời gian hơn cho việc nghỉ ngơi và cho gia đình. Nhìn vào số lượng giải Nobel hay những giải thưởng danh giá khác trên thế giới chúng ta sẽ thấy rõ điều này.

Có nhiều thời gian hơn, người Bắc Âu sẽ tận hưởng cuộc sống bằng các kỳ nghỉ. Người Bắc Âu nổi tiếng là những người yêu du lịch. Họ thường xuyên đi hưởng thụ, ngắm cảnh đẹp trong nước cũng như trên toàn thế giới.

Yêu gia đình – vui chơi cùng con cái

Người Bắc Âu: Sống đơn giản, ít ham muốn vật chất để tâm linh an bình
(Hình minh họa)
 Trong cuộc sống của người Bắc Âu, chỉ cần vừa có kỳ nghỉ là họ sẽ cùng gia đình tận hưởng những ngày vui đùa bên nhau, cùng tắm biển, tắm nắng, trượt tuyết, cưỡi ngựa…

Người Bắc Âu rất đề cao giá trị gia đình, người chồng trong gia đình sẵn sàng hủy bỏ những buổi gặp gỡ ăn uống với bạn bè sau giờ làm để dành thời gian cho vợ con.

Điều đầu tiên sau khi tan ca trở về nhà chính là mọi người giành thời gian cho gia đình. Họ cùng nhau nấu ăn, vui đùa, kể chuyện, có rất ít người ở lại bên ngoài. Cho dù là có muốn làm thêm thì họ cũng phải chọn thời gian để tránh ảnh hưởng đến gia đình.

Ví dụ, người chồng sẽ chọn đi làm tăng ca vào lúc 3 giờ sáng bởi vì họ cho rằng buổi sáng ít nhất còn có người vợ ở nhà dùng bữa sáng cùng các con. Như vậy, người chồng sẽ chỉ bị mất đi khoảng 1 tiếng đồng hồ là thời gian gia đình gặp gỡ nhau ăn sáng. Làm thêm giờ vào buổi sáng sớm, nghe thì có vẻ khó tin, nhưng điều này lại cho các ông bố có thêm thời gian vào buổi tối để gia đình được ăn tối cùng nhau.

Một người cha tên là Fredrik nói: “Nếu như một ngày, tôi không nhìn thấy bọn trẻ, không kể cho chúng một câu chuyện, không hôn lên đầu chúng thì tôi không thể làm được bất cứ điều gì!”

Họ cho rằng, khoảnh khắc hạnh phúc nhất chính là những đứa trẻ leo lên đầu gối và ôm lấy cổ bố chúng, hôn một cái trước khi đi ngủ. Họ cảm thấy khoảnh khắc ấy chính là một loại thành tựu, một loại hạnh phúc trong cuộc đời.

Đối với người đàn ông Bắc Âu mà nói, gia đình và con cái không phải là nền tảng giúp người đàn công tìm kiếm sự thành công, mà là một phần quan trọng nhất tạo nên chất lượng cuộc sống của họ.

An Hòa

Mặt trận những người mẹ không yên tĩnh

Mặt trận những người mẹ không yên tĩnh

Ảnh của tuankhanh

RFA

Trong buổi chiều ngày 16/3, tôi được nhìn thấy một chị bạn thoát trở về từ đồn công an. Gương mặt của chị  đầy nét mệt mỏi. Chị bị bắt giữ và giam nhiều tiếng đồng hồ, sau khi đã đứng giơ khẩu hiệu đòi minh bạch nghi án ấu dâm ở trường Lương Thế Vinh (số 1 Dân chủ, Phường Bình Thọ,  Quận Thủ Đức).

Nghi án ấu dâm ở trường Lương Thế Vinh đã qua nhiều ngày, với những điều ngày càng được phơi bày sáng tỏ hơn. Ngay trong buổi sáng mà những người phụ nữ bị xua đuổi, giải tán và thậm chí bị bắt giam, giới phụ huynh giận dữ chuyền tay nhau bản video phỏng vấn của Báo Thanh niên, trong đó xác định bé gái học lớp một đã bị lạm dụng đến chảy máu đẫm chiếc quần lót, bởi đã chứng cứ xét nghiệm cho thấy có tế bào nam trong dịch âm đạo của bé.

Bản tin này, với lời khẳng định việc bé gái bị xâm hại tình dục là hoàn toàn có cơ sở. Bước ngoặt này hoàn toàn khác với những cuộc điều tra, thông báo đầy tính loanh quanh, thậm chí bất minh trước đó. Nhiều phụ huynh cảm thấy lo lắng về sự an toàn của bản tin nên đã vội tải về, gửi đi trên các trang mạng xã hội khác. Lo lắng không thừa, chỉ ít giờ sau khi được đăng tải, các phụ huynh nói với nhau rằng bản tin cũng bị rút xuống một cách khó hiểu.

Người chị đã giơ khẩu hiệu đòi minh bạch điều tra vụ ấu dâm trước trường Lương Thế Vinh may mắn trở về được, trong khi 2 người mẹ khác, bạn của chị, vẫn còn bị công an quận Thủ Đức tiếp tục giam giữ trong chiều hôm ấy. Chị bị điều tra như một loại tội phạm khủng bố. Công an buộc chị phải mở điện thoại, thẩm vấn… và chị đã phản ứng quyết liệt đến mức đập cong nát chiếc điện thoại của mình, thậm chí nuốt luôn simcard sắc nhọn như một cách tự vẫn, để từ chối việc công an địa phương xâm phạm quyền riêng tư của chị.

Có cái gì đó thật bất bình thường, khi những người mẹ đứng lên đòi bảo vệ con cái của mình, lại trở thành kẻ bị đàn áp tức thì, trong khi các nghi can tội phạm thì luôn được đắn đo để đưa vào tìm hiểu sự việc.

Xã hội thật bất an, khi luật pháp không trực tiếp và tức thì chống lại tội ác. Mà thanh gươm cong nhân danh luật pháp dường như lại luôn nhằm thẳng vào nhân dân trong một hành động quá mơ hồ, không đủ lý lẽ thuyết phục như vậy.

Tố cáo nạn ấu dâm bùng lên ở Việt Nam, chỉ khi một số bà mẹ quá đau xót và tức giận trước kẻ thủ ác như vẫn ung dung trong sự che chắn kỳ lạ nào đó. Bất kỳ ai theo dõi các sự vụ đều hoang mang khi thấy một quan chức, đảng viên cộng sản 76 tuổi, thoát được mọi cáo buộc, mặc dù có đến 9 bà mẹ đòi đưa người đàn ông này ra ánh sáng khi xâm hại các con gái nhỏ của họ, trong cùng một khu chúng cư. Viện trưởng Viện kiểm sát Nhân dân Thành phố Vũng Tàu thì đã bộc lộ điều đầy vẻ mờ ám khi cứ lần lữa bằng cách gia hạn điều tra thêm, dù đã có quyết định khởi tố từ tháng 8/2016.

Tương tự như vậy, đối diện nghi vấn về chuyện một nghi phạm ấu dâm 34 tuổi đang làm việc tại Hoàng Mai, Hà Nội đang làm người dân sôi sục, trước khi điều tra được về sự việc chính là tội ác đối với trẻ em, thì công an nhanh chóng tuyên bố là sẽ phải nhanh chóng “điều tra và xử lý sớm” về chuyện ai đã làm mất uy tín ông Nguyễn Hồng Diên, Chủ tịch UBND tỉnh Thái Bình. Đơn giản vì có lời đồn nghi phạm có quan hệ gia đình với ông chủ tịch. Việc ấu dâm tội ác thì tạm thời tuyên bố sau.

Luật pháp để phục vụ toàn dân. Luật pháp để phụng sự cho cho đất nước của những người dân đóng thuế và nuôi nấng xã hội. Nhưng trong những điều diễn ra, người ta đang cảm giác rằng luật pháp đang chỉ phục vụ cho một nhóm người, cho những thành phần được ngấm ngầm ưu đãi. Còn lại, tất cả như chỉ là bánh vẽ đối một dân tộc đang nhọc nhằn cần lao và thấp thỏm hy vọng.

Chỉ khi có lệnh từ chủ tịch nước Trần Đại Quang, bộ máy luật pháp ở nhiều nơi mới uể oải làm nhiệm vụ của mình, dĩ nhiên, trong đó bao gồm cả việc bắt giữ và thẩm vấn những bà mẹ đứng lên đòi một môi trường sống an toàn cho con em mình. Thật vô nhân.

Kèn trống của các loại truyền thông muốn làm nhẹ sự việc cũng được khua lên inh ỏi. Thật sửng sốt, khi một bộ máy vẫn được dân chúng thường gọi đầy khinh bỉ là Dư Luận Viên cũng sôi động lúc nhúc, thậm chí kêu gào bào chữa cho hiện trạng xã hội bằng những lời ngu dốt tận đáy như “nước nào cũng có nạn ấu dâm”.

Một thống kê tạm bợ cho biết, Việt Nam một năm có khoảng 1000 trẻ em bị xâm hại. Gần 60% các cháu 12-15 tuổi, 13% mới chỉ dưới 6 tuổi. Thực tế chắc còn vượt xa các con số đó. Tin trên báo Tuổi Trẻ cho biết Việt Nam dàn trận đến 15 tổ chức gọi là bảo vệ trẻ em, nhưng khi trẻ bị xâm hại thì chẳng biết gọi ai. Khi dư luận xã hội bùng lên dữ dội, một vài quan chức cũng lên tiếng nhiệt tình như một cách vỗ tay theo nhịp, mặc dù trước đó, họ chính là những kẻ giỏi im lặng nhất.

Hình ảnh đất nước Việt Nam hôm nay, không khác gì một bức Guernica khổng lồ. Mọi thứ giận dữ, sợ hãi và tuyệt vọng quẫy đạp chồng chéo trong đám đông mà không có được một tiếng động nào thoát ra ngoài thế giới thật.

Như cú đập điện thoại dứt khoát phản đối của chị bạn tôi, những bà mẹ và những gia đình Việt Nam đã tự mình leo khỏi bức tranh xinh đẹp quảng bá về cuộc sống Việt Nam, họ sẳn sàng hy sinh mọi thứ để tạo nên tiếng động gây sự chú ý giữa màn đen bí ẩn bao phủ khắp nơi, vì một tương lai của chính mình và những người chung quanh.

Và nếu luật pháp không đủ sức mạnh để gìn giữ đời sống xã hội, thì chính quyền tạo ra nó, hôm nay, cũng sẽ bị nhân dân đặt một dấu hỏi rằng: liệu chính quyền và luật pháp ấy nên tồn tại để làm gì?

‘Con tàu đắm’ kéo chìm ngân sách Việt Nam

‘Con tàu đắm’ kéo chìm ngân sách Việt Nam

Phạm Chí Dũng

Nguoi-viet.com

Một chiếc tàu biển cũ nát của Vinashin. (Hình: Getty Images)
‘Con tàu đắm’ kéo chìm ngân sách Việt Nam
Phạm Chí Dũng

Tương lai của nền ngân sách độc đảng sẽ là một hình ảnh khá tương đồng với “con tàu đắm” Vinashin hiện hồn cách đây một con giáp.

Xác chết chưa chôn

Vinashin (Tập Ðoàn Công Nghiệp Tàu Thủy Việt Nam) thực ra đã “chết” từ rất lâu rồi, nhưng cứ như một “tục lệ,” vài ba năm một lần giới quản lý tài chính lại “ai điếu” với cái xác chưa thể chôn này.

Vào thời gian sắp diễn ra kỳ họp Quốc Hội mới vào cuối quý 1 năm 2017, phía chính phủ của ông Nguyễn Xuân Phúc cùng Bộ Tài Chính lại một lần nữa “tố”: dự phòng ngân sách nhà nước phải ứng trả thay cho Vinashin trong 10 năm tới lên tới 63.2 nghìn tỷ đồng.

Không “tố” sao được! Chẳng lẽ ông Phúc lại chịu đưa đầu “chết thế” cho những kẻ còn đang nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật?

Vào thời thủ trưởng cũ của ông Phúc là Nguyễn Tấn Dũng, số nợ của Vinashin đã lên tới khoảng 86 ngàn tỷ đồng, tức khoảng 4 tỷ đôla, chiếm đến 2.5% GDP vào thời gian đó. Chẳng có cách gì trả nợ nổi, Vinashin đã trở thành một vụ án mang tầm cỡ quốc gia với thật nhiều quan chức tham nhũng và vô trách nhiệm. Nhưng phán quyết của tòa án đã chỉ dừng ở chính giới lãnh đạo Vinashin mà không có bất kỳ quan chức chính phủ nào phải trả giá.

Cho đến tận giờ này…

Ðến giờ này, lấy đâu ra số tiền hơn sáu chục ngàn tỷ để trả nợ thay cho Vinashin, trong lúc ngân sách còn “phải chạy ăn từng bữa” – theo cách ví von còn chút liêm sỉ của một chuyên gia nhà nước?

Quả là chưa có một đời thủ tướng cộng sản nào phải “đổ vỏ” ghê gớm như thời ông Nguyễn Xuân Phúc. Chỉ riêng trong khu vực các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước mà con số nợ vay đã lên đến 237 tỷ đôla, các đời chính phủ đã bảo lãnh đến 21 tỷ đôla, để chính phủ còn đang tồn tại phải có trách nhiệm trả nợ cho số tiền vào thời buổi “không biết đào đâu ra” này.

Vậy chính phủ của ông Nguyễn Tấn Dũng đã làm gì đó để “đóng cửa bảo nhau”?

Thuật ướp xác

Không thể rút ngân sách để “bù đắp khó khăn” cho Vinashin, vào năm 2005, chính phủ Việt Nam đã tìm cách phát hành trái phiếu quốc tế tại thị trường chứng khoán New York để vay 750 triệu đôla, với kỳ hạn 10 năm và lãi suất 7.125%/năm. Số trái phiếu này đến hạn trả nợ gốc và lãi vào năm 2016. Sau đó chính phủ đã cho Vinashin vay lại toàn bộ số trái phiếu nói trên. Nhưng khoản vay này không hiểu do nguồn cơn nào mà đã tiêu tán hết, để cuối cùng Vinashin hầu như không có khả năng trả nợ cho chính phủ. Tuy thế, hồ sơ vụ này gần như bị đóng lại. Báo chí chỉ dám hé môi rồi sau đó im bặt.

Về sau này, một chuyên gia tài chính là ông Bùi Kiến Thành đã phải nói rằng việc chính phủ giao toàn bộ 750 triệu đôla vào tay Vinashin mà không cần có các dự án cụ thể để giải ngân là “lỗi cực kỳ lớn.”

Do chẳng ai thấy cần phải chuộc lỗi, đến năm 2010, số dư nợ của Vinashin đã lên đến 86 ngàn tỷ đồng và trở nên “vô phương cứu chữa.”

Cũng vào năm 2010, chính phủ Việt Nam lại phát hành 1 tỷ đôla trái phiếu kỳ hạn 10 năm tại Sở Giao Dịch Chứng Khoán Singapore với lãi suất 6.75%/năm. Số tiền này sau đó được chính phủ cho một số tập đoàn kinh tế lớn vay lại. Tuy thế, cũng không thấy tăm hơi nào từ số tiền “tái cơ cấu Vinashin.” Doanh nghiệp được mệnh danh là “con tàu đắm” này cứ lần lượt nuốt chửng các khoản tiền khổng lồ.

Vào năm 2014, lần thứ ba chính phủ Việt Nam lại xoay sở phát hành 1 tỷ đôla trái phiếu. Tuy nhiên lần này có vẻ không còn “thành công” như hai lần trước đó. Ðây cũng là thời gian mà những xung đột chính trị trong chính trường Việt Nam trở nên khốc liệt hơn hẳn trên cung đường “lập thành tích chào mừng đại hội 12 của đảng.”

Cuối năm 2015, chính phủ thêm một lần nữa cố gắng tạo ra kế hoạch “phát hành 3 tỷ đôla trái phiếu đặc biệt ra quốc tế.” Nhưng đến lúc này, mọi thứ chỉ còn là ảo mộng. Giữa năm 2016, kế hoạch này đã hoàn toàn tan vỡ.

Còn bây giờ là năm 2017. Món nợ khổng lồ của Vinashin vẫn còn gần như nguyên vẹn, và trách nhiệm phải xử lý không ai khác là “tân chính phủ” của người vẫn còn bị một số dư luận xem là “tân Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc.”

“Sám hối”

Từ quý 4 năm 2016, thần sắc và phát ngôn của ông Phúc đã khác với gương mặt hớn hở khi nhận lẵng hoa từ người tiền nhiệm Nguyễn Tấn Dũng ngay sau đại hội 12 vào đầu năm 2016.

Trầm tư và có vẻ co thủ hơn, có lẽ Thủ Tướng Phúc bắt đầu “rút kinh nghiệm sâu sắc” và thận trọng xử lý những gì thuộc về dĩ vãng.

Sau hai cảnh báo có hơi hướng “sám hối” – “nợ công nếu tính đủ thì đã vượt trần” và “sụp đổ tài khóa quốc gia” vào cuối năm 2016, đến đầu năm 2017 chính phủ của ông Phúc bắt đầu có vài động thái “làm chuồng sau khi mất bò”: Năm 2017, chính phủ chỉ bảo lãnh vay 1 tỷ USD cho doanh nghiệp.

Thông tin trên được phát ra bởi Cục Quản Lý Nợ và Tài Chính đối ngoại (Bộ Tài Chính). Cơ quan này giải thích rằng hạn mức quá khiêm tốn như thế là để không tăng thêm gánh nặng nợ công.

Như vậy, hạn mức bảo lãnh vay năm 2017 sẽ giảm mạnh so với những năm trước (năm 2015 là 2.5 tỉ đôla và 2016 là 1.5 tỉ đôla), và giảm rất mạnh so với mức 6.6 tỷ đôla của năm 2014.

Cùng lúc và như một hiệu lệnh, giới quan chức từ cao xuống thấp trong chính phủ đồng loạt tuyên bố sẽ không chấp nhận đưa nợ vay của các doanh nghiệp vào nợ công quốc gia. Những doanh nghiệp nào không thể trả nợ thì phải phá sản.

Ðó là hậu quả không cách nào tránh khỏi của những năm trước, khi nhiều tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước vay nợ tràn lan để đầu tư trái ngành đã cho thấy tâm lý vay là cực kỳ vô trách nhiệm, thậm chí một số doanh nghiệp còn có biểu hiện “xù nợ” khi làm ăn lỗ lã.

Kết cục, có đến ít nhất 30% số tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước đã rơi vào vòng lỗ lã và đối mặt với nguy cơ phá sản kể từ năm 2008 khi kinh tế Việt Nam bắt đầu rơi vào giai đoạn suy thoái.

Nếu bạn là Thủ Tướng Phúc?

Tình thế đã bí lắm rồi.

Nếu tính cả nợ của các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước, nợ công Việt Nam phải lên đến 210% GDP chứ không còn “đã sát ngưỡng nguy hiểm 65% GDP” như một báo cáo mới đây của chính phủ.

Còn nếu phải “ôm” núi nợ đến 237 tỷ đôla của các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước mà chiếm đến 120% GDP hiện thời, chính phủ của ông Phúc chỉ còn nước từ chức toàn diện.

Cho dù đã không ai chịu từ chức vào năm 2015, khi thủ tướng lúc đó là Nguyễn Tấn Dũng cho biết Việt Nam phải trả nợ đến 20 tỷ đôla. Còn vào năm 2016, người “may mắn” thế chỗ cho ông Dũng là Nguyễn Xuân Phúc cho biết Việt Nam phải trả 12 tỷ đôla.

Chưa có thông tin chính thức về trả nợ năm 2017, nhưng nhiều khả năng Việt Nam cũng phải trả cho các chủ nợ khoảng một chục tỷ đôla…

Nhưng Vinashin lại không phải là “con tàu đắm” duy nhất trong một nền ngân sách đang ruỗng mục với tốc độ ngang ngửa lạm phát thực tế. Nếu trước đây xã hội đã phải phát sốt với hiện tượng tập đoàn kinh tế nhà nước ăn theo kiểu “đào tận gốc trốc tận rễ” như Vinashin và Vinalines, thì từ năm 2012 đến nay các vụ án quốc gia đã chuyển dần sang giới ngân hàng – xây dựng, đại dương, dầu khí toàn cầu – với vụ án nào cũng thất thoát đến hàng chục ngàn tỷ đồng.

Ngân hàng lại là tử huyệt của nền tài chính. Những Vinashin và Vinalines tuy thất thoát và nợ lớn nhưng sẽ không dễ khiến thị trường tín dụng chao đảo đổ bể và gây hoảng loạn xã hội như khối ngân hàng thương mại.

Nếu bạn là Thủ Tướng Phúc, bạn sẽ phải “kiến tạo và hành động” ra sao để cứu vãn ngân sách quốc gia khỏi chìm sâu dưới đáy đại dương?

Người Trung Quốc Ở Việt Nam Hay Là Chuyện Về Những Nàng An Thị Thời Hiện Đại

Người Trung Quốc Ở Việt Nam Hay Là Chuyện Về Những Nàng An Thị Thời Hiện Đại

Viet-studies

Nguyễn Trọng Bình

15-3-2017

1. Hiện diện trên đất nước Việt Nam hôm nay dĩ nhiên không chỉ có người Trung Quốc. Tuy vậy, phải nói rằng chuyện người Trung Quốc có mặt ở Việt Nam để làm ăn, du lịch hay làm gì khác chưa bao giờ là vấn đề thôi mang tính thời sự, hiểu theo nghĩa nào đó. Đây là đề tài – một sự thật nhiều người biết, nhiều người thấy nhưng để nói ra thì chưa bao giờ là điều dễ dàng, thoải mái.

Còn nhớ cách đây không lâu, chuyện những thương lái Trung Quốc lặn lội vào tận các vùng thôn xóm hẻo lánh ở Việt Nam để thu mua những mặt hàng “độc và lạ”, không ai có thể ngờ tới như: móng trâu, bò, ong bầu, lá điều, cau non, cam non, đuôi chuột, đỉa, ốc bưu vàng…sau đó “lặn” một hơi mất tăm để lại một nỗi buồn vô hạn cho những người dân nghèo nhẹ dạ cả tin. Câu chuyện này sau nhiều lần lặp đi lặp lại ở nhiều địa phương mới nhận được sự quan tâm của dư luận cùng với đó là những quan điểm nhìn nhận, lý giải khác nhau. Trong cái nhìn của người làm kinh tế và nhất là đã lặn lội sang tận Trung Quốc tìm hiểu, tác giả Tony trong sách “Cà phê cùng Tony” cho biết, đây đơn giản chỉ là chiêu trò cấu kết, dùng miệng lưỡi cùng thủ đoạn “mua bán lòng vòng” để tìm cách nâng giá của bọn gian thương nhằm lừa gạt những người dân quê nghèo khó và ít học. Bởi lẽ, trên thực tế không có một món hàng nào chúng thu gom của đồng bào ta được chuyển về xứ họ. Bọn gian thương ấy không chỉ lừa gạt những người dân nghèo ở Việt Nam mà ngay cả những người dân nghèo ở Trung Quốc cũng là nạn nhân của chúng.

Cũng có người lý giải sự việc này góc nhìn khác, thậm chí có cả một “thuyết âm mưu” cho rằng, những chiêu trò ấy về lâu dài nhằm phá hoại nền kinh tế nước Việt. Nhìn chung, dù ở góc độ nào thì những cách lý giải đều gặp nhau ở một điểm: nhắc nhớ mỗi người dân Việt hôm nay chớ quên bài học xương máu về sự lờ là, nhẹ dạ cả tin của nàng An Thị Mỵ Châu cách nay mấy ngàn năm. Khi ấy, chỉ vì tình cảm riêng tư với chàng Trọng Thủy mà nàng Mỵ Châu đã vô tình gây nên họa mất nước.

2. Công bằng và khách quan mà nói, không phải chuyện gì liên quan đến người Trung Quốc hôm nay cũng đều tệ hại, xấu xa để chúng ta lên tiếng dè bĩu, nghi kỵ, bài trừ, lên án…(và nếu tự soi lại mình thì không ít người Việt hôm nay chưa chắc đã tốt đẹp hơn họ). Tuy vậy, trong bối cảnh với vô vàn sự phức tạp và nhạy cảm của đất nước hôm nay, một sự thận trọng và tỉnh táo trong suy nghĩ và hành động để mỗi người Việt không tự biến mình thành những “nàng An Thị” thời hiện đại là vấn đề rất nên được nghiêm túc nhìn nhận. Nhưng, thiển nghĩ để làm được điều ấy, rất cần một sự trao đổi chân thành và thẳng thắn về một vài vấn đề có liên quan. Nói khác đi, nếu nhìn xa hơn, thì đây chính là câu chuyện lớn liên quan đến rất nhiều ban ngành, đoàn thể chính quyền các các cấp trong vấn đề quản lý người nước ngoài nhất là người Trung Quốc sang Việt Nam làm ăn, sinh sống và định cư từ nhiều năm qua.

Nói điều trên để thấy rằng, khi những người dân nghèo bị gian thương Trung Quốc lừa gạt đến nỗi “tiền mất tật mang” có người nói cũng tại dân mình tham lam quá nhưng nếu bình tâm nghĩ lại sẽ thấy dù sao những người dân nghèo ấy vẫn đáng thương hơn là đáng trách. Vì thực ra, người nghèo và ít học thì ở đâu cũng giống nhau ở một vài nét cơ bản nào đó. Thử hỏi trong hoàn cảnh mà cái bao tử lúc nào cũng sôi ùng ục lên vì đói thì làm sao họ có đủ thời gian để suy nghĩ sâu xa hay phân tích cặn kẽ những chiêu trò của bọn gian thương để từ chối những món hời trước mắt?

Không những vậy, theo lẽ thường, những thương lái Trung Quốc trước khi được tự do đi lại thoải mái đến tận các bản làng, thôn xóm nước Việt để thu mua những thứ “trời ơi đất hỡi” như thế nhất định phải hoàn thành các thủ tục tại các cửa khẩu hải quan. Cho dù có kẻ đã vào nước ta bằng đường “tiểu ngạch” đi nữa thì vẫn có cả một hệ thống chính quyền cùng rất nhiều các hội đoàn lớn nhỏ (như Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Hội Người cao tuổi, Đoàn thanh niên, Tổ dân phố, Tổ tự quản…) từ trung ương đến địa phương kia mà. Và như thế, câu hỏi trước hể phải đặt ra ở đây là tại sao giữa thanh thiên bạch nhật tại một thành phố lớn mà cả một dãy phố 1.500 mét vuông với hàng loạt ngôi nhà kiến trúc kiểu Trung Quốc được dựng lên trái phép trong nhiều tháng; hay tinh thần trách nhiệm và cảnh giác kiểu gì để một nhóm người khác núp bóng đi du lịch đến thuê cả một doanh nghiệp, thuê luôn ruộng lúa sắp thu hoạch của nông dân để trồng giống “Sen lạ” hay thả nuôi hàng trăm con Tôm hùm đỏ trong một thời gian dài mới bị phát hiện?

Những người dân nghèo vì ít học và nhất là vì miếng cơm manh áo nên vô tình tự biến mình thành những “nàng An Thị” hiện đại đã đành nhưng những người “có học” và nhất là đang giữ trọng trách trong bộ máy công quyền từ trên xuối dưới thì sao? Đây là những câu hỏi nhất định phải cần được trả lời trung thực và thỏa đáng từ những người có trách nhiệm trong vấn đề quản lý. Đặc biệt là với không ít trường hợp những người Trung Quốc đến Việt Nam với một tâm thế và hành tung rất đáng ngờ mà dư luận báo chí ít nhiều đã phản ánh trong thời gian qua.

3. Nàng An Thị Mỵ Châu năm xưa chỉ vì nghe theo “tiếng gọi của tình yêu”, “tiếng nói của con tim” nên đã bị chàng Trọng Thủy lừa đánh tráo Nỏ Thần đưa đến họa mất nước. Tuy vậy, ở phương diện nào đó, rất nên biết rằng những chuyện thuộc về “tiếng nói của con tim” trong nhiều trường hợp rất khó để đưa ra một kết luận đúng “đúng”, “sai” huống hồ đây vốn là âm mưu mà kẻ thù của cha nàng đã rắp tâm sắp đặt từ trước. Nhưng dù thế nào thì nàng An Thị Mỵ Châu cũng đã trả một cái giá rất đắt cho sự nhẹ dạ của nàng. Một cái chết không toàn thây bởi chính lưỡi gươm oan nghiệt của vua cha. Nhưng lẽ nào, suốt mấy ngàn năm qua, mỗi khi nhắc nhớ về bài học mất nước này chúng ta chỉ biết đổ hết lên đầu nàng trong khi đó người chịu trách nhiệm chính trong chuyện này là Thục Phán An Dương Vương cùng những cận thần của ông lại ít khi “đụng” đến? Hình như có gì đó sai sai trong việc diễn giải và tuyên truyền về câu chuyện này từ trước đến nay? Mối tình của nàng Mỵ Châu xưa kia phải chăng chính là tấm bình phong nhằm che đậy và lấp liếm cho nhưng sai lầm trong “ngoại giao” của Thục Phán An Dương Vương –rộng hơn là những người nắm trong tay vận mệnh quốc gia từ trước đến nay nhưng chưa bao giờ họ có đủ dũng khí để thừa nhận những sai lầm ấy. Cũng giống như giờ đây, những người dân ít học nghèo khó, quanh năm “bán mặt cho đất bán lưng cho trời”, không bao giờ có cơ hội bàn chuyện quốc gia đại sự, nhưng lạ thay, lại được nhắc đến nhiều nhất về tinh thần cảnh giác. Ngoài ra, trong cái nhìn của không ít người, cái danh sách về những “thế lực thù địch” của dân tộc Việt Nam hôm nay lại dễ dàng bỏ qua dòng dõi, cháu con của những Triệu Đà, Triệu Trọng Thủy hiện nay? Phải chăng vì thế mới có chuyện các dự án lớn nhỏ – những “miếng ngon” nhất trên đất nước này bao giờ họ cũng được ưu ái giành phần trước nhất? Theo đà ấy, khắp các hang cùng ngỏ hẻm của dãy đất chữ S hôm nay chẳng có nơi nào mà họ không đặt chân lên trong tư thế của những kẻ “mạnh vì gạo, bạo vì tiền” cùng với đó là thái dộ ngạo mạn, nghênh ngang và bất chấp?

4. Nói cho cùng, đã là con người không ai trong đời không một lần vướng vào cái “cạm bẫy ái tình” như nàng An Thị Mỵ Châu năm xưa. Nhưng dù thế nào thì những người vướng vào cái bẫy tình ái như vậy vẫn đáng được cảm thông hơn những kẻ không vượt qua được cái cạm bẫy về tiền bạc, địa vị và danh vọng!? Phải chăng, bài học về sự cảnh giác trước kẻ thù của nàng An Thị ngàn năm trước rất nên được nhìn nhận lại đặc biệt là phải làm sao phù hợp tinh thần và bối cảnh của thời đại hôm nay: những “nàng An Thị” thời hiện đại vì tiền tài, danh vọng và quyền lực của phe nhóm và bản thân mình đã đan tâm bán rẻ dân tộc, quốc gia một cách tinh vi, hèn hạ nhất?

CT, 15/3/2017

Nguyễn Trọng Bình

—————

Nguồn tham khảo:

– Tony Buổi Sáng – “Chuyện nàng An Thị” (in trong sách “Cà phê cùng Tony”). Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, 2014.

“Khu phố” 1.500m2 không phép xây bí mật trong nhà kho ở Đà Nẵng”. Xem tại: http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/khu-pho-1-500m2-khong-phep-xay-bi-mat-trong-nha-kho-o-da-nang-3553595.html

Tác giả gởi cho viet-studies ngày 15-3-17

Vũ Quang Thuận & Mặt Trận Truyền Thông – S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

  Vũ Quang Thuận & Mặt Trận Truyền Thông –

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

RFA

Ảnh của tuongnangtien

tuongnangtien

“Một đêm Vũ Thư Hiên ngủ ở nhà tôi. Sáng hôm sau, tung chăn dậy, nhìn ra cửa sổ, nghe tiếng loa từ Ngã Sáu vọng vào, Hiên nhíu mày bảo:

– Hình như tao đã gặp buổi sáng như thế này ở đâu rồi.

Đúng là tiếng loa đã có từ lâu lắm rồi. Nó đã ngấm vào máu thịt, như là tiền kiếp vậy. Bao nhiêu năm chúng tôi đã nghe những bản nhạc hiệu ấy, những giọng nói đanh thép mở đầu ấy và cả những giọng điệu trong nội dung người viết người đọc nữa. Nó đã biến thành một phần của chúng tôi.” (Bùi Ngọc Tấn. Viết Về Bè Bạn. Hà Nội: Nhã Nam & NXB Hội Nhà Văn, 2012).

Cứ nghe ra rả cả ngày lẫn đêm (đảng ta, nhà nước ta, xã hội ta, nhân dân ta, quốc hội ta, bộ đội ta, sứ quán ta, người phát ngôn của bộ ngoại giao ta…) suốt “bao nhiêu năm” nên “nó biến thành một phần của chúng tôi” là … phải. Tất nhiên, đây không phải là chuyện ngẫu nhiên hoặc tình cờ – theo nhận xét của nhà bình luận La Thành:

“Trải qua nhiều chục năm thực hành và thực hành rất thành công, ngành tuyên truyền của Đảng Cộng sản đã đạt đến trình độ chuyên nghiệp và tinh vi vượt xa mọi lĩnh vực còn lại của thực tiễn cầm quyền. Để thí dụ, trong khi đã cân nhắc loại bỏ đi các thuật ngữ ‘nguỵ quyền’, ‘nguỵ quân’ trong sách giáo khoa lịch sử, các sử gia của chế độ vẫn tiếp tục sử dụng các thuật ngữ ‘Đảng ta’, ‘Nhà nước ta’, ‘quân và dân ta’, v.v. với dụng ý đánh đồng các thành phần trong hệ thống chính trị của Đảng Cộng sản với toàn thể quốc dân và xã hội – một phép nguỵ biện về lô-gích và một sự trâng tráo về hành xử.”

Tuy “trâng tráo” nhưng hiệu quả. Nạn nhân của cách tuyên truyền lì lợm và thô bạo này, với thời gian, có thể biến thành … thủ phạm (dễ) như chơi. Thử nghe đạo diễn Nguyễn Đình Nghi, trưởng nam của thi sĩ Thế Lữ, nói về bằng hữu của thân phụ ông (trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn) nha:

  • Ta ngặt lắm… Khái Hưng là ta… thịt mà. Bác Tam không trốn kịp thì cũng bị.” (Trần Đĩnh. Đèn Cù IIWestminster, CA: Người Việt, 2014).

Cũng trong tác phẩm thượng dẫn, chương 44, tác giả viết tiếp:

  • .. Nguyễn Sinh, xưa phóng viên thường trú Vĩnh Linh, Vĩnh Mốc lên nói … anh đã chứng kiến những người ở phía bên Nam kiabị ta bắt sang chôn sống kêu rất lâu dưới huyệt, tôi lại thấy mọi người lạnh mặt lại.”

Ta thịt người này, ta chôn sống kẻ khác … nhưng chả ai áy náy hay phải chịu trách nhiệm gì ráo trọi về những việc làm tàn bạo đến độ vô nhân tính như thế vì đây là sự tàn ác của cả tập thể mà. Vô số người dân Việt đã vô tình dùng chung căn cước với Đảng CSVN (cái tập đoàn hiếu sát, hiếu chiến, bất nhân, tham lam, ác độc, giảo hoạt …) một cách hết sức hồn nhiên và vô tư: Đảng ta, nhà nước ta, quốc hội ta, bộ đội ta, sứ quán ta, người phát ngôn của bộ ngoại giao ta … Cũng không ít kẻ hễ mở miệng ra là cũng ba hoa (“ta/ta”) cứ y như loa đài của Nhà Nước vậy.

Dù vậy, Nhà Nước vẫn chưa yên tâm nên cả hệ thống truyền thông – gần trăm năm qua – luôn luôn nhắc nhở cho mọi người nhớ “con đường mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã chọn!” Kiểu đánh đồng rất mất dậy và vô cùng trắng trợn này, tuy thế, hầu như đã không gặp phải bất cứ một sự chống đối công khai nào ráo.

Mãi cho đến đầu thế kỷ XXI, vào hôm 24 tháng 7 năm 2016, mới có một công dân Việt Nam – Trần Thị Thảo – đứng giữa phố phường, nói rõ (và nói to, to hơn cả tiếng loa phường) rằng mình hoàn toàn và tuyệt đối không có liên hệ chi với với tập đoàn lãnh đạo của chế độ hiện hành: “Tiên sư cha chúng mày chứ! Lịch sử sẽ lên án chúng mày, cả một chế độ thối nát, từ trên xuống dưới!

Vài tuần sau nữa, vào ngày 17 tháng 9, trong một cuộc phỏng vấn dành cho biên tập viên Mặc Lâm (RFA) giáo sư Tương Lai cho biết thêm là cái “chế độ thối nát” mà bà Trần Thị Thảo vừa đề cập đến (theo thứ tự từ dưới lên trên) gồm những “thằng” sau:

Từ ông thôn ông ấy bảo thằng xã nó ăn được thì tại sao tao không ăn được? Thằng xã bảo thằng huyện nó ăn được thì tại sao tao không ăn được? Thằng huyện bảo thằng tỉnh nó ăn được thì tại sao tao không ăn được? Thằng tỉnh bảo Bộ chính trị nó còn ăn, thằng Tổng bí thư nó còn ăn tại sao tao không ăn…

Giáo sư Tương Lai thản nhiên gọi TBT của Đảng Cộng Sản Việt Nam Quang Vinh bằng “thằng” khiến không ít người phải lấy làm ái ngại. Họ quan ngại rằng (cũng như bà Trần Thị Thảo) ông đã đi hơi xa trong việc biện biệt giữa “chúng ta” và “chúng nó.”

Nỗi lo ngại chính đáng này (bỗng) trở thành viển vông khi một công dân Việt Nam khác, ông Vũ Quang Thuận, đột nhiên xuất hiện như một “dàn đại bác” – theo lời tiên tri của blogger Bà Đầm Xoè:

Với tôi, dù Vũ Quang Thuận là ai thì sự lên tiếng của anh có giá trị khai sáng rất cao cho dân trí Việt Nam. Nó đã như một dàn đại bác liên tục nả vào đầu giới chóp bu cộng sản Việt Nam không trừ một ai, kể cả “linh hồn bất khả xâm phạm” Hồ Chí Minh. Với tôi, những gì Vũ Quang Thuận đã “bắn ra” đã đưa anh vào thế anh có thể biến mất bất kỳ lúc nào trước họng súng của chế độ CSVN đã bủa vây anh từ bốn phía.”

Vũ Quang Thuận. Ảnh: youtube

Quả nhiên, Vũ Quang Thuận và thân hữu của ông trong Phong Trào Chấn Hưng Nước Việt đã bị bắt giam vào hôm 3 tháng 3 năm 2017 vừa qua. Theo blogger Huỳnh Ngọc Chênh  thì “việc bắt giữ hai công dân Vũ Quang Thuận và Nguyễn Văn Điển là vi phạm nhân quyền, là dùng biện pháp bạo lực để dập tắt và chà đạp lên quyền tự do ngôn luận của công dân.” Ông bạn đồng nghiệp của tôi nói không sai nhưng e chỉ đúng  phân nửa mà thôi.

Quả thực là nhà đương cuộc Hà Nội đã “dùng bạo lực chà đạp lên quyền tự do ngôn luận của công dân” nhưng “dập tắt” được công luận thì vô phương, hay nói chính xác hơn là vô vọng. Trên mặt trận truyền thông, ĐCSVN đang phải đối mặt với một cuộc chiến tranh nhân dân mà Vũ Quang Thuận (và Nguyễn Văn Điển) chỉ là hai cảm tử quân ở tuyến đầu thôi!

CỔ TÍCH TRÊN ĐỈNH MỒ CÔI

CỔ TÍCH TRÊN ĐỈNH MỒ CÔI

Võ Đắc Danh

Bà Võ Thị Ba, bảy mươi tuổi, tóc trắng như một bà Tiên; con trai bà, anh NguyễnTấn Bông, 42 tuổi, người gân guốc, đen sạm và mạnh khoẻ như anh tiều phu; mườimột đứa trẻ, chín trai, hai gái, đứa lớn năm tuổi, đứa nhỏ nhất một tuổi, đứanào cũng trắng trẻo, khôi ngô như những thiên thần.

Đó là một gia đình sống trên đỉnh Mồ Côi hoang vắng, thuộc quần thể Núi Cấm,giữa vùng núi Thất Sơn, An Giang. Người ta cho rằng đó là một gia đình lạ, cómột không hai trên đất nước nầy, nếu không muốn nói là có một không hai trênthế gian.

Dì Ba kể rằng, quê dì ở Bình Thủy, Cần Thơ. Ngày xưa dì từng là chủ xe đò. Năm1980, có lần dì theo xe đưa nghĩa vụ quân sự qua Thất Sơn, bỗng dưng dì mê núi.Từ đó, thỉnh thoảng là dì “đi núi”, không phải viếng chùa cúng miễugì cả, dì không theo đạo nào, nhưng trong nhà dì, đạo nào dì cũng thờ, thờchung một bàn, không sợ họ “nghịch” nhau.

Dì nói, tôi không học giáo lý của tôn giáo nào cả, nhưng tôi thờ tất cả vì đạonào cuối cùng cũng là hướng thiện, mà con người luôn cần có cái tâm. Trở lạichuyện đi núi, dì nói không hiểu sau mỗi lần đi là không muốn quay về. Núi Cấmhồi ấy hùng vĩ, mênh mông, hoang vu và cô tịch. Vậy mà dì cảm thấy mê.

Một hôm, dì nói với các con: “Tao bán nhà lên lên Núi Cấm ở”. AnhNguyễn Tấn Bông, con trai út của dì lúc bấy giờ mới hai sáu tuổi, nói:”Nếu má đi thì con đi theo má”. Cuối năm 1991, dì bán căn nhà được balượng vàng, dẫn anh Bông lên xe đò đi Núi Cấm. Anh Bông kể: “Đầu tiên khiđến đây, hai mẹ con tôi mua một căn nhà nhỏ dưới chân núi để mở quán cà phê.Được một năm, má tôi nói ở đây xe cộ ồn ào, những ngày lễ chùa, khách hànhhương đông nghẹt. Bán quán thì cần khách, nhưng khách đông thì bà cảm thấy khóchịu. Biết tính má tôi muốn sống yên tĩnh một mình, không thích gần ai nên tôitìm đường lên đỉnh Mồ Côi mua đất. Gọi là mua nhưng thật ra hồi ấy, ba mẫu đấtchỉ có hai chỉ vàng.

Từ chân núi lên tới đỉnh Mồ Côi, hồi ấy không có đường xe, chỉ có con đường mònlen lỏi theo con suối Thanh Long. Độ cao của Núi Cấm chỉ trên dưới bảy trăm métnhưng đường lên đỉnh quanh co gần mười cây số, lên xuống nhiều con dốc, lởmchởm đất đá, đầy nguy hiểm, nhọc nhằn. Cách một hai cây số mới có một ngôi nhà.Rừng núi hoang vu buồn đứt ruột.Vậy mà má tôi kiên quyết ở đây”.

Hỏi, lúc mới lên sống bằng gì ? Anh Bông nói, cái may mắn của anh là, từ chiếntrường Campuchia vừa xuất ngũ trở về, đôi chân và cả phần tâm linh còn quen vớinúi rừng bên ấy. Ban đầu, anh đi gánh mướn các loại đồ rẫy cho những gia đìnhtrên núi. Nào su, nào chuối, nào xoài, nào mít, nào măng . . ., mỗi gánh bảymươi ký, mỗi ký hai trăm đồng, mỗi ngày anh gánh hai chuyến từ đỉnh xuống chânnúi, có khi chuyến lên gánh thêm gạo, cát, đá, xi măng, gạch ngói. Bông vừagánh thuê, vừa học nghề làm rẫy. Mấy năm sau, ba mẫu đất của anh đã thành mộtkhu vườn. Từ đó Bông không còn đi gánh hàng thuê nữa mà gánh thành quả củachính mình. Cứ ba ngày đi một chuyến, mỗi chuyến kiếm ba bốn trăm ngàn. Thấyanh làm giỏi, chi cục kiểm lâm giao cho anh quản lý thêm 12 mẫu, cấp giấy chứngnhận quyền sử dụng đất năm mươi năm.

Mười năm sau kể từ ngày lên Núi Cấm, “chàng tiều phu” Nguyễn Tấn Bôngđã tích lũy được vài chục cây vàng. Dì Ba giục anh đi cưới vợ. Tuổi đã sắp bốnmươi rồi. Bông cũng từng ước mơ trong căn nhà có thêm người phụ nữ, có tiếngcười tiếng khóc của trẻ thơ. Nhiều lúc trong chiêm bao, Bông thấy thấp thoángmột người vợ trẻ, tay ẳm con đứng chờ anh sau mỗi chuyến đi rừng. Nhưng ngườiphụ nữ ấy là ai ? Mười năm sống ở đây, Bông chưa hề quen được một người bạngái.

Thế rồi bỗng dưng năm năm qua, ông trời cho Bông liên tục mười hai đứa con,mười trai hai gái, thành một bầy trẻ trong nhà. Câu chuyện như một huyền thoạilan truyền khắp rừng núi Thất Sơn. Và, qua mỗi ngọn núi, nó được thêu dệt thêmđôi chút.

Khi chúng tôi lần mò lên tận đỉnh Mồ Côi, chứng kiến tận mắt, nghe kể tận taimới biết rõ ngọn nguồn sự thật. Năm 2002, dì Ba với anh Bông về Cần Thơ thămđứa cháu gái trong bệnh viện đa khoa. Tình cờ, dì nghe được câu chuyện kháthương tâm: có một thai phụ nghèo không có tiền nhập viện, chị ôm bụng ngồikhóc quằn quại trên ghế đá trước sân khoa sản. Anh Bông đưa dì Ba vào thăm, chotiền và làm thủ tục cho chị ta nhập viện với tấm lòng thành, giúp người vượtcạn trong cảnh nghèo khó neo đơn. Sau khi thằng bé ra đời, người sản phụ kiaquỳ lạy tạ ơn và nói ra sự thật: “Cháu ở trong quê, chồng chết, nhà nghèophải đi làm phụ hồ để nuôi một đứa con. Nhưng vì nhẹ dạ nên cháu bị tay thợ hồlường gạt. Giờ nếu ẳm con về thì không biết lấy gì nuôi . . .”. “Đâylà năm chỉ vàng, đây là tám trăm ngàn, tôi giúp cô làm vốn mua bán kiếm sống.Còn thằng bé, tôi mang nó về đỉnh Mồ Côi trên Núi Cấm. Sau nầy nếu cô muốn nhậncon thì cứ lên đó, tôi giao lại. Điện thoại của tôi là 0986544323”.

Trước khi ẵm thằng bé ra về, dì Ba để lại số điện thoại cho các bác sĩ và hộ lýcủa khoa sản cùng với lời căn dặn: “Từ nay về sau, nếu có trường hợp tươngtự như vậy, các cô gọi điện cho mẹ con tôi. Trước hết là mình giúp người ta mẹtròn con vuông, sau đó, nếu người ta vì lý do gì mà không nuôi được thì mình đemvề nuôi giúp”.

Câu chuyện bắt đầu là như vậy. Mỗi lần nghe điện thoại từ bệnh viện đa khoa,anh Bông, dù đang cuốc đất trồng khoai giữa rừng sâu cũng bỏ việc chạy về. Gọiđứa cháu qua giữ nhà, hai mẹ con lăn xăn xuống núi. Từ chân núi đi xe lôi quathị trấn Tịnh Biên, từ Tịnh Biên đi xe đò lên Long Xuyên, rồi từ Long Xuyên lạiđi xe đò qua Cần Thơ, một cuộc hành trình không đơn giản để làm một công việcđộc nhất vô nhị trên đời. Cứ thế, sau mỗi cú điện thoại: “Em ở khoa sản, bệnhviện đa khoa cần Thơ. . .” là trong nhà anh Bông thêm một tiếng khóc trẻsơ sinh. Anh Bông vừa cười vừa nói: “Trời khiến thế nào mấy ông ạ, năm2005, tôi ẵm về năm đứa, mà năm ấy má tôi lại bệnh. Ôi trời đất ôi, khuấy sữa,thay tã, tắm rửa, ca hát suốt ngày. Lại phải lên rừng hái măng, hai su gánhxuống núi, rồi mua tã giấy, mua sữa gánh lên. Nhưng vậy mà vui, đứa nào đứa nấybụ bẫm ngon lành, không bệnh hoạn gì hết.”

Anh Bông kéo đám trẻ vào lòng, vừa xoa đầu, vừa kể về hoàn cảnh ra đời của từngđứa một: “Đây là thằng Nguyễn Sơn Giàu, đứa đầu tiên con của chị phụ hồđây, nó đẻ bọc điều đó, thằng nầy không thành tỷ phú thì cũng làm quan. Còn đâylà thằng Nguyễn Sơn Thanh, đẻ được hai ngày thì mắc bệnh phổi. Tôi với má tôilên giúp một triệu đồng, nhưng không ngờ mẹ nó cầm một triệu đồng rồi bỏ trốn.Thằng nhỏ mới hai ngày tuổi mà phải thở oxy, ngậm ống sữa và truyền nước biển.Tôi với má tôi phải ở lại bệnh viện nuôi nó hai mươi ngày. Khi ẵm nó về, bác sĩdặn mỗi tháng phải lên tái khám. Nhưng năm năm nay có tái khám lần nào đâu, mànó cứ sân sẩn. Còn đây là thằng Nguyễn Sơn Hà, mẹ nó là một cô gái nghèo đi mótlúa ở Vị Thanh, phải lòng một thằng chăn vịt, mang thai lúc mới mười bảy tuổi,sợ bị phát hiện nên dùng dây thun nịt bụng rồi trốn sang ở nhà bà ngoại. Khichúng tôi đến bệnh viện thì nghe nói nó bị đứt tim thai, phải mổ bỏ con để cứumẹ. Nhưng không ngờ nó được cứu sống. Nó sống, nhưng mẹ nó không dám mang nó vềnhà . . .

Mười hai đứa trẻ trong căn nhà nầy là mười hai câu chuyện khác nhau, nhưng đềugiống nhau ở chổ, chúng là sản phẩm của những cuộc tình vụn trộm từ trong nhàtrọ đến màn trời chiếu đất ngoài đồng. Anh Bông kết thúc câu chuyện thứ mườihai bằng một nỗi buồn: “Nó là Nguyễn Sơn Thành, đang nằm trên núi. Khi tôivới má tôi đến thì mẹ nó đã bỏ đi, nó nằm trong phòng cấp cứu suốt hai mươingày với chứng bệnh não úng thủy, một chứng bệnh ngặt nghèo. Tôi với má tôi rấtđắn đo, cuối cùng thì không thể quay lưng trước một hài nhi vô tội. Nhưng suốtba tháng, thằng bé cứ khóc ngày khóc đêm, đầu to dần, mắt đờ đẩn. Tôi ẵm nó trởlại bệnh viện, nơi nó cất tiếng khóc chào đời, bác sĩ nói ở đây không có khảnăng điều trị, tôi đưa nó lên bênh viện nhi đồng II, người ta nói phải phẫuthuật để đặt ống dẫn, sẽ rất tốn tiền nhưng không khả thi. Và đúng là như vậy,tôi đã bán miếng đất lấy mấy chục triệu đồng để mong nó sống, nhưng hơn hai nămsau thì nó đã ra đi”.

Qua câu chuyện buồn ấy, Bông lại ôm mấy đứa nhỏ vào lòng: “Tôi còn mườimột đứa, chín trai, hai gái. Nhưng năm rồi, nhỏ em ở Cần Thơ lên chơi, thấy béCẩm Như đẹp quá, nó nói cho mượn về chơi mấy tháng, nói vậy rồi nó giựt luônkhông trả, giờ con nhỏ đang học mẫu giáo ở dưới, lâu lâu gọi điện lên than nhớcha, nhớ nội nhưng cô Út không cho về”. Sau mỗi câu nói như vậy là mộttràng cười, tiếng cười nắc nẻ, hồn nhiên. Tôi hỏi anh định bao giờ cưới vợ,Bông lại cười: “Một bầy con như thế nầy, ai dám ưng tôi mới nể. Nói thìnói vậy thôi, chớ tôi biết chắc, giả dụ người ta có ưng mình đi chăng nữa thìlàm sao người ta có thể thương con mình như mình được. Tụi nó đã khổ từ trongbào thai rồi, tôi không muốn tụi nó phải khổ vì mẹ ghẻ”.

Hỏi anh có định nuôi thêm nữa không, Bông trầm ngâm: “Má tôi năm nay bệnhnhiều quá, sắp gần đất xa trời rồi. Tôi muốn dành thời gian cho má”. Hỏi,chuyện học hành của mấy đứa nhỏ, anh tính sao. Bông lại trầm ngâm: “ThằngSơn Ngọc năm nay lẽ ra phải lên lớp lá, thằng Sơn Thanh phải là lớp chồi, thằngSơn Giàu phải là lớp mầm. Nhưng đây là đỉnh núi. Hồi ẵm chúng nó lên đây, mìnhcứ nghĩ cứu sống một hài nhi, không để chúng nó lăn lóc ở vỉa hè hay đầu đườngxoá chợ. Nhưng bây giờ, nhìn mặt mày đứa nào đứa nấy sáng sủa, khôi ngô, nhữngánh mắt cứ như luôn nói với mình rằng, cha đừng để cho con dốt. Tôi đã tâmnguyện phải cho chúng nó học tới cùng. Tiền bạc thì tôi không lo, trước mắt,nguồn lợi từ mười lăm mẫu đất cũng đủ để trang trải, sau nầy, khi chúng nó họclên cao thì mình bán đất. Nhưng, cái khó là chỗ ở. Thằng Sơn Ngọc năm tới sẽtạm thời gởi cho nhỏ em ở Cần Thơ. Nhưng không thể gởi hết cả mười đứa. Còn muanhà ở dưới đó thì ai chăm sóc, mà tôi đi thì ai ở đây lo vườn tược, cây tráicho mình. Càng nghĩ càng thấy rối . . .”
Thưa bạn đọc !
Câu chuyện cổ tích trên đỉnh Mồ Côi xin tạm dừng ở đây, bởi người kể chuyệnchưa trả lời được câu hỏi sau cùng rằng: Khi bà Tiên qua đời, anh tiều phu cólo cho những thiên thần bé nhỏ ấy học hành đỗ đạt hay không. Những câu chuyệncổ tích bao giờ cũng đi đến một kết thúc có hậu. Nhưng dân gian thường hay lýgiải sự bế tắt bằng những phép màu. Và tôi hy vọng trong câu chuyện nầy, sẽ cómột phép màu nào đó đến với anh Bông. Phép màu ấy chính là cái tâm, lòng nhânái đang ẩn chứa đâu đây, trên cõi đời nầy.

( Còn tiếp )

Võ Đắc Danh

SỐNG

HOA 1

 

 

 

 

HOA 2

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

SONG

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Anh chị Thụ & Mai gởi

Chủ nghĩa Cộng sản – Tai họa Trăm năm

Chủ nghĩa Cộng sản – Tai họa Trăm năm

Nguyễn-Xuân Nghĩa, RFA
2017-03-15
Chân dung của Karl Marx, Vladimir Lenin và Vladimir Putin trên mặt tiền một ngôi nhà riêng ở làng Severnaya Griva, quận Shatura, khu vực Moscow chụp hôm 5/8/2011.

Chân dung của Karl Marx, Vladimir Lenin và Vladimir Putin trên mặt tiền một ngôi nhà riêng ở làng Severnaya Griva, quận Shatura, khu vực Moscow chụp hôm 5/8/2011.

AFP photo

Ngày 15 Tháng Ba này, Liên bang Nga chính thức kỷ niệm 100 năm việc Sa hoàng Nicolai Đệ nhị thoái vị, mở đầu cho một chuỗi biến động dẫn tới cái gọi là “Cách mạng Tháng 10” là khi chế độ cộng sản lần đầu tiên thành hình trên mặt địa cầu vào năm 1917. Từ đó, nhân loại đã gặp tai họa mà nhiều thế hệ ngày nay lại không biết. Diễn đàn Kinh tế xin trở lại biến cố mà người ta không thể quên được….

Nguyên Lam: Nguyên Lam và Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do xin kính chào chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, hàng năm, người Nga vẫn kỷ niệm ngày Sa hoàng Nicôlai Đệ nhị thoái vị, vào ngày 15 Tháng Ba năm 1917. Biến cố đó kết thúc hơn 300 năm cầm quyền của dòng Romanov và mở đầu cho những biến động dồn dập dẫn tới cuộc Cách mạng Tháng 10 và sự ra đời của Liên bang Xô viết dưới chế độ Cộng sản, cách nay đúng trăm năm.

Vì vậy, năm nay Liên bang Nga mới tổ chức lễ kỷ niệm đặc biệt long trọng, nhưng có lẽ vẫn chưa biết giải thích sự thể một cách khách quan vì khó nói về những tai họa do chủ nghĩa cộng sản gây ra tại nước Nga và trên toàn thế giới. Vì các thế hệ trẻ tại Việt Nam không được biết về những gì đang xảy ra trong đất nước mình, huống hồ nhiều biến cố đau thương khác trong lịch sử nhân loại, kỳ này, chúng tôi xin đề nghị ông nhắc lại trăm năm đó… Ông nghĩ sao?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Đến thế kỷ 21 nhân loại đã tiến tới một trạng thái khá phổ biến dù chưa toàn cầu, là không ai được độc quyền chân lý, để áp đặt một sự thật nào đó mà mọi người phải theo. Trạng thái ấy được gọi là “sự cởi mở” là điều kiện tiên quyết của nền dân chủ, nơi mà người ta chấp nhận tinh thần đa nguyên về văn hóa, đa đảng về chính trị và là nơi mà người dân có quyền sống và suy nghĩ tự do. Tuy nhiên, nhiều xã hội chưa có được sự tiến hóa ấy khi nhà nước độc tài vẫn giữ độc quyền về tư tưởng chẳng những cho tương lai mà còn về những gì xảy ra trong quá khứ. Thí dụ như tương lai nhân loại tất yếu phải dẫn tới xã hội chủ nghĩa và quá khứ là những thành tựu chói lọi của chủ nghĩa cộng sản, vốn dĩ là một tai họa lịch sử!

Trở lại chuyện nước Nga, nơi chủ nghĩa cộng sản đã lần đầu tiên ngự trị từ Tháng 11 năm 1917 đến Tháng 12 năm 1991, chế độ đương quyền ngày nay đang lúng túng tường thuật những gì đã xảy ra từ trăm năm trước, khi Đế quốc Nga tiêu vong, Đế quốc Xô viết ra đời và cai trị trong hơn 70 năm với một số thành tựu và rất nhiều thảm họa cho người dân và cả thế giới. Chế độ chính trị của Liên bang Nga vẫn duy trì ách độc tài bên dưới hình thức bầu bán dân chủ và biết rằng xã hội đã đổi thay nên không thể áp đặt một chân lý khiên cưỡng sai lệch nhưng vẫn cố loay hoay nói về quá khứ hay lịch sử một cách thiên lệch méo mó. Trường hợp Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Hàn hay Cuba cũng thế thôi. Họ đều có nét chung là cái chất cộng sản!

Nguyên Lam: Như vậy, chúng ta sẽ bắt đầu từ nước Nga, rồi qua nước Tầu, nước Ta, để nhớ lại chuyện trăm năm về trước. Xin mời ông khởi đầu….

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Chúng ta khởi đầu cái chuyện nhức đầu từ Âu Châu vì lục địa này đi trước trong nhiều lĩnh vực và chi phối thế giới từ mấy trăm năm. Trước hết, cuộc Cách mạng Pháp năm 1789 xuất phát từ một cuộc cách mạng khai phóng về tư tưởng trước đó hai trăm năm đã tiến dần tới một chế độ dân chủ hơn, là người dân có nhiều quyền hạn hơn nhờ hiểu biết nhiều hơn. Nối tiếp, sự hiểu biết mở rộng dẫn tới cuộc cách mạng về công nghiệp vào cuối thế kỷ 19, nó đảo lộn trật tự sản xuất cũ với một hình thái mới. Vào buổi bình minh của nền sản xuất kỹ nghệ và sinh hoạt kinh tế mới lạ, tất nhiên nhiều sự bất toàn đã xảy ra khiến người ta tìm hiểu, nghiên cứu và mỗi người hay mỗi trường phái lại tìm ra một cách giải thích. Nếu được cởi mở và có dân chủ thì xã hội có thể áp dụng giải pháp này hay giải pháp khác hầu tránh được sự bất công trong tiến trình phát triển. Đấy là quy luật chung cho mọi xã hội.

Trong buổi bình minh của nền sản xuất công nghiệp, Karl Marx và nhiều nhà lý luận khác đã nghiên cứu và tìm hiểu về hình thái sản xuất mới để giải thích và đề nghị. Cách giải thích của Marx có vài điểm mới lạ nhưng cũng có đầy mâu thuẫn và sai lầm như nhiều học thuyết khác. Điều tai hại là nước Nga khi đó lại có một trí thức xuất sắc và chiến lược gia đại tài là Lenin. Ông áp dụng học thuyết của Marx có chọn lọc và đảo lộn nhiều lý luận để cướp chính quyền và thiết lập bộ máy độc tài với nền độc quyền chân lý đi ngược với sự tiến hóa chung. Vụ cướp chính quyền ấy được gọi là “Cách mạng Tháng Mười” và đánh dấu một tai họa mới. Marx chỉ là kẻ mơ ngủ, Lenin mới là có công và có tội khi đặt ra chủ nghĩa Mác-Lenin đầy thảm khốc!

Vai trò của Lê Nin

033_3041368-400.jpg

Nguyên Lam: Khi nhắc lại chuyện trăm năm bao trùm lên nhiều lĩnh vực sinh hoạt từ kinh tế đến tư tưởng, ông cố tóm lược nhiều vấn đề khá phức tạp của lịch sử. Nhưng thưa ông, liệu chúng ta có thể hiểu sự thể đã diễn biến ra sao không?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Chính diễn biến đó mới làm nhà cầm quyền Liên bang Nga lúng túng, như nhiều chế độ cộng sản độc tài còn lại trên mặt địa cầu khi giải thích lại quá khứ. Chế độ quân chủ của Sa hoàng, là Hoàng đế Nga, bó tay trước nhiều đổi thay của xã hội và lâm khủng hoảng khi người dân bị đói và công nhân biểu tình. Chế độ ấy tiêu vong với việc Sa hoàng thoái vị và một chính quyền mới ra đời từ cuộc Cách mạng Tháng Hai.

Chính quyền non yếu này, nói theo người cộng sản thì thuộc giai cấp tư sản với lý luận cải lương, đang vất vả giải quyết bài toán mới thì bị Lenin và hạt nhân cộng sản cướp chính quyền mà gọi là cách mạng, hàm ý là tiến bộ và triệt để hơn giải pháp cải lương. Sau đó là năm năm khủng hoảng và nội chiến lồng trong Thế chiến thứ nhất.

Hiện tượng này cũng được thấy bên Tầu và nhất là tại Việt Nam sau cái gọi là “Cách mạng Tháng Tám” năm 1945 khi Chính phủ Trần Trọng Kim bị lật đổ, chương trình cải cách bị tiêu diệt để dẫn tới hỗn loạn và chiến tranh cho tới 1975. Sau đó, tàn dư tai hại của chủ nghĩa cộng sản vẫn còn làm các quốc gia này điêu đứng. Kẻ chủ chốt của thảm họa chính là Lenin.

Nguyên Lam: Thế hệ trẻ về sau như Nguyên Lam thật ra cũng không nắm vững sự thể ấy và chẳng hiểu gì nhiều về vai trò của Lenin. Xin đề nghị ông  giải thích thêm cho đoạn này.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Vào giai đoạn đen tối ấy, cống hiến của Lenin gồm hai phần. Thứ nhất là kỹ thuật tổ chức và cướp chính quyền từ một chế độ non yếu mới ra đời. Thứ hai là đảo lộn lý luận của Marx để kiểm soát tư tưởng hầu bảo vệ ách độc tài. Về đại thể, Marx lý luận rằng kinh tế dưới hạ tầng chi phối thượng tầng chính trị ở trên và mọi chế độ tư bản đều tiến bộ hơn chế độ nông nghiệp đi trước nhưng cũng tất nhiên bị chế độ cộng sản thay thế như một quy luật lịch sử. Lý luận ấy sai vì thời trước đó nước Nga còn lạc hậu so với Âu Châu như nước Đức là quê hương của Marx, vậy mà cách mạng cộng sản lại xuất hiện tại Nga chứ không tại Đức, là nhờ  tài tổ chức và lũng đoạn của Lenin. Sau đó, Lenin đảo ngược quy luật tiến hóa của Marx khi quy định rằng tư tưởng ở trên mới chi phối chính trị và kinh tế ở dưới nên nhà nước phải giữ độc quyền chân lý về tư tưởng, bất cứ ai nghĩ sai nói khác đều là kẻ có tội phải bị diệt trừ. Về văn bản thì đấy là cốt lõi của tài liệu “Chủ nghĩa Duy vật và Chủ nghĩa Kinh nghiệm Phê phán”.

Chính là lý luận đó của Lenin mới làm chủ nghĩa cộng sản lụn bại và tiêu vong. Ngày nay, chế độ độc tài của Tổng thống Vladimir Putin tại Liên bang Nga chỉ cho nhấn mạnh đến sự thành tựu và ổn định của Liên bang Xô viết mà xóa bỏ những trang sử đen tối và không cho thấy là cả trăm triệu người đã chết trong thế kỷ 20 vì chủ nghĩa cộng sản, là một kỷ lục lịch sử. Thật ra, họ vẫn mặc nhiên duy trì chế độ độc quyền chân lý! Cái khác là Putin châm thêm chủ nghĩa ái quốc của dân tộc Nga vào chân lý nhà nước để bảo vệ quyền lực của mình, chứ nước Nga của ông đã lụn bại vì 74 năm cai trị của chủ nghĩa cộng sản.

“Tư tưởng Hồ Chí Minh”

000_Hkg4085563-400.jpg
Một cửa hàng bán các mặt hàng tuyên truyền cho đảng cộng sản với chân dung Karl Marx và Vladimir Lenin ở Hà Nội hôm 29/9/2010. AFP photo

Nguyên Lam: Thế thì ông giải thích thế nào về những thành tựu kinh tế của Việt Nam và Trung Quốc trong những thập niên gần đây?

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Chủ nghĩa cộng sản dẫn tới khủng hoảng là điều đã có tại Trung Quốc sau khi Mao Trạch Đông chiến thắng tại Hoa lục vào năm 1949, và tại Việt Nam sau khi người cộng sản chiến thắng và thống nhất Việt Nam từ 1975. Khi bị khủng hoảng thì chế độ độc tài quăng lý luận của Marx của Mao của Hồ Chí Minh vào sọt rác mà áp dụng lý luận kinh tế thị trường. Nhờ vậy kinh tế có tăng trưởng so với thời trước, nhưng thật ra chưa có phát triển như các quốc gia khác. Lý do là chế độ vẫn duy trì ách độc tài và tai họa độc quyền chân lý với các trò ma như học thuyết Mác-Lenin, chủ nghĩa Mao hay “Tư tưởng Hồ Chí Minh”, v.v…. Vì vậy hai xứ này bị khủng hoảng về văn hóa và đạo đức với hậu quả nghiêm trọng cho tương lai.

Nhưng điều tai hại nhất là lãnh đạo Bắc Kinh châm vào chân lý nhà nước cho thần dân của họ nuốt chửng một số lý luận về chủ nghĩa dân tộc của người Hán. Tức là họ trở lại bài toán xa xưa về chủ nghĩa quốc gia dân tộc của thế kỷ 19 để vuốt ve tự ái người dân. Trong khi đó, lãnh đạo Hà Nội lại triệt phá chủ nghĩa quốc gia dân tộc của người Việt để khỏi xúc phạm Bắc Kinh. Phê phán chế độ độc tài đã là có tội và có thể bị đàn áp, chứ chống lại chính sách bành trướng của Bắc Kinh là chắc chắn vào tù.

Cũng do chế độ độc quyền chân lý và tư tưởng, Việt Nam không có tự do báo chí và đa số người dân không hề biết gì về những thảm họa đang xảy ra tại nơi này nơi khác bên trong. Đã vậy, người ta còn không được biết hết về sự thật của thế giới bên ngoài vì báo chí tường thuật có chọn lọc với lý luận sai lạc. Báo chí trở thành công cụ độc tài về tư tưởng và kiến thức khi làm cho người dân hiểu sai về thực tế đang thay đổi.

Nguyên Lam: Thưa ông, chắc chắn là suốt năm nay, cả thế giới sẽ còn nói về thảm họa trăm năm của chủ nghĩa cộng sản nhưng trong một chương trình có thời lượng nhất định, xin đề nghị ông tạm nêu ra một số kết luận cho thính giả của chúng ta.

Nguyễn-Xuân Nghĩa: Có lẽ chúng ta cần một cuốn sách! Đầu tiên thì đã có bộ sách tên là “Hắc thư về Chủ nghĩa Cộng sản” do bốn học giả Pháp thu thập và xuất bản cách nay đúng 20 năm. Dù chưa đủ và thiếu hẳn nhiều tai họa cộng sản tại Châu Á thì bộ sách dầy 840 trang này cũng đáng tham khảo và thật ra đã được nhà báo Hồ Văn Đồng dịch ra Việt ngữ thành hai cuốn 1.200 trang trước khi tạ thế mươi năm về trước tại tiểu bang Virginia. Chuyện thứ hai đáng nhớ và vẫn có giá trị cho ngày nay là nếu xuất phát từ cộng sản chủ nghĩa thì xã hội chủ nghĩa cũng tất yếu dẫn đến nạn độc tài làm cho xứ sở lụn bại vì thu hẹp khả năng hiểu biết và quyết định của người dân, là chuyện đang thấy ngày nay tại Việt Nam.

Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do và Nguyên Lam xin cảm tạ ông về cuộc phỏng vấn kỳ này.

Hậu quả của khủng bố và đức hạnh của hy vọng.

From facebook:  Hoang Le Thanh added 3 new photos — with Phan Thị Hồng and 5 others.
MỘT PHÓNG VIÊN NGƯỜI ĐỨC VIẾT VỀ VIỆT NAM

Hậu quả của khủng bố và đức hạnh của hy vọng.

Tác giả: Uwe Siemon-Netto (Đức quốc).

– “Chiến thắng của Cộng sản dựa vào những căn bản độc ác: khủng bố, tàn sát và phản bội. Hiển nhiên tôi không biện minh cho chuyện tiếp tục đổ máu nhằm chỉnh lại kết quả, cho dù có khả thi đi chăng nữa.

– “Nhưng là một người ngưỡng mộ tính kiên cường của dân tộc Việt Nam, tôi tin là họ sẽ cuối cùng tìm ra phương cách ôn hòa và các lãnh tụ chân chính để họ có thể thoát khỏi những tay bạo chúa. Có thể sẽ phải mất nhiều thế hệ, nhưng điều đó sẽ xẩy ra”.
Uwe Siemon-Netto.

Cuốn sách Đức: “A reporter’s love for a wounded people” của tác giả Uwe Siemon-Netto đã được viết xong và đang chờ một số người viết “foreword” và endorsements.

Bản dịch cũng đã xong, được phép của tác giả chúng tôi xin giới thiệu đoạn kết rất xúc động mà tác giả đã nói lên ước muốn cùng với người Việt Nam nuôi dưỡng niềm hy vọng một ngày không xa Tự Do Dân Chủ sẽ trở lại với quê hương khốn khổ của chúng ta:

Đoạn kết

Hậu quả của khủng bố và đức hạnh của hy vọng

Hơn 40 năm đã trôi qua kể từ khi tôi giã biệt Việt Nam. Vào năm 2015, thế giới sẽ chứng kiến kỷ niệm lần thứ 40 chiến thắng của Cộng sản và nhiều người sẽ gọi đó là ngày “giải phóng.”

Ga xe lửa Huế, nơi một đầu máy và một toa hành lý khởi hành chuyến tầu tượng trưng 500 thước mỗi buổi sáng vào lúc 8 giờ sẽ không còn đáng đi vào kịch trường của sự phi lý nữa. Nó đã được phục hồi đẹp đẽ và sơn phết lại mầu hồng. Một lần nữa, tương tự như những ngày dưới sự thống trị của người Pháp, nó là nhà ga xe lửa đẹp nhất vùng Đông Dương và tài xế tắc-xi không phải chờ đợi vô ích bên ngoài.

Mười chuyến tầu thong dong chạy qua mỗi ngày, năm chuyến xuôi Nam và năm chuyến ra Bắc. Gộp chung lại chúng được mệnh danh một cách không chính thức là Tàu Tốc Hành Thống Nhất.

Chẳng lẽ nào tôi lại không mừng vui? Chuyện này có khác nào bên Đức khi bức tường Bá Linh đổ xuống và những bãi mìn biến mất, và nay những chuyến tầu cao tốc phóng ngược xuôi giữa hai xứ nguyên là Cộng sản bên Đông và Dân chủ bên Tây với tốc độ lên tới 200 dặm một giờ?

Hiển nhiên là tôi rất vui khi chiến tranh kết thúc và Việt Nam được thống nhất và phát triển, những chuyến xe lửa đã hoạt động trở lại và các bãi mìn đã được tháo gỡ. Nhưng đến đây thì sự tương đồng với nước Đức chấm dứt.

Nước Đức hoàn thành sự thống nhất, một phần nhờ người dân tại Đông Đức đã lật đổ chế độ độc tài toàn trị bằng những cuộc biểu tình và phản kháng ôn hòa, một phần nhờ vào sự khôn ngoan của các nguyên thủ quốc tế như các vị Tổng thống Ronald Reagan và George G.W. Bush, của Thủ tướng Helmut Kohl, của lãnh tụ Sô Viết Mikhail Gorbachev, và cũng phần khác vì sự sụp đổ có thể đoán trước được của hệ thống xã hội chủ nghĩa sai lầm trong khối Sô Viết. Không có ai bị thiệt mạng trong tiến trình này, không một ai bị tra tấn, chẳng có ai phải vào trại tù và cũng không có ai bị buộc phải trốn chạy.

Có một khuynh hướng khó hiểu, ngay cả trong số các vị học giả đáng kính của phương Tây đã diễn tả sự kiện Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam như là một cuộc “giải phóng.” Điều này đặt ra một câu hỏi: giải phóng cái gì và cho ai?

Có phải miền Nam đã được “giải phóng” khỏi sự áp đặt một nhà nước độc đảng toàn trị được xếp hạng chung với những chế độ vi phạm tồi tệ nhất thế giới về các nguyên tắc tự do tôn giáo, tự do phát biểu, tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do báo chí?

Một cái thứ giải phóng gì đã làm chết 3,8 triệu người dân Việt từ 1954 đến 1975 và đã buộc hơn một triệu người khác phải trốn ra khỏi đất nước, không những từ miền Nam bại cuộc mà cả từ những bến cảng miền Bắc và làm từ 200.000 đến 400.000 người gọi là thuyền nhân bị chết đuối?

Có phải là hành động giải phóng không khi xử tử 100.000 người lính miền Nam và viên chức chính phủ sau ngày Sài Gòn thất thủ? Phải chăng chỉ là một màn trình diễn nhân đạo của bên thắng cuộc bằng cách lùa từ một triệu đến 2 triệu rưỡi người miền Nam vào các trại tù cải tạo, trong đó có khoảng 165.000 người mất mạng và hàng ngàn người khác đã bị tổn thương sọ não lâu dài và bị các vấn đề tâm thần do hậu quả của tra tấn, theo một cuộc nghiên cứu của một nhóm học giả quốc tế do Bác sĩ tâm thần Richard F. Molina của đại học Harvard dẫn đầu?

Từ giữa những năm 1960, những tay bịa đặt chuyện huyền thoại về chính trị và lịch sử của phương Tây, hoặc ngây thơ hoặc bất lương, đã chấp nhận lời giải thích của Hà Nội rằng cuộc xung đột là một cuộc “chiến tranh nhân dân.” Cũng đúng thôi nếu chấp nhận định nghĩa của Mao Trạch Đông và Võ Nguyên Giáp về cụm chữ đó. Nhưng theo luật văn phạm về sở hữu tự theo cách Saxon Genitive qui định thì “chiến tranh nhân dân” phải được hiểu là cuộc “chiến tranh của nhân dân.”

Thực tế không phải như vậy. Ðã có khoảng 3,8 triệu người Việt Nam đã bị giết giữa các năm 1954 và 1975. Khoảng 164.000 thường dân miền Nam đã bị thủ tiêu trong cuộc tru diệt bởi Cộng sản trong cùng thời kỳ, theo nhà học giả chính trị Rudolf Joseph Rummel của trường Đại học Hawaii. Ngũ Giác Ðài ước tính khoảng 950.000 lính Bắc Việt và hơn 200.000 lính VNCH đã ngã xuống ngoài trận mạc, cộng thêm 58.000 quân Hoa Kỳ nữa. Đây không thể là một cuộc chiến tranh của nhân dân mà chính là chiến tranh chống nhân dân.

Trong tất cả những lập luận đạo đức giả về cuộc chiến Việt Nam ta gặp quá thường trong vòng 40 năm qua, cái câu hỏi quan trọng nhất đã bị mất dấu hay AWOL, nếu dùng một từ ngữ viết tắt quân sự có nghĩa là “vắng mặt không phép,” câu hỏi đó là: Dân Việt Nam có mong muốn một chế độ Cộng sản hay không? Nếu có, tại sao gần một triệu người miền Bắc đã di cư vào Nam sau khi đất nước bị chia cắt năm 1954, trong khi chỉ có vào khoảng 130.000 cảm tình viên Việt Minh đi hướng ngược lại?

Ai đã khởi đầu cuộc chiến tranh? Có bất kỳ đơn vị miền Nam nào đã hoạt động ở miền Bắc hay không? Không. Có du kích quân miền Nam nào vượt vĩ tuyến 17 để mổ bụng và treo cổ những người trưởng làng thân cộng, cùng vợ và con cái họ ở đồng quê miền Bắc hay không? Không. Chế độ miền Nam có tàn sát cả một giai cấp hàng chục ngàn người trên lãnh thổ của họ sau năm 1954 bằng cách tiêu diệt địa chủ và các đối thủ tiềm năng khác theo cách thống trị theo lối Sô Viết của họ hay không? Không. Miền Nam có thiết lập chế độ độc đảng toàn trị hay không? Không.

Với cương vị một người công dân Đức, tôi không can dự gì đến cuộc chiến này, hay nói theo lối người Mỹ là “I have no dog in this fight” (tôi chẳng có con chó nào trong vụ cắn lộn này cả). Nhưng, nhằm chú giải cho cuốn sách “Lời nguyện của nhà báo”, tương tự như các phóng viên kỳ cựu có lương tâm, lòng tôi đã từng và vẫn còn đứng về phía dân tộc Việt Nam nhiều đau thương. Lòng tôi hướng về những người phụ nữ tuyệt vời với tính tình rất thẳng thắn và vui vẻ; hướng về những người đàn ông Việt Nam khôn ngoan và vô cùng phức tạp đang theo đuổi giấc mơ tuyệt hảo theo phong cách Khổng giáo; hướng về các chiến binh giống như trẻ con đi ra ngoài mặt trận mang theo cái tài sản duy nhất là một lồng chim hoàng yến; hướng về các góa phụ chiến tranh trẻ với cơ thể bị nhào nặn méo mó chỉ vì muốn bắt một tấm chồng lính Mỹ nhằm tạo một ngôi nhà mới cho con cái và có thể cho chính họ, còn hơn là đối mặt với độc tài Cộng sản; hướng về nhóm trẻ em bụi đời trong thành thị cũng như ngoài nông thôn săn sóc lẫn nhau và những con trâu đồng. Với trái tim chai cứng còn lại, lòng tôi thuộc về những người trốn chạy khỏi lò sát sinh và vùng chiến sự, luôn luôn đi về hướng Nam mà không bao giờ về hướng Bắc cho đến tận cùng, khi không còn một tấc đất nào vắng bóng Cộng sản nữa để mà trốn. Tôi đã chứng kiến họ bị thảm sát hay bị chôn sống trong những ngôi mồ tập thể và mũi tôi vẫn còn phảng phất mùi hôi thối của những thi thể đang thối rữa.

Tôi không có mặt vào lúc Sài Gòn thất thủ sau khi toàn bộ các đơn vị Quân Lực VNCH, thường xuyên bị bôi bẩn một cách ác độc bởi truyền thông Hoa Kỳ, giờ đây bị những đồng minh người Mỹ của họ bỏ rơi, đã chiến đấu một cách cao thượng, biết rằng họ không thể thắng hay sống sót khỏi trận đánh cuối cùng này. Tôi đang ở Paris, lòng sầu thảm khi tất cả những chuyện này xẩy ra và tôi ước gì có dịp tỏ lòng kính trọng năm vị tướng lãnh VNCH trước khi họ quyên sinh lúc mọi chuyện chấm dứt, một cuộc chiến mà họ đã có thể thắng: Lê Văn Hưng (sinh năm 1933), Lê Nguyên Vỹ (sinh năm 1933), Nguyễn Khoa Nam (sinh năm 1927), Trần Văn Hai (sinh năm 1927) và Phạm Văn Phú (sinh năm 1927).

Khi tôi viết đoạn kết này, một ký giả đồng nghiệp và một loại học giả sinh năm 1975 khi Sài Gòn bị thất thủ, đã tự tạo cho bản thân một thứ tên tuổi bằng cách bêu xấu tội ác chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. Vâng, họ thật đáng bị bêu xấu. Đúng, đó là sự thật. Mỹ Lai có thật. Tôi biết, tôi đã có mặt trong phiên tòa mặt trận khi Trung úy William Calley bị kết án là có tội. Tôi biết cái tiêu chuẩn đếm xác chết được tôn sùng bởi đầu óc méo mó của các cấp chỉ huy quân sự cũng như dân sự thời đại Mc Namara tại Washington và bản doanh Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã làm tổn hại hàng ngàn mạng sống của người dân vô tội.

Nhưng không có hành vi tàn ác nào của các đơn vị rối loạn Hoa Kỳ và VNCH có thể sánh bằng cuộc tàn sát do lệnh nhà nước giáng xuống đầu người miền Nam nhân danh Hồ Chí Minh. Những tội ác mà cho đến ngày nay những kẻ kế thừa thậm chí vẫn không thừa nhận vì không ai có cái dũng cảm hỏi họ: Tại sao các anh thảm sát tất cả những người vô tội mà các anh rêu rao là đi chiến đấu để giải phóng họ?

Với tư cách một người Đức, tôi xin được thêm một đoạn chú thích như sau: tại sao các anh giết người bạn của tôi là Hasso Rüdt von Collenberg, tại sao lại giết các bác sĩ người Đức ở Huế, và anh Otto Sưllner tội nghiệp mà “tội ác” duy nhất là dạy trẻ em Việt Nam cách điều khiển một ban nhạc hòa tấu?

Tại sao các anh bắt cóc những thanh niên thiện nguyện Knights of Malta, làm cho một số bị chết trong rừng rậm và số khác thì bị giam cầm tại Hà Nội?

Tại sao các anh không bao giờ tự xét lương tâm về những hành động đó, theo cách những người Mỹ chính trực trong khi họ đã được xác định một cách đúng đắn là họ thuộc về phía lẽ phải trong cuộc Đại Chiến Thứ Hai, vẫn bị dằn vặt bởi cái di sản khủng khiếp để lại vì đánh bom rải thảm những khu dân cư trong nước Đức và tấn công bằng bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki?

Hồi tưởng lại cuộc thử thách trên con đường mòn Hồ Chí Minh trong tạp chí Der Spiegel, cô y tá Tây Đức Monika Schwinn nhớ lại cuộc gặp gỡ với các đơn vị chiến đấu Bắc Việt trên đường xuống phía Nam như là một trong những kinh nghiệm khủng khiếp nhất. Cô diễn tả cái cường độ của mối hận thù trên khuôn mặt của những tên lính đó và cô viết chính những tên Việt Cộng canh chừng phải khó khăn lắm mới ngăn chận họ không giết những người Đức ngay tại chỗ.

Không có ai sinh ra là biết hận thù cả. Sự thù hận chỉ có thể có được do dậy dỗ. Nuôi dưỡng tính giết người trong lòng thanh niên là một khuôn phép huấn luyện chỉ có trường phái chủ nghĩa toàn trị là giỏi nhất. Trong cuốn tiểu sử rất hay nói về tay chỉ huy SS Heinrich Himmler, sử gia Peter Longerich diễn tả là ngay cả gã sáng lập viên cái lực lượng tàn độc gồm những tên côn đồ mặc đồ đen cũng khó lòng buộc thuộc hạ vượt qua sự kiềm chế tự nhiên để thi hành lệnh thảm sát Holocaust (Longerich. Heinrich Himmler. Oxford: 2012).

Chính cái ánh mắt thù hận của những tên sát nhân Bắc Việt tại Huế làm ám ảnh những người tôi phỏng vấn hơn cả. Nhưng dĩ nhiên phải dành nhiều thời gian với họ, chịu sự đau khổ cùng họ, tạo niềm tin và trò chuyện với họ thì mới khám phá ra cái cốt lõi của một phần nhân tính con người, một hiểm họa về mặt chính trị và quân sự vẫn còn quanh quẩn bên chúng ta từ bốn thập niên qua. Chỉ phán ý kiến về nó từ trên tháp ngà đài truyền hình New York hay các trường đại học Ivy League thì không bao giờ đủ cả.

Trong một cuốn sách gây chú ý về đoàn quân Lê Dương Pháp, Paul Bonnecarrère đã kể lại cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đại tá đầy huyền thoại Pierre Charton và Tướng Võ Nguyên Giáp sau khi Pháp thất trận tại Điên Biên Phủ (Bonnecarrère. Par le Sang Versé. Paris: 1968). Charton là tù binh trong tay Cộng sản Việt Minh. Giáp đến thăm Charton nhưng cũng để hả hê. Cuộc gặp gỡ xẩy ra trong một lớp học trước mặt khoảng 20 học viên đang tham dự một buổi tuyên truyền chính trị. Cuộc đối thoại giữa hai nhân vật đối chọi nhau đã xẩy ra như sau:
Giáp: “Tôi đã đánh bại ông, thưa Đại tá!”

Charton: “Không, ông không đánh bại tôi, thưa Đại tướng. Rừng rậm đã đánh bại chúng tôi… cùng sự hỗ trợ các ông đã nhận được từ người dân bằng các phương tiện khủng bố.”

Võ Nguyên Giáp không ưa câu trả lời này và cấm các học viên không được ghi chép nó. Nhưng đó là sự thật, hay chính xác hơn: đó là một nửa của sự thật. Cái nửa kia là các nền dân chủ như Hoa Kỳ đúng là không được trang bị về chính trị và tâm lý để theo đuổi một cuộc chiến trường kỳ. Sự nhận thức này, cùng với cách sử dụng các phương tiện khủng bố đã trở thành trụ cột trong chiến lược của Võ Nguyên Giáp. Hắn đã đúng và hắn đã thắng. Thậm chí nguy hiểm hơn nữa là ngày nay các chế độ toàn trị đang chú ý đến điểm này.

Cho đến tận ngày hôm nay tôi vẫn còn bị ám ảnh bởi cái kết luận tôi bắt buộc phải rút ra từ kinh nghiệm về Việt Nam là:

Khi một nền văn hóa bê tha hủ hóa đã mệt mỏi về lòng hy sinh, nó sẽ có khả năng vứt bỏ tất cả. Nó đã chín mùi để bỏ rơi một dân tộc mà đáng lẽ nó phải bảo vệ. Nó còn thậm chí sẵn sàng xóa đi những mạng sống, sức khoẻ về thể chất và tinh thần, nhân phẩm, trí nhớ và danh thơm của những thanh niên đã được đưa ra mặt trận.

Điều này đã xẩy ra trong trường hợp các cựu chiến binh Việt Nam. Tác động của sự khiếm khuyết đã ăn sâu trong các nền dân chủ tự do này rất đáng sợ vì cuối cùng nó sẽ phá hỏng chính nghĩa và tiêu diệt một xã hội tự do.

Tuy nhiên tôi không thể kết thúc câu chuyện ở đây bằng điều tăm tối này được. Là một người quan sát về lịch sử, tôi biết là lịch sử, mặc dù được khép kín trong quá khứ, vẫn luôn luôn mở rộng ra tương lai. Là một Ki-Tô hữu tôi biết ai là Chúa của lịch sử.

Chiến thắng của Cộng sản dựa vào những căn bản độc ác: khủng bố, tàn sát và phản bội. Hiển nhiên tôi không biện minh cho chuyện tiếp tục đổ máu nhằm chỉnh lại kết quả, cho dù có khả thi đi chăng nữa. Nhưng là một người ngưỡng mộ tính kiên cường của dân tộc Việt Nam, tôi tin là họ sẽ cuối cùng tìm ra phương cách ôn hòa và các lãnh tụ chân chính để họ có thể thoát khỏi những tay bạo chúa. Có thể sẽ phải mất nhiều thế hệ, nhưng điều đó sẽ xẩy ra.

Trong ý nghĩa này, tôi bây giờ chỉ muốn xếp hàng vào đoàn xích-lô bên ngoài ga xe lửa Huế vào năm 1972, nơi chẳng có người khách nào quay trở lại. Chỗ của tôi ở đâu bây giờ? Tôi còn lại gì nữa ngoài niềm hy vọng?

Ảnh 1: Tháng Tư gợi lại cho hàng triệu người cảnh hoảng loạn tại miền Nam, nhiều gia đình ly tán, dòng người đổ ra biển trong những tháng, năm sau đó lên tới cả triệu. Hàng trăm ngàn người làm mồi cho cá.

Ảnh 2: Theo Wikipedia: “Sau năm 1975 ở miền Nam có hơn 1.000.000 người thuộc diện phải ra trình diện. Riêng ở Sài Gòn có 443.360 người ra trình diện, trong số đó có 28 viên tướng, 362 đại tá, 1.806 trung tá, 3.978 thiếu tá, 39.304 sĩ quan cấp uý, 35.564 cảnh sát, 1.932 nhân viên tình báo, 1.469 viên chức cao cấp trong chính quyền, và 9.306 người trong các đảng phái “phản động”.

Theo một cuộc nghiên cứu của một nhóm học giả quốc tế do Bác sĩ tâm thần Richard F. Molina của đại học Harvard (Hoa Kỳ) dẫn đầu: Có khoảng 165.000 người mất mạng và hàng ngàn người khác đã bị tổn thương sọ não lâu dài và bị các vấn đề tâm thần do hậu quả của tra tấn.

Ảnh 3: Xe tăng cộng sản chiếm Dinh Độc Lập vào lúc 11g30 sáng ngày 30/4/1975. Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.

Image may contain: one or more people and outdoor
Image may contain: one or more people, crowd and outdoor
Image may contain: outdoor

Thảm trạng xâm hại tình dục trẻ em tại nước CHXHCNVN

Thảm trạng xâm hại tình dục trẻ em tại nước CHXHCNVN

Danlambao – Thảm trạng này là kết quả không thể tránh khỏi của một nền giáo dục không chú trọng vào việc xây dựng đức tính nhân bản, một nền văn hóa bị hủy hoại bởi hệ thống vô thần cộng sản, một guồng máy chính trị suy tôn đạo đức dựa vào hành vi của một lãnh tụ đạo đức giả.
Theo báo cáo của Cục Cảnh sát hình sự – Bộ Công an được đăng trên Tạp chí Cộng sản (1): “Chỉ trong 3 năm (2005-2007), cả nước đã xảy ra 5.070 vụ án xâm hại trẻ em, đưa tổng số số trẻ bị xâm hại lên tới 5.188 người, trong đó, 1.656 là trẻ nam và 3.532 trẻ nữ. Lực lượng công an đã bắt giữ và xử lý 6.215 đối tượng có hành vi xâm hại trẻ em. Trong tổng số vụ xâm hại trẻ em nói trên có tới 56,3% là án xâm hại tình dục trẻ em, trong đó, số vụ hiếp dâm chiếm 65,5%.”

Trong 3 năm 2005-2007, theo báo cáo này, số vụ xâm hại, bạo lực trẻ em trong gia đình đã tăng gấp 3 lần, số vụ xâm hại trẻ em ở nơi công cộng tăng 7 lần, xâm hại trẻ em ở trường học tăng 13 lần.

Trong buổi hội thảo của Học viện CSND vào ngày 17/04/2015 những con số lại được đưa ra:

Năm 2010 đã xảy ra 867 vụ, 923 đối tượng; năm 2011 xảy ra 940 vụ, 1.025 đối tượng; năm 2012 xảy ra 1.209 vụ, 1.278 đối tượng; năm 2013 xảy ra 1.326 vụ, 1.407 đối tượng. Năm 2014, phát hiện 1.885 vụ xâm hại trẻ em, gồm 2.073 đối tượng gây án. Có 1.931 trẻ em bị xâm hại (281 nam và 1.650 nữ), (2)

Đó là những con số của chuỗi dài 10 năm. Với đà tăng tốc như thế thì vào năm 2017 sẽ có bao nhiêu trẻ thơ bị xâm phạm tình dục?

Và đó chỉ là những con số được ra ngoài ánh sáng – được gọi là “phát hiện”. Một mảng tối lớn gấp trăm lần là những vụ xâm hại tình dục trẻ em đã không được phát hiện hay bị giấu nhẹm vì nhiều lý do khác nhau. Con số trẻ em nam chắc chắn còn cao rất nhiều vì tình trạng bi thảm của các em lại bị chính các bậc phụ huynh giấu giếm nhiều hơn.

Theo bài viết “Thực trạng về tình hình xét xử các vụ xâm hại trẻ em trong năm 2009-2010 của ngành Tòa án nhân dân” (3) thì: từ 01/01/2009 đến 30/9/2010, toàn ngành Tòa án nhân dân đã xét xử sơ thẩm 1.921 vụ án với 2.206 bị cáo. Trong số bị xét xử này, 10 phạm nhân bị kết án tù chung thân và tử hình; 5 bị cáo bị kết án từ 20 năm đến 30 năm tù, 154 thủ phạm bị tuyên án 15 năm đến 20 năm, 7 năm đến 15 năm tù có 569 bị cáo và dưới 7 năm có 1207 tội phạm.

Tuy nhiên, con số trẻ em bị xâm hại tình dục vẫn ngày càng gia tăng.

Có nhiều trường hợp đã bị cho chìm xuồng. Nổi bật là Vụ án Nguyễn Khắc Thủy, 76 tuổi, cựu Giám đốc Ngân hàng Nhà nước Vũng Tàu đã xâm hại tình dục với 9 bé gái, có cháu mới 6 tuổi. Trường hợp khác là thủ phạm ấu dâm Cao Mạnh Hùng, cháu của cán bộ cao cấp tỉnh Thái Bình, là ông Nguyễn Hồng Diên, bạn thân với Bộ trưởng Công an Tô Lâm. Gần đây là vụ nhà trường đã khai gian và bao che cho giáo viên Nguyễn Thanh Đông đã ấu dâm bé gái 7 tuổi học lớp 1.

Do đó, thảm trạng xâm hại trẻ em vẫn tiếp diễn.

Vấn nạn xâm hại tình dục trẻ em xảy ra ở mọi quốc gia trên thế giới. Việt Nam không là ngoại lệ. Nhưng chiều hướng tội ác tại Việt Nam càng ngày càng tăng tốc.

Yếu tố đầu tiên là nền giáo dục đào tạo con người như thế nào. Bên cạnh sự giáo dục, đời sống tâm linh của một người được phát triển ra sao để tin vào sự phán xét của một đấng tối cao đối với những hành vi của mình mà có thể không ai biết. Đời sống tâm linh đó đã và vẫn đang bị thui chột bởi chủ nghĩa vô thần đè nặng lên những thế hệ sinh ra và lớn lên dưới chủ nghĩa đó. Và bài học, biểu tượng về đạo đức mà các thế hệ Việt Nam từ lúc sinh ra và trưởng thành là ai. Lại là Hồ Chí Minh, một kẻ hoang dâm, lừa đảo, đạo đức giả mà ngày nay thông tin mở đã soi rọi tất cả những mảng tối bị đảng giấu giếm của ông ta.

Những nỗ lực giáo dục trẻ em phòng ngừa bị xâm phạm, các bậc phụ huynh cần phải làm gì, sự tranh đấu của các tổ chức xã hội dân sự… đều rất cần thiết và cần phát huy nhiều hơn. Nhưng chúng ta cũng cần nhận thức được cốt lõi của vấn nạn Việt Nam: Thảm trạng xâm hại tình dục trẻ em tại nước CHXHCNVN cũng giống như nhiều thảm trạng khác; nó không thể giải quyết rốt ráo được, cũng khó mà chặn đứng sự tăng tốc của nó khi mọi lãnh vực từ giáo dục, truyền thông, văn hoá, luật pháp… đều bị thống trị bởi một guồng máy cai trị mục rã về đạo đức và tình người.

14.03.2017

Danlambao

danlambaovn.blogspot.com_

Chú thích:

(1) http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=8403&print=true

(2) http://cand.com.vn/thoi-su/Nam-2014-co-hon-1-500-vu-xam-hai-tinh-duc-tre-em-tai-Viet-Nam-348182/

(3) http://toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/Baiviet?p_page_id=1&p_cateid=1751909&article_details=1&item_id=5735871

HỐI HẬN

HỐI HẬN

Hối hận là tâm trạng của một người, sau khi đã làm điều không tốt, cảm thấy day dứt lương tâm về điều sai trái mình đã làm.  Một người hối hận thường mong muốn sửa lại lỗi lầm của mình, hoặc muốn bù đắp những thiệt hại về danh dự cũng như vật chất mình đã gây ra cho người khác.  Hối hận là sự thức tỉnh lương tâm và là khởi đầu của hành trình trở về, để sám hối và canh tân đổi đời.

Dân gian ta có câu: “Đánh người chạy đi, ai nỡ đánh người chạy lại.”  Điều này cho thấy cuộc đời rất bao dung đối với những ai lầm lỗi.  Một khi họ đã nhận ra sai lầm của mình và quyết tâm đoạn tuyệt với quá khứ, trở về hoàn lương, thì không ai nỡ chối từ.  Họ là những người can đảm “chạy lại” để hòa nhập với cộng đồng xã hội.  Tuy nhiên, để được đón nhận và tha thứ, người lầm lỗi phải chứng minh thiện chí của mình.  Họ cũng phải can đảm vượt lên những thành kiến mặc cảm, quyết tâm sửa đổi hạnh kiểm.  Cuộc đời sẽ dang rộng vòng tay đón nhận và quên đi quá khứ của những ai đã trót lầm lỗi mà hối hận ăn năn.

Có những khi niềm hối hận lại trở nên quá muộn màng, không còn cơ hội để sửa chữa lầm lỗi.  Đó là trường hợp những người phạm pháp và phải ra trước vành móng ngựa.  Đó cũng là những đứa con bất hiếu mà khi tỉnh ngộ thì cha mẹ đã qua đời, hoặc những anh em trong gia đình, vì mâu thuẫn xung đột, quyết đoạn tuyệt tình thân mà nay sự chết không cho họ gặp lại để hòa giải.  Còn biết bao trường hợp khác nữa, khi mà sự ích kỷ, ghen ghét làm cho người thân trở thành kẻ thù, người thiết nghĩa coi nhau như người dưng.  Một lúc nào đó, khi thức tỉnh lương tâm, họ muốn người nằm xuống sống lại chỉ một giây để họ nói lời xin lỗi và tỏ bày niềm hối hận, nhưng đã quá muộn màng.

HOI HAN

Có những người làm điều xấu mà không hề hối hận, vì lương tâm họ đã trở nên chai đá, khiến họ sống khép kín với những người xung quanh, hoặc cố tình làm điều sai trái.  Sự thù hận hoặc lợi ích cá nhân đã làm cho họ mù quáng, không nhìn thấy lẽ phải.  Không biết hối hận, cuộc sống sẽ lan tràn bạo lực, con người ngày càng trở nên hoang dã đối với nhau.  Có những người vì lòng tham mà đang tiếp tay cho kẻ ác giết hại chính đồng bào mình.  Đó là những trường hợp tàng trữ và tiêu thụ thực phẩm nhiễm độc, thuốc chữa bệnh giả, hóa chất gây độc hại đến thực vật và môi trường.  Những hành động này gây thiệt hại nghiêm trọng và lâu dài đến tương lai của một dân tộc.  Nếu biết hối hận, họ sẽ thức tỉnh lương tâm, chấm dứt những hành động độc ác, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến mạng sống và môi trường.

Hối hận là tâm trạng của người con thứ trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu” được Thánh Luca ghi lại trong Tin Mừng (x. Lc 15).  Người con thứ thức tỉnh sau khi anh đã phung phí hết tiền của vào những cuộc ăn chơi trác táng.  Anh đã tỉnh ngộ sau một cơn ảo tưởng kéo dài.  Anh vỡ mộng, vì cuộc đời này nghiệt ngã, không giống như anh tưởng tượng.  Những bữa tiệc xa hoa thâu đêm suốt sáng, những cô chân dài đầy quyến rũ… tất cả đã trở thành quá khứ vì anh hết tiền bạc.  Cùng với niềm hối hận, là sự nhục nhã ê chề và thất vọng đau đớn.  Điều may mắn còn lại nơi anh, đó là tiếng nói của lương tâm nhắc bảo cho anh biết những gì đã làm là sai trái, là “đắc tội với trời và đắc tội với cha.”  Niềm hối hận là bước khởi đầu dẫn đưa anh trở về, giúp anh đón nhận lòng bao dung nhân hậu của cha mình và được hòa nhập với cộng đồng xã hội.

Mùa Chay giúp chúng ta trở về với Chúa, khiêm tốn nhìn nhận những tội lỗi và xin Ngài tha thứ.  Những thực hành sám hối của Mùa Chay không dừng lại ở tâm trạng hối hận, mà còn dẫn tới việc giao hòa với Chúa qua bí tích Giải tội. Giáo lý vẫn phân biệt hai hình thức ăn năn tội, gọi là “ăn năn tội cách trọn” và “ăn năn tội cách chẳng trọn.”  Những bản văn giáo lý trước kia viết là “ăn năn tội Con-tri-xong (bởi chữ Contrition, nghĩa là hành động sám hối được thúc đẩy bẳng lòng mến – tức là ăn năn tội cách trọn) và ăn năn tội A-tri-xong (bởi chữ Attrition – có nghĩa là do đau buồn, mệt mỏi, sợ hãi – tức là ăn năn tội cách chẳng trọn)”.  Sách Giáo lý của Giáo Hội Công giáo giải thích như sau:

“Khi sự ăn năn tội xuất phát từ lòng yêu mến Chúa trên hết mọi sự, thì được gọi là ăn năn tội “cách trọn” (ăn năn do đức mến).  Cách ăn năn tội này xóa bỏ các tội nhẹ; và cũng đem lại ơn tha thứ các tội trọng, nếu hối nhân quyết tâm đi xưng tội càng sớm càng tốt” (số 1452).

“Ăn năn tội “cách chẳng trọn” (hoặc hối hận) cũng là một hồng ân của Thiên Chúa, một thúc đẩy của Chúa Thánh Thần.  Nó phát sinh khi thấy sự xấu xa của tội lỗi hoặc vì sợ bị luận phạt đời đời và sợ các hình phạt khác mà kẻ tội lỗi phải chịu (ăn năn do sợ hãi).  Sự khích động lương tâm như vậy có thể là khởi đầu của một tiến trình nội tâm, tiến trình này sẽ được hoàn tất dưới tác động của ân sủng nhờ ơn xá giải bí tích.  Việc ăn năn tội cách chẳng trọn tự nó không đem lại ơn tha thứ các tội trọng, nhưng chuẩn bị tâm hồn đón nhận ơn tha tội trong bí tích Thống Hối” (số 1453).

Mùa Chay cũng giúp chúng ta mở rộng tấm lòng tha thứ và đón nhận anh chị em, mặc dầu họ còn nhiều khiếm khuyết bất toàn.  Chúa Giêsu dạy chúng ta: “Nếu có anh em con lỗi phạm, con hãy răn bảo nó, và nếu nó hối cải, thì hãy tha thứ cho nó; cho dù một ngày nó phạm đến con bảy lần, và bảy lần nó trở lại nói cùng con rằng: ‘Tôi hối hận’, thì con hãy tha thứ cho nó” ( Lc 17,5).

Khởi đi từ một yếu tố tâm lý, hối hận giúp ta nhìn lại mình trong mối tương quan với Chúa và với anh chị em, từ đó chúng ta sửa mình, canh tân bản thân, mở lòng đón nhận tình thương của Chúa.  Thiên Chúa bao dung nhân hậu và luôn chờ đón chúng ta trở về.  Những ai thành tâm và khiêm tốn sẽ được Ngài đón nhận, để được sống trong niềm vui và ân sủng dồi dào.

Gm Giuse Vũ Văn Thiên

Langthangchieutim gởi