Lời trăn trối của tỷ phú trên giường bệnh khiến ai cũng phải suy ngẫm

Lời trăn trối của tỷ phú trên giường bệnh khiến ai cũng phải suy ngẫm

 Sau bao năm miệt mài theo đuổi ước vọng giàu sang nhưng rồi tỷ phú Vương Quân Dao cũng phải đối diện với cái chết khi tuổi đời còn quá trẻ. Những lời ông nói trên giường bệnh khiến nhiều người không khỏi giật mình.

 Trong sự nghiệp kinh doanh, tôi đánh trận nào thắng trận đó. Trong con mắt người khác, tôi là một doanh nhân thành đạt điển hình. Nhưng niềm vui tôi có được ngoài công việc cũng không nhiều. Thói quen hưởng thụ vật chất dư thừa của cuộc sống giàu sang khiến cơ thể tôi phát phì.

 Giờ đây, khi mắc bệnh phải nằm viện, tôi mới có thời gian suy nghĩ lại cuộc sống trước đây. Bao nhiêu sự đắc ý, bao nhiêu công danh lợi lộc đối với một người sắp chết, chúng không còn sức hút nữa, không có chút ý nghĩa nào nữa.

 Trong bóng tối, tôi đã nhiều lần tự hỏi chính mình. Nếu như có thể làm lại cuộc đời, điều tôi muốn làm nhất là gì? Liệu có thể xem nhẹ tiền tài và danh vọng? Có thể làm được vậy không?

 Trong bóng đêm, tôi thấy những thiết bị y tế phóng ra những ánh sáng đủ màu sắc và những tiếng gọi của tử thần.

 Hiện tại, tôi hiểu được rằng, khi còn sống, con người nên biết đủ tiền tài, dành thời gian nhiều hơn để theo đuổi niềm đam mê khác như tình yêu thương, nghệ thuật, hoặc chỉ để có một thân hình đẹp. 

Theo đuổi tiền tài chỉ làm con người tham lam hơn và sống nhạt nhẽo. Biến con người thành những hình hài kỳ quái giống như tôi hiện tại. 

Lúc Thượng Đế tạo ra con người với đầy đủ giác quan, là muốn con người cảm thụ vạn vật bằng tất cả con tim, không phải niềm vui mang đến từ tiền bạc. 

Tôi đã kiếm được rất nhiều tiền khi còn khỏe mạnh, nhưng khi chết, tôi lại không mang theo được thứ gì. Tình thương yêu không có quan hệ đến vật chất, chúng không phai mờ và mất đi, có được nó mới là thật sự đạt được giàu sang. Tình thương sẽ đi theo, luôn bên cạnh, tiếp thêm động lực và tạo ra ánh sáng soi đường cho mỗi bước đi đúng đắn. Còn tiền bạc sẽ không đi theo con người ta mãi mãi.

 Tiền bạc đủ dùng cho chi tiêu sinh hoạt cơ bản, phần còn thừa nên để nó phục vụ lý tưởng, phục vụ tinh thần và phục vụ xã hội. 

Tình yêu thương sẽ đưa chúng ta đi xa ngàn dặm. Dù đi bao xa, trèo lên bao cao, nó đều nằm trong trái tim của mỗi người. Ai cũng nắm trong tay tình yêu và thế giới này đều nằm trong đó.

 Chiếc giường nào đắt tiền nhất trên thế giới? Đó chính là giường bệnh.

 Trên chặng đường đi của đời người, chúng ta có thể có người lái xe thay, có thể giúp kiếm tiền nhưng không có ai mang bệnh hộ chúng ta được. Đồ vật mất đi có thể tìm trở lại, nhưng có một thứ mất đi không bao giờ tìm trở lại được, đó là sinh mệnh.

 Vương Quân Dao sinh năm 1966 vì mải mê theo đuổi ước vọng giàu sang để thực hiện giá trị nhân sinh của đời người, anh đã làm việc rất chăm chỉ. Vì mắc phải bệnh ung thư và làm việc quá sức, anh đã từ biệt cõi đời khi mới 38 tuổi.

 Câu chuyện của anh khiến tôi nhớ đến lời trăn trối cuối cùng của một vị vua vĩ đại, Alexander. Trước khi chết ông đã để lại 3 điều ước:

 “Điều ước đầu tiên, hãy bảo thầy thuốc mang quan tài của ta về một mình.”

“Ước nguyện thứ hai, hãy rải vàng, bạc và châu báu trong kho trên suốt dọc đường đến mộ ta khi các ngươi mang quan tài ra nghĩa địa.”

“Ước muốn cuối cùng, hãy đặt hai bàn tay ta ra bên ngoài cỗ quan tài.”

 Rồi vua Alexander giải thích: “Ta muốn mọi người hiểu được ba bài học mà ta đã nhận ra. Để người thầy thuốc đưa cỗ quan tài về một mình: bởi một vị thầy thuốc không thể nào thực sự chữa bệnh cho người ta. Nhất là khi đối diện với cái chết, thầy thuốc hoàn toàn bất lực. Ta hy vọng mọi người sẽ học được rằng phải trân quý cuộc sống của chính mình.

 Mong ước thứ hai của ta là để nhắn nhủ mọi người rằng không nên theo đuổi mộng giàu sang. Ta tiêu tốn cả đời chạy theo sự giàu sang, nhưng ta đã lãng phí hầu hết thời gian của đời người.

Mong ước thứ ba của ta là để người đời hiểu rằng ta đến thế gian này với hai bàn tay trắng và ta sẽ rời bỏ thế gian này cũng với hai bàn tay trắng.”

 Nói xong những lời này, vua Alexander đã nhắm mắt lại và trút hơi thở cuối cùng.

 Công danh lợi lộc chẳng dài lâu, đời người chỉ thoáng qua như mây khói. Vì vậy, hãy tận dụng những năm tháng đời người ngắn ngủi để sống sao cho có ý nghĩa, sống sao cho có ích, đừng để đến khi sắp cận kề cái chết, mới nhận ra ý nghĩa của đời người.

Lý Bạch Yến gởi

Bài thơ “thế sự”: Thời đại tôi đang sống

Bài thơ “thế sự” của một cây bút phái đẹp: Thời đại tôi đang sống

Nguyễn TrọngTạo: Bỗng dưng đọc được bài thơ “thế sự” của một cây bút phái đẹp. Lâu nay cứ tưởng phái đẹp chỉ làm thơ tình mới hay, hóa ra…

 Nguyen t Thanh Yến
Nguyễn Thị Thanh Yến – Tác giả bài thơ

THỜI ĐẠI TÔI ĐANG SỐNG

Thời đại tôi đang sống

Trẻ con học chữ cái không bắt đầu bằng chữ  a

Tiếng gọi đầu tiên không phải là bà

và trên vai đã chất chồng khoản nợ

Thời đại tôi đang sống

Cứ mở mắt là thấy mình khó ở

Tháng tư vấn vương hoa sữa

Đông sang vẫn nóng như hè

Trẻ con không đón hè bằng những tiếng ve

mà bằng iphon, ipad

Thức ăn ngập tràn các market

Nhưng nuốt vào mồm là ngập hoá chất dư thừa

Thời đại bây giờ ai cũng như lừa

Chỉ biết phận mình, thản nhiên bịt tai còn mặc đâu thiên hạ

Vào trang các hót gơn hót boi like còm tung lả tả

Chuyện xã hội đau nhưng nhức lại im lìm

Thời đại bây giờ con người sống thiếu hẳn trái tim

Mượn gió bẻ măng, gắp lửa bỏ tay người đâu ra mà nhiều thế

Thượng tầng nát bươm hạ tầng lẽ nào không thể

Ngỡ các đấng nam nhi đang mặc váy thay quần

Xã hội bây giờ người chế tạo máy bay lại là nông dân

Ông tiến sĩ cất bằng đi nuôi lợn

Người hiền lành luôn thua người bặm trợn

Chân thực ngủ vùi cho xảo trá lên ngôi

Thời đại bây giờ thủ khoa là con hộ đói mà thôi

Nhưng tuổi trẻ tài cao đương nhiên là con sếp

Bài thơ thần ngàn đời bất diệt

Bỗng đâu tan vì cái mới lên ngồi

Thời đại bây giờ thiên hạ um xùm vì mất một con ruồi

Con voi lọt qua lỗ kim thì thản nhiên công nhận

Lấy hoạt động từ thiện nuôi thân còn mang lòng thù hận

Rắp tâm gieo tiếng ác cho người

Thời đại gì mà thương cái thân tôi

Bao chuyện trái ngang cứ vờ như không biết

Tai vẫn tinh mà như bị điếc

Miễn sao không vơi cơm vơi gạo nhà mình

Có những lúc trách mình rồi lại tự phân minh

Phận mình đàn bà biêt sinh con nuôi con là đủ

Những thứ lớn lao mang tầm vũ trụ

Xin nhường cho cánh đàn ông…

Đã thế rồi mà nhiều khi vẫn thấy lông bông

Ngơ ngác trước “Bụi Chương Mỹ, đĩ Đồ Sơn”

có khả năng trở nên thành ngữ

Niềm tin lung lay trước một xã hội hèn, mình cũng hèn đủ thứ

Dạy con thế nào đây trước bộn bề sóng gió cuộc đời

Tự thấy mình như kẻ dở hơi

Dẫu không còn trẻ vẫn muốn sinh thêm đứa nữa

Lại lo lúc ra đời trán con in dòng chữ

“Nợ ngân sách” mẹ ơi!!!

02/11/2015

NGUYỄN THỊ THANH YẾN

Dư âm của một cái Tết sum vầy

Dư âm của một cái Tết sum vầy

Tưởng năng Tiến
2017-02-09

Một nông dân đem cành đào lên Hà Nội bán hôm 23/1/2017.

Một nông dân đem cành đào lên Hà Nội bán hôm 23/1/2017.

AFP photo
Thỉnh thoảng, tôi vẫn nghe chút điều tiếng về cung cách làm việc của những tiếp viên hàng không Việt Nam. Đầu năm 2015, từ Phnom Penh tôi sang Singapore bằng phi cơ của Vietnam Airlines. Cuối năm rồi, tôi cũng mua vé của hãng này để bay từ Phnom Penh đến Vientianne.

Trong cả hai chuyến đi trên, các cháu nam nữ tiếp viên đều ứng xử rất đàng hoàng, không có để phải phàn nàn cả. Duy chỉ có điều hơi kỳ (có lẽ do thời gian sắp xếp giữa hai chuyến bay quá ngắn) là trên ghế ngồi còn vương vãi những mẩu bánh vụn li ti khiến cho – đôi ba – hành khách hơi phải chau mày.

Nhờ sự vội vã của những công nhân lo việc vệ sinh nên tôi vớ được một tờ báo cũ (Báo Lao Động Số Xuân Đinh Dậu, phát hành vào thứ Tư 25 tháng 1, với chủ đề “Ấm Lòng Tết Sum Vầy 2017”) in mầu tuyệt đẹp.  Được nhìn thấy tiếng nước mình, giữa khung cảnh lạ, tôi mới chợt cảm nhận được cái niềm vui “ngộ cố tri” của kẻ tha hương.

Niềm vui đơn sơ này, tiếc thay, tắt ngấm ngay sau khi tôi đọc bài bình luận (“Tết Sum Vầy Và Những Giọt Nước Mắt Hạnh Phúc”) trên trang nhất của nhà báo Đình Chúc:

“Không tin vào mắt mình, cứ ngỡ như mơ, như một câu chuyện cổ tích…”. Và chị bật khóc, những giọt nước mắt hạnh phúc.Đó là cảm xúc của nữ công nhân Cao Thị Luyện (quê Thanh Hóa) khi bất ngờ được gặp cha mẹ chồng cùng con trai từ Nam Định vào tận mảnh đất Bình Dương – nơi cách xa hơn ngàn cây số.

Càng cảm động hơn khi đây không phải là chuyến thăm viếng bình thường như bao cha mẹ, ông bà xa con cháu khác mà đó là kết quả của sự chăm lo, góp sức của tổ chức Công đoàn, của các nhà hảo tâm trong chương trình “Tết sum vầy” tại Bình Dương.

Ơ hay, thế là thế nào nhỉ? Bà Cao Thị Luyện là một công nhân của nước nước CHXHCNVN (Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc) chứ có phải tù nhân phát vãng (vào Thời Thực Dân/Phong Kiến) đâu mà việc đoàn tụ với người thân, vào dịp cuối năm, lại nhiêu khê đến thế?

Đã thế, ông Đình Chúc còn viết thêm rằng : Không cảm động sao được khi với nhiều công nhân tiền lương còn không đủ sống. Phiên chợ cuối chiều phải đắn đo nâng lên đặt xuống trước con cá, mớ rau. Đến tiền tàu xe về quê dịp tết còn không lo nổi, nói chi đến quà cáp, tết nhất cho gia đình. Nay được tổ chức Công đoàn lo quà, tặng vé để về quê thì không xúc động sao được…

Đọc báo Lao Động viết về đời sống của giới công nhân Việt Nam hiện nay mà tôi cứ có cảm tưởng như họ là những kẻ thuộc giai cấp cùng đinh (paria – untouchable) ở bên Ấn Độ, vào hồi đầu thế kỷ trước vậy.

Gần sáu mươi năm trước, đời sống của phu đồn điền cao su miền ở miền Nam (“vùng địch tạm chiếm”) cũng không đến nỗi tàn tệ và thảm thương đến thế, theo như tin báo Nhân Dân – số 2534 – phát hành ngày 26 tháng 2 năm 1961:

sumvay3.jpg
Nhà trọ công nhân khu công nghiệp Tân Tạo. Ảnh: N.B/ Tuổi Trẻ Online

 

“Công nhân đồn điền cao su miền Nam đấu tranh thắng lợi … Đây là một đợt đấu tranh lớn bao gồm hàng vạn công nhân và gia đình công nhân thuộc cá đồn điền cao xu Lộc Ninh, Lai Khê, Trảng Bom … Các chủ đồn điền nói trên đã phải nhận giải quyết các yêu sách do anh chị em đề ra như: định lại tiền lương, trả phụ cấp cho nữ công nhân khi sinh đẻ, trả phụ cấp năng xuất, sửa lại nhà ở, lập bệnh xá, lập nơi giải trí cho công nhân, mở trường học và vườn chơi cho trẻ em công nhân, và nhận lại những công nhân đã bị sa thải.

Bây giờ thì tìm đâu cho ra “nhà ở, bệnh xá, trường học, vườn chơi trẻ em, và khu giải trí” cho giới công nhân? Từ Việt Nam, phóng viên Khánh Hoà có bài tường thuật (“Nghiệt Ngã Phận Đời Ngày Làm Công Nhân, Tối Về… Bán Dâm”) trên báo Dân Việt:

“… những công nhân này, ban ngày đi làm, chiều tan ca về thì đàn ông lại xách xe đi chạy xe ôm ở mấy ngã ba, ngã tư hòng kiếm thêm vài chục ngàn đồng.

Ngoài ra, nhiều người phải nhận hàng về nhà làm thêm ban đêm hoặc đi bốc vác, phụ bồi bàn ở các quán ăn, quán cà phê ban đêm với mong muốn kiếm thêm chút đỉnh. Riêng với những công nhân nữ, dù biết là tội lỗi, là nhục nhã nhưng nhiều người vì miếng cơm, manh áo vẫn nhắm mắt đưa chân để làm cái việc nhơ nhuốc là đi bán dâm, như một cứu cánh duy nhất trong cơn cùng quẫn …”

Những cảnh đời “cùng quẫn” như trên, thực ra, không mới mẻ gì. Tôi đã nghe  Nguyễn Chí Thiện nói thế lâu rồi:

Bán trôn rồi lại bán cả mồ hôi
Mà đói rét vẫn quần cho sớm tối!

(“Trên Mảnh Đất” – 1964)

Mãi đến năm 1986 ông TBT Trường Chinh mới chịu thừa nhận nỗi “nhục nhã” và sự “nhơ nhuốc” này:“Phải cứu giai cấp công nhân!”

Trời cũng chả cứu nổi được họ, nếu Tổ Chức Công Đoàn Việt Nam vẫn chỉ là cánh tay nối dài của Đảng – theo nhận xét của Tiến Sĩ Phạm Chí Dũng:

“Không những không hỗ trợ công nhân, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam lại nối thêm một cánh tay giúp công an ngăn chặn đình công. Trong một số trường hợp, công nhân còn phát hiện chính cán bộ công đoàn làm công tác chỉ điểm để ‘khoanh vùng đối tượng’ và sau đó là bắt bớ tống giam những công nhân khởi xướng đình công.”

sumvay5-400.jpg
Đoàn Huy Chương & Nguyễn Hoàng Quốc Hùng. Ảnh: anhbasam

 

Nhân chuyện báo Lao Động số Xuân, với chủ đề Tết Sum Vầy, xin được ghi lại tên tuổi của vài ba công nhân hiện đang bị cầm tù (hay “dấu kín”) ở một nơi nào đó:

– Đoàn Huy Chương a.k.a. Nguyễn Tấn Hoành: Sinh năm 1985, thành viên sáng lập Tổ Chức Công Đoàn Độc Lập, bị bắt (lần thứ hai) vào ngày 23 tháng 2 năm 2010, và bị kết án bẩy năm tù vì tội “phá rối an ninh nhằm chống lại chính quyền nhân dân.” Hiện ông đang bị giam giữ tại trại  giam Phước Hòa, Huyện Tân Phước, Tỉnh Tiền Giang.

– Nguyễn Hoàng Quốc Hùng: Sinh năm 1981, thành viên của Khối 8406, hội viên của Phong Trào Các Nạn Nhân Của Sự Bất Công. Ngày 27 tháng 10 năm 2010, ông bị TAND tỉnh Trà Vinh kết án chín năm tù, cùng với tội danh với Nguyễn Tấn Hoành, và bị giam giữ trong cùng một trại.

– Lê Trí Tuệ: Sinh năm 1979, thành viên của Khối 8406, Phó Chủ Tịch Công Đoàn Độc Lập Việt Nam. Ngày 20 tháng 10 năm 2006, ông tuyên bố thành lập Công Đoàn Độc Lập. Ông bị bắt vào ngày 29 tháng 03 năm 2007, bị ép buộc phải lên tiếng công khai giải tán công đoàn này. Lê Trí Tuệ từ chối và bỏ trốn sang Cambodia, sau khi bị đánh đập tàn tệ nhiều lần ngoài đường phố. Ông đột ngột “biến mất” khỏi cõi đời này, kể từ hôm 16 tháng 5 năm 2007 đến nay!

Theo bản tin của HRW, gửi đi vào ngày 4 tháng 5 năm 2009: “Người ta nghĩ rằng công an Việt Nam đã bắt cóc ông Lê Trí Tuệ, một trong những sáng lập viên của Công Đoàn Độc Lập Việt Nam.”

Ông Bùi Văn Cường, Ủy Viên  Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Động Việt Nam – tiếc thay – không đủ can đảm để nhắc đến tên tuổi họ trong dịp Tết Sum Vầy vừa qua. Tổ chức Công Đoàn của đảng ông Cường, theo ý của một nhà phản biện độc lập ở Việt Nam là “nên chấm dứt hoạt động đi, nếu còn biết liêm sỉ.”

Ôi, tưởng gì chớ liêm sỉ thì là chuyện vô cùng xa xỉ đối với đám đảng viên CSVN!

S.T.T.D Tưởng Năng Tiến

Thứ Tư, 02/08/2017

Đấu tranh thay đổi hay thay thế chế độ CSVN?

Đấu tranh thay đổi hay thay thế chế độ CSVN?

Mai Thanh Truyết (Danlambao) – Câu hỏi cho hôm nay: “Ngày mai, tương lai Việt Nam có tươi sáng, có trở thành một cường quốc hay không tùy thuộc vào thể chế chính trị có thay đổi thành dân chủ hay không?”
Đây là một sự thật rất rõ ràng mà có lẽ không người dân Việt Nam nào không thấy. Nhưng trước khi có dân chủ thì phải thoát khỏi ách độc tài toàn trị của cộng sản và chính vì vậy mà có phong trào đấu tranh với ĐCSVN. Tuy nhiên, công cuộc đấu tranh với ĐCSVN thường xảy ra với những cuộc vận động chưa dứt khoát mà thường hay giao động giữa hai mục tiêu: thay đổi thay thế chế độ CSVN.
 
“Thay đổi”“Thay thế” là hai vấn đề hoàn toàn khác nhau vì nó đòi hỏi những phương pháp đấu tranh khác nhau. Vì thế hai vấn đề mang tầm vóc chiến lược này cần phải được phân định rõ ràng và suy xét cẩn thận. Một khi mục tiêu đã được thống nhất thì phong trào đấu tranh sẽ cùng hướng về một điểm và sẽ tạo sức mạnh tổng hợp.
Một phương cách để tìm hiểu hai khuynh hướng là bằng cách đối chiếu quan điểm và lập luận giữa hai khuynh hướng thay đổithay thế. Từ sự đối chiếu sẽ hiện ra những điểm khôn ngoan hay sai lầm trong những hành động thực hiện. Phần tiếp theo được xếp theo hình thức đối đáp giữa hai khuynh hướng trong từng vấn đề hay quan điểm:
1. Quyền lực của ĐCSVN quá lớn chưa thế lực nào có thể đánh đổ
Khuynh hướng thay đổi:
Chế độ CSVN hay quyền lực của ĐCSVN quá lớn, quá bao trùm chưa thể lật đổ họ được. Những vấn đề căn bản trong khuynh hướng thay đổi có thể liệt kê như sau:
– Về chính trị, ĐCS có mặt, chi phối và kiểm soát mọi ngõ ngách trong cuộc sống của người dân VN. ĐCS tuy ngày nay bị thoái hóa nhưng “uy tín” và thành phần cảm tình với ĐCS vẫn còn quá đông.
– ĐCS đã ý thức được những mầm mống có thể gây nguy hại cho họ nên đã tìm cách nắm giữ tất cả các thành phần có thế lực trong xã hội như giới trí thức, giới doanh gia tư nhân, giới xã hội dân sự, báo chí.
– ĐCS đã học được những bài học Cách mạng Hoa Lài và nắm giữ quân đội rất chặt, đồng thời cũng học từ Tàu cộng về việc thành lập những cơ quan đặc biệt chống biểu tình hùng hậu và đánh trả một cách sắt máu.
– Tinh thần đối kháng của người dân Việt Nam chưa thấy thể hiện. Số lượng người dân thờ ơ và an phận còn quá nhiều. Đối diện với tất cả những trở ngại này, người dân tay không làm sao có thể chống lại? Cho dù có cả triệu người biểu tình cũng sẽ chẳng làm đổ được một nhà cầm quyền có quân đội chống lưng.
 
Khuynh hướng thay thế:
Chế độ độc tài nào cũng nắm gọn mọi quyền lực trong tay để có thể kiểm soát dân chúng.
– Họ chỉ có một phương pháp cai trị duy nhất là bằng bạo lực vì quyền cai trị của họ không đến từ dân chúng.
– Chính sự độc đoán này là yếu điểm của họ. Yếu điểm đó là không danh chính ngôn thuận và không hợp lòng dân, hay nói cách khác ĐCSVN không có chính nghĩa.
– Họ chỉ có thể đánh lừa dân chúng qua tuyên truyền hay mua chuộc dân chúng qua việc ban phát đặc quyền đặc lợi cho một tầng lớp nào đó để làm hậu thuẫn.
– Tất cả những cách thức lấy lòng dân này là sự cố gắng gượng ép cần luôn luôn phải có động lực thúc đẩy. Và nếu động lực thúc đẩy yếu đi thì những thành phần đi theo sẽ giảm đi hay biến mất.
Phương pháp đấu tranh dùng để lật đổ chế độ CS là bất bạo động. Với phương pháp này, việc sở hữu bạo lực chẳng đem lại lợi thế nào cho nhà cầm quyền vì bạo lực chỉ có thể chống lại bạo lực.
– Làm sao có thể đem xe tăng ra bắt người công nhân phải đi làm việc?
– Làm sao công an có thể bắt bỏ tù những người rút tiền của mình ra khỏi nhà băng?
– Sức mạnh của quân đội sẽ không góp gì được cho thế lực của nhà cầm quyền nếu phương pháp bất bạo động được sử dụng khôn khéo.
– Vì thế quyền lực của nhà cầm quyền sẽ không lớn khi cuộc đấu tranh được chuyển sang môi trường bất bạo động và việc lật đổ một nhà độc tài là chuyện khả thi.
2. Dân chúng Việt Nam chưa đủ hiểu biết để có thể thiết lập một thể chế dân chủ ổn định
Khuynh hướng thay đổi:
– Dân chúng Việt Nam chưa đủ ý thức, hiểu biết về dân chủ nên chưa biết tranh đấu cho quyền công dân.
– Nếu thực hiện dân chủ ngay lập tức ở Việt Nam thì sẽ chỉ tạo nên đảng phái chia rẽ, xâu xé nhau và làm đất nước yếu kém đi.
– Cách tốt nhất là thực hiện dân chủ từng bước để bảo đảm sự chuyển tiếp ổn định. Hơn nữa, trong giai đoạn khởi đầu phát triển kinh tế, Việt Nam cần phải có ‘một chút’ độc tài mới có thể phát triển được, như đường đi của các nước Nam Hàn, Đài Loan, Singapore.
– Về nhân quyền, các thứ quyền làm người này chỉ nên giao cho người dân từng bước với giáo dục và thông tin để người dân có thời gian thực tập, tránh khỏi việc lạm dụng và đưa đến tình trạng rối loạn xã hội. Các quốc gia Âu Mỹ cũng đã trải qua cả trăm năm mới có sự trưởng thành dân chủ ngày này. Phương cách thả lỏng dân chủ từng bước là cách thực hiện dân chủ ổn thỏa nhất.
 
Khuynh hướng thay thế:
Nguyên tắc dân chủ bảo đảm một thể chế chính trị của dân, do dân và vì dân. Đây là một thể chế đem công bằng đến cho mọi người dân và không ai, không đảng phái hay nhóm người nào đứng trên ý dân.
– Nguyên tắc này đã được thực hiện tại đa số các nước trên thế giới và không thể sai lầm. Chỉ có thể chế độc tài CS là sai lầm và hiện còn tồn tại ở Việt Nam và 4 quốc gia trên thế giới.
– Quan điểm dân chủ phải được thực thi từng bước để giữ cho xã hội ổn định và một cách chuyển đổi thích hợp cho phát triển kinh tế vững chãi của các nước chậm tiến là một ngụy biện.
– Về thể chế chính trị, tất cả các cuộc thay đổi từ độc tài sang dân chủ đều là sự thay đổi tức khắc, không từ từ từng bước, vì sự mâu thuẫn giữa độc tài và dân chủ không thể có sự trộn lẫn, hoặc 100% dân chủ hoặc 100% độc tài mà thôi.
– Về phát triển kinh tế thì một số nước như Nam Hàn, Đài Loan hay Singapore đã sử dụng quyền lực nhà nước để điều hướng kinh tế hầu tạo sức mạnh cạnh tranh cho các công ty quốc nội đối với các công ty quốc tế. Chuyện nhà nước nhúng tay vào kinh tế không thể được xem là độc tài nếu mục đích nhắm tới là đẩy mạnh tiềm lực kinh tế quốc gia. Chính sách điều hướng kinh tế của các chính phủ dân chủ là góp tay hỗ trợ, khuyến khích phát triển theo hướng hoạch định. Doanh nghiệp nào thuộc lãnh vực quan tâm của chính phủ sẽ được sự hỗ trợ. Chính phủ dân chủ không nhúng tay vào việc điều hành các doanh nghiệp như hình thức quốc doanh ở các chế độ độc tài.
– Vấn đề trật tự xã hội liên quan tới nhiều lãnh vực khác như giáo dục, an ninh, luật pháp. Bảo vệ nhân quyền là bảo vệ cho mọi người dân được nhà cầm quyền tôn trọng và đối xử công bằng. Chỉ có một chính quyền dân chủ mới bảo đảm nhân quyền cho người dân. Một chính quyền độc tài không bao giờ cho người dân có quyền làm người vì khi cho người dân một vài quyền nào đó thì người dân sẽ không phục tùng chính quyền nữa.
Trong giai đoạn đầu của khuynh hướng thay thế, thiết nghĩ hãy khoan đòi những tiêu chuẩn dân chủ cao. Khi chưa có quyền Tự do thực sự mà muốn có Dân chủ toàn vẹn thì nền Dân chủ đó có thể đưa đến giả hiệu ngay. Trước hết hãy nâng cao Dân trí trong những nỗ lực giành các quyền Tự do hiến định: Quyền Tự do Thông tin-báo chí, và Quyền Tự do lập các Hội dân sự, nghề nghiệp, Ái hữu… mà tuy trên danh nghĩa đã có, nhưng nay phải dành cho có được thực chất.
Chính quyền “thay thế” cần phải dựa trên thế hợp pháp mà gở từng bước, tiến tới quyền làm chủ đích thực của người dân. Có được hai loại Quyền nói trên mới mong tiến lên đòi Quyền thứ ba là Quyền ứng cử và bầu cử, để cải biến dần các cơ quan quyền lực và tiến tới một chính thể Dân chủ pháp trị văn minh phù hợp với Dân tộc.
Một khi chưa có khả năng huy động quần chúng để làm “Cách mạng” lật đổ CSVN trực tiếp, thì đây là cung cách duy nhất để thoát khỏi đêm dài toàn trị. Đây chính là con đường HOÀ BÌNH.
Kiến tạo Dân trí và Xã hội dân sự làm nền tảng, chính là tích cực tạo điều kiện để thời cơ xuất hiện.
Con đường diễn biến như vậy tuy có chậm. Không phải vì chúng ta muốn chậm mà không cách nào làm nhanh hơn được! Nhưng bù lại cũng có ưu điểm là vững bền và hợp với tình tự dân tộc và không có sự can thiệp của “thế lực thù địch” mà người dân phải lo sợ.
 
3. Yếu tố ngoại lai hiện tại
Theo Hà Sĩ Phu: “Tôi đã nhận được câu hỏi rằng Mỹ sẽ có chương trình gì để thay đổi chính phủ Việt Nam và tôi đã trả lời thẳng rằng đó không phải là chính sách của Mỹ. Chính sách của Mỹ là tôn trọng sự khác biệt trong hệ thống chính trị của các quốc gia khác. Lợi ích của Mỹ là muốn thấy một nước Việt Nam vững mạnh, thịnh vượng, độc lập, tôn trọng dân chủ, nhân quyền và pháp quyền. Việt Nam thành công thì điều đó cũng nằm trong lợi ích của Mỹ”.
Qua chiều hướng trên, chúng ta thấy gì?
Rõ ràng là Hoa Kỳ không muốn tìm cách “thay thế” CSVN ở Việt Nam mà chỉ muốn “thay đổi” một số “chính sách cai trị” của ĐCS!
Về phía Việt Nam, Nguyễn Phú Trọng hoàn toàn chịu thuần phục Tập Cận Bình trong chuyến “triều cống” ngày 12 tháng giêng vừa qua, nói lên tính cách nộ lệ của CSVN qua 15 Hiệp ước từ quốc phòng, kinh tế, chính trị, và thương mại ký ngày 15/1/17.
Như vậy, những người con Việt phải làm gì?
Trước khi tham gia vào bất cứ một cuộc đấu tranh nào, ngay cả trong cuộc sống, nếu không muốn thắng thì không nên bước vào. Sự quyết tâm và ý chí quan trọng hơn tính khả thi của vấn đề.
Và sự quyết tâm trong đấu tranh chống CS là:
Lật đổ, hủy bỏ chế độ CSVN, không phải tìm cách thay đổi nó.
– Có sự quyết tâm dứt khoát trên sẽ giúp chúng ta loại trừ được tâm trạng mất tự tin hay yếm thế và dẫn đến tính ỷ lại.
– Sự trợ giúp bên ngoài của ngoại quốc chỉ là phụ thuộc. Chúng ta phải tự lực cánh sinh.
– Sự quyết tâm còn giúp những người con Việt tránh được những tư tưởng ủy mị, dễ tin như tin vào sự thành thật của ĐCSVN đối với quốc gia, dân tộc trong suốt hơn 70 năm qua!
11.02.2017

CHUYỆN BUỒN: ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM

CHUYỆN BUỒN: ĐẤT NƯỚC VÀ DÂN TỘC VIỆT NAM

CHUYEN BUON

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Mời các  Bạn đọc đoạn kết cuốn sách của  tác giả người Đức này, quá hay, khi nào sách in ra, mỗi người chúng ta phải mua  một vài cuốn để dành cho con cháu, chắt chung ta đọc để chúng hiểu sự thật lịch sử.

MC Người Đức … nhưng anh nầy có vẻ hiểu chuyện VN hơn rất nhiều người .Cuốn sách Đức: “A reporter’s love for a wounded people” của tác giả Uwe Siemon-Netto đã được viết xong và đang chờ một số người viết “foreword” và endorsements.Bản dịch cũng đã xong, được phép của tác giả chúng tôi xin giới thiệu đoạn kết rất xúc động mà tác giả đã nói lên ước muốn cùng với người Việt Nam nuôi dưỡng niềm hy vọng một ngày không xa Tự Do Dân Chủ sẽ trở lại với quê hương khốn khổ của chúng ta:

Đoạn kết

Hậu quả của khủng bố và đức hạnh của hy vọng
Hơn 40 năm đã trôi qua kể từ khi tôi giã biệt Việt Nam. Vào năm 2015, thế giới sẽ chứng kiến kỷ niệm lần thứ 40 chiến thắng của Cộng sản và nhiều người sẽ gọi đó là ngày “giải phóng.”

Ga xe lửa Huế, nơi một đầu máy và một toa hành lý khởi hành chuyến tầu tượng trưng 500 thước mỗi buổi sáng vào lúc 8 giờ sẽ không còn đáng đi vào kịch trường của sự phi lý nữa. Nó đã được phục hồi đẹp đẽ và sơn phết lại mầu hồng. Một lần nữa, tương tự như những ngày dưới sự thống trị của người Pháp, nó là nhà ga xe lửa đẹp nhất vùng Đông Dương và tài xế tắc-xi không phải chờ đợi vô ích bên ngoài.

Mười chuyến tầu thong dong chạy qua mỗi ngày, năm chuyến xuôi Nam và năm chuyến ra Bắc. Gộp chung lại chúng được mệnh danh một cách không chính thức là Tàu Tốc Hành Thống Nhất.

Chẳng lẽ nào tôi lại không mừng vui? Chuyện này có khác nào bên Đức khi bức tường Bá Linh đổ xuống và những bãi mìn biến mất, và nay những chuyến tầu cao tốc phóng ngược xuôi giữa hai xứ nguyên là Cộng sản bên Đông và Dân chủ bên Tây với tốc độ lên tới 200 dặm một giờ?

Hiển nhiên là tôi rất vui khi chiến tranh kết thúc và Việt Nam được thống nhất và phát triển, những chuyến xe lửa đã hoạt động trở lại và các bãi mìn đã được tháo gỡ. Nhưng đến đây thì sự tương đồng với nước Đức chấm dứt.
Nước Đức hoàn thành sự thống nhất, một phần nhờ người dân tại Đông Đức đã lật đổ chế độ độc tài toàn trị bằng những cuộc biểu tình và phản kháng ôn hòa, một phần nhờ vào sự khôn ngoan của các nguyên thủ quốc tế như các vị Tổng thống Ronald Reagan và George G.W. Bush, của Thủ tướng Helmut Kohl, của lãnh tụ Sô Viết Mikhail Gorbachev, và cũng phần khác vì sự sụp đổ có thể đoán trước được của hệ thống xã hội chủ nghĩa sai lầm trong khối Sô Viết. Không có ai bị thiệt mạng trong tiến trình này, không một ai bị tra tấn, chẳng có ai phải vào trại tù và cũng không có ai bị buộc phải trốn chạy.

Có một khuynh hướng khó hiểu, ngay cả trong số các vị học giả đáng kính của phương Tây đã diễn tả sự kiện Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam như là một cuộc “giải phóng.” Điều này đặt ra một câu hỏi: giải phóng cái gì và cho ai?
Có phải miền Nam đã được “giải phóng” khỏi sự áp đặt một nhà nước độc đảng toàn trị được xếp hạng chung với những chế độ vi phạm tồi tệ nhất thế giới về các nguyên tắc tự do tôn giáo, tự do phát biểu, tự do ngôn luận, tự do hội họp và tự do báo chí?

Một cái thứ giải phóng gì đã làm chết 3,8 triệu người dân Việt từ 1954 đến 1975 và đã buộc hơn một triệu người khác phải trốn ra khỏi đất nước, không những từ miền Nam bại cuộc mà cả từ những bến cảng miền Bắc và làm từ 200.000 đến 400.000 người gọi là thuyền nhân bị chết đuối?

Có phải là hành động giải phóng không khi xử tử 100.000 người lính miền Nam và viên chức chính phủ sau ngày Sài Gòn thất thủ? Phải chăng chỉ là một màn trình diễn nhân đạo của bên thắng cuộc bằng cách lùa từ một triệu đến 2 triệu rưỡi người miền Nam vào các trại tù cải tạo, trong đó có khoảng 165.000 người mất mạng và hàng ngàn người khác đã bị tổn thương sọ não lâu dài và bị các vấn đề tâm thần do hậu quả của tra tấn, theo một cuộc nghiên cứu của một nhóm học giả quốc tế do Bác sĩ tâm thần Richard F. Molina của đại học Harvard dẫn đầu?

Từ giữa những năm 1960, những tay bịa đặt chuyện huyền thoại về chính trị và lịch sử của phương Tây, hoặc ngây thơ hoặc bất lương, đã chấp nhận lời giải thích của Hà Nội rằng cuộc xung đột là một cuộc “chiến tranh nhân dân.” Cũng đúng thôi nếu chấp nhận định nghĩa của Mao Trạch Đông và Võ Nguyên Giáp về cụm chữ đó. Nhưng theo luật văn phạm về sở hữu tự theo cách Saxon Genitive qui định thì “chiến tranh nhân dân” phải được hiểu là cuộc “chiến tranh của nhân dân.”

Thực tế không phải như vậy. Ðã có khoảng 3,8 triệu người Việt Nam đã bị giết giữa các năm 1954 và 1975. Khoảng 164.000 thường dân miền Nam đã bị thủ tiêu trong cuộc tru diệt bởi Cộng sản trong cùng thời kỳ, theo nhà học giả chính trị Rudolf Joseph Rummel của trường Đại học Hawaii. Ngũ Giác Ðài ước tính khoảng 950.000 lính Bắc Việt và hơn 200.000 lính VNCH đã ngã xuống ngoài trận mạc, cộng thêm 58.000 quân Hoa Kỳ nữa. Đây không thể là một cuộc chiến tranh của nhân dân mà chính là chiến tranh chống nhân dân.
Trong tất cả những lập luận đạo đức giả về cuộc chiến Việt Nam ta gặp quá thường trong vòng 40 năm qua, cái câu hỏi quan trọng nhất đã bị mất dấu hay AWOL, nếu dùng một từ ngữ viết tắt quân sự có nghĩa là “vắng mặt không phép,” câu hỏi đó là: Dân Việt Nam có mong muốn một chế độ Cộng sản hay không? Nếu có, tại sao gần một triệu người miền Bắc đã di cư vào Nam sau khi đất nước bị chia cắt năm 1954, trong khi chỉ có vào khoảng 130.000 cảm tình viên Việt Minh đi hướng ngược lại?

Ai đã khởi đầu cuộc chiến tranh? Có bất kỳ đơn vị miền Nam nào đã hoạt động ở miền Bắc hay không? Không. Có du kích quân miền Nam nào vượt vĩ tuyến 17 để mổ bụng và treo cổ những người trưởng làng thân cộng, cùng vợ và con cái họ ở đồng quê miền Bắc hay không? Không. Chế độ miền Nam có tàn sát cả một giai cấp hàng chục ngàn người trên lãnh thổ của họ sau năm 1954 bằng cách tiêu diệt địa chủ và các đối thủ tiềm năng khác theo cách thống trị theo lối Sô Viết của họ hay không? Không. Miền Nam có thiết lập chế độ độc đảng toàn trị hay không? Không.

Với cương vị một người công dân Đức, tôi không can dự gì đến cuộc chiến này, hay nói theo lối người Mỹ là “I have no dog in this fight” (tôi chẳng có con chó nào trong vụ cắn lộn này cả). Nhưng, nhằm chú giải cho cuốn sách “Lời nguyện của nhà báo”, tương tự như các phóng viên kỳ cựu có lương tâm, lòng tôi đã từng và vẫn còn đứng về phía dân tộc Việt Nam nhiều đau thương. Lòng tôi hướng về những người phụ nữ tuyệt vời với tính tình rất thẳng thắn và vui vẻ; hướng về những người đàn ông Việt Nam khôn ngoan và vô cùng phức tạp đang theo đuổi giấc mơ tuyệt hảo theo phong cách Khổng giáo; hướng về các chiến binh giống như trẻ con đi ra ngoài mặt trận mang theo cái tài sản duy nhất là một lồng chim hoàng yến; hướng về các góa phụ chiến tranh trẻ với cơ thể bị nhào nặn méo mó chỉ vì muốn bắt một tấm chồng lính Mỹ nhằm tạo một ngôi nhà mới cho con cái và có thể cho chính họ, còn hơn là đối mặt với độc tài Cộng sản; hướng về nhóm trẻ em bụi đời trong thành thị cũng như ngoài nông thôn săn sóc lẫn nhau và những con trâu đồng. Với trái tim chai cứng còn lại, lòng tôi thuộc về những người trốn chạy khỏi lò sát sinh và vùng chiến sự, luôn luôn đi về hướng Nam mà không bao giờ về hướng Bắc cho đến tận cùng, khi không còn một tấc đất nào vắng bóng Cộng sản nữa để mà trốn. Tôi đã chứng kiến họ bị thảm sát hay bị chôn sống trong những ngôi mồ tập thể và mũi tôi vẫn còn phảng phất mùi hôi thối của những thi thể đang thối rữa.

Tôi không có mặt vào lúc Sài Gòn thất thủ sau khi toàn bộ các đơn vị Quân Lực VNCH, thường xuyên bị bôi bẩn một cách ác độc bởi truyền thông Hoa Kỳ, giờ đây bị những đồng minh người Mỹ của họ bỏ rơi, đã chiến đấu một cách cao thượng, biết rằng họ không thể thắng hay sống sót khỏi trận đánh cuối cùng này. Tôi đang ở Paris, lòng sầu thảm khi tất cả những chuyện này xẩy ra và tôi ước gì có dịp tỏ lòng kính trọng năm vị tướng lãnh VNCH trước khi họ quyên sinh lúc mọi chuyện chấm dứt, một cuộc chiến mà họ đã có thể thắng: Lê Văn Hưng (sinh năm 1933), Lê Nguyên Vỹ (sinh năm 1933), Nguyễn Khoa Nam (sinh năm 1927), Trần Văn Hai (sinh năm 1927) và Phạm Văn Phú (sinh năm 1927).

Khi tôi viết đoạn kết này, một ký giả đồng nghiệp và một loại học giả sinh năm 1975 khi Sài Gòn bị thất thủ, đã tự tạo cho bản thân một thứ tên tuổi bằng cách bêu xấu tội ác chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. Vâng, họ thật đáng bị bêu xấu. Đúng, đó là sự thật. Mỹ Lai có thật. Tôi biết, tôi đã có mặt trong phiên tòa mặt trận khi Trung úy William Calley bị kết án là có tội. Tôi biết cái tiêu chuẩn đếm xác chết được tôn sùng bởi đầu óc méo mó của các cấp chỉ huy quân sự cũng như dân sự thời đại Mc Namara tại Washington và bản doanh Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã làm tổn hại hàng ngàn mạng sống của người dân vô tội.
Nhưng không có hành vi tàn ác nào của các đơn vị rối loạn Hoa Kỳ và VNCH có thể sánh bằng cuộc tàn sát do lệnh nhà nước giáng xuống đầu người miền Nam nhân danh Hồ Chí Minh. Những tội ác mà cho đến ngày nay những kẻ kế thừa thậm chí vẫn không thừa nhận vì không ai có cái dũng cảm hỏi họ: Tại sao các anh thảm sát tất cả những người vô tội mà các anh rêu rao là đi chiến đấu để giải phóng họ?

Với tư cách một người Đức, tôi xin được thêm một đoạn chú thích như sau: tại sao các anh giết người bạn của tôi là Hasso Rüdt von Collenberg, tại sao lại giết các bác sĩ người Đức ở Huế, và anh Otto Söllner tội nghiệp mà “tội ác” duy nhất là dạy trẻ em Việt Nam cách điều khiển một ban nhạc hòa tấu?
Tại sao các anh bắt cóc những thanh niên thiện nguyện Knights of Malta, làm cho một số bị chết trong rừng rậm và số khác thì bị giam cầm tại Hà Nội?
Tại sao các anh không bao giờ tự xét lương tâm về những hành động đó, theo cách những người Mỹ chính trực trong khi họ đã được xác định một cách đúng đắn là họ thuộc về phía lẽ phải trong cuộc Đại Chiến Thứ Hai, vẫn bị dằn vặt bởi cái di sản khủng khiếp để lại vì đánh bom rải thảm những khu dân cư trong nước Đức và tấn công bằng bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki?
Hồi tưởng lại cuộc thử thách trên con đường mòn Hồ Chí Minh trong tạp chí Der Spiegel, cô y tá Tây Đức Monika Schwinn nhớ lại cuộc gặp gỡ với các đơn vị chiến đấu Bắc Việt trên đường xuống phía Nam như là một trong những kinh nghiệm khủng khiếp nhất. Cô diễn tả cái cường độ của mối hận thù trên khuôn mặt của những tên lính đó và cô viết chính những tên Việt Cộng canh chừng phải khó khăn lắm mới ngăn chận họ không giết những người Đức ngay tại chỗ.

Không có ai sinh ra là biết hận thù cả. Sự thù hận chỉ có thể có được do dậy dỗ. Nuôi dưỡng tính giết người trong lòng thanh niên là một khuôn phép huấn luyện chỉ có trường phái chủ nghĩa toàn trị là giỏi nhất. Trong cuốn tiểu sử rất hay nói về tay chỉ huy SS Heinrich Himmler, sử gia Peter Longerich diễn tả là ngay cả gã sáng lập viên cái lực lượng tàn độc gồm những tên côn đồ mặc đồ đen cũng khó lòng buộc thuộc hạ vượt qua sự kiềm chế tự nhiên để thi hành lệnh thảm sát Holocaust (Longerich. Heinrich Himmler. Oxford: 2012).
Chính cái ánh mắt thù hận của những tên sát nhân Bắc Việt tại Huế làm ám ảnh những người tôi phỏng vấn hơn cả. Nhưng dĩ nhiên phải dành nhiều thời gian với họ, chịu sự đau khổ cùng họ, tạo niềm tin và trò chuyện với họ thì mới khám phá ra cái cốt lõi của một phần nhân tính con người, một hiểm họa về mặt chính trị và quân sự vẫn còn quanh quẩn bên chúng ta từ bốn thập niên qua. Chỉ phán ý kiến về nó từ trên tháp ngà đài truyền hình New York hay các trường đại học Ivy League thì không bao giờ đủ cả.

Trong một cuốn sách gây chú ý về đoàn quân Lê Dương Pháp, Paul Bonnecarrère đã kể lại cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Đại tá đầy huyền thoại Pierre Charton và Tướng Võ Nguyên Giáp sau khi Pháp thất trận tại Điên Biên Phủ (Bonnecarrère. Par le Sang Versé. Paris: 1968). Charton là tù binh trong tay Cộng sản Việt Minh. Giáp đến thăm Charton nhưng cũng để hả hê. Cuộc gặp gỡ xẩy ra trong một lớp học trước mặt khoảng 20 học viên đang tham dự một buổi tuyên truyền chính trị. Cuộc đối thoại giữa hai nhân vật đối chọi nhau đã xẩy ra như sau:
Giáp: “Tôi đã đánh bại ông, thưa Đại tá!”
Charton: “Không, ông không đánh bại tôi, thưa Đại tướng. Rừng rậm đã đánh bại chúng tôi… cùng sự hỗ trợ các ông đã nhận được từ người dân bằng các phương tiện khủng bố.”

Võ Nguyên Giáp không ưa câu trả lời này và cấm các học viên không được ghi chép nó. Nhưng đó là sự thật, hay chính xác hơn: đó là một nửa của sự thật. Cái nửa kia là các nền dân chủ như Hoa Kỳ đúng là không được trang bị về chính trị và tâm lý để theo đuổi một cuộc chiến trường kỳ. Sự nhận thức này, cùng với cách sử dụng các phương tiện khủng bố đã trở thành trụ cột trong chiến lược của Võ Nguyên Giáp. Hắn đã đúng và hắn đã thắng. Thậm chí nguy hiểm hơn nữa là ngày nay các chế độ toàn trị đang chú ý đến điểm này.
Cho đến tận ngày hôm nay tôi vẫn còn bị ám ảnh bởi cái kết luận tôi bắt buộc phải rút ra từ kinh nghiệm về Việt Nam là:

khi một nền văn hóa bê tha hủ hóa đã mệt mỏi về lòng hy sinh, nó sẽ có khả năng vứt bỏ tất cả. Nó đã chín mùi để bỏ rơi một dân tộc mà đáng lẽ nó phải bảo vệ. Nó còn thậm chí sẵn sàng xóa đi những mạng sống, sức khoẻ về thể chất và tinh thần, nhân phẩm, trí nhớ và danh thơm của những thanh niên đã được đưa ra mặt trận.

Điều này đã xẩy ra trong trường hợp các cựu chiến binh Việt Nam. Tác động của sự khiếm khuyết đã ăn sâu trong các nền dân chủ tự do này rất đáng sợ vì cuối cùng nó sẽ phá hỏng chính nghĩa và tiêu diệt một xã hội tự do.
Tuy nhiên tôi không thể kết thúc câu chuyện ở đây bằng điều tăm tối này được. Là một người quan sát về lịch sử, tôi biết là lịch sử, mặc dù được khép kín trong quá khứ, vẫn luôn luôn mở rộng ra tương lai. Là một Ki-Tô hữu tôi biết ai là Chúa của lịch sử.

Chiến thắng của Cộng sản dựa vào những căn bảnđoàn xích-lô bên ngoài ga xe lửa Huế vào năm 1972, nơi chẳng có người khách nào quay trở lại. Chỗ của tôi ở đâu bây giờ? độc ác: khủng bố, tàn sát và phản bội. Hiển nhiên tôi không biện minh cho chuyện tiếp tục đổ máu nhằm chỉnh lại kết quả, cho dù có khả thi đi chăng nữa. Nhưng là một người ngưỡng mộ tính kiên cường của dân tộc Việt Nam, tôi tin là họ sẽ cuối cùng tìm ra phương cách ôn hòa và các lãnh tụ chân chính để họ có thể thoát khỏi những tay bạo chúa. Có thể sẽ phải mất nhiều thế hệ, nhưng điều đó sẽ xẩy ra.
Trong ý nghĩa này, tôi bây giờ chỉ muốn xếp hàng vào Tôi còn lại gì nữa ngoài niềm hy vọng?

Anh Thiệu Van An gởi

Chúng ta chiến thắng trong chiến tranh để trờ thành NGƯỜI THUA CUỘC

Bài cũ nhưng vẫn còn đúng, còn giá trị

Chúng ta chiến thắng trong chiến tranh để trờ thành NGƯỜI THUA CUỘC

FB Trâm Lê

9-2-2016

Có thể đối với nhân dân VN, ngày 30/4/1975 là mốc lịch sử thống nhất tổ quốc. Thống nhất đất nước, hết tiếng bom đạn, hết lo âu về cuộc chiến đều là giấc mơ của mỗi người dân VN nói riêng và những người yêu hòa bình trên thế giới nói chung. Tôi ko đề cập đến chế độ cộng sản hay cộng hòa ở đây, bài viết này tôi chỉ đề cập duy nhất đến 1 thứ. Đó là người Việt, sự tự cường dân tộc.

Một dân tộc lớn mạnh thì phần lớn nằm ở sự tự cường của dân tộc đó. Không thể phủ nhận sự tự cường dân tộc ở chính “người anh em láng giềng” Trung Quốc. Tuy họ mang nhiều cái nhìn tiêu cực từ chúng ta như đồ ăn bẩn, chất độc, hàng nhái v.v.. Nhưng nhiêu đó chỉ là 1 phần nhỏ, cái mà chúng ta phải nhìn nhận lại mình là họ dám làm được những thứ họ cần. Vậy VN mình sao lại không như vậy? Hãy quay trở lại quá khứ 1 chút, chúng ta sẽ biết nguyên nhân.

Sáng 11/9/1975 quyết định số 111/CP chính thức áp dụng lên 17 tỉnh thành miền Nam và nó mang tên “Đánh tư Sản”. Sự kiện này chính thức loại bỏ dần tính tự cường dân tộc của VN theo khái niệm kinh tế. Nội dung chính của sự kiện này như sau: Tịch thu nhà và cưỡng chế toàn bộ những nạn nhân phải đi về vùng Kinh Tế Mới sống. Cưỡng chế giải tán toàn bộ các công ty doanh nghiệp tư nhân, tiểu thương, các thành phần sản xuất nhỏ vốn rất đa dạng và phồn thịnh trong nền kinh tế tự do của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, khuyến khích hậu thuẫn cho quốc dân từ bấy lâu.

Nền công nghiệp nhẹ, sản xuất đồ gia dụng trong nhà của Việt Nam đã hoàn toàn chính thức bị phá hũy. Người dân Việt Nam sẽ không còn thấy các sản phẩm tự hào của dân tộc như nồi nhôm hiệu Ba Cây Dừa , xà bông hiệu cô Ba, xe hơi hiệu La Đalat, hiệu đèn trang trí Nguyễn Văn Mạnh .v.v… Không những thế, các nhà máy nhỏ sản xuất nhu yếu phẩm như đường, bột giặt, giấy cũng bị tê liệt vì chủ nhân bị quốc hữu hóa. Các nhà sách về khoa học kỹ thuật cũng như các tác phẩm văn học thế giới cũng bị tịch thu tiêu hủy với 1 lý do chung “văn hóa phẩm đồi trụy”.

Hiển nhiên cánh cửa kết nối khoa học kỹ thuật hiện đại đến VN đã bị chặn lại. Kế đó là đường lối quốc hữu hóa toàn bộ đất đai của nhân dân qua hình thức “Tập đoàn sản xuất” là một sai lầm nghiêm trọng dẫn đến nạn đói năm 1979 ngay liền sau đó vì lúa gạo và các sản phẩm nông nghiệp bị sút giảm toàn diện tại miền Nam.

Khai tử công nghiệp, nông nghiệp thất bại, văn hóa đóng cửa. Mới nghe đến đây tôi cũng không tin rằng VN sẽ thoát ra khỏi chốn tăm tối mịt mù ấy. May thay chính phủ họ cũng đã biết sửa sai, đó là hàn gắn dân tộc sau chiến tranh. Sự kiện tập trung tại Sài Gòn, hàng ngàn gia đình cán bộ miền Bắc đã vào Sài gòn sinh sống trong những ngôi nhà bị tịch thu.

Theo thừa nhận ngắn ngủi từ báo SGGP và báo Công An khi bàn đến vấn đề trả lại nhà cho những “đối tượng” bị đánh tư sản oan ức vào tháng 9 năm 1989, ước tính lên đến khoảng 150.000 người thuộc gia đình cán bộ gốc miền Bắc vào Sài Gòn sinh sống trong những ngôi nhà bị tịch thu. Trong chiến dịch này, số lượng người Sài Gòn phải bị mất hết tài sản và bị cưỡng bức đi KINH TẾ MỚI là khoảng 600.000 người, tạo ra một sự hoảng sợ hoang man chưa từng có trong lịch sử phát triển Sài Gòn qua các triều đại.

Ghi nhận của Hà Nội là có khoảng 950 ngàn người Sài Gòn bị cưỡng bức đi KINH TẾ MỚI, không hoàn thành chỉ tiêu đề ra là 1,2 triệu người. Sau sự hàn gắn dân tộc này tôi hiểu được chữ Nam Kỳ – Bắc Kỳ. Nó thật đay nghiệt.

Tất cả những ai tại Sài Gòn bị Đảng tịch thu nhà , tài sản đều phải đi về vùng KINH TẾ MỚI, là những nơi mà cơ sở hạ tầng cho sinh hoạt chưa được xây dựng, trong đó có cả điện nước, trường học và bệnh xá. HƠN SÁU TRĂM NGÀN nạn nhân bị cưỡng bức qua đêm phải rời Sài Gòn để về những vùng KINH TẾ MỚI và bỏ lại hết toàn bộ tài sản của mình từ nhà ở, của cải, đồ đạc cho Đảng quản lý. Thế là cả triệu người dân Sài Gòn đột nhiên lâm vào cảnh đói kém trầm trọng như là đòn trả thù hữu hiệu của Đảng đối với những người bị liệt vào thành phần không phải “Cách Mạng”, ngụy quân ngụy quyền và tiểu tư sản. Ước tính có khoảng 300 ngàn trẻ em bị thất học vì sống ở các vùng Kinh Tế Mới này.

Nhân dân miền Nam- cả triệu người đang sống sung túc bỗng lao vào chịu đói kém khổ sở chưa từng có. Nạn đói kém lan tràn khắp mọi nơi, mọi nhà trước thảm cảnh. Hậu quả của nó là Việt Nam tụt hậu hơn 50 năm về kinh tế vì các chính sách đánh tư sản này của Đảng lên đầu người dân miền Nam. Việt Nam là quốc gia nghèo đứng hàng thứ ba trên thế giới vào năm 1985.

Cho đến năm 1994 VN thoát khỏi cấm vận và có những tiến bộ cải thiện khi World Bank và USAID tăng tốc trợ giúp, cùng với chính sách thay đổi nền kinh tế đến hiện tại chúng ta có gì. Chúng ta vẫn chẳng có gì ngoài 1 đất nước làm nhân công cho thế giới, chuyên lắp ráp mà ko có dây chuyền sản xuất của riêng mình. Các chỉ tiêu đặt ra như đưa bao nhiêu ngàn nhân công xuất khẩu lao động cho nước A, B ,C ..v..v.

Các bạn có đau đớn như tôi khi nhìn thấy Campuchia tự hào họ có thể tự chế tạo xe hơi không? Bạn có cảm thấy buồn khi công nghệ Lào đã sử dụng rộng rãi 4G trước VN ko. Hay bạn vẫn đang tự hào VN ta đánh đuổi được thực dân Pháp, đế quốc Mỹ. Hay bạn vẫn đang tự hào về 1 VN đầy ung nhọt, đầy chia rẽ trong chính những người dân. Tôi chỉ tự hào về VN khi nào nó tìm lại được sự tự cường dân tộc.

Phiến quân Hồi giáo giết 250 trẻ em Cơ đốc bằng cách ném chúng vào trong máy làm bánh mì

Phiến quân Hồi giáo giết 250 trẻ em Cơ đốc bằng cách ném chúng vào trong máy làm bánh mì

Oneway.vn – “Nhưng ai chối ta trước mặt thiên hạ, Ta cũng sẽ chối họ trước mặt Cha ta ở trên trời” – Những lời cuối cùng của George Assaf trước khi bị ISIS giết vì tội là Cơ đốc nhân.

Theo một người sống sót khỏi ISIS ở Syria, trẻ em Cơ đốc đã bị ném vào trong các máy làm bánh mì, các máy quay làm gãy xương của chúng và nghiền nát thi thể nhỏ bé của chúng chẳng vì bất cứ tội nào ngoại trừ là Cơ đốc nhân.

Câu chuyện này được Alice Assaf kể lại, con trai của cô đã bị ISIS đánh đập và bắn vì cậu bé từ chối đổi tên Cơ đốc của mình là George.

Assaf chia sẻ với một phóng viên cách mà ISIS đã biến một cửa hàng bánh mì trở thành một cửa hàng chất đầy những nỗi kinh hoàng, chúng đặt trẻ em vào các máy móc để nhào bột và điều chỉnh để nghiền nát những đứa bé bất hạnh bên trong. Người lớn thì bị nướng đến chết bên trong các lò nướng.

Tội của họ chỉ đơn thuần vì Cơ đốc giáo và nó vang ra những câu chuyện kinh hoàng khác được kể lại khắp phần còn lại của Syria và I-rắc. Những kẻ khủng bố vẫn khét tiếng vì sự tàn ác của chúng, vì chúng không chỉ đơn thuần là giết người, mà các vụ giết người phải được thi hành theo cách man rợ nhất để đe dọa người khác.

Hai năm trước, những kẻ khủng bố ISIS tiếp quản thị trấn của Assaf ở Syria. Alice Assaf đã bảo con trai cô là George đi trốn và sắp đặt để cậu bé được những người Hồi giáo tốt bụng che giấu. Tuy nhiên, gia đình đó đã để lộ George và cậu bé bị bắt. Mẹ cậu bé đã van nài cậu bé đổi tên thành một cái tên nghe giống Hồi giáo, nhưng cậu bé từ chối. Những lời cuối cùng của cậu bé với mẹ là: “Con không muốn che giấu mình nữa. Mẹ là người đã dạy con vâng theo điều Đấng Christ dạy, ‘nhưng ai chối ta trước mặt thiên hạ, Ta cũng sẽ chối họ trước mặt Cha ta ở trên trời.”

George Assaf bị đánh và bắn chết.

Những trường hợp khác thậm chí còn tồi tệ hơn. Khi ISIS tiếp quản lò bánh của thị trấn, chúng đã biến nó thành một cửa hàng kinh hoàng, chúng trói sáu thợ làm bánh đang làm việc tại đó và hành quyết họ trong chính những lò nướng của họ. Khi chúng bắt đầu gom các trẻ em Cơ đốc lại tiệm bán, vài người lính địa phương đã cố gắng cứu những đứa trẻ. Để ngăn chặn những người lính, những kẻ khủng bố bắt đầu ném những đứa trẻ xuống ban công gần đó. Thủ đoạn khủng khiếp của chúng đã có tác dụng và chúng đã giết 250 trẻ em trong máy nhào bánh mì.

Assaf nói cô đã tìm cách bỏ trốn khỏi thị trấn và sống sót để kể lại câu chuyện cho Roads to Success, một tổ chức phi lợi nhuận hoạt động để bảo vệ nhân quyền ở Trung Đông.

Nhiều thị trấn dù được tự do, nhưng nỗi sợ vẫn hiện diện nếu ISIS quay trở lại và bắt đầu giết nhiều người hơn một cách kinh khủng.

Khi các phóng viên tìm hiểu về các thị trấn đã được tự do, nhiều câu chuyện kinh hoàng hơn đã được kể lại. Những kẻ khủng bố không chỉ hành quyết mọi người, nhưng chúng còn tìm những cách giết người kinh hoàng nhất.

Vẫn chưa khủng khiếp nhất, ISIS đã đặt mìn và đánh bẫy các căn nhà ở những nơi như Mosul để rồi người dân sẽ bị thương tích hoặc bị giết khi họ trở về nhà.

Điều gở là ISIS đang mất dần địa bàn ở Trung Đông, nhưng tiếp tục gieo rắc bất cứ nơi nào trên thế giới mà nơi đó không thể chống cự rộng rãi.

Annie Phan

Theo http://www.jewsnews.co.il/2017/02/02/horror-as-isis-kills-250-christian-children-by-kneading-them-to-death-in-bread-machine.html

Tự tử trong đồn công an, trong nhà tù: khó hay dễ?

Tự tử trong đồn công an, trong nhà tù: khó hay dễ?

Phạm Thanh Nghiên (Danlambao) – Trong vài năm trở lại đây, tình trạng công dân chết trong đồn công an, trong các nhà tạm giam, tạm giữ ngày càng phổ biến. Đây cũng là lý do mà năm 2014, Mạng Lưới Blogger Việt Nam thực hiện Tập tài liệu “Stop police killing civilians” trong đó tổng hợp các trường hợp người dân bị chết trong đồn côn an khoảng thời gian từ năm 2007 đến 2014.

Tập hồ sơ này cũng đang trở thành một trong những “vật chứng” để Cơ quan an ninh điều tra tỉnh Khánh Hòa cáo buộc Nguyễn Ngọc Như Quỳnh – một trong những sáng lập viên của MLBVN, vi phạm điều 88 “tuyên truyền chống nhà nước CHXHCNVN”. Blogger Mẹ Nấm- Nguyễn Ngọc Như Quỳnh bị bắt giam hôm 10/10/2016 chỉ vì những hoạt động ôn hòa cổ vũ cho nhân quyền, dân chủ, bảo vệ môi trường và toàn vẹn lãnh thổ.
Tập tài liệu “Stop police killiling civilians” đương nhiên vẫn được Mạng Lưới Blogger Việt Nam tiếp tục cập nhật dựa vào thông tin báo chí nhà nước và sẽ dịch ra tiếng Anh và tiếp tục phổ biến.

Trường hợp mới nhất xảy ra ở Nghệ An hôm 6/2/2017 là anh Nguyễn Thành Ngôn. Theo kết luận của công an thì anh Nguyễn Thành Ngôn đã dùng dây giày để treo cổ tự tử và chết trong đồn công an.

Từng là một tù nhân bị giam giữ trong hai nhà tù là Trại tạm giam Trần Phú và Trại 5 Thanh Hóa, cũng từng bị bắt nhiều lần vào đồn công an, tôi xin chia sẻ ngắn một vài chi tiết để giúp những người quan tâm đến vấn nạn công dân chết trong đồn công an, trong nhà tạm giam, tạm giữ đưa ra câu trả lời: Tự tử trong đồn công an, trong nhà tù: khó hay dễ?

Bước chân vào nhà tù (trại tạm giam, nhà tạm giữ), việc đầu tiên là bị khám người, hay còn gọi là kiểm tra thân thể xem “bị can”, “đối tượng”, “phạm nhân” có mang theo thứ gì không. Quy định nơi giam giữ là không được mang theo, tàng trữ, sử dụng vật cấm như chất nổ, chất phóng xạ, bom, mìn, vật sắc nhọn… cho đến những thứ tưởng rất bình thường như áo xu chiêng, dây- nơ-kẹp buộc tóc… đối với nữ, quần sịp đối với nam. Không được để móng tay, móng chân. Bàn chải đánh răng phải bị chặt gần cụt cán trước khi dùng. Không được dùng dây phơi quần áo, không được đi dày dép, quần áo không được có dải rút, không được đeo mắt kính (dù cận lòi ra), không đeo đồ trang sức, không được dùng dây thắt lưng… Tất cả những thứ như bát ăn cơm, ca cốc uống nước đều phải là đồ nhựa. Không được dùng đũa mà dùng thìa (muỗng) nhựa…

Lý do được nói là để các “đối tượng”, “bị can”, “phạm nhân” không có phương tiện để tự tử. Chưa kể việc các buồng tạm giam, tạm giữ được “canh phòng” rất cẩn mật, thậm chí gắn cả camera để kiểm soát mọi động thái của “đối tượng”. Đối với những buồng giam tập thể, cai tù còn phân công các tù nhân chia ca, thức đêm để gác, nhằm ngăn chặn những vụ tự tử có thể xảy ra. Nhưng không hiểu sao, các vụ tự tử, chết trong những nơi tạm giam, tạm giữ vẫn thường xuyên xảy ra và có xu hướng gia tăng.

Còn khi bị bắt vào đồn công an, điều đầu tiên là bị tước hoặc vô hiệu hóa các phương tiện liên lạc (có thể có ngoại lệ) của “đương sự”, “đối tượng”. Các vật cấm đã liệt kê ở trên như bom, mìn, chất nổ, chất phóng xạ, vũ khí v.v… đương nhiên phải bị tịch thu từ trước. Ối dời, nếu có mấy thứ ấy thì hoặc đã mất mạng, hoặc mọt gông vì tội khủng bố chứ chả chơi. Chỗ này nói thêm một tí, ở Việt Nam không có phong trào khủng bố của công dân đâu. Chỉ có…, à thôi- không nói nữa, lạc đề.

Tôi không dám chắc công an có áp dụng biện pháp tịch thu quần sịp, áo xu chiêng, dây- nơ, kẹp buộc tóc, dày dép, mắt kính, thắt lưng… đối với mọi “đối tượng” bị giải về đồn để tránh tự tử không hay không. Có một điều chắc chắn là cơ quan công an phải đảm bảo an toàn thân thể, tính mạng, sức khỏe tinh thần cho “đối tượng” để thứ nhất là bảo vệ nhân quyền của người đó (nghe chữ “nhân quyền” muốn khóc quá), thứ hai là bảo vệ công tác điều tra và cả cái thứ 3, thứ 4 nữa… Tất nhiên, bị bắt vào đồn công an cũng có nhiều thành phần. Ở đây, không đề cập đến thành phần “nhạy cảm” là những người hoạt động xã hội hay các người bảo vệ nhân quyền mà nói đến quy định chung được áp dụng cho mọi trường hợp bị bắt.

Với những quy định ngặt nghèo trên, theo bạn, việc tự tử trong đồn công an, trong trại tạm giam, nhà tù là dễ hay khó?
08.02.2017

Phạm Thanh Nghiên

danlambaovn.blogspot.com

Tấm Hình Vĩ Đại

Cám ơn bạn đã gửi cho tấm hình tuyệt đẹp. Với tôi, đó là tấm hình đẹp hơn tất cả mọi kỳ quan trên thế giới.  Các nhà thông thái trên thế giới đều đồng ý với nhà bác học  AMPERE, ý tưởng này:

“Con người chỉ vĩ đại khi quỳ xuống cầu nguyện với Thiên Chúa.”

TAM HINH VI DAI
Những ai trở về với Thiên Chúa, họ trở nên vĩ đại:  Thánh Augustine, Mađalenna, Phaolô … nhân loại nhắc đến sự vĩ đại của họ cho đến tận thế.

Ngược lại, những kẻ tiếp tục chối bỏ Thiên Chúa, họ sẽ chết tủi nhục trong sự kiêu ngạo và dại dột của họ.

Phaolô Thái 

*    *    *    *

Sự Diệu Kỳ

Một đêm khuya, lâu lắm rồi, tôi lang thang trên mạng và bất ngờ “tầm” được tấm ảnh anh chiến sỹ VNCH quỳ cầu nguyện giữa ngôi thánh đường đổ nát, hoang tàn, và tôi đã chia sẻ trên FB.
Bất chợt cách đây vài ngày, tôi nhận được một lời mời của một người hẹn gặp tại Bmt, và tôi đã đến.
Trong buổi gặp gỡ, tôi thật ngỡ ngàng đến sững sờ: người hẹn gặp tôi chính là anh chiến sĩ trong ảnh, Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, lúc đó anh mới ra trường, mang quân hàm Thiếu úy thuộc đội đặc nhiệm của Lữ đoàn Dù. Theo lời anh kể: Năm ấy, ngôi thánh đường La Vang, Quảng Trị sau một trận cuồng pháo của phía Bắc Việt nhưng cây thánh giá và tượng Đức Mẹ không hề bị một mảnh đạn pháo nào và một niềm tin vào Chúa, anh đã quỳ xuống… Tấm hình này hiện được trưng bày ở bảo tàng San Jose California USA.
Lời cuối cùng khi chia tay, anh nói: “Anh đạo Phật nhưng anh tin Chúa”.

Chị Nguyễn Kim Bằng gởi

DẤU CHÂN TRÊN CÁT

DẤU CHÂN TRÊN CÁT

 BS Phùng văn Hạnh

 Đêm nọ tôi có giấc mơ

thấy mình đi dạo dọc bờ biển xa

với Chúa Trời cầm tay cùng bước

từng cảnh đời tôi, lướt trên không

mỗi cảnh dấu chân song song

một của tôi, một sắt son chân Người

Nhưng khi toàn cảnh cuối đời

chớp lên trước mắt, nhìn lui quảng đường

ghi vết chân còn vương trên cát

tôi thấy nhiều quảng, loạt vết chân

không song đôi mà độc thân

Đó là những quảng gian nan, đọa đày

Tôi ngạc nhiên nên quay hỏi Chúa:

“Đã một lần Chúa nói với tôi

“khi con quyết chí theo Người

“Người sẽ đi với không rời nhau ra

“Nhưng con thấy tại sao những quảng

“đời chông gai mất hẳn song đôi

“chỉ còn vết chân một người

“con không hiểu sao Chúa rời bỏ con

“lúc mà con cậy trông Chúa nhất

Chúa trả lời:” con rất quí yêu

“Ta yêu con, đâu có điều

“rời bỏ khi con chịu nhiều khổ đau

“yếu nhược vì lao đao thử thách

“Ta đỡ con và vác trên vai

“cho nên có quảng đường dài

“in trên cát vết chân ta độc hành 

BS Phùng văn Hạnh

VÌ SAO CẢNG HÀNG KHÔNG TÂN SƠN NHẤT RA NÔNG NỖI NÀY?

From facebook:   Trần Bang shared Like cho VIỆT NAM‘s video.
Đất nước ta đã bao giờ được như thế này chưa?

( tổng bí lú nói)
Có như thế nào thế giới mới xếp TSN, HCM ăn cắp vào hàng đầu thế giới?

    “Sân bay Hàng không “Tân Sơn Nhất” ở Việt Nam dược xếp vào hạng…

“Tệ Nhất” Quốc Tế !…
“Trộm Cắp Nhất” thế giới !…” – Thang Luu Manh

VÌ SAO CẢNG HÀNG KHÔNG TÂN SƠN NHẤT RA NÔNG NỖI NÀY?

Phi trường TSN là cảng hàng không quốc tế INTERNATIONAL AIRPORT VIETNAM đại diện cho bộ mặt quốc gia khi khách quốc tế đến Du Lịch tham quan đất nước này…Thế nhưng không có phòng khách, chỗ ngồi để cho người chờ đợi đón tiếp khách bay cổng ra và không có khu phòng để cho khách đưa tiễn. Cả hai khu đón và đưa hàng lớp người đứng chen chúc ngoài hành lang trước cổng ra vào, sân bay thì xì xèo như một tổ ong.

Toilet, mùi nước tiểu bốc lên như….. . Nước giải khát và đồ ăn uống giá chặt chém cũng như các nhân viên cân hành lý thì hống hách, câu giờ để tỏ ra xin cho như khâu kiểm tra Hải quan ( customs). Khâu ra máy soi cửa phi trường, nhân viên hạch hỏi những câu hách dịch, mang theo bao nhiêu TIỀN?, có mang thuốc tây không?, bao nhiêu Rượu?…vv, cho dù đã qua máy soi nhưng vẫn hù dọa để moi TIỀN. Nhất là Việt kiều và người Châu Á ( 10 đến 20 USD) sẽ được qua nhanh mà không cần soi chiếu.

Thủ tục Công An xuất nhập cảnh thì câu giờ mặc dù đã có thị thực VISA hợp lệ ( hộ chiếu nước ngoài) nếu không bo TIỀN, nhất là Việt kiều và người Châu Á. Phải mất 20 đến 35 phút để kiểm tra an ninh và scan hộ chiếu vào dữ liệu. Trong khi cảnh sát xuất nhập cảnh ở các phi trường Châu Âu không mất quá 3 phút, scan hộ chiếu.

Đặc biệt vấn nạn trộm cắp tài sản trong hành lí của khách. Dù có nhiều cuộc họp bàn về cách ngăn chặn vấn nạn trộm cắp ở sân bay nhưng dường như ngành hàng không Việt Nam vẫn ” bó tay” với thực trạng này, bị quốc tế xếp hạng ” CẢNG HÀNG KHÔNG TỒI TỆ NHẤT THẾ GIỚI” đến nông nỗi này… thì quả là tệ hơn vợ thằng ĐẬU là quá chính xác.

ad: Sáng Nhũ

@TinTucVietHan

LỜI CHÚC HẠNH PHÚC ĐẦU XUÂN: TÁM MỐI PHÚC THẬT

LỜI CHÚC HẠNH PHÚC ĐẦU XUÂN: TÁM MỐI PHÚC THẬT

Tác giả:  Lm. Đan Vinh, HHTM

HIỆP SỐNG TIN MỪNG

LỄ ĐÓN GIAO THỪA ĐẦU XUÂN

Mt 5,1-10

  1. LỜI CHÚA:“Phúc thay ai có tâm hồn  nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3)
  2. CÂU CHUYỆN:

1) HẠNH PHÚC ĐÒI TA LUÔN PHẤN ĐẤU:

Vào một buổi sáng đẹp trời, chú cún con chạy đến bên mẹ và hỏi: 
– Mẹ ơi, hạnh phúc ở đâu?
Mẹ cún con mỉm cười đáp: 
– Hạnh phúc nằm ở chiếc đuôi xinh xắn của con đó!
Cún con thích lắm, ngày nào chú cũng ngắm nghía chiếc đuôi của mình, vừa nhảy vừa vẫy vãy chiếc đuôi! Nhưng rồi bỗng một hôm, chú cún con buồn bã chạy đến bên mẹ: 
– Mẹ ơi, tại sao con chẳng bao giờ nắm giữ được hạnh phúc vậy?
Mẹ khẽ vuốt ve cún con và đáp: 
– Chỉ cần con tự tin bước về phía trước, hạnh phúc sẽ tự đi theo con thôi!!!

2) HẠNH PHÚC Ở TRONG LÒNG CHÚNG TA:

Ngày xưa, có một bầy yêu tinh tập hợp lại với nhau để lên kế hoạch làm hại con người. Một con yêu tinh lên tiếng: “Chúng ta nên giấu cái gì quý giá của con người. Nhưng mà cái đó là cái gì?”

Một con yêu tinh khác lên tiếng: “Chúng ta nên giấu hạnh phúc của con người. Không có nó, ngày đêm con người sẽ phải khổ sở. Nhưng vấn đề là chúng ta sẽ giấu hạnh phúc nơi nào mà con người không thể tìm thấy được.”

Một con yêu tinh cho ý kiến: “Chúng ta sẽ quẳng hạnh phúc lên đỉnh núi cao nhất thế giới.”

Con yêu tinh khác phản đối: “Con người rất khỏe mạnh, chuyện trèo lên đỉnh núi đối với họ không có gì khó khăn.”

“Vậy thì chúng ta sẽ đem hạnh phúc ném xuống đáy biển sâu.”

“Không được, con người rất tò mò. Họ sẽ chế tạo ra những con tàu hiện đại để đi xuống tận đáy biển. Rồi tất cả mọi người sẽ biết.”

Một con yêu tinh trẻ có ý kiến: “Hay là chúng ta đem giấu hạnh phúc ở một hành tinh khác.”

Con yêu tinh già phản đối: “Không được, con người rất thông minh. Càng ngày họ càng thám hiểm nhiều hành tinh khác đấy thôi.”

Suy nghĩ hồi lâu, có một con yêu tinh già lụ khụ lên tiếng: “Tôi biết phải giấu hạnh phúc ở đâu rồi. Hãy giấu nó ở chính bên trong con người. Đa số con người đi tìm hạnh phúc ở khắp chốn, khắp nơi và bao giờ họ cũng thấy người khác hạnh phúc hơn mình. Bản thân họ thì chẳng bao giờ quan tâm. Giấu nó ở đó thì con người không bao giờ tìm thấy!!!”

Tất cả các con yêu tinh đều đồng ý. Và kể từ đó, rất nhiều người mãi miết kiếm tìm hạnh phúc mà không biết rằng nó được giấu ngay trong tâm hồn của chính mình.

3) NGƯỜI GIÀU CŨNG KHÓC:

PAUL GETTY là ông chủ một hãng dầu lớn nhất tại Anh Quốc. Khu đất ông ở rộng bốn mươi mẫu tây. Tài sản của ông trị giá hàng tỷ mỹ kim. Thế mà mỗi ngày ông đều phải thức dậy làm việc từ lúc ba giờ sáng. Chung quanh ông lúc nào cũng có tới mười cảnh sát bảo vệ. Mỗi ngày, ông nhận được hàng trăm cú điện thoại và những lời đe dọa ám sát… Ông đã phải thốt lên rằng: “Tôi là người chẳng bao giờ biết đến hạnh phúc!”.

  1. THẢO LUẬN: 1) Hạnh phúc thực sự là gì? 2) Làm thế nào để đạt được hạnh phúc thực sự trong cuộc sống hiện tại và mai sau?
  2. SUY NIỆM:

Năm cũ sắp qua nhường chỗ cho năm mới đang tới. Trong dịp này, chúng ta thường chúc cho nhau những điều tốt đẹp. Chẳng hạn: Chúc cho đông con nhiều cháu, phát tài phát lộc, khỏe mạnh sống lâu… Những lời cầu chúc thường qui về ba chữ: Phúc, Lộc, Thọ. Tóm lại là chúc nhau được hạnh phúc trong Năm Mới. Nhưng thế nào là hạnh phúc thực sự?

1) Hạnh phúc là gì?

Hạnh phúc là tình trạng thỏa mãn khi đạt được những điều mong ước mà người đời thường mong ước như Phúc, Lộc và Thọ. Tuy nhiên không nhất thiết cứ có đông con nhiều cháu, cứ sở hữu nhiều nhà cửa tiền bạc, chức cao quyền trọng hoặc được sống lâu trăm tuổi là đương nhiên có hạnh phúc… Vì lòng tham con người vô đáy như người đời thường nói: “Được voi đòi tiên”, “Đứng núi này trông núi nọ”…

Người ta cũng thường chúc nhau khỏe mạnh. Nhưng khỏe mạnh vẫn chưa phải là thứ hạnh phúc thực sự. Vì nếu sức khỏe là hạnh phúc, thì chắc hẳn những nhà lực sĩ sẽ hạnh phúc nhất. Thế nhưng, không phải như vậy. Bởi vì có những người dù đau yếu, sức khỏe èo uột, thế mà nụ cười vẫn tươi nở trên đôi môi, đang khi những nhà vô địch Ô-lim-pic có sức khỏe vô địch lại thường âu lo bị soán ngôi như người ta thường nói: “Cao nhân tất hữu cao nhân trị”.

Rất nhiều người đã mong ước kiếm nhiều tiền để được sống an nhàn như người ta thường nói: “Có tiền mua tiên cũng được: Đồng tiền là Tiên là Phật; Là sức bật của tuổi trẻ; Là sức khỏe của tuổi già; Là cái đà của danh vọng; Là cái lọng để che thân; Là cán cân của công lý; Là triết lý của cuộc đời”…

2) Hạnh phúc thực sự do đâu ?

Hạnh phúc thật sự không nhất thiết do tiền bạc, chức quyền, sắc đẹp, sức khỏe… dù rằng những điều đó đều là ưu điểm có thể mang lại cho chúng ta niềm vui trong một lúc nào đó. Vậy hạnh phúc đích thật ở đâu?

Thực ra: Con người chúng ta không những gồm thân xác mà còn có linh hồn nữa. Cơm áo gạo tiền hay tiền bạc vật chất, địa vị chức quyền, sắc đẹp, tài năng, sức khỏe, sống lâu…  chỉ đáp ứng được những nhu cầu về thể xác bên ngoài và không bền lâu, nên không mang lại hạnh phúc thực sự. Điều quan trọng để có hạnh phúc thực sự là một tâm hồn bình an, luôn tìm thấy niềm vui như Đức Ma-ri-a, sau khi được bà chị Ê-li-sa-bét ken là có phúc, đã dâng lời ca tụng Thiên Chúa: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa. Thần trí tôi hớn hở vui mừng vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi” (Lc 1,46-47).

Dù thân xác chúng ta có gặp những tai nạn rủi ro và những điều trái ý, nhưng người có đức tin vẫn luôn phó thác vào Thiên Chúa và gặp được niềm vui hạnh phúc trong sự nhẫn nhịn chịu đựng, quảng đại tha thứ chỏ kẻ thù ghết bách hại mình, như Phó tế Tê-pha-nô khi bị thù ghét ném đá sắp chết, vẫn mở miệng cầu xin: “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này” (Cv 7,60), hoặc như Đức Giê-su khi bị treo trên thập giá sắp chết đã cầu xin với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34).

Như thế, hạnh phúc chúng ta nhận được phải bắt nguồn từ Thiên Chúa là nguồn mạch mang lại hạnh phúc đích thực. Nơi nào có Chúa Giê-su hiện diện thì nơi ấy sẽ có sự bình an hạnh phúc như Người đã hứa: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi. Tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng. Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28-29).

3) Cho thì có phúc hơn là nhận (Cv 20,35):

Trong một buổi hội thảo về hạnh phúc gồm 50 người tham dự. Diễn giả khởi đầu bằng một hoạt động tập thể. Ông đưa cho mỗi người một quả bóng và yêu cầu họ viết tên của mình lên trái bóng bằng bút lông. Sau đó, số bóng được thu hết lại rồi bỏ sang một phòng khác.

Rồi 50 người này được tập trung tại phòng chứa bóng và được yêu cầu tìm quả bóng ghi tên của mình trong thời gian 5 phút. Mọi người đều lao vào giỏ xô đẩy nhau để tìm kiếm và căn phòng trở nên hỗn loạn, nhưng khi hết 5 phút mà không mấy ai tìm thấy trái bóng tên mình.

Sau đó, vị diễn giả lại yêu cầu mỗi người tự nhặt lên một quả bóng bất kỳ rồi tìm chuyển cho người có tên ghi trên bóng. Chỉ trong vòng 5 phút, ai nấy đều đã có được quả bóng của mình.

Lúc này, vị diễn giả mới dẫn vào đề tài về hạnh phúc: Trong cuộc sống, mỗi người đều hối hả đi tìm hạnh phúc của mình, nhưng thực ra lại không biết chúng nằm ở đâu.

Hạnh phúc của chúng ta nằm trong hạnh phúc của người khác. Hãy tìm cách làm cho người xung quanh có được hạnh phúc của họ, rồi chúng ta cũng sẽ được người khác mang lại hạnh phúc cho ta. Cũng như câu chuyện trên cho thấy: khi náo loạn đi tìm bóng mà không thấy. Họ chỉ cần trao bóng hạnh phúc cho kẻ khác là chính họ cũng sẽ tìm được hạnh phúc của chính mình. Hãy cứ cho đi rồi sẽ được nhận lại:  Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,38).

 

4) Phương thế để được hạnh phúc thực sự là sống Tám Mối Phúc:

Hạnh phúc không ở đâu xa, nó luôn ở trong lòng mình và ở bên cạnh mình. Có điều chúng ta quên điều này mà đi tìm ở nơi đâu khác và cuối cùng đã bị mất hạnh phúc.

Để luôn có hạnh phúc nghĩa là có Chúa ở cùng, là luôn có tình yêu của Chúa trong lòng mình. Muốn được như vậy, mỗi người chúng ta phải quyết tâm thực hành Tám Mối Phúc trong cách ứng xử quên mình vị tha, công bình nhân ái, như lời Chúa dạy trong Tin Mừng hôm nay: Sống khiêm hạ nghèo khó, luôn ứng xử hiền lành, chấp nhận con đường qua đau khổ vào vinh quang, luôn khát khao nên người công chính, có lòng chạnh thương những kẻ bất hạnh, có tâm hồn trong sạch, luôn ăn ở thuận hòa, sẵn sàng chịu bách hại vì sống công chính, chấp nhận bị sỉ nhục vì danh Chúa…

Niềm hạnh phúc của một tâm hồn luôn có Chúa ở cùng, cũng chính là niềm hạnh phúc mà chúng ta cần phải cầu chúc cho nhau trong giờ phút đón Giao Thừa và trong Năm Mới này. Dù chúng ta ít nhiều vẫn còn chịu đau khổ và gặp những điều trái ý, nhưng nếu thực sự có Chúa ở cùng, chắc chắn chúng ta vẫn cảm thấy vui mừng và hy vọng, bình an và hạnh phúc như thánh Phao-lô đã chia sẻ kinh nghiệm: “Tâm hồn tôi chứa chan niềm an ủi và tràn ngập nỗi vui mừng trong mọi cơn gian nan khốn khó” (2 Cr 7,4b).

  1. LỜI CẦU:

Lạy Chúa Giê-su. Xin cho chúng con quyết tâm thực thi tinh thần Tám Mối Phúc của Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay, thể hiện qua cách suy nghĩ, nói năng và cách ứng xử khiêm tốn, vị tha, luôn nhẫn nhịn chịu đựng, từ bi nhân hậu sẵn sàng tha thứ cho tha nhân noi gương Chúa khi xưa, để tâm hồn chúng con được bình an, vui vẻ từ ngày hôm nay, là dấu chỉ sau này chúng con cũng sẽ được hưởng an bình hạnh phúc trên Thiên Đàng với Chúa.- AMEN.

LM ĐAN VINH-HHTM