Cuộc Sống Không Bán Vé Khứ Hồi

Kimtrong Lam                                           

1. Không có gì chắc chắn rằng bạn sẽ làm một công việc đến hết đời, hay được một người yêu mãi mãi. Trong xã hội nhiều ồn ào này, bạn phải luôn trong tâm thế sẵn sàng tiếp nhận cái mới mà không thể thỏa hiệp.

2. Đừng phí phạm thời gian để tìm hiểu xem người khác đánh giá bạn như thế nào. Bạn không cần quan tâm đến họ, bạn chỉ cần làm tốt công việc của mình, sống một cuộc đời hạnh phúc và thoải mái. Kể cả nếu bạn có bận tâm đến những lời người khác nói về mình, bạn cũng không thể kiểm soát được hết chúng, vậy thì chẳng việc gì phải đánh đổi những giây phút quý báu của bản thân để nhận lấy những lời bàn tán vô nghĩa.

3. Cũng đừng ghét bỏ một ai đó làm gì. Bạn ghét người ta nhưng chắc gì người ta đã biết điều đấy. Như thế chỉ có mình bạn phải khó chịu mà thôi. Nếu đã không thích thì đơn giản là không tiếp xúc, không bận tâm, không để cho người ta có cơ hội lọt vào trong suy nghĩ của bạn.

4. Bạn không thể nào hạnh phúc nếu cứ để những thứ thuộc về quá khứ làm phiền cuộc sống hiện tại. Buông bỏ quá khứ khiến bạn có thể sống trọn vẹn và ý nghĩa hơn cho ngày hôm nay.

5. Khi còn trẻ còn khỏe, ai cũng có suy nghĩ phải tìm được một công việc thật tốt, nỗ lực hết mình vì nó để kiếm được nhiều tiền lo cho cuộc sống giàu sang hạnh phúc. Nhiều người đã chấp nhận đánh đổi cả gia đình, bạn bè, sức khỏe chỉ vì công việc. Nhưng đổi lại thì sao, khi bạn ốm đau, công việc trì trệ, sếp sẽ la mắng nhưng gia đình thì không bao giờ quay lưng lại với bạn. Kiếm tiền cũng tốt nhưng gia đình là điều vô giá mà không một đồng tiền nào có thể mua được.

6. Có rất nhiều chuyện, trước khi kịp quý trọng thì đã thành chuyện xưa. Có rất nhiều người, trước khi kịp để tâm thì đã thành người cũ. Cuộc sống không bán vé khứ hồi – mất đi vĩnh viễn không có lại được! Chúng ta đều già quá nhanh – nhưng sự thông minh lại đến quá muộn.

ĐẮC NHÂN TÂM

THEO CON ĐƯỜNG CHÚA GIÊ SU ĐÃ ĐI – Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

 (Suy niệm Tin mừng Luca (13, 22-30) Chúa nhật 21 thường niên năm C)

Sứ điệp: Đi đường hẹp là đường Chúa Giê-su đã đi để đến nơi vinh phúc mà Ngài đã đến.

*** 

Nếu có hai con đường dẫn đến thủ đô, một đường cao tốc rộng thoáng và một đường chật hẹp khó đi, tất nhiên ai nấy đều muốn chạy trên đường cao tốc.

Tuy nhiên, trong lĩnh vực tinh thần, muốn đạt tới quê trời, thì phải đi con đường chật hẹp, phải qua cửa hẹp mà vào. Vì thế, Chúa Giê-su dạy:

“Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.”

Chọn đường chật mà đi, chọn cửa hẹp mà vào như Chúa mời gọi thì thật là phiền toái, đòi hỏi nhiều hy sinh và theo lẽ tự nhiên, không mấy ai thích điều đó.

Tại sao không chọn đường rộng mà đi, không chọn cửa rộng mà vào cho thoải mái?

Chúa Giê-su cho ta câu trả lời:

“Vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy”. (Mt 7,13-14).

Qua lời nầy, Chúa Giê-su lưu ý chúng ta hai điều quan trọng

Thứ nhất, “Cửa rộng và đường thênh thang đưa đến diệt vong.”

Cuộc đời lão phú hộ được Chúa Giê-su nêu lên trong Tin mừng Lu-ca tiêu biểu cho hạng người chọn đi đường thênh thang rộng rãi. Hằng ngày ông chỉ biết hưởng thụ, ăn chơi, tiêu xài xa hoa phung phí… chẳng chút quan tâm đến anh La-da-rô khốn khổ đói khát đang ngồi ăn xin trước cổng nhà mình. Thế là sau khi từ giã đời nầy, ông phải trầm luân trong hỏa ngục (Lc 16,19-31).

Tương tự như thế, người đi đường rộng là người ham mê lạc thú đời nầy mà bỏ quên những người bất hạnh, là người tiêu xài phung phí mà chẳng biết chia cơm xẻ áo cho người thiếu thốn…

Chúa Giê-su báo cho biết sống như thế là đi đường rộng, là đường đưa đến diệt vong.

Thứ hai, “Cửa hẹp và đường chật đưa đến sự sống.”

Trong cuộc sống đời thường, Muốn đạt được bất cứ thành tích nào thì cũng phải kinh qua nhiều gian truân, khổ ải, phải kiên trì rèn luyện thường xuyên.

Muốn đoạt huy chương vàng hay bạc trong các cuộc thi đấu thể thao, các lực sĩ phải kiên trì luyện tập ngày đêm;

Muốn đạt thành tích cao trong học tập, nghiên cứu, học sinh và nghiên cứu sinh phải miệt mài học hỏi không ngừng…

Nói chung, trong bất cứ lĩnh vực nào, phải “cố công mài sắt mới có ngày nên kim.”

Còn những kẻ ngồi chờ thời, không ra công luyện tập, hy sinh, phấn đấu… thì chẳng đạt được thành tích nào và những ai “nằm há miệng chờ sung” thì chẳng được gì.

Trong lĩnh vực thiêng liêng, đi cửa hẹp là hy sinh, quên mình để phục vụ: Thay vì yến tiệc linh đình thì giảm bớt chi tiêu, chia sẻ cơm áo cho người nghèo đói; thay vì mua sắm những đồ tiêu dùng sang trọng xa xỉ mắc tiền thì biết tiết kiệm để giúp cho những người thiếu thốn. Đi đường hẹp là xoá bỏ cái tôi vị kỷ để sống vị tha sẵn sàng hy sinh phục vụ những người chung quanh mình.

Hôm nay, Chúa Giê-su kêu gọi chúng ta: “Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào” và Ngài khẳng định rằng những ai theo con đường chật hẹp nầy sẽ được cứu độ và hưởng phúc trường sinh.

Lạy Chúa Giê-su,

Mặc dù Ngài là Chúa tể quyền năng, nhưng khi hạ thân xuống thế làm người, Chúa đã chọn con đường hẹp, con đường hy sinh quên mình, con đường thập giá để cứu độ muôn dân.

Xin ban ơn giúp sức để chúng con bước theo chân Ngài, đi theo đường hẹp như Chúa để được hưởng phúc đời đời với Chúa trên thiên quốc. Amen.

Linh mục Inhaxiô Trần Ngà

****************

Tin mừng Lc 13, 22-30

22Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy.  

23Có kẻ hỏi Người: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” Người bảo họ:  24″Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.

  25″Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói: ‘Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào!’, thì ông sẽ bảo anh em: ‘Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến!’ 26Bấy giờ anh em mới nói: ‘Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi.’   27Nhưng ông sẽ đáp lại: ‘Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!’

 28″Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. 29Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa.   30″Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.”

From: ngocnga_12 & NguyenNThu


 

NỮ VƯƠNG – NỮ TỲ – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Triều đại Người sẽ vô cùng vô tận!”.

Nữ hoàng Mary, Scotland, thường đi thăm dân chúng một mình. Chiều kia, trời đổ mưa, bà ghé một ngôi nhà, “Cô có thể cho tôi mượn chiếc ô, ngày mai tôi sẽ trả?”. Cô chủ trao cho người lạ chiếc ô định vứt đi. Hôm sau, có tiếng gõ cửa; một cận vệ hoàng gia xuất hiện, “Nữ hoàng nhờ tôi cảm ơn cô đã cho bà mượn cái này”. Cô chủ sững sờ; sau đó, bật khóc, “Ôi, tôi đã bỏ lỡ một cơ hội – không trao cho nữ hoàng cái tốt nhất!”.

Kính thưa Anh Chị em,

Không ít lần chúng ta bỏ lỡ cơ hội “không trao cho Nữ Hoàng cái tốt nhất”, Nữ Hoàng ở đây chính là Mẹ Maria. Trong vinh quang hồn xác lên trời, Mẹ là ‘thành quả tối hậu’ của công trình cứu độ. Với triều thiên vinh hiển Chúa ban, Mẹ là ‘Nữ Vương’ thiên đàng nhưng cũng là ‘nữ tỳ’, là môn đệ và là ‘Ái Nữ’ của Đấng mà “Triều đại Người sẽ vô cùng vô tận!”.

Thánh Kinh trình bày Chúa Kitô như một vị Vua, nên mẹ Ngài là Hoàng Thái Hậu. Chúa Kitô là Vua với tư cách Thiên Chúa, nên Mẹ Ngài là ‘Nữ Vương’ bởi “huyết thống thần linh” trong tư cách Mẹ Đức Chúa Trời. Mẹ là ‘Nữ Vương’ bởi sự lựa chọn duy nhất của Chúa Cha. Nếu một người bình thường có thể trở thành vua hoặc nữ hoàng nhờ sự lựa chọn của dân chúng, thì sự lựa chọn của chính Chúa Cha còn vĩ đại hơn biết bao! “Phẩm giá vương giả của Maria phát xuất từ sự gắn bó độc nhất với Chúa Kitô, Con của Mẹ, Vị Vua thần linh!” – Bênêđictô XVI. Vương vị của Mẹ phát sinh từ vương vị của Con.

Đức Phanxicô trích dẫn Thánh Kinh ba lần để chứng tỏ Vương Quyền của Mẹ. Lời các ngôn sứ về Đấng Cứu Thế xem ra đều nói về một vị Vua, chẳng hạn, “Người sẽ mở rộng quyền bính, lập nền hoà bình vô tận cho ngai vàng và vương quốc của vua Đavít” – bài đọc một. Trong cuộc Truyền Tin, dù chỉ là một ‘nữ tỳ’, Mẹ được sứ thần báo trước về ngai vàng của Đấng Mẹ cưu mang, “Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đavít, tổ tiên Người!”. Sau cùng, vương vị của Mẹ được tìm thấy trong Khải Huyền, “Một người nữ mặc áo mặt trời, chân đạp mặt trăng, đầu đội triều thiên mười hai ngôi sao”; miêu tả Mẹ là ‘Nữ Vương mới’ chia sẻ quyền quản cai vũ trụ với Chúa Con. “Maria là Nữ Vương vì Mẹ là Mẹ của Vua các vua!” – Piô XII.

Anh Chị em,

“Triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận!”. Là Mẹ của Đấng vô cùng vô tận, nhưng Đức Maria cũng là Mẹ của mỗi người chúng ta. “Mẹ là người đầu tiên lãnh nhận trọn vẹn ân sủng, và là người luôn chuyển cầu cho chúng ta bằng trái tim của một người Mẹ!” – Lêô XIV.  “Hãy gõ cửa nhà Mẹ! Chúng ta không được tưởng tượng Đức Maria ‘như một bức tượng sáp bất động’, nhưng nơi Mẹ, chúng ta có thể nhìn thấy một ‘người chị’ với đôi dép mòn cùng biết bao mệt nhọc!” – Phanxicô. Riêng Fulton Sheen thì hài hước, “Chúa sẽ chào đón một người trên thiên đàng bằng những lời này: ‘Mẹ tôi nói rất tốt về bạn!’”. Vì thế, bạn và tôi đừng bao giờ bỏ lỡ cơ hội “không trao cho Nữ Hoàng cái tốt nhất!”.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Mẹ Maria, ‘Nữ Vương’ uy phép nhưng cũng là ‘Nữ Tỳ’ khiêm hạ, đừng để con vất vưởng như con mồ côi!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

***********************************************

Lời Chúa lễ Đức Maria Nữ Vương, 22/8, Thứ Sáu Tuần XX Thường Niên

Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.     Lc 1,26-38

26 Khi ấy, bà Ê-li-sa-bét có thai được sáu tháng, thì Thiên Chúa sai sứ thần Gáp-ri-en đến một thành miền Ga-li-lê, gọi là Na-da-rét, 27 gặp một trinh nữ đã thành hôn với một người tên là Giu-se, thuộc dòng dõi vua Đa-vít. Trinh nữ ấy tên là Ma-ri-a.

28 Sứ thần vào nhà trinh nữ và nói : “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ân sủng, Đức Chúa ở cùng bà.” 29 Nghe lời ấy, bà rất bối rối, và tự hỏi lời chào như vậy có nghĩa gì.

30 Sứ thần liền nói : “Thưa bà Ma-ri-a, xin đừng sợ, vì bà được đẹp lòng Thiên Chúa. 31 Này đây bà sẽ thụ thai, sinh hạ một con trai, và đặt tên là Giê-su. 32 Người sẽ nên cao cả, và sẽ được gọi là Con Đấng Tối Cao. Đức Chúa là Thiên Chúa sẽ ban cho Người ngai vàng vua Đa-vít, tổ tiên Người. 33 Người sẽ trị vì nhà Gia-cóp đến muôn đời, và triều đại của Người sẽ vô cùng vô tận.”

34 Bà Ma-ri-a thưa với sứ thần : “Việc ấy sẽ xảy ra thế nào, vì tôi không biết đến việc vợ chồng ?”

35 Sứ thần đáp : “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ toả bóng trên bà ; vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa. 36 Kìa bà Ê-li-sa-bét, người họ hàng với bà, tuy già rồi, mà cũng đang cưu mang một người con trai : bà ấy vẫn bị mang tiếng là hiếm hoi, mà nay đã có thai được sáu tháng, 37 vì đối với Thiên Chúa, không có gì là không thể làm được.”

38 Bấy giờ bà Ma-ri-a nói với sứ thần : “Vâng, tôi đây là nữ tỳ của Chúa, xin Người thực hiện cho tôi như lời sứ thần nói.” Rồi sứ thần từ biệt ra đi.


 

Từ Nam Phong tới Bách Khoa- Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Nguyễn Văn Lục

16/08/2025

  • Văn hóa và chính trị: thực chất hay huyền thoại

Chính trị là cái nhất thời của một thời kỳ. Văn hóa là cái tồn tại, kéo dài nhiều thế hệ.

Bài học trước đây với học giả Trương Vĩnh Ký, với Nguyễn Trường Tộ. Nay cái gì nơi họ còn để lai, cái gì còn, cái gì mất.

Sau này với Văn Cao, với Trịnh Công Sơn, với Phạm Duy cũng cùng một lẽ ấy. Cái gì còn đọng lại sau họ? Cái gì người ta còn nhớ và cái gì người ta đã quên?

Tóm lại cái gì là thực chất và cái gì chỉ còn là huyền thoại.

Phạm Quỳnh nằm trong giai đoạn những vòng xoáy lịch sử bắt buộc có những chọn lựa, hướng đi cho riêng mình và cho đồng loại và đâu là nỗi oan khiên?

Học giả Phạm Quỳnh vốn sinh thời cộng tác với Pháp với rất nhiều huyền thoại vây quanh như: huyền thoại khai hóa , huyền thoại  Pháp-Việt đề huề, trong đó đâu là sự thật đâu là giả?

Chúng ta cùng chờ xem.

Trong Nam Phong số 33 có đăng một bài luận thuyết dài của Tông đốc Thân Trọng Huề tri’ch đăng một lá thư  của Le Myre de Vilers, nguyên soái Nam Kỳ, gửi cho  Dục tôn để chứng minh người Pháp  không muốn xâm lăng Việt Nam. Nhưng vì triều đình Huế bất lực, trộm cướp hoành hành, quan lại tham ô, dân chúng thì lầm than nghèo khổ. Người Pháp dù không muốn chiến tranh, bắt buộc phải dùng những biện pháp thich nghi dùng võ lực chỉ vì bó buộc mà thôi”.

Cũng vậy, sở dĩ người pháp phải can thiệp qua những vụ sau này như Dupuis, Garnier, Rivière chỉ là ngẫu nhiên chứ nước Pháp không hề cố ý chiếm Việt Nam.

Phần De Courcy cho rằng sở dĩ Annam thua vì quân lính kém quá. Tây chỉ có 90 người mà lấy được thành Hà nội: “ Xưa nay chưa thấy ai đến nước người ta, có ít quân mà lấy được thành dễ như vậy. Nghĩ đến lúc đánh giặc ở Bắc Kỳ như trò chơi trẻ con, kẻ học sử không hiểu lúc bấy giờ tổ chức thế nào mà yếu đến thế.

Cũng vậy, Việc Tôn Thất Thuyết đưa Hàm Nghi đi trốn đêm mồng 4 tháng 7 là rất dở. Nước Nam đã ký hòa ước với Pháp sang bảo hộ nước Nam mà khi Toàn quyền De Courcy chưa kịp yết kiến vua thì vua đã bỏ chạy…

Phải chăng tất cả đây chỉ là những huyền thoại được người Pháp dựng lên?

Muốn hiểu thêm nhiều chi tiết, nhiều thảm cảnh, nhiều dấu ấn xã hội, xin mời đọc Pierre Loty phơi ba`y tất cả tâm lý của người thực dân lúc sang xâm chiếm  VN…. Ông đã tham dự vào các trận đánh ở Đà Nẵng, đổ bộ ở cửa Thuận Hóa trong cuốn sách L’ésotisme( những cảm nghĩ về lưu đầy.)

Trong một bài viết của Phạm Quỳnh nhan đề:” Essai Franco-Annamites. Un problème d’éducation des races à l’académie des sciences morales, juillet, 1922, Phạm Quỳnh phát biểu: Toàn thể giới thượng lưu Annam tín nhiệm ở nước Pháp và hơn nữa còn giao phó hoàn toàn việc học vấn cho nước Pháp coi sóc. Thật là cảm động và độc nhất trong lịch sử nhân loại, cử chỉ của cả một dân tộc phó thác số phận của mình cho một dân tộc khác.”.

Đây là một nhận đinh thực tế hay một tâng bốc hùa theo kẻ mạnh?

Chỉ biết rằng, nhiều người đã đánh giá Phạm Quỳnh là “theo Tây”:.

Việt Minh sau này đã sát hại  Phạm Quỳnh cùng với cha con ông Ngô Đình Khôi tại Huế cũng nằm trong cái tinh thần ấy.

Phần bài viết này, xin phép để vào trong ngoặc những thái độ, những phát biểu chính trị của Phạm Quỳnh và chỉ chú tâm đến những đóng góp về sinh hoạt văn hóa của ông.

  1. CON ĐƯỜNG TỪ NAM PHONG

Trong số Nam Phong 154, tháng chín 1930,  Phạm Quỳnh có dịch lại một bài viết của chính ông nhan đề: Ce que sera l’Annam dans cinquante ans ( An Nam sẽ ra sao sau năm mươi năm nữa ? ) đăng trong France-Indochine. Trong những điều mà Phạm Quỳnh mong mỏi cho một nước Việt Nam tương lai là có một nền giáo dục không phải chỉ đào tạo ra một số thầy thông thầy ký. Một lối học chỉ để “đi làm mướn” hoặc đi làm quan tước mà ông vốn không ưa.

Ông viết: “Người thanh niên An Nam bây giờ bập bẹ nói chút tiếng Pháp có thật đã văn minh, đã hấp thụ được nhiều Văn hóa hơn các cụ nho ngày xưa chưa?”

Và tấm lòng mong mỏi của ông cũng như người đi trước ông là Nguyễn Văn Vĩnh (tạp chí Đông Dương chỉ tồn tại có ba năm từ 1913-l916) là làm báo để dạy tiếng mẹ đẻ, viết tiếng mẹ đẻ cho con dân Việt.

Đó là một cái nhìn viễn kiến về tiền đồ văn hóa Việt đáng được trân trọng!!!

Cái tương lai mà Phạm Quỳnh mong mỏi và tiên đoán về tiếng Việt đã đạt được ngoài sự mong đợi của Phạm Quỳnh và của nhiều người.. Không phải đợi đến 50 năm sau mà chỉ sau 30 chục năm, tiếng Việt đã trở thành ngôn ngữ có chuẩn mực, được giảng dạy từ tiểu học, trung học và cả đại học.

Thành công đó có sự đóng góp rất nhiều của báo chí, trong đó có Nam Phong.

 Đó cũng là mục tiêu của bài viết này:

  • Hành trình từ báo Nam Phong đến Bách Khoa.
  • Và phải chăng Bách Khoa là điểm hẹn của con đường đi của chữ quốc ngữ, từ dạng thô sơ đến hoàn chỉnh? Ông Phạm Quỳnh ra làm báo Nam Phong từ 1917-1932 (Báo NP tiếp nối đến 1934), sau đó nhận chức Thượng thư bộ học ở Huế.

Trong vòng 15 năm làm báo, ông đã gây được một phong trào báo chí với một số cây bút như Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Đôn Phục, Nguyễn Mạnh Bổng, Nguyễn Tiến Lãng, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Trọng Thuật và đặc biệt có hai người trẻ tuổi là Đông Hồ và Tương Phố.

Sau này Đông Hồ và Tương Phố là gạch nối từ Nam Phong đến Bách Khoa. Cả hai đều viết và cộng tác với tờ Bách Khoa.

Câu chuyện như thể phải được coi là kỳ thú.

Chỉ chưa đầy 30 năm sau câu hỏi trông đợi của Phạm Quỳnh trở thành sự thực hiển nhiên.

Chữ quốc ngữ đã đi những bước chân của người khổng lồ.

Cần phải nhắc nhớ nhau rằng, thời của Trương Vĩnh Ký trong Nam, thứ chữ gốc La Tinh này đã có mặt, nhưng không ai chịu học cả. Phải ra lệnh ép người ta mới chịu học. Con đường đi của chữ quốc ngữ cũng nhiều gian nan, đánh dấu bằng những cột mốc lớn như có Gia Định báo, rồi truyện Kiều, Lục Vân Tiên được phiên âm sang chữ quốc ngữ. Chưa kể chương trình của Đông Kinh Nghĩa Thục kêu gọi hô hào hai điều: Cắt búi tó củ hành và học chữ quốc ngữ vào những năm 1907.

Rồi đoạn đường tiếp nối Nam Phong với sự ra đời của Tự Lực Văn Đoàn với Phong Hóa, Ngày Nay 1932-1940.

Nếu Phạm Quỳnh xây dựng chữ quốc ngữ với sự “phát hành ra hàng ngàn tiếng mới”, mở đường, xây dụng thì TLVĐ làm “phong phú, đơn giản” chữ Quốc ngữ.

 Chỉ có một điều bất công là TLVĐ đã mang  Phạm Quỳnh ra chế diễu đủ kiểu một cách rất rẻ tiền. Vì thế sau này đến lượt TLVĐ lại trở thành nạn nhân của nhóm Sáng Tạo?

Sau đó, có một khoảng trống văn học từ 1940-1954. Khoảng trống vì có chiến tranh Việt-pháp.

Trong Nam, sau 1955, có một sự bùng nổ văn học. Không có cuộc di cư của một triệu người, thử hỏi có thể nào có một sự bùng nổ văn học như thế không? Chắc là không. Cuộc di cư ấy gắn liền vào định mệnh cũng như tương lai lịch sử chính trị kinh tế, học thuật của miền Nam sau 1955.

Trong đó có báo chí.

  • Bùng nổ thứ nhất là tiếng Việt được giảng dạy từ tiểu học, trung học và sau này cả đại học. Bùng nổ thứ hai là báo chí được hồi thịnh đạt với rất nhiều báo chí ra đời. Báo chí đã có những thay đổi lớn lao khác xa thời của Phạm Quỳnh với các nhóm Sáng Tạo, rồi Bách Khoa.

Nếu sự nghiệp Nam Phong với Phạm Quỳnh là làm giàu thêm về tiếng Việt, về dịch thuật, về phổ thông, về học thuật, về tư tưởng Tây phương và khảo cứu về văn minh, chính trị nước Pháp. Sự nghiệp ấy có thể được nối tiếp sau này với tờ Bách Khoa vào năm 1957 với đầy đủ các kiến thức đủ loại: Từ văn chương đến nghệ thuật, đến khảo cứu phê bình, đến sử học và triết học Đông Tây…

Và xin trích dẫn lời nhận định của Vũ Ngọc Phan, trích lại từ Thế Kỷ 21, số 122, về  Phạm Quỳnh như sau:

 “Một người chỉ biết đọc quốc ngữ mà có khiếu thông minh có thể dùng tạp chí Nam Phong để mở mang học thức của mình. Trong lịch sử văn học hiện đại, người ta sẽ không thể nào quên được tạp chí Nam Phong vì nếu ai đọc toàn bộ tạp chí này cũng phải nhận là rất đầy đủ, có thể giúp cho người học giả một phần to tát trong việc soạn một bộ Bách khoa toàn thư bằng Quốc văn.”

Chính trong cái ý trên mà người viết bài này muốn nối kết lại con đường học thuật từ Nam Phong tới Bách Khoa.

 Phải nhìn nhận rằng con người Phạm Quỳnh đã làm được nhiều điều mà cộng chung tất cả những người cộng tác với ông cũng không thể so sánh bằng.

 Văn học, chính trị, chữ quốc ngữ thời Phạm Quỳnh giống như một cánh đồng với luống cầy vỡ đất. Phạm Quỳnh là người cầy xới mảnh đất đó lên và vun xới chăm sóc.

Và kể từ Phạm Quỳnh đến Bách Khoa, số phận văn học đã có những lúc nổi trôi cùng với số phận đất nước để sau cùng có được những điều như ngày hôm nay.

 Tôi chỉ biết kinh ngạc và cảm phục những nhà văn, nhà báo của thời kỳ Nam Phong cũng như Bách Khoa sau này.

Họ đã làm được những điều phi thường, đã đóng góp, xây dựng cho công việc này. Mặc dầu, những bài báo của Phạm Quỳnh còn nặng lối văn biền ngẫu, lý luận cũng  thiếu sắc bén mà cũng ngây ngô về những điều

mà bây giờ chỉ là những kiến thức khá sơ đẳng. Nhưng chúng vẫn có giá trị tinh thần của những người đi bước đầu. Khó lắm và cũng gian nan lắm.

  • CON ĐƯỜNG TIẾP NỐI CỦA BÁCH KHOA

Mục đích chính của bài viết này là nối kết chặng đường từ Nam Phong tới chặng đường Bách Khoa. Những gì Nam Phong chưa làm, Phạm Quỳnh chưa viết, hoặc chưa đủ điều kiện thực hiện, hoặc chưa phải lúc thì Bách Khoa và các tạp chí văn học khác đã làm được. Sau đây là những hiện thực đấng ghi lại

  • VỀ LÃNH VỰC TIỂU THUYẾT, THI CA

Phạm Quỳnh hầu như không để tâm mấy về lĩnh vực này. Trừ cuốn La Poesie Annamite ( Thơ An Nam ) xuất bản 1931. Từ cái thi ca

 Việt Nam trong Poésie Annamite này đến thứ thi ca của Nguyên Sa, Quách Thoại, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư là một cuộc vượt mốc. Chắc là khác xa nhau lắm.

 Đó là khoảng cách từ trái đất đến mặt trăng.

 Phần Phạm Quỳnh, ông chỉ viết về những bài du ký như truyện đi dự Đấu xảo ở Paris với Pháp du hành trình nhật ký, Mười ngày ở Huế hay Một tháng tại Nam Kỳ.
Riêng một tháng ở Nam Kỳ xem ra ông chưa thấu đáo về văn học Nam Kỳ mà sau này Nguyễn Văn Trung đã có công sưu tầm và viết cuốn sách: Lục Châu học.

 Sau này, theo sự tiết lộ của gia đình, ông đang viết dang dở một bản văn tìm thấy trên bàn viết sau khi ông bị Việt Minh bắt dẫn đi và được coi như tùy bút với nhan đề: Hoa Đường tùy bút. Thật ra gọi là tùy bút, nhưng đọc nội dung cho thấy đó chỉ là những Meditations (thiền định ), những suy niệm về cuộc đời, về lẽ sống ở đời hay về thế thái nhân tình hơn là thứ Tùy Bút theo nghĩa bây giờ.

 Nó không giống thứ tùy bút của một Nguyễn Tuân, của Mai Thảo, của Vũ Bằng và nhất là tùy bút hay tạp bút của Võ Phiến.

Thật ra, muốn làm giầu và phong phú cho tiếng Việt thì không thể không viết và đọc truyện, đọc thi ca, đọc tùy bút. Những công việc này không nhất thiết chỉ Bách Khoa đã làm mà hầu hết cáp tạp chí trong Nam, sau 1955 chú trọng đến phần Văn học, nghệ thuật dưới nhiều dạng thơ, văn, truyện, tùy bút.

Họ đã bỏ xa cái thời của Phạm Quỳnh.

Nhưng thơ văn, truyện, trong Bách Khoa cũng không hẳn là “mặt mạnh” của tờ báo, mặc dầu sau này, có các nhà văn như Phan Văn Tạo và trẻ như Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Mộng Giác, Thế Uyên v.v… Đặc biệt dưới dạng gọi là Tạp bút và tùy bút thì có sự đóng góp của Võ Phiến khá nhiều coi như thành công và xuất sắc của tờ Bách Khoa.

Ông có khoảng vài chục tùy bút như: Một ngày để tùy nghi, Cái còn lại, Mùa xuân con én, Nhớ làng, Những đám khói... Và Tạp luận như Vui buồn, Nhìn lại 15 năm Văn Nghệ Miền Nam, Đông Tây.

Võ Phiến có cái tỉ mỉ chi li từng sợi tóc, tế vi, nhẹ nhàng, không phấn son kiểu Mai Thảo. Nhưng có những nhận xét góc cạnh và sắc bén trong đó.

 Hay như Nguyễn Ngu Í, một trong những người viết nhiều cho Bách Khoa với nhiều bài viết, nhất là viết về những nhà văn, nhà báo. Sau này, ông tập trung tất cả những bài trên Bách Khoa in thành sách mang tựa đề Sống Và Viết. Khá là sinh động và trung thực. Viết có gói ghém một tấm lòng, dễ ưa mà đọc ông.

Nguyễn Hiến Lê thì đem ngôn ngữ Việt vào khắp chốn: từ giáo dục đến lịch sử đến văn chương, dịch thuật và cao chót là đến triết học.

  • VỀ MẶT BIÊN KHẢO

Thời kỳ Nam Phong đã có nhiều người cộng tác như quý ông Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Mạnh Bổng, Nguyễn Tiến Lãng-(con rể phạm Quỳnh) Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Đôn Phục và các nhà văn nhà thơ như Phạm Duy Tốn ( thân phụ nhạc sĩ Phạm Duy), Đông Hồ và Tương Phố.  Phạm Duy Tốn với truyện: Sống chết mặc bay..nổi bật về tính cách táo bạo và đạt tới hiện thực xã hội.)

Mặc dầu vậy, tên tuổi Phạm Quỳnh vẫn nổi bật trên tất cả những người cộng tác ở trên về mặt dịch thuật và biên khảo.

Theo nhà sử học Tạ Chí Đại Trường, cái vốn liếng ấy, cái vốn liếng học thức hơn người ấy của Phạm Quỳnh chỉ có được với 9 năm Phạm Quỳnh làm việc ở trường Viễn Đông Bác Cổ. Mặc dù đỗ đầu trường Hậu Bổ, năm 1908. Phạm Quỳnh đã không đi theo con đường hoạn lộ. Theo đường đó thì cụ Phạm Quỳnh sẽ rơi vào cái cảnh “sáng vác ô đi, tối vác về”. Hay tệ hơn như cụ viết, lối giáo dục của Tây chỉ đào tạo được các thầy thông, thầy phán ti toe mấy chữ tiếng Tây và “đi làm mướn”.

Và như lời nhận xét của Đoàn Văn Cầu về Phạm Quỳnh: “Kiến văn quảng bác của tiên sinh được hun đúc phần lớn ở trường Pháp Quốc Viễn Đông Bác Cổ” (Trích Tạ Chí Đại Trường, thế kỷ 21, số 122, tháng sáu 1999, trang 42).

 Sau này, 15 năm làm báo, Phạm Quỳnh đã dùng cái sở học chín năm của trường VĐBC giúp Phạm Quỳnh đi sâu vào các lãnh vực triết học, văn học, văn chương kim cổ. Và rất nhiều người đọc thời ấy đã là học trò của Phạm Quỳnh theo nghĩa đọc Nam Phong để có cơ hội mở mang thêm kiến thức.

Dĩ nhiên, nếu so sánh với những hiểu biết bây giờ thì công việc của Phạm Quỳnh chỉ là giới thiệu tổng quát trào lưu tư tưởng Tây Phương như các học thuyết của Rousseau 1712-1778. Montesquieu, 1689-1755. Voltaire 1694-1778.

Tôi tự đặt vấn đề là tại sao Phạm Quỳnh lại chọn các nhà tư tưởng như Rousseau, Montesquieu, Voltaire của thế kỷ 18? Có cổ quá không? Phải chăng chỉ vì những tư tưởng chính trị, xã hội của các nhà tư tưởng này thích ứng được cho xã hội, chính trị Việt Nam lúc bấy giờ? Khảo luận về Rousseau hay Montesquieu là tự mình lùi về hai thế kỷ ở đằng sau? Trong khi đó thì sau cách mạng 1789, nước Pháp về mặt tư tưởng đã bỏ xa những nền tảng triết lý, chính trị, giáo dục của Rousseau hay Montesquieu rồi.

 Ngoài ra, ông còn giới thiệu tư tưởng Đông Phương như Phật giáo, Khổng giáo v.v… Những tư tưởng đó cả ngàn đời vẫn là thế nên chẳng có thể làm gì khác được.

Nhưng dù thế nào, đối với thời ấy, phải nhìn nhận rằng, cái mặt mạnh, trổi bật của Phạm Quỳnh và Nam Phong, chính là phạm vi biên khảo học thuật.

 Nó giới thiệu các tư tưởng học thuật ấy đối với đa số bạn đọc còn mù mịt về thế giới Tây Phương. Và coi như là những khám phá mới, những bước khai sáng mở đầu.

 Nhiều bạn đọc đã hẳn coi tạp chí Nam Phong cũng như cụ Phạm Quỳnh là thày dạy cho cả một thế hệ.

Đã có một thế hệ Nam Phong. Thế hệ Phạm Quỳnh.

Cũng theo con đường đó, cái mặt mạnh nhất của Bách Khoa sau này là phần biên khảo.

  • Tờ Bách Khoa

Những người có công đầu trong tờ Bách Khoa là Huỳnh Văn Lang và Hoàng Minh Tuynh. Nhưng cũng để lọt một tay cộng sản nằm vùng lọt vào Bách Khoa. Tên y là Vũ Hạnh.

 Nhưng nay là biên khảo về những nhà tư tưởng, triết gia đương thời, thế kỷ 20 mà không phải thế kỷ 18 như trước đây nữa.

Cộng thêm là những biên khảo về đủ mọi mặt.

Có thể mặt trổi bật và mạnh nhất của Bách Khoa là lãnh vực triết học. Thứ triết học đã ảnh hưởng trên phạm vi tư tưởng, văn học một phần lớn thế hệ thanh niên thời ấy.

  • NGÀNH TRIẾT HỌC

Việc giới thiệu triết lý hiện sinh hay các thuyết cơ cấu luận, hiện tượng luận, tuy là rất mới mẻ đốí với Việt Nam, nhưng cũng đã kể là trễ so với bên Pháp. Vì những triết gia này đã nổi tiếng một thời ngay sau khi thế chiến thứ hai chấm dứt. Trễ gần hai chục năm. Nhưng có sao? Cũ người, nhưng mới ta là được rồi.

Lần đầu tiên các danh từ như nôn mửa, phản kháng, tù đầy, hư vô, tự thân, en soi, pour soi, tha nhân, thân phận, hỏa ngục, lưu đày, hữu hạn, vô hạn tràn ngập văn chương tiểu thuyết, nơi cửa miệng thanh niên thiếu nữ.

 Hai tác giả đóng góp nhiều hơn cả trên Bách Khoa là Nguyễn Văn Trung và Trần Thái Đỉnh. Nguyễn Văn Trung, người viết khỏe, sung sức với 50 bài viết đủ loại và Trần Thái Đỉnh 30 bài. Tất cả những bài viết đó thường liên quan đến những triết gia đại diện hàng đầu nhu J.P Sartre, Heidegger và nhà văn như A. Camus.

 Cao hơn một chút, có mhững bài biên khảo về thuyết Hiện tượng luận và Cơ cấu luận. Nhưng để hiểu được nội dung những cơ sở lý thuyết này, chắc người đọc cần kinh qua ngưỡng cửa đại học.

Nội dung những bài viết của Nguyễn Văn Trung có tính cách tản mạn triết học như Tự tử, Cần lao, Tình yêu trong tác phẩm kịch của G. Marcel, Trường hợp F. Sagan hay vấn đề luân lý trong tiểu thuyết, Cái nhìn hay đám cưới với cuộc đời, Chủ nghĩa hiện sinh (Trả lời phỏng vấn của Trần Thái Đỉnh).

Nội dung các bài viết của Trần Thái Đỉnh có tính cách trường ốc, sư phạm. Ông đã viết đều đặn liên tiếp mấy chục bài trên Bách Khoa như:

 Siêu Việt thể của Jaspers từ số 125-126-127. Sartre hay là thuyết Hiện sinh phi lý, số 132. Kierkegaard, ông tổ của triết học hiện sinh chính thức, số 117, 118. Tổng kết về phong trào Hiện sinh, số 135- 136.

 Những bài viết của Trần Thái Đỉnh đã giúp ích rất nhiều cho bất cứ ai muốn mon men vào lãnh vực triết học, hiểu được những nét cơ bản về các triết gia hiện sinh. Công của Trần Thái Đỉnh không phải là nhỏ đối với đa số bạn đọc.

Về triết Đông Phương tương đối còn mới mẻ trong đại học nên phần đông là sự đóng góp phần dịch thuật hoặc chú giải.

Có một số tác giả như Thu Giang Nguyễn Duy Cần, Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Hiến Lê… Sau này có Kìm Định viết rất nhiều về Triết Đông với một góc độ nhìn từ Triết Việt với các bộ sách khoảng 30 cuốn như: Cơ cấu Việt Nho, Nhân chủ, Những dị biệt giữa hai nền triết học Đông Tây, Sứ điệp trống Đồng và đặc biệt hai bộ Cửa Khổng và Chữ Thời. (Muốn đọc thêm thêm Kim Định, xin mời vào (dunglac.org)

  • VỀ KHOA NGÔN NGỮ

Chúng ta không thể ngờ rằng khoa ngôn ngữ học đã khởi xướng rất sớm với Trương Vĩnh Ký (1837-1898). Trước Nam Phong của Phạm Quỳnh cũng vài chục năm. Cho đến bây giờ, tôi vẫn tự hỏi bằng cách nào, Truơng Vĩnh Ký đã trở thành nhà ngôn ngữ học, một nhà bác học của Việt Nam? Ông là người đồng thời với những nhà ngữ học tài danh thế giới như F. de Saussure. Dựa vào sự nghiệp trước tác của ông cho thấy có đến 52 công trình viết của ông về ngôn ngữ, chiếm 43% công trình trước tác của ông.

Bẵng đi một khoảng cách gần 100 năm, chúng ta không có những người kế tục Trương Vĩnh Ký.

Tờ Nam Phong thì không ai đá động gì đến ngôn ngữ học.

Đó là một lỗ thủng văn học về ngôn ngữ học từ Nam Phong, kéo dài qua nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Kể cũng là điều kỳ lạ.

Sau này, ở miền Nam, chẳng biết do duyên văn học nào mà có một số không nhỏ các tác giả đi sâu vào lĩnh vực ngữ học.

 Thoạt đầu có thể là linh mục Lê Văn Lý có bằng tiến sĩ với tác phẩm Le Parler Vietnamien ( Nói tiếng Việt ), thập niên 1940-1950, giáo sư Đại học văn khoa Sài Gòn. Các vị khác nối đuôi theo đều cũng tự học như Trương Vĩnh Ký.

Đó là các quý ông Nguyễn Bạt Tụy, Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê, Lê Ngọc Trụ và  giáo sư Trần Ngọc Ninh, Giáo sư Nguyễn Đình Hòa, nhà văn Bình Nguyên Lộc.

Không viết cho Bách Khoa, nhưng có công trình khảo cứu về ngữ học phải kể thêm linh mục Nguyễn Hưng, nhất là linh mục Nguyễn Huy Lai.( thuộc Dòng Tên)

Đa số họ viết cho Bách Khoa, rồi ra sách với các công trình nghiên cứu như Khảo luận về ngữ pháp, Ngôn ngữ học Việt Nam, Bàn về tiếng Việt, về chính tả tự vị.

Mặc dầu là những đề tài chuyên môn, nhưng chịu khó mầy mò thì cũng có thể hiểu được đôi phần. Nhờ những công trình khảo cứu như thế, có thể coi tờ Bách Khoa như một thứ bách khoa tự điển bỏ túi.

  • VỀ LÃNH VỰC SỬ HỌC

Đây là môn học lâu đời nhất của Việt Nam. Nhiều bộ sách sử được viết ra kể không hết như: Sử Quốc triều chánh biên toát yếu, Hoàng Lê nhất thống chí, Đại Nam nhất thống chí, Đại Việt sử ký toàn thư, Phủ Biên tạp lục, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại Nam thực lực tiền biên, Gia Định thành thông chí, Đại Nam liệt truyện tiền biên…

 Có thể nói tắt một lời, sử học là ngành học lâu đời và phong phú với hằng trăm sách nghiên cứu, hằng trăm tác giả đủ loại. Chưa kể cũng đến hằng trăm sách sử mà tác giả phần lớn là người Pháp.

Phần sử học viết trong Nam Phong tạp chí cũng không nhìều. Quá ít nữa, gần như không được ghi chép lại. Nhưng tôi cũng tìm thấy được một số tài liệu trong phần phụ lục, viết bằng Hán Văn. Chẳng hạn viết về Ngọc Hân Công Chúa và qua Quang Trung trong Nam Phong số 103, số 177, số 111, năm 1926.

Sau này, ông Tạ Quang Phát đã phê dịch và được đăng trong Tập san Sử địa, số đặc biệt về Quang Trung.

Từ những tài liệu sử viết bằng chữ Hán, trong phần phụ trương của Nam Phong đến các sử liệu viết trên Bách Khoa có một khoảng cách lớn cả về số lượng bài vở lẫn số lượng tác giả.

Người đầu tiên tôi muốn nhắc tới là Nguyễn Thiệu Lâu, tốt nghiệp sử học ở Pháp, chuyên chú về nhà Tây Sơn. Sau này có những nhà sử học trẻ hơn mà tôi rất quý mến.

 Đó là truờng hợp Tạ Chí Đại Trường. Ông có trình luận án cao học với đề tài: Lịch sử nội chiến ở Việt Nam, từ 1771 đến 1802. Ông viết rất sắc bén, phân tích kỹ lưỡng. Ông viết chẳng những cho Bách Khoa mà còn cho Tập San sử địa cũng như tạp chí Đại Học.

Đây là mẫu điển hình của loại người có chân tài.

Xin được liệt kê một số bài của ông như: Vai trò cửa Nguyễn Huệ trong chế độ quân chính, Chiến thắng Nguyễn Huệ trước viện binh Trung Hoa, Dân Đại Việt ở cuối thế kỷ 18, Góp thêm về phổ hệ Tây Sơn và chân dung anh em họ.

Ngoài Tạ Chí Đại Trường không thể quên một tên tuổi có vẻ xa lạ đối với độc giả người Việt.

 Đó là ông Chen Ching Ho, tên Việt là Trần Kinh Hòa. Tôi không chắc là ông có viết cho Bách Khoa không? Ông viết rất nhiều dựa trên văn bản như: Khảo cứu về danh xưng Giao Chỉ, Làng Minh Hương và phố Thanh Hà thuộc tỉnh Thừa Thiên, Kẻ chợ, Thành trì Chí của Trịnh Hoài Đức.

Đối với giới sử học miền Nam, chắc hẳn ông là người được kính nể không ít.

Tôi cũng nhận ra ở miền Nam, có một xu hướng viết sử trân trọng, cổ súy Quang Trung Nguyễn Huệ trong đó có các tác giả Hoàng Xuân Hãn với La Sơn Phu Tử, Hồ Hữu Tường, Tô Nam Nguyễn Đình Diệm, Tạ Quang Phát, Đặng Phương Chi, Phạm Văn Sơn… Và sau này, tôi cũng thấy xu hướng viết về Tây Sơn tương tự như vậy ở miền Bắc.

Thứ đến, tôi có cảm tưởng môn sử học là nơi ra vào của bất cứ ai, không cứ là nhà sử học. Vì thế có thể thấy tên những tác giả như Nguyễn Đăng Thục, Vương Hồng Sển, Hoa Bằng, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Khắc Kham, Lê Ngọc Trụ, Phan Văn Luận, Bửu Cầm, Bình Nguyên Lộc, Sơn Nam va` ngay cả thi sĩ Quách Tấn, Đông Hồ.

Nhân tiện đây, chúng tôi xin được một lần nêu danh tính tất cả các tác giả đã một thời đóng góp cho ngành sử học ở Việt Nam, kể từ sau 1955, bất kể là họ đã viết cho Bách Khoa hay không? Có thể tên tuổi họ còn thiếu sót.

Đó là Tạ Chí Đại Truờng, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Thế Anh, Bửu Cầm, Phan Khoang, Lâm Thanh Liêm, Phạm Văn Sơn, Thái Việt Điểu, Phạm Cao Dương, Trần Anh Tuấn, Quách Thanh Tâm, Nguyễn Khắc Ngữ, Đặng Phương Nghi, Nguyễn Huy, Phạm Long Điền, Trần Quốc Giám, Lê Thọ Xuân, Tô Nam, Lê Văn Ngôn, Bửu Kế, Nguyễn Văn Dương, Linh mục Nguyễn Phương, Nguyễn Khắc Xuyên, Mai Chưởng Đức, Nguyễn Sao Mai, Chen Chin Ho hay Trần Kinh Hòa, Hồ Hữu Tường, Nghiêm Thẩm, Ưng Trình, Phạm Văn Diêu, Nguyễn Như Lân, Tiên Đàm Nguvễn Tường Phượng, Nguyễn Như Lân, Thích Thiện Ân, Nguyễn Khắc Kham, Tạ Trọng Hiệp, Nguyễn Trần Huân, Lê Văn Hảo, Lê Hữu Mục, Tô Nam, Trần Nhân Thâm, Nhất Thanh, Lê Hương, Hãn Nguyên, Đào Duy Anh, Ưng Trình, Lê Thọ Xuân, Nguyễn Nhã, Nguyễn Văn Hầu, Phù Lang Trương Bá Phát, Nguyễn Bá Thế, Lưu Hải Nam, Trần Trọng Kim, Lãng Hồ, Lê Thanh Cảnh, Lê Thành Khôi, Trương Bá Cần.

Và có thể còn nhiều tác giả khác mà chúng tôi đã thiếu sót không ghi chép đủ. Một phần dựa vào Tập san Sử Địa. Cũng do khoảng cách chính trị, chúng tôi thực sự không được biết nhiều đến các người viết sử miền Bắc.

Sự liệt kê danh sách nhiều người viết sử như thế chứng tỏ rằng thời kỳ Nam Phong tạp chí đã bị bỏ qua rất xa đến không ngờ được.

  • VỀ LUẬT PHÁP

Đây cũng là ngành khá mới mẻ mà thời kỳ báo Nam Phong hầu như không có một ai có sách vở, tài liệu nghiên cứu. Xin được vắn tắt một vài vị như quý ông Trần Thúc Linh và đặc biệt là quý ông Lê Tài Triển và Nguyễn Toại. Hình như ngoài đời, chức vụ của họ đều là thẩm phán cả.

Riêng ông Lê Tài Triển là người mà tôi nhớ nhiều nhất với bài viết về vụ án cầu Rạch Hào liên quan đến vụ tai nạn lật xe chết người trên đường Sài Gòn đi Vũng Tầu, liên quan đến con gái của ông triệu phú Nguyễn Đình Quát. Ông còn viết các bài như: Cá nhân đứng trước pháp luật, Nạn nhân với tố quyền của nạn nhân.

  1. TỔNG KẾT BÀI THAM LUẬN TỪ NAM PHONG TỚI BÁCH KHOA

Con đường học thuật chẳng khác gì con đường Nam tiến. Từng bước, từng chặng đường lịch sử mà chúng ta đã đi qua. Nó đánh dấu những thăng trầm, những ngưng đọng cũng như những tiến bộ không ngừng.

Công khó là của nhiều người.

Nếu thời kỳ báo Nam Phong, xin mượn lời Thanh Lãng: ca tụng Nam Phong tạp chí là một bộ Bách Khoa tự điển, kết hợp được tất cả tư tưởng mọi ngành từ khoa học đến văn chương và là tờ văn học có ảnh hưởng lớn nhất từ trước đến nay. Và rồi còn quy tụ được tất cả những nhà văn hóa thời danh của đầu thế kỷ XX mà người đứng đầu là Phạm Quỳnh.

Tất cả những mỹ từ ấy chỉ cần chuyển hai chữ Nam Phong thành Bách Khoa thì đều đúng cả.

Vì thế, con đường từ Nam Phong đến Bách Khoa là con đường thẳng, một chiều. Cái gì ở Nam Phong không có thì Bách Khoa có hết, mà có hơn bội phần, có dồi dào và phong phú. Chỉ có vấn đề danh xưng là khi nói đến Nam Phong, người ta liên hệ trực tiếp ngay tới Phạm Quỳnh. Điều đó trở thành lúng túng và dè dặt hơn trong trường hợp của tờ Bách Khoa. Nhưng dù là một người hay nhiều người thì Bách Khoa vẫn là một thứ Bách khoa toàn thư cho bất cứ ai muốn mưu cầu mở mang kiến thức.

Bách Khoa là một bộ sách dạy cho bất cứ ai khi rời khỏi ghế nhà trường.

Nó là sự kéo dài từ trường học ra đến trường đời.

Nó là thứ trường học liên tục, cập nhật và bổ túc cho những gì còn chưa đủ của truờng học.

 Cái gì chưa học ở nhà truờng thì học ở đây.

Một người anh của tôi thú nhận rằng: ngoài vốn liếng chuyên môn dành cho một y sĩ mà ông học ở trường Y khoa, hầu như tất cả vốn liếng kiến thức đủ thứ còn lại, ông đều nợ tờ Bách Khoa cả.

Một thú nhận khiêm tốn mà không thiếu phần hãnh diện.

 Điều đó nói lên rằng, tờ Bách Khoa đã thực sự đóng góp cho nhu cầu văn hóa, học thuật cho tất cả tầng lớp thanh niên trí thức miền Nam như một hành trang giúp họ vào đời.

Miền Bắc đã không có được điều đó.

Cho nên sẽ không lấy gì làm lạ về sự tồn tại, có mặt lâu dài như thế của tờ Bách Khoa. Bởi vì hơn bất cứ tờ báo nào, nó đáp ứng đầy đủ cho nhu cầu hiểu biết của một người.

Một điều nữa cần hiểu rằng sách vở chuyên ngành, sách vở khảo cứu của chúng ta chưa có đầy đủ, người viết cũng không có. Báo chí như Bách Khoa thay thế vai trò của sách vở, giải quyết tạm thời sự thiếu thốn ấy.

Vì thế, vai trò báo chí trong sự mở mang học thuật, kiến thức là điều cần thiết, cấp bách không có không được.

Hiểu được như thế mới thấy vai trò của Nam Phong cũng như Bách Khoa quan trọng như thế nào. Con đường học thuật đi từ Nam Phong đến con đường của Bách Khoa là con đường Nam tiến mà chúng ta nên hãnh diện.


 

NỖI BUỒN LỚN NHẤT CỦA TUỔI GIÀ !

Có một người con kể:

“Tôi mua cho mẹ một chiếc điện thoại thông minh. Mẹ nhờ tôi hướng dẫn. Tôi chỉ cho mẹ những chức năng cơ bản, rồi quay lại bàn làm việc.

Một lát sau, mẹ vào hỏi lại. Tôi chỉ tiếp.

Rồi khi tôi đang xoay xở với cả đống việc, mẹ lại hỏi thêm. Lần này, tôi bắt đầu khó chịu.

Cuối cùng, mẹ thở dài: ‘Điện thoại này phức tạp quá, chắc mẹ không dùng được đâu’.

Tôi đáp vội: ‘Tùy mẹ, mẹ muốn thế nào cũng được’.

Khuya hôm ấy, tôi nhận được tin nhắn:

‘Con à, mẹ đã già, hay quên lắm. Nhiều khi mẹ còn chẳng nhớ mình vừa nói gì. Con đừng trách mẹ nhé.’

Tôi đọc mà mắt cay xè. Mẹ không nói trực tiếp, chắc vì sợ tôi cáu. Mẹ sợ làm phiền, sợ tôi mệt.

Từ hôm ấy, mẹ không hỏi nữa. Bà tự mày mò, lặng lẽ, chậm chạp… và chắc hẳn gặp không ít khó khăn.”

Người con ấy chợt nhận ra: thái độ nóng nảy của mình đã vô tình gửi đi một thông điệp đau lòng – rằng mẹ đã già, đã lẩm cẩm, đã phiền hà, đã vô dụng.

Khi chúng ta còn bé, cha mẹ là người biết tất cả, mạnh hơn tất cả. Họ như hai ngọn núi sừng sững, che chở con khỏi bão giông.

Nhưng rồi một ngày, những ngọn núi ấy bắt đầu lùi thấp xuống – không phải vì họ muốn, mà vì sức lực không còn như xưa.

Tuổi già đến, trí nhớ hao mòn, tay chân chậm chạp, mắt mờ tai kém. Những việc đơn giản với chúng ta – với họ lại trở thành thử thách.

Nhưng điều làm họ buồn nhất không phải là sức khỏe, mà là cảm giác mình đang dần “làm phiền” chính những đứa con mà cả đời mình đã nuôi lớn.

Họ bắt đầu ngại hỏi, ngại nhờ, ngại than phiền.

Ngại cả việc gọi điện lâu vì sợ con bận.

Ngại kể chuyện buồn vì sợ con lo.

Ngại hỏi đi hỏi lại vì sợ con khó chịu.

Và rồi, họ chọn im lặng.

Nhưng im lặng đâu phải vì không có gì để nói.

Chỉ là họ sợ mình không còn đủ chỗ trong cuộc sống của con.

Người trẻ thường quên rằng, suốt bao năm thơ ấu, cha mẹ đã kiên nhẫn trả lời hàng trăm câu hỏi “vì sao” của mình – từ chuyện vì sao bầu trời xanh, cho đến vì sao mặt trăng theo con về nhà.

Họ không bao giờ thấy phiền, dù câu hỏi ngây ngô đến mức nào.

Vậy mà khi họ già đi, chỉ hỏi lại một điều đơn giản thôi, chúng ta đã thấy “phiền”.

Chúng ta quên mất rằng, câu trả lời của mình hôm nay không chỉ giải đáp một thắc mắc, mà còn cho họ biết: họ vẫn còn được lắng nghe, vẫn còn quan trọng.

Nếu hôm nay cha mẹ bạn vẫn còn, hãy kiên nhẫn hơn một chút.

Khi họ hỏi lại điều bạn đã nói, hãy nhớ: đó là cơ hội để bạn làm lại một điều tử tế.

Khi họ chậm chạp làm điều gì, hãy nhớ: từng bước đi đầu tiên của bạn cũng chậm chạp như thế, và chính họ đã kiên nhẫn chờ bạn.

Sẽ đến lúc, bạn muốn bị hỏi lại, cũng không còn ai để hỏi.

Sẽ đến lúc, bạn muốn dặn dò ai đó đi đường cẩn thận, cũng không còn người để dặn.

Và khi ấy, bạn mới hiểu, nỗi buồn lớn nhất của tuổi già không phải là bệnh tật, mà là cảm giác mình không còn chỗ đứng trong trái tim con cái.

From: ngocnga_12 & NguyenNThu


 

CON ĐẾN -Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Ngài!”.

“Vâng lời tức khắc là vâng lời thật nhất; vâng lời trì hoãn là không vâng lời!” – Thomas Kempis.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa và Thánh Vịnh đáp ca hôm nay – “Này con xin đến!” – cho thấy những con người vâng lời tức khắc và những con người trì hoãn – không vâng lời. Đó là những con người sẵn sàng thưa ‘Con đến!’ và những người lần lữa, ‘Con không thể đến!’.

Bài đọc một ghi lại chiến công của Gíptác – người thề với Chúa – nếu Chúa cho ông thắng trận, thì khi trở về, người nào đón ông trước nhất, sẽ là của lễ toàn thiêu dâng Ngài. Thương ôi! Đó là con gái một của ông. Cô xin cha hai tháng để cùng bạn bè than khóc tuổi xuân; đến hẹn, cô về nhà, hiến mình làm của lễ dâng Chúa. “Vâng phục chính là bàn thờ nơi tình yêu được minh chứng!” – Fulton Sheen. Như vậy, cùng cha, quý nữ của Gíptác đã thưa lên ‘Con đến’ làm lễ dâng trên bàn thờ vâng lời!

Dụ ngôn Tin Mừng kể ra những người được mời trì hoãn và cuối cùng, từ chối tiệc cưới hoàng tử. Ở đây, thể hiện ‘hai mức độ’ từ chối Phúc Âm trong thế giới. Trước hết – sự thờ ơ! Nhịp sống ngày nay khiến con người quá bận rộn, bận nhiều thứ không đâu vào đâu: bận lướt điện thoại, bận chầu ‘quái vật một mắt’ – tivi, bận ‘nghiện việc’. “Nếu ma quỷ không làm chúng ta nên xấu, nó sẽ làm chúng ta bận rộn!” – Corrie ten Boom. Từ đó, chúng ta dành quá ít thời giờ cho những việc quan trọng nhất như gia đình, cầu nguyện và phục vụ. Kết quả, con người trở nên thờ ơ với các vấn đề đức tin, thờ phượng, dấn thân mà nhờ đó, làm điều Chúa muốn và có thể thưa lên, ‘Con đến!’.

Một ngăn cản khác khiến Kitô hữu ngại dấn thân, từ chối niềm tin chính là sự thù địch Giáo Hội ngày càng tăng; thế giới ‘ít Chúa’ liên tục cổ vũ một nền ‘văn hoá nghịch Tin Mừng’. Bên cạnh đó, ở đây ở kia, xảy ra những ồn ào nổi cộm phân hoá sự hiệp nhất giữa chủ chăn và đoàn chiên, giữa Linh mục với Giám mục. Từ đó, Kitô hữu hoang mang, nghi ngờ về một Giáo Hội duy nhất, thánh thiện và tông truyền vốn nay chỉ như một ‘cơ chế thế gian’. Hệ luỵ này còn tai hại hơn so với sự thờ ơ nói trên! Với những gì ‘tai tiếng’ như thế thì làm sao mỗi người có thể thưa lên ‘Con đến?’ và làm sao nói đến truyền giáo? “Chia rẽ trong Giáo Hội là kiệt tác của ma quỷ!” – Charles Spurgeon.

Anh Chị em,

“Này con đến!” phải là lời đáp đích thực của mỗi tín hữu. Bởi lẽ, trong khi nhiều người trì hoãn, để mình cuốn vào những bận rộn, thờ ơ hoặc nghi ngờ trước những chia rẽ, thì Thiên Chúa vẫn chờ một lời thưa trọn vẹn của bạn và tôi. Vâng lời không phải là mất mát nhưng là bàn thờ tình yêu. Chính nơi thái độ sẵn sàng ấy, chúng ta khám phá niềm vui và tự do sâu thẳm. “Vâng lời là con đường dẫn đến tự do, khiêm nhường là con đường dẫn đến niềm vui!” – C.S. Lewis. Vì thế, mỗi ngày, chỉ cần bạn và tôi thưa một lời đơn sơ, “Con đến!” cũng đủ làm đẹp lòng Chúa, đổi thay đời mình, đổi thay thế giới.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, ‘con đến’, không để thưa điều con muốn, nhưng để lắng nghe điều Ngài muốn cho đời con!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

********************************************

Lời Chúa Thứ Năm Tuần XX Thường Niên, Năm Lẻ

Gặp ai, anh em cũng mời hết vào tiệc cưới.

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.     Mt 22,1-14

1 Khi ấy, Đức Giê-su dùng dụ ngôn mà nói với các thượng tế và kỳ mục trong dân rằng : 2 “Nước Trời cũng giống như chuyện một vua kia mở tiệc cưới cho con mình. 3 Nhà vua sai đầy tớ đi thỉnh các quan khách đã được mời trước, xin họ đến dự tiệc, nhưng họ không chịu đến. 4 Nhà vua lại sai những đầy tớ khác đi, và dặn họ : ‘Hãy thưa với quan khách đã được mời rằng : Này cỗ bàn, ta đã dọn xong, bò tơ và thú béo đã hạ rồi, mọi sự đã sẵn. Mời quý vị đến dự tiệc cưới !’ 5 Nhưng quan khách không thèm đếm xỉa tới, lại bỏ đi : kẻ thì đi thăm nông trại, người thì đi buôn, 6 còn những kẻ khác lại bắt các đầy tớ của vua mà hành hạ và giết chết. 7 Nhà vua liền nổi cơn thịnh nộ, sai quân đi tru diệt bọn sát nhân ấy và thiêu huỷ thành phố của chúng. 8 Rồi nhà vua bảo đầy tớ : ‘Tiệc cưới đã sẵn sàng rồi, mà những kẻ đã được mời lại không xứng đáng. 9 Vậy các ngươi đi ra các ngả đường, gặp ai cũng mời hết vào tiệc cưới.’ 10 Đầy tớ liền đi ra các nẻo đường, gặp ai, bất luận xấu tốt, cũng tập hợp cả lại, nên phòng tiệc cưới đã đầy thực khách.

11 ‘Bấy giờ nhà vua tiến vào quan sát khách dự tiệc, thấy ở đó có một người không mặc y phục lễ cưới, 12 mới hỏi người ấy : Này bạn, làm sao bạn vào đây mà lại không có y phục lễ cưới ?’ Người ấy câm miệng không nói được gì. 13 Nhà vua liền bảo những người phục dịch : ‘Trói chân tay nó lại, quăng nó ra chỗ tối tăm bên ngoài, ở đó người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng ! 14 Vì kẻ được gọi thì nhiều, mà người được chọn thì ít’.”


 

Bài điếu văn tiễn biệt mẹ hiền thật cảm động

Nhuan Le is with AnhPhu VanLy.

(Hải, con chị Tiềm ở Mira Mesa hơn 10 năm trước .

Bài viết của Con HO-VN .

bài điếu văn thật cảm động,  thật khó cầm được nước mắt.

Điếu văn mẹ:

Con xin phép cúi đầu trước linh cữu Mẹ bày tỏ lòng tri ân sinh dưỡng và nói đôi lời tiễn biệt.

Tuần vừa qua, khi tiếng chuông trường vang lên báo hiệu một năm học mới, lòng con bỗng bồi hồi nhớ đến đoạn văn trong truyện ngắn Tôi đi học của nhà văn Thanh Tịnh — tác phẩm mà mỗi mùa khai giảng Mẹ vẫn ân cần đọc cho học trò nghe.

Câu văn ấy giờ lại vang lên trong ký ức:

“Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp.”

Ngày ấy, không chỉ trên trang sách… Mẹ cũng đã nắm tay con như thế trong buổi đầu tiên đến lớp, rồi tiếp tục nắm tay con suốt bao năm tháng cắp sách đến trường.

Từ buổi đầu đời, bàn tay Mẹ đã nâng con trong vòng tay ấm áp; từ những bước chập chững đầu tiên, Mẹ dắt con qua từng con đường làng, qua cổng trường, qua tuổi thơ, qua những mùa nắng, mùa mưa.

Bàn tay ấy không chỉ dìu con qua những con đường, mà còn dắt con qua cả những tháng ngày thử thách; không chỉ nâng con dậy khi vấp ngã, mà còn âm thầm che chở khi giông gió bất chợt ập về.

Và rồi… đến giây phút cuối cùng, bàn tay Mẹ vẫn truyền hơi ấm, như sợ con chông chênh giữa dòng đời.

Ngày con cất tiếng khóc chào đời, Ba không thể ở bên vì còn bị giam cầm trong lao tù cộng sản.

Hơn một tháng tuổi, con đã theo Mẹ đến vùng đất Hội An lập nghiệp.

Xa gia đình, không người thân giúp đỡ, Mẹ một mình gồng gánh: vừa nuôi con, vừa dành dụm để thăm nuôi chồng suốt tám năm dài đằng đẵng.

Ngoài đồng lương ít ỏi của nghề giáo, lại luôn bị chèn ép vì là vợ của một sĩ quan chế độ cũ đang trong tù, Mẹ xoay xở đủ đường: nấu khoai, luộc sắn đem bán, tằn tiện từng đồng mua sữa, mua bột cho con, rồi gói ghém mang vào thăm Ba.

Bao nhiêu nước mắt Mẹ lặng lẽ nuốt vào lòng, bao nhiêu đêm Mẹ nhịn phần ăn, chỉ mong con được no lòng, ấm dạ.

Con vẫn nhớ chiếc xe đạp cũ kỹ, nơi yên sau là cả tuổi thơ con nép mình.

Mỗi buổi sớm, Mẹ chở con đến trường, đặt con ngồi một góc lớp, rồi quay vào bục giảng, vừa dạy trò, vừa liếc nhìn con bằng ánh mắt yên lòng.

Những đêm con bệnh, Mẹ thức trắng không rời nửa bước.

Khi con đau mắt, Mẹ lặn lội khắp nơi tìm thầy giỏi, thuốc hay; nghe ở đâu có người chữa được, dẫu đường xa mấy, dẫu nắng gió sương sa, Mẹ cũng đưa con đến, chỉ mong con mau khỏi bệnh.

Không chỉ là người mẹ hiền tận tụy, Mẹ còn là người vợ thủy chung, sắt son với Ba.

Suốt tám năm dài, Mẹ vẫn một lòng chờ đợi ngày Ba trở về, mặc cho đời đầy cám dỗ.

Có những năm tháng, hai mẹ con phải dời chỗ ở nhiều lần, chỉ vì Mẹ muốn giữ trọn lòng chung thủy với Ba, và gìn giữ phẩm hạnh của mình trước miệng đời dèm pha.

Mẹ chọn những nơi yên ổn để con lớn lên không sợ hãi, để gia đình chờ ngày đoàn tụ.

Những chuyến thăm nuôi Ba là những hành trình gian khổ: mẹ con vượt đèo, lội suối, đi hàng chục, hàng trăm cây số đường rừng núi.

Có nhiều lần đi giữa mưa gió, có khi phải ngủ tạm ven rừng, bên lề đường, chỉ để sáng kịp vào gặp Ba một chốc, trao nhau vài lời nhắn nhủ, mấy gói quà chắt chiu, rồi lại tất tả quay về.

Ngày Ba trở về, cả nhà mình lên vùng kinh tế mới Cây Trường.

Suốt mười một năm ở vùng heo hút ấy, sau giờ đứng lớp, Mẹ lại tất tả ra đồng dưới cái nắng trưa hè bỏng rát.

Mẹ cùng Ba dựng lại cuộc đời từ đôi bàn tay trắng, nuôi chúng con khôn lớn.

Những giọt mồ hôi Mẹ rơi xuống trên mảnh đất nứt nẻ trồng lúa mì, đậu phụng, đậu xanh…

Những bước chân rón rén sớm hôm nhóm bếp nấu ăn cho Ba đi làm sớm, chỉ để các con được ngủ ngon giấc, có bữa cơm no, có sách vở đến trường.

Ngay cả khi gia đình định cư ở Mỹ, Mẹ vẫn không ngừng làm việc vất vả, lo cho các con được ăn học nên người.

Mẹ không màng đến việc mình từng là giáo viên, từng giữ chức hiệu phó được nhiều người kính trọng, mà sẵn sàng ngày ngày làm việc chăm sóc trẻ em, người già từ sáng sớm đến chiều tối, chỉ mong kiếm thêm thu nhập để trang trải cuộc sống gia đình.

Tất cả cũng chỉ vì các con, vì tương lai của các con sau này.

Cuộc đời của Mẹ là chuỗi ngày thức khuya, nhịn đói, nhẫn nại, hy sinh — không một lời đòi hỏi cho riêng mình.

Rồi khi con yên bề gia thất, ổn định cuộc sống, Mẹ lại hóa thành bóng cây trước ngõ: chăm lo bữa ăn, giấc ngủ, đưa đón các cháu đến trường, dạy chúng lễ nghĩa, chữ nghĩa, hiền từ.

Vòng tay đã ôm ẵm con năm nào, nay lại êm ái đỡ nâng các cháu.

Bước chân đã dắt con qua những con đường làng nhỏ hẹp, nay lại dắt các cháu qua những ngã ba, ngã tư đường, bình thản và kiên nhẫn như chưa từng biết mỏi.

Mẹ ơi, nhìn lại đời Mẹ, chúng con chỉ thấy một chữ “Đủ”:

– đủ kiên cường để đứng vững trong bão tố;

– đủ bao dung để gom cả yêu thương vào lòng;

– đủ nhẫn nại để chắt chiu từng niềm vui nhỏ cho gia đình;

– đủ hiền hòa để đi qua mọi nỗi buồn mà vẫn giữ nụ cười.

Công ơn của Mẹ — như trời cao, như biển rộng — chúng con chưa kịp đền đáp.

Nay Mẹ đã thanh thản rời cõi tạm, để lại cho chúng con tấm gương sáng và di sản yêu thương không gì sánh nổi.

Trước linh cữu của Mẹ, chúng con xin cúi đầu tạ ơn: ơn sinh thành, ơn dưỡng dục, ơn dạy dỗ nên người.

Nếu đâu đó trong đời, chúng con từng vô tâm làm Mẹ buồn, xin Mẹ rộng lòng tha thứ.

Xin nhận nơi đây nén hương lòng và lời hứa chân thành: chúng con sẽ thương nhau nhiều hơn, sống tử tế hơn, dạy các cháu hiền lành như lời Mẹ dặn, để mỗi ngày trôi qua đều là một bông hoa đặt lên mộ Mẹ.

Rồi mai này, mỗi độ thu về, tiếng chuông tựu trường lại vang, đoạn văn năm cũ lại ngân:

“Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi…” — chúng con sẽ thấy bàn tay Mẹ ở đó, dịu dàng và ấm áp.

Dẫu thân xác Mẹ hòa vào cát bụi, tình Mẹ vẫn sống mãi trong tim chúng con;

Dòng máu Mẹ vẫn luân chảy trong huyết quản chúng con;

Bóng Mẹ vẫn là vệt nắng cuối chiều dẫn lối gia đình đi tiếp đoạn đường đời.

Mẹ ơi, thôi Mẹ yên nghỉ.

Con tin rằng ở nơi an lành, Mẹ sẽ mỉm cười nhìn chúng con lớn lên thêm một lần nữa — không còn lo toan, không còn nhọc nhằn.

Chúng con và các cháu mãi mãi biết ơn Mẹ, mãi mãi nhớ ơn Mẹ.

Con xin cúi đầu vĩnh biệt Mẹ.

Xin Mẹ phù hộ cho gia đình chúng con biết thương nhau, biết dìu nhau đi qua mọi mùa gió lạnh — như Mẹ đã từng, suốt cả một đời.

Chúng con xin thành kính cảm ơn


 

Tự Trọng – Mai Thị Mùi

Kimtrong Lam

Mai Thị Mùi

Không có một đất nước nào mà lại lắm ngày truyền thống như nước ta. Ban bệ, ngành nghề nào cũng có ngày riêng, quân đội, công an, luật sư, nhà giáo, nhà báo, nhà may, nhà thổ..Tất tật phải cố đặt ra một ngày nào đó để tự tôn và được tôn vinh. Ngày nhà giáo VN có lẽ là ngày dễ nhớ nhất vì ai trong đời cũng là học sinh, không thì cũng là phụ huynh để PHẢI nhớ mà cúng cô hồn cho yên thân cả cha mẹ lẫn con cái.

Tôi hỏi quý vị đồng nghiệp, quý vị hãnh diện và hân hoan chào đón cái ngày này để làm gì? Một năm 365 ngày, được “tôn vinh” một ngày rồi cả xã hội phỉ nhổ 364 ngày có đáng không quý vị? Tôi nhìn quý vị xúng xính váy áo, ôm những bó hoa mua bằng máu và nước mắt của phụ huynh nghèo, quý vị nghiêng vai nghiêng cổ cho ra những pô hình để up phây, rồi sau đó ngồi vào những mâm cỗ từ quỹ “tự nguyện” đóng góp của PHHS mà tôi thấy như ăn phải miếng thịt ôi, chỉ chực nôn ra cho bằng sạch.

– Một đất nước không cần có ngày Người Cao Tuổi, chỉ cần ở đất nước ấy người già không phải đi bán vé số, nhặt ve chai, xin ăn hay bươi rác.

– Một đất nước không cần ngày Trẻ Em, miễn là đừng có trẻ em bị ấu dâm, trẻ bỏ học đi kiếm sống, trẻ bị bạo hành, trẻ bị lạm dụng.

– Một đất nước văn minh không cần có ngày Phụ Nữ, chỉ cần họ không bị bạo hành, phân biệt đối xử.

– Một đất nước không nên có các bà mẹ Anh Hùng, ba lần tiễn con đi hai lần khóc thầm lặng lẽ. Chúng mày có thương mẹ thì để mẹ sống yên bình bên các con mẹ. Chứ chúng mày tạo chiến tranh rồi bắt con mẹ lao vào cuộc chiến tranh phi nghĩa, phi nhân làm gì. Để rồi con mẹ mất, mẹ sống với nỗi đau thắt ruột rồi chúng mày cấp cho cho mẹ cái bằng mẹ VNAH, Phụ nữ không cần anh hùng, phụ nữ chỉ cần cuộc sống an nhiên với chồng, với con thôi. Chúng mày không tạo ra chiến tranh tức là công đức vô lượng rồi.

– Một người thầy cũng không cần đến ngày tôn vinh nhà giáo. Chỉ cần cái ngành giáo dục trả lương cho họ đủ sống để họ không phải bắt học sinh đi học thêm, chỉ cần họ không dí học sinh đóng tiền học, chỉ cần họ không hối phụ huynh đóng quỹ lớp, chỉ cần họ không “vận động” phụ huynh đưa con đi chích VAC, họ chỉ cần chuyên tâm vào công việc chuyên môn thì tự khắc cả xã hội kính trọng họ, kính trọng từ ngày này sang tháng khác, từ năm này qua năm nọ, từ đời này đến đời kia. Chứ đâu chỉ có 1 ngày hoa trái, quà cáp, phong bì, hộp nơ, rồi những tháng còn lại trong năm nhìn nhau theo mối quan hệ mua bán con chữ, kinh doanh tri thức.   

Quý vị hiểu mình cần phải làm gì rồi chứ? Muốn người khác tôn trọng trước hết mình phải có tự trọng. Lòng tự trọng từ đâu mà có? Tự trọng là không đủ tri thức không đứng trên bục giảng, tự trọng là thấy nghề giáo không đủ sống mạnh dạn bước ra khỏi ngành chứ không phải cào cấu phụ huynh cho đầy hũ gạo nhà mình, tự trọng là thấy sai trái, bất công phải lên tiếng chứ không hùa theo lũ lãnh đạo bóp cổ PH và HS, tự trọng là bị cử đi làm “nhiệm vụ chính trị” phải biết phản đối, tự trọng là thấy trường lạm thu phải đứng về phía phụ huynh, tự trọng là không câm lặng nghe và làm theo những điều dối trá, sai quấy của cấp trên cốt để yên thân, vững ghế.

Chỉ cần quý vị làm được những điều trên, mỗi năm xã hội sẽ tôn vinh quý vị đủ 365 ngày với sự yêu kính chân thành, không phải bằng những tấm thiệp ghi những câu hoa mỹ do bố mẹ chúng nó mồi có kẹp mấy tờ bạc, những bó hoa tươi mua bằng những đoạn ruột héo, những cái hộp đựng vài mảnh vải áo dài, những coupon, những chai dầu thơm, sữa tắm… mà chỉ cần thêm nén nhang, nắm muối, nắm gạo là đủ bộ cúng mùng 2, 16 mỗi tháng.

Mai Thị Mùi.


 

CHƯA MUỘN – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho!”.

John Sargent từng vẽ bức “Hoa Hồng” – một kiệt tác. Dẫu hội hoạ sĩ đã ra một giá rất cao, nhưng anh vẫn từ chối bán nó. Anh coi đây là tác phẩm tốt nhất của mình; để bất cứ khi nào nản lòng và nghi ngờ về khả năng sáng tạo của bản thân, anh nhìn nó và tự nhủ, “Tôi đã vẽ nó!”. Nhờ đó, anh luôn có cơ hội đi tiếp, tiến tới đỉnh cao sự nghiệp với danh hiệu “Hoạ sĩ vẽ chân dung hàng đầu cuối thế kỷ 19”.

Kính thưa Anh Chị em,

Như bức “Hoa Hồng”, Bí tích Rửa Tội là kiệt tác thầm nhắc chúng ta rằng, Thiên Chúa đã ban ân sủng dẫy đầy để mỗi người bắt đầu, rồi lại bắt đầu, hầu có thể tiến tới đỉnh cao sự nghiệp của mình: chu tất “kế hoạch yêu thương” Chúa định cho mỗi người. Vì thế, dẫu bao lần vấp ngã, bạn và tôi vẫn ‘chưa muộn’ để đứng lên. Tin Mừng hôm nay cho thấy điều đó.

Chủ vườn là hình ảnh một Thiên Chúa xót thương, quảng đại và hào hiệp. Ngài đón nhận bất cứ ai sẵn sàng vào làm ‘vườn nho’ nhà Ngài ở bất cứ thời điểm nào. Với Ngài, mọi người luôn có cơ hội! “Trong tình yêu Thiên Chúa, không ai bị bỏ lại; mỗi người đều có chỗ trong vườn nho Ngài!” – Phanxicô. Một trong những trải nghiệm tồi tệ nhất là bạn ‘chấp nhận’ đánh mất cơ hội để bắt đầu lại. Bởi lẽ Thiên Chúa ban cho mọi người một quỹ thời gian ‘đủ’ để đi về phía Ngài; vì thế, cả khi ngã quỵ, nhờ ơn Chúa, bạn vẫn ‘chưa muộn’ để chỗi dậy, tiếp tục hành trình. “Ân sủng không nhìn vào giờ giấc, nó nhìn vào con tim sẵn sàng đáp lại!” – Max Lucado.

Với Chúa, con người không chỉ luôn có cơ hội để tái khởi sự, nhưng còn có thể trải nghiệm những nghịch lý xót thương của Ngài. Dụ ngôn này là một bằng chứng: người làm ít, kẻ làm nhiều đều nhận một quan tiền! Chúng ta thường quên, với Chúa, mọi sự đều là quà tặng. Không ai có quyền đòi Ngài công bằng về ân sủng; những gì chúng ta làm cho Chúa không bao giờ là ‘ân huệ’ dành cho Ngài; nhưng là những nghĩa vụ ‘hiện sinh’, đó là lý do chúng ta có mặt trên đời. Ngài không mắc nợ ai! “Không phải ta làm được gì cho Chúa, nhưng chính Ngài đã làm tất cả cho ta!” – Dietrich Bonhoeffer.

Anh Chị em,

“Hãy đi vào vườn nho!”. Bức “Hoa Hồng” đã thúc giục Sargent “Hãy đi!”; Bí tích Rửa Tội thúc giục bạn và tôi “Hãy đi!”. Vì thế, mỗi khi mỏi gối chồn chân, hãy lặng thinh trước ‘kiệt tác ân sủng’ của mình – phép Thánh Tẩy – mà lấy lại nhiệt huyết! Cũng vậy, lời mời gọi này – biểu tượng của mọi lời gọi – nhắc chúng ta nhìn vào những con người đã được Chúa trao cơ hội. “Đấng không chọn kẻ xứng đáng; Ngài làm cho kẻ được chọn trở nên xứng đáng!” – Vance Havner. Họ không chỉ là các thánh hoặc các tâm hồn thánh thiện; nhưng còn là những người thu thuế, phong cùi, người nữ ngoại tình, biệt phái hay ngay cả anh trộm lành… Những con người này đã đi tiếp, và đi tận Nước Trời. Vì với họ, luôn luôn vẫn ‘chưa muộn!’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, cảm tạ Chúa vì ân sủng Ngài không bao giờ đóng cửa; sau mỗi thất bại, giúp con đứng lên và tiến thẳng, vì ‘vẫn còn kịp’, con luôn có cơ hội!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế) 

***************************************

Lời Chúa Thứ Tư Tuần XX Thường Niên, Năm Lẻ

Phải chăng vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức ?

✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.     Mt 20,1-16a

1 Khi ấy, Đức Giê-su kể cho các môn đệ nghe dụ ngôn này : “Nước Trời giống như chuyện chủ nhà kia, vừa tảng sáng đã ra mướn thợ vào làm việc trong vườn nho của mình. 2 Sau khi đã thoả thuận với thợ là mỗi ngày một quan tiền, ông sai họ vào vườn nho làm việc. 3 Khoảng giờ thứ ba, ông trở ra, thấy có những người khác ở không, đang đứng ngoài chợ. 4 Ông cũng bảo họ : ‘Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho, tôi sẽ trả cho các anh hợp lẽ công bằng.’ 5 Họ liền đi. Khoảng giờ thứ sáu, rồi giờ thứ chín, ông lại trở ra và cũng làm y như vậy. 6 Khoảng giờ mười một, ông trở ra và thấy còn có những người khác đứng đó, ông nói với họ : ‘Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết ?’ 7 Họ đáp : ‘Vì không ai mướn chúng tôi.’ Ông bảo họ : ‘Cả các anh nữa, hãy đi vào vườn nho !’ 8 Chiều đến, ông chủ vườn nho bảo người quản lý : ‘Anh gọi thợ lại mà trả công cho họ, bắt đầu từ những người vào làm sau chót tới những người vào làm trước nhất.’ 9 Vậy những người mới vào làm lúc giờ mười một tiến lại, và lãnh được mỗi người một quan tiền. 10 Khi đến lượt những người vào làm trước nhất, họ tưởng sẽ được lãnh nhiều hơn, thế nhưng cũng chỉ lãnh được mỗi người một quan tiền. 11 Họ vừa lãnh vừa cằn nhằn chủ nhà : 12 ‘Mấy người sau chót này chỉ làm có một giờ, thế mà ông lại coi họ ngang hàng với chúng tôi là những người đã phải làm việc nặng nhọc cả ngày, lại còn bị nắng nôi thiêu đốt.’ 13 Ông chủ trả lời cho một người trong bọn họ : ‘Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn. Bạn đã chẳng thoả thuận với tôi là một quan tiền sao ? 14 Cầm lấy phần của bạn mà đi đi. Còn tôi, tôi muốn cho người vào làm sau chót này cũng được bằng bạn đó. 15 Chẳng lẽ tôi lại không có quyền tuỳ ý định đoạt về những gì là của tôi sao ? Hay vì thấy tôi tốt bụng, mà bạn đâm ra ghen tức ?’ 16a Thế là những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót.”


 

Chiến tranh Nga-Ukraine: Nếu Hà Nội là Kyiv, Việt Nam sẽ làm gì khác?

BBC

  • Tác giả,Vũ Đức Khanh
  • Vai trò, Gửi cho BBC News Tiếng Việt từ Ottawa, Canada

Việc Tổng thống Donald Trump và Tổng thống Vladimir Putin bước ra từ cuộc gặp thượng đỉnh Alaska ngày 15/8/2025 với thông điệp mở đường cho một thỏa thuận hòa bình đã làm dấy lên nhiều so sánh thời cuộc giữa cuộc chiến Ukraine ngày nay và cuộc chiến Việt Nam nửa thế kỷ trước.

Từ góc nhìn lịch sử – chiến lược, một câu hỏi đáng giá được đặt ra: Nếu Hà Nội vào thời chiến Việt Nam phải đối mặt một cuộc chiến như Kyiv ngày nay, liệu Việt Nam sẽ làm gì khác?

Và vì sao Hà Nội đã có thể chiến thắng một siêu cường như Mỹ, trong khi Ukraine lại đứng trước nguy cơ phải chấp nhận một “hòa bình bất đối xứng” với Nga?

Chiến lược “trường kỳ” – điều kiện đủ và cần

Hà Nội từng theo đuổi một chiến lược tối thượng: “trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi”.

Sức mạnh của chiến lược này không chỉ nằm ở lòng quyết tâm, mà vì Hà Nội đặt cuộc chiến Việt Nam vào dạng chiến tranh sinh tử – không có đường lùi. 

Miền Bắc sẵn sàng hy sinh 10–20 năm, chấp nhận tổn thất của cải, dân số, hạ tầng – vì mục tiêu giành độc lập và thống nhất đất nước là tuyệt đối.

Ngược lại, Mỹ tham chiến tại miền Nam Việt Nam luôn phải trả lời câu hỏi: “giữ miền Nam có thật sự liên quan tới sự tồn vong của nước Mỹ không?”.

Khi câu trả lời nghiêng về “không”, sức mạnh chính trị của Washington tự nhiên suy giảm – hàng loạt áp lực nội bộ buộc Mỹ phải xét lại mục tiêu, cuối cùng là rút quân.

Ngày nay, Ukraine có lòng quyết tâm không kém bất kỳ quốc gia nào – nhưng chiến lược “trường kỳ” của Kyiv lại phụ thuộc nghiệt ngã vào ý chí chính trị của Mỹ và phương Tây.

Mỹ và phương Tây muốn Ukraine sống sót và không để Nga thắng – nhưng không muốn chiến thắng bằng mọi giá, và càng không muốn đánh Nga trực tiếp.

Do đó, “trường kỳ” của Ukraine là một cuộc chiến mà “nút dây” nằm trong túi nghị viện và lá phiếu của Paris, Berlin, Warsaw, Washington, London – nhiều hơn là tại Kyiv.

Putin có giới hạn như nước Mỹ tại Việt Nam?

Điểm sống còn thứ hai: nước Nga coi Ukraine – đặc biệt là Crimea và Donbas – không chỉ là lợi ích địa-chính trị mà còn là phần cốt lõi của bản sắc và sinh tồn của nhà nước Nga.

Các tuyên bố công khai của Putin từ 2014 đến nay đều thể hiện Nga không coi Ukraine là một quốc gia tách biệt hoàn toàn khỏi “thế giới Nga”.

Cuộc chiến với Ukraine vì thế là cuộc chiến “không có đường rút” cho Kremlin – khác hẳn với Mỹ tại Việt Nam.

Điều này mang ý nghĩa quyết định: nếu Washington có thể rút khỏi Sài Gòn mà vẫn là siêu cường số Một thế giới, thì Moscow khó có thể rút khỏi Donbas mà vẫn duy trì vị thế đế chế.

Vì thế, ý chí chính trị của Nga – dù bị trừng phạt, cấm vận, tổn thất quân sự – vẫn mang bản chất cố thủ tới cùng, đặt Ukraine vào thế khó trong đàm phán hoà bình.

Viện trợ, độc lập chiến lược và “câu giờ” khôn ngoan

Một khác biệt không nhỏ: Hà Nội nhận viện trợ từ Liên Xô, Trung Quốc nhưng luôn giữ được quyền chủ động “mục tiêu tối hậu” của mình; trái lại Ukraine ngày nay dù chiến đấu anh dũng, nhưng mức độ phụ thuộc vào tài chính – quân sự – hậu cần của Mỹ và phương Tây khiến Kyiv khó tránh khỏi áp lực nhượng bộ khi Washington chuyển hướng.

Nếu “Hà Nội là Kyiv”, cách phản ứng hợp lý nhất sẽ không phải là đập bàn nói “không” với Tổng thống Trump, mà là kéo ông vào một quá trình thương lượng phức tạp như “hòa đàm Paris” (5/1968-1/1973), khiến “Big Deal” trở nên ngày càng xa vời trong khi Nga bị kéo sâu hơn vào thế sa lầy.

Điều đó đòi hỏi Kyiv phải củng cố các “đường tiếp viện sống còn” ngoài Washington – từ Ba Lan, Lithuania, Latvia, Estonia, Phần Lan – những quốc gia coi Ukraine như tuyến phòng thủ sinh tử – đến Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, Đài Loan và Australia – những đối tác có lợi ích chống xét lại và có thể hỗ trợ tài chính – tái thiết – ISR (Intelligence, Surveillance and Reconnaissance, tức là Tình báo – Giám sát – Trinh sát).

Chiến lược không phải “chờ” Mỹ và phương Tây, mà là buộc Mỹ và phương Tây phải lựa chọn: hoặc tiếp tục hỗ trợ để giữ Ukraine trên tuyến lửa Nga, hoặc chấp nhận nhìn Moscow tiến sát các biên giới NATO.

Thông điệp cuối cùng từ Alaska

Nhìn từ Alaska 2025, Hà Nội đã thắng vì biến cuộc chiến thành bài toán “không giới hạn ý chí” – trong khi buộc Washington phải đặt giới hạn cho chính mình.

Nếu Ukraine muốn tránh bị đẩy vào một thỏa thuận hòa bình mang tính đầu hàng từng phần, Kyiv phải học lấy điều đó: bằng cách kéo dài chiến tranh theo hướng khiến Moscow kiệt sức chính trị chứ không chỉ quân sự, đồng thời phá vỡ sự phụ thuộc duy nhất vào ý chí thay đổi của Washington.

Đây chính là mô hình “hòa bình có điều kiện” – thứ mà nếu Hà Nội bị ép phải ký vào năm 1972, có lẽ Việt Nam ngày nay sẽ bị chia cắt vĩnh viễn như bán đảo Triều Tiên.

Tổng thống Trump có thể mở lại trò chơi đàm phán kiểu Yalta, nhưng nếu Ukraine không đủ tỉnh táo, thỏa thuận hòa bình chỉ là cách viết lại thất bại bằng ngôn từ hoa mỹ.

Lịch sử không bao giờ lặp lại, nhưng nó thường để lại những cạm bẫy giống nhau.

Và trong thế giới ấy, những quốc gia không thể tự kéo dài được ý chí chiến lược của mình sẽ không còn tranh được thế chủ động – mà chỉ còn lại… quyền được hy sinh trên bàn mặc cả của các cường quốc.


 

SAU “GIẢI PHÓNG” LÀ CHUỖI NGÀY ĐEN TỐI-Nguồn fb Đỗ Ngà

Xuyên Sơn

Sau ngày 30/4/1975 những con người giỏi chém giết nhưng dốt nát về quản trị đã lên nắm quyền cai trị đất nước. Đây là chuỗi ngày kinh hoàng cho người dân Việt Nam.

Điều đầu tiên những cái đầu ngu dốt ấy làm là thực hiện chiến dịch đánh tư sản mại bản và ngăn sông cấm chợ.

Trong nền kinh tế có vô số chuỗi cung ứng, mỗi chuỗi cung ứng như vậy là mối liên kết chặt chẽ giữa sản xuất, lưu thông và tiêu thụ.

Đánh tư sản mại bản là đánh chết những doanh nghiệp sản xuất và thương mại, ngăn sông chấp chợ là cấm lưu thông hàng hóa.

Sản xuất bị diệt, vận chuyển bị chặn thì dân sống thế nào?

Nền kinh tế phát triển thế nào được? Vì thế mà dân miền nam chịu đựng cái đói kinh hoàng.

Dân phải ăn khoai lang và bo bo thay cơm.

Vì sao kinh tế đất nước điêu tàn như thế?

kẻ cầm đầu ĐCS khi đó là Lê Duẩn, một con người nổi tiếng với câu nói “Tôi hỏi thì nói không có tiền.

Kìa, không có thì in ra! In ra!

Không sợ lạm phát!

Tư bản đế quốc in tiền mới lạm phát chứ ta, chuyên chính vô sản thì sao lại là lạm phát mà sợ?”

đã điều hành đất nước một cách duy ý chí.

Cái duy ý chí dựa trên sự dốt nát thì nó nguy hiểm khôn lường.

Với một con người có trình độ như vậy thì điều hành đất nước thế nào được? Sự dốt nát, sự kiêu ngạo và duy ý chí cộng lại trong một nhà độc tài thì đất nước bị tàn phá khủng khiếp,

và thực thế đã chứng minh điều đó.

Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã đó là quy luật tất yếu.

Với con người đứng đầu đảng như thế thì dưới trướng là những con người dốt nát và nhiệt tình.

Kẻ đầu tiên trong đám dốt nát và nhiệt tình đó chính là Đỗ Mười,

kẻ ngu dốt này được Lê Duẩn giao nhiệm vụ thực hiện chiến dịch

X1, X2, và X3 để loại bỏ sạch

“bọn tư sản bóc lột”.

X1 là cướp nhà những gia đình bị cho là “tư sản bóc lột” và đẩy họ “đi kinh tế mới” để rừng thiên nước độc làm họ chết dần chết mòn.

Chiến dịch X2 là tiêu diệt tư sản, tịch thu tài sản, xí nghiệp xung vào công quỹ.

Chiến dịch X3 là giao những căn nhà đã cướp cho quan chức CS từ bắc vào.

Sau 3 chiến dịch này, nền sản xuất và thương mại phồn vinh của miền nam tan nát không còn gì. Cả miền nam xây dựng bao năm, CS vào phá tan nát trong chốc lát.

Người thứ nhì phải kể đến, đó là gã văn nô Tố Hữu.

Một con người suốt đời chỉ viết làm thơ bưng bô thì lại được giao cho chức vụ phó chủ tịch thường trực Hội đồng Bộ trưởng (tức phó thủ tướng thường trực ngày nay) chịu trách nhiệm về vấn đề kinh tế – tài chính đất nước.

Dưới quyền ông này,Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã phát hành tờ 30 đồng  và Bộ tài chính ra chính sách “giá-lương-tiền”.

Về giá thì chính quyền ấn định giá hàng hóa thấp để dân dễ mua, về lương thì tăng lương cho công nhân viên chức,về tiền là in tiền để trả thêm phần lương tăng thêm đó.

Chính vì chính sách ngu dốt đó đã làm cho đồng tiền lạm phát phi mã, từ năm 1985 đến 1988, với tỉ lệ lạm phát từ 300% đến 800% mỗi năm.

Năm 1986,tỷ lệ lạm phát lên đến 774,7% khiến kinh tế rối loạn.

Giai đoạn từ năm 1975-1986 là giai đoạn kinh hoàng.

Toàn bộ nền kinh tế phồn thịnh dưới thời VNCH bị xóa sạch.

Người dân sống như súc vật, cơm không đủ ăn mà xã hội thì đầy rẫy bọn sai nha lùng sục bắt bớ những ai dám buôn bán trao đổi dù là miếng thịt heo hay con gà.

Mất tự do, mất quyền làm người,mất chén cơm làm sao dân sống nổi? Chính vì thế mà dù cho có bán nhà,dù có đối diện với nguy cơ bỏ mạng ngoài biển người dân cũng tìm cách vượt biên để tìm kiếm tự do.

Trước ông Lê Duẩn là ông Hồ Chí Minh.

Con người này được ĐCS phong thánh, câu nói nào cũng được dát vàng để đảng viên học tập.

Để xua quân từ Bắc vào Nam phá hoại nền dân chủ non trẻ của Miền Nam, ông Hồ Chí Minh có làm 2 câu thơ rằng:

“Còn non, còn nước, còn người,

Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!”.

Chuyện đánh giặc giỏi và xây dựng đất nước có liên quan gì nhau?

Xây dựng khó vạn lần phá bỏ, đấy là điều sơ đẳng ai cũng biết.

Và thực tế, sau ngày 30/4/1975 ĐCS chỉ có phá chứ xây dựng được gì?

Từ Hồ Chí Minh rồi đến Lê Duẩn, những con người nắm quyền sinh quyền sát trong tay thì nói cho cùng, họ đã để lại giá trị gì trong tư tưởng để giúp ĐCS quản trị tốt đất nước chứ? Không gì cả.

Hiện nay ĐCS đang dựng lên một mớ lý luận hổ lốn mà trong đó mọi câu nói của ông Hồ Chí Minh đều được quẳng vào, nó được gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh”.

Điều nguy hiểm hơn nữa là ngày nay ĐCS cho đảng viên các cấp của họ “học tập và làm theo” mớ hổ lốn đó.

Và hậu quả sự sáng suốt không hề xuất hiện trong đảng.

Bao năm rồi với biết bao nhiêu tiền của đổ ra để dạy đạo đức và lý luận cho đảng viên, nhưng rồi cái dốt, cái kiêu ngạo, cái duy ý chí và cả sự khốn nạn nó nó vẫn còn nhởn nhơ ở đó.

Chính những thứ đó, những thứ mà người CS học và làm theo nó đã, đang và sẽ tiếp tục tàn phá nỗ lực của toàn dân theo cách khác với những gì nó đã từng.

Nguồn fb Đỗ Ngà

Tham khảo:

https://www.vinadia.org/den-cu-tran-dinh/den-cu-chuong-15/

https://thanhnien.vn/…/tien-giay-menh-gia-30-dong-bat…


 

Người Việt Nam vẫn muốn đi Mỹ dù chi phí cao, xin visa khó

Ba’o Nguoi-Viet  

August 18, 2025

HÀ NỘI, Việt Nam (NV) – Được đặt chân đến Mỹ một lần trong đời là giấc mơ của nhiều người Việt Nam, bất chấp chi phí du lịch đắt và chính sách visa (thị thực) ngày càng siết chặt hơn.

Báo VNExpress hôm 18 Tháng Tám, dẫn khảo sát “nhu cầu du lịch Mỹ của khách Châu Á” từ cuối Tháng Năm đến giữa Tháng Sáu vừa qua của công ty nghiên cứu thị trường Milieu Insight, cho biết trong khi người Signapore là nhóm né du lịch Mỹ năm nay ở mức cao nhất thì ở chiều ngược lại, tỷ lệ quan tâm đến Mỹ tăng tại Việt Nam và Philippines.

Du khách đổ xô đến chụp ảnh tượng Nữ Thần Tự Do ở New York, Mỹ. (Hình: TTG Asia/VNExpress)

Cụ thể, 57% người Việt Nam cho biết họ quan tâm đến việc được đến Mỹ nhiều hơn so với sáu tháng trước, mặc dù visa Mỹ có ba thay đổi quan trọng trong năm 2025, gồm: dừng chương trình miễn phỏng vấn khi gia hạn visa từ 2 Tháng Chín với hầu hết visa không định cư; phí visa Mỹ tăng tối thiểu $250 từ 1 Tháng Mười, và chương trình thí điểm yêu cầu du khách nộp bảo lãnh lên đến $15,000 khi xin visa, dự kiến có hiệu lực từ 20 Tháng Tám.

Hiện tại, lượng khách Việt Nam đặt tour đi Mỹ trong hai quý cuối năm 2025 tại công ty Du Lịch Việt có xu hướng tăng 5%-10% so với cùng kỳ năm ngoái. Còn tại Pan American, lượng người Việt nộp đơn xin visa và gia hạn thị thực Mỹ qua bưu điện “tăng đột biến” sau khi Mỹ công bố tăng phí visa.

Các chuyên gia tại Singapore lý giải nguyên nhân khách Việt Nam có tỷ lệ quan tâm tăng “đến từ việc quốc gia này có cộng đồng người Việt lớn tại Mỹ.”

Với nhiều người, được đứng ở Quảng Trường Thời Đại, lái xe xuyên bang hay đơn giản ăn chiếc burger “ngay trên đất Mỹ” là trải nghiệm “đáng để vượt qua” các rào cản.

Bà Vũ Thị Quỳnh Hoa, phó giám đốc khu nghỉ dưỡng Con Gà Vàng Ninh Thuận, từng bốn lần xin visa Mỹ thành công, cho rằng sức hút của Mỹ với người Việt Nam không chỉ ở danh thắng hay trải nghiệm du lịch.

“Đặt chân tới Mỹ là một cột mốc, một giấc mơ mà nhiều người ấp ủ từ lâu. Mặt khác, đậu visa Mỹ không chỉ mở ra cơ hội khám phá quốc gia này, mà còn giúp du khách Việt thuận lợi hơn khi xin visa các nước khác cũng như miễn visa ra vào nhiều nước. Vì vậy, visa Mỹ được xem là loại visa có giá trị cao trên sổ thông hành,” bà Hoa nói.

Trong khi đó, ông Ngô Văn Thỏa, giám đốc công ty Du Lịch Pan American, người có kinh nghiệm 15 năm làm tour về thị trường Mỹ cho rằng Mỹ là nước lớn, điểm đến có sức hút trên toàn thế giới, không chỉ ở Việt Nam. Vì vậy “Giấc Mơ Mỹ” là niềm mơ ước của rất nhiều khách Việt Nam, muốn một lần trong đời đặt chân đến.

Hai vợ chồng du khách Việt Nam chụp hình trước biểu tượng Hollywood tại Mỹ hồi Tháng Sáu vừa qua. (Hình: VNExpress)

Ngoài chính sách visa thắt chặt hơn, ông Phạm Anh Vũ, phó tổng giám đốc công ty Du Lịch Việt, cho biết vấn đề an ninh, an toàn tại Mỹ lại không phải mối lo hàng đầu của khách Việt Nam. Hầu như chưa đoàn khách Việt nào bày tỏ lo lắng về vấn đề này.

Theo ông Vũ, tour đi Mỹ là sản phẩm cao cấp, chiếm khoảng 10% lượng khách mỗi năm của công ty. Mùa cao điểm du lịch Mỹ của khách Việt Nam là mùa Thu, khi thời tiết ôn hòa, cảnh sắc đẹp với lá vàng lá đỏ và dịp lễ hội cuối năm.

“Nhiều du khách coi chuyến đi Mỹ là cột mốc, một ‘giấc mơ’ để đánh dấu thành tựu và sự thành công chinh phục một trong những visa khó nhất thế giới,” bà Hoa kết.

Theo số liệu công bố hồi tháng 5 của Trung Tâm Nghiên Cứu Pew thuộc Quỹ Tín Thác Từ Thiện Pew có trụ sở tại Washington, DC, tính đến năm 2023, Việt Nam là một trong bốn cộng đồng người Châu Á có số lượng đông nhất tại Mỹ, với hơn 2.1 triệu người. (Tr.N)