Về nạn ‘bảo hoàng hơn vua’

Ba’o Tieng Dan

Thái Hạo

2-5-2024

Thật không ngờ, khi tôi viết “anh em trong nhà đánh nhau” mà lại khiến nhiều người, trong đó có cả những người là nhà báo như ông Trần Quang Đại (báo Lao Động) lại tỏ ra khó chịu và hằn học đến thế. Không bàn đến việc ông Đại chỉ lên Wikipedia đọc lõm bõm vài thông tin méo mó rồi copy rất tự tin mà không hiểu về lịch sử của Hoa Kỳ cũng như lịch sử của chế độ nô lệ (ví dụ, ông Đại nói “Nước Mỹ đã tự đẻ ra tệ nạn nô lệ”!!!).

Cũng xin lưu ý, đây không phải là bài viết trao đổi với ông Trần Quang Đại, tôi chỉ nhân tiện một ý kiến mà viết bài nhằm chia sẻ với đông đảo những ai quan tâm. Bây giờ xin trở lại câu hỏi “Có chuyện anh em trong nhà đánh nhau hay không?”.

Ảnh chụp màn hình status của tác giả Thái Hạo

Không gì “thuyết phục” những người cuồng tín cho bằng phát biểu của chính nhà nước. Vì thế, có lẽ không cần và không nên dẫn chứng hay phân tích dài dòng, cũng không cần thiết đến cả việc nêu quan điểm cá nhân, tôi chỉ cần dẫn lại đây quan điểm chính thống của nhà nước từ bộ “Lịch sử Việt Nam” do Viện Sử học Việt Nam biên soạn và các phát biểu của các tác giả về bộ lịch sử này được báo Tuổi Trẻ tường thuật lại năm 2017, khi bộ sách ra đời. Đó là việc chính thức từ bỏ tên gọi “Ngụy quyền Sài Gòn” và thay bằng “Việt Nam Cộng Hòa, Chính quyền Sài Gòn, Chính thể Việt Nam Cộng Hòa”.

45 năm sau cuộc chiến tranh, sự thay đổi cách gọi này có ý nghĩa gì và vì sao? Xin trích ra đây phát biểu của một số tác giả trong bài báo đã nói trên: “Thừa nhận Việt Nam cộng hòa là bước tiến quan trọng”.

Ảnh chụp màn hình bài báo Tuổi Trẻ

– “TS Nguyễn Nhã cho rằng, về pháp lý quốc tế cũng như về mặt lịch sử, Việt Nam cộng hòa là một thực thể chính trị rất hiển nhiên không thể chối cãi. Có thể khi còn đấu tranh chính trị vì lợi ích chính trị thì không công nhận nhau cũng là chuyện thường tình. Song chính trị thì có thể thay đổi, nhất là khi đất nước đã được thống nhất và đang có nhu cầu thống nhất lòng người, đoàn kết dân tộc để phát triển hùng cường và đấu tranh chống các nguy cơ từ nguy cơ trở thành thuộc quốc hay nguy cơ tụt hậu”.

– “Từ năm 1954 – 1975 chỉ có chính quyền ở miền Nam Việt Nam mới có quyền quản lý Hoàng Sa và Trường Sa vì hai quần đảo này ở vị trí dưới vĩ tuyến 17, cũng đã từng được rất nhiều nước thừa nhận, nên chính quyền Việt Nam cộng hòa phải được chính thức thừa nhận mới bảo đảm tính pháp lý quốc tế liên tục”.

– “Ông Nhã cũng lưu ý rằng “Hiện nay có hơn 4 triệu Việt kiều trong đó các thành phần trong chính quyền Việt Nam cộng hòa cũng rất quan trọng. Công nhận Việt Nam cộng hòa sẽ tạo sự đoàn kết, hòa hợp hòa giải dân tộc, như ý nguyện lúc sinh thời của Thủ tướng Võ Văn Kiệt”.

Không chỉ thế, theo ông Nhã, “… Thừa nhận Việt Nam Cộng hòa, Việt Nam chúng ta hiện nay có thể chính thức thừa hưởng gia tài rất quý báu về văn hóa giáo dục, kinh tế với cơ chế mà gần như cả thế giới hiện nay đang thực hiện. Đặc biệt như tôi đã phát biểu trong Đại hội kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Khoa học lịch sử Việt Nam rằng giới sử học ở miền Nam trước đây không bị ảnh hưởng về chính trị, hay quan điểm. Bất cứ nước nào tôn trọng giới học thuật, khoa học, nghiên cứu, nước ấy sẽ phát triển và ngược lại rất khó phát triển”.

– “Việc từ bỏ cách gọi “ngụy quân”, “ngụy quyền” và công nhận Việt Nam cộng hòa như một chính quyền độc lập là một bước tiến quan trọng trong việc hàn gắn những vết thương của người Việt sau chiến tranh. Mặt khác điều này có những tác động tích cực đối với việc giải quyết tranh chấp trên Biển Đông, cụ thể là hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa bằng công pháp quốc tế”.

– “Các nghiên cứu này đã so sánh các cách thức, quan điểm khác nhau và đi đến kết luận rằng việc công nhận hai quốc gia Việt Nam trong giai đoạn 1954-1975 có lợi trong việc tranh biện pháp lý cho chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa trước Trung Quốc.

Và đó cũng là quan điểm có thể chấp nhận về mặt chính trị hiện nay, so với việc chỉ công nhận một quốc gia tại miền Bắc hay tại miền Nam.

Nhận định Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Nam Cộng hòa là hai quốc gia cũng là điều được chấp nhận dưới góc độ luật pháp quốc tế theo nghiên cứu của nhiều luật gia quốc tế nổi tiếng”. (Hết trích).

[…]

Đến đây, tôi băn khoăn là có cần phải tiếp tục giải thích để ông Trần Quang Đại và những người như ông hiểu bản chất của vấn đề hay không, vì nó đã quá rõ ràng đối với bất cứ ai có chút tư duy lành mạnh. Thừa nhận chính thể VNCH và tất nhiên là phải từ bỏ “Ngụy quyền Sài Gòn” thì có nghĩa rằng ở đó có một chính quyền độc lập. Xin lưu ý hai chữ “độc lập”. Và cũng tất nhiên sẽ dẫn đến một sự thừa nhận rằng Mỹ hay bất cứ nước nào hiện diện tại miền Nam Việt Nam và được VNCH chấp thuận trong giai đoạn đó thì đều là ĐỒNG MINH của VNCH.

Sách sử chính thống của nhà nước đã thừa nhận VNCH bởi đó không chỉ là một thực tế lịch sử mà nó còn có ý nghĩa tiên quyết đến việc đòi lại chủ quyền của Việt Nam đối với biển đảo của chúng ta. Và còn hơn thế nữa, như đã lần lượt dẫn ra trong các trích dẫn ở trên. Ông Trần Quang Đại và những người như ông có hiểu được rằng chối bỏ chính quyền VNCH (không thừa nhận việc anh em đánh nhau) là đang tự lấy đá ghè chân mình?

Đáng ngạc nhiên là trong khi ở “thượng tầng”, vì biết đặt lợi ích quốc gia lên trên, nên đã rất hiểu vấn đề và có những thay đổi cần thiết trong quan điểm đối với VNCH, thì bên dưới, những người đang phục cho cái thượng tầng ấy như ông nhà báo Trần Quang Đại, lại tỏ ra sốt sắng và nhiệt tình đúng với tinh thần “bảo hoàng hơn vua”. Ông Trần Quang Đại đang muốn chứng tỏ điều gì? Tôi chợt nhớ đến câu “Làm tớ thằng khôn còn hơn làm thầy thằng dại”.

***

Tôi không muốn tiếp tục bàn về bản chất cuộc chiến 1954 – 1975 vì nó đã được mổ xẻ quá nhiều, bởi chung quy có mấy quan điểm sau: Chiến tranh xâm lược/ chiến tranh ủy nhiệm/ nội chiến. Dù là quan điểm nào, thì như cách thay đổi tên gọi từ “Ngụy quyền Sài Gòn” thành “Chính thể VNCH” mà bộ Lịch Sử Việt Nam đã chính thức ghi nhận, thì nó cũng đã gián tiếp thừa nhận một cách hiển nhiên rằng có tính chất nội chiến. Và như đã dẫn, sự thừa nhận này có ý nghĩa lớn lao đối với việc bảo vệ chủ quyền biển đảo của đất nước, bên cạnh đó là hàn gắn lòng người và kế thừa các thành tựu của chế độ VNCH về nhiều mặt, những điều sẽ góp phần vào sự phát triển của đất nước trong bối cảnh hiện nay.

Ở đây, tôi chỉ muốn nhấn mạnh một điều rằng, những người vì thiếu sự cập nhật hay vì giàu tính thể hiện để mong lấy lòng bề trên như nhà báo Trần Quang Đại, hãy: Thứ nhất, đừng đi ngược lại với “chủ trương” của chính nơi mà các anh đang phục vụ; thứ hai, phải biết tôn trọng lịch sử và đặt lợi ích của quốc gia dân tộc lên trên bằng một cái nhìn rộng mở, sẵn sàng từ bỏ những lối nghĩ thủ cựu và hẹp hòi.

Thời gian đã lùi xa nửa thế kỷ, chừng đó có lẽ đã quá đủ để nhìn lại quá khứ và nhìn thẳng vào thực tế trước mắt để có những ứng xử phù hợp. Và như chúng ta đã thấy, vì lợi ích quốc gia, chính nhà nước đã “xóa bỏ hận thù” với Mỹ, bắt tay làm thân, nâng tầm đối tác chiến lược toàn diện, nhưng ông Trần Quang Đại vẫn muốn giữ mối hận thù, đặc biệt là thâm thù với VNCH, là vì sao thế?

Tiếp tục khoét sâu và gieo rắc thù hận, đó là sự nông cạn và có tội với dân tộc. Là những người có học thì nỗ lực hàn gắn và xây dựng tình đồng bào để cùng hi vọng cho một Việt Nam phú cường, thịnh vượng, phải là ý chí bao trùm lên tất cả. Nhưng trước hết, để có được tinh thần ấy, cần vượt qua những nhỏ nhen và toan tính cá nhân.

Trên đây hoàn toàn là “quan điểm chính thống” được phát biểu từ Viện Sử học Việt Nam mà tôi chỉ là người dẫn lại. Những ai quan tâm thì có thể đọc toàn văn bài báo trên Tuổi Trẻ tại đây, và xin nhớ cho đừng “bảo hoàng hơn vua” mà kéo lùi sự phát triển của đất nước.

_______

* Bài của nhà báo Trần Quang Đại: NGƯỜI MỸ ĐÃ “NHÂN VĂN VÀ QUẢNG ĐẠI” NHƯ THẾ NÀO?

– Ngày 29/4/2024, ông Thái Hạo viết trên Facebook cá nhân: “Anh em trong nhà, đánh nhau một trận, năm mươi năm sau còn ăn mừng chiến thắng. Đó là tiểu khí của người nhỏ nhen.

Người Mỹ đánh nhau, hai miền đều hạ vũ khí, không ai là kẻ thua trận, không ai bị sỉ nhục. Đó là phong độ của người quân tử: nhân văn và quảng đại. Không lạ khi Mỹ thành siêu cường.

Hòa giải chỉ có thể đến từ bên thắng cuộc. Thù hận hay ăn mừng, cả hai đều bít lối tương lai. Cờ quạt và lễ lạt chỉ chứng tỏ bụng dạ hẹp hòi, dân tộc không bao giờ lớn nổi”.

– Xin có vài lời thưa cùng ông:

+ So sánh khập khiễng: Nội chiến Mỹ (1861-1865) hoàn toàn khác với Chiến tranh Việt Nam (1954-1975). Một bên là cuộc chiến giữa 2 miền Nam Bắc Mỹ để xóa bỏ chế độ nô lệ, 1 vết nhơ trong lịch sử Mỹ.

Nước Mỹ đã tự đẻ ra tệ nạn nô lệ tàn khốc và vô nhân đạo, họ đã phải tự giải quyết bằng máu, sinh mạng của khoảng 750.000 binh lính cả hai miền (chưa tính thương vong của dân thường). Đây là 1 con số thương vong khủng khiếp so với dân số Mỹ lúc đó. Sử gia John Huddleston ước tính số người chết chiếm 10% toàn bộ số nam giới miền Bắc từ 20 đến 45 tuổi, và 30% đàn ông da trắng miền Nam trong độ tuổi từ 18-40.

– Còn Việt Nam, dân tộc này đã phải gồng mình để chiến đấu chống ngoại xâm, với sự hiện diện của ít nhất 500 nghìn lính Mỹ trên chiến trường miền Nam với những vũ khí và phương tiện chiến tranh tối tân. Người Mỹ đã “ban phát” cho Việt Nam 15 triệu tấn bom đạn, cùng với khoảng 80 triệu lít chất độc hóa học, đến nay bao nhiêu nạn nhân vẫn quằn quại đau khổ. Họ “nhân văn và quảng đại” như thế đó, thưa ông Thái Hạo.

– Người Mỹ không muốn nhắc lại nội chiến 1861-1865 là đúng, vì đó là vết nhơ đáng xấu hổ trong lịch sử của họ. Còn Việt Nam thì ngược lại, chúng ta có quyền mãi mãi tự hào về võ công oanh liệt chống ngoại xâm trong lịch sử dân tộc. Kỷ niệm chiến thắng để có động lực trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đó là điều đương nhiên của mọi dân tộc.

+ Thông tin sai lệch về lịch sử: Có phải sau nội chiến, nước Mỹ “không ai là kẻ thua trận, không ai bị sỉ nhục” như ông Thái Hạo viết?

– Không, sự thực hoàn toàn khác:

“Sau chiến thắng, Chính phủ Mỹ trấn áp mạnh tay tàn dư của quân đội miền Nam để đảm bảo dập tắt mầm mống ly khai. Tất cả binh sỹ của quân đội miền Nam đều bị giam giữ trong khoảng 2-4 năm cho tới khi một đạo luật ân xá được thông qua vào tháng 5/1866, và phải thêm 6 năm sau đó thì lính miền Nam mới được trao lại quyền công dân theo đạo luật ân xá năm 1872, tuy nhiên luật ân xá này không áp dụng với 500 chỉ huy quân sự cao cấp của Hợp bang miền Nam.

Các lực lượng tàn dư của Liên minh miền Nam cũng không chịu thất bại, họ tổ chức ám sát các quan chức miền Bắc để trả thù, mở màn bằng việc với sự kiện tổng thống Abraham Lincoln bị ám sát ngày 14/4/1865, tiếp đó là sự ra đời tổ chức Ku Klux Klan vào 24/12/1865, một tổ chức chuyên khủng bố người da đen và cả một số người da trắng chống chế độ nô lệ…” (Wikipedia, mục “Nội chiến Mỹ”).

– P/s: Không rõ, ông Thái Hạo đã đọc qua những thông tin nói trên, ông không đọc hay ông đã đọc và đã quên, hoặc cố tình quên? Có những điều khắc cốt ghi tâm mà 1 công dân trong mối quan hệ với đất nước không được phép quên, thưa ông Thái Hạo!

 


 

Tiểu khí của người nhỏ nhen

 Thái Hạo

Anh em trong nhà, đánh nhau một trận, năm mươi năm sau còn ăn mừng chiến thắng. Đó là tiểu khí của người nhỏ nhen.

Người Mỹ đánh nhau, hai miền đều hạ vũ khí, không ai là kẻ thua trận, không ai bị sỉ nhục. Đó là phong độ của người quân tử: nhân văn và quảng đại. Không lạ khi Mỹ thành siêu cường.

Hòa giải chỉ có thể đến từ bên thắng cuộc. Thù hận hay ăn mừng, cả hai đều bít lối tương lai. Cờ quạt và lễ lạt chỉ chứng tỏ bụng dạ hẹp hòi, dân tộc không bao giờ lớn nổi.

NGƯỜI SÀI GÒN? LÀ NGƯỜI BIẾT “CHƠI ĐẸP”

 My Lan PhamNhững Câu Chuyện Thú Vị

NGƯỜI SÀI GÒN? LÀ NGƯỜI BIẾT “CHƠI ĐẸP”

Matthew NChuong

Kể từ sau 30/4/1975 lịch sử xoạc sang trang khác. Hai chữ “chơi đẹp” rơi rụng theo dòng thời gian, rồi ít hẳn trong lối sống hiện nay thì phải?

(bài dưới đây đã đăng cách đây mấy năm, thấy vẫn còn đáng suy ngẫm lắm, bài từ fb John Phạm)

*****

“Lần đầu tiên lên Sài Gòn là để đi thi đại học. Tôi và một thằng bạn thi chung trường nên đi chung với nhau.

Ngay sau khi thi xong môn đầu tiên, hai đứa kéo nhau ra quán cạnh trường kêu hai dĩa cơm sườn. Cầm cái muỗng, cái nĩa để ăn cơm dĩa mà cứ lọng cọng. Ăn hết dĩa cơm, uống cạn mấy ly trà đá tự múc ở trong cái xô để ở góc quán, mà bụng vẫn trống không.

Ngó quanh ngó quất, thấy bàn nào cũng để một nải chuối, mọi người ăn xong cứ thuận tay bẻ. Thế là hai đứa sáng mắt, chuối này chắc người ta cũng cho không như trà đá. Chỉ một loáng, nguyên nải chuối để trên bàn chỉ còn đống vỏ.

Khi tính tiền, thấy phụ quán cứ đếm đi đếm lại mấy cái vỏ chuối để trên bàn, đâm lo không biết tiền mang theo có đủ trả không. Nhìn hai đứa gom từng đồng bạc để bỏ lên bàn, chủ quán bước lại, nói:

”Thôi, tính hai dĩa cơm thôi. Phần chuối chắc là không biết có tính tiền nên lỡ ăn, chị không tính. Ngày mai ăn có thiếu thì cứ kêu cơm thêm mà ăn, để bụng đói không làm bài được đâu”.

*****

Trong những năm của thập niên 80, có lần tôi thử sức mình với nghề đạp xích lô. Chạy lòng vòng Sài Gòn cả tiếng đồng hồ, ngang qua rạp Quốc Thanh, thấy một đôi nam nữ đi ra, ngoắc lại: “Xích lô!”.

Luồn tay kéo thắng ngừng xe lại, tôi hỏi: “Anh chị đi đâu?”

– Cho ra bến xe Miền Tây. Nhiêu?

Mới lên Sài Gòn tập tành chạy xe kiếm sống, biết bến xe Miền Tây đâu mà cho giá. “Dạ, em mới chạy xe chưa rành đường, anh chị chỉ đường em chở. Tới đó cho nhiêu thì cho”.

Anh con trai nói: “15 đồng mọi khi vẫn đi. Cứ chạy đi, tui chỉ đường”.

Sức trẻ, thế mà vẫn không chịu nổi đường xa, đạp xe chở hai người từ rạp Quốc Thanh đến chân cầu Phú Lâm thì đuối. Tôi mới nói: “Em mới chạy xe, đi xa không nổi. Anh chị thông cảm, đi xe khác giùm”.

Ai ngờ anh con trai ngoái đầu lại, nói: “Tui biết ông đuối từ hồi nãy rồi. Thôi leo lên đằng trước ngồi với bà xã tui. Đưa xe đây tui đạp cho. Tui cũng từng đạp xích lô mà!”.

Thế là… được khách chở, đã vậy đến nơi, anh con trai còn trả tiền đầy đủ, không thèm bớt cắc nào vì thực ra tôi chỉ mới chở được hơn nửa đường.

*****

Hỏi người Sài Gòn về đường sá thật dễ chịu, già trẻ, lớn bé đều chỉ dẫn tận tình. Có nhiều người còn bỏ cả công việc để dẫn kẻ lạc đường đi đến đúng địa chỉ cần tìm.

Có những địa chỉ nhiều người hỏi quá, thế là người Sài Gòn làm một cái bảng đặt bên lề đường, gắn vào gốc cây. Như cái bảng viết trên nắp thùng mốp trên đường Sư Vạn Hạnh: “Bà con nào đi photo thì qua bưu điện bên đường, mé tay phải, 10m. Hỏi hoài mệt quá!”.

Ở Sài Gòn, có nhiều nhà đặt một bình trà đá trước nhà, kèm thêm một cái ly, một cái bảng “nước uống miễn phí”.

Khi bạn đang chạy xe trên đường phố Sài Gòn, nếu có ai đó la lớn nhắc bạn quên gạt cái chân chống, hoặc nhắc bạn nhét cái bóp vào sâu trong túi quần bị lòi ra sắp rớt, đích thị đó là người Sài Gòn!

Bây giờ còn vậy nữa không, nhiều hay ít?

Mà nếu bạn không còn gặp những người như vậy, câu trả lời của tôi là… những người mà bạn gặp đó không phải là người Sài Gòn. Vậy thôi.”

THAY LỜI KẾT

Đây là mẩu chuyện ngắn từ một người tù:

“Năm 1978 khi ra tù, tại ga xe lửa đường Lê Lai, một anh xích lô chạy đến hỏi tui :“Về đâu?”. Tui nói thật, “Mới ra tù, không còn tiền…”. Anh xích lô huơ tay, nói ngay: “Lên đi ông nội, tui chở về. Không có tính tiền đâu“. Làm sao tui quên được câu nói đó…”

Không bị chết cứng bởi quan điểm chính trị chính em gì ráo, người Sài Gòn sống với nhau quan trọng hơn hết là phải biết “CHƠI ĐẸP”.

Hai chữ “chơi đẹp” nghe gọn lỏn, mà hay vô cùng.

Hình như hai chữ “chơi đẹp” đã biến mất khỏi ngôn ngữ hiện nay rồi thì phải…

Sưu tầm

My Lan Phạm


 

FACEBOOK – Thật & Ảo – Lợi & Hại

Cẩn thận khi dùng Facebook.

*****

Antonio Son Tran

Facebook EM LÀ Ai?

1- Facebook kết nối con người nhưng sự khác biệt lại đẩy họ rời xa nhau.

Không ở đâu, sự hợp/tan lại diễn ra dứt khoát và lặng lẽ như ở trên facebook.

Chỉ cần một click chuột là ta đã có thể thêm một người bạn, và cũng chỉ cần một cú nhấp chuột, họ có thể trở thành xa lạ với ta mãi mãi.

2- Không phải mọi điều được post lên facebook đều là sự thật, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến tuổi tác và vẻ bên ngoài của chủ nhân.

Nhưng tâm trạng của họ thì không thể giấu được.

Tất nhiên là nếu ta chịu khó dừng lại và để tâm suy ngẫm.

3- Những cô đơn chất chồng, cô đơn đến đặc quánh lại thường ẩn giấu trong những stt rất ngắn gọn và tưởng chừng như rất đỗi bâng quơ.

Khi gặp những stt như vậy, sự ân cần thăm hỏi chỉ nhận được những bâng quơ khó hiểu hơn nữa mà thôi!

4- Chỉ qua những con chữ đăng lên facebook, ta có thể biết được tâm tính của người viết.

Ai cục cằn thô lỗ, ai tế nhị khiêm nhường, ai vui vẻ hài hước … tất cả những điều đó đều hiển hiện lên ở những stt của họ.

5- Trên facebook ”like” chưa bao giờ là một đảm bảo rằng rất ”thích”, một cái mặt cười đến ngoác miệng chưa bao giờ là điều phản ánh tâm trạng thật của chủ nhân.

Vì thế hãy tỉnh táo.

Đừng bao giờ căn cứ vào số lượng ”like” để rồi vui hay buồn theo chúng.

6- Nhận xét sau có thể chưa đúng với mọi người viết, nhưng không thể phủ nhận sự ”thả lỏng” mình khi viết stt của những nhà văn, kể cả những nhà văn, nhà báo có tên tuổi.

Đọc stt của họ trên facebook, ta thấy họ đời hơn. Họ đã trở nên gần gũi với chúng ta rất nhiều nhờ cây cầu tuyệt vời mang tên facebook!

Tuy vậy, xin phép được mở ngoặc để nói nhỏ với nhau một đề nghị này: xin các văn sĩ, thi sĩ đừng văng bậy và viết tục.

Trăm năm bia đá thì mòn, nhưng viết tục mà post facebook thì nó vẫn còn trơ trơ, còn mãi mãi đấy!

7- Facebook là một “không gian” lý tưởng để người với người cho nhau chuyển hộ khẩu lên chín tầng mây.

Ở cái chốn chỉ có bồng bềnh mây và ngất ngư gió ấy tâm trạng con người cứ lâng lâng, say say … rất lạ!

Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác, người ta cũng dìm nhau không nương tay cũng ở trên facebook.

Thế giới ảo cũng phức tạp, khốc liệt, giả trá, thớ lợ … hệt như thế giới thật vậy!

8- Có tình bạn thực sự trên facebook không?

Xin thưa rằng có.

Tuy không nhiều.

Trong không gian inbox của facebook có cuộc đối thoại của những tâm hồn đồng điệu.

Vậy … có hay không những mối tình online?

Có! Có những mối tình rất đẹp, rất đáng trân trọng. Có cả những mối tình “Chỉ online”!

Mọi chuyện đều có thể xảy ra trên facebook, từ tột đỉnh cao qúy đến tận cùng của thấp hèn!

9- Phần lớn những con nghiện facebook, theo một cách nào đó, thường rất cô đơn.

Họ tìm thấy ở facebook một địa chỉ khả dĩ để giới thiệu về mình cho … cả thế giới biết.

Về mặt tích cực, facebook đem lại thứ mà nhiều người không tìm thấy ở thế giới thực, đó là những quan tâm ấm áp của bạn bè và những nụ cười sảng khoái.

Có thể bạn không tin, nhưng vẫn có rất nhiều người thiếu đói cả sự quan tâm lẫn nụ cười ở chính cuộc đời thật của họ.

Và … may làm sao, có người tìm thấy chúng trên thế giới mạng xã hội facebook!

10- Sẽ rất buồn nếu bị cách ly khỏi facebook dù chỉ một ngày bởi chúng ta đã biết sử dụng fb một cách tích cực.

Hơn nữa, nếu đời thực không có ai chờ đợi ta thì trên facebook luôn có nhiều hơn một người đang chờ đợi để like bất cứ cái gì ta đăng lên.

Họ like không phải bởi nội dung stt mà like bởi họ biết rằng ta lại có thêm một ngày nữa khỏe mạnh.

Cái like của họ hiện lên ở thông báo.

Ta chợt thấy nhẹ nhõm và ấm lòng. Cảm giác này chỉ có ở những ai chơi facebook..

Lm Vũ Quốc Thịnh

(Sưu tầm)


 

Ngọn cờ vàng vẫn còn luôn phất phới bay

Ba’o Nguoi-Viet

April 30, 2024

Phil Nguyễn/SGN

Hôm nay là ngày 30 Tháng Tư, 49 năm trôi qua thế nhưng bao nhiêu u uất và bao nhiêu nhớ nhung đang bắt đầu trở về trong ký ức của chúng ta.

Bây giờ, không phải chỉ còn là câu chuyện mất quê hương mà là những mẩu chuyện của chiến tranh, của máu đổ, của thịt rơi, của chết chóc, của bom đạn, của tử thủ, của chiến hữu, của hy sinh, của tự sát, của can trường, của tan hàng, của tứ tán, của di tản, của lạc nhau, của phân ly, của mồ hôi, của nước mắt, của bị lừa, của phản bội, của hứa hẹn, của đe dọa và của trả thù.

Với tất cả bao nhiêu thứ “của” đó đã được tạo ra để được gọi tên chung là ngày mất quê hương, ngày 30 Tháng Tư, Tháng Tư đen.

Nạn nhân không phải là anh, là em, là vợ, là chồng, là con, là cháu, là tướng, là tá hay là binh nhì, binh nhất mà cả có cả triệu người phải bỏ nước ra đi bằng thuyền bè và đường bộ, cả có cả trăm ngàn người bị đánh lừa để thản nhiên tin tưởng đi vào tù cải tạo, có cả hàng ngàn gia đình tan tác, phân ly, đổ vỡ, mất nhà mất cửa, có cả một đất nước tự do của gần 20 triệu người đã bị xóa tên trên bản đồ thế giới và cả một dân tộc bị thay đổi hoàn toàn.

Trong chuyện xóa tên và thay đổi đó, nó đã được kể lại với nước mắt, mồ hôi và máu đổ, với kiệt sức và cầu nguyện, với tin tưởng và thất vọng, với chia ly và đợi chờ, với uất hận và cay đắng, với hy sinh và câm nín, với hứa hẹn và dối trá, với đói khát và sợ hãi, với hăm dọa và trả thù,

Cuối cùng, với hàng trăm câu hỏi ” Với” như thế mà có ai tìm được ra câu trả lời vào lúc đó không?.

Rồi đến một lúc nào đó, các câu hỏi sẽ lần lượt được kể lại và viết ra, không phải bởi các phóng viên, nhà báo, các nhà văn hay người làm truyền thông mà bởi những người đã là chứng nhân của ngày tháng đau đớn “của” này.

Chứng nhân có thể là những vị tướng tá chỉ huy quân sự, những đơn vị trưởng của sư đoàn, tiểu đoàn, đại đội, tiểu đội, những sĩ quan của Nhẩy Dù, Biệt Động Quân, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Kích Dù, Lôi Hổ, Thiết Giáp, Pháo Binh, Không Quân, Hải Quân, Cảnh Sát, Địa Phương Quân…

Những người lính cuối cùng của quân lực VNCH năm 1975 (Hình: Francoise De Mulder/Roger Viollet via Getty Images)

Bên cạnh cấp chỉ huy quân sự, còn các binh sĩ cấp dưới trung sĩ, hạ sĩ hay bất cứ người dân bình thường nào cũng đều là chứng nhân trực tiếp của lịch sử.

Chứng nhân cũng có thể là những nhà sư, linh mục, những Phật Tử, Giáo Dân, những tuyên úy tôn giáo, có thể là những công chức của chính quyền, những nhà trí thức cao thâm và học giả có tiếng, cả đến giới văn nghệ sĩ làm báo, viết sách, làm thơ hay biên khảo ngay cả đến giới ca nhạc sĩ kịch nghệ tân nhạc và cải lương.

Nghĩa là tất cả những người hoặc là đã cầm súng hay không cầm súng, đã chỉ huy hay ngồi văn phòng, những người không cầm súng nhưng cầm bút viết, không cần biết viết cái gì, những người không cầm súng, không cầm viết nhưng cầm microphone làm nghệ thuật để phục vụ cho con người hay cho chính quyền, không cần biết.

Kể ra như thế không biết là đã đủ chưa hay với bao nhiêu chứng nhân đó đã có thể gọi là hoàn tất tập lịch sử của đất nước được không?

Theo như tin tức tìm thấy trên mạng về hai chữ HO thì câu chuyện chương trình HO bắt đầu từ năm 1990, theo đài RFA năm 2014 ghi lại những diễn biến như sau:

-Ngày 30/4/1975, có cả triệu binh sĩ VNCH buông súng theo lệnh của tổng thống giờ thứ 25 Dương Văn Minh. Rồi sau đó, có khoảng hơn 200,000 sĩ quan từ cấp Thiếu úy trở lên thuộc quân lực QG hay địa phương quân, nghĩa quân theo lời kêu gọi nhẹ nhàng của Cộng Sản. Cộng với hàng ngàn viên chức chính quyền VNCH, hàng trăm người không cầm súng nhưng cầm bút, cầm microphone và làm nghệ thuật hay hoạt động tôn giáo, tất cả đã được đưa vào 80 trại tù cải tạo từ Nam ra Bắc suốt từ mũi Cà Mau cho tới biên giới Việt Trung cộng với một lời dặn dò nhẹ nhàng: “Càng mau giác ngộ càng sớm trở về.”

Nhưng theo lịch của bắc bộ phủ dán trong nhà tù: Một ngày ở hạ giới bằng một năm ở cải tạo, nghĩa là mang 10 ngày lương thực sẽ sống được 10 năm ở tù cải tạo.

Sau đó, ít nhất từ 5,7,10 năm sau, đã có một số ít người tù cải tạo bắt đầu được thả ra.

Trước 30 Tháng Tư 1975, một người đàn bà tên Khúc Minh Thơ đang làm ở Tòa Đại Sứ Việt Nam bên Phi Luật Tân. Sau ngày mất nước, bà xin về Việt Nam để lo cho chồng con đang kẹt lại ở đây, nhưng bị từ chối.

Cho mãi hai năm sau, ngay 29 Tháng Giêng 1977, bà phải sang Honolulu USA để định cư. Chồng bà là sĩ quan trong quân đội VNCH qua đời sau khi được thả ra từ tủ cải tạo trước chương trình HO.

Bà là người ấp ủ một hoài bão lo lắng cho các người tù cải tạo sau khi họ được thả ra và ngay cả những người tù đang sống trong trại tù cải tạo.

Bắt đầu với ý nghĩ đó, bà đi tìm con đường vận động để chăm sóc họ. Nương tựa vào những tin tức về luật lệ qua lại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã có sau 30 Tháng Tư 75, bà làm quen với ông Shepard Lawman, một người Mỹ có vợ Việt tên Hiệp và là chuyên viên làm ở Tòa Đại Sứ Mỹ trước năm 1975.

Qua sự trao đổi suy nghĩ và với sự hiểu biết về Việt Nam của ông Shepard, ông gợi ý là nên lập một hội  mang tên “Gia đình tù nhân chính trị Việt Nam” (viết tắt: GDTNCTVN) để tập hợp những vợ con của các tù nhân chính trị nhằm tạo một tiếng nói chung và lớn mạnh để gây tiếng vang trong việc vận động trên đất Mỹ.

Vào lúc đó, ông Sefpard đang làm việc cho Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ. Ông được sự giúp đỡ của ông Robert Funseth, phụ tá ngoại giao đặc trách chương trình tỵ nạn của Bộ Ngoại Giao.

Mối quan hệ giây mơ đó đã giúp cho tiếng nói của hội GDTNCTVN vang tới Quốc Hội và lọt vào tai ông Thượng Nghị Sĩ John McCain, Thượng Nghị Sĩ Robert Kennedy và nhất là Thượng Nghị Sĩ John Warner – người chồng thứ sáu của minh tinh Elizabeth Taylor.

Hầu như những nhân vật trong Quốc Hội Mỹ, quan tâm tới Việt Nam và quan tâm tới người tù cải tạo đều ít nhiều là cựu chiến binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, cho nên, họ rất hiểu chuyện này và đã giúp bà Thơ mạnh dạn tiếp tục con đường vận động cứu nạn cho các tù nhân của tù cải tạo Cộng Sản.

Ngày 30 Tháng Tư 1989, bà được Bộ Ngoại Giao và Quốc Hội Mỹ ủng hộ và sắp xếp giúp bà tới gặp ông Trịnh Xuân Lãng, đại sứ của CSVN ở New York để yêu câu họ thả các tù nhân chính trị và cho đi Mỹ tái định cư.

Ba tháng sau đó, ngày 30 Tháng Bảy 1989, căn cứ vào những thỏa thuận trước đó, một thỏa ước được ký kết giữa chính phủ VN và Hoa Kỳ để cho tù nhân chính trị được ra đi tái định cư ở Mỹ.

Chương trình được gọi tên là HO (Humanitarian Operation).

Cựu quân dân cán chính và học sinh VNCH thắp hương tại tượng đài, tưởng niệm những người đã hy sinh nhân dịp Tháng Tư Đen. (Hình: Lâm Hoài Thạch/Người Việt)

Theo bà Thơ, Bộ Ngoại Giao Mỹ nói chữ HO là tên gọi của phía Việt Nam, còn phía Mỹ, Bộ Ngoại Giao gọi đúng ra là chương trình Special Release Reeducation Center Detainee Resettlement Program (chương trình tái định cư cho tù nhân cải tạo được phóng thích đặc biệt).

Ngày 5 Tháng Giêng, 1990, đợt HO1 đầu tiên đã đặt chân tới đất Mỹ. Tuy nhiên, chương trình HO này chỉ kéo dài tới 1996 thì bị ngưng lại, vì Quốc Hội Mỹ chỉ cho tiền và thời hạn là 5 năm. Bà Thơ không ngồi yên, vì không thể để cho những người tù cải tạo được thả ra sau này bị bỏ rơi.

Tuy nhiên, theo thông lệ của sinh hoạt chính trị ở Mỹ lúc đó, những ủng hộ viên người Mỹ như ông Sefpard va ông Robert nói với bà là nếu ban đầu mà xin ngân khoản cho một chương trình dài HO tới 10, 15 năm thì chắc chắn sẽ thất bại, không thể có được. Cho nên, họ đã khuyên bà chỉ nên xin ngắn hạn là 5 năm thì dễ thành công hơn. Khi tình hình biến chuyển tốt thì sau đó, sẽ xin thêm 5, 10 năm nữa, có nhiều hy vọng sẽ được chấp thuận.

Bà Thơ nghe lời khuyên này và căn cứ vào sự thành công của bước đầu 5 năm, bà đã tiếp tục con đường đấu tranh xin tiền đợt hai cứu trợ.

Phải mất tới 10 năm sau, nghĩa là tới năm 2005, Quốc Hội Mỹ mới chấp thuận cho một ngân khoản thứ hai để cho chương trình HO được tiếp tục.

Trong đợt 2 vận động cứu trợ đợt này, Thượng Nghị Sĩ John McCain có một công rất lớn là được Thượng Viện chấp thuận một dự luật cho phép con cái đã trưởng thành được đi theo gia đình qua Mỹ, dự luật gọi là McCain Amendment.

Cuối cùng, chương trình HO được tiếp tục lại từ năm 2005 tới 2008 mới chấm dứt cho tới danh sách HO47.

Khi chương trình HO với 47 danh sách chấm dứt, có khoảng 200,000 người gồm người tù cải tạo cùng vợ và con đã được tái định cư trên toàn đất Mỹ.

Trên mạng, không có tin tức về tổng cộng riêng cá nhân số người tù cải tạo kể từ danh sách HO1 tới HO47 được cho tái định cư là bao nhiêu? Chắc chắn là có nhưng không được phổ biến vì không có lợi cho phía Cộng Sản.

Chỉ biết rằng sau 30 Tháng Tư 1975, có khoảng 200,000 sĩ quan bị đưa đi tù cải tạo. Qua 5,10,15,17 năm tù khổ sở, đói khát, đầy đọa, làm việc khổ sai và bệnh hoạn, có lẽ chỉ còn 2/3 người sống sót, nghĩa là trên dưới 100,000 người.

Câu chuyện HO và 200,000 người gồm gia đình con cái này đã tới được vùng đất hứa tự do chắc chắn đã mang theo một kho hành lý to lớn. Họ đã kể ra cho gia đình con cháu được nghe, họ kể ra cho bạn bè được biết và họ kể ra để chia sẻ với tất cả mọi người khác được hiểu, không phân biệt là bạn hay thù,  người Việt Nam hay người ngoại quốc, người Việt ở hải ngoại hay đang còn ở trong nước.

Họ kể ra bất kể lúc nào họ muốn, không cần phải chờ đến ngày tưởng niệm 30 Tháng Tư, họ viết thư kể chuyện cho nhau, viết bài gửi tới truyền thông báo chí và gửi tới các mạng xã hội, viết sách truyện in ra, lập chương trình ca hát tưởng niệm, dựng phim tả lại cuộc đời và mẫu chuyện, làm thơ kể chuyện, làm nhạc kể chuyện, hội thảo, hội ngộ, hội hè, xum họp để kỷ niệm và chia sẻ đau thương của quá khứ, xuống đường biểu tình để ủng hộ và gìn giữ tình yêu quê hương xưa chống lại chủ nghĩa Cộng Sản.

Cả trăm ngàn câu chuyện đó đã trở thành một kho chuyện khổng lồ không biết kể tới chừng nào mới hết qua từ hàng ngàn con người đã sống sót, ngoi lên từ cõi chết và nỗi tuyệt vọng.

Không cần phải là những câu chuyện dài mà có thể là những mẩu chuyện ngắn. Câu chuyện hay mẩu chuyên ngắn không cần phải có liên hệ với nhau bởi mỗi người có thể đã phải sinh tồn hay sống sót trong mỗi hoàn cảnh và điều kiện khác nhau, đôi khi cùng hoàn cảnh nhưng điều kiện thì khác nhau, có khi rất tàn nhẫn, bi thảm hay chỉ lướt qua, có khi không thể tưởng tượng được nhưng đã thực sự xẩy ra, có khi vết thương đã lành nhưng vẫn còn để thẹo và đau nhức.

Nhưng tất cả đều giống nhau ở một chủ đề và có một chương duy nhất. Đó là chủ đề về câu chuyện mất nước.

Quốc kỳ VNCH. (Hình: Vũ Đình Trọng)

Mỗi người sẽ có một câu chuyện riêng của mình nhưng nếu ghép tất cả những câu chuyện đó lại với nhau thì mọi người chắc chắn sẽ nhìn thấy và nhận ra một tấm hình chung của lịch sử và của đất nước, của người Việt Quốc Gia và người Cộng Sản, khác nhau ở chữ người Việt. Đó là lịch sử của chúng ta. Lịch sử của người Quốc Gia tỵ nạn cộng sản.

Lịcch sử mất nước trải dài được 49 năm, một quãng thời gian có thể sinh ra đươc hai thế hệ con người trong gia đình, nhưng không phải là chương chót hay kết thúc cho quyển sách về lịch sử của người Việt tỵ nạn.

Nước Việt Nam Cộng Hòa bị xóa tên trên bản đồ thế giới, nhưng ngọn cờ vàng vẫn còn phất phới bay mỗi khi 30 Tháng Tư trở về, không những ở trên đất Hoa Kỳ mà còn ở khắp nơi trên thế giới, mà người cầm cờ vẫn luôn luôn có một nụ cười hãnh diện và hạnh phúc trên môi thay vì giọt nước mắt rơi.


 

“NOUVEAU RICHE” VÀ “BAD TASTE” – G.S NGUYỄN TUẤN

G.S NGUYỄN TUẤN

Hình: Một thể hiện của nouveau riche bên Tàu. Phòng cầu tiêu làm bằng vàng.

“NOUVEAU RICHE” VÀ “BAD TASTE”

G.S NGUYỄN TUẤN

Nouveau Riche (có thể dịch là ‘Trọc phú mới’) là chữ dùng để mô tả những người giàu sụ nhưng được cảm nhận như là những người phô trương và thiếu tánh lịch lãm. Đặc điểm này có vẻ mô tả khá đúng những người giàu sụ ở Việt Nam ngày nay.

Có lần tôi về Bến Tre và đi ngang qua một biệt thự rất lớn giữa một cánh đồng. Hàng xóm của ngôi biệt thự là những căn nhà lá thô sơ, rách nát, rất tiêu biểu cho một làng quê nghèo ở miền Tây. Ngôi biệt thự đó có thể nó đẹp, nhưng nó xuất hiện không đúng chỗ, và do đó làm cho nó xấu. Nói lịch sự theo tiếng Anh là ‘bad taste’.

‘Bad taste’ là khái niệm không dễ định nghĩa nhưng rất dễ nhận ra. Một người làm nghề lao động nghèo nhưng tậu một chiếc siêu xe hàng trăm ngàn USD có thể xem là ‘bad taste’. Tương tợ, trong một đất nước mà đa số dân chúng còn rất nghèo, nhưng xuất hiện những trọc phú tiêu ra hàng trăm triệu đồng cho một chai rượu Tây hay một bữa ăn (cho dù là do người khác tài trợ) vẫn có cái gì đó bad taste.

Những thảo luận về bad taste, về ‘quí tộc’ và ‘tinh hoa’ làm tôi liên tưởng đến một vở kịch rất nổi tiếng của văn hào Molière có tựa đề là”Le Bourgeois Gentilhomme”, có thể dịch sang tiếng Việt là “Trưởng giả học làm sang” (tựa đề này dịch chưa đúng bản chất câu chuyện) và phim “Pretty Woman” vào đầu thập niên 1990s. Câu chuyện trong vở kịch lừng danh (viết vào thế kỉ 17) và cuốn phim 30 tuổi đó xem ra rất liên quan với những ý kiến về ‘quí tộc’ và ‘tinh hoa’ ở Việt Nam.

Trưởng giả học làm sang

Vở kịch “Le Bourgeois Gentilhomme” được dịch sang tiếng Anh là “The Would-be Gentleman” (‘Muốn làm trưởng giả’) theo tôi là đúng nghĩa hơn tựa đề tiếng Pháp. Câu chuyện trong vở kịch xoay quanh nhân vật tên là Jourdain, người thừa hưởng gia tài đáng kể của thân phụ để lại. Tuy có nhiều tiền, nhưng ông Jourdain là một người ít học và thuộc giai tầng thấp trong xã hội, và ông muốn trở thành một người trong giai cấp quí tộc.

Để thực hiện ước mơ đó, ông cho mướn thầy đến dạy nhạc, dạy triết học, khiêu vũ, kiếm thuật, và mướn thợ may đến thiết kế cho ông những bộ trang phục cầu kì, kiểu cách, y như những nhà quí tộc. Thấy giới quí tộc hay tổ chức những buổi hoà nhạc trong biệt thự, ông Jourdain cũng mướn những dàn nhạc biểu diễn tại nhà ông. Nói tóm lại, lão Jourdain — nói theo người miền Tây — là một kẻ học đòi.

Là kẻ học đòi, nên ông Jourdain trở thành một người hợm hĩnh và bị gạt. Xuất thân từ giai cấp hạ tầng, ông phải đóng kịch để được giới quí tộc xem là cùng ‘bộ lạc’ với họ, nhưng trong thực tế giới quí tộc chẳng xem ông ra gì vì ông không bao giờ là người của bộ lạc cả.

Chúng (giới quí tộc) lợi dụng và khai thác ông để kiếm tiền. Điển hình là tay bá tước tên là Dorante (lúc đó thiếu nợ đầy đầu) lợi dụng giấc mơ quí tộc của Jourdain để vòi tiền, vì hắn nói rằng chỉ cần đề cập cái tên Jourdain lên vua là vua sẽ xoá nợ cho Dorante; lão già Jourdain khoái chí và thế là tung tiền cho tên bá tước ma giáo.

Vì nghĩ mình đã là quí tộc, nên lão Jourdain muốn cô con gái (tên là Lucille) thành hôn với một chàng trai thuộc giai cấp quí tộc. Biết được ý định này, người yêu của Lucille là Cléonte (chàng trai thuộc giai cấp trung lưu) bèn đóng vai con trai của một bá tước Thổ Nhĩ Kì, và thế là ông Jourdain gật đầu cho cuộc hôn nhân! Ông Jourdain đã bị lường gạt vì giấc mơ quí tộc của ông.

Toàn bộ vở kịch là một bài học ở đời và cũng là một thông điệp mạnh mẽ: Hãy là chính mình, chứ đừng bắt chước người khác.

Pretty Woman — Tố Nữ

Nói đến giai tầng xã hội và ‘hãy là chính mình’ tôi chợt nhớ đến phim “Pretty Woman” do Richard Gere và Julia Roberts thủ diễn. Phim Pretty Woman, có thể xem là thuộc thể loại tình cảm hài, rất rất nổi tiếng vào đầu thập niên 1990s và trở thành một đề tài cho sách giáo khoa và nghiên cứu xã hội học.

Phim xoay quanh câu chuyện một triệu phú (hay tỉ phú?) tên là Edward Lewis (Richard Gere đóng) trong một chuyến đi công cán ở Los Angeles, và giữa lúc lạc đường trong khu phố ‘đèn đỏ’, tình cờ gặp Vivian Ward (Julia Roberts), và cuộc tình giữa hai người nảy nở từ đó để lại cho khán giả nhiều ấn tượng buồn vui về giai cấp xã hội.

Cuộc tình chợp nhoáng (1 tuần) giữa hai người, một thuộc giai cấp thượng lưu và một thuộc giai cấp hạ đẳng. Trong khi Edward là doanh nhân thuộc hạng ‘corporate raider’ mua bán các công ti để kiếm bạc triệu, Vivian là một … ‘sex worker’. Vivian lúc đó chỉ đòi 20 USD để chỉ đường cho Edward, nhưng cuộc gặp gỡ tình cờ đó trở thành một ‘hợp đồng’ tình cảm lâm thời giữa hai người.

Chỉ qua nói chuyện, Edward thấy Vivian là người thú vị chứ không đơn giản là một cô gái làng chơi. Edward lúc đó độc thân (và mới chia tay với người bạn gái) muốn mướn Vivian đóng vai là ‘partner’ để theo anh ta trong một cuộc thương lượng quan trọng với các đối tác kinh doanh. Edward đề nghị cái giá 3000 USD cho cả tuần, một số tiền quá lớn đối với cô gái đứng đường và nghèo khổ như Vivian. Edward mời Vivian về ở chung trong một penthouse thuộc một khách sạn Regent Beverly Wiltshire sang trọng bậc nhất của Los Angeles.

Trong thời gian này, Vivian được người quản lí khách sạn là Barney Thompson chỉ dạy cho cách trang phục và cách ăn uống trong nhà hàng sang trọng, hay nói chung là học làm trưởng giả để có thể xứng đôi với vị khách hàng triệu phú của khách sạn là Edward Lewis.

Pretty Woman là một câu chuyện về sự cách biệt giai cấp và lối sống. Xuyên suốt cuốn phim, cả hai người — Edward và Vivian — phải ‘đấu tranh’ với những khác biệt về giai tầng và giá trị xã hội. Vivian học làm người trưởng giả, và Edward phải thấu cảm cho những vụng về và thô kệch thỉnh thoảng được biểu hiện qua hành vi của Vivian. Nhưng Edward học từ Vivian cách đối nhân xử thế công bằng và kính trọng. Phim Pretty Woman có một cái kết có hậu (happy ending).

Sau 1 tuần hợp đồng, Edward Lewis đem lòng thương Vivian Ward (và Vivian cũng thấy thương anh chàng triệu phú). Câu chuyện được xem như là một chuyện lọ lem hiện đại. (Thật ra, bản gốc của phim thì sau khi chia tay Edward, Vivian bị chết vì quá liều thuốc phiện). Nhưng cái thông điệp quan trọng nhất của Pretty Woman là “hãy là chính mình, đừng đóng kịch”. Những cử chỉ có khi vụng về của Vivian rất đáng yêu và thật hơn là những kiểu cách kệch cỡm không tự nhiên.

Vở kịch “The Would-be Gentleman” và phim “Pretty Woman” nhắc nhở chúng ta về giai cấp xã hội ở Việt Nam ngày nay. Để hiểu chữ “giai cấp xã hội” tôi nghĩ phải hiểu cái nghĩa gốc của nó trong tiếng Anh là “socio-economic status”. Chú ý tính từ này, socio-economic, gồm hai chữ xã hội (social) và kinh tế (economic) nối kết nhau.

Xã hội ở đây phải hiểu là các yếu tố như trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú, sắc tộc, còn ‘kinh tế’ ở đây là tiền bạc và địa vị trong guồng máy kinh tế. Nói cách khác, phải có hai yếu tố — xã hội và kinh tế — (chứ không phải một) thì mới xác định một giai tầng xã hội cho một cá nhân.

Lão Jourdain tuy có nhiều tiền, nhưng không phải là người thuộc giai cấp quí tộc vì ông thiếu yếu tố xã hội. Cô Vivian Ward trong Pretty Woman tuy là một cô gái đứng đường nhưng cô có những suy nghĩ và tố chất của một người thuộc nhóm elite – tinh hoa, vì những suy nghĩ của cô thậm chí có thể thay đổi đường hướng kinh doanh của Edward Lewis.

Việt Nam có những người rất nhiều tiền, nhưng khó mà xếp họ vào nhóm ‘quí tộc’, cho dù họ rất muốn như thế. Thật ra, tôi nghĩ Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ qua không có giai cấp quí tộc. Làm sao có giai cấp quí tộc khi người ta chọn theo con đường của mấy ông Tây râu ria kia và ông Tàu mặt trơn nọ. Làm sao có giai cấp quí tộc sau cuộc cách mạng dưới danh nghĩa “trí phú, địa hào, đào tận gốc, trốc tận rễ”. Ngay cả những người muốn nghĩ mình là ‘quí tộc’ chỉ mới thoát ra từ cái văn hóa XHCN, họ không có những tố chất — và vẫn còn phải học — trí, văn, thiện, mĩ của giới quí tộc.

Nhưng các nước mới ra khỏi XHCN như Nga và Tàu có giai cấp “Nouveau riche”. Nouveau riche (có thể tạm dịch là “trọc phú mới”) là một danh từ không hàm ý nghĩa tích cực, mà là tiêu cực và có phần khinh bỉ. Thành phần nouveau riche là những người trục lợi và làm giàu, không phải nhờ vào gia tài của tổ tiên để lại, cũng chẳng phải nhờ vào thực tài đóng góp cho xã hội, mà là nhờ vào những mối quan hệ hắc ám với các thế lực cầm quyền và cướp bóc dân chúng có bài bản. Những kẻ nouveau riche làm giàu rất nhanh. Họ xuất phát từ thành phần hạ đẳng trong xã hội, và do đó, họ thường ít học, thiếu kiến thức, và kém văn hoá trong cư xử hàng ngày.

Tiêu biểu cho những kẻ nouveau riche là những trọc phú bên Tàu hiện nay, họ là những hậu duệ của những người bần cùng theo Mao làm cách mạng, và họ làm giàu nhờ vào lợi dụng mối quan hệ với đảng cộng sản Tàu — có khi là con cái của các đảng viên cao cấp — để thu tóm và buôn bán bất động sản, và khai thác tài nguyên quốc gia.

Giới nouveau riche ở Tàu đang học làm làm ‘quí tộc’. Họ thừa biết rằng đồng tiền họ đang có không mua được danh giá, không làm cho họ sang trọng, không làm cho người phương Tây nể trọng, mà ngược lại làm cho người ta khinh rẻ. Giới nouveau riche Tàu thừa biết rằng quần chúng Tàu chỉ sợ họ, nhưng trong thâm tâm thì rất khinh họ. Thế là họ phải bỏ tiền ra để ghi danh học những lớp học về văn hoá và cư xử. Những lớp học chỉ có 7 ngày nhưng tốn 12,000 USD. Cái giá 12,000 USD đó sẽ giúp cho họ biết nói tiếng Anh cho lịch lãm; biết cách hành xử ở những nơi sang trọng, như đi thang máy trong khách sạn ‘up market’; cách ăn mặc hợp thời; cách dùng muỗng nĩa trong các buổi tiệc ‘formal’; cách thưởng thức nghệ thuật, từ âm nhạc đến hội hoạ. Nói chung là họ học những ‘protocol’ và kiến thức cơ bản trong xã hội phương Tây, mà những ai sống lâu và hoà nhập ở các nước phương Tây đều không ít thì nhiều biết qua. (Có vài trường đại học bên Mỹ gởi giáo sư của họ đi học những lớp protocol này).

Ở Việt Nam, nơi có thể xem là một phiên bản của Tàu, cũng có thành phần nouveau riche. Những người nouveau riche ở Việt Nam cũng chẳng khác gì so với các đồng môn của họ ở bên Tàu về xuất thân và cách làm giàu. Do vậy, những người nouveau riche ở Việt Nam cũng có những đặc điểm giống như giới tân trọc phú ở bên Tàu, tức là vụng về trong phát biểu, nông cạn trong ý kiến, thô kệch trong hành xử, kém văn hoá trong cách ăn và mặc, v.v. Cứ nhìn trang phục và cách họ mặc, cách họ dùng cái cà vạt, cách họ quàng cái khăn ngang cổ, cách họ trang điểm, cách họ cầm li rượu, cách họ đi đứng, cách họ ngồi, v.v. thì chúng ta thấy rõ họ thiếu cái cốt cách của giai tầng ‘quí tộc’. Mượn câu nói của John Steiner (“You can take the ape out of the jungle, but you cannot take the jungle out of the ape”), họ có thể đã thoát khỏi ngôi nhà nông XHCN, nhưng cái chất lúa vẫn chưa thoát ra khỏi họ.

Việt Nam — cũng như bất cứ nước nào — có thành phần ‘political elite’. Đó là những người đang cầm quyền trong hệ thống chính trị và guồng máy kinh tế. Có thể nói đa số những political elites này là đảng viên. Vì là tinh hoa chính trị, khó mà nói họ đại diện cho quần thể dân chúng. Cứ nhìn xem ở trong nước, họ nói và viết tiếng Việt làm cho dân chúng nhăn mặt khó chịu, còn ra nước ngoài cách họ nói tiếng Anh (thật ra là đọc) trong các hội nghị quốc tế chẳng ai hiểu. Một dân tộc 90 triệu người mà có những người ‘mang chuông đi đấm xứ người’ như thế thì quả là một sự thiệt thòi đáng kể. Tóm lại, Việt Nam có thể có tầng lớp “political elite”, nhưng khó mà nói họ là “intellectual elite.” Nhưng dĩ nhiên, elite hay tinh hoa cũng không có nghĩa là ‘quí tộc’. Thật ra, tôi đoán rằng những political elites này cũng không muốn xem mình là quí tộc, vì họ tự hào xuất thân từ giai cấp lao động, và cha anh họ từng căm thù và đánh đổ giai cấp quí tộc.

Cũng giống như ông Jourdain mời dàn nhạc về nhà biểu diễn, những kẻ trọc phú mới này đang rao bán ý tưởng một nhà hát giao hưởng. Nhà hát giao hưởng để những kẻ tự xem mình là quí tộc thưởng thức. Nhưng như nói trên, họ không thể nào thuộc giai cấp quí tộc được, và họ cũng chỉ là những kẻ đang giúp cho những tên bá tước Dorante trong vở kịch Moliere trục lợi mà thôi.

Cũng như ông Jourdain trong The Would-be Gentleman và cô Vivian Ward trong Pretty Woman dù được khoác lên người những bộ đồ sang trọng và đã qua lớp học về giao tiếp trong giai cấp thượng lưu, nhưng những người trong giai cấp đó vẫn không xem cô là người trong ‘bộ lạc’. Cũng như đất nước Việt Nam, dù có tỉ phú và nhiều triệu phú đô la, nhưng trong con mắt của người phương Tây thì vẫn là một nước nghèo hay rất nghèo (và trong thực tế thì đúng như thế). Những bữa ăn bạc tỉ đồng hay những phung phí hàng trăm triệu đôla mang tính biểu tượng không làm cho họ sang hơn, mà chỉ làm cho họ hợm hĩnh hơn.

Sự hiện diện của những trọc phú mới không làm cho Việt Nam hãnh diện, mà chỉ là dấu hiệu về một sự hư hỏng mang tính hệ thống. Trong một môi trường nghèo khổ, nhà tranh vách lá, việc xuất hiện một lâu đài là dấu hiệu của hợm hĩnh. Ở Úc, những chiếc xe hơi cao ngồng ngềnh có thời được xem là antisocial — phản xã hội. Ở Việt Nam, trong môi trường đường xá tồi tệ và ngập nước triền miên mà xuất hiện ‘siêu xe’ là dấu hiệu của bất bình thường, của một ‘antisocial disease’ — bệnh phản xã hội. Tương tự, sự hiện diện của một nhà hát giao hưởng không làm cho cái thành phố mang tên Hồ Chí Minh sang trọng hơn, nếu không muốn nói là làm cho thành phố thêm nhí nhố và hợm hĩnh, như sự hợm hĩnh của căn biệt thự ở Bến Tre.

From: Tu-Phung


 

30-4 – Tưởng Niệm Thuyền Nhân và nhu cầu bảo tồn di sản tỵ nạn

Hai Cuộc Di Cư Vĩ Đại 1954 và 1975

67 năm (gần hai phần ba thế kỷ) qua, thế giới đã chứng kiến hai cuộc di cư của dân tộc Việt Nam trên diễn trình xây dựng một cuộc sống tự do, một chế độ dân chủ. Họ sẵn sàng liều mạng để bảo đảm một nếp sống tự do và tiến bộ cho con cháu. Sự quyết tâm bi thảm này đã đánh thức lương tâm nhân loại.

Cuộc Di Cư Vĩ Đại 1975

Trong những ngày cuối cùng trước khi Sài Gòn thất thủ vào tháng 4 năm 1975, khoảng 140.000 người Việt Nam có liên hệ mật thiết với chính quyền miền Nam Việt Nam cũ đã được di tản khỏi Việt Nam và tái định cư tại Hoa Kỳ. Thuyền nhân tự ra đi bắt đầu xảy ra, cuối năm 1975, khoảng 5.000 người Việt Nam đã đến Thái Lan, 4.000 người đã đến Hồng Kông, 1.800 người đã đến Singapore và 1.250 người đã đến Philippines.

Tháng 7 năm 1976, chính quyền Hà Nội bắt tay vào chương trình tái định cư dân thành thị về nông thôn, được gọi là ‘vùng kinh tế mới’.

Hơn một triệu người bị đưa vào các “trại cải tạo”. Nhiều người đã chết trong khi hàng trăm nghìn người vẫn bị giam cầm trong khổ ải vào cuối những năm 1980 sang đầu thập niên 1990.

Vào đầu năm 1978, các biện pháp chính thức đã được thực hiện để chiếm đoạt các cơ sở kinh doanh của các doanh nhân tư nhân, hầu hết trong số đó là người Việt gốc Hoa.

Thuyền Nhân

Năm 1977, khoảng 15.000 người Việt Nam đã ra khỏi nước và xin tỵ nạn tại các nước Đông Nam Á. Vào cuối năm 1978, số người chạy trốn bằng thuyền tăng gấp bốn lần; 70 phần trăm những người xin tỵ nạn này là người Việt gốc Hoa. 

Trong hơn một thập niên, những người Việt Nam đến trại do UNHCR quản lý đã được hưởng quy chế tỵ nạn sơ bộ và được trao cho cơ hội tái định cư ở nước ngoài. 

Vào giữa năm 1979, trong số hơn 550.000 người Đông Dương đã xin tỵ nạn ở Đông Nam Á kể từ năm 1975, khoảng 200.000 người được tái định cư và khoảng 350.000 người ở lại các nước tỵ nạn đầu tiên trong khu vực. 

Ngày 20 và 21 tháng 7 năm 1979, 65 chính phủ đã đáp lại lời mời của Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Tham dự hội nghị quốc tế về người tỵ nạn Đông Dương tại Geneva. Các cam kết quốc tế mà họ đã thực hiện được rất đáng kể:Cho tái định cư trên toàn thế giới tăng từ 125.000 lên 260.000.

Từ tháng 7 năm 1979 đến tháng 7 năm 1982, hơn 20 quốc gia – dẫn đầu là Hoa Kỳ, Úc, Pháp và Canada – đã tái định cư tất cả là 623.800 người tỵ nạn Đông Dương. Từ năm 1980 đến 1986, khi lượng người đến tái định cư ngày càng giảm thì sự lạc quan của các quan chức tỵ nạn về việc giải quyết cuộc khủng hoảng khu vực ngày càng gia tăng.

Nhà văn Nguyễn Quang Lập: Sài Gòn đã giải phóng tôi

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Đàn Chim Việt

Thứ mì tưởng chỉ dành cho du hành vũ trụ

Mãi tới ngày 30 tháng 4 năm 1975 tôi mới biết thế nào là ngày sinh nhật. Quê tôi người ta chỉ quan tâm tới ngày chết, ngày sinh nhật là cái gì rất phù phiếm. Ngày sinh của tôi ngủ yên trong học bạ, chỉ được nhắc đến mỗi kì chuyển cấp. Từ thuở bé con đến năm 19 tuổi chẳng có ai nhắc tôi ngày sinh nhật, tôi cũng chẳng quan tâm. Đúng ngày “non sông thu về một mối” tôi đang học Bách Khoa Hà Nội, cô giáo dạy toán xác suất đã cho hay đó cũng là ngày sinh nhật của tôi. Thật không ngờ. Tôi vui mừng đến độ muốn bay vào Sài Gòn ngay lập tức, để cùng Sài Gòn tận hưởng “Ngày trọng đại”.

Kẹt nỗi tôi đang học, ba tôi không cho đi. Sau ngày 30 tháng 4 cả nhà tôi đều vào Sài Gòn, trừ tôi. Ông bác của tôi dinh tê vào Sài Gòn năm 1953, làm ba tôi luôn ghi vào lý lịch của ông và các con ông hai chữ “đã chết”, giờ đây là triệu phú số một Sài Gòn. Ba tôi quá mừng vì ông bác tôi còn sống, mừng hơn nữa là “triệu phú số một Sài Gòn”. Ông bác tôi cũng mừng ba tôi hãy còn sống, mừng hơn nữa là “gia đình bảy đảng viên cộng sản”. Cuộc đoàn tụ vàng ròng và nước mắt. Ông bác tôi nhận nước mắt đoàn viên bảy đảng viên cộng sản, ba tôi nhận hơn hai chục cây vàng đem ra Bắc trả hết nợ nần còn xây được ngôi nhà ngói ba gian hai chái. Sự đổi đời diệu kì.

Dù chưa được vào Sài Gòn nhưng tôi đã thấy Sài Gòn qua ba vật phẩm lạ lùng, đó là bút bi, mì tôm và cassette của thằng Minh cùng lớp, ba nó là nhà thơ Viễn Phương ở Sài Gòn gửi ra cho nó. Chúng tôi xúm lại quanh thằng Minh xem nó thao tác viết bút bi, hồi đó gọi là bút nguyên tử. Nó bấm đít bút cái tách, đầu bút nhô ra, và nó viết. Nét mực đều tăm tắp, không cần chấm mực không cần bơm mực, cứ thế là viết. Chúng tôi ai nấy há hốc mồm không thể tin nổi Sài Gòn lại có thể sản xuất được cái bút tài tình thế kia.

Tối hôm đó thằng Mình bóc gói mì tôm bỏ vào bát. Tưởng đó là lương khô chúng tôi không chú ý lắm. Khi thằng Minh đổ nước sôi vào bát, một mùi thơm rất lạ bốc lên, hết thảy chúng tôi đều nuốt nước bọt, đứa nào đứa nấy bỗng đói cồn cào. Thằng Minh túc tắc ăn, chúng tôi vừa nuốt nước bọt vừa cãi nhau. Không đứa nào tin Sài Gòn lại có thể sản xuất được đồ ăn cao cấp thế kia. Có đứa còn bảo đồ ăn đổ nước sôi vào là ăn được ngay, thơm ngon thế kia, chỉ dành cho các du hành vũ trụ, người thường không bao giờ có.

Thằng Minh khoe cái cassete ba nó gửi cho nó để nó học ngoại ngữ. Tới đây thì tôi bị sốc, không ngờ nhà nó giàu thế. Với tôi cassete là tài sản lớn, chỉ những người giàu mới có. Năm 1973 quê tôi lần đầu xuất hiện một cái cassete của một người du học Đông Đức trở về. Cả làng chạy đến xem máy ghi âm mà ai cũng đinh ninh đó là công cụ hoạt động tình báo, người thường không thể có.

Suốt mấy ngày liền, dân làng tôi say sưa nói vào máy ghi âm rồi bật máy nghe tiếng của mình. Tôi cũng được nói vào máy ghi âm và thật vọng vô cùng không ngờ tiếng của tôi lại tệ đến thế. Một ngày tôi thấy tài sản lớn ấy trong tay một sinh viên, không còn tin vào mắt mình nữa. Thằng Minh nói, rẻ không à. Thứ này chỉ ghi âm, không có radio, giá hơn chục đồng thôi, bán đầy chợ Bến Thành. Không ai tin thằng Minh cả. Tôi bĩu môi nói với nó, cứt! Rứa Sài Gòn là tây à? Thằng Mình tủm tỉm cười không nói gì, nó mở casete, lần đầu tiên chúng tôi được nghe nhạc Sài Gòn, tất cả chết lặng trước giọng ca của Khánh Ly trong Sơn ca số 7. Kết thúc Sơn ca số 7 thằng Hoan bỗng thở hắt một tiếng thật to và kêu lên, đúng là tây thật bay ơi!

Sài Gòn là tây, điều đó hấp dẫn tôi đến nỗi đêm nào tôi cũng mơ tới Sài Gon. Kì nghỉ hè năm sau, tháng 8 năm 1976, tôi mới được vào Sài Gòn. Ba tôi vẫn bắt tôi không được đi đâu, “ở nhà học hành cho tử tế”, nhưng tôi đủ lớn để bác bỏ sự ngăn cấm của ông. Hơn nữa cô họ tôi rất yêu tôi, đã cho người ra Hà Nội đón tôi vào. Xe chạy ba ngày ba đêm tôi được gặp Sài Gòn. Tôi sẽ không kể những gì lần đầu tôi thấy trong biệt thự của ông bác tôi, từ máy điều hòa, tủ lạnh, ti vi tới xe máy, ô tô, cầu thang máy và bà giúp việc tuổi năm mươi một mực lễ phép gọi tôi bằng cậu. Ngay mấy cục đá lạnh cần lúc nào có ngay lúc đó cũng đã làm tôi thán phục lắm rồi. Thán phục chứ không ngạc nhiên, vì đó là nhà của ông triệu phú. Xin kể những gì buổi sáng đầu tiên tôi thực sự gặp gỡ Sài Gòn..

Khấp khởi và hồi hộp, rụt rè và cảnh giác, tôi bước xuống lòng đường thành phố Sài Gòn và gặp ngay tiếng dạ ngọt như mía lùi của bà bán hàng tạp hóa đáng tuổi mạ tôi. Không nghĩ tiếng dạ ấy dành cho mình, tôi ngoảnh lại sau xem bà chủ dạ ai. Không có ai. Thì ra bà chủ dạ khách hàng, điều mà tôi chưa từng thấy. Quay lại thấy nụ cười bà chủ, nụ cười khá giả tạo. Cả tiếng dạ cũng giả tạo nhưng với tôi là trên cả tuyệt vời. Từ bé cho đến giờ tôi toàn thấy những bộ mặt lạnh lùng khinh khỉnh của các mậu dịch viên, luôn coi khách hàng như những kẻ làm phiền họ. Lâu ngày rồi chính khách hàng cũng tự thấy mình có lỗi và chịu ơn các mậu dịch viên. Nghe một tiếng dạ, thấy một nụ cười của các mậu dịch viên dù là giả tạo cũng là điều không tưởng, thậm chí là phi lí..

Tôi mua ba chục cái bút bi về làm quà cho bạn bè. Bà chủ lấy dây chun bó bút bi và cho vào túi nilon, chăm chút cẩn thận cứ như bà đang gói hàng cho bà chứ không phải cho tôi. Không một mậu dịch viên nào, cả những bà hàng xén quê tôi, phục vụ khách hàng được như thế, cái túi nilon gói hàng càng không thể có. Ai đòi hỏi khách hàng dây chun buộc hàng và túi nilon đựng hàng sẽ bắt gặp cái nhìn khinh bỉ, vì đó là đòi hỏi của một kẻ không hâm hấp cũng ngu xuẩn. Giờ đây bà chủ tạp hóa Sài Gòn làm điều đó hồn hậu như một niềm vui của chính bà, khiến tôi sửng sốt. Cách đó chưa đầy một tuần, ở Hà Nội tôi đi sắp hàng mua thịt cho anh cả. Cô mậu dịch viên hất hàm hỏi tôi, hết thịt, có đổi thịt sang sườn không? Dù thấy cả một rổ thịt tươi dưới chân cô mậu dịch viên tôi vẫn đáp, dạ có! Tranh cãi với các mậu dịch viên là điều dại dột nhất trần đời. Cô mậu dịch viên ném miếng sườn heo cho tôi. Cô ném mạnh quá, miếng sườn văng vào tôi. Tất nhiên tôi không hề tức giận, tôi cảm ơn cô đã bán sườn cho tôi và vui mừng đã chụp được miếng sườn, không để nó rơi xuống đất. Kể vậy để biết vì sao bà chủ tạp hóa Sài Gòn đã làm tôi sửng sốt..

Rời quầy tạp hóa tôi tìm tới một quán cà phê vườn. Uống cà phê để biết, cũng là để ra dáng ta đây dân Sài Gòn. Ở Hà Nội tôi chỉ quen chè chén, không dám uống cà phê vì nó rất đắt. Tôi ngồi vắt chân chữ ngũ nhâm nhi cốc cà phê đen đá pha sẵn, hút điếu thuốc Capstan, tự thấy mình lên hẳn mấy chân kính. Không may tôi vô ý quờ tay làm đổ vỡ ly cà phê. Biết mình sắp bị ăn chửi và phải đền tiền ly cà phê mặt cậu bé hai mươi tuổi đỏ lựng. Cô bé phục vụ chạy tới vội vã lau chùi, nhặt nhạnh mảnh vỡ thủy tinh với một thái độ như chính cô là người có lỗi. Cô thay cho tôi một ly cà phê mới nhẹ nhàng như một lẽ đương nhiên. Tôi thêm một lần sửng sốt..

Một giờ sau tôi quay về nhà ông bác, phát hiện sau nhà là một con hẻm đầy sách. Con hẻm ngắn, rộng rãi. Tôi không nhớ nó có tên đường hay không, chỉ nhớ rất nhiều cây cổ thụ tỏa bóng sum sê, hai vỉa hè đầy sách. Suốt buổi sáng hôm đó tôi tha thẩn ở đây. Quá nhiều sách hay, tôi không biết nên bỏ cuốn gì mua cuốn gì. Muốn mua hết phải chất đầy vài xe tải. Giữa hai vỉa hè mênh mông sách đó, có cả những cuốn sách Mác – Lê. Cuốn Tư Bản Luận của Châu Tâm Luân và Hành trình trí thức của Karl Marx của Nguyễn Văn Trung cùng nhiều sách khác. Thoạt đầu tôi tưởng sách từ Hà Nôi chuyển vào, sau mới biết sách của Sài Gòn xuất bản từ những năm sáu mươi. Tôi hỏi ông chủ bán sách, ở đây người ta cũng cho in sách Mác – Lê à? Ông chủ quán vui vẻ nói, dạ chú. Sinh viên trong này học cả Mác – Lê. Tôi ngẩn ngơ cười không biết nói gì hơn..

Chuyện quá nhỏ, với nhiều người là không đáng kể, với tôi lúc đó thật khác thường, nếu không muốn nói thật lớn lao. Tôi không cắt nghĩa được đó là gì trong buổi sáng hôm ấy. Tôi còn ở lại Sài Gòn thêm 30 buổi sáng nữa, vẫn không cắt nghĩa được đó là gì. Nhưng khi quay ra Hà Nội tôi bỗng sống khác đi, nghĩ khác đi, đọc khác đi, nói khác đi. Bạn bè tôi ngày đó gọi tôi là thằng hâm, thằng lập dị..

Tôi thì rất vui vì biết mình đã “được giải phóng”

Nguồn: Nguyễn Quang Lập


 

Vingroup và công an chỉ “cột dây giày trong ruộng dưa”?

 Ba’o Tieng Dan

RFA

Đồng Phụng Việt

30-4-2024

Xe điện của VinFast được trưng bày ở cửa hàng tại Hà Nội hôm 29/9/2023. Ảnh minh họa. Nguồn: AFP

Lê Minh Nguyên vừa đưa lên trang Facecebook của ông bài lược thuật về tai nạn xảy ra ở Pleasanton – một thành phố nhỏ ở khu vực Bắc California, hôm 24/4/2024. Bài lược thuật đó không dài nên xin dẫn lại:

VinFast làm thinh – Báo Việt Nam không được đăng

Gia đình bốn người chết hết vì đi xe VinFast đụng vào cây sồi bốc cháy khoảng 9 giờ tối thứ tư 24/4 ở Pleasanton, Bắc California. Tốc độ cho phép lái trên đường Stoneridge Drive của thành phố này là 40 dặm một giờ, có nghĩa là tốc độ tương đối chậm, có thể thắng kịp khi gặp sự cố. Cảnh sát cho biết việc xe chạy quá tốc độ có góp một phần vào tai nạn và không có chỉ dấu gì là do rượu, ma túy hay giằng co, gây gổ. Xe va vào trụ lề đường rồi lạc tay lái đụng vào cây, bốc cháy dữ dội ngay sau đó và ông Larry Lai, sống gần đó cho biết, ông đang ở bên ngoài thì nghe thấy tiếng nổ vào thời điểm xảy ra tai nạn. Ông nói: “Cứ năm đến mười giây lại có một tiếng nổ lớn, có thể khoảng năm đến tám lần. Ba nguời chết đã được nhận diện là: Tarun Cherukara George, 41 tuổi. Rowan George, 13 tuổi, Aaron George, 9 tuổi. Người thứ tư do bị cháy quá tệ nên chưa thể nhận diện sớm được, chỉ biết là phái nữ.

VinFast từ chối sự tiếp xúc để xin ý kiến của hãng tin NBC Bay Area. Cho tới thời điểm này, VinFast vẫn còn làm thinh về tai nạn. Trong nước các báo loan tin thì bị gỡ bài. VinFast không thể và không nên ứng xử thờ ơ trước một tai nạn kinh khủng như vậy ở Mỹ, không nên đem cung cách ứng xử với nguời tiêu dùng ở Việt Nam để áp dụng ở Mỹ, vì sẽ thất bại ê chề!

Việc xe chạy quá tốc độ cho phép, vẫn còn chưa rõ là lỗi từ người lái – một kỹ sư làm việc cho Google và được láng giềng quý mến – hay từ phần mềm. Dù cuộc điều tra đang tiến hành để biết chính xác nguyên nhân xảy ra tai nạn nhưng cháy và nổ liên tục khi xe vừa đụng vào cây cho thấy người trong xe không có những phút giây cần thiết để tẩu thoát, người cứu nạn không có thời gian và điều kiện để tiếp cận giải cứu – đây là những điều mà Tesla đã cẩn thận làm và test tới test lui trước khi đưa ra thị trường.

VinFast bán xe nhưng nên hiểu là mạng người không rẻ rúng (1).

***

Thật ra đã có rất nhiều người trích dịch tin tức từ các cơ quan truyền thông ở Mỹ, trong đó có cả những cơ quan truyền thông hướng đến độc giả người Việt như RFA về vụ tai nạn thảm khốc này (2). Người viết bài chọn giới thiệu lược thuật của ông Lê Minh Nguyên về tai nạn liên quan tới sản phẩm của VinFast vì vài lý do: Có một số thông tin mới. Chừng mực. Đặc biệt, ông Nguyên cũng là người Việt nhưng chắc chắn không cần phải… đào tẩu và… xin tị nạn như… Sonnie Tran vì ông ở bên ngoài Việt Nam!

Sonnie Trần tên thật là Trần Mai Sơn, 38 tuổi, cũng là người Việt như ông Lê Minh Nguyên nhưng sống ở Việt Nam. Sonnie Tran nổi tiếng vì chuyên chắt lọc, tổng hợp thông tin từ các cáo bạch của Vingroup, đối chiếu với những tài liệu của các doanh nghiệp ngoại quốc như Tata, LongChuan,… để phân tích, nhận định về Vingroup và VinFast – một trong những sản phẩm nổi tiếng của Vingroup – trên mạng xã hội. Những phân tích của Sonnie Tran được thiên hạ chú ý vì chúng thuộc dạng… điền thế (cung cấp các thông tin, ý kiến về Vingroup hay VinFast mà thiên hạ quan tâm nhưng không thể tìm thấy trên hệ thống truyền thông chính thức tại Việt Nam).

Tuy nhiên đó cũng là lý do Sonnie Tran gặp rắc rối. Từ cuối năm ngoái đến đầu năm nay, Sonnie Tran liên tục bị công an Việt Nam triệu tập để lấy lời khai vì các sản phẩm thông tin mà theo công an là có dấu hiệu “lợi dụng các quyền tự do, dân chủ xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”.

Việc Sonnie Tran bị sách nhiễu đã khiến một số cơ quan truyền thông quốc tế ngạc nhiên và nêu ra như một hiện tượng vừa kỳ dị, vừa đáng ngại ở Cộng hòa XHCN Việt Nam. Tuy nhiên điều đó không giúp giảm áp lực mà Sonnie Tran phải gánh chịu. Áp lực gia tăng đến mức Sonnie Tran phải trốn khỏi Việt Nam, tìm cách được hưởng quy chế tị nạn chính trị,…

Tin Sonnie Tran đào tẩu xuất hiện gần như cùng lúc với tin về vụ tai nạn thảm khốc ở Pleasanton. Gọi là đào tẩu vì theo Sonnie Tran, ông đã bị cấm xuất cảnh và rắc rối xuất hiện, áp lực càng ngày càng gia tăng bởi công an Việt Nam thực hiện yêu cầu của Vingroup (3). Vingroup đã từng làm như thế với nhiều người. Một trong những vụ từng khuấy động dư luận là chuyện ông Trần Văn Hoàng dám sử dụng YouTube để phàn nàn về những khiếm khuyết của chiếc VinFast mà ông đã mua rồi bị công an triệu tập…

***

Thiên hạ ở cả trong lẫn ngoài Việt Nam đã từng và có lẽ sẽ còn tiếp tục bàn tán rất nhiều về việc tại sao hệ thống truyền thông chính thức ở Việt Nam lại chọn phương thức hành xử theo kiểu “mũ ni che tai” trước những thông tin, sự kiện mà về mặt nghề nghiệp vốn dĩ không thể bỏ qua nhưng lại cương quyết không màng tới chỉ vì không có lợi cho sự nghiệp của Vingroup. Thiên hạ cũng không thể lý giải tại sao công an Việt Nam lại quan tâm và bảo vệ Vingroup tận tình như vậy?

Ông Tô Lâm – nhân vật lãnh đạo Bộ Công an – có biết hiện tượng hết sức bất thường này không? Đặc biệt là khi hiện tượng hết sức bất thường này trở thành “sự kiện và vấn đề” trên hệ thống truyền thông quốc tế, gây tổn hại cho nỗ lực vận động thiên hạ công nhận Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh – vấn đề có tính chất sống còn đối với sự ổn định và phát triển của kinh tế, xã hội Việt Nam – chẳng lẽ hiện tượng hết sức bất thường đó nằm ngoài phạm trù an ninh kinh tế?

Trong quá khứ, ông Tô Lâm từng dính dáng đến chủ một thực thể vốn gần gũi với người đang nắm giữ quyền điều hành Vingroup. Thực thể đó là Công ty Nghe nhìn toàn cầu (AVG). AVG nằm trong tay của ông Phạm Nhật Vũ – bào đệ của ông Phạm Nhật Vượng. Năm 2014, ông Phạm Nhật Vũ quyết định bán 95% cổ phần cho Mobifone (doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong lĩnh vực thông tin truyền thông – TTTT). Giá trị thực của số cổ phần này chỉ có 1.900 tỷ đồng nhưng Mobifone lại mua với giá 8.900 tỷ đồng.

Sự việc vỡ lở, một Ủy viên BCH TƯ đảng đồng thời là cựu Bộ trưởng TTTT bị phạt tù chung thân (Nguyễn Bắc Son), một Ủy viên BCH TƯ Đảng kiêm Bộ trưởng TTTT lúc đó bị phạt 14 năm tù (Trương Minh Tuấn), Chủ tịch Hội đồng thành viên Mobifone bị phạt 23 năm tù (Lê Nam Trà),… nhưng ông Phạm Nhật Vũ chỉ bị phạt ba năm tù vì hai… ngày trước khi Thanh tra của chính phủ (TTCP) công bố Kết luận Thanh tra (KLTT) đã chủ động đề nghị hủy thương vụ, trả lại toàn bộ tiền cho Mobifone.

Tuy TTCP khẳng định trong KLTT rằng Bộ Công an đã phát hành ba công văn “trái quy định về chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền”, đồng thời đề nghị “Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Công an tổ chức kiểm điểm, xử lý trách nhiệm theo quy định của pháp luật các tổ chức, cá nhân thuộc Bộ Công an trong việc tham mưu ban hành ba văn bản tham gia ý kiến với Bộ TTTT” (4) nhưng ông Tô Lâm khi ấy là Thượng tướng, Thứ trưởng Công an – người ký cả ba văn bản vẫn vô sự.

Phiên xử vụ án Mobifone – AVG cho thấy, cả ba văn bản mà ông Tô Lâm đã ký không chỉ dọn đường để Mobifone mua cổ phần của AVG với giá trên trời mà việc tùy tiện xếp thương vụ vào diện “Mật” hoặc “Tối mật” đã ngăn chặn tất cả mọi người tiếp cận, đề cập đến thương vụ Mobifone mua 95% cổ phần của AVG. Sự việc vỡ lở chỉ vì một số thành viên của Mobifone kiên trì tố cáo không ngưng nghỉ cả bằng đơn, thư gửi đi khắp nơi lẫn bày ra những khuất tất trên mạng xã hội và tương quan thế lực ở thượng tầng thay đổi.

Một trong ba công văn  (CV số 418/BCA-TCAN ngày 9/3/2015) đề nghị Bộ TTTT “chỉ đạo hai doanh nghiệp không công khai, tuyên truyền sự việc, quản lý chặt chẽ các thông tin, tài liệu liên quan đến việc chuyển nhượng vì đây là bí mật kinh doanh của doanh nghiệp”. Đồng thời Thượng tướng Tô Lâm còn “đề nghị Bộ Thông tin Truyền thông phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương chỉ đạo các cơ quan thông tấn, báo chí không đưa tin, bài viết bình luận về hoạt động chuyển nhượng giữa hai doanh nghiệp” (5). Xem lại công văn này ắt thấy, “biện pháp nghiệp vụ” vừa kể đã được dùng nhiều lần, với nhiều đối tượng và đã dùng ắt vấn đề không nhỏ.

Chưa có bằng chứng nào về việc Bộ Công an nói chung và lực lượng an ninh thuộc Bộ Công an nói riêng, bảo kê cho Vingroup. Cũng chưa có bằng chứng nào về việc Vingroup dùng Bộ Công an, song chẳng lẽ tất cả đều là ngẫu nhiên? Ngạn ngữ có câu “trong ruộng dưa đừng cột dây giày, dưới gốc mận đừng sửa mũ”, hàm ý người tử tế nên tránh gây ngộ nhận. Cả Vingroup lẫn Bộ Công an dưới quyền điều hành của ông Tô Lâm chưa chú ý để tránh ngộ nhận và trong tương lai có muốn tránh chăng?

_________

Tham khảo:

(1) https://www.facebook.com/LeMinhNguyen22/posts/pfbid046tZ4n4UG8aro4LMVFaKZp8GaVatP9GrnM46Bys43BXNLWyTmLvwQ663TnbQVX8Sl

(2) https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/vinfast-car-crash-4-deaths-04292024060743.html

(3) https://www.voatiengviet.com/a/sonnie-tran-xin-ti-nan-to-cong-an-sach-nhieu-ham-doa-do-ong-phan-tich-vinfast-vingroup/7587298.html

(4) https://thanhtra.com.vn/thanh-tra/hoat-dong-nganh/Thanh-tra-Chinh-phu-cong-bo-ket-luan-thuong-vu-MobiFone-mua-AVG-131455.html

(5) https://baotiengdan.com/2022/12/27/su-nghiep-cua-hai-pho-thu-tuong-pham-binh-minh-va-vu-duc-dam-cham-dut-phan-2/


 

Hỏa Tiễn ATTACMS giúp Ukraine tiến đến làm chủ tình hình ở Cremea

Tổng Hợp Báo Chí Quốc Tế Các quan chức cấp cao của Lầu Năm Góc cho biết hôm thứ Năm rằng các lực lượng Ukraine sẽ có thể sử dụng hệ thống tên lửa tầm xa mới được chuyển giao để nhắm mục tiêu hiệu quả hơn vào các lực lượng Nga ở Crimea bị chiếm đóng. Sau nhiều tháng yêu cầu, Ukraine đã nhận được phiên bản tầm xa hơn của Hệ thống tên lửa chiến thuật quân đội, được gọi là ATACMS, có thể di chuyển đến 190 dặm.  

 

Philip Karber, một nhà phân tích quân sự chuyên về Ukraine, nói với Đài châu Âu Tự do rằng “việc cung cấp ATACMS là một bước đột phá lớn”. Ông nói rằng vũ khí “về cơ bản có thể khiến Crimea trở nên vô giá trị về mặt quân sự”.

Crimea đã được củng cố tiềm lực quân sự mạnh mẽ kể từ khi lực lượng của Tổng thống Vladimir Putin chiếm đóng, có các căn cứ bộ binh và hải quân. Đây là nơi có cảng tiên tiến Sevastopol, trụ sở của Hạm đội Biển Đen của Nga.

Crimea cũng đóng vai trò là trung tâm hậu cần và tuyến đường tiếp tế quân sự quan trọng cho quân Nga ở miền nam Ukraine, và là bệ phóng cho một loạt các cuộc tấn công bằng tên lửa và máy bay không người lái của Nga.

 

Ukraine đã giáng nhiều đòn mạnh vào Crimea trước đây – làm suy yếu đáng kể Hạm đội Biển Đen của Nga, cảng Sevastopol và định kỳ nhắm mục tiêu vào cây cầu chiến lược Kerch nối bán đảo với Nga.

Chúng đã được thực hiện khác nhau bởi các loại vũ khí bao gồm máy bay không người lái trên không và hải quân, và có thể là tên lửa Storm Shadow / SCALP do Anh và Pháp cung cấp.

Nhưng ATACMS có một lợi thế quan trọng so với Storm Shadows, Radio Free Europe đưa tin, ở chỗ chúng có tốc độ di chuyển nhanh hơn nhiều khiến cho việc bắn chặn khó khăn hơn.

Báo Người Kinh Doanh Trong Cuộc:

Tháng trước, khi Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelenskyy kêu gọi Quốc hội đồng ý về gói viện trợ cho Ukraine, ông đã chỉ ra ATACMS là vũ khí quan trọng để nhắm mục tiêu vào các sân bay ở Crimea.

“Khi Nga biết chúng tôi có thể phá hủy những máy bay này, họ sẽ không tấn công từ Crimea”ông Zelenskyy nói với Washington Post.

“Nó giống như tình trạng xảy ra với hạm đội biển Đen”, ông nói thêm. “Chúng tôi đã đẩy họ ra khỏi lãnh hải của chúng tôi. Bây giờ chúng tôi sẽ đẩy họ ra khỏi các sân bay ở Crimea”.