S.T.T.D Tưởng Năng Tiến – Nguyễn Chí Thiệp

Ba’o Dan Chim Viet

Tác Giả: Tưởng Năng Tiến

12/12/2024

Tác phẩm (Ký Ức Sơ Sài) của nhà giáo Nguyễn Anh Khiêm, có ghi lại một câu nhận định của bạn bè tác giả về nơi sinh trưởng của ông: “Này, tao nói thật nghe, Quảng Nam mày mười thằng thì tao thấy hết chín đứa liều mạng rồi. Nói thế cũng không đúng hẳn, tao thấy thật ra là … chín thằng rưỡi!”

Tôi cũng quen biết đâu chừng vài chục ông/bà Quảng Nam. Nhận xét của tôi về họ thì hơi khác: mười người chỉ cỡ tám kẻ liều mạng mà thôi, hai còn lại thì cẩn trọng và dè dặt hơn (chút xíu) nhưng cũng sẵn sàng bán mạng hay liều mình – khi cần.

Nguyễn Chí Thiệp (NCT) thuộc loại này.

Ở trang bìa sau của cuốn Trại Kiên Giam – do Sông Thu xuất bản lần đầu, năm 1992 – tôi thấy in dòng chữ sau: NCT sinh năm 1944 tại Quảng Nam, tốt nghiệp Học Viện Quốc Gia Hành Chánh 1965 – 1969, trường Bộ Binh Thủ Đức 1966, Chính Trị Kinh Doanh Đà Lạt 1970…

Tác giả – rõ ràng – không phải là kẻ liều lĩnh mà là mẫu người của cửa Khổng sân Trình, với tâm niệm tu thân/tề gia/bình thiên hạ. Tuy thế, thay vì theo đúng lời dậy của Khổng Tử (nguy bang bất nhập loạn bang bất cư / không vào nước lâm nguy, không ở nước loạn lạc) cho nó chắc ăn thì NCT lại hành xử khác hẳn. Liều lĩnh hơn thấy rõ!

Dù là một công chức cao cấp của chính quyền miền Nam nhưng ông không chịu di tản ra nước ngoài, và cũng nhất định không chịu “đi trình diện học tập” (như bao kẻ khác) sau khi vùng đất này thất thủ.

Đã thế, NCT còn tính “vào bưng” luôn nữa chớ – theo như lời của chính ông, qua tác phẩm thượng dẫn: “Có người móc nối tôi vào tổ chức Phục Quốc, nhưng tôi từ chối vì biết không thể hoạt động ở nội thành – vào bưng để chiến đấu thì không có tổ chức nào có mật khu. Có lần tôi lên Dốc Mơ, để được đưa vào mật khu, không thành …”

Chả trách, NCT bị bắt với tội danh (“tham gia tổ chức phản cách mạng”) tuy không hoàn toàn chính xác nhưng cũng chả oan ức gì cho lắm. Vào tù không lâu, ông đã gặp ngay giáo sư Đoàn Viết Hoạt – một nhân vật cũng vô cùng liều lĩnh dù không hề dính dáng chi đến Quảng Nam – và hai người lại “rù rì” tính chuyện tiếp tục  … vá Trời :

“Chúng tôi mong được đóng góp và chia sẻ với những anh em trẻ bị bắt trong các tổ chức phục quốc. Giúp họ thêm một phần hiểu biết, cộng với nhiệt tình của tuổi trẻ và lòng căm thù sâu sắc với Cộng sản, để trước hết là những ngày tù không trở nên vô ích, không bị hủy hoại tinh thần trí óc bởi sự nhàn rỗi…

Thứ nữa, để anh em hiểu biết rằng là tại sao mình chống Cộng và mình chống Cộng để xây dựng cái gì cho đất nước – Lòng căm thù là một động lực để có hành động chống Cộng, nhưng lòng căm thù chưa đủ, và lòng căm thù lại càng không thích hợp cho sự xây dựng…

Về sau vì số các em càng đông, không thể ngồi nói chuyện được, anh em đề nghị làm tài liệu viết… Chúng tôi bắt đầu phổ biến tài liệu viết, đặt tên là tập ‘Rèn Luyện.

Thể thức phổ biến là lập các địa điểm hộp thư tại sân khấu hội trường, anh em thân thiết tin cậy được chỉ những hộp thư đó, đọc xong để lại và thống nhất cách khai nếu bị bắt, khai là lượm được tò mò đọc chơi không biết của ai.

Những anh em có nhiệm vụ ‘lên khuôn’ cố gắng viết chữ in và tránh nét chữ quen thuộc của mình để tránh điều tra phát hiện. Tài liệu ‘Rèn Luyện’ được duy trì cho tới tháng 3-1979, đa số anh em chuyển trại vào khu nhà xây mới chấm dứt.”

Qua tháng 9 cùng năm, khi chuyển đến Trại Trừng Giới A20 và gặp gỡ thêm nhiều bạn đồng điệu (liều mạng) khác thì NCT lại tiếp tục làm báo nữa. Thế là tờ Hợp Đoàn được hình thành giữa chốn lao tù :

“Trao đổi ý kiến với Trần Danh San và Vũ Văn Ánh, chúng tôi đồng ý với nhau cần phổ biến rộng rãi hơn những hiểu biết ít ỏi về chế độ Cộng sản, về những vấn đề trọng đại của thế giới, để cùng nhau có những cái nhìn xa hơn và sẵn sàng chấp nhận một thời gian tù đày lâu dài, có một niềm tin là chế độ Cộng sản sẽ sụp đổ…

Hợp Đoàn xem như là một thành công, anh em tiếp nhận đọc rất thận trọng và nghiêm túc. Thực chất nội dung vẫn chưa hẳn là một tờ báo đáng giá gì nhưng vì ở trong tù vừa khó khăn vừa nguy hiểm, mỗi lần Ánh hay Cường viết và lên khuôn tờ báo, những anh em thân thiết đều phải canh chừng và tổ chức đánh cờ chung quanh để tránh sự dòm ngó của ăng-ten, nên công một người thành công của nhiều người. Anh em đọc (cũng) cố bảo vệ nó như người phát hành, vì nếu đổ bể ra thì tất cả đều bị chịu thiệt hại.”

Tất nhiên là phải đổ bể thôi, và sự thiệt hại (xem ra) hơi nhiều – theo như tường thuật của người tù Nguyễn Thanh Khiết, trong cuốn Ký Ức Bỏ Quên :

Cũng vì tờ Hợp Đoàn mà 1983 có gần 60 mạng vào biệt giam … Tháng 10-1986 Alpha, Nguyễn Chí Thiệp, Trần Danh San, Trần Bửu Ngọc, Ngô Văn Ly, Nguyễn Tú Cường, cùng vài đấng máu mặt bị quăng lên xe đưa về trại T20 (Thành Gia Định).

Bọn chèo dứt khoát muốn đào tận gốc rễ tờ báo “Hợp Đoàn”. Chính vì thế tại trại giam này, một số các anh được thả từ 1981-82 cũng bị hốt lại, trong đó có mặt những hào kiệt từng làm điêu đứng bọn cai tù ở trại A20, Phạm Đức Nhì, Trần Đức Long, Bùi Đạt Trung, Nguyễn Văn Hiếu, Phạm Chí Thành …

Đến nông nỗi này rồi, và đã qua hơn 10 năm bị giam cầm nhưng NCT vẫn chưa biết sợ. Ông lại vẫn “liều mình” để cứu bạn :

“Cả đêm hôm đó và những ngày tiếp theo tôi suy nghĩ làm thế nào để cắt vụ án cho gọn và nhẹ, càng ít người dính dáng càng tốt, tôi đã bị Hải và Ly khai quá rõ, chừng đó đối với pháp chế của Việt Cộng cũng đủ buộc tội, dù tôi không nhận.

Vậy tốt hơn là tôi theo đúng như lời Hải khai, tôi nhận là chủ trương tờ báo… Tôi sẽ cắt phần đóng góp của anh Trần Danh San vì có thêm anh San vào không có ích lợi – kể cả phần của Ánh cũng vậy, tôi sẽ khai giống như Hải, Ánh chỉ là người cộng tác mà thôi. Thực ra, Ánh là người chủ chốt.”

May mắn là Viện Kiểm Sát Nhân Dân đổi ý vào phút chót nên vụ báo Hợp Đoàn được cho chìm xuồng êm thắm. Dù có ngu tối và tàn ác đến đâu chăng nữa, nhà đương cuộc Hà Nội – cuối cùng – cũng phải nhận thức được rằng làm lớn chuyện báo chui (underground press) trong một trại tù thì chả được cái giải gì sất cả, ngoài việc khiến cho thiên hạ thấy rõ thêm tính chất bất khuất của những kẻ thuộc bên thua cuộc.

Nhờ thế, sau hơn 13 năm tù (với nhiều năm biệt giam) NCT được phóng thích vào hôm 13 tháng 2 năm 1988, khi đã ngoại tứ tuần.

Thế là coi như xong một kiếp người chăng?

Chưa “xong” đâu. Dễ gì mà một thằng cha liều mạng cỡ NCT chịu “xong’ như vậy. Bạn học của ông, nhà thơ Luân Hoán cảm thán: Mừng ông, lẽ đương nhiên/ nhất là khi được biết/ ông vượt Trại Kiên Giam/ trở thành người cầm viết.

Tất cả những câu văn trong ngoặc kép (thượng dẫn) đều được trích dẫn từ Trại Kiên Giam. NCT hoàn tất tác phẩm này vào năm 1990, và được xuất bản (lần đầu) vào năm 1992. Thế mà mãi đến ba mươi năm sau tôi mới hân hạnh được cầm đến cuốn sách, và liên lạc được với tác giả. Thực là đáng tiếc, và đáng trách. Tôi mong được ông thứ lỗi vì sự muộn màng và chậm trễ này.


 

Hạnh phúc là để cảm nhận, không phải để ba hoa.

Nguyễn Trung Hiếu 

ĐỌC & SUY NGẪM

—Một đoạn đường, nếu đi lâu mà không nhìn thấy hy vọng thì nên thay đổi phương hướng.

—Một sự việc, nghĩ đã nhiều vẫn không mở được nút thắt trong lòng thì nên buông xuống.

—Một số người, qua lại lâu ngày vẫn không cảm nhận được sự chân thành thì hãy rời xa.

—Một lối sống, áp dụng một thời gian dài vẫn không tìm thấy niềm vui thì nên chọn cách thay đổi…

—Hạnh phúc là để cảm nhận, không phải để ba hoa.

—Công danh là để cống hiến, không phải để kiêu ngạo.

—Vật chất là để sử dụng, không phải để khoe khoang.

—Tiền bạc là để chi tiêu, không phải để so lường.

—Cuộc sống là để trải nghiệm, không phải để toan tính.

—Tình cảm là để yêu thương, không phải để lợi dụng.

—Cha mẹ là để hiếu thuận, không phải để đòi hỏi.

—Bạn bè là để sẻ chia, không phải để lấn lướt.

—Niềm tin là để vững tâm, không phải để lường gạt.

—Người thân là để chăm sóc, không phải để tổn thương.

Nguồn ảnh: Internet


 

ĐỜ ĐẪN  – Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

Lm. Minh Anh, Tgp. Huế

“Chúng tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa!”.

“Thiên thần Niềm Tin bước vào căn phòng lòng tôi; vừa đi, vừa hát, vừa thổi sáo. Những vị khách lần lượt ra đi: Sợ Hãi và Lo Lắng, Đau Buồn và Ảm Đạm lao vào màn đêm! Tôi tự hỏi, làm sao có thể có một hoà khí như vậy? Niềm Tin thì thầm, ‘Bạn không thấy sao? Các nhân vật đó thực sự không thể cùng tôi chung sống!’” – Một nhà thơ cổ.

Kính thưa Anh Chị em,

Lời Chúa hôm nay tiết lộ, không chỉ thiên thần của niềm tin, nhưng Chúa Giêsu vẫn thường bước vào lòng chúng ta; Ngài vừa đi, vừa hát, vừa thổi sáo. Tiếc thay, khác nào lũ trẻ ngoài chợ, trước Ngài, không ít lần chúng ta ‘đờ đẫn’, một sự đờ đẫn thiêng liêng!

Isaia biểu lộ ‘nhã nhạc’ – giai điệu yêu thương – Thiên Chúa hát cho dân Ngài, “Giả như ngươi lưu ý đến mệnh lệnh của Ta, thì bình an của ngươi sẽ chan chứa như dòng sông, công chính của ngươi dạt dào như sóng biển!”. Nhưng Israel bỏ ngoài tai! – bài đọc một. Với bài Tin Mừng, Chúa Giêsu gặp điều tương tự, Ngài cất giọng mà xem ra không ai hưởng ứng! Họ từ chối Ngài; gán cho Ngài là ‘bợm nhậu’, gán cho Gioan là ‘quỷ ám’.

Với chúng ta, không muốn nghe những gì Chúa nói, chúng ta thường hợp lý hoá cách này cách khác để khéo từ chối thông điệp của Ngài; và với thời gian, chúng ta ‘đờ đẫn!’. Cần phân biệt ‘trọng tâm’ sứ điệp và ‘cách thức’ sứ điệp được loan truyền! Phaolô viết, “Chúng tôi mang kho tàng ấy trong những bình sành”. Chiếc bình thực sự không quan trọng cho bằng những gì nó mang! Cũng thế, điều quan trọng không phải là các tác nhân hoặc phát ngôn nhân, nhưng quan trọng là nhận ra điều Chúa đang nói, đang hát cho tôi qua các tác nhân hoặc phát ngôn nhân hèn yếu đó. Nhiều người trong họ có những điểm yếu nghiêm trọng; nhưng trên thực tế, nhiều vị đã làm thánh ‘vì’ và ‘nhờ’ những yếu đuối đó!

Thánh Vịnh đáp ca thật sâu sắc, “Lạy Chúa, ai theo Ngài, sẽ nhận được ánh sáng ban sự sống!”. Chúng ta sẽ nhận được ánh sáng nếu thực sự biết mình đang ở trong bóng tối. Hiếm ai trong chúng ta lắng nghe một sứ điệp mà không ‘sàng lọc’ nó qua lịch sử hoặc phong cách người chuyển tải. Khi tôi chia sẻ Lời Chúa cho 20 người, có thể có đến 20 thông điệp khác nhau. Điều đó không có gì sai, với điều kiện, mỗi người thực sự nghe cho được những gì Chúa đang soi rọi và không để mình ra ‘đờ đẫn’, đờ đẫn của linh hồn!

Anh Chị em,

“Các anh không nhảy múa?”. Có thể bạn và tôi không nhảy múa, không khóc than vì chúng ta để cho “sợ hãi và lo lắng, đau buồn và ảm đạm” chiếm cứ. “Đó là những con người buồn bã vốn luôn chỉ trích những người rao giảng chân lý vì sợ rằng, họ sẽ mở lòng ra trước Chúa Thánh Thần. Hãy cầu nguyện để không trở thành những Kitô hữu buồn bã, những người cướp đi ‘sự tự do của Thánh Thần’ vốn thường đến giữa chúng ta qua sự vụng về – và có thể cả bê bối – của người rao giảng. Thật là bê bối khi Chúa nói với chúng ta qua những con người tội lỗi đầy giới hạn; và thậm chí còn bê bối hơn khi Ngài nói và cứu chúng ta qua một người tự nhận mình là Con Thiên Chúa, nhưng lại kết thúc như một tên tội phạm. Điều đó thật là bê bối!” – Phanxicô.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, đừng để con ‘đờ đẫn mãn tính!’. Con tin rằng, Chúa vẫn đang đi vào căn phòng trái tim con mỗi ngày, đang ‘hát’, đang ‘thổi sáo’ nhằm biến đổi con!”, Amen.

(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)

From: KimBang Nguyen

************************************************

Thứ Sáu Tuần II Mùa Vọng

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.

16 Khi ấy, Đức Giê-su nói với đám đông rằng: “Tôi phải ví thế hệ này với ai? Họ giống như lũ trẻ ngồi ngoài chợ gọi lũ trẻ khác, 17 và nói: ‘Tụi tôi thổi sáo cho các anh, mà các anh không nhảy múa; tụi tôi hát bài đưa đám, mà các anh không đấm ngực khóc than.’

18 Thật vậy, ông Gio-an đến, không ăn không uống, thì thiên hạ bảo: ‘Ông ta bị quỷ ám.’ 19 Con Người đến, cũng ăn cũng uống như ai, thì thiên hạ lại bảo: ‘Đây là tay ăn nhậu, bạn bè với quân thu thuế và phường tội lỗi.’ Nhưng đức Khôn Ngoan được chứng minh bằng hành động.”


 

Làm gì khi bị người khác hiểu lầm? Đây mới đúng là câu trả lời của trí giả.

Khi chúng ta gặp phải những sự tình không như ý, chẳng hạn bị người khác làm tổn thương, hiểu lầm, vu oan hay chửi bới, những lúc đó ta phải làm gì? Dưới đây là câu trả lời của bậc trí giả.

Làm người phải giống như núi, nhìn được vạn vật mà cũng bao dung được vạn vật.

Bị người khác hiểu lầm, phải làm sao?

Khi bị người khác hiểu lầm, ai cũng muốn giải thích, nhưng khi ấy, không nói gì lại là một loại độ lượng.

Sự tình thật hay giả, thời gian sẽ cho câu trả lời tốt nhất.

Bị người khác làm tổn thương, phải làm sao?

Không nói là một loại thiện lương.

Tình cảm ấm áp hay lạnh lẽo, thời gian sẽ cho minh chứng tốt nhất.

Bị người chửi bới, bôi nhọ, gièm pha, phải làm sao?

Không nói là một loại hàm dưỡng.

Nhân phẩm của một người thật sự là tốt hay xấu, thời gian sẽ làm sáng tỏ.

Độ rộng của tâm linh không phải thể hiện ở việc người ta có thể quen biết được bao nhiêu người mà là ở việc họ bao dung được bao nhiêu người.

Bị người vu cáo, vu oan, phải làm sao?

Đừng để ý hay quan tâm quá tới điều đó, bởi vì đã có Đạo trời.

Đạo trời vốn không phân biệt thân quen, rất công bằng. Qua vài năm nhìn lại, bạn sẽ thấy rõ được kết cục ra sao.

Sống trên đời, gặp bất kể chuyện gì cũng không cần phải vội vã biện bạch thanh minh. Điều gì cũng không cần phải vội vàng đi bộc lộ hết, nói hết.

Người xưa nói, một người để học được nói chuyện chỉ cần vài năm, nhưng hiểu được cần im lặng lại phải mất vài thập kỷ.

Độ cao của cuộc đời, không phải là ở việc người ta có thể thấu tỏ bao nhiêu sự tình mà là ở việc người ta có thể xem nhẹ bao nhiêu sự tình.

Độ rộng của tâm hồn không phải thể hiện ở việc người ta có thể quen biết được bao nhiêu người mà là ở việc họ bao dung được bao nhiêu người.

Làm người phải giống như núi, nhìn được vạn vật mà cũng bao dung được vạn vật.

Làm người phải giống như nước, có thể tiến thoái, biết lúc nào nên tiến lúc nào nên lui.

Làm người chấp nhận chịu thiệt thì sớm muộn cũng sẽ được hồi báo, cuối cùng cũng sẽ không bị thiệt.

Làm người nếu bằng lòng chịu thua thì cuối cùng cũng sẽ không bị đánh mất tự tôn mà còn giành được lòng người.

S.T.


 

Lễ kính Ðức Mẹ Guadalupe thế kỷ 16 (12/12)-Cha Vương

Một ngày mới tốt lành dưới tà áo của Ðức Mẹ Guadalupe nhé.

Cha Vương

Thứ 5: 12/12/2024

Hôm nay 12/12 Giáo Hội mừng lễ kính Ðức Mẹ Guadalupe. Đây là một Thánh Lễ để vinh danh Ðức Mẹ Guadalupe đã có từ thế kỷ 16. Niên sử của thời đại đó kể cho chúng ta biết câu chuyện sau đây.

Một người thổ dân nghèo hèn tên Cuatitlatoatzin được rửa tội và lấy tên là Juan Diego. Ông 57 tuổi, goá vợ và sống trong một làng nhỏ gần Mexico City. Vào buổi sáng thứ Bảy ngày 09 tháng 12 năm 1531, ông đến nhà nguyện gần đó để tham dự lễ kính Ðức Mẹ.

Khi đang đi trên ngọn đồi gọi là Tepeyac thì ông nghe có tiếng nhạc du dương như tiếng chim hót. Sau đó một đám mây sáng chói xuất hiện, đứng trên đám mây là một trinh nữ người thổ dân mặc y phục như công chúa của bộ lạc Aztec. Trinh nữ nói chuyện với ông bằng tiếng bản xứ và sai ông đến với Ðức Giám Mục của Mexico, là một tu sĩ dòng Phanxicô tên Juan de Zumarraga, và yêu cầu Ðức Giám Mục xây cất một nguyện đường nơi Trinh Nữ hiện ra.

Ðức Maria nói với Juan Diego: “Hỡi con rất yêu dấu của Mẹ, ta là Trinh Nữ Maria, là Mẹ của Thiên Chúa thật, Ngài là Tác Giả của Sự Sống, là Tạo Hóa của muôn loài và là Chúa của Thiên Ðàng cũng như Trái Ðất… và điều ta mong muốn là một nhà thờ sẽ được xây cất ở đây cho ta, là nơi ta sẽ chứng tỏ lòng khoan dung và nhân hậu của ta đối với người thổ dân, và tất cả những ai yêu mến và tìm đến ta, như một người Mẹ đầy lòng thương xót của con và của mọi người dân của con…” (trích từ niên sử cổ).

Dĩ nhiên vị giám mục không tin, và bảo Juan Diego xin Trinh Nữ cho một dấu chỉ. Trong thời gian này, người chú của ông bị bệnh nặng. Ðiều đó khiến ông cố tránh né không muốn gặp Trinh Nữ. Tuy nhiên, đức trinh nữ tìm ông, đảm bảo với ông là người chú sẽ khỏi bệnh, và bảo ông hái các bông hồng quanh đó để làm bằng chứng với vị giám mục. Lúc ấy là mùa đông thì không thể có bông hoa nào mọc được, nhưng lạ lùng thay, gần chỗ Trinh Nữ hiện ra lại đầy dẫy những hoa hồng tuyệt đẹp. Và ông đã dùng chiếc áo tơi của mình để bọc lấy các bông hồng đem cho vị giám mục.

Trước sự hiện diện của Ðức Giám Mục, ông Juan Diego mở áo tơi ra và bông hồng đổ xuống tràn ngập khiến vị giám mục phải quỳ gối trước dấu chỉ lạ lùng ấy. Lạ lùng hơn nữa, trên chiếc áo tơi lại có in hình Ðức Trinh Nữ như ngài đã hiện ra với ông ở đồi Tepeyac. Ðó là ngày 12 tháng 12 năm 1531.

(Nguồn: Ns Người Tín Hữu online)

Lạy Đức Trinh Nữ Guadalupe, là Nữ Vương các Thiên thần và là Mẹ của Châu Mỹ. Hôm nay chúng con chạy đến với Mẹ trong tâm tình con thảo. Nài xin Mẹ cầu bầu cùng Con của Mẹ cho chúng con, như Mẹ đã làm tại tiệc cưới ở Cana… Chúng con đến với Mẹ với sự tin tưởng, chúng con biết rằng Mẹ thật sự là Mẹ đầy lòng trắc ẩn, là sức khoẻ của người bịnh và nguồn gốc của niềm vui chúng con. Xin Mẹ cho chúng con ẩn náu dưới áo choàng bảo vệ của Mẹ, xin giữ chúng con trong vòng tay Mẹ, xin giúp chúng con luôn biết đến tình yêu của Chúa Giê-su, Con Mẹ. Amen. (Trích một đoạn ngắn trong Kinh Cầu Đức Mẹ Guadalupe)

From; Do Dzung

Chút suy tư về Quỳnh Dao – Nguyễn Ngọc Duy Hân

Nguyễn Ngọc Duy Hân

Nữ sĩ Quỳnh Dao vừa qua đời ngày 4 tháng 12, 2024, hưởng thọ 86 tuổi. Khi bà bắt đầu nổi tiếng trên văn đàn, tôi chỉ mới chào đời, nhưng sau đó tôi đã theo dõi và đọc khá nhiều tác phẩm của nhà văn này. Dĩ nhiên tôi rất ái mộ bà và từng thương vay khóc mướn với các nhân vật trong chuyện.

Được biết bà lấy bút hiệu Quỳnh Dao là do ý từ sách Thi kinh, qua câu: “Bạn cho tôi một quả mộc qua, tôi sẽ đền trả lại bạn viên ngọc sáng”. Quỳnh Dao là tên một loại ngọc đẹp.

Năm 1949 Quỳnh Dao theo cha mẹ di cư tới Đài Loan, tức là đi tị nạn Tàu Cộng. Người bạn thân của tôi là anh Chính viết trên Facebook là nhờ sang được xứ tự do nên Quỳnh Dao mới có cơ hội phát triển tài năng, và xuất bản được các tiểu thuyết mà nếu ở dưới chế độ cộng sản, thì sẽ bị kết án là “đồi trụy, tiểu tư sản”, sách sẽ bị đốt và bị bắt đi học tập cải tạo… Thế mà trong nước các tờ báo Đảng lại mập mờ, viết như thể Quỳnh Dao là tác giả của Trung Cộng.

Từ lúc còn trẻ Quỳnh Dao đã biết chống đối các tư tưởng bảo thủ, như quan niệm cho là con gái không có tài mới là con gái đức hạnh, tức là người phụ nữ không nên nổi tiếng, không được làm việc xã hội mà chỉ ở trong nhà thêu thùa nấu nướng, phục vụ nhà chồng.

Bà sống với con người thật của mình: yêu bằng hết con tim, sáng tác, làm việc không ngưng nghỉ. Qua hơn 100 tập truyện ngắn, gần 60 bộ tiểu thuyết, trong đó gần 20 cuốn được dựng thành phim truyền hình và điện ảnh, nhờ đó bà đã có một tài sản gần 350 triệu đô Mỹ. Bà nổi tiếng đến nỗi một số người đã viết chuyện “lá cải” rồi mạo tên Quỳnh Dao để dễ bán. Bà đã góp phần trong văn hóa, cũng như làm giàu nền kinh tế, nâng đỡ nhiều nghệ sĩ trở thành ngôi sao nổi tiếng qua việc xuất bản, làm phim.

Về đời tư, Quỳnh Dao chỉ có một người con trai, anh đã có vợ con tức là Quỳnh Dao đã được làm bà nội. Bà trải qua 2 đời chồng và mối tình đầu với người thầy giáo lớn hơn mình 25 tuổi. Người thầy thuở ấy là một người thông thái, độ lượng trong cái nhìn của cô học trò ngây thơ, lãng mạn. Nhưng xã hội Trung Hoa rất khắt khe, không chấp nhận mối tình này dù 2 người đang “còn không”. Tức là Quỳnh Dao còn trẻ chưa hề gặp gia đình, còn ông thầy thì góa vợ. Tuổi trẻ ngày nay nhất là người Âu Mỹ sẽ buột miệng nói “So what!”. Ông Trump tổng thống Mỹ lớn hơn bà vợ Melania 24 tuổi, ông Macron tổng thống Pháp thì lại thua bà vợ là cô giáo của mình 24 tuổi, nhưng họ vẫn vượt qua được những lời đàm tiếu để đến với nhau. Chắc thầy trò Quỳnh Dao phải than rằng “Lũ chúng ta, đầu thai lầm thế kỷ” (thơ Vũ Hoàng Chương). Có lẽ vì yêu nên Quỳnh Dao đã chểnh mảng sách vở, thi rớt đại học 2 lần. Chuyện hẹn hò cũng bị đổ bể, ông thầy bị chuyển đi thật xa dạy học, cô bị cha mẹ la mắng nặng lời. Với tánh tình mẫn cảm, yếu đuối, cô tự tử nhưng không thành.

Chuyện tình trắc trở này sau đó được Quỳnh Dao xào nấu, diễn tả lại trong cuốn tiểu thuyết  Song Ngoại – tức là ngoài cửa sổ lớp học. Hồi đọc chuyện này, tôi đã ngơ ngẩn cảm thương cho 2 nhân vật chính, xót xa trong đoạn cuối khi cô học trò lặn lội tìm gặp người yêu cũ sau bao năm xa cách; khi ấy cô đã có chồng có con, còn người thầy thì trở nên ốm yếu, ho hen, mất hẳn đôi mắt đam mê, phong độ khi xưa. Giá mà cô đừng đi thăm thầy thì hình ảnh cũ sẽ mãi đẹp như thơ, ôi thực tế phũ phàng. Tiện đây tôi cũng xin mở ngoặc, có vài anh bạn lặn lội về Việt Nam thăm lại bạn gái cũ, thấy hình ảnh rất khác mà anh diễn tả nguyên văn “Ối giời ơi, cô ấy nằm võng cho con bú, vú dài chấm đất”, anh đành ôm thất vọng mà chạy có cờ!

Trở lại chuyện thật ở ngoài đời sau khi cuốn Song Ngoại xuất bản, ông Khánh Quân – chồng của Quỳnh Dao – cảm thấy xấu hổ vì chuyện tình cũ của vợ bị phơi bày công khai, nên ông viết bài bêu rếu Quỳnh Dao trên báo. Cũng có tin nói là ông ganh tài, mang mặc cảm mình kém nổi tiếng, tài ba thua vợ, nên lục đục xảy ra, họ ly dị để chấm dứt cuộc hôn nhân kéo dài chỉ 5 năm.

Trong hồi ký, Quỳnh Dao từng tự nhận mình chỉ là ”người kể chuyện”. Bà quan niệm viết văn không cần câu cú trau chuốt, chỉ cần thật lòng, tình tiết cảm động. Vì thế dù ông Khánh Quân có lần chê văn của bà thiếu chiều sâu, bà vẫn tiếp tục lối viết xuất phát từ trái tim. Điều này tôi rất đồng ý, dù viết hay sống, sự chân thành không màu mè mới bền vững, gây xúc động. Tác giả thơ, văn, nhạc đi vào lòng người thường nhờ chủ đề và cách diễn tả phổ thông, nói dùm tâm trạng người đọc, giúp tìm thấy chính mình ở trong câu chuyện, không cần bóng gió cao siêu ở cõi trên.

Năm 1979, bà kết hôn lần thứ hai với ông Bình Hâm Đào, là người nổi tiếng trong giới báo chí truyền thông Trung Hoa, nhưng sau này ông bị đột quỵ sống đời thực vật không còn nhận ra bà là ai. Mối tình và cuộc hôn nhân với Bình Hâm Đào lại cũng bị chống đối khá nhiều, vì ông Đào đã có vợ con, Quỳnh Dao cam lòng chấp nhận làm vợ bé. Sau này ông Đào chính thức ly dị vợ cũ và họ đã hợp thức hóa với nhau, nhưng các con riêng của ông Đào luôn lên án Quỳnh Dao với tội phá hoại gia cang. Có lẽ vì thân phận kẻ đến sau, các câu chuyện của bà thường có hình ảnh tình yêu tay ba, rắc rối và khó giải quyết đến nỗi độc giả là người ngoài cuộc mà còn bối rối không biết tính sao. Giữa lý trí và tình cảm luôn có khó khăn, đường nào cũng không toàn vẹn.

Có thể nói, Quỳnh Dao không chỉ là một người tài sắc vẹn toàn mà còn rất giàu, rất nổi tiếng, rất biết cách sống. Tòa lâu đài 7 tầng tại Đài Bắc – Đài Loan, nơi bà ở rất đẹp, đầy đủ tiện nghi trong ngoài, là nơi du khách có thể thăm viếng. Bà đã tâm sự: “Tôi đã thực sự sống, chưa bao giờ lãng phí đời mình. Đừng bỏ lỡ những khoảnh khắc tuyệt vời của riêng mình dù cuộc sống này không hoàn hảo”.

Quỳnh Dao rất yêu thích hoa lan, nhìn bà tôi bỗng nhớ tới câu hát của Vũ Đức Nghiêm: “Em mong manh như một cành lan”.

Nói tới Quỳnh Dao thì cũng phải nhắc tới dịch giả Liêu Quốc Nhĩ, người có cách dịch thuật tài tình, đã chuyển tải câu chuyện từ tiếng Tàu sang tiếng Việt một cách uyển chuyển nhất.

Cuối đời, Quỳnh Dao tự tử lần thứ 2 thành công do dùng hơi gas, chết vì ngạt thở ngộ độc khí carbon monoxide. Bà đã toại nguyện với ước mơ “tươi đẹp và nhẹ nhàng bay đi”. Bà nhắn với con trai: “Mẹ chẳng có gì lúc chào đời thì lúc đi cũng mong được đơn giản gọn ghẽ. Chúng ta có trách nhiệm giữ gìn môi trường sống sạch sẽ cho những sinh mệnh mới đang nối tiếp nhau chào đời”.

Điểm qua cuộc đời nữ sĩ Quỳnh Dao, tôi bỗng nhớ tới vài chi tiết nho nhỏ khi mới sang Canada. Hồi ấy tôi mới sanh 2 con trai, ở nhà chăm sóc con chỉ đi làm part-time cuối tuần nên có nhiều thời gian rảnh rỗi, tha hồ xem phim bộ. Một trong những cuốn phim từ tiểu thuyết Quỳnh Dao tôi hay xem là bộ “Xóm Vắng” do Tần Hán và Lưu Tuyết Hoa đóng vai chánh. Cô Tuyết Hoa này khóc rất dễ dàng, làm khán giả trong đó có tôi hay khóc lây. Ông xã tôi hồi đó đi phố Tàu Toronto mướn phim về cho tôi xem, hay cười chọc ghẹo kèm theo đống phim là hộp khăn giấy (hồi ấy chưa có internet, chưa xem phim online được). Cũng cần mở ngoặc cuộc đời của Lưu Tuyết Hoa rất khổ, từ đó tôi thấy người đẹp, tài năng, đầy cơ hội mà còn phải khổ thì huống chi mình, thôi thì hãy chấp nhận. Một người bạn Canada hồi ấy hay ghé nhà chơi, ông ta bảo tôi nhìn giống Lưu Tuyết Hoa trong phim Xóm Vắng. Tôi nhận câu nói này như một lời khen, dù tôi chỉ giống ở chi tiết gầy nhom và đeo cặp mắt kiếng cận thật to (Hồi ấy tôi chỉ nặng hơn 40 ký).

Một nhân vật trong tiểu thuyết Quỳnh Dao mà tôi luôn bị ám ảnh là hình ảnh về già của Hắc báo Lục Chấn Hoa, trong cuốn Dòng Sông Ly Biệt. Ông là người quyền lực hét ra lửa, giàu tiền và nhiều vợ, bao nhiêu dòng con nhưng về già chỉ tìm được niềm vui khi tắm cho con chó.

Rồi còn biết bao nhân vật trong Mùa Thu Lá Bay, Kỷ độ tịch dương hồng, Bên dòng nước, Tuyết Kha, Hải Âu Phi Xứ, Hoàn Châu các các, Người vợ câm, Một thoáng mộng mơ, Tương tư Thảo, Bên Bờ Quạnh Hiu, Ba đóa hoa, Trôi theo dòng đời… Tủ sách nhà tôi hiện còn rất nhiều chuyện của Quỳnh Dao, sau này tôi chết đi các con sẽ đem bỏ thùng rác. Thật ra thì từ hôm ông xã mất cách đây 7 tuần, tôi cũng đã dọn dẹp và vất bớt một số sách, phim video, CD nhạc… Tiếc lắm nhưng không còn hợp thời và không còn nhiều chỗ chứa nữa, coi như đây là bắt đầu của sự “buông bỏ”.  Tôi bỏ bớt sách mà lòng đau lắm, cuốn nào cũng hay, cũng tràn đầy kỷ niệm. Dọn dẹp bên ngoài xong thì thiết nghĩ tôi cũng cần thu dọn bên trong tâm hồn, cần vứt bớt những sân si, trách móc. Vì tâm hồn mộng mơ đa cảm nên tôi nhủ lòng cũng cần tuyển chọn, sắp xếp lại để chỉ buồn những chuyện gì đáng buồn nhất, còn lại thì ráng coi nhẹ, biến chuyện nhỏ hóa không. Lý thuyết thì thế còn thực hành thì chưa biết ra sao!

Cũng xin thành thật khai báo, từ lúc còn trẻ tôi đã khá bi quan yếm thế, các bạn cùng lớp cho tôi là bà già luôn suy nghĩ lung tung, nhưng tôi cũng cố kềm lòng và cầu nguyện thật nhiều để sống tốt. Tôi thích câu “Khi đã buông thả ở một chiều hướng, chẳng mấy chốc mình sẽ buông thả trong mọi chiều hướng”, nên cố gắng chu toàn bổn phận, không dám vượt qua các định kiến xã hội, nhất là các qui luật của đạo Công Giáo. Thấy bà Quỳnh Dao tự tử, mới đầu tôi thầm đồng ý nhưng sau đó dùng lý trí xét lại, tôi biết đạo Chúa không cho tự kết liễu đời mình – dù có khi tôi đã nghĩ tới chuyện này. Mà thôi, như 2 câu thơ trong chuyện Kiều “Bắt phong trần, phải phong trần, Cho thanh cao mới được phần thanh cao”, nhiều khi muốn sống mà không sống được, còn muốn chết mà chưa tới số thì năm lần bảy lượt tìm cách cũng không thành công, có những chuyện phải chấp nhận mà không thể làm gì hơn. Rồi cũng sẽ qua, chuyện gì rồi cũng sẽ qua…..

Qua cái chết của Quỳnh Dao, một vài tài tử đã bị chỉ trích, chê trách vì không lên tiếng chia buồn, thương tiếc. Tôi thấy khán giả cũng lạ, không lên tiếng đâu có nghĩa là không biết ơn, không quan tâm, không biết sao họ có thì giờ mà điểm mặt từng người. Bên Việt Nam các mạng xã hội cũng hay soi mói nghệ sĩ này cho từ thiện nhiều, ca sĩ nào cho ít, ai không cho… Người ta không lên tiếng, không cho cơ quan từ thiện này, cũng có thể người ta đã đóng góp vào việc khác, không nên luận tội, sắp hạng qua vài sự việc trước mắt. Tôi vẫn nhớ câu chuyện người vợ lính Việt Nam Cộng Hòa chết lặng khi chôn xác chồng, có người cho rằng chị không thương chồng nên không khóc, cần trả tiền để có người khóc mướn, có ngờ đâu chị lo xong ma chay thì ngã bệnh nặng, và chung thủy với chồng không hề đi bước nữa dù có nhiều cơ hội khác, vâng, đừng “trông mặt mà bắt hình dong”.

Tính ra càng già, càng cô đơn tôi càng thấm thía các nỗi buồn, các đau khổ trong cuộc đời. Tình hình thế giới ngày càng nhiễu nhương, chiến tranh, tội ác, giả dối, thiên tai khắp nơi. Các loại bệnh tật, sự khác biệt trong ý thức hệ, suy tư đã làm con người khốn đốn. Quá nhiều cảnh khổ, quá nhiều thử thách nghiệt ngã. Đôi khi càng giàu, càng nổi tiếng càng phải vất vả, khổ sở hơn người “phó thường dân” như tôi.  Uớc rằng Quỳnh Dao được mãi bình an trong chọn lựa của mình, và các oán thù tranh chấp được cởi bớt, đời vẫn đẹp dù người đời chơi không đẹp.

Để tạm kết đôi dòng suy tư hôm nay, tôi xin ghi lại câu thơ của Bạch Cư Dị, khi đọc cuốn “Cánh Hoa Chùm Gởi” của nhà văn Quỳnh Dao:

“Hoa phi hoa

Vụ phi vụ

Dạ bán lai

Thiên minh khứ

Lai như xuân mộng bất đa thời

Khứ tự triều vân vô thỏa xứ”

Liêu Quốc Nhĩ dịch là:

“Chẳng phải là sương

chẳng phải hoa

nửa đêm em đến

sáng em về

đến như giấc mộng xuân không đợi

đi tựa mây trời không định nơi….”

Vâng, Quỳnh Dao đã ra đi như mây trời, nhẹ nhàng phiêu lãng sau cả một cuộc đời với nhiều thành quả. Tôi còn nặng nợ trần gian, chưa biết bao giờ mới trả xong, dù chỉ là một phụ nữ nhỏ nhoi yếu đuối. Người bạn xem chỉ tay bảo tôi sẽ sống dai, đối với tôi đây là một tiên đoán buồn, vì từ lâu tôi đã không thấy cuộc đời tươi hồng đáng sống, nhất là từ khi ông xã ra đi, còn lại một mình nên thấy ngày và đêm rất dài. Tôi gần đây hay cầu nguyện cho mình được ơn chết liền, thay vì ơn chết lành như trong đạo Chúa hay cầu. Sống mà đau bệnh, lú lẫn, gây phiền cho người khác, không ích lợi gì cho xã hội, thì chết liền là điều tốt nhất phải không? Mà thôi, có nhiều chuyện rất muốn mà không được, lại không nên suy nghĩ tiêu cực làm người khác ảnh hưởng, nên tôi xin phó dâng, xin được “trôi theo dòng đời”…. Ai người tri kỷ xin “cùng ta cạn một hồ trường”….

Nguyễn Ngọc Duy Hân

 


 

Chúa yêu con như con đang là

Con có sao Chúa yêu con vậy, có thật không?

How do I explain the purpose of life without being too religious?

Bất kể sự phản bội của con sao?     

Bất kể những tội ác của con chăng?

Short Answer Questions - Exams guide - LibGuides at National College of ...

Có gì minh chứng cho điều đó?

Man Scratching Head Cartoon Illustrations, Royalty-Free Vector Graphics ...

Chúa không thể bỏ đi kiệt tác của mình một khi đã tạo dựng nên kiệt tác, đó là con Người.

Ngay từ lúc khởi đầu, khi Con Người phạm tội bất tuân phục, họ ăn “trái cấm”, họ chiều theo cám dỗ thì Chúa đã có kế hoạch cứu giúp họ chống lại thế lực tội ác, ma quỷ:

 Ta sẽ gây mối thù giữa mi và người đàn bà, giữa dòng giống mi và dòng giống người ấydòng giống đó sẽ đánh vào đầu mi, và mi sẽ cắn vào gót nó.” (St 3:15).

Thiên Chúa thương yêu con người đến nỗi đành hy sinh chính con một của mình để giải thoát con người khỏi tội ác

Đức Giê-su khẳng định ở Tin Mừng Gioan 3:16-17:

Thiên Chúa đã quá yêu mến thế gian, đến nỗi đã ban Con Một, để bất cứ ai tin vào Người thì không hư mất, nhưng có sự sống đời đời. 

Jesus Loves You Wallpapers

Chúa tạo cơ hội cho ta quay về làm con Thiên Chúa và sống đời hạnh phúc viên mãn.

Các Thánh giải thích về Tình yêu đó, theo lm.Jos. SCHIJVERS, DCCT :

The Olive Branch Christian Fellowship | Deer Park NY

Tình yêu Chúa làm hai quả tim tan biến trong nhau, tim của Chúa Giêsu và tim của tạo vật nhỏ bé của Ngài, để trở nên một nguyên lý hành động duy nhất và sự sống siêu nhiên.

… cuộc sống siêu nhiên của chúng ta trở nên cuộc sống trong Chúa Giêsu mà vẫn là của chúng ta.

Mời Bạn nghe lời tâm sự của Trịnh Sáng, cô nói:

  • Vì chính Chúa là tác giả dựng nên Con Người, 
  • Cho dù con yếu hèn, con có sao Chúa yêu con vậy vì Chúa là Đấng vô cùng tốt, vô cùng yêu thương, vô cùng thủy chung không đổi thay.

“CHÚA TRỒNG CON Ở ĐÂU, CON NỞ HOA Ở ĐÓ”

Thánh Phanxicô đệ Salê

 “Lạy Chúa, Chúa yêu con và con yêu Chúa”

Sr. QuyenTh

THIÊN CHÚA HIỆN DIỆN GIỮA DÂN NGƯỜI- TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

Những lo toan bận rộn và khó khăn bế tắc của cuộc sống dễ lôi kéo chúng ta vào một vòng xoay bất tận.  Hậu quả là chúng ta quên lãng sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời.  Dù muốn hay không, con người cần có Thượng Đế.  Ki-tô hữu là người hướng về Chúa như hoa hướng dương hướng về mặt trời, như hơi thở đối với thân xác và như lương thực nuôi sống hằng ngày.  Trong Mùa Vọng, Giáo Hội nhắc chúng ta: đừng quên sự hiện diện của Thiên Chúa giữa Dân Người. Danh xưng Đấng Em-ma-nu-en nghĩa là Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta.  Vì thế, hãy vui lên và hãy nhìn cuộc đời này với lăng kính tích cực và với lòng nhân ái.  Thiên Chúa cũng rất vui mừng khi ở giữa chúng ta.

Xô-phô-ni-a là vị ngôn sứ người Do Thái sống ở thế kỷ VII trước Công Nguyên, và hoạt động ở miền Nam dưới triều vua Giô-si-gia-hu (640-609 TCN).  Sứ điệp của ông là bảo vệ người nghèo, lên án giai cấp lãnh đạo và các thẩm phán đương thời, cùng với những thói tục xấu và việc thờ ngẫu tượng.  Ông cũng là ngôn sứ của niềm hy vọng, với niềm xác tín Thiên Chúa luôn hiện diện giữa dân Người.  Đoạn sách được đọc trong Chúa Nhật hôm nay là phần kết của cuốn sách mang tên ông.  Vị ngôn sứ mời gọi dân Do Thái hãy vui mừng, kể cả giữa những bất công và thảm họa, vì Thiên Chúa luôn hiện diện giữa dân Người.  Ngài hiện diện để nâng đỡ, ủi an những ai đang đau khổ.  Ông cũng dùng một kiểu nói rất bạo dạn để diễn tả Thiên Chúa: “Vì ngươi, Chúa sẽ nhảy múa tưng bừng như trong ngày lễ hội.” “Thiên Chúa nhảy múa” là một hình ảnh kỳ lạ và bất thường.  Trong một số truyền thống văn hóa cổ xưa, người ta quan niệm các vị thần cũng giống như con người.  Họ cũng vui, cũng buồn và cũng giận dữ.  Thiên Chúa của người Do Thái là Đấng luôn vui mừng hân hoan.  Ngài chia sẻ vận mạng của Dân Ngài.

Cũng như người Do Thái thời ngôn sứ Xô-phô-ni-a, các Ki-tô hữu cũng được mời gọi hãy vui mừng, vì Chúa gần đến.  Đó là lời giáo huấn của thánh Phao-lô với tín hữu Phi-líp-phê.  Ki-tô hữu là người đang chờ đợi Chúa đến.  Vậy phải làm sao để khi Chúa đến, Người thấy chúng ta đang sống hiền hòa rộng rãi, tương thân tương ái với anh chị em đồng đạo và đồng loại.  Khi sống hiền hòa, là chúng ta làm lan tỏa tinh thần yêu thương như Chúa đã dạy.  Người tin Chúa luôn vui mừng, vì có Chúa ở với chúng ta.  Người luôn đồng hành với chúng ta trên từng bước đi của nẻo đường dương thế.

Chuẩn bị để đón Chúa, đó cũng là thời điểm để mỗi chúng ta nhìn lại mình.  Thánh Gio-an Tẩy giả xuất hiện là một hiện tượng đặc biệt đối với người Do Thái.  Qua lời giảng, ông Gio-an khẳng định với những người đương thời: điều mà cha ông chúng ta vẫn chờ đợi, nay sắp đến rồi.  Để có thể đón tiếp Người, mỗi người phải sám hối.  Lãnh nhận phép rửa do ông cử hành là hành vi sám hối, hoán cải canh tân để trở nên con người mới.

Mỗi khi Mùa Vọng về, Giáo Hội lại mượn lời rao giảng của thánh Gio-an Tẩy giả, giúp các tín hữu chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa.  Thực ra Chúa Giê-su đã đến trong lịch sử.  Người đã sinh ra tại hang đá Be-lem cách đây hơn hai ngàn năm.  Nếu Giáo Hội mời gọi chúng ta đón Chúa, là để giúp chúng ta tái xác tín vào sự hiện diện của Người trong cuộc đời và trong tâm hồn chúng ta.  Những khuynh hướng xấu, tội lỗi và đam mê là lực cản che lấp sự hiện diện của Chúa.  Sám hối sửa mình, sẽ giúp ta nhận ra Chúa và cố gắng để nên giống như Người.

“Chúng tôi phải làm gì?”  Đó là câu hỏi mà những người Do Thái đặt ra cho ông Gio-an Tẩy giả.  Đoàn người đến cùng ông rất đa dạng.  Họ là những người thu thuế, những quân nhân và nông dân.  Ông Gio-an đưa ra những lời khuyên cụ thể cho từng trường hợp.  Đối với chúng ta, tâm tình sám hối để đón Chúa đến không phải là chung chung mờ nhạt, nhưng cụ thể và phải được chứng minh bằng việc làm.

Tâm tình hân hoan vui mừng còn được thể hiện trong sách I-sai-a được chọn cho phần Đáp ca của Thánh lễ: “Dân Xi-on, hãy mừng rỡ reo hò, vì giữa người, Đức Thánh của Ít-ra-en thật là vĩ đại!”  Thiên Chúa không phải là một vị thần nghiêm khắc hay một ông chủ độc tài.  Ngài là Cha yêu thương, luôn ở giữa chúng ta và ban cho chúng ta niềm an ủi.  Sự hiện diện của Chúa sẽ giúp chúng ta xua tan tăm tối, lan tỏa niềm vui và tràn trề niềm hy vọng.  Bầu khí nhộn nhịp, hân hoan tưng bừng trong những ngày Giáng Sinh gần kề nhắc chúng ta: Chúa đang ngự giữa chúng ta, và chúng ta vui mừng được đón tiếp Ngài.

 TGM Giu-se Vũ Văn Thiên

From: Langthangchieutim


 

Tấn công Đại học Fulbright Việt Nam một kiểu như 30 năm trước

Ba’o Nguoi-Viet

December 10, 2024

*Chuyện Vỉa Hè

*Đặng Đình Mạnh

Tháng 08/2024, một video mang tên “Không để cách mạng màu đổi màu giáo dục”đã bị lặng lẽ gỡ ra khỏi không gian mạng.

Theo đó, chủ nhân của video là Đài Truyền Hình Quốc Phòng đã cho phát trên kênh của mình với nội dung cho rằng Trường Đại học Fulbright Việt Nam (FUV), có trụ sở tại Sài Gòn là nơi tuyên truyền tư tưởng sai lệch.

Bà Hillary Clinton, Ngoại trưởng Mỹ nói chuyện với sinh viên trường đại học Fulbright Việt Nam hồi Tháng Bảy 2012. (Hình: Brendan Smialowski/AFP/Getty Images)

Thậm chí ám chỉ rằng trường đại học này có liên hệ với các tổ chức phản động với mục đích “gây kích động”, cổ súy cho mầm mống “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”…

Nhìn lại câu chuyện tấn công vào Trường Đại học Fulbright, khiến tôi nhớ về cuộc tấn công tương tự vào Khoa Luật Trường Đại học Tổng hợp TP.HCM từ hơn 30 năm trước, nơi tôi và hơn một nghìn bạn đã may mắn được học ở khóa đầu tiên, vì nó khá giống với nhau về cung cách và nội dung tấn công.

Khóa luật của chúng tôi được khai sinh từ những “bà mụ” gồm ông Triệu Quốc Mạnh, Luật sư, nguyên là Biện Lý Cuộc và là Chỉ Huy Trưởng của lực lượng Cảnh sát Đô Thành trong những giờ cuối cùng của VNCH cũ. Có điều, ông cũng là một cán bộ nằm vùng của Việt Cộng. Ông Phan Hiền, Bộ trưởng Bộ Tư pháp và ông Nguyễn Ngọc Giao, Giáo sư, Hiệu trưởng Trường Đại học Tổng hợp TP.HCM.

Khi ấy, khóa luật vẫn chưa được thành lập thành một khoa riêng biệt tại Trường Đại học Tổng hợp, mà chỉ là một ngành (Ngành Luật) thuộc Khoa Triết mà thôi.

Tháng 09/1990, khóa luật đầu tiên của chúng tôi khai giảng với 3 lớp, gồm các lớp 5LHA, 5LHB và 5LHC. Trong đó, tuy là khóa luật học đầu tiên, nhưng lệ thuộc vào Khoa Triết lúc ấy đang đào tạo khóa thứ 5, nên các lớp của chúng tôi được đặt ký hiệu bắt đầu bằng khóa 5 là vậy.

Cả 3 lớp đều được giảng dạy tại cơ sở 2, đường Đinh Tiên Hoàng, Quận 1, nơi trước năm 1975 là cơ sở của trường Đại Học Văn Khoa.

Ban Giảng huấn được Luật sư Triệu Quốc Mạnh mời tham gia, hầu hết là số Giáo sư từ Đại học Luật khoa Sài Gòn (Cần Thơ và Huế), Học viện Quốc gia Hành chính còn ở lại trong nước sau năm 1975, một số luật sư và một số nguồn khác. Một số vị tôi còn nhớ tên, mà khi nhắc lại danh tính, tôi vẫn thấy đầy hãnh diện khi được thọ giáo họ, các giảng sư: Vũ Tam Tư, Nguyễn Mạnh Bách, Đào Quang Huy, Vũ Phúc Tùng, Triệu Quốc Mạnh, Nguyễn Văn Ngôn, Lương Hữu Định, Lương Văn Lý, Nguyễn Ngọc Bích, Lê Tử Thành, Nguyễn Văn Trung (Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP. HCM), Nguyễn Văn Hòa, Trần Thị Bông, Phạm Mạnh Khôi, Trần Văn Huỳnh, Trần Trung Hậu…

Đồng thời, rất nhiều giáo trình của Đại học Luật khoa Sài Gòn cũng được các Giáo sư biên tập lại, đưa vào giảng dạy. Không chỉ giáo sư, giáo trình từ Đại học Luật khoa Sài Gòn cũ, mà mô thức đào tạo theo hình kim tự tháp cũng được vận dụng tương tự.

Đại học Văn Khoa sau những năm giải phóng.

Theo đó, đầu vào như mặt đáy kim tự tháp, mở rộng dễ dàng cho mọi người muốn theo học. Họ chỉ cần ghi danh mà không cần phải qua bất kỳ kỳ thi tuyển nào cả. Nhưng đầu ra như đỉnh chóp kim tự tháp thu hẹp nhỏ dần, thế nên, mức độ khó tăng dần theo hàng năm để sàng lọc người học. Chỉ còn lại một số ít sinh viên cuối cùng qua kỳ thi tốt nghiệp sẽ có khả năng vào làm việc tại các cơ quan tư pháp.

Mô thức đào tạo theo hình kim tự tháp có ích lợi trong việc phổ cấp kiến thức pháp luật rộng rãi cho người dân, dù chỉ học chương trình cử nhân luật trong một vài năm đầu cũng đều rất tốt cho xã hội. Vì khi ấy, họ đã được trang bị các kiến thức luật pháp cơ bản cho mình. Rất tiếc, mô thức đào tạo theo hình kim tự tháp này trong ngành luật đã mai một, không còn nghe ai nhắc đến nữa.

Có lẽ cũng vì “đầu vào” dễ dàng như vậy, nên không chỉ đối với sinh viên thuần túy, mà còn thu hút không ít quan chức đủ các cấp, các ngành ghi danh theo học. Nổi tiếng nhất là Chủ Tịch UBND thành phố lúc bấy giờ, ông Trương Tấn Sang, người mà về sau nắm giữ đến chức vụ Chủ Tịch nước, hoặc ông Phó Giám đốc Công an thành phố Trần Văn Tạo…

Số sinh viên trong các khóa Luật lúc đó, nay đã ngồi vào khá nhiều vị trí quan trọng trong ngành tư pháp Việt Nam, kể cả 1 người đã là Thẩm phán thuộc Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao, chỉ gồm 17 thành viên. Phó Chánh án Tòa án Nhân dân Cấp cao tại Sài Gòn. Còn số Chánh án, Phó Chánh án, Chánh tòa các cấp tại Sài Gòn hoặc các quận huyện thì nhiều lủ khủ. Có 2 người đã trở thành Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tại Sài Gòn. Số trở thành công tố viên hoặc lãnh đạo các ngành công an, hải quan cũng không ít.

Xét trong bối cảnh hiện nay, với thành phần ban giảng huấn và giáo trình như kể trên đã là cả một cái gai xương xóc khó mà được chấp nhận đối với chế độ, huống chi vào thời điểm ấy, cách nay 34 năm, khi tư duy giáo điều nặng nề vẫn đang chế ngự khắp nơi, thì nó còn là điều cấm kỵ nghiêm trọng đến mức nào.

Chuyện đến rồi phải đến. Khoảng cuối năm thứ nhất, trên báo Sài Gòn Giải Phóng đã xuất hiện bài viết của tác giả Mai Hồng Quỳ, bà là một Tiến sĩ Luật, phê phán khóa luật Trường Đại học Tổng hợp kịch liệt với những lời cáo buộc “chết người”, nào là mất quan điểm chính trị, đào tạo xa rời định hướng xã hội chủ nghĩa, cổ súy cho pháp luật tư bản… Nếu sự phê phán đến từ một Tiến sĩ Luật, trong thời buổi còn nặng nề giáo điều, thì lời lẽ cáo buộc sẽ ghê người đến mức nào vào lúc ấy!?

Không phải trên báo thường mà chọn đăng tải bài viết trên báo Đảng là sự tấn công trực diện vào khóa luật còn non trẻ. Tuy vậy, giờ nhìn lại, tác động của bài viết tưởng nặng nề, mà hóa ra lại chỉ như việc ném đá ao bèo, chỉ gợn chút sóng lăn tăn mà thôi.

Nhưng trong thời điểm ấy cho đến tận khi tốt nghiệp, chưa bao giờ chúng tôi hết lo lắng về sự tồn tại của khóa luật, như những kẻ phải học lậu trong một khóa học bất hợp pháp vậy. May mắn, khóa cử nhân luật dự kiến chỉ 4 năm đã được chúng tôi hoàn thành vào năm 1995, sau đến 5 năm mài đũng quần trên giảng đường.

Sau chúng tôi vài khóa, thì Trường Đại học Luật với Hiệu trưởng Mai Hồng Quỳ, cô nàng cố nhân xinh đẹp ngày nào, cũng đã kịp thôn tính khoa luật Trường Đại học Tổng hợp, chấm dứt những khóa luật với ban giảng huấn và giáo trình mà chúng tôi đã may mắn và hãnh diện được thọ giáo.

Caption (VN-TruyenHinhQuoc-Phong-1-121222.jpg) Phóng viên đài Truyền hình Quốc Phòng CSVN tường thuật cuộc triển lãm võ khí quốc tế tại Hà Nội cuối năm 2022. (Hình: Chụp lại màn hình THQP)

Sự phê phán của bà Mai Hồng Quỳ khi đó, về học thuật mà nói, thì thật ra làm gì có pháp luật tư bản! Chỉ có một hệ pháp luật chung cho loài người sử dụng mà thôi, đúng như tục dao pháp lý La-tinh “Ubi Societas, Ibi Jus” (Được hiểu rằng: Ở đâu có xã hội, ở đấy có pháp luật). Nó chỉ mang tên là “Pháp luật tư bản” khi những lý thuyết gia Cộng sản đặt tên và gán cho nó chức năng đấu tranh giai cấp:”Pháp luật là vũ khí của giai cấp bóc lột” để rồi xa lánh nó.

Nhưng sau đó, tôi không rõ ngôi Trường Đại học Luật dưới thời Hiệu trưởng, Tiến sĩ Luật Mai Hồng Quỳ đã chấp nhận việc đưa các kiến thức pháp luật, vốn tri thức chung của loài người vào giảng dạy trong trường hay chưa? Để các cử nhân luật tốt nghiệp từ ngôi trường này có thể hòa nhập với thế giới pháp lý văn minh? Hay vẫn sắt máu với tính giai cấp để tạo sân chơi riêng cho mình với 4 đối tác sắp tuyệt chủng của nhân loại, gồm Trung Cộng, Lào, Bắc Hàn và Cuba?

Giờ nhớ lại, như nước chảy hoa trôi thôi nhỉ? Nhưng nhìn lại vào sự tấn công vào Đại học Fulbright Việt Nam theo mô thức cũ, đã có từ hơn 30 năm trước mà thấy rùng mình.

DC, ngày 9 Tháng Mười Hai 2024
Đặng Đình Mạnh 


 

Tại các thành phố đang già hóa của Trung Quốc, người trẻ bỏ đi trong khi có ít em bé được sinh ra

Theo nhật báo phố Wall – WSJ và các báo khác.

Trước đây từng là nơi năng động trong sự sản xuất, Phủ Thuận nay lại là một thành phố đang dần chìm vào giấc ngủ. Hầu hết các mỏ than và nhà máy lọc dầu đã đóng cửa. Một nửa số người trẻ đã rời đi. Quỹ lương hưu của thành phố đang thâm hụt nghiêm trọng, vì trả tiền cho khoảng một phần ba dân số từ 60 tuổi trở lên.

Năm ngoái, chỉ có 5.541 trẻ sơ sinh được sinh ra tại thành phố 1,7 triệu dân này. Để so sánh, Quận Wayne của Michigan, bao gồm Detroit và có dân số tương đương, đã ghi nhận hơn 20.000 ca sinh sản. 

 

Vào năm 2015, Phủ Thuận bắt đầu gióng lên hồi chuông cảnh báo về tình hình tài chính của mình, với lý do thâm hụt lương hưu khoảng 1,5 tỷ đô la, theo một bài báo của Tân Hoa Xã vào thời điểm đó.

Nghĩa vụ trả lương hưu kể từ đó đã tăng nhanh và hiện được dự đoán sẽ vượt quá tổng sản phẩm quốc nội của thành phố là 13,1 tỷ đô la. 

Cách duy nhất mà Phủ Thuận vẫn có thể trả lương cho người về hưu là thông qua trợ cấp từ chính quyền trung ương.

Nhu cầu nhà hưu dưỡng tăng cao trong khi ngân sách nhà nước thì có hạn.

Ngân Hàng Thế Giới tiên đoán gánh nặng ngân sách dành cho người già và sự sút giảm sản lượng GDP ở Trung Cộng.

Người già sống cô đơn, không con cháu ở các thành phố Trung Cộng. Số người tự vẫn gia tăng.

Dân số Trung Quốc bắt đầu giảm vào năm 2022 và tỷ lệ sinh đã giảm mạnh trong nhiều năm. Đến năm 2035, Trung Quốc sẽ phản ánh giống như tình hình hiện tại của tỉnh Phủ Thuận, nơi có 30% người Trung Quốc từ 60 tuổi trở lên, dựa trên ước tính dân số của Liên Hợp Quốc. 

Sự trỗi dậy của Phủ Thuận được xây dựng dựa trên sách lược tăng trưởng của Đảng Cộng sản đối với đầu tư do nhà nước lãnh đạo và hạn chế sinh đẻ. Phủ Thuận là một ngôi sao trong cả hai lĩnh vực. Giờ đây, nó là hiện thân của sự căng thẳng về kinh tế và nhân khẩu học mà toàn bộ Trung Quốc sẽ phải đối mặt trong tương lai. 

Tỷ lệ sinh của Trung Quốc đang dao động ở mức chỉ hơn một ca sinh trên một phụ nữ, thấp hơn nhiều so với mức 2,1 cần thiết để duy trì dân số ổn định. Trung Quốc hiện đang cố gắng thúc đẩy một “nền văn hóa chuộng sinh nở”.

Tỉnh Liêu Ninh, nơi có Phủ Thuận, đã áp dụng chính sách một con với sự nhiệt tình cách mạng cao độ, Ủy ban tỉnh từng khoe khoang về “kỳ tích kép” của việc kiểm soát dân số hiệu quả và tăng trưởng kinh tế cao hơn các nơi khác. Các quan chức ước tính sẽ có thêm 22 triệu ca sinh nở trong tỉnh từ năm 1980 đến năm 2010 nếu chính sách này không được áp dụng triệt để. 

 

Tình cảnh người già ở Trung Cộng

Đảng khuyến khích, tặng quà mà dân Trung Cộng không chịu tin và có thêm con

Nhân vụ Đàm Vĩnh Hưng, nói chuyện vãn: Xướng ca vô loại

Ba’o Nguoi-Viet

December 9, 2024

Vương Trùng Dương

“Không có nghề nào xấu, chỉ có người xấu”

(Ngạn ngữ)

“Chỉ thời gian mới chứng tỏ người chính trực; nhưng chỉ cần một ngày để biết được ai là kẻ xấu”

(Triết Gia Sophocles)

***

Trong thời gian qua, Đàm Vĩnh Hưng (Huỳnh Minh Hưng), ca sĩ trong nước đến Mỹ. Ngày 19 Tháng hai, 2024, cô Mộng Linh, bạn của vợ chồng tỷ phú Gerard Williams & ca sĩ Bích Tuyền mượn ngôi biệt thự ở Newport Coast, California tổ chức buổi tiệc ngoài sân, nơi có bồn phun nước. Tuy có dựng sân khấu lộ thiên thấp nhưng gần cuối bữa tiệc, Đàm Vĩnh Hưng nhảy lên ngồi lên bệ phun nước dẫn đến ngã bệ nước, phải nhập viện cấp cứu và sau đó cắt bỏ ngón chân.

Ông Gerard Williams cũng tử tế trả tiền giải phẫu cho bệnh viện khoảng một trăm nghìn đôla. Theo VOA, 18 Tháng Mười Một 2024 “Đàm Vĩnh Hưng cáo buộc trong đơn kiện rằng ông Williams không thực hiện quy trình kiểm tra và bảo trì tài sản thường xuyên, tạo ra môi trường làm việc không an toàn cho khách mời.”

Trở về Việt Nam, Đàm Vĩnh Hưng tiếp tục hát hò, múa may nhảy nhót… nhưng ngày 30 Mười, nguyên đơn của Đàm Vĩnh Hưng qua tổ hợp luật sư gởi Tòa Thượng Thẩm tiểu bang California với lý do liên quan đến bất cẩn và trách nhiệm của người chủ nhà, cho rằng bệ phun nước không bảo đảm an toàn (mặc dù anh ta tự ý nhảy lên cao để mọi người theo dõi, không phải anh ta đứng cạnh đó hát mà bệ phun nước tự nhiên ngã xuống dập chân!)… và theo đơn kiện thì tai nạn xảy ra đã làm thiệt hại “sự nghiệp” nên bồi thường vài chục triệu đôla!

Thời gian đầu, vài tờ báo mạng trong nước cũng a dua bênh vực chàng ta, nhưng sau khi ông Gerard Williams thấy vô lý nên kiện ngược lại Đàm Vĩnh Hưng với mức bồi thường là “1 đồng danh dự.” Mục tiêu chính của ông là muốn nói lên sự thật. Và, sau đó Đàm Vĩnh Hưng rút đơn kiện.

Theo chia sẻ của ca sĩ Bích Tuyền thì Đàm Vĩnh Hưng bị thương ở chân là do anh tự ý leo lên bồn phun nước trong sân để hát, điều này khiến bồn nước bị vỡ làm chân anh bị thương.

Vụ lùm xùm nầy qua các cơ quan truyền thông Việt ngữ ở California đề cập khá nhiều và đả kích Đàm Vĩnh Hưng kiểu “ăn vạ” làm xấu đi hình ảnh trong giới ca hát.

Trong quá khứ thì cộng đồng người Việt tị nạn không ưa, biểu tình “ca sĩ dở hơi,” điển hình như bài viết của nhà văn Huy Phương “Biểu tình ‘chống Đàm Vĩnh Hưng!’” trên nhật báo Người Việt ngày 31 Tháng năm, 2015: “Chúng tôi đã được đọc các tin tức về các cuộc biểu tình của người Việt khắp nơi từ Đông sang Tây, gần đây là tối Thứ Bảy, 1 Tháng Ba, rất đông người Việt đã tổ chức cuộc biểu tình phản đối lại việc ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng sẽ sang biểu diễn tại thành phố Denver, Colorado. Tối hôm Thứ Sáu, 15 Tháng Năm, dưới bầu trời giá lạnh, vào lúc 11 giờ khuya, đông đảo người Việt tại Bắc California tập trung biểu tình tại câu lạc bộ Pure Lounge, thành phố Sunnyvale, cách thành phố San Jose khoảng 8 dặm đường, để “chống” Đàm Vĩnh Hưng…

… Việc Đàm Vĩnh Hưng bị người Việt ở Hoa Kỳ phản đối mạnh mẽ là do ca sĩ này bị coi là tuyên truyền cho nhà nước Việt Nam. Đàm Vĩnh Hưng được nhà nước Việt Nam tuyên dương và hát một số bản nhạc mang tính chính trị, cầm cờ đỏ sao vàng đứng hát, là điều mà nhiều người Việt tại Hoa Kỳ ‘rất dị ứng.’

Năm 2012, trong buổi đấu giá gây quỹ từ thiện cho một ca sĩ trong nước chữa bệnh tại phòng trà “Không Tên” ngày 4 tháng Mười Một, 2012, Đàm Vĩnh Hưng hôn môi một nhà sư trẻ, gây tiếng xấu trong dư luận và bị chính Bộ Văn Hóa, Thể Thao và Du Lịch Việt Nam xử phạt 5 triệu đồng. Ông sư trẻ tuổi hôn môi với Đàm Vĩnh Hưng sau đó đã xin hoàn tục…”

Phải nói cộng đồng người Việt tị nạn (khán, thích giả) với tấm lòng nhân hậu, dễ dãi nên không cố chấp nhiều với ca sĩ nầy đã xảy ra trong quá khứ.

Ca sĩ Đàm Vĩnh Hưng. (Hình: Facebook “Đàm Vĩnh Hưng”)

Nhắc đến chuyện “đáo tụng đình” nầy để đề cập đến chuyện vãn dưới đây vì gần nửa thế kỷ qua với giới ca sĩ hải ngoại nói chung và ở Hoa Kỳ nói riêng không tệ đến trường hợp như vậy ở tư gia của thân hữu.

Ngày xưa, Trần Hậu Chủ ưa thích hưởng thụ nơi chốn cung đình, yến tiệc với thực khách và cung tần, mỹ nữ, tuyển chọn thơ để phổ thành nhạc với khúc “Hậu Đình Hoa” ca hát, ăn chơi, phó mặc sơn hà xã tắc cho đám cận thần đến chỗ mất nước.

Hậu Đình Hoa tạo dựng bởi những bài thơ tuyển chọn được phổ nhạc thành khúc hát của Trần Hậu Chúa dùng trong khi yến tiệc ở cung đình của quan trong triều, thực khách cùng gia tần để hưởng thụ.

Đời nhà Đường ở Trung Hoa, nhà thơ Đỗ Mục (803-853) giữ chức Ngự sử ở Lạc Dương. Xuất thân từ dòng dõi quý tộc, giỏi thi phú, được gọi là Tiểu Đỗ (nhà thơ Đỗ Phủ (712-770) gọi là Lão Đỗ).

Quan Tư đồ Lý Nguyện ở Lạc Dương lúc nào cũng tiệc tùng, quấn quít bên đám ca kỹ, ồn ào thâu đêm. Nhân dịp Lý Nguyện mở đại tiệc, quan trông coi hình sự Đỗ Mục được mời tham dự, giới thiệu nhà thơ kỹ nữ Tử Vân, Đỗ Mục xao xuyến làm kẻ tình si trước dung nhan mỹ nữ.

Đỗ Mục hào hoa phong nhã, đa tình, nhưng lại khinh thường lớp xướng ca, bài thơ thất ngôn tứ tuyệt Bạc Tần Hoài đã mô tả hình ảnh người ca kỹ tiêu biểu cho lớp người thuộc thành phần xướng ca vô loại:

“Yên lung hàn thủy, nguyệt lung sa,

Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia.

Thương nữ bất tri vong quốc hận

Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa.”

Trần Trọng Kim dịch:

“Khói lồng nước, bóng trăng lồng cát

Bến Tần Hoài, thuyền sát tửu gia

Gái ca đâu nghĩ nước nhà

Cách sông vẫn hát khúc Hoa Hậu Đình.”

Bài thơ tứ tuyệt nầy trở thành quen thuộc ở nước ta trong nhiều thập niên qua, được nhiều văn nhân chuyển dịch. Xin trích hai câu sau “Thương nữ bất tri vong quốc hận! Cách giang do xướng Hậu Đình Hoa” qua các ngòi bút chuyển dịch:

“Mặc ai tan nát nước nhà

Chị em vẫn hát bài “Hoa sau vườn””

(Ngô Tất Tố )

“Chẳng biết khúc buồn xưa mất nước

Bên sông cón hát Hậu Đình Hoa”

(Bùi khánh Đản & Đỗ Bằng Đoàn)

“Ca nhi nào biết quốc vong

Đình hoa còn hát, như không hận thù”

(Chi Điền)

“Thương nữ chẳng hay hờn mất nước

Hậu đình có hát ở bên sông”

(Đào Hữu Dương)

Theo Hoàng Lê Bổn trong “Tầng Lớp & Giai Cấp Xã Hội Việt Nam Thời Xưa” về thứ cấp, tầng lớp  được tổng hợp với ngành nghề trong xã hội vào thời điểm trước công nguyên có Ngư (công việc liên quan đến sông nước), Tiều (núi, rừng), Canh (đất đai, đồng áng), mục (chăn nuôi, gia súc); sau nầy có: Sĩ, Nông, Công, Thương. Sĩ ở đây được hiểu là lớp người khoa bảng, trí thức… được hiểu là sĩ phu, không có nghệ sĩ trong thành phần này.

Vì vậy, xướng ca không có xếp loại trong thành phần nào. Công việc ca hát nầy chỉ mua vui cho thiểu số ở cung đình, quan chức và ở chốn thanh lâu… cho nên người đời không mấy thiện cảm.

Không chỉ ở Đông phương mới xem thường hình ảnh xướng ca, nhà điện ảnh Charles Chaplin (1899-1977), được mệnh danh vua hề Charlot, để lại ca khúc bất hủ “Limelight” rất quen thuộc qua lời ca của Phạm Duy và Xuân Mỹ: “Đời ca hát ngày tháng cho đời mua vui… Rồi khi ánh đèn tắt, lặng lẽ cô đơn. Chìm trong bóng đêm, người ta lãng quên, bẽ bàng.”

Đứng trên nhiều địa hạt khác “East is East, West is West” như quan niệm của nhà văn Anh quốc Rudyard Kipling (1865-1936), nhưng từ ngàn xưa giữa Đông và Tây, cuộc đời ca nữ nó phũ phàng và bất hạnh, bị người đời xem đó như lớp người để mua vui cho khách làng chơi. Dòng thơ Xuân Diệu thời tiền chiến đã giãi bày tâm sự, hình ảnh qua bài Tình Kỹ Nữ:

“Khách ngồi lại cùng em! Đây gối lả,

Tay em đây mời khách ngả đầu say;

Đây rượu nồng, và hồn của em đây,

Em cung kính đặt dưới chân hoàng tử…

… Lời kỹ nữ đã vỡ vì nước mắt

Cuộc yêu đương gay gắt vị làng chơi.”

Quan niệm đó, ngày nay đã lỗi thời. Trong 4 thú vui tao nhã: cầm, kỳ, thi, họa; nhà văn Toan Ánh trong “Cầm Ca Việt Nam” đã viết: “Cái thú phong lưu thứ hai của ta sau cầm, tôi nghĩ cần nói tới ca hát trước… Ta thường ca hát khi cảm hứng nổi lên muốn đem tâm tư gửi vào giọng hát, hoặc cũng có khi vì uất hận muốn gởi nỗi niềm bực tức vào câu ca… Ta cũng thích hát và hát cũng là một thú chơi thanh cao tao nhã không kém gì cầm, kỳ, thi, họa”

(Toan Ánh – CCVN, NXB Xuân Thu trg 73-74).

Vào thời điểm cuối cùng của thế kỷ XX để bước vào thiên niên kỷ mới. Sau bao thập niên ca sĩ trong nước sống cuộc sống của “công nhân xướng ca”, được làn gió đổi mới thổi vào từ bên ngoài, xướng ca có cơ hội ca… xướng, chưa được lâu dài liền bị “sao… quả tạ” mang búa rìu giáng xuống.

Nghề xướng ca ở trong nước ở miền Bắc trong hai thập niên (1954-1975) “nghèo rớt mồng tơi” vì chỉ là “công nhân ca hát” trong tổ chức để hưởng tem phiếu thực phẩm. Và cả nước khoảng thập niên 1990 nhờ “nhạc vàng” với những sáng tác các nhạc sĩ thời tiền chiến (bị cấm vì lãng mạn, yếu đuối) và các nhạc sĩ ở miền Nam Việt Nam mới “ăn nên làm ra” rồi nào “chảnh”, “trưởng giả học làm sang”… dẫn đến những trò nhố nhăng, kệch cỡm mất thiện cảm. làm xấu đi hình ảnh xướng ca!

Khi đến cập đến “hiện tượng” nầy không phải người viết có đầu óc đố kỵ mà nhìn vào thực tế giới ca sĩ ở miền Nam VN hầu hết giữ được nhân cách của người nghệ sĩ nên không làm hoen ố hình ảnh “xướng ca vô loại.” Tôi đã viết nhiều bài về các ca sĩ như Thái Thanh, Lệ Thanh, Hà Thanh, Lệ Thu, Mai Hương… Trần Văn Trạch, Duy Trác, Ban Hợp Ca Thăng Long… với hình ảnh đẹp và được khán thính giả cảm tình và ái mộ.

Trước đây báo chí trong nước đã phê phán: “Ca sĩ miền Bắc thì ỉ eo ca sĩ miền Nam hát sến, chỉ chuộng màu mè, phù phiếm. Làng ca sĩ Sài Gòn lại chê các đồng nghiệp ở Hà Nội khuôn sáo, khô cứng.”

Chê bai cách ăn mặc cực kỳ kinh dị “phụ họa thêm những động tác nhảy nhót, lúc lắc bốc lửa khiến những chàng choai choai phát rồ phát dại”.

Đưa ra những hình ảnh nhố nhăng, bệnh hoạn, kiêu căng, làm tiền làm tội của giọng hát được bốc thành “sao” hốt tiền bạc tỷ… cho thấy mối nguy hại “bệnh ngôi sao” của loại xướng ca nầy đang hoành hành trong nước.

Tờ ANTG số 142 ví von qua lời Tường Vy: “… Dường như tình cảm nhân đạo trong lớp trẻ bây giờ ít, họ ích kỷ hơn và không muốn chia sẻ, thậm chí vô lễ với thầy cô. Đối với bạn bè thì khan hiếm tình thân ái, nói xấu nhau không tiếc lời. Nhiều lần đi diễn cùng họ, ngồi trong cánh gà, tôi nghe hết.”

Tú Gân trong ngành VH-TT Lâm Đồng:… “Tất cả những điều nầy cho thấy cái tư cách và chất nghệ sĩ đích thực đã và đang mất đi một cách trầm trọng. Chính họ, chứ không ai khác, đã tự làm mất mình”. Ông Đặng Văn Phong, Nghệ An:… “Nếu đem so sánh với hiểm họa ma túy thì tác hại của nó còn lớn hơn chúng ta tưởng”. Ông Phạm Quang Bình:… “Những gì mà tác giả bài báo đã nêu lên khiến bạn đọc phải bàng hoàng, giật mình thì lại e rằng vẫn còn chưa đủ.”

Hấp thụ làn sóng mới, thời đại mới trong “giai đoạn tạp chủng” trong xã hội bị băng hoại đạo đức, ca sĩ nào không vướng chuyện lăng nhăng tình ái?. Lên án phong trào ca nhạc thương mại, nhiều nhạc sĩ cũng nhập cuộc để nói về chức năng nghệ thuật và giải trí, vẫn theo luận điệu cũ rích thời bút chiến “nghệ thuật và nhân sinh” ở thập niên 40 để đả phá xướng ca không tuân theo đường lối nhà nước.

Cách nay 1.200 năm ở Trung Hoa với khúc nhục ca vong quốc Hậu Đình Hoa.

Trần Hậu Chủ (583-587), vị vua cuối cùng của nhà Hậu Trần thời Nam Bắc triều. Trần Hậu Chủ mê hai mỹ nhân Khổng Quý Tân và Trương Lệ Hoa, cho dựng gác Lâm Xuân, gác Ỷ Kết, lầu Vọng Tiên bằng gỗ trầm hương, dát thêm vàng ngọc, để cùng mỹ nhân thưởng ngoạn. Hằng đêm lại bày tiệc vui, họp các quan học sĩ làm thơ xướng họa… Những bài thơ hay cho chép thành tập, đem phổ nhạc để ca nhân xướng hát, gồm ba tập: Nghinh Xuân Nhạc, Ngọc Thụ, và Hậu Đình Hoa. Trong ba tập, Hậu Đình Hoa gồm những bài thơ, bài hát du dương, tình tứ nhất.

Khi quân của Tuỳ Văn Đế đánh vào tới kinh đô, Trần Hậu Chủ vẫn còn say tuý luý trên lầu Ỷ Kết. Người ta lấy nước đổ vào mặt cho tỉnh, khuyên ra hàng để cứu sinh linh, Hậu Chủ bèn nghĩ kế… thoát thân bằng cách dắt mỹ nhân và quần thần nhảy xuống giếng ở sau lầu để trốn!

Hơn hai trăm năm sau, thi sĩ Đỗ Mục vào cuối đời Đường, một đêm đậu thuyền ở bến Tần Hoài, mắt nhìn cảnh khói phủ mờ sông lạnh, trăng chiếu bãi cát xa, tai nghe giọng hát, động mối cảm hoài, làm nên bài thơ tuyệt tác Bạc Tần Hoài. Thương nữ xưa kia, cũng như thất phu, không được học hành rành rẽ, cho nên thấy khúc ca du dương thì hát, hay đâu đó là khúc nhục ca vong quốc nên để lại cho người đời hình ảnh  “Thương nữ bất tri vong quốc hận”. Con sâu làm rầu nồi canh!

Người xưa quá khắt khe khi quy kết “xướng ca vô loại” suy cho cùng cũng vô lý vì “Không có nghề nào xấu, chỉ có người xấu” mà chỉ riêng cá nhân nào đó làm tổn thương nghề nghiệp.

Than ôi! kiếp xướng ca…!

(Little Saigon, December 2024)


 

VIẾT CÁO PHÓ CHO MÌNH – Rev. Ron Rolheiser, OMI

Rev. Ron Rolheiser, OMI

Sẽ đến thời chúng ta không còn viết sơ yếu lý lịch nhưng bắt đầu viết cáo phó cho mình. Tôi không chắc ai là người nói câu đó đầu tiên, nhưng nó hàm chứa một sự khôn ngoan.

Sơ yếu lý lịch và cáo phó khác nhau ở điểm nào? Sơ yếu nói lên những thành tựu của bạn, cáo phó thể hiện cách bạn muốn được tưởng nhớ và những điều tốt lành nuôi dưỡng nào bạn muốn để lại. Nhưng chính xác làm thế nào để viết được cáo phó sao cho nó đừng chỉ là một phiên bản kiểu khác của lý lịch? Tôi xin đưa ra gợi ý thế này.

 

Cáo Phó: Bà Cố Maria Nguyễn Thị Lân, Thân Mẫu Linh Mục Phaolô Lê Quang ...

Trong Do Thái giáo, có truyền thống là hằng năm, một người trưởng thành phải đưa ra một di chúc tâm linh. Ban đầu, nó là kiểu di chúc thông thường, tập trung vào việc mai táng, phân chia tài sản, cách xử lý những việc còn dang dở trong đời mình về mặt pháp lý và thực tế. Tuy nhiên, qua thời gian, nó biến đổi thành dạng di chúc tập trung hơn vào việc xem lại đời mình, nêu bật những gì quý báu nhất đời, những hối hận và xin lỗi thật tâm, những lời chúc phúc cho những người mà mình muốn có lời từ biệt thật đặc biệt. Di nguyện này được xem lại và viết lại hàng năm, cuối cùng là được đọc to trong tang lễ như là lời cuối cùng chúng ta muốn để lại cho người thân yêu.

Đây có lẽ là một việc làm rất hữu ích cho chúng ta, trừ việc di chúc này không phải viết ra để đưa cho luật sư, nhưng trong tinh thần cầu nguyện, gửi gắm cho một linh hướng, một cha giải tội đang giúp chúng ta. Vậy di chúc tâm linh này nói đến những chuyện gì?

Nếu bạn đang cần những ví dụ, thì tôi xin đưa ra tác phẩm và những bài viết của Richard Groves, đồng sáng lập Trung tâm Nghệ thuật Thiêng liêng của Đời sống. Trong hơn 30 năm ông làm việc trong lĩnh vực tâm linh cuối đời và cho chúng ta một vài hướng dẫn rất hữu ích về việc lập một di chúc tâm linh và đều đặn làm mới nó. Di chúc tâm linh tập trung vào ba điểm này.

An obituary 1,700 years old has been translated - CNN

Thứ nhất: Trong cuộc đời, Thiên Chúa muốn tôi làm gì? Tôi đã làm chưa? Tất cả chúng ta đều có một vài ý thức về ơn gọi, ý thức mình có một mục đích khi tồn tại trên đời, ý thức mình đã được giao nhiệm vụ để hoàn thành trong đời. Có lẽ chúng ta chỉ nhận thức thoáng qua về nó, nhưng với một mức độ nào đó, mỗi một chúng ta đều ý thức về một bổn phận và mục đích nào đó. Việc đầu tiên trong di chúc tâm linh là cố nắm bắt điều này. Thiên Chúa muốn tôi làm gì trong cuộc đời? Tôi đã làm tốt hay tệ việc đó?

Thứ hai: Tôi cần phải nói lời xin lỗi với ai? Tôi có những điều gì hối tiếc? Cũng như người khác đã làm tổn thương ta, thì chúng ta cũng có thể làm tổn thương người khác. Trừ phi chết trẻ, tất cả chúng ta đều từng mắc sai lầm, từng làm tổn thương người khác và làm những việc mà mình hối tiếc. Một di chúc tâm linh là xác định việc này với một lòng thành thật tận cùng và hối hận sâu sắc. Chúng ta không bao giờ có tấm lòng cao cả, cao thượng, sùng tín và xứng đáng được tôn trọng hơn, khi chúng ta quỳ gối chân thành nhận ra điểm yếu của mình, xin lỗi và hỏi xem chúng ta cần làm gì để sửa chữa.

Thứ ba: Trước khi qua đời, tôi muốn chúc phúc và trao lại món quà nuôi dưỡng cụ thể cho ai? Chúng ta được gần giống Thiên Chúa (truyền năng lượng thần thiêng vào cuộc đời) những khi chúng ta ái mộ người khác, tán thành người khác, cho họ những gì chúng ta có thể làm để giúp cuộc đời họ tốt hơn. Nhiệm vụ của chúng ta là làm việc này cho tất cả mọi người, nhưng chúng ta đâu thể làm cho tất cả, nên chúng ta làm cho một số người, và là những người cụ thể. Trong di chúc tâm linh, chúng ta có dịp để nói lên những người mà chúng ta muốn chúc phúc nhất. Khi tiên tri Ê-li mất, người hầu cận ngài là tiên tri Ê-li-sê nài xin ông để lại cho mình “phần gấp đôi” thần trí của ông. Khi chết, chúng ta phải để lại tinh thần của mình làm của nuôi dưỡng cho tất cả mọi người, nhưng có những người cụ thể mà chúng ta muốn để lại “phần gấp đôi.” Trong di chúc này, chúng ta nêu lên những người đó là ai.

 

Trong quyển sách đầy thách thức: Bốn điều quan trọng nhất

(The Four Things That Matter Most)

Bác sĩ Ira Byock, người chăm sóc cho những người hấp hối, nói rằng có bốn điều chúng ta cần nói với những người thân yêu trước khi họ qua đời. “Xin tha thứ cho tôi”, “Tôi tha thứ cho bạn”, “Cám ơn”, và “Tôi yêu bạn”.

Ông nói đúng, nhưng với những chuyện chẳng ngờ, những căng thẳng, tổn thương, đau lòng và thăng trầm trong tình cảm, kể cả với những người mà chúng ta yêu thương nhất, không phải lúc nào cũng dễ (và đôi khi là bất khả thi) nói ra những lời này cách rõ ràng nhất.

Một di chúc tâm linh cho chúng ta cơ hội để nói những lời này với tâm tư vượt lên những căng thẳng thường che mờ tình cảm giữa chúng ta, và ngăn chúng ta nói rõ những lời quan trọng này, để rồi ở tang lễ, sau những lời điếu văn, chúng ta sẽ không còn chuyện gì dang dở.

Rev. Ron Rolheiser, OMI