Đặc vụ di trú liên bang đột kích nhà máy Hyundai ở Georgia, bắt giữ 475 người, phần lớn là công dân Nam Hàn, giới chức loan báo hôm Thứ Sáu, 5 Tháng Chín, theo ABC News.
Nhà máy Hyundai ở Ellabell, Georgia – cách Savannah khoảng 30 dặm về hướng Tây – bị đột kích “trong cuộc điều tra hình sự về việc nơi này bị cáo buộc mướn người bất hợp pháp và phạm nhiều tội nghiêm trọng khác,” Bộ Nội An (DHS) ra thông báo cho hay.
Những người bị bắt làm việc cho vài công ty thầu phụ cũng như cho công ty mẹ, Hyundai, theo ông Schrank.
“Đây là chiến dịch thi hành luật di trú lớn nhất ở một nơi duy nhất trong lịch sử HSI,” ông Steve Schrank, người phụ trách văn phòng HSI ở Atlanta, cho biết trong buổi họp báo sáng Thứ Sáu.
“Đức Giêsu đi băng qua một cánh đồng lúa; các môn đệ bứt lúa, vò trong tay mà ăn”.
“Bước đi với Chúa Kitô biến những cánh đồng bình thường thành thánh địa!” – Henri Nouwen.
Kính thưa Anh Chị em,
Sẽ khá bất ngờ khi chúng ta chỉ dừng lại ở câu đầu tiên của Tin Mừng hôm nay. Các môn đệ hồn nhiên cùng Chúa Giêsu lang thang qua một cánh đồng. Với chúng ta, đó là một ‘cánh đồng mơ!’.
Chẳng phải thật tuyệt vời nếu được làm môn đệ của Chúa Giêsu vào những ngày ấy, cùng Ngài lang thang rảo qua đồng lúa của ai đó, hái những bông lúa trên những cọng lúa, và hồn nhiên thưởng thức vị ngọt của những hạt vàng thơm lừng được nghiền nát giữa những ngón tay? Đó là một ngày giản dị, tinh khôi, cùng Ngài rảo bước, được phúc nghe Ngài kể lại câu chuyện đời xưa – vua Đavít. Đó là một cuộc dạo chơi bình thường nhưng thấm đẫm hạnh phúc, vì có Chúa ở cùng – giữa ‘cánh đồng mơ’. “Được ở với Chúa Giêsu – dù chỉ trên cánh đồng – cũng phong phú hơn mọi cung điện không có Ngài!” – Charles Spurgeon.
Thế nhưng, sao lại luyến tiếc một quá khứ mà bạn không thể quay trở lại? Chúa Giêsu từng nói, “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế!”. Ngài hiện diện trong Thánh Thể, lặng lẽ bên ngọn đèn cháy sáng cạnh Nhà Tạm trong những lần chúng ta trầm lắng nguyện cầu. “Đức Kitô không phải là ký ức của quá khứ nhưng là Sự Hiện Diện của hiện tại!” – J. Ratzinger. Không cánh cửa khép kín nào có thể ngăn Ngài đến với chúng ta; không bức tường nào có thể chặn đứng sự thân mật mà chính các môn đệ xưa cũng chẳng có được. Ngài vẫn ở đó, đợi mỗi người để cùng chúng ta bước đi trên ‘cánh đồng mơ’ đời mình, lắng nghe, chia sẻ, và đổi mới chúng ta mỗi ngày. “Trong mỗi Nhà Tạm, ngọn đèn thắp sáng nhắc nhở ta: Ngài ở đây, chờ đợi bạn!” – Fulton Sheen.
Các môn đệ ngày ấy đã thấy những bông lúa tươi mới thật hấp dẫn. Còn chúng ta, mỗi khi đến bàn tiệc Thánh Thể, liệu bạn và tôi có nhận ra sự tươi mới khôn tả? Nơi đây, Đấng bất biến trở nên của ăn cho một nhân loại luôn đổi thay; Ngài biến đổi ‘cái tạm bợ’ của chúng ta bằng sự vĩnh hằng của Ngài. “Thánh Thể là nhịp đập của một con tim được đổi mới!” – Carlo Acutis. Vì thế, mỗi lần rước Chúa, là mỗi lần được tham dự vào “chén phúc lộc”, là để cho Ngài đổi mới, hầu chúng ta có thể mang Vương Quốc vào lòng thế giới. “Trong Thánh Thể, Đức Kitô làm mới mọi sự!” – J. Ratzinger.
Anh Chị em,
Cánh đồng ngày ấy chỉ là một ‘lát cắt’ của thời gian. Nhưng nhờ Thánh Thể, nó trở nên biểu tượng cho cánh đồng của những ước mơ – ước mơ vĩnh cửu: được ở lại trong sự thân mật với Chúa – Đấng vẫn thì thầm, “Này đây Ta đổi mới mọi sự!”. Vì thế, ước mơ của chúng ta không chỉ là được đi trên cánh đồng với Con Thiên Chúa hai ngàn năm trước, nhưng là để Ngài bước vào cánh đồng đời mình, gia đình mình hôm nay, biến nó thành cánh đồng hồng ân, cánh đồng của những biến đổi. “Với Đức Kitô, cả những cánh đồng thời gian cũng trở thành cánh đồng của những ước mơ!” – Henri Nouwen.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, cho con biết mơ trên cánh đồng của Ngài, nơi mọi giấc mơ đều nảy mầm trong Thánh Thể!”, Amen.
(Lm. Minh Anh, Tgp. Huế)
*******************************************
Lời Chúa Thứ Bảy Tuần XXII Thường Niên, Năm Lẻ
Tại sao các ông làm điều không được phép làm ngày sa-bát.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. Lc 6,1-5
1 Vào một ngày sa-bát, Đức Giê-su đi băng qua một cánh đồng lúa ; các môn đệ bứt lúa, vò trong tay mà ăn. 2 Nhưng có mấy người Pha-ri-sêu nói : “Tại sao các ông làm điều không được phép làm ngày sa-bát ?”
3 Đức Giê-su trả lời : “Ông Đa-vít đã làm gì khi ông và thuộc hạ đói bụng ? 4 Ông vào nhà Thiên Chúa lấy bánh tiến mà ăn và cho thuộc hạ ăn. Thứ bánh này, chỉ có tư tế mới được ăn mà thôi. Câu chuyện ấy, các ông chưa đọc sao ?” 5 Rồi Người nói : “Con Người làm chủ ngày sa-bát.”
Lời Chúa Giê-su nói hôm nay thật không dễ nghe, thậm chí còn gây sốc nếu ta hiểu theo nghĩa đen. Chúa nói “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta”
(Lc 14,26). Lời mời gọi của Chúa Giê-su thật mạnh mẽ và dứt khoát.
Theo Chúa là một lựa chọn và hy sinh
Nghe lời tuyên bố của Đức Giê-su ở trên, mỗi người chúng ta nói gì và trả lời ra làm sao? Tiêu chuẩn để làm môn đệ Đức Giê-su thật gắt gao. Ai muốn theo Chúa, phải từ bỏ tận căn, không những của cải, người thân, mà cả những tiện nghi, kế hoạch riêng, sự quyến luyến, những giao tiếp hợp pháp và thậm trí cả chính mạng sống mình nữa nữa (x. Lc 14). Chúa yêu cầu phải “bỏ” cha mẹ, vợ con, anh em, chị em.
Có người hỏi: Phải chăng, điều răn thảo cha kính mẹ, yêu thương người thân cận bị đảo lộn rồi hay sao? Nghĩa là để đi theo Đức Giê-su, người ta phải thay thế tình yêu đối với người thân cận bằng sự từ bỏ đối với họ? Không phải thế, Đức Giê-su đòi hỏi người môn đệ phải phân định và lựa chọn giữa Thiên Chúa và loài người, Thiên Chúa phải là nhất. Yêu cha mẹ và đồng loại, nhưng yêu Thiên Chúa hơn, vì Thiên Chúa là Đấng dựng nên cả cha mẹ chúng ta, nên Đức Giê-su yêu cầu con người dành cho Thiên Chúa một vị trí đặc biệt và cao nhất. Chúa Giê-su không cổ võ việc từ bỏ gia đình hay cắt đứt tình thân, mà Người đòi hỏi một sự đảo chiều trong ưu tiên của ta: Phải đặt Thiên Chúa làm trung tâm, hơn cả những điều quý nhất.
Chúa không xem thường cha mẹ, vợ con, nhưng Chúa biết rằng: nếu ta yêu mến Người hơn, thì ta sẽ yêu người thân một cách đúng đắn hơn, yêu với tình yêu vô điều kiện và không chiếm hữu.
Thánh Gio-an Kim Khẩu đã từng nói: “Đức Ki-tô không lấy đi khỏi chúng ta những gì là quý giá, mà Người dạy chúng ta đặt mọi sự vào đúng trật tự: yêu Chúa trước hết, để mọi tình yêu khác được thanh luyện.”
Theo Chúa là từ bỏ điều quý để đạt được điều quý hơn. Như người xây tháp hay vị vua sắp ra trận trong Tin Mừng hôm nay, ai cũng cần lượng giá, biết người, biết mình.
Xin ơn khôn ngoan
Tác giả sách Khôn Ngoan thốt lên: “Ai trong loài người có thể biết được ý định của Thiên Chúa?” (Kn 9,13).
Đúng vậy, nhiều lúc con người tưởng mình khôn ngoan, thành công, sắp đặt được mọi sự, nhưng không biết rằng khôn ngoan đích thực là nhận ra điều Chúa muốn nơi mình, và sống theo đó. Vì thế, trong Hiến chế Gaudium et Spes, Công đồng Vaticanô II đã viết: “Con người chỉ thực sự là chính mình khi hiến dâng trọn vẹn cho Thiên Chúa” (GS 24).
Lời Chúa hôm nay mời gọi ta xét lại: Tôi có đang chọn Chúa là nhất chưa? Tôi có sẵn sàng từ bỏ một chút tiện nghi, một chút thời gian, một chút tự ái… để sống theo thánh ý Chúa không?
Đón nhận tha nhân với niềm tin yêu
Trong thư gửi ông Phi-lê-môn, thánh Phao-lô nài xin ông đón nhận lại người đầy tớ tên Ô-nê-xi-mô không còn như một nô lệ, nhưng như một người anh em trong Chúa (Plm 16). Đây là một bằng chứng sống động rằng: theo Chúa không chỉ là lựa chọn cá nhân, mà còn là thay đổi cách ta nhìn người khác. Từ bỏ sự phân biệt, tự cao, thành kiến để đón nhận tha nhân với tình yêu mới.
Đến nhà thờ, chúng ta không chỉ gặp Chúa, mà còn gặp nhau. Và nếu gặp Chúa thật sự, thì ta cũng phải đối xử với anh em như những người cùng được Chúa yêu thương.
Chúa Giê-su chính là mẫu gương tuyệt đối của tình yêu tự hiến: Chúa từ bỏ vinh quang Thiên Chúa để mang lấy phận người. Từ bỏ sự sống để chết trên thập giá. Từ bỏ mọi quyền năng để ẩn mình trong tấm bánh nhỏ bé, một sự ẩn mình khó tin để ở lại với chúng ta.
Theo Chúa là một chọn lựa có hy sinh. Nhưng Chúa cũng hứa: “Ai bỏ mọi sự vì Thầy, sẽ được gấp trăm ở đời này, và sự sống đời đời” (x. Mc 10,29-30).
Ước chi mỗi người chúng ta, Lễ xong ra khỏi nhà thờ mà không kết thúc, nhưng kéo dài trong từng chọn lựa hằng ngày: Chọn nói lời yêu thương thay vì giận dữ. Chọn tha thứ thay vì chấp nhất. Chọn phục vụ thay vì đòi hỏi, và nhất là, chọn Chúa thay vì chính mình. Thánh Au-gút-ti-nô nói: “Chúng ta hãy trở nên điều chúng ta lãnh nhận.” Chúng ta đã rước Chúa Giê-su Thánh Thể, vậy chúng ta hãy trở nên “tấm bánh bẻ ra” cho gia đình, giáo xứ và xã hội hôm nay.
Theo Chúa không dễ vì đòi hỏi chúng ta từ bỏ điều quý. Nhưng nếu từ bỏ vì tình yêu, vì Chúa, thì ta đạt được điều quý hơn gấp bội. Chúa Giê-su hỏi từng người chúng ta: “Con có sẵn sàng chọn Thầy, chọn thánh ý Thầy, dù phải hy sinh điều gì đó không?”
Câu trả lời không nằm trong lời nói, mà trong chọn lựa sống mỗi ngày. Xin Thánh Thể Chúa giúp chúng ta can đảm chọn Chúa, vì chỉ có Chúa mới là kho tàng đích thực của đời ta. Amen.
Tất cả những gì có mặt trong cuộc đời này, từ con người, mối quan hệ, đến tài sản, danh vọng… đều khởi lên từ nhân duyên. Không có gì tự nhiên mà đến. Cũng không có gì mãi mãi thuộc về ta.
Việc ta gặp một người, yêu quý hay ghét bỏ họ, tất cả đều là quả của những nhân duyên đã tạo trong nhiều kiếp sống trước.
Có người vừa gặp đã thấy thân thương, như đã từng gắn bó sâu sắc đâu đó trong quá khứ. Có người vừa nhìn đã khó chịu, bực bội, đó không phải vì họ xấu, mà bởi ta và họ từng oán kết sâu dày trong quá khứ.
Mỗi đứa con, mỗi người bạn đời, mỗi người thân… chỉ là người lữ khách có duyên ghé qua đời ta. Họ đến, rồi họ đi. Họ đến khi duyên khởi. Và sẽ rời đi khi duyên tan.
Chúng ta thường khổ vì lầm tưởng rằng: “Cái gì đến với mình thì là của mình.”
Thật ra không phải vậy.
Người con ngoan ngoãn, tài giỏi, đột nhiên rời cõi đời sớm… không phải là oan nghiệt, mà có thể là họ chỉ ghé ngang cõi người một đoạn, để trả một chút duyên, rồi tiếp tục hành trình theo phước nghiệp cao hơn.
Như một số tiền chuyển nhầm vào tài khoản, ta vui mừng, nghĩ là tài sản của mình. Nhưng đến khi ngân hàng xin lại, ta buồn bã, than trách.
Nhưng đó chưa bao giờ là của ta cả. Chỉ là một duyên tạm.
Người con ấy, người bạn ấy, người thân ấy… cũng thế.
Sự thật là: Chúng ta chỉ có thể đồng hành cùng người khác một đoạn đường.
– Cha mẹ chỉ đi với ta đến một khúc tuổi thơ, rồi rời đi trước.
– Con cái chỉ gắn bó một giai đoạn, rồi có cuộc đời riêng.
– Người bạn đời cũng đến rồi đi, theo cách đời sống sắp đặt.
– Bạn bè, người thân, ai rồi cũng có lúc không còn bên nhau nữa.
Vậy nên, hãy trân quý từng khoảnh khắc hiện tại, khi duyên còn. Hãy yêu thương đúng cách, không dính mắc. Biết rằng: Gặp nhau là duyên. Ở bên nhau là nợ. Hết duyên, hết nợ, ai rồi cũng phải đi.
Tập buông để nhẹ lòng.
Đừng khư khư giữ lấy những thứ vốn không thuộc về mình mãi mãi.
Tất cả tài sản, người thân, địa vị, tình cảm… đều chỉ là duyên trần, có thì quý, hết thì buông.
Nếu không buông, thì khi duyên tan, ta sẽ khổ. Nếu biết buông, thì ngay cả khi chia ly, ta vẫn mỉm cười.
Hãy nhìn đời bằng con mắt nhân duyên, để:
– Không quá đau khi mất mát.
– Không quá chấp khi được trao.
– Và không quá khổ khi phải chia xa.
Ai đi qua đời ta, xin cảm ơn họ.
Ai rời khỏi đời ta, xin chúc họ bình yên.
Vì tất cả chỉ có thể cùng đi với nhau một đoạn đường.
Nguyện cho tất cả ai hữu duyên đọc được bài này, biết trân trọng những gì đang có, biết buông bỏ những gì đã qua, và sống nhẹ nhàng, thảnh thơi giữa cõi đời vô thường.
(Một ngày nào đó, các anh sẽ trở về, ôi những đứa con lưu lạc). Sébastien. Ch. Le Comte (le masque de fer)
Cách đây vừa đúng 50 năm, 1975-2025, trên chiến hạm chỉ huy Blue Ridge thuộc hạm đội thứ 7. Người ta nhận thấy có một số nhân vật trong chính quyền My mà đặc biệt có một số ký giả từng có mặt trong cuộc chiến VN.
Họ tề tựu khá đông đủ nơi đây như những chứng nhân quan sát cơn hấp hối của Saigon từ trên biển một cách bình thản.
Người ta nhận thấy có ký giả Stanley Karnow, tác giả cuốn: Viêt Nam. A hístory.
David Haberstam với cuốn The best and the Brightest. Và Frank Snepp, người mới tháp tùng tt. Nguyễn Văn Thiệu từ Đài Loan trở về, tác giả các cuốn Decent interval và An Insider Account of Saigon.
Frank Snepp có mặt ở đây lúc này là để chuẩn bị đón tiếp đại sứ Mỹ Martin- người Mỹ cuối cùng sắp rời Saigon.
Ngoài khơi, người ta nhận thấy những con thuyền nhấp nhô như những lá tre trôi trên biển.
Đó là những con thuyền đủ loại, đủ cỡ của những người Việt Nam đầu tiên bỏ chạy cộng sản. Họ là ai, số phận họ sẽ ra sao sau này?
Chẳng ai trong số những ký giả đang chứng kiến cảnh tượng bi đát ấy và ngay cả những người ngồi trên những chiếc thuyền đó có câu trả lời và tiên đoán được điều gì!!
Trong khi đó, Stanley Karnow với cái nhìn mỉa mai như chế nhạo nói với Haberstam:
Này anh, công cuộc di tản này hẳn có sự đóng góp công sức của những người như anh?
Haberstam, một ký giả một thời từng phê phán cuộc chiến tranh một cách hăng say lạnh lùng, tỉnh bơ đáp:
“ Anh nói không sai, nhưng điều đó chứng tỏ sức mạnh của người Mỹ chúng ta nằm ở chỗ nào? Đâu phải chỉ có sức mạnh của B.52? Anh đồng ý chứ?
Và hôm nay chúng ta là những nhân chứng duy nhất và cuối cùng chứng kiến cảnh tháo chạy. Và tôi nghĩ rằng đó là trách nhiệm của tôi và anh ở đây.
-Karnow đáp lại:
Phần tôi, sẽ không quên được câu chuyện ngày hôm nay. Tôi cảm thấy xấu hổ cho nước Mỹ, trong đó có tôi.
Trong khi đó, trong phòng chỉ huy trưởng của chiến hạm, người ta nghe tiếng đối đáp của ông chỉ huy trưởng với ngài Kissinger. H. Kissinger hỏi viên chỉ huy trưởng:
Ông có biết bây giờ là mấy giờ ở Hoa Thịnh Đốn không? Trong một giờ nữa mà ông đại sứ Martin không có mặt trên chiến hạm của ông thì kể như cuộc triệt thoái của người Mỹ thất bại.
-Thưa ngài Kissinger, ông đại sứ nán lại để cứu vớt những người Việt Nam cuối cùng cần được cứu vớt.
Kissinger cáu kỉnh quát trong ống nghe: Anh nói với ông ta là lệnh của tôi, ông ta phải lập tức rời Viet Nam. Tôi không cần biết phải cứu ai. Sao cái bọn “chó chết” đó không chết phứt đi cho rồi.
Stanley Karnow nghe được cuộc điện đàm đó đã đưa ra nhận xét:
“ông Kissinger và ông Lê Đức Thọ nói cùng một thứ ngôn ngữ. Ông Thọ cũng gọi những người đang lố nhố trốn trên biển là những đống rác mà chúng tôi cần tống ra biển ‘
Cả người Mỹ và kẻ thù của họ đều coi VN như một thứ rác rưởi cần phải tống khứ đi cho rồi.
Chẳng bao lâu sau, đại sứ Mỹ đã có mặt trên chiến hạm và ông đã nhận được một công điện của H. Kissinger đánh đi như sau:
“Người Mỹ đến VN như thế nào thì khi rút đi cũng như vậy. Đó là thành công của ông cũng như của chúng ta. Congratulation!!
Ngay sau đó, đại sứ Martin đã nhận được từ dưới bong tàu chỉ huy, một cựu tướng lãnh VN mà ông từng quen biết muốn gặp ông.. ông đã từ chối và nói với viên sĩ quan tùy viên nhắn lại:
“Nói với ông ta, ở đây không phải Sài gòn mà là nước Mỹ trên biển.. Hiện nay, chúng tôi coi ông ấy như một người “ vô tổ quốc”. Ông ấy phải tự tước bỏ lon chậu và không được tuyên bố điều gì.
Người tùy viên đã tuân lệnh nói lại và ghi lại như sau: ông cựu tướng đã quỳ xuống sàn tàu một cách tuyệt vọng và dơ hai tay ngửa mặt lên trời kêu lên rằng:
“Ta thề với trời đất, một ngày nào đó, ta sẽ trở về.”
(Câu truyện và hình ảnh như một bi kịch biểu tượng vho những ngày mất Saigon, Tuy nhiên được biết, sau này ông có trở về thật, nhưng không phải để chiến đấu chông cộng sản, mà để bắt tay hòa giải với cộng sản.)
Tin tức sau này cho hay rằng, đã có khoảng 250.000 ngàn người đã được vớt trên biển và được định cư trên nước Mỹ.
Ngày nay, nhiều người ngồi hồi tưởng lại không thể mường tượng nổi, họ đã có thể liều lĩnh làm một việc như vậy.
Nhưng cái “ sô” vớt người trên biển đầy tình người của người Mỹ nói lên rằng: Người Mỹ có thể làm được tất cả mọi việc một cách quy mô, hoành tráng , ngay cả việc trốn chạy.
Hãy cứ tưởng tượng trong số 250 ngàn ấy, ít ra cũng đến phân nửa ở tuổi vị thành niên và nay nếu muốn diễn tả lại tâm trạng của họ thì có thể tóm tắt là tất cả đều hoang mang và không có một chút hy vọng gì về tương lai..
Vậy mà nay giới trẻ ấy đã đóng góp tích cực, đóng góp vào cộng đồng hải ngoại mà không cần nói hết ra ở đây.
Và cứ như thế, các con số thuyền nhân trốn khỏi Việt Nam càng gia tăng tùy theo nhịp độ của những chính sách của Hà Nội như “đi vùng kinh tế mới”, “học tập cải tạo”, “đánh tư sản mại bản”. Và cuối cùng, chính sách”đi bán chính thức” nhằm xua đuổi giới Hoa kiều ra khỏi VN.
Con số nay không còn là 250.000 người mà nhảy vọt lên hơn hai triệu người.
Giữa sự ra đi của 250.000 người và của hai triệu người sau này có sự khác biệt sâu xa về tính chất và về nục đích. Về tính chất, con số 250.000 người chỉ do sự hoảng kinh mà bỏ chạy. Trong khi những người đi sau từng nếm trải kinh nghiệm sự tột cùng khốn khổ. Họ bị đẩy vào chân tường và lối thoát duy nhất là bằng mọi giá, bằng mọi phương tiện, bằng sự trả giá ngay cả sự sống để trốn thoát ra khỏi Việt Nam mà sau này người ta gọi là “ boat people”. Ngoài những người may mắn sống sót, còn biết bao nhiêu người bị hãm hiếp, bị giết bởi hải tạc Thái Lan, để xác trên biển cả?
Cho đến nay, con số này chẳng ai biết là bao nhiêu. Gia đình các nạn nhân chỉ còn ngậm ngùi trong bóng tôi trong sự tiếc thương. Người chết thì đã chết. Tiếc nuối rồi cũng nguây ngoa. Thời gian rồi sẽ xóa nhoà tất cả.
Và như tiêu đề bài viết; Ngày nào đó, các con sẽ trở về.
Về phía nhà cầm quyền cộng sản.
Họ cho rằng chính thức nhà nước không cưỡng bức bất cứ một ai muốn bỏ nước ra đi và cũng không giữ một ai muốn ra nước ngoài sinh sống. Và cuối cùng để tránh tình trạng xô bồ vượt biển gây khó khăn cho các nước láng giềng. Chính quyền cộng sản đã đồng ý với Liên Hiệp Quốc theo một chương trình ra đi có trật tự (ordely departure program).
Thảm cảnh thuyền nhân trên biển đã giảm mức độ.
Tất cả cái thảm cảnh trên biển nay đã đảo ngược trở thành cái mà Michel Tauriac trong Hồ sơ đen của cộng sản
( Le dossier noir du Communisme) tóm tắt đầy đủ ý nghĩa tóm gọn trong một câu “ Những con bò sữa thuyền nhân”
Từ nay gió đã đổi chiều.. Gió chướng đã thổi họ ra biển, nay ngọn gió nào đã đưa họ về? Hình ảnh sắp tới thật biểu tượng và gợi hình. Thật vậy, tất cả những con bò sữa thuyền nhân đã ra đi với hai bàn tay trắng để lại nhà cửa, tài sản, ruộng vườn. Nay Bộ Nội Vụ quản lý toàn bộ các tài sản, tiền bạc, nhà cửa. Đây lại cho thấy một hình thức “ nhổ sạch lông” những bọn người lưu vong này. Kẻ rỗi hơi ngồi tính nhẩm việc nhổ sạch lông này đem lại cho nhà nước 25 tấn vàng.
Nhưng tính lại, 25 tấn vàng vẫn là chuyện nhỏ.
Và để gọi tên những thuyền nhân này tùy thuộc vào từng thời kỳ. Thoạt đầu là bọn phản quốc, bọn bán nước hại dân, bọn tay sai, bọn Mỹ-Ngụy.
Cho mãi đến năm 1990, người ta vẫn còn nghe có người gọi là bọn việt gian.
Sau này, chữ dùng xem ra có vẻ khách quan hơn cả là: Việt Kiều.
Xin nhắc lại vụ án tàu Viêt Nam Thương Tín để cùng suy gẫm lại.
Trên báo Quân Đội Nhân Dân, số ra ngày mồng 3/7/1977, ở trang ba, có viết như sau:” Luật lệ trừng phạt những kẻ phản cách mạng đã được ban hành ngày 19/11/1976 đã ấn định rõ như sau: Tội chạy trốn sang hàng ngũ địch hay trốn ra ngoại quốc vì những mục tiêu phản cách mạng sẽ bị phạt từ 3 đến 12 năm tù. Trong những trường hợp nghiêm trọng tổ chức tội phạm sẽ bị kết án chung thân hay Tử hình.
Về số phận những người đi tàu Việt Nam Thương Tín theo báo chí, họ đã bị phân tán đi Lào Cay, Yên Bái, Thái Nguyên.
Về phía những người Việt Nam ra hải ngoại như các nhà văn, nhà thơ, xin ghi lại một vài tâm trạng của chúng ta lúc bấy giờ như bài viết của Nguyễn Đình Toàn hay nhà thơ Cao Tần.
“ Thù quê hương như tên hề ốm nặng.
Hồn tang thương sau mặt nạ tươi cười.
Ôi trong ví mỗi người dân mất nước
Còn một oan hồn mặt mày ngu ngơ
Thù hận bọn làm nước ông nghèo xi
Hận gấp nghìn lần khi chúng đánh ông văng.
Nếu mai mốt đổi đời phen nữa
Ông anh hùng ông cứu được quê hương.
Ông sẽ mở ra nghìn lò cải tạo
Lùa cả nước vào học tập yêu thương.
Gió chướng không còn nữa. Gió đâ đổi chiều .
Những thành phần trước đây bị coi là rác thải nay trở thành rác quý chế biến thành những sản phẩm. Rác thải cứ thế mà thay hình đổi dạng.
Những chiếc xe Mercdes, những biệt thự sang trọng như ở Mỹ, những khách sạn Sofitel Vinpearl Resort-Spa, 5 sao tại Hòn Tre. Khu Vinpearl Resort tại Nhatrang..
Những đại gia mà trước đây có thể chỉ là dân thuyền chài sang Mỹ trở thành chủ tàu đánh cá nay trở về. Những mệnh phụ phu nhân mà trước đây có thể là chị bán cá chợ Trần Quốc Toản. Họ nói tiếng Mỹ eo éo, trơn tuột, liến thoắng đến không ai hiểu.
Phải chăng trước đây cuộc di tản là nỗi bất hạnh nay trở thành đại hạnh cho chính họ và con cháu.
Hà Nội đã trải thảm đỏ đón họ từ phi trường Tân Sơn Nhứt trở về như đón một đứa con phung phá nay đã trở về thành đạt.
Câu truyện về họ nay như những câu truyện thần thoại. Mà những câu truyện trước đây kể về họ ngày càng trở nên nhạt phèo như nước ốc.
Gió chướng không còn nữa, gió đã đổi chiều, ngôn ngữ đổi chiều, giọng
lưỡi đổi giọng.
Không còn thứ chữ nghĩa làm đau lòng nhau nữa.
Trên sách báo, trên các trang nhà, không còn tìm thấy bất cứ thứ chữ nào nói xa, nói gần đến chế độ miền Nam. Những chữ như “bọn ngụy quân”, “ngụy quyền”, “bọn tay sai” đã không còn tìm thấy chính thức trên báo Nhân Dân nữa.
Ngược lại không thiếu những chữ mật ngọt như “ tổ quốc VN luôn mở rộng vòng tay chào đón những người con xa xứ.. “ Nhà nước bảo hộ những quyền lợi chính đáng của người Việt Nam định cư ở nước ngoài giữ gìn quan hệ gắn bó với quê hương, góp phần xây dựng quê hương, đất nước.”.
Luật quốc tịch ghi rõ ràng thế này ở điều II: “Người Việt Nam ở nước ngoài là công dân Việt Nam.. Người Việt Nam ở nước ngoài là bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”
Hãy nhìn vào những con số
Năm 1987 mới chỉ có 8000 người về thăm quê hương. Năm 1993, con số đã là 160.000 người. Năm 2002 là 380.000..
Nay thì con số đã lên tới 2 triệu người và trong vài năm nữa, con số nhắm tới là 10 triệu người như Thái Lan với các đường bay thẳng Sài Gon- Mỹ, Sài Gòn- Âu Châu..
Giả dụ, mỗi Việt Kiều về Việt Nam ở hai tuần lễ, chi tiêu khoảng 4000 đô la.
Cán cân kinh tế được kích cầu lên không nhỏ. Tiềm năng thật lớn. Tương lai cũng đày hứa hẹn.
Đó là một nền kinh tế dựa trên một kỹ nghệ không khói.
Tuy nhiên, từ trước đến nay, nhà nước chỉ giữ có một độc quyền không thay đổi.
Mang tiền về thì được, nhưng đừng mang “chữ” về.
“Chữ” hiểu theo nghĩa rẩt rộng như sách báo, tư tưởng, âm nhạc, ca hát, nghệ thuật.
Cần nhớ rằng từ khi thành lập đảng đến nay, chữ vẫn là độc quyền tuyệt đối nằm trong tay đảng. Nó nằm trong một hệ thống khép kín. Chủ nghĩa hay ý thức hệ, bạo lực khủng bố và một chính quyền toàn trị.( Ideology, terror and totaliarian government).
Hiểu như thế, chẳng lạ gì, khi về Việt Nam, người ta thường khuyên có một điều duy nhất: anh muốn làm gì thì làm, chẳng hạn cờ bạc, chơi bời đủ kiểu, cà phê đủ kiểu, gái gú đủ kiểu, sex đủ kiểu, ăn đủ kiểu, đĩ điếm đủ kiểu, gian trá đủ kiểu, lưu manh đủ kiểu, thằng ăn cướp xử thằng ăn cắp đủ kiểu..
Ta có quyền đủ kiểu hết, miễn là đừng đụng chạm đến chính trị .
Vài mẫu người việt di tản nay về sống ở Việt Nam.
Phải nói thẳng với nhau rằng họ là những người “ ngoại quốc” sống trên chính quê hương họ: tách biệt và đẳng cấp.
Họ ở những khu riêng biệt với những biệt thự sang trọng, đủ tiện nghi như ở Mỹ, Canada.
Những khu nhà có những bãi cỏ xanh, hồ bơi, những mái nhà mái màu cam kiểu California, có những hàng dừa cọ, bên cạnh có chữ tiếng Anh “Welcome”.
Họ lái những chiếc xe SUV ra khỏi cổng săt tự động mở.
Chẳng hạn anh chàng Võ Quy, kèm theo cái tên là là Larry trước đây là sĩ quan không quân cùng với bà vợ có tên cúng cơm là Ngọc, nay là Linda.
Anh năm nay đã 70 tuổi, về hưu. Anh ở trong một ngôi nhà với đồ dùng toàn Inox, phòng tắm lớn có vòi tắm hơi, thiết kế theo kiểu jacuzzi của Ý.
Toàn đồ xịn không à. Anh tỏ ra hãnh diện. Anh thiệt là Việt kiều.
Có điều oái ăm là khi ở Mỹ, người ta bằng mọi cách nhắc nhở và nhớ về Sài gon và đặt các tên như Little Sài gòn, Phở Bắc, bánh mì Tân Định, bánh cuốn Dakao, restaurant Hoài Hương, phở Hà Nội, phở Nguyễn Huệ, Brodard restaurant vv.. để gợi nhớ về một miền Nam thân yêu của một thời..
Nay ở Việt Nam thì họ lại tiếc lối sống ở Mỹ, nhớ những kỷ niệm về Mỹ.
Họ trở thành người ngoại quốc trước đồng bào của họ.
Trường hợp anh chàng Hoàng Tiến rất bực mình khi người hàng xóm đã vứt những bao rác trước cửa nhà anh. Lại còn mở nhạc karaoke ầm ĩ bất kể giờ giấc.
Hoàng Tiến khi ở Mỹ thì bắt con học tiếng Việt. không muốn trở thành một thứ Melting Pot.
Về Việt Nam, anh lại chỉ quen xổ tiếng Mỹ. Trong tương lai, Hoàng Tiến sẽ còn gặp nhiều điều rất khó chịu. Chẳng hạn, một anh cán bộ phường cứ xồng sộc vào nhà mà chẳng điện thoại trước.
Trường hợp Nguyễn Anh lại ở một dạng khác. Anh tốt nghiệp kỹ sư, năm nay 35 tuổi làm việc cho một công ty nước ngoài.
Những khó chịu của Nguyễn Anh cũng khá nhiều. Vào ngân hàng, ở siêu thị khi trả tiền, anh chứng kiến cái cảnh chen lấn, huých khủy tay.
Nhất là mấy cô thiếu nữ.
Nguyễn Anh còn sững sờ khi giúp đỡ một người khác mà không bao giờ nhận được tiếng thanh kiu, thanh kiếc gì hết.
Hầu như tiếng cám ơn là một điều xa xỉ với họ.
Về môn giải trí xem đá banh thì thực sự Nguyễn Anh đến ngỡ ngàng không hiểu được. Đá thì các đội có lúc được có lúc thua.
Họ sẵn sàng thức trắng đêm để xem các trận đấu. Họ la lối, tức tối, cởi phanh áo ngực, chửi thề như thể họ mới là cầu thủ.
Phần các cô thiếu nữ có những lối bày tỏ đến ngỡ ngàng đến không ở đâu trên thế giới này có cảnh tượng như vậy. Có thiếu nữ còn đứng trên yên xe, cởi chuồng trơ chẽn la hét mà không biết ngượng.
Quả thực, tuy là người Việt Nam, nhưng anh Nguyễn Anh lại không hiểu gì về người mình.
Chưa kể những thiếu nữ miền Bắc, xinh đẹp dễ sợ, sexy dễ sợ, ăn mặc thiếu vải không che đậy, hấp dẫn con mắt không chịu được.
Vậy mà mở cái mồm xinh đẹp ra là địt cha, địt mẹ, liếm nọ liếm kia như chỗ không người.
Thanh niên thì ngồi ăn nhậu tối ngày, đụng một tý là rút dao ra đâm chém chỉ vì một câu nói khích và coi mạng người như cỏ rác với một thứ luật rừng..
Phần người viết bài này tự hỏi :
Phải nhìn nhận ở Việt Nam có nhiều điều không hiểu được.
Không biết cái tương lai bảng chỉ đường đất nước chỉ về đâu hay vẫn có thể chỉ trật đường?
Và tôi có cảm tưởng, họ, tất cả không trừ đang chơi một canh bạc giả mà Hà Nội là tay chủ sòng.
“Quan niệm sai lầm về sự toàn vẹn và thánh thiện của Giáo Hội nằm ở chỗ, bạn có thể ‘cộng thêm’ Chúa Kitô vào cuộc sống mà không cần phải ‘trừ bớt’ tội lỗi. Đó là thay đổi niềm tin mà không cần thay đổi hành vi; phục hưng mà không cần cải cách; trở lại mà không cần ăn năn! Điều quan trọng là cần thắp lên một ngọn đuốc sám hối, và mỗi người cho phép mình có một trải nghiệm mới, trải nghiệm canh tân!” – Patrick Morley.
Kính thưa Anh Chị em,
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta cho phép mình có một trải nghiệm mới, trải nghiệm biến đổi của ân sủng – đó là một hành trình không ngừng ‘canh tân!’.
Trong Chúa Kitô, Phaolô mời gọi chúng ta chiêm ngắm tình yêu vô bờ của Thiên Chúa, “Trong Người, muôn vật được tạo thành!”; “Nhờ Người”, muôn vật được đổi mới – bài đọc một. Trong bài Tin Mừng, các kinh sư và biệt phái đặt vấn đề với Chúa Giêsu, “Môn đệ ông Gioan năng ăn chay cầu nguyện, môn đệ người Pharisêu cũng thế, còn môn đệ ông thì ăn với uống?”. Đây là một lời kết án ‘khéo nguỵ trang!’. Đáp lại, Ngài kể cho họ dụ ngôn áo mới, vải cũ; bình cũ, rượu mới. Ngài muốn nói, hãy có một tầm nhìn mới, ‘tầm nhìn xót thương’, đó là sự ‘canh tân’ của con tim. “Nếu không có sự đổi mới từ trái tim, mọi cuộc cải cách đều chỉ là lớp phấn son bên ngoài!” – Henri Nouwen.
Với giới kinh sư biệt phái, “rượu mới” chính là tin nhận Chúa Giêsu, Đấng Chúa Cha sai đến; với chúng ta là trở nên tạo vật mới trong Ngài nhờ phép Rửa và ân sủng các Bí tích tuôn trào từ thập giá. Nhờ đó, chúng ta trở nên mạnh mẽ và hoan lạc trong Thánh Thần mà Ngài luôn ân ban. Thánh Vịnh đáp ca mời gọi, “Hãy vào trước thánh nhan Chúa giữa tiếng hò reo!”; nhưng các điều ấy xảy ra làm sao nếu chúng ta cứ ‘cộng thêm’ Chúa vào cuộc sống, mà không cần ‘trừ bớt’ tội lỗi? “Chúa Kitô không chỉ muốn làm sạch bạn, Ngài muốn biến đổi – ‘canh tân’ bạn. Ngài không đến để sửa một mái nhà dột, nhưng đến để xây một lâu đài mới, nơi Ngài có thể ngự trị!” – C.S. Lewis.
Anh Chị em,
“Rượu mới phải đổ vào bầu da mới!”. Lời Chúa mời gọi chúng ta đón nhận “rượu mới” bằng cách sẵn sàng từ bỏ con người cũ tội lỗi để trở nên một con người mới thánh khiết. Nhưng “Đi đôi giày cũ vẫn dễ chịu hơn!”, việc đổi thay có thể rất khó khăn; vì lẽ, đổi mới bao hàm cắt tỉa, bỏ mình và chết đi. “Mọi cuộc canh tân đều đòi cái chết của con người cũ, để con người mới có thể trỗi dậy!” – Thomas Merton. Đó là một hành trình hoán cải, từ niềm tin đến hành vi; từ lối sống đến cách nhìn vốn phải luôn kèm theo một lòng sám hối chân thành. Chúng ta dễ tự mãn và hài lòng với cuộc sống; vậy mà điều đó sẽ cản trở rượu mới ân sủng của Chúa Kitô những muốn đổ lai láng vào linh hồn mỗi người. Ước gì bạn và tôi biết rằng, một sự ‘canh tân’ bên trong ngày càng sâu sắc hơn sẽ là dấu của vầng hồng phục sinh đang lấp ló ở cuối chân trời!
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, thêm Ngài thì dễ, bớt tội thì khó; cho con – mỗi ngày – can đảm trừ bớt tội lỗi, cộng thêm ân sủng và nhân lên niềm vui!”, Amen.
Sẽ có ngày chàng rể bị đem đi ; ngày đó, khách dự tiệc mới ăn chay.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. Lc 5,33-39
33 Khi ấy, các người Pha-ri-sêu và các kinh sư nói với Đức Giê-su rằng : “Môn đệ ông Gio-an năng ăn chay cầu nguyện, môn đệ người Pha-ri-sêu cũng thế, còn môn đệ ông thì ăn với uống !” 34 Đức Giê-su trả lời : “Chẳng lẽ các ông lại có thể bắt khách dự tiệc cưới ăn chay, khi chàng rể còn ở với họ ? 35 Sẽ có ngày chàng rể bị đem đi ; ngày đó, họ mới ăn chay.”
36 Đức Giê-su còn kể cho họ nghe dụ ngôn này : “Chẳng ai xé áo mới lấy vải vá áo cũ, vì như vậy, không những họ xé áo mới, mà miếng vải áo mới cũng không ăn với áo cũ.
37 “Không ai đổ rượu mới vào bầu da cũ, vì như vậy, rượu mới sẽ làm nứt bầu, sẽ chảy ra và bầu cũng hư. 38 Nhưng rượu mới thì phải đổ vào bầu mới. 39 Cũng không ai uống rượu cũ mà còn thèm rượu mới. Vì người ta nói : ‘Rượu cũ ngon hơn’.”
Đừng cố dạy ai điều gì. Dù con có đúng, hãy nhớ lại, ngày xưa chính con cũng khó chịu thế nào khi người lớn tuổi luôn cho rằng họ biết hết.
Đừng ép buộc ai, cũng đừng cố bảo vệ hết thảy những người thân khỏi mọi nỗi khổ của cuộc đời. Chỉ cần yêu họ thôi là đủ.
Đừng suốt ngày than phiền về bệnh tật, về hàng xóm, về chính quyền hay về lương hưu. Đừng biến mình thành một bà cụ cáu kỉnh.
Đừng mong chờ con cái phải biết ơn. Hãy nhớ: không có con cái nào vô ơn cả – chỉ có những bậc cha mẹ dại khờ, đặt quá nhiều kỳ vọng vào lòng biết ơn.
Đừng bao giờ nói những câu khó nghe như:
“Ngày xưa mẹ bằng tuổi con thì…”,
“Cả tuổi thanh xuân mẹ đã hy sinh cho con…”,
“Mẹ lớn tuổi hơn nên mẹ biết nhiều hơn…”.
Những lời ấy chẳng giúp gì, chỉ khiến người nghe thêm nặng lòng.
Nếu có cháu, hãy để chúng gọi con bằng bất cứ cái tên nào chúng thích. Điều quan trọng không phải là cách gọi, mà là tình cảm chúng dành cho con.
Đừng lãng phí tiền vào những liệu pháp “cải lão hoàn đồng”. Vô ích thôi. Hãy dành số tiền ấy cho một chuyến đi, một trải nghiệm vui, một kỷ niệm đẹp.
Đừng soi gương trong bóng tối để tự lừa dối mình. Hãy nhìn thẳng vào tuổi tác, và cố gắng giữ cho mình nét thanh lịch, sang trọng. Không cần trẻ lại, chỉ cần đẹp trong sự chín muồi.
Hãy chăm sóc chồng con, ngay cả khi ông ấy đã trở thành một ông già gầy yếu, khó tính. Đừng quên rằng, đã có lúc ông ấy trẻ trung, mạnh mẽ, vui tươi… Và có thể chính lúc này, ông ấy mới thật sự cần con nhất.
Đừng cố chạy theo thời đại: con không cần phải rành công nghệ mới, không cần ép mình theo dõi mọi tin tức, không cần học thêm mọi thứ chỉ để “không tụt hậu”. Hãy làm những gì khiến con vui, thế là đủ.
Đừng tự trách mình vì những gì đã qua – trong đời con hay trong đời con cái. Con đã làm hết sức rồi.
Và trên hết, hãy giữ phẩm giá của mình, trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Cho đến giây phút cuối cùng.
Cuối cùng, xin nhớ: nếu con còn sống, nghĩa là vẫn có ai đó cần đến con.
Tác giả vô danh – nhưng như viết cho tất cả chúng ta.
“Con có biết điều khó nhất khi già đi là gì không?”
“Là gì ạ?”
“Là trở nên vô hình. Khi còn trẻ, con vẫn là ‘ai đó’: xinh đẹp, vui vẻ, lôi cuốn, mạnh mẽ… ít nhất cũng là người được chú ý. Nhưng rồi tất cả phai tàn. Và bỗng nhiên, con chỉ còn là ‘ông già khoác áo sờn cũ’ hay ‘bà cụ đội mũ len và mặc chiếc áo len bạc màu’. Cảm giác như mình chẳng tồn tại nữa. Như thể mình trong suốt.”
Đoạn thoại này lấy từ một bộ phim truyền hình nổi tiếng của Anh. Nghe buồn, nhưng lại đúng lắm.
Quá nhiều khi, thứ duy nhất người ta nhìn thấy ở một người già chính là… tuổi tác. Không ai nói: “bà từng là cô giáo dạy ngoại ngữ” hay “ông từng là kỹ sư.” Họ chỉ buông một câu: “bà ấy ngoài tám mươi rồi,” “ông chắc cũng gần chín mươi.”
Theo thời gian, số người thực sự biết câu chuyện đời bạn — bạn từng là ai, yêu thích điều gì, giỏi điều gì — ngày một ít đi. Bạn bè mất dần. Người còn sống thì chẳng ra ngoài nổi. Chuyến đi xa nhất trong ngày có khi chỉ là xuống cửa hàng tạp hóa mua ổ bánh mì.
Trong khi đó, con cháu ai cũng bận rộn với guồng quay riêng. Thỉnh thoảng mới gọi điện. Hiếm hoi lắm mới ghé thăm. Ở khu chung cư, đã có hàng xóm mới: những cặp vợ chồng trẻ, ông bố bận rộn xách túi đồ, những chiếc xe nôi lăn qua lại. Không ai biết tên bà cụ sống ở tầng hai. Cửa hàng góc phố cũng đổi nhân viên mới, chẳng còn khuôn mặt thân quen. Nhiều nhất, người ta chỉ biết số phòng và chừng tuổi của bạn. Còn sau cánh cửa ấy là gì? Chẳng ai quan tâm. Và thế là khoảng trống len vào.
Chúng ta thường thắc mắc: tại sao mẹ gọi điện mười lần một ngày chỉ để nói chuyện vụn vặt? Sao cha cứ lặp đi lặp lại cùng một câu hỏi?
Sự thật là: họ chỉ sợ bị lãng quên. Họ muốn được chú ý. Muốn được lắng nghe. Dù chỉ qua điện thoại.
Bởi già đi không chỉ là cộng thêm tuổi. Già đi còn là cảm giác dần bị xóa khỏi thế giới.
Già đi còn là nỗi cô đơn.
Già đi còn là khao khát vẫn còn ý nghĩa với ai đó.
Đừng đợi đến khi quá muộn. Hãy gọi điện. Hãy ghé qua. Hãy hỏi một câu: “Hôm nay bố mẹ thế nào?”
Với bạn, đó chỉ là một phút.
Với họ, đó là cả một thế giới.
Đôi khi, chỉ một câu đơn giản: “Con vẫn nhớ” cũng đủ để ai đó thấy mình vẫn còn sống — được nhìn thấy, được trân trọng, không bị bỏ quên.
Đối thoại trong cầu nguyện được hình thành từ sự thinh lặng và lắng nghe. Chúng ta nói chuyện với Chúa, thế nhưng chúng ta cũng cần lắng nghe Ngài.
Linh mục Emmanuel Albuquerque
Chúng ta đang sống trong một thời đại thích thể hiện bản thân. Người ta phô diễn hầu như tất cả mọi thứ. Món ăn mà chúng ta ăn, quần áo chúng ta mặc, quan điểm của chúng ta… tất cả đều trở thành một bài đăng trên mạng xã hội cách dễ dàng. Chúng ta thường phải đối mặt với tình trạng lộn xộn, ồn ào và những thứ đó cứ bủa vây chúng ta. Vì thế mà thinh lặng trở nên ít hơn, rụt rè hơn, lãng quên nhiều hơn. Để lắng nghe cần phải biết thinh lặng. Lắng nghe người khác, Thiên Chúa hay chính mình là một bài tập rất khó, vì nó buộc chúng ta phải rời xa ánh đèn sân khấu, nơi mà chúng ta chỉ thể hiện những gì mà người khác muốn thấy, để bước vào trong thâm sâu của con người mình.
Trong nền văn hóa âm thanh mà chúng ta đang sống, thinh lặng có thể làm chúng ta sợ, bởi vì sống trong thinh lặng là bước vào trong một mối tương quan khác, và điều này có thể ảnh hưởng đến mối liên hệ liên vị với nhau, cũng như ảnh hưởng đến mối quan hệ với Thiên Chúa.
Kinh nghiệm Kitô giáo cho thấy có ba trong số các nền tảng căn bản của cầu nguyện. Cầu nguyện không phải là tùy thích nếu chúng ta muốn trưởng thành trong sự mật thiết với Thiên Chúa, trong việc nhận biết Ngài và chính mình. Cầu nguyện là một thực tại quý báu, nhưng bằng cách này hay cách khác chúng ta đã biết được điều đó. Tuy nhiên, một số người cảm thấy duy trì việc cầu nguyện cách trung thành, cảm thấy cuộc gặp gỡ giữa hai tâm hồn này sao cho được hiệp nhất trong một cuộc đối thoại đầy yêu thương thật khó biết là dường nào.
Thinh lặng, cầu nguyện và đối thoại
Cầu nguyện là đối thoại. Nó phải là như vậy. Chính Chúa Giêsu đã chỉ dẫn về việc này trong Matthêu 6, 6 “Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.” Cầu nguyện là một cuộc gặp gỡ. Chúng ta mong đợi. Trong sự mong đợi này, Chúa muốn đón tiếp chúng ta để thiết lập một cuộc đối thoại, trong đó có người nói, có người nghe.
Trong cuộc gặp gỡ đó điều Chúa Giêsu mời gọi chúng ta làm là hãy cho thấy cách chúng ta có thể sống lời cầu nguyện của mình. “Đóng cửa lại…” Chúng ta nghĩ rằng Chúa nói chuyện với chúng ta từ cánh cửa của căn phòng chúng ta ra vào, nhưng nghịch lý là chúng ta có thể hiểu hành động đóng cửa giống như lời mời đóng cửa tâm hồn. Cái gì vậy? Cầu nguyện với tâm hồn khép kín sao? Rõ ràng là không. Hãy đóng cửa tâm hồn trước những tiếng ồn ào đến từ bên ngoài, trước những lộn xộn đang bủa vây chúng ta. Và hãy bước vào sống trong sự thinh lặng hầu lấp đầy chúng ta bằng sự hiện diện của Đấng đang ở đó đợi chờ chúng ta.
Thinh lặng trong cầu nguyện Kitô giáo không được hiểu như là sự im lặng trống rỗng, hay dẫn chúng ta đến một sự trống rỗng hiện sinh. Chúng ta thấy Chúa Giêsu mời gọi chúng bước vào trong căn phòng đã có sự hiện diện của Chúa Cha ở đó. Thinh lặng trong cầu nguyện Kitô giáo là một sự thinh lặng trọn vẹn và hướng tới việc đưa chúng ta đến một sự viên mãn, bởi vì Thiên Chúa đang ở đó để lắng nghe và nói chuyện với chúng ta.
Thinh lặng để lắng nghe
Đối thoại trong cầu nguyện được tạo ra từ sự im lặng và lắng nghe. Chúng ta nói với Chúa, nhưng chúng ta cũng cần lắng nghe Ngài, và hầu như không xảy ra cách ồn ào hay bạo lực. Hầu như lúc nào cũng được nhận biết qua “một cơn gió thoảng nhẹ nhàng” (1V 19,12). Thinh lặng trong cầu nguyện trở thành một yếu tố nền tảng để có thể lắng nghe điều Thiên Chúa nói với chúng ta. Thường thì không dùng lời lẽ. Lắng nghe là chiêm nghiệm, thinh lặng tạo thành. Tạo ra những mối liên kết khác, nhịp cầu khác.
Để lắng nghe cần phải ở trong thinh lặng. Sống trong thinh lặng để lắng nghe những nỗi đau và nỗi buồn phiền của thế giới bị tổn thương. Hãy lắng nghe những gì đang diễn ra xung quanh cuộc sống của chúng ta. Và thinh lặng cho phép chúng ta lắng nghe vượt ra khỏi những tiếng ồn quanh quẩn để trở thành người sáng tạo, và những gì mà chúng ta nhận được trong sự thinh lặng trở thành chất dinh dưỡng cho lời cầu nguyện của chúng ta.
Học cách sống thinh lặng
Sống giữa một thế giới bị bao trùm bởi những tiếng ồn ào và tiêu khiển, tôi mời gọi các bạn hãy sống một lộ trình thân mật với Chúa. Sự thân mật với Thiên Chúa là con đường để thăng tiến nội tâm, để lắng nghe tiếng Chúa cách rõ ràng và để hiểu biết bản thân.
Chúng ta hiện đang lắng nghe điều gì? Và đâu là chất lượng của việc chúng ta lắng nghe? Làm sao để nuôi dưỡng cuộc đối thoại với Thiên Chúa. Các bạn hãy bước vào căn phòng của mình. Đóng cửa lại và hãy cầu nguyện với Chúa Cha, Đấng đang đợi chờ các bạn. Cùng với Ngài để việc thinh lặng của chúng ta được trọn vẹn. Bởi đó sẽ là kết quả của việc lắng nghe.
“Đức Giêsu cúi xuống gần bà, ra lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt biến mất”.
Rolf Lovland viết “You Raise Me Up” – “Ngài nâng con lên” – thoạt đầu chỉ với giai điệu. Cơ duyên đến khi ông vừa đọc xong “Nụ hoa trắng nhất” – “The Whitest Flower” – của B. Graham; Lovland nghĩ, đây là người hoàn hảo sẽ viết ca từ cho ca khúc dở dang này. Chiều kia, hai người gặp nhau, cùng nghe nó; tối đến, Graham viết phần lời mà không một lần chỉnh sửa. “You Raise Me Up” được hát lần đầu tại đám tang mẹ của Lovland. Sức mạnh của nó nằm ở Đấng được ‘nâng lên’ – tận thập giá – khi bạn không còn gì để mất!
Kính thưa Anh Chị em,
Sẽ khá bất ngờ, khi Lời Chúa cho thấy ý nghĩa của việc Thiên Chúa ‘nâng lên’ những ai Ngài yêu. Đó là những gì nhẹ tênh, rất bình thường và cũng rất lặng lẽ. Bằng chứng là câu chuyện Tin Mừng hôm nay.
Chúa Giêsu vào nhà, thấy nhạc mẫu Phêrô liệt giường, Ngài đến gần bên, cúi xuống, lặng lẽ chữa cô, cô đứng lên. Không một lời cầu, không một lời cảm ơn; nó ‘nhẹ tênh’ đến nỗi những người có mặt hầu như không hay biết! Cũng thế, mỗi ngày, Thiên Chúa lặng lẽ ‘nâng lên’ từng người trong chúng ta theo cách Ngài đã nâng phụ nữ may mắn này!
Những gì ‘không thể đơn giản hơn’ thật đáng chú ý! Vì lẽ, đang khi chúng ta luôn kỳ vọng vào những gì lớn lao kỳ diệu, bạn và tôi thường dễ bỏ qua những cách thức chữa trị ‘lặng lẽ’ rất bình thường của Thiên Chúa. Ở lãnh vực tâm linh, đó có thể là một lần đi xưng tội, một lần rước Chúa hay một lần tự vấn lương tâm; ở lãnh vực thể chất, đó có thể là một giấc ngủ ngon hoặc chỉ là việc chăm sóc sức khoẻ tốt bằng việc ăn uống nghỉ ngơi hợp lý. “Ân sủng đi vào linh hồn qua những cánh cửa đơn giản nhất!” – Henri Nouwen.
Phaolô gọi chúng là “ân sủng và bình an của Thiên Chúa” – bài đọc một – những phúc ân thường ngày vốn luôn toả lan đến độ chúng ta không nhận ra. Chúng ta ‘rất giỏi’ trong việc hưởng nhận hồng ân, nhưng thường ‘dùng dằng’ với hoá đơn thanh toán – phục vụ. Được Chúa Giêsu chữa lành, lập tức mẹ vợ Phêrô phục vụ các ngài. “Thước đo lòng biết ơn ân sủng chính là sự sẵn lòng phục vụ!” – Fulton Sheen. Đúng thế, chúng ta được cứu khỏi cái chết của tội lỗi là để phục vụ; Kitô hữu, ‘đoàn người sống lại’ để ra đi phục vụ!
Anh Chị em,
“Bà trỗi dậy phục vụ các ngài!” Hình ảnh Chúa Giêsu cúi xuống, nắm lấy tay bà nhạc Phêrô và nâng cô lên, hé mở một chân lý: Thiên Chúa không chỉ giải thoát chúng ta khỏi bệnh tật hay tội lỗi, nhưng còn mời chúng ta đứng dậy đi đến với tha nhân. “Đức tin chỉ thật sự sống động khi nó nở hoa trong phục vụ!” – John Stott. Bạn được ‘nâng lên’ không phải để ngồi đó hưởng thụ, nhưng để ra tay cứu giúp. Mỗi lần lắng nghe, tha thứ, chia sẻ cơm bánh; mỗi lần hiện diện bên một người cô đơn… bạn đang cho Chúa mượn đôi tay để nâng người khác. “Lòng biết ơn ân sủng luôn tìm cách biểu lộ trong phục vụ!” – Karl Barth.
Chúng ta có thể cầu nguyện,
“Lạy Chúa, con đứng vững nhất, không phải khi vươn cao, nhưng khi cúi xuống nâng ai đó dậy; nhất là những ai không còn gì để mất!”, Amen.
Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca. Lc 4,38-44
38 Khi ấy, Đức Giê-su rời khỏi hội đường, đi vào nhà ông Si-môn. Bấy giờ, bà mẹ vợ ông Si-môn đang bị sốt nặng. Họ xin Người chữa bà. 39 Đức Giê-su cúi xuống gần bà, ra lệnh cho cơn sốt, và cơn sốt biến mất : tức khắc bà trỗi dậy phục vụ các ngài.
40 Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền, đều đưa tới Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ. 41 Quỷ cũng xuất khỏi nhiều người, và la lên rằng : “Ông là Con Thiên Chúa !” Người quát mắng, không cho phép chúng nói, vì chúng biết Người là Đấng Ki-tô.
42 Sáng ngày, Người đi ra một nơi hoang vắng. Đám đông tìm Người, đến tận nơi Người đã đến, và muốn giữ Người lại, kẻo Người bỏ họ mà đi. 43 Nhưng Người nói với họ : “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó.” 44 Và Người rao giảng trong các hội đường miền Giu-đê.