Hitler rất đông fans cuồng, khi lãnh đạo nước Đức quốc xã

Ba’o Tieng Dan

Nguyễn Thị Bích Hậu

21-2-2025

Sau Thế chiến 1, Đức thua trận. Từ một đế quốc hùng mạnh, nước này rơi vào vực thẳm của suy thoái kinh tế và tâm lý đại bại. Trong khi đó, họ phải gánh một khoản bồi thường chiến phí khủng là khoảng 63 tỉ USD quy đổi lúc đó, khoảng 768 tỉ USD ngày nay. Con số này sau đó đã được hạ xuống còn 33 tỉ USD, khoảng 402 tỉ USD ngày nay. Một con số mà trong thời điểm Đức suy thoái kinh tế trầm trọng, không đào đâu ra mà trả.

Dân Đức đa phần cảm thấy đau khổ, buồn bã, thất vọng, tinh thần xuống dốc, cùng nạn thất nghiệp và nghèo đói đe dọa cuộc sống cá nhân và gia đình họ.

Đúng lúc đó, Hitler xuất hiện và đưa ra học thuyết riêng muốn vực dậy nước Đức, đưa nước này trở lại vị trí hùng mạnh ở châu Âu và thậm chí sẽ là số 1 toàn cầu. Theo đó đế chế thứ 3 của Hitler sẽ nối tiếp đế chế La Mã và đế chế Bismarck. Và đây chính là sứ mệnh của “một dân tộc thượng đẳng”.

Để hiện thực hóa điều này, Hitler đi diễn thuyết khắp nơi và tài diễn thuyết của ổng khiến không ít dân Đức phát cuồng, thành fans trung thành của ổng.

Ngày 30/1/1933, Hitler đắc cử trong cuộc bầu cử Thủ tướng Đức. Vào ngày 2/8/1934, Tổng thống Hindenburg qua đời. Ngay sau đó, Hitler ra thông báo gộp hai chức vụ Thủ tướng và Tổng thống làm một. Vậy là ổng thành lãnh tụ tối cao.

Để chứng minh năng lực của mình có thể làm nền kinh tế vực dậy, Hitler dùng một giải pháp đơn giản hơn ‘đan rổ’ là bắt người Do Thái phải đăng ký tất cả tài sản trên 2.000USD, thực ra là để truy thu, và đã thu về hơn ba tỷ USD cho chính quyền Đức bấy giờ.

Ổng khôn khéo đưa nước Đức thoát khỏi cái bóng của Hòa ước Versailles. Kế đến là tiến hành chương trình tái vũ trang quân đội quy mô lớn.

Cùng lúc, Hitler chặt đứt những tiếng nói phản biện, đồng thời xóa sổ những tổ chức có thể là địch thủ, cùng lúc với việc đẩy hệ thống tuyên truyền lừa mị với mọi thông tin dối trá lên tới đỉnh cao.

Khi nhiều người dân Đức từ sự cả tin trước những lời lừa dối, họ chuyển qua việc đi theo Đức Quốc xã một cách mê muội, thì Hitler hoàn toàn thành công. Ổng dẫn tất cả tới việc châm ngòi Thế chiến 2 và nạn diệt chủng Holocaust, khiến cỡ 85 triệu người trên toàn cầu chết thê thảm.

Tóm lại ngay cả dân một xứ rất trọng lý tính, làm việc kỷ luật và bài bản như Đức mà khi rơi vào thế khó khăn cũng có thể bị thành fans cuồng và ủng hộ một kẻ khủng khiếp như Hitler, thì những dân xứ khác cũng khó tránh khỏi nanh vuốt của những kẻ tương tự.

Tỉnh táo, bình tĩnh, có đủ hiểu biết và lương tri để không mắc sai lầm khi chạy theo một chính khách thâm độc, luôn là điều khó.


 

Sống một ngày tràn đầy niềm vui là tận hưởng một ngày.

Dùng tuổi trẻ để kiếm tiền, nhưng tiền lại không mua được tuổi trẻ.
Dùng mạng sống để kiếm tiền, nhưng tiền lại không mua được mạng sống.
Dùng hạnh phúc để đổi lấy tiền, nhưng tiền lại không mua được hạnh phúc.
Dùng thời gian để kiếm tiền, nhưng tiền lại không mua được thời gian.
Cho dù dùng cả cuộc đời để có được tất cả tiền bạc của cả thế giới, nhưng tiền bạc của cả thế giới cũng không mua lại được cuộc đời của bạn.
Vậy nên những lúc làm việc thì hãy tập trung làm việc, những lúc nên nghỉ ngơi thì hãy nghỉ ngơi, vui vẻ làm việc, tận hưởng cuộc sống, trân quý tất cả những gì mình đang có, yêu thương những người mà bạn quan tâm.
Sống một ngày không niềm vui là lãng phí một ngày,
Sống một ngày tràn đầy niềm vui là tận hưởng một ngày.
Nguồn: St

Nạn tự tử ở Nhật nơi thừa văn minh nhưng lại thiếu Đức Tin

Theo báo Bưu Điện Hoa Nam – SCMP

Một bé trai năm tuổi được phát hiện đã chết trong một chiếc ô tô gần Tokyo vào thứ Bảy, cùng với người cha và anh trai bất tỉnh, trong vụ việc mà cảnh sát nghi ngờ là một vụ cố ý giết người rồi tự tử.

Theo báo cáo của cảnh sát, một nhân viên cửa hàng đã báo động cho chính quyền thành phố Kumagaya, tỉnh Saitama vào khoảng 1 giờ chiều sau khi phát hiện hai cậu bé gục xuống trong xe.

Sau đó, cảnh sát xác định rằng người cha đã nhốt các con mình trong xe có than củi đang cháy, dẫn đến ngộ độc khí carbon monoxide. Các nhà điều tra dự định sẽ thẩm vấn người đàn ông này sau khi anh ta tỉnh lại.

Các chuyên gia tin rằng vụ việc này và những vụ việc tương tự khác là một phần của mô hình bạo lực gia đình và khủng hoảng sức khỏe tâm thần đáng lo ngại ở Nhật Bản , khi các vụ giết người tự tử ngày càng trở nên phổ biến.
Một biển báo ở lối vào rừng Aokigahara kêu gọi du khách có ý định tự tử hãy tìm kiếm sự giúp đỡ.
Một bảng báo ở lối vào rừng Aokigahara kêu gọi du khách có ý định tự tử hãy tìm kiếm sự giúp đỡ. ảnh của Nicolas Datiche/SIPA/Newscom
Nghiên cứu từ tờ báo Mainichi, dựa trên các báo cáo truyền thông thu thập được từ năm 2018 đến năm 2022, cho thấy ít nhất 254 vụ giết người-tự tử trong gia đình đã được báo cáo ở nước này, cướp đi sinh mạng của 486 người. Trong phần lớn các trường hợp, cha mẹ đã giết con mình trước khi kết thúc cuộc sống của chính họ. Các trường hợp khác liên quan đến các cặp đôi, anh chị em ruột hoặc các thành viên gia đình lớn tuổi.
Một ngày trước khi phát hiện bé gái 5 tuổi đã chết, một người phụ nữ 33 tuổi và chồng cũ 34 tuổi của cô đã chết vào thứ sáu tại Yokohama trong một vụ việc mà cảnh sát tin là một vụ giết người-tự tử khác. Cảnh sát cho biết người đàn ông đã liên lạc với họ để thú nhận đã tấn công ai đó bên ngoài nhà mình. Các cảnh sát tìm thấy người phụ nữ gần đó với những vết thương nghiêm trọng và dấu hiệu bị kéo lê. Sau đó, cô ấy đã chết vì vết thương của mình. Người đàn ông được phát hiện đã treo cổ tự tử trong căn hộ của mình và được tuyên bố là đã chết sau khi bị ngừng tim.

Vào tháng 12, một người phụ nữ 38 tuổi đã cẩn thận bịt kín cửa sổ và cửa ra vào bên trong ngôi nhà của mình ở Nishio, một thành phố nhỏ ở tỉnh Aichi của Nhật Bản, và đốt cháy một đống than củi. Khi chồng cô trở về nhà sau giờ làm việc vào đêm hôm đó, người phụ nữ và hai đứa con của cô đã tử vong vì ngộ độc khí carbon monoxide.

Fujiko Yamada, người sáng lập Trung tâm ngược đãi trẻ em ở tỉnh Kanagawa, chỉ ra ba động lực chính dẫn đến các vụ giết người-tự tử trong gia đình: khó khăn về tài chính, bạo hành gia đình và các vấn đề sức khỏe tâm thần không được chữa trị.

“Các gia đình ở Nhật Bản hiện đang rất căng thẳng”, Yamada, người có hàng chục năm kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực này, chia sẻ với tờ This Week in Asia. “Tất nhiên, tài chính hộ gia đình là một vấn đề lớn khi giá cả tăng và tiền lương vẫn giữ nguyên. Phụ nữ thường kiếm được ít tiền hơn nam giới, vì vậy nhiều phụ nữ muốn ly hôn chồng vẫn ngần ngại vì họ sợ rằng họ sẽ không thể nuôi con bằng thu nhập thấp”.

In Japan, more teenagers commit suicide on Sept. 1 than any other day ...

Thêm vào mức báo động, tỷ lệ tự tử ở trẻ vị thành niên đạt mức cao kỷ lục vào năm 2024, với 527 học sinh được báo cáo là tự tử, khiến tự tử trở thành nguyên nhân tử vong hàng đầu ở trẻ em Nhật Bản từ 10 đến 19 tuổi.

Kẻ Đi Tìm:

  • Viện khảo cứu sức khỏe JRHS thống kê 11389 khảo cứu với sự tham gia của trên 8 triệu người được phỏng vấn, đã cho biết:
  • Kết quả của phân tích tổng hợp này ủng hộ quan niệm rằng tôn giáo có thể đóng vai trò bảo vệ chống lại hành vi tự tử.
  • Có mối liên hệ nghịch đảo giữa tôn giáo và hành vi tự tử. Cứ 3 người vô tôn giáo tự tử thì có một người theo tôn giáo đã tự tử, tỷ lệ chi tiết là 0.31
  • Cho dù văn minh đến đâu con người đau khổ cũng vẫn cần đến Đức Tin để định hướng thiên đàng cho đời mình ngay từ lúc này ở trên mặt đất.

Visiting the Spooky Aokigahara Suicide Forest Japan – The Passport ...


 

Thân phận nhược tiểu- Tác Giả: Trần Trung Đạo

Trần Trung Đạo

Ba’o Dan Chim Viet

17/02/2025

(Ảnh: TT Nguyễn Văn Thiệu và TT Nixon tại Midway,ngày 8 tháng 6 1969- Getty Images)

Khái niệm “bán đứng” (sold out) được dùng trong nhiều lãnh vực và thường dùng trong thì quá khứ để chỉ một sự kiện đã rồi. Trong chính trị học, “bán đứng” được dùng một cách khá lỏng lẻo để chỉ hành động phản bội, bỏ rơi, đổi chác hay có khi thông đồng giữa hai thành phần đối nghịch trên sự thiệt hại của thành phần thứ ba yếu hơn vốn là một đồng minh của một trong hai thành phần đối nghịch.

Lịch sử để lại nhiều bài học về thân phận đắng cay của các quốc gia bị “bán đứng” đã phải mất lãnh thổ, mất hàng triệu người dân vô tội trong cuộc chiến và mất quyền quyết định vận mệnh của chính mình khi cần quyết định. Bài này giới thiệu cả bốn trường hợp, “bỏ rơi”, bán đứng”, “đổi chác” “và “thông đồng”.

Mỹ “bỏ rơi” Việt Nam Cộng Hòa

Sau Thông Cáo Chung Thượng Hải giữa TT Nixon và Chu Ân Lai ngày 27 tháng 2, 1972, một chính sách đối ngoại mới của Mỹ được ra đời. Chủ thuyết Domino của TT Dwight D. Eisenhower cho rằng sự sụp đổ của VNCH sẽ dẫn tới sự sụp đổ dây chuyền của vùng Đông Nam Á không còn đúng và được thay bằng chủ thuyết Nixon đương đầu trực tiếp với các cường quốc bảo trợ chiến tranh đứng phía sau, trong trường hợp chiến tranh Việt Nam là LX và TC.

TT Nixon không còn nhìn Việt Nam như một điểm nóng trong Chiến Tranh Lạnh giữa Mỹ, TC và LX mà nhìn rộng hơn. Tài liệu lưu trữ tại Bộ Ngoại Giao Mỹ giải thích quan điểm của TT Nixon: “Trong khi đó, Nixon và Kissinger tìm cách định hình lại bối cảnh quốc tế của cuộc chiến thông qua việc xây dựng mối quan hệ với các đồng minh siêu cường của Bắc Việt là Moscow và Bắc Kinh. Nixon muốn tạo ra một tình thế tiến thoái lưỡng nan cho Liên Xô và Trung Quốc – cho họ “con cá lớn hơn để chiên” theo cách nói của ông – trong việc lựa chọn giữa sự ủng hộ của họ đối với Bắc Việt Nam và mối quan hệ chặt chẽ hơn với Hoa Kỳ. Hội nghị thượng đỉnh năm 1972 tại Bắc Kinh và Moscow phản ánh chiến lược này, mặc dù các cường quốc Cộng sản vẫn tiếp tục hỗ trợ vật chất cho Hà Nội.” (Office of Historian, Richard Nixon, Ending the Vietnam War, 1969–1973, US State Deparment)

Trước Thông Cáo Chung Thượng Hải, VNCH và Mỹ có mục đích hoàn toàn tương hợp là ngăn chặn làn sóng CS không tràn xuống phía Nam Châu Á. Nhưng khi Mỹ bắt tay với TC, mục đích không mâu thuẫn nhưng không còn tương hợp nữa. Cuộc chiến tranh tự vệ của quân và dân miền Nam trở thành cuộc chiến cô đơn và cô thế. Dù có hay không vụ Watergate, với chủ thuyết Nixon, chiến tranh Việt Nam sẽ phải kết thúc, nhanh hay chậm chỉ là vấn đề thời gian. Về phía người dân Mỹ, theo Thống Kê của Gallup năm 1972, 61% người được thăm dò đồng ý việc Mỹ tham dự vào chiến tranh Việt Nam là một sai lầm trong khi chỉ 28% trả lời không đồng ý. Để kiếm phiếu, các ứng cử viên chạy đua vào Tòa Bạch Ốc năm 1972 dù Cộng Hòa (Richard Nixon) hay Dân Chủ (George McGovern) đều cổ võ cho một giải pháp hòa bình.

Trường hợp Việt Nam Cộng Hòa đã được hàng trăm tác giả từ các sử gia qua sách vở cho đến các lãnh đạo chính phủ viết lại trong hồi ký của họ như TT Nixon với The Memoirs of Richard Nixon, Hennry Kissinger với Ending the Vietnam War. Gần 50 năm từ ngày 30 tháng 4, 1975, “bỏ rơi VNCH” vẫn còn là một câu chuyện thời sự. Tiếng trực thăng cất cánh từ sân thượng của tòa đại sứ Mỹ như vẫn còn nghe. Những đoàn tàu ra khơi dường như vẫn còn để lại màu khói xám trên cảng Bạch Đằng Sài Gòn. “Bỏ rơi” là một động từ gợi hình và gợi cảm.

Khi nghĩ tới “bỏ rơi”, hai khuôn mặt nổi tiếng trong chính trị Mỹ gồm Richard Nixon và Henry Kissinger xuất hiện ngay trong tâm trí. Văn bản gọi là “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” được thảo luận từ 1969 cho tới 27 tháng Giêng 1973, là kết quả của những cuộc đàm phán, phần lớn trong bí mật, giữa Kissinger và Lê Đức Thọ. Ngoại trừ những ngày chót, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa trong suốt thời gian mật đàm không hề được tham khảo.

Theo sử gia Fredrik Logevall “Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu không thực sự đồng ý với Hiệp định. TT Thiệu hiểu rất rõ miền Nam Việt Nam sẽ dễ bị tổn thương như thế nào nếu không có sự tham gia tích cực của Mỹ, và ông lo ngại rằng những lời hứa tiếp tục hỗ trợ mạnh mẽ của Nixon sẽ trở nên trống rỗng. Nixon buộc phải đưa ra lời đe dọa: Trừ khi Thiệu đồng ý với thỏa thuận, ông ta sẽ phải đối mặt với nguy cơ bị cắt hoàn toàn viện trợ của Mỹ.” TT Thiệu không còn chọn lựa nào khác. Ngay cả khi sắp sửa ký, TT Thiệu cũng vẫn không ủng hộ nội dung của hiệp định Paris, chỉ không chống đối nữa thôi. (Historian Fredrik Logevall, 50 years later, the legacy of the Paris Peace Accords isn’t one of peace, Harvard Kennedy School, Jan 26, 2023)

Truyền thông Mỹ phê bình VNCH bại trận, không giữ được miền Nam. Không một cường quốc nào tự hào là chưa từng bại trận dù dư thừa nhân lực, võ khí, đạn bom. Nước Pháp với đạo quân 800 ngàn đã phải bỏ ngỏ Paris chỉ sau 6 tuần lễ của Thế Chiến Thứ Hai. Nước Anh thua trận Singapore khi 85 ngàn quân Anh đầu hàng tập thể trước một đạo quân Nhật chỉ 35 ngàn ngày 15 tháng 2, 1942. Trong trận Bataan, liên quân Mỹ-Philippines đầu hàng Nhật ngày 9 tháng 4, 1942 để sau đó chịu đựng Cuộc Đi Bộ Tử Thần (Bataan Death March) với gần 20 ngàn lính Mỹ và Phi chết trên đường tới trại tù.

VNCH vẫn tiếp tục chiến đấu suốt hai năm sau trong điều kiện khó khăn thiếu thốn để đương đầu với một đạo quân cuồng tín ý thức hệ CS và được sự ủng hộ bằng sinh mạng, vật chất lẫn tinh thần của hai cường quốc CS, Trung Cộng và Liên Xô. Hạt gạo của TC gởi cho CSVN mới thật sự là “hạt gạo chẻ làm đôi” vì trong thời gian đó nhiều triệu dân số tỉnh Tứ Xuyên (Sichuan) quê hương của Đặng Tiểu Bình chết đói.

Lịch sử Việt Nam trong thế kỷ 20 là một lịch sử đầy ngộ nhận và sau nửa thế kỷ, danh dự của những người lính VNCH đã hy sinh hay còn sống vẫn chưa được phục hồi.

Neville Chamberlain “Bán Đứng” Tiệp Khắc

Trong những bài học “bán đứng”, bài học được biết nhiều nhất là bài học Sudetenland.

Sau Thế Chiến Thứ Nhất, dù thắng hay bại, các quốc gia đều phải chịu đựng một thời kỳ suy thoái kinh tế trầm trọng. Khuynh hướng chủ hòa chế ngự trong sinh hoạt chính trị tại các cường quốc dân chủ và lãnh tụ hàng đầu của khuynh hướng này là thủ tướng Anh, Neville Chamberlain. Thủ tướng Neville Chamberlain tìm cách hòa giải mối thù địch với Đức. Khi Đức sáp nhập Áo, Chamberlain không có phản ứng cụ thể nào.

Khi Hitler công khai bày tỏ ý định sáp nhập vùng Sudetenland của Tiệp Khắc đang có hơn ba triệu người gốc Đức, vào lãnh thổ Đức, vấn đề trở nên phức tạp vì Tiệp Khắc có liên minh quân sự với Pháp và Pháp có liên minh quân sự với Anh.

Thủ tướng Anh Neville Chamberlain qua trung gian của Sir Horace Wilson chuẩn bị đàm phán với Đức và qua trung gian của Lord Runciman thuyết phục Tiệp Khắc nhượng bộ. Trong lúc Hitler thông đồng với các nước nhỏ như Hungary và Ba Lan để xẻ thịt Tiệp, Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt tuyên bố chủ trương trung lập của Mỹ về tranh chấp Sudetenland.

Ngày 15 tháng Chín năm 1938, Thủ tướng Neville Chamberlain bay sang Đức để thương thuyết với Hitler. Các cuộc thương thuyết giằng co cho đến sáng sớm 30 tháng 9 năm 1938, thỏa hiệp Munich được ký kết giữa Đức, Anh, Pháp và Ý, trong đó, cho phép Đức sáp nhập vùng Sudetenland trù phú và chiến lược vào lãnh thổ Đức.

Tiệp Khắc không được mời tham dự hội nghị và chỉ được Anh Pháp thông báo kết quả.

Chính phủ Tiệp nghĩ rằng Tiệp Khắc không có hy vọng gì thắng được Đức bằng sức mạnh của riêng mình, đã đồng ý với nội dung của thỏa hiệp Munich. Theo thỏa hiệp này, tướng Đức Wilhelm Keitel được cử vào chức thống đốc quân sự vùng Sudetenland. Những người dân Tiệp không phải gốc Đức phải rời Sudetenland trong vòng 10 ngày và không được mang theo bất cứ một món sở hữu nào.

Mất Sudetenland, Tiệp Khắc không chỉ bỏ trống biên giới chiến lược phía nam mà còn mất 70% dự trữ sắt thép, 70% điện và 3 triệu công dân Tiệp. Trong lúc hiệp ước Munich là một thành quả ngoại giao lớn của Neville Chamberlain, đối với Hitler lại là một bước lùi. Mục tiêu của Hitler không phải chỉ chiếm vùng Sudetenland mà cả nước Tiệp như Wilson Churchill tiên đoán. Đầu năm sau, Hitler lần lượt chiếm các vùng Bohemia, Moravia và phần còn lại của Tiệp Khắc.

Câu “Phản bội Tiệp Khắc” để chỉ sự phản bội của đồng minh đối với Tiệp ra đời từ đó và còn đang lưu truyền cho tới ngày nay để chỉ âm mưu “bán đứng” Tiệp Khắc của Anh để mong đổi lấy hòa bình với Đức.

Winston Churchill “đổi chác” các nước vùng Balkans

Hôm đó là ngày 9 tháng 10, 1944, Thủ tướng Anh Winston Churchill đến Moscow gặp Joseph Stalin để bàn về tương lai của các quốc gia vùng Balkans. Bán đảo Balkans là khu vực địa lý ở phía nam Châu Âu giữa Biển Adriatic và Địa Trung Hải trong đó có những quốc gia nằm hẳn hay nằm một phần trong bán đảo như Albania, Bulgaria, Hy Lạp, Romania, Thổ Nhĩ Kỳ v.v… Chuyến viếng thăm lịch sử này được ghi lại trong cuốn thứ sáu của bộ sách về Thế Chiến Thứ Hai của Winston Churchill.

Vào buổi tối ngày đầu sau khi đến Churchill nói với Stalin: “Cho đến nay, như Anh và Nga quan tâm, làm thế nào để Nga có được 90% ưu thế tại Romania, để chúng tôi có 90% Hy Lạp, và 50-50 Nam Tư?”

Trong khi chờ thông dịch viên dịch, Churchill viết ra những đề nghị đó chi tiết hơn trên nửa tờ giấy và đưa cho Stalin. Theo lời của Churchill viết trong hồi ký: “Tôi chuyển mảnh giấy nhỏ cho Stalin. Ông ta cũng vừa nghe xong lời dịch. Có một khoảng im lặng ngắn. Sau đó, Stalin lấy cây bút chì màu xanh của mình và đánh một dấu lớn trên nó, và chuyển lại cho tôi. Tất cả đã được giải quyết trong thời gian không quá lâu. Sau đó là một khoảng im lặng dài. Tờ giấy và cây bút chì nằm ở giữa bàn.”

Nội dung nửa tờ giấy như sau:

Romania:

. Nga 90%

. Các quốc gia khác 10%

Hy Lạp:

. Anh (cùng với Mỹ): 90%

. Nga: 10%

Nam Tư: 50-50%

Hungary: 50-50%

Bulgaria:

. Nga 75%

. Các quốc gia khác: 25%

Trong thời điểm 1944, các dân tộc vùng Balkans hoàn toàn không biết rằng dù có thắng Hitler số phận của họ cũng đã bị ký thác vào tay một đồ tế khác độc tài và tàn bạo không kém là Stalin. Tài liệu đó dưới góc nhìn của các dân tộc Romania, Bulgaria, Hungary, Nam Tư và các nước Đông Âu như Ba Lan, Tiệp Khắc bị CS hóa dây chuyền là một bằng chứng cho sự phản bội của đồng minh. (The Second World War. Volume VI, Triumph and Tragedy by Winston Churchill, January 1, 1953 )

Nếu năm 1942, Đồng Minh đổ bộ Balkans thay vì đổ bộ Bắc Phi thì khuôn mặt thế giới sau Thế Chiến Thứ Hai đã khác, Bức Màn Sắt cũng như Chiến Tranh Lạnh có thể không có. Nhưng đó chẳng qua là bàn chuyện đã rồi. Mảnh giấy mà chúng ta thường gọi là “giấy lộn” chỉ hơn mười chữ được Churchill giữ lại là một trong những tài liệu đổi chác lãnh thổ quan trọng nhất của Thế Chiến Thứ Hai. Hành động đơn giản như trò chơi giữa hai đứa trẻ nhưng đã quyết định số phận của bảy quốc gia (Tiệp, Ba Lan, Romania, Albania, Bulgaria, Nam Tư, Hungary ) chưa tính Đông Đức, suốt 46 năm với không biết bao nhiêu nghèo nàn, chết chóc, ngục tù và chịu đựng.

Mao Trạch Đông “thông đồng” với Thực Dân Pháp trong Hiệp Định Geneva 1954

Trong trường hợp Hiệp Định Geneva, Mao không “bán đứng” nhưng đã lợi dụng xương máu của CSVN để củng cố vị trí của TC trên chính trường quốc tế. Mao Trạch Đông biết các quốc gia Triều Tiên, Việt Nam, Lào, Cambode nói riêng và Á Châu Thái Bình Dương nói chung có ảnh hưởng trực tiếp đối với an ninh của Trung Cộng. Đây là những tiền đồn, những vùng độn ngoài biên giới Trung Cộng mà trong suốt dòng lịch sử từ phong kiến đến CS đều muốn duy trì ảnh hưởng.

Để thực hiện âm mưu thâm độc thống trị Á Châu, Mao làm bộ mặt hòa hoãn, yêu chuộng hòa bình. Năm nguyên tắc “Sống chung hòa bình” gồm (1) tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, (2) không xâm lược nhau, (3) không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, (4) bình đẳng và cùng có lợi, (5) cùng chung sống hòa bình là đường lối ngoại giao chính của Trung Cộng.

Sau Chiến Tranh Triều Tiên với khoảng 600 ngàn quân bị giết, Mao không muốn tham dự vào một xung đột quân sự khác với Mỹ. Thay vào đó, Mao thỏa mãn với mô hình hai nước Triều Tiên và hai nước Việt Nam. Mao ủng hộ chủ trương hai nước Việt Nam không phải phát xuất từ lòng thương xót người dân miền Nam mà chỉ muốn tiếp tục chi phối chính trị Việt Nam. Tìm hiểu quan điểm của Mao qua các giai đoạn của cuộc chiến để thấy phía sau những khẩu hiệu tuyên truyền đường mật, dã tâm của Trung Cộng vẫn là khống chế Việt Nam bằng mọi cách.

Chính sách đối ngoại của Trung Cộng trong mười năm từ 1952 đến 1962, đặc biệt suốt hội nghị Geneva cho thấy Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai đã đi trước CSVN hàng mấy mươi năm. Trong mắt Mao và Chu trung ương đảng CSVN từ Hồ Chí Minh trở xuống là một đoàn cừu dễ bảo, khờ khạo đến mức tội nghiệp.

Mặc dù đổ không biết bao nhiêu xương máu trong suốt 9 năm, Hồ Chí Minh và các lãnh đạo CSVN không hề hay biết gì các thảo luận diễn ra giữa các cường quốc về một thỏa hiệp đình chiến tại Việt Nam mãi cho đến khi nhận điện tín của Chu Ân Lai ký ngày 11 tháng 3, 1954. Nội dung điện tín không phải để hỏi ý mà là vừa khuyên nhủ và vừa ra lịnh: “Hội nghị Geneva đã quyết định sẽ bắt đầu được tổ chức vào ngày 26 tháng 4. Tình hình quốc tế và tình hình quân sự ở Việt Nam hiện nay rất thuận lợi cho Việt Nam tiến hành đấu tranh ngoại giao. Dù Hội nghị Geneva có thể đạt được kết quả gì, chúng ta cũng nên tích cực tham gia.” (Telegram, Zhou Enlai to Ho Chi Minh, March 11, 1954, Wilson Center)

Nhắc lại, vấn đề triệu tập một hội nghị về xung đột Đông Dương tổ chức tại Geneva đã được Anh, Pháp, Liên Xô và Mỹ đặt ra trong gặp gỡ giữa tứ cường tại Berlin ngày 25 tháng 1, 1954. Chu Ân Lai cũng không biết nhưng khi được Liên Xô thông báo trong điện văn ký ngày 26 tháng 2, 1954 Mao và Chu đã giấu CSVN suốt hai tháng để có thời gian vận dụng biến cố như một sân khấu chính trị quốc tế riêng cho Trung Cộng.

Trung Cộng và CSVN “đồng sàng dị mộng”. Trung Cộng muốn thắng trận Điện Biên Phủ để buộc Pháp phải ký kết hiệp định chấm dứt chiến tranh trong khi CSVN muốn thắng trận Điện Biên Phủ để có lợi thế trong đàm phán.

CSVN dù nhiều ngàn người phơi xác dọc các phòng tuyến trong các cuộc tấn công biển người vào Điện Biên Phủ đã không giành được lợi thế nào trên bàn hội nghị. Đường phân chia lãnh thổ là vĩ tuyến 17 chứ không phải 13 theo ý muốn của CSVN.

Nhắc lại đoạn này không phải để tiếc giùm cho các ông Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng nhưng để thấy CSVN hoàn toàn không đóng vai trò gì chủ động trong đàm phán mà hoàn toàn lệ thuộc vào Chu Ân Lai. CSVN chỉ đóng góp phần xương máu.

Tại hội nghị Geneva, Phạm Văn Đồng gặp Chu Ân Lai nhiều lần, đã nhìn cách ứng xử của họ Chu trên bàn hội nghị, đã thấy cách họ Chu dàn xếp kín với Pháp và Liên Xô bên trong hội nghị. Rõ ràng Chu Ân Lai có nghị trình riêng và theo đuổi nghị trình đó từ trước khi có hội nghị cho đến khi đặt bút ký. Những kẻ đổ máu xương không có quyền quyết định mà chỉ phải nghe theo. Thân phận chư hầu CS đó không chỉ chấm dứt sau Hiệp Định Geneva mà kéo dài mãi cho tới ngày nay.

Chọn lựa của các quốc gia nhược tiểu

Số phận của các nước nhược tiểu thời nào hay nơi nào cũng giống nhau. Nếu có hai câu lạc bộ thì số hội viên trong câu lạc bộ của những nước bị Mỹ phản bội hay bỏ rơi cũng đông không kém câu lạc bộ những quốc gia được Mỹ ủng hộ hay bảo trợ.

Những người có lương tâm và sống theo công đạo đều ủng hộ cuộc chiến tự vệ chính đáng của Ukraine. Nhưng lương tâm và công đạo chưa đủ, phải cần thế và lực. Trên đường dài, Ukraine không đủ lực để có thể đánh bại Nga trên chiến trường và không đủ thế để cô lập Nga.

Các biện pháp trừng phạt kinh tế của Mỹ và Châu Âu không thành công như dự đoán vì Mỹ và đồng minh của Ukraine tại Châu Âu không có các biện pháp chế tài hay ngăn chặn các nước thứ ba như Ấn Độ, TC, Belarus, Hungary, Áo, Czech v.v… làm ăn buôn bán với Nga. Tổng số 41% dầu của Ấn Độ được nhập từ Nga với giá rẻ. TC điền khuyết các thiệt hại kỹ thuật bán dẫn cho Nga do cấm vận gây ra. Nga và TC giao dịch bằng tiền của mỗi nước theo tỉ giá chứ không dựa trên đồng dollar nên không bị ảnh hưởng bởi các hình thức thanh toán quốc tế đã bị cấm vận. Theo Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế nền kinh tế Nga không suy sụp mà gia tăng 2.2% trong năm 2023. (Noah Berman , Two Years of War in Ukraine: Are Sanctions Against Russia Making a Difference?, Council on Foreign Relations, February 23, 2024)

Ngoại trừ việc Nga tấn công một thành viên NATO hay Ukraine có khả năng lôi kéo Nga vào một xung đột quân sự rộng hơn, cuộc chiến giữa Nga và Ukraine vẫn là chiến tranh giữa hai nước và mọi sự ủng hộ từ các quốc gia khác đều có giới hạn, kể cả giới hạn thời gian.

Các nước Châu Âu lớn tiếng ủng hộ Ukraine nhưng sự ủng hộ vật chất của họ không tương xứng và đi đôi với những lời phát biểu hùng hồn.

Tính theo đơn vị tỉ dollar, từ tháng Giêng 2022 đến tháng 12, 2024 Pháp chỉ viện trợ tổng cộng 5.1, Anh 15.4, Đức 18.1. Đan Mạch 8.4, Hòa Lan 7.7 trong khi Mỹ viện trợ 119.2. (Ukraine Support Tracker at the Kiel Institute for the World Economy released Feb 14, 2025)

Chiến tranh nào cũng phải kết thúc. Dù kết thúc dưới hình thức nào đi nữa, trong lòng nhân loại, Ukraine vẫn là quốc gia chiến thắng.

Lịch sử thế giới ngàn năm sau vẫn còn in đậm dấu son của dân tộc Ukraine trong cuộc chiến bảo vệ tổ quốc đầy hào hùng của họ.

Trong một Podcast dành cho đài Tiếng Nói Hoa Kỳ ngày 25 tháng 2, 2024, 9 tháng trước ngày bầu cử TT Mỹ, người viết có giải thích trừ phi Ukraine và đồng minh đánh gục Nga như đã đánh gục Đức và Nhật trong Thế Chiến Thứ Hai, đàm phán giữa Nga và Ukraine vẫn sẽ diễn ra. Nga lẫn Ukraine không thể đàm phán những gì họ không có trong tay. Ukraine không thể chấp nhận giao cho Nga không chỉ bán đảo Crimea và tất cả vùng đất miền Đông Ukraine Nga đã chiếm được trong giai đoạn đầu của cuộc chiến và Nga vì nhiều lý do trong đó có cả thể diện, cũng không thể rút về biên giới Nga-Ukraine trước 2014.

Dù sao, ba năm qua, dưới sự lãnh đạo của TT Volodymyr Zelenskyy, Ukraine đã giành được cảm tình của phần lớn nhân loại. Tư cách và tài năng lãnh đạo của ông cho thấy Ukraine dù thiệt hại vẫn sẽ vượt qua để trở thành một cường quốc Châu Âu. Thật vậy, các điều kiện thế giới dù có thay đổi bao nhiêu, nếu một quốc gia có những lãnh đạo sáng suốt, có một tầm nhìn xa, biết đoàn kết và xác định một hướng đi rõ ràng, dân tộc đó sẽ vượt qua được mọi khó khăn.

Rất nhiều bài học vượt qua quá khứ để hướng tới tương lai. Người viết chọn một nước có vị trí hẻo lánh và sức mạnh chênh lệch để tham khảo, đó là Chiến tranh Mùa Đông (Winter War) giữa Goliath LX và David Phần Lan. Năm 1939, dân số Phần Lan chỉ vỏn vẹn 3.7 triệu người nhưng đã chiến đấu anh dũng chống lại quân Liên Xô với dân số 170 triệu. Quân dân Phần Lan đã chiến đấu ngang ngửa và thắng nhiều trận. Hội Quốc Liên đứng về phía Phần Lan và trục xuất Liên Xô ra khỏi tổ chức quốc tế này.

Tuy nhiên trong một cuộc chiến toàn diện và lâu dài Phần Lan không phải là đối thủ của LX. Sau những trận đánh đầu, LX tăng cường lực lượng và mở các cuộc phản công. Phần Lan yếu thế. Năm 1940, hiệp ước Moscow được ký kết giữa hai nước và Phần Lan nhượng cho LX 11% lãnh thổ để giữ được chủ quyền. Từ đó, sau khi vượt qua nhiều thử thách của Thế Chiến Thứ Hai, Chiến Tranh Lạnh, Phần Lan Hóa, quốc gia vùng Bắc Âu nhỏ bé này đã tồn tại và vươn lên để ngày nay là một trong những nước tiên tiến nhất thế giới trong nhiều lãnh vực. Trong suốt 10 năm liền từ 2014 đến 2024 Phần Lan được World Happiness Report xếp hàng đầu trong số các quốc gia hạnh phúc nhất thế giới.

Cuối cùng sinh mệnh của một dân tộc vẫn nằm trong tay của dân tộc đó chứ không nằm trong tay ai khác.

Trần Trung Đạo


 

KHỔ, SƯỚNG – Ngo Du Trung

Ngo Du Trung

Thấy người Việt sau này xách va ly leo lên máy bay đi Mỹ định cư; sang tới Mỹ đã có sẳn thân nhân tiếp đón này nọ; mà họ cứ than khổ lắm, thiệt nghĩ mà… thương họ quá.

Nhớ hồi hai anh em tôi vượt biển, chiếc thuyền nhỏ bị bão vùi dập trên biển. Tôi ngồi trước mũi tàu, một con sóng khổng lồ đưa con tàu lên cao, rồi mũi tàu chúi xuống, trước mắt tôi là một con sóng khổng lồ khác đang phủ trùm đến. Tôi sợ điếng trong lòng, nghĩ rằng mình sẽ bị chôn xuống lòng đại dương. Nhưng, như một phép lạ, con tàu cứ trồi hụp trên mặt biển cuồn cuộn những con sóng khổng lồ vì bão mà vẫn không chìm. Sang tới Phi, ông trung tá cảnh sát người Phi đứng nhìn chiếc tàu nhỏ bé, nhìn một lượt 11 con người hốc hác chúng tôi, rồi chỉ những cây dừa, những ngôi nhà đổ nát, lắc đầu nói:

“Tôi không hiểu sao các ông có thể sống sót trên biển trên chiếc thuyền bé xíu, trong cơn bão khủng khiếp như thế…”

Ở Phi, trong túi không có một đồng, sống nhờ vào lòng thương của người Phi, chính phủ Phi và Cao uỷ tỵ nạn LHQ.

Sang Mỹ, trong túi vẫn không có một đồng, không thân nhân, không họ hàng tiếp đón. Sống nhờ vào nhà thờ Mỹ, ông bà già người Mỹ trắng bảo trợ và chính phủ Mỹ. Thèm thuốc lá, nhưng không dám xin tiền ông bà bảo trợ. Người ta nuôi mình ăn là quý rồi, còn đòi… hút nữa sao!

Nhong nhong được một tháng thì đi làm, lương $4.16 một giờ. Cái check lương đầu tiên lãnh ra ở Mỹ, tôi gởi một nửa sang trại tỵ nạn giúp mấy người bạn còn kẹt bên đó, nửa còn lại mua ngay một cây thuốc lá hút cho… đã thèm…

Rồi cày suốt một đời cho đến khi về hưu, chưa bao giờ xin một đồng trợ cấp nào…; không hề biết welfare, food stamps là cái gì…

Nhưng tôi chưa bao giờ than khổ, không bao giờ cho rằng cuộc đời mình như vậy là khổ. Trái lại, tôi còn thấy mình may mắn, hạnh phúc.

May mắn và hạnh phúc vì không phải sống với VC. Sống với người Phi, người Mỹ, hoặc bất cứ người nào trên thế giới tự do, cũng đều tốt lành, nhân ái, tử tế gấp ngàn lần hơn VC.

 


 

Phó tổng thống J.D Vance: Sự suy tàn của nền dân chủ Châu Âu

Bài phát biểu nảy lửa của phó tổng thống J.D. Vance tại hội nghị An Ninh Munich, Đức.

Chuyện thật như đùa:

  • Cấm cầu nguyện thinh lặng ngay cả ở trong nhà tại vương quốc Anh
  • Tình trạng kiểm duyệt ở Hoa Kỳ.
  • Xóa bỏ bầu cử cấp cơ sở ở Đức và Rumani.
  • Tình trạng cấm bày tỏ ý kiến phản biện cá nhân.
  • Liên minh Âu Châu cần bảo vệ lấy mình trong khi Hoa Kỳ phải đối phó với các vấn đề Quốc Tế khác.
  • Đừng sợ hãi các cử tri của mình.

Diễn văn đáp trả của bộ trưởng Quốc Phòng, Đức:

  • Nền Dân Chủ Âu Châu và Đức có chỗ cho mọi người kể cả nhóm cực hữu.
  • Dân chủ không có nghĩa là ai nói gì cũng được.
  • Chúng tôi chiến đấu cho tự do, dân chủ, pháp quyền và nhân quyền cho mọi người.
  •  Chương trình đàm phán hòa bình cho Ukraine đã bỏ qua Châu Âu, hòa bình tạm bợ không phải là chọn lựa đúng.
  • Ukraine và Châu Âu phải đóng vai trò chủ động trong đàm phán. 
  • Toàn vẹn lãnh thổ cho Ukraine phải là ưu tiên hàng đầu.
  • Châu Âu cần phải bảo vệ mình mạnh mẽ hơn, nói ít làm nhiều hơn.
  • Gia tăng ngân sách quốc phòng một cách thích ứng ở các nước trong liên minh Châu Âu.

Gương thành công hay cuối tuần: Cô gái làm phát ngôn viên xuất sắc cho nhà Trắng ở tuổi 27

theo báo WSJ và các báo khác

Hai tuần đầu tiên đứng trên bệ phát ngôn đã thể hiện cả kỹ năng phát triển sớm và xu hướng khuếch đại của cô ấy bọc theo sự cường điệu của sếp.

Tổng Thống Trump được cho là rất ngưỡng mộ Leavitt, tuyên bố “một ngôi sao đã được sinh ra” tại một sự kiện gần đây của Nhà Trắng. Nhưng không có gì đảm bảo nó sẽ kéo dài với một tổng thống đã đạp xe qua bốn thư ký báo chí trong chính quyền đầu tiên của mình.

Karoline Leavitt là thư ký báo chí Nhà Trắng trẻ nhất trong lịch s.

Karoline Leavitt là thư ký báo chí Nhà Trắng trẻ nhất trong lịch sử của Hoa Kỳ. Ảnh: Hình ảnh Chip Somodevilla/Getty

Các phóng viên tại cuộc họp giao ban tại Nhà Trắng vào tháng trước.

Các phóng viên tại cuộc họp giao ban tại Nhà Trắng vào tháng trước. Ảnh: Jacquelyn Martin/AP

Leavitt nhanh nhẹn và mạnh mẽ, đặt câu hỏi về nhiều chủ đề khác nhau mà không cần tham khảo ghi chú hoặc sách tóm tắt. Giọng điệu của cô với cái gọi là phương tiện truyền thông kế thừa, một đối tượng bị nhiều người ủng hộ Trump ghét bỏ, chuyển từ thái độ chất vấn về những đề tài vô nghĩa sang thái độ khinh thường hoàn toàn. Thí dụ như cô hay trả lời họ rằng, “Vậy, bạn đang đặt câu hỏi giả định dựa trên các nhân tố mà bạn thậm chí không thể xác định được?” Đây chính là cách cô ấy bác bỏ câu hỏi của một phóng viên.

Leavitt đã bắt đầu phiên họp ngày đẩu tiên ra làm phát ngôn viên,  bằng cách thông báo cho đoàn báo chí Nhà Trắng rằng họ sẽ phải nhường một chỗ trong phòng họp cho Tiktokers, những người có ảnh hưởng và những người tạo ra nội dung liên quan đến “news.”

Cô cũng đưa ra cảnh báo: “Chúng tôi sẽ gọi điện cho bạn khi chúng tôi cảm thấy báo cáo của bạn sai hoặc có thông tin sai lệch về Nhà Trắng này.”

Trong vài ngày, Nhà Trắng đã cấm các phóng viên của Associated Press tham dự một vài sự kiện, với lý do hãng thông tấn này đã từ chối đi cùng với Trump làm lễ rửa tội cho Vịnh Mexico đặt lại tên cho nó là “Vịnh Mỹ”. Vào thứ Sáu, họ đã bị từ chối cho lên máy bay của tổng thống “Không quân – Số Một”, nơi tổ chức này đã có chỗ ngồi trong nhiều thập kỷ.

Julie Pace , biên tập viên điều hành của AP, cho biết “thật đáng báo động khi chính quyền Trump trừng phạt AP vì hoạt động báo chí độc lập của mình”. Chủ tịch Hiệp hội Phóng viên Nhà Trắng Eugene Daniels gọi quyết định này là “một sự vi phạm nghiêm trọng không chỉ đối với Tu chính án thứ nhất mà còn đối với sắc lệnh hành pháp của chính tổng thống về quyền tự do ngôn luận và chấm dứt kiểm duyệt liên bang”.

Leavitt không hề nao núng. Cô nói, … “Thực tế là vùng nước ngoài khơi bờ biển Louisiana được gọi là ‘Vịnh Hoa Kỳ’, và tôi không chắc tại sao các hãng tin lại không muốn gọi như vậy. Nhưng đó là sự thật.”

‘Nói tiếng Donald Trump lưu loát’

Nhiệm kỳ của Leavitt với tư cách là người phát ngôn gần như chắc chắn sẽ khác với những người tiền nhiệm, vì Trump và cánh tay phải của ông, tỷ phú Elon Musk , nói chuyện với thế giới mà không bị báo chí và truyền thông kiểm duyệt, cắt bỏ và Họ có thể thông tri vào mọi giờ trên phương tiện truyền thông xã hội hoặc tại các sự kiện công khai của Nhà Trắng. Đôi khi họ cũng có các dẫn chứng khá là mong manh với yếu tố thật, thí dụ như vụ thông báo rằng USAID đã sử dụng 50 triệu đô để mua bao cao su cho dân Gaza.

Làm phức tạp thêm công việc là tốc độ gây choáng váng của Trump trong việc đưa tin trong những ngày đầu này, nào là việc phát động chiến tranh thương mại; ký một loạt các sắc lệnh hành pháp; đe dọa kiểm soát Greenland và Gaza; tung Musk như một quả bóng chống lại cơ quan công quyền; và khởi động lại các cuộc đàm phán hòa bình cho Ukraine với Vladimir Putin của Nga.

“Nếu bạn chấm điểm bà ấy theo sự khôn ngoan thông thường của công việc, bà ấy sẽ được điểm F. Nếu bạn chấm điểm bà ấy theo các tiêu chí hiện tại, làm hài lòng Donald Trump, bà ấy sẽ được điểm A cộng,” Joe Lockhart , một thư ký báo chí dưới thời Tổng thống Bill Clinton , cho biết . “Họ luôn chỉ nói chuyện với người của họ. Họ không quan tâm đến những người còn lại trong chúng ta, bởi vì họ không cần những người đó để giữ cho đảng Cộng hòa nắm quyền.”

Hiện tại, Trump có một người phát ngôn dường như được thiết kế trong phòng thí nghiệm để gây ra sự đau khổ tối đa trong một số nhóm cấp tiến nhất định. Những người biết cô ấy đã mô tả Leavitt là người thông minh, cứng rắn và cực kỳ chăm chỉ, một bà mẹ trẻ làm việc chăm chỉ nhưng cũng là một người bảo thủ nhiệt thành. Với mái tóc bạch kim, đeo vòng cổ một thánh giá lớn nổi bật và sự tự tin phi thường, Leavitt là một kiểu người đứng đầu cho thế hệ nữ nhi MAGA mới.

Cô đã học được kinh nghiệm từ cả Kayleigh McEnany , cựu phát ngôn viên của Trump, hiện nay đang là người đồng dẫn chương trình “Outnumbered” của Fox News, và Elise Stefanik , thành viên Quốc hội New York hiện đang chờ Thượng Viện phê chuẩn để trở thành đại sứ Liên hợp quốc của tổng thống. Vào tối thứ năm, Leavitt và chồng bà, Nicholas Riccio, một nhà phát triển bất động sản 59 tuổi, đã được Politico phát hiện đang dùng bữa tối tại Washington với nữ nghị sĩ Georgia Marjorie Taylor Greene .

Stefanik nhận xét về cựu giám đốc truyền thông của mình rằng: “Rõ ràng là ngay từ ngày đầu tiên, khi tôi thuê Karoline, tôi biết ngay rằng cô ấy sẽ có một tương lai rất tươi sáng và sẽ lên cao như một con tàu vũ trụ”.

Giống như Stefanik, Leavitt đã đứng về phía Trump sau cuộc bạo loạn ngày 6 tháng 1 năm 2021 tại Điện Capitol Hoa Kỳ—ngay cả khi những người Cộng hòa khác tin rằng ông Trump đã hết thời và tin rằng những lời dối trá của ông về cuộc bầu cử là không thể tha thứ.

“Điều đáng chú ý nhất mà tôi có thể nói về bà ấy là bà ấy ở Phòng Bầu dục với tổng thống trong phần lớn thời gian trong ngày,” Ari Fleischer , cựu phát ngôn viên của George W. Bush , cho biết . “Và tôi nói như vậy vì bà ấy nói ngôn ngữ của tổng thống Donald Trump rất lưu loát. Bà ấy biết rõ những điều sâu xa của ông ấy. Bà ấy biết điều gì nên nói, điều gì không nên nói. Và bà ấy thoải mái (tán đồng với quan niệm của Tổng Thống).”

Leavitt cho biết: “Tôi tin rằng cách tốt nhất để thành công trong công việc của mình là lắng nghe [Tổng thống Trump] nhiều nhất có thể và lắng nghe mọi lời ông ấy nói trước công chúng, sau đó nói chuyện riêng với ông ấy về suy nghĩ của ông ấy, để tôi có thể truyền đạt thông điệp của ông ấy một cách hiệu quả nhất có thể”.

Thư ký báo chí Karoline Leavitt đã khép lại bức màn trước khi tổng thống ký các văn bản tại Phòng Bầu dục trong tháng này.

‘Sự tự tin đã được truyền vào tôi’

Leavitt bắt đầu ngày mới của mình lúc 5 giờ sáng tại nhà, nơi cô đọc các bài báo và xem các chương trình buổi sáng trước khi đến văn phòng lúc 7:30 sáng.

Thỉnh thoảng, cô chia sẻ những khoảnh khắc được chọn lọc trong ngày của mình trên Instagram với hơn 638.000 người theo dõi.

Leavitt cho biết sự tự tin khi đứng trên bục nói “xuất phát từ nền tảng từ cách nuôi dạy của cha mẹ tuyệt vời, từ đức tin của tôi và cũng do tinh thần của một vận động viên thể thao, tất cả đã làm nên sự tự tin, nhất là khi được thấm nhuần điều đó từ khi còn nhỏ”.

Leavitt lớn lên cùng hai người anh trai trong một gia đình Công giáo ở Atkinson, tiểu bang New Hampshire, trong một thị trấn nhỏ ở góc đông nam của tiểu bang. Cả cha và mẹ cô đều không học đại học. Như cô thường kể lại trong quá trình vận động tranh cử, những gian khổ của họ với tư cách là chủ doanh nghiệp nhỏ, họ điều hành một tiệm kem và một đại lý xe cũ, họ đã định hình nên thế giới quan của cô.

Leavitt được biết đến tại trường trung học công giáo có tên là “Central Catholic” với tư cách là một cầu thủ gan dạ trong đội bóng chày, cô giành được học bổng vào Cao đẳng Saint Anselm gần đó.

Theo thời gian, cô chuyển sang nghành chính trị học. Trường có trụ sở tại Manchester, Đại học Công Giáo Saint Anselm là nơi đào tạo nổi tiếng cho các nhà hoạt động chính trị tương lai.

No photo description available.

Vào dịp bầu cử, Viện Chính trị New Hampshire của trường trở thành nơi náo nhiệt của các cuộc nói chuyện, vận động từ các ứng cử viên khi họ chuẩn bị cho cuộc bầu cử sơ bộ đầu tiên của tiểu bang.

“Bà ấy đã làm việc rất chăm chỉ,” Neil Levesque, giám đốc điều hành Viện Chính trị, người nhớ đến Leavitt không phải vì hệ tư tưởng mà vì năng lượng và thái độ lạc quan của bà.

Các đồng nghiệp biết rằng Leavitt có ý định ra tranh cử—bà đã làm như vậy vào năm 2022, tìm kiếm ghế quốc hội tại khu vực bầu cử quê nhà của bà ở phía nam New Hampshire. Bà đã làm hai ứng cử viên nổi tiếng hơn thất vọng trong cuộc bầu cử sơ bộ của Đảng Cộng hòa. “Hãy coi việc mọi người đánh giá thấp bạn là động lực,” Leavitt nói với các sinh viên tại trường cũ của bà vào năm ngoái. Nhưng bà đã bị đánh bại dễ dàng bởi ứng cử viên Dân chủ đương nhiệm, Chris Pappas , trong cuộc tổng tuyển cử.

Tuy nhiên, như Sean Spicer , người phát ngôn đầu tiên của Trump, đã lưu ý, kinh nghiệm tranh cử và đối đầu trực tiếp với Pappas và báo chí đã giúp ích cho bà rất nhiều. “Nhìn chung, tôi nghĩ cô ấy đang làm rất tốt”, Spicer, người đã giữ chức này sáu tháng trong nhiệm kỳ đầu tiên của Trump, cho biết. “Phải thừa nhận là tôi hơi ghen tị”.

Nhận định về Karoline Leavitt của các báo khác

Mạng Danh Sách, the list.com:

Chỉ mới 27 tuổi, Leavitt đã trở thành thư ký báo chí trẻ nhất trong lịch sử. Giống như các thư ký báo chí trước đây như Sean Spicer và Sarah Huckabee Sanders, mọi người nên mong đợi được nghe nhiều từ Leavitt. “Tôi sẽ cho bạn toàn quyền tiếp cận và bạn sẽ có rất nhiều cuộc họp báo”, Trump nói trong một cuộc họp báo vào tháng 8 (qua AP News ).

Với tư cách là thư ký báo chí, Leavitt muốn đưa ra cái nhìn sâu sắc tuyệt vời về chính quyền mới. “Người dân Mỹ đang nghe trực tiếp từ nhà lãnh đạo của thế giới tự do. Đây là loại sự thật và minh bạch mà họ xứng đáng được hưởng”, bà nói (qua The Independent ). Hiện vẫn chưa có thông tin nào về việc liệu “sự thật và minh bạch” đó có liên quan đến việc đấu khẩu với người dẫn chương trình tin tức (CNN trước đây) hay không? Tất nhiên, rồi thời gian sẽ trả lời.

Báo Độc Lập của Anh:

Thư ký báo chí đầu tiên của Gen Z cũng háo hức chứng minh rằng cô ấy sẽ không ngại trong việc chỉ trích cựu Tổng thống Joe Biden. Đây là điều đã trở thành thói quen của Trump ngay cả khi ông đã trở lại Nhà Trắng.

Thư ký báo chí mới Karoline Leavitt đã tổ chức cuộc họp báo đầu tiên của mình vào thứ Ba. Tại đó, bà đã lặp lại một số tuyên bố mạnh mẽ nhất của Tổng thống Donald Trump và thúc đẩy các ý tưởng của ông - thậm chí còn dành thời gian để tấn công cựu tổng thống Joe Biden

Thư ký báo chí mới Karoline Leavitt đã tổ chức cuộc họp báo đầu tiên của mình vào thứ Ba. Tại đó, bà đã lặp lại một số tuyên bố mạnh mẽ nhất của Tổng thống Donald Trump và thúc đẩy các ý tưởng của ông – thậm chí còn dành thời gian để tấn công cựu tổng thống Joe Biden ( AP )

Bà nói: “Tôi muốn lưu ý với tất cả mọi người rằng vào năm 2024, khi Joe Biden còn ở Phòng Bầu dục hoặc có thể là đang ngủ trên lầu trong dinh thự này, tôi không biết chắc lắm, trong khi đó, giá trứng gà đã tăng lên tới 65 phần trăm ở đất nước này”.

Bà cũng tuyên bố rằng “Tổng thống này đã làm được nhiều việc hơn trong 100 giờ đầu tiên so với tổng thống trước đó đã làm trong 100 ngày đầu tiên” và rằng chính quyền Biden đã chi tiền “giống như một thủy thủ say rượu”.

Người phát ngôn mới của Nhà Trắng đã không bỏ lỡ cơ hội tấn công nhắm vào một trong những kẻ thù ưa thích của Trump, giới truyền thông, bằng cách lưu ý rằng niềm tin vào truyền thông đại chúng đã đạt đến “mức thấp kỷ lục”, theo viện thăm dò  (uy tín) Gallup.

Báo Hoa Kỳ Ngày Nay:

Leavitt không gọi giới truyền thông là “ kẻ thù của nhân dân ” như sếp của bà, nhưng bà đã nói rõ quan điểm về giới truyền thông lớn trong mắt chính quyền đương nhiệm. Leavitt cho biết: “Chúng tôi biết chắc chắn rằng đã có nhiều lời nói dối được đưa ra bởi nhiều cơ quan truyền thông lâu đời ở đất nước này về vị tổng thống này, về gia đình ông ấy, và chúng tôi sẽ không chấp nhận điều đó”…

… có lẽ bạn sẽ không ngạc nhiên về phản ứng của John Roberts trên Fox News, anh ta nói, “Bạn biết không? Quan sát sự vụ từ góc nhìn khách quan, cô ấy đã làm một công việc tuyệt vời.”


Bài toán bơm ba triệu tỷ đồng vào nền kinh tế Việt Nam của Chính phủ Cộng Sản

Theo Đài Á Châu Tự Do, Dư Lan (phóng viên)

Động thái này thể hiện quyết tâm tăng trưởng, nhưng cũng đặt ra nguy cơ lạm phát, và chất lượng nền kinh tế

Một nhân viên của ngân hàng VP Bank đếm tiền
Một nhân viên của ngân hàng VP Bank đếm tiền (KHAM/Reuters)

Chính phủ Việt Nam đặt mục tiêu tăng trưởng GDP trên 8% trong năm 2025 và hướng tới mức tăng trưởng “hai con số” giai đoạn 2026-2030.

Trong bối cảnh đó, hôm 10 tháng Hai, 2025, báo chí Việt Nam đưa tin Thủ tướng Phạm Minh Chính triệu tập cuộc họp với lãnh đạo các ngân hàng thương mại, cả khối nhà nước lẫn tư nhân, yêu cầu xây dựng giải pháp bơm từ 2,5 – ba triệu tỷ đồng vào nền kinh tế.

Mặc dù động thái này thể hiện quyết tâm “thúc đẩy tăng trưởng”, nó cũng đặt ra nhiều câu hỏi về nguy cơ lạm phát, điều nếu xảy ra sẽ tác động đến đời sống dân nghèo và chất lượng tăng trưởng của Việt Nam trong “kỷ nguyên mới.”

Nguy cơ lạm phát từ 3 triệu tỷ đồng

Một bài viết trên báo Đầu tư của Bộ Kế hoạch Đầu tư, cho biết Ngân hàng Nhà nước đặt mục tiêu tăng trưởng tín dụng khoảng 16% để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế 8% GDP. Điều này tương đương với việc bơm khoảng 2,5 triệu tỷ đồng ra nền kinh tế. Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước cũng đặt ra khả năng thứ hai, cao hơn, là nếu muốn tăng trưởng kinh tế lên 10% (tức là tăng trưởng “hai con số”) thì phải tăng trưởng tín dụng ở mức 18% đến 20%, tức sẽ phải bơm ra nền kinh tế khoảng 3 triệu tỷ đồng.

Đối với vấn đề bơm tiền để kích thích tăng trưởng nêu trên, TS Vũ Quang Việt, nguyên Vụ trưởng Vụ Tài khoản Quốc gia, thuộc Cục Thống kê Liên Hợp Quốc, cho rằng kế hoạch bơm tiền theo tỷ lệ 18-20% là cao so với mức 12-14% các năm trước. Nếu không kiểm soát tốt, việc in tiền ồ ạt từng xảy ra trong quá khứ có thể dẫn đến lạm phát cao như giai đoạn 2006-2010.

Điều này gợi nhớ lại thời kỳ nhiệm kỳ Thủ tướng của ông Nguyễn Tấn Dũng giai đoạn 2006-2016. Ông Dũng đã đẩy mạnh in tiền để đầu tư vào các đại dự án như xây dựng các nhà máy đóng tầu, khai thác bôxit ở Tây Nguyên. “Tất cả các dự án này đều thất bại, nhưng lạm phát nhảy vọt. Tiền in nhảy vọt 30-45% những năm đầu (2006-2010) và chỉ giảm sau đó vì lạm phát quá cao.” TS Vũ Quang Việt nhớ lại.

Với kinh nghiệm quá khứ nêu trên của Việt Nam, TS Vũ Quang Việt nhận định nếu Việt Nam năm nay bơm được 3 triệu tỷ đồng vào nền kinh tế, chiều hướng chung là sẽ gây ra lạm phát. Tuy nhiên, ông cho rằng khó có thể tiên đoán ngay điều đó, vì thị trường đòi hỏi thời gian để phản ứng.

GS Nguyễn Văn Chữ, nguyên trưởng khoa Kinh tế và Kinh doanh, Đại học Houston at Downtown, có cùng nhận xét với TS Vũ Quang Việt. Giáo sư Nguyễn Văn Chữ khẳng định lạm phát chắc chắn sẽ xảy ra. Vấn đề chỉ là lạm phát nhiều hay ít và khi nào người dân cảm nhận được nó. Điều đó tuỳ thuộc vào tiến độ bơm tiền của nhà nước. Trao đổi với RFA, ông nói:

“Khi chính phủ có kế hoạch bơm tiền ra thị trường 3 ngàn tỷ thì không phải là ngay ngày mai tiền sẽ vô túi người ta. Ngân hàng phải có kế hoạch cho vay. Những người muốn vay phải làm hồ sơ. Quá trình đó rất dài. Đó là độ trễ của chính sách tài chính quốc gia. Quá trình bơm tiền vào nền kinh tế, do đó cần một thời gian dài để tác động đến nền kinh tế và xã hội. Ở các quốc gia Tây phương thì nó thường mất hai đến ba năm.”

Giàu nhất khu nhà nghèo, nghèo nhất khu nhà giàu: Những người này có gì đặc biệt? - Ảnh 1.

Đời sống người dân sẽ ra sao?

Về mặt đời sống, có thể kỳ vọng khi có dòng vốn lớn được đẩy vào nền kinh tế, doanh nghiệp sẽ mở rộng sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm, từ đó giúp cải thiện thu nhập cho lao động. Tuy nhiên, các chuyên gia đều cảnh báo: đời không như là mơ. Bởi lẽ, hiệu quả cuối cùng của việc bơm tiền vào nền kinh tế phụ thuộc vào cơ cấu phân bổ nguồn vốn và khả năng hấp thụ của nền kinh tế. Trao đổi với RFA, GS Nguyễn Văn Chữ nêu vấn đề:

“Nếu đặt ra vấn đề cuộc sống người dân sẽ như thế nào thì điều đó còn tuỳ thuộc vào lĩnh vực đầu tư của chính phủ. Đầu tư vào lĩnh vực công? Đầu tư vào lĩnh vực tư? Nếu đầu tư vào lĩnh vực công thì đó sẽ là gì? Nhà ở xã hội? Nhà ở cao cấp hay các dự án cơ sở hạ tầng? Nếu đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng thì tốc độ ảnh hưởng đến nền kinh tế và xã hội sẽ trễ hơn. Do đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng dài hạn thì chính phủ không thể giải ngân ngay tức khắc được. Mỗi năm họ chỉ giải ngân một phần. Thành ra mức độ lạm phát hàng năm tuỳ thuộc vào loại dự án được đầu tư và tiến độ tiền được bơm ra thị trường.”

Nếu Chính phủ Việt Nam thành công trong việc bơm một lượng tiền lớn vào nền kinh tế trong thời gian ngắn thì sẽ khiến tiền Việt Nam mất giá. Tiền Việt mất giá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí sinh hoạt của người dân do hàng hoá nhập khẩu đắt lên, cùng lúc đó giá cả nhiều mặt hàng thiết yếu có nguy cơ leo thang do lạm phát. Đó là cảnh báo của GS Nguyễn Văn Chữ.

Mặt khác, các dự án hạ tầng lớn tuy quan trọng nhưng triển khai chậm. Điều nhà nước dồn tiền vào các đại dự án đầu tư công, người dân có cảm nhận được đời sống của mình tốt lên ngay hay không? Câu trả lời là không. TS. Nguyễn Huy Vũ giải thích rằng nếu có hiệu quả thì có khi phải vài năm sau mới thấy hiệu quả rõ rệt. Điều đó chưa chắc giúp đời sống người dân tốt ngay lập tức.

Bơm ba triệu tỷ đồng vào đâu?

Có nên chấp nhận phương án đánh đổi, chấp nhận lạm phát vì nhu cầu phát triển hay không? Tăng tiền thì tất nhiên đưa đến tăng giá (lạm phát), nhưng nó không nhất thiết làm tăng năng suất lao động, không tất yếu sinh ra nhiều của cải. Đó là nhận xét của hầu hết các chuyên gia, khi họ nhìn chính sách bơm 3 triệu tỷ đồng vào nền kinh tế từ góc độ thể chế và cơ cấu của nền kinh tế Việt Nam.

Việt Nam từ khi Đổi mới đến nay luôn xác định kinh tế nhà nước là “then chốt”. Mấy chục năm nay, nguồn lực kinh tế được đổ dồn vào các doanh nghiệp do nhà nước quản lý. Phần lớn các doanh nghiệp này làm ăn kém hiệu quả. Theo báo cáo của Chính phủ Việt nam, tính đến cuối 2023, có 134 doanh nghiệp có vốn Nhà nước lỗ lũy kế 115.270 tỷ đồng (khoảng 4,6 tỷ USD), trong đó bảy “ông lớn” nhà nước thua lỗ gần 24 nghìn tỷ đồng năm 2023, cảnh báo dấu hiệu mất an toàn tài chính.

Trong khi đó, các doanh nghiệp tư nhân thuộc lĩnh vực sản xuất gần như bị bỏ rơi, không thể lớn mạnh, hoạt động èo uột.

Trong doanh nghiệp tư nhân, duy chỉ có doanh nghiệp bất động sản có thể phát triển do được ưu đãi về cơ chế “đất đai sở hữu toàn dân”, giúp họ có thể thu hồi đất đai của dân với giá rẻ và chuyển đổi mục đích sử dụng, bán sản phẩm thương mại với giá cao gấp nhiều lần. Việt Nam hiện có 6 tỷ phú thì tất cả đều thuộc lĩnh vực bất động sản. Ngay cả tỷ phú ngành thép Trần Đình Long (tập đoàn Hoà Phát) thì sản phẩm thép xây dựng cũng đi lên nhờ bất động sản và bản thân Hoà Phát cũng đầu tư vào bất động sản. Tỷ phú lắp ráp xe Trần Bá Dương (công ty Trường Hải) cũng “không buông tha” mảng bất động sản với khu đô thị Sala nổi tiếng ở Thủ Thiêm.

Câu hỏi cần đặt ra là với cơ cấu nền kinh tế như vậy, 3 triệu tỷ đồng nếu bơm vào nền kinh tế thì sẽ chảy vào đâu? Vào các doanh nghiệp nhà nước đang lỗ luỹ kế gần 5 tỷ đô la, vào các ông lớn bất động sản, hay vào các doanh nghiệp sản xuất khối tư nhân bi bỏ rơi mấy chục năm nay và không lớn nổi?

Vẫn là câu chuyện thể chế kinh tế chính trị

Từ góc độ chính sách, TS. Nguyễn Huy Vũ nhận định, mục tiêu bơm 20% tín dụng “xuất phát từ tính toán cứ bơm 2% tín dụng sẽ tăng trưởng được 1% GDP”. Tuy nhiên, ông đặt câu hỏi liệu “nền kinh tế có hấp thụ được không?”

Ông Vũ chỉ ra, gần đây, doanh nghiệp tư nhân đóng cửa hàng loạt và hoạt động cầm chừng. Vậy họ có hứng được dòng vốn này không? Còn nếu tín dụng chảy vào những dự án không hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước thì chỉ tạo ra lạm phát chứ không thúc đẩy năng suất. Do đó, theo TS Nguyễn Huy Vũ, chính sách bơm tiền sẽ lại đưa trở về với câu hỏi đầu tiên: Vậy thì đời sống người dân thế nào?

Do đó, TS. Nguyễn Huy Vũ nhấn mạnh thêm rằng nếu việc bơm tiền không đi kèm cải cách thể chế, hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân, việc lạm phát có thể không kiểm soát được, trong khi năng suất lao động không tăng tương ứng. Ông nói tiếp:

“Việt Nam có chiến lược phát triển nhưng thực ra không có chiến lược gì cả. Ví dụ vừa rồi Việt Nam đưa ra Nghị quyết 57 phát triển khoa học công nghệ để tạo ra những ngành đi cùng thời đại, nhưng không có chiến lược về nhân sự, về hỗ trợ doanh nghiệp đi kèm.

Vấn đề của Việt Nam là ông Tô Lâm có mục tiêu nhưng không có chính sách, đúng hơn là không có người để thực hiện. Khi đưa ra chính sách bơm tiền vào nền kinh tế mà không có doanh nghiệp tư nhân hấp thụ nguồn vốn đó để tạo ra công ăn việc làm, tạo ra giá trị cho nền kinh tế thì đó chỉ là tiêu tiền thôi. Tiền sẽ quay vào bất động sản, trong khi bất động sản hiện nay cũng gặp khó khăn trong việc bán hàng vì đơn giản là người dân không tăng thu nhập thì không có tích luỹ để đầu tư bất động sản hay mua nhà cửa vì nhu cầu để ở. Chuyện bất động sản chỗ này chỗ kia tăng giá thì chủ yếu vì một nhóm người có tiền mua bất động sản để rửa tiền hoặc đầu cơ.”

Ở Việt Nam, doanh nghiệp khối tư nhân rất nhỏ, yếu dù họ làm ăn hiệu quả hơn. Doanh nghiệp nhà nước được nhận nguồn lực to lớn nhưng làm ăn yếu kém. Cơ cấu kinh tế này có dễ dàng thay đổi không? Theo GS Nguyễn Văn Chữ, đây là điều không dễ thay đổi một sớm một chiều. Ông so sánh việc thiết kế và cải cách cơ cấu kinh tế chính trị giống như nặn đồ gốm. Một khi đồ gốm đã khô, trở nên cố định, việc nặn nó thành một hình dạng khác trở nên vô cùng khó khăn. Nó đòi hỏi người lãnh đạo phải làm cách mạng, đập bỏ, nhào cho nhuyễn, rồi nặn lại theo hình dạng khác.

Bơm 3 triệu tỷ đồng vào nền kinh tế là một chính sách tham vọng, thể hiện quyết tâm cao trong mục tiêu đưa GDP đạt mức hai con số. Tuy nhiên, như ý kiến từ các chuyên gia cho thấy, chất lượng phân bổ nguồn vốn và khả năng hấp thụ của thị trường mới là yếu tố quyết định thành bại. Điều gì quyết định chất lượng phân bổ nguồn vốn và khả năng hấp thụ nguồn vốn đó? Đó là thể chế kinh tế và chính trị, một vấn đề nóng ở Việt Nam sau khi Tổng Bí thư Tô Lâm đưa ra chính sách cải cách thể chế.

Nếu đồng vốn được quản lý minh bạch, hướng đến các dự án có hiệu quả và có ý nghĩa chiến lược lâu dài, rủi ro lạm phát có thể được kiểm soát ở mức chấp nhận được, đời sống người dân dần được nâng cao và kinh tế sẽ tăng trưởng bền vững. Ngược lại, nếu cơ chế giám sát lỏng lẻo, tham nhũng và dự án kém hiệu quả, thì tiền bơm ra chỉ làm mất giá đồng nội tệ, đẩy chi phí sinh hoạt leo thang, cuối cùng không tạo điều kiện cho sự phát triển lâu dài.


 

Tổng Bí Thư Tô Lâm tiếp tục đề cao trình độ của VNCH

Theo Đài Á Châu Tự Do

Hôm 13 tháng 2, Tổng Bí thư Tô Lâm đã có bài phát biểu tại một phiên thảo luận tổ, trong khuôn khổ kỳ họp bất thường lần thứ 9 của Quốc Hội.

Chủ tịch nước Tô Lâm khi chờ đón Thủ tướng Nhật Yoshihide Suga ở Hà Nội hôm 25/7/2024 (minh hoạ)

Trong bài phát biểu với nội dung bàn về đường hướng phát triển đất nước, người đứng đầu đảng Cộng sản đã bày tỏ sự ngưỡng mộ đối với Singapore, trước thành tích phát triển một cách ngoạn mục của nước này.

Điều đáng chú ý là ông Tô Lâm đã sử dụng Sài Gòn, thủ đô của Việt Nam Cộng Hòa, để so sánh với Singapore:

“Nhìn sang Singapore, xưa họ nói được sang Bệnh viện Chợ Rẫy chữa bệnh là mơ ước. 50 năm nhìn lại giờ mình lại mơ sang họ khám bệnh”, trích lời vị Tổng Bí thư.

Đây không phải là lần đầu tiên người đứng đầu đảng Cộng sản lấy Việt Nam Cộng Hòa làm chuẩn để so sánh với Singapore, vốn là nước phát triển nhất khu vực.

Trước đó, hôm 9 tháng 1, trong cuộc gặp với các bô lão Đảng viên, nguyên cán bộ Nhà nước, đại biểu trí thức, nhà khoa học, và văn nghệ sĩ các tỉnh thành phía Nam, ông Tô Lâm cũng đã có những lời nói tích cực về cựu thù.

Bài phát biểu của ông Tô Lâm có đoạn “Những năm 60, Sài Gòn – TP HCM là điểm sáng, Hòn ngọc Viễn Đông, Singapore cũng không bằng nhưng giờ đây tốc độ phát triển đã vượt rất xa.”

Đây là lần đầu tiên một Tổng Bí thư đảng Cộng sản công khai thừa nhận sự phát triển của Việt Nam Cộng Hòa so với các nước trong khu vực ở cùng thời điểm.

Từ trước tới nay, chế độ do đảng Cộng sản lãnh đạo vẫn duy trì chính sách tuyên truyền tiêu cực về Việt Nam Cộng Hòa, gọi đây là chế độ “tay sai”, “ngụy”, và “bán nước”, còn sự phồn vinh của Sài Gòn bị gọi là “giả tạo”.  Từ lúc lên nắm quyền, ông Tô Lâm đã thường xuyên thể hiện sự sốt ruột trước tình trạng phát triển chậm chạp của Việt Nam, và cảnh báo về nguy cơ tụt hậu.

Như một vị quân vương trước đây, ông Tô Lâm đã đặt niên hiệu cho thời kỳ cầm quyền của mình, với cái tên “kỷ nguyên vươn mình”, kèm với đó là hàng loạt chính sách cải cách tham vọng.

Hiện chưa rõ những phát biểu tích cực về Sài Gòn của ông Tô Lâm, tác động đến chính sách của đảng cầm quyền ra sao, trong vấn đề Việt Nam Cộng Hòa.

Năm 2025 cũng là năm đánh dấu 50 năm cuộc chiến tranh giữa hai miền Việt Nam kết thúc.


 

SỰ CHẾT – LM Nguyễn Tầm Thường, SJ

LM Nguyễn Tầm Thường, SJ

Khi tôi được sinh ra là khởi điểm tôi bắt đầu đi về cõi chết.  Làm gì có sự chết nếu không có sự sống.  Làm gì có ngày người ta chôn tôi nếu không có ngày tôi chào đời.  Như thế, cuộc sống của tôi là chuẩn bị cho ngày tôi chết.

Ngay từ trong bào thai của mẹ, bắt đầu có sự sống là tôi đã cưu mang sự chết rồi.  Kết hợp và biệt ly ở lẫn với nhau.  Trong lớn lên đã có mầm tan rã.  Khi vũ trụ chào đón tôi, thì cùng một lúc, tôi bắt đầu từ giã vũ trụ từng ngày, từng giờ.

Mỗi ngày là một bước tôi đi dần về sự chết.  Bình minh mọc lên, nhắc nhở cho tôi một bước cận kề.  Hoàng hôn buông xuống, thầm nói cho tôi sự vĩnh biệt đang đến.

Không muốn nghĩ về sự chết tôi cũng chẳng tránh đuợc sự chết.

Tôi có thể không muốn nghĩ về sự chết nhưng tôi có ghét sự chết được không?  Tôi ghét sự chết là tôi ghét chính tôi.  Chết ở trong tôi. Tôi đang đi về cõi chết nên ngay bây giờ sự chết đã thuộc về tôi rồi.  Sự sống của tôi hàm chứa sự chết, nên tôi yêu sự sống thì tôi cũng phải yêu sự chết.  Vì vậy, cuộc đời có ý nghĩa vẫn chỉ là cuộc đời chuẩn bị cho ngày chết.

Trong dòng đời, tôi không sống một mình.  Cuộc sống của tôi là tấm thảm mà mỗi liên hệ yêu thương là một sợi tơ, mỗi gắn bó quen biết là một sợi chỉ, anh em, cha mẹ, người yêu.  Sự chết xé rách tung tất cả để tôi ra đi một mình.  Chẳng ai đi với tôi.  Vì thế, chết mang mầu ly biệt.

Sống là hướng về tương lai.  Tương lai là cái tôi không nắm chắc trong tay, vì vậy, tôi hay nhìn về tương lai bằng nỗi sợ bấp bênh.  Càng bấp bênh thì tôi càng tìm kiếm vững chãi, càng tích lũy.  Nhưng tích lũy xong, xây đắp xong, vất vả ngược xuôi để rồi ra đi trắng đôi tay thì đời tôi thành đáng thương hại.  Nếu tôi không đem theo được những gì tôi tích lũy, thì những gì tôi ôm ấp hôm nay chỉ làm tôi thêm đau đớn, nuối tiếc.  Nếu không muốn vậy thì chúng phải là phương tiện để chuẩn bị cho giờ ra đi của tôi.

Tích lũy cho tương lai có thể là dấu hiệu khôn ngoan đề phòng những bất trắc có thể xẩy ra.  Mà cũng có thể là một thứ nô lệ.  Nếu suốt đời tôi lo âu tìm kiếm danh vọng, quá tham lam tiền bạc, lúc nào cũng bị vây khốn, băn khoăn thì đâu là niềm vui, tận hưởng.

Mà tận hưởng là gì?  Ðâu là ý nghĩa của sự tìm kiếm?  Tích lũy?

Kinh Thánh kể:

Có người trong đám dân chúng nói với Ðức Kitô: “Thưa Thầy, Thầy bảo anh tôi chia gia tài với tôi.”

Ngài đã nói cùng họ: “Hãy coi chừng!  Hãy lo giữ mình tránh mọi thứ gian tham, vì không phải ai được sung túc, là đời sống người ấy chắc chắn nhờ của cải.”

Ngài nói cùng họ một ví dụ rằng: “Có người phú hộ, ruộng nương được mùa, nên suy tính với mình rằng: ta phải làm gì?  Vì ta không còn chỗ nào mà tích trữ hoa mầu nữa.  Ðoạn người ấy nói: Ta sẽ làm thế này: phá quách các lẫm đi, mà xây những lẫm lớn hơn, rồi chất cả lúa mạ, và của cải vào đó, rồi ta nhủ hồn ta: Hồn ơi!  Mày có dư thừa của cải, sẵn đó cho bao nhiêu năm; nghỉ đi!  ăn uống đi!  hưởng đi!  Nhưng Thiên Chúa bảo nó: Ðồ ngốc!  Ngay đêm nay, người ta sẽ đòi ngươi trả lại hồn ngươi, mọi sự ngươi đã sắm sửa, tích góp kia sẽ về tay ai? (Lc 12,13-21).

Không ai sống hộ tôi.  Không ai chết thay tôi.  Không ai đi cùng tôi.  Tôi sẽ ra đi lẻ loi.  Họ sẽ quên tôi cũng như tôi đã quên bao người.  Có thể đôi khi họ nhớ tôi.  Cũng như đôi khi tôi nhớ người này, kẻ kia.  Nhưng nỗi nhớ chỉ là của riêng tôi, còn kẻ đã ra đi vẫn ra đi miền miệt.  Thì cũng thế, chẳng ai làm gì được cho tôi lúc tôi ra đi không trở lại.

Chết là mất tất cả.  Nhưng thánh Phaolô lại tuyên tín rằng chết là chiến thắng (1Cor 15,54).  Chết là đi về sự sống vĩnh cửu.  Chết là gặp gỡ.  Gặp Ðấng tạo nên mình.  Như vậy, chết là cánh cửa im lìm được mở ra để tôi về với Ðấng thương tôi.  Chết là điều kiện để sống.

Chúa ơi, chết là đi về với Chúa sao con vẫn lo âu?

Phải chăng nỗi lo âu là dấu hiệu nói cho con rằng con sợ con có thể không gặp Chúa.  Vì sợ không gặp nên chết mới là bản án nặng nề.  Mà tại sao con lại sợ không gặp Chúa?  Chúa luôn mong mỏi, đợi chờ con cơ mà.  Như thế, muốn gặp Chúa hay không là do ý của lòng con.  Con có quyền quyết định cho hạnh phúc của mình.

Chúa ơi, vì biết mình sẽ chết nên con băn khoăn tự hỏi bao giờ thì chuyến tầu định mệnh đem con đi.  Hôm nay hay ngày mai?  Mùa thu này hay mùa xuân tới?  Con âu lo.  Nhưng vì sao phải lo âu?

Phải chăng lo âu là dấu hiệu nói cho con rằng con chưa chuẩn bị đủ, là hồn con còn ngổn ngang.  Có xa Chúa thì mới sợ mất Chúa.  Sợ mất Chúa thì mới xao xuyến băn khoăn.  Con biết thế, con biết rằng vì không sẵn sàng, vì không chuẩn bị nên mới hồi hộp, mất bình an.  Con biết thế, con biết sau khi chết là hạnh phúc hay gian nan, là núi cao với mây ngàn cứu rỗi, hay vực sâu phiền muộn với đau thương.  Nhưng chuẩn bị cho giờ ra đi không đơn giản Chúa ơi.  Chúa biết đó, con đi tìm Chúa nhưng là đi trong lao đao.  Bởi yêu một vật hữu hình thì dễ hơn lắng nghe tiếng gọi từ nơi xa thẳm.  Giầu có và danh vọng cho con hạnh phúc mà con có thể sờ được.  Còn hạnh phúc của đức tin thì sâu thắm quá.

Chung quanh có biết bao mời mọc.  Kinh nghiệm cho con thấy rằng đã nhiều lần con bỏ Chúa.  Như vậy biết đâu con lại chẳng bỏ Chúa trong tương lai.  Nếu lúc đó mà giờ chết đến thì sao?

Chúa có nghĩ rằng khi con phải phấn đấu chối từ những rung cảm bất chính để sống theo niềm tin là thánh giá của con không.  Chối từ tiếng gọi của tội lỗi đã là một thánh giá.  Nhưng có khi lo âu vì không biết mình có từ chối được không còn là một thánh giá khác nữa.  Chính đấng thánh của Chúa mà còn phải kêu lên: “Ôi! những điều tôi muốn làm thì tôi chẳng làm, những gì tôi muốn trốn tránh thì tôi lại làm” (Rom 7,15-16).  Chúa thấy đó, vị tông đồ lớn của Chúa mà còn như thế, huống chi con, một kẻ mang nhiều đam mê, yếu đuối thì đường về với Chúa gian nan biết bao.

Ðể khỏi chết khi con chết, thì con phải chết trước khi con chết.

Cái chết đó là đóng đinh đời con vào thập giá.  Con không biết con can đảm đến đâu.  Con chỉ xin sao cho con tiếp tục đi mãi.  Ði xiêu vẹo vì yếu đuối của con, nhưng vẫn tiếp tục đi.

Thập giá nào thì cũng có đau thương.

Con không muốn thập giá.  Vì thập giá làm con mang thương tích.  Chúa cũng đã ngã.  Nhưng nếu sự sống của con mang mầm sự chết, thì trong cái chết của thập tự nẩy sinh sự sống.  Chúa đã chết.  Chúa hiểu nỗi sợ hãi của sự chết.  Con vẫn nhớ lời Chúa cầu nguyện: “Lạy Cha, con xin phó hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).  Hôm nay con cũng muốn nói như vậy đó, với Chúa.  Cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa dạy con rằng chẳng có sự sống nào mà không phải qua sự chết.  Chết thì sợ hãi, nhưng nếu con yêu sự sống thì con phải yêu sự chết.

Con muốn chết để được sống.

Con sẽ đóng đinh đời con vào thập tự.  Chúa ơi, Chúa có cho những lo âu của con là dấu chỉ tình yêu của một tâm hồn yếu đuối, đang thao thức đi tìm Chúa vì sợ mất Chúa không.

Lạy Cha, trong tay Cha con xin phó thác đời con.

LM Nguyễn Tầm Thường, SJ

Trích trong Nước Mắt và Hạnh Phúc

From: Langthangchieutim


 

H A P P Y  V A L E N T I N E ‘ S D A Y – “Ngày Tình Yêu”

Peter Nguyen

Thoảng qua gió thoảng mây bay,

“Nương nhau mà sống” đẹp thay tình người!

Cuộc đời liền với khóc cười,

Chìa khoá vàng sống gọi mời thăng hoa!

H A P P Y  V A L E N T I N E ‘ S D A Y

“Ngày Tình Yêu” cũng là ngày tình nghĩa dành cho người yêu, cũng là ngày nhớ đến công ơn dành cho ông bà cha mẹ, anh chị em thân bằng quyến thuộc và bạn bè!

1) Mỗi một con người hiện diện trên đất nước Hoa Kỳ hay các nước khác đều phải cần “Người Bảo Trợ” để có thể được định cư ở nước thứ ba, từ các trại tị nạn bằng đường biển hay đường bộ. Người bảo trợ đó có thể là một tổ chức của nhà thờ, một người thân hay bạn bè đã định cư trước, hay sau này được ra đi theo diện HO, hay theo chương trình ra đi có trật tự ODP. Tóm lại, tất cả và mỗi người được đi định cư, đều cần phải có “Người Bảo Trợ”.

Tại hạ và gia đình cũng không ngoại lệ! Câu hỏi được đặt ra là: Tại sao ta dồn hết Tình Yêu Thương cho gia đình của riêng mình, mà hình như không tạo ra được một thói quen dễ thương là cũng dành ra cơ hội tốt này , để nhớ đến công ơn “Người Bảo Trợ”?. Tại hạ từng chứng kiến có rất nhiều gia đình Việt đã thực hiện nghĩa cử bày tỏ lòng biết ơn dành cho người bảo trợ đó đây, nhưng hình như chưa tạo ra được một phong trào đồng loạt!

“Ăn trái nhớ kẻ trồng cây,

Tình người tình đẹp đong đầy tương lai!”

2) “Ngày Tình Yêu” cũng là cơ hội bày tỏ lòng biết ơn dành cho người phối ngẫu. Đây là một mĩ tục mà các quốc gia Tây phương đã và đang thực hiện hàng năm đến hẹn lại mừng vào ngày Feb 14! Đây cũng là cơ hội nhắc nhở người đang yêu đã yêu và sẽ yêu, hoàn tất bổn phận và nghĩa vụ của một người tình. Tuỳ theo điều kiện và ý thích của đôi bên trai gái, quà tặng đó có thể là một món quà người tình ưa thích, một bữa ăn mừng, một nghĩa cử yêu thương bằng một cành hồng nhiều ý nghĩa!

3) “Ngày Tình Yêu” qua kinh nghiệm bản thân, nhìn vào con số thống kê có tới 50-60% các cuộc hôn nhân ở Hoa Kỳ và nhiều nước trên thế giới đã đổ vỡ! Buồn, thật buồn, vì một khung trời hoa mộng, một giấc mơ hoa đã vỡ nát con tim, gây hệ lụy thương tổn cho đời con đời cháu, dẫu rằng con cháu vẫn có thể thích ứng thành công, nhưng… vết thương luôn còn đó! Câu hỏi đặt ra là: Vì đâu nên nỗi?

Qua một đêm thức trắng, tại hạ đã ghi lại bài viết “Nương Nhau Mà Sống” này, tuy đã cũ nhưng mạn phép dùng lại làm quà “Ngày Tình Yêu” gởi đến bà con bạn bè thân quen, với ước mong được quí vị và bạn hữu phản hồi! Tại hạ xin đón nhận trân quí lời bình của quí vị, bất kể khen hay chê.

Người bạn tốt là người đã dám nói sự thật, dám phê bình thẳng thắn, vì “chân lí sẽ giải thoát” chúng ta!

Chân thành cảm ơn!

Richmond TX

Feb 13, 2024

N ư ơ n g  N h a u  M à  S ố n g !

Trên đường đi chụp hoa Bluebonnet ở Brenham TX có hãng làm kem rất nổi tiếng Blue Bell . Trước mặt tiền của gian nhà chính của hãng kem có bức tranh được treo tường, là nơi trưng bày tiến trình hệ thống sản xuất, cũng như giới thiệu từng loại kem cho khách dùng thử. Bức tranh thoát thai từ một bức tranh cổ, do họa sĩ Grant Wood vẽ vào năm 1930, mô tả nét mặt của một cặp đôi đứng trước căn nhà của họ.

Dựa trên thần thái mô tả về một cặp vợ chồng, thoạt nhìn có vẻ có vấn đề, tựa như bất cứ một cặp vợ chồng nào trên thế gian này, đều có vấn đề không nhiều thì ít vì “sống trong chăn mới biết chăn có rận” hay “xấu che tốt khoe” mà! Chuyện chung sống lâu bền được hay không tùy thuộc vào bốn chữ vàng “nương nhau mà sống”. Điều muốn nói ở đây là nương nhau như thế nào? Khi một người cho là mình đúng, tất nhiên là người kia sai, nên cần đến một trung gian hòa giải để tìm ra giải pháp dung hòa.

Người Mỹ thường nói “Happy Wife Happy Life”, câu nói có vẻ thiếu công bình vì thiên vị về phía người vợ chăng? Mà sự thường thì trong tương quan nơi thế giới con người đều phải là “có qua có lại mới toại lòng nhau”. Đừng kể các bậc thánh nhân siêu thoát hay tình yêu cha mẹ dành cho con cái, là thứ tình cho không biếu không. Chân lý “có qua có lại mới toại lòng nhau” luôn đúng trong quan hệ anh chị em, vợ chồng hay bà con bằng hữu.

Thoát thai từ câu chuyện ngụ ngôn Ấn Độ, thiên hạ đã đưa ra một bức tranh vân cẩu gồm 3 con khỉ: con thứ nhất nhắm mắt, con thứ hai bịt tai, và con thứ ba bịt miệng. Thiển nghĩ nên thêm vào con khỉ thứ tư “mắt nhắm mắt mở” cho đủ “tứ trụ” mà nhiều người cho là kim chỉ nam giữ gìn gia đình hạnh phúc! Vậy thì câu nói vợ chồng cần “nương nhau mà sống” để giữ cho hôn nhân được lâu bền thì phải hành xử sao đây? Chẳng lẽ cứ phải bịt mắt bịt miệng và bịt tai, chấp hành tất tần tật mọi hành vi, lời nói và việc làm của người vợ hay người chồng suốt cả cuộc đời? Hà cớ gì lại thiên vị đứng về phía người vợ mà cho rằng “Happy Wife Happy Life”, bất chấp đúng hay sai, phải hay trái! Vậy thì cần đến một giải pháp dung hòa để quân bình trong đời sống gia đình, đó là chấp nhận chân lý: Tự bản chất con người bất toàn, không ai là không có khuyết điểm lỗi lầm cho dù “nhân chi sơ tính bổn thiện”, nhưng mỗi người sinh ra và lớn lên, hình thành một nhân cách tùy thuộc theo tâm tính, theo những điều kiện sinh sống và giáo dục của gia đình, của học đường và xã hội … Cái phông ấy uốn nắn thành một con người cụ thể bằng xương bằng thịt, đầu đội trời chân đạp đất! Một khi chấp nhận chân lý ấy rồi tất nhiên cần đến một giải pháp dung hòa, là phải “nương nhau mà sống”, không thể cực đoan một chiều. Nói như vậy có nghĩa là cần đến giải pháp “mắt nhắm mắt mở”. Một mắt nhắm để bỏ qua cho nhau những khuyết điểm không hài lòng vì con người là bất toàn! Một mắt mở để nhìn ra cái tốt và ưu điểm của nhau. “Nương nhau mà sống” phải là quy luật vàng trong hôn nhân! Nếu không nương được nhau thì tất nhiên sẽ rơi vào con số thống kê 50% – 60% hôn nhân đổ vỡ bằng tờ ly dị!

Hệ lụy đau thương nhất là những đứa con thiếu cha hoặc thiếu mẹ, và dĩ nhiên tâm lý thiếu quân bình, cho dù chúng vẫn có thể sinh tồn thành nhân hay thành tài được theo bàn năng! Một giây phút thiếu nghĩ suy khi đem so sánh hơn thiệt người mình đã chọn trước đây với người này kẻ nọ; một cơn giận mất khôn khi đi đến một quyết định vội vã, một ham muốn nhất thời tìm kiếm của lạ khi đã chán cơm đâm ra thèm phở. Sâu xa hơn nữa là một cái tôi to đùng đầy cá tính bắt người khác phải phục tùng mình tựa như câu chuyện hai người bạn gái nhỏ to với nhau:

– Mẫu người mày chọn làm chồng trong tương lai ra sao?

– Tao không cần hắn phải đẹp trai như Tom Cruise; cũng không cần phải giàu có như Elon Musk. Tao chỉ cần hắn phải chiều chuộng làm theo ý tao muốn mọi nơi, mọi lúc.

– Xin lỗi mày, chỉ có con chó mới làm được điều mày vừa nói! Ha ha ha!

Còn thương trái ngọt gia đình,

Khéo co thì ấm vụng sinh ra thường.

Tập trung ưu điểm dễ thương,

Thuận buồm xuôi gió con đường trăm năm!

Tuệ Ngữ Nguyễn Đông-Khê

Richmond TX

 

Bịt miệng trí thức [1]: Đòn cuối cùng của một chế độ sợ hãi – Uyên Nguyên

Ba’o Tieng Dan

14/02/2025

Diễn đàn Thế kỷ

Uyên Nguyên

Khi người dân không còn sợ hãi, khi trí thức không còn chấp nhận sự kiểm duyệt, khi công lý không còn bị bóp méo bởi những điều luật phục vụ quyền lực, đó mới là lúc một tương lai thực sự có thể bắt đầu.

Tự do ngôn luận không phải là một đặc ân, mà là một quyền căn bản, là nền tảng của mọi nền dân chủ thực thụ. Khi quyền này bị bóp nghẹt, không những chỉ một cá nhân bị trừng phạt, mà cả một xã hội bị đặt vào tình trạng câm lặng, bị tước đoạt quyền suy nghĩ và bày tỏ. Một dân tộc không có tự do ngôn luận là một dân tộc đang bị giam cầm ngay trên mảnh đất của chính mình, không phải bởi song sắt của nhà tù, mà bởi nỗi sợ hãi, bởi những điều luật mơ hồ có thể giáng xuống bất kỳ ai, bất kỳ lúc nào.

Việt Nam chưa bao giờ thiếu những bản án dành cho những người dám lên tiếng và trường hợp của Osin Huy Đức [2] chỉ là một minh chứng mới nhất cho điều đó. Nhưng điều đáng nói vốn không nằm ở số phận của một cá nhân, mà chính là sự tồn vong của cả một hệ thống giá trị: Khi những người dám nói sự thật bị trừng phạt, điều này đồng nghĩa với việc cả xã hội đang bị đặt vào một vòng kim cô của sự dối trá. Một chính quyền sử dụng pháp luật không phải để bảo vệ công lý mà để bảo vệ quyền lực cho chính nó, thì đó không còn là pháp quyền mà là một hình thức cai trị bằng bạo lực, được khoác lên lớp vỏ của sự hợp pháp.

Hiến pháp Việt Nam công nhận rằng công dân có quyền tự do ngôn luận, nhưng ngay sau đó lại ràng buộc bằng điều kiện “do pháp luật quy định”. Trong một hệ thống mà pháp luật không phục vụ nhân dân mà chỉ phục vụ giai tầng thống trị, thì điều này đồng nghĩa với việc mọi quyền tự do đều có thể bị tước đoạt bất cứ lúc nào, chỉ cần có một lý do được nhà nước đưa ra.

Những điều luật như “lợi dụng quyền tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích nhà nước” hay “tuyên truyền chống nhà nước” là những chiếc lưới vô hình, sẵn sàng siết chặt cổ bất kỳ ai dám lên tiếng. Một nhà báo viết về sự thật có thể bị coi là phản động, một học giả phân tích lịch sử có thể bị buộc tội bóp méo thực tế, một người dân bình thường lên tiếng về bất công có thể bị xem là gây rối trật tự công cộng. Trong một xã hội như vậy, ai còn dám suy nghĩ, ai còn dám phản biện, ai còn dám bảo vệ sự thật?

Nhưng câu chuyện không dừng lại ở đó. Khi một cá nhân bị kết án vì phát ngôn của mình, thì không riêng một mình người đó chịu hậu quả. Toàn bộ xã hội sẽ học được một bài học cay đắng: Sự im lặng là con đường an toàn nhất. Sự sợ hãi len lỏi vào từng góc nhỏ của đời sống, khiến con người ta tự kiểm duyệt trước khi nói, tự cắt bỏ những suy nghĩ phản biện trước khi chúng kịp hình thành.

Một xã hội không có tự do tư tưởng là một xã hội chết lâm sàng. Không có đổi mới, không có sáng tạo, không có tiến bộ, chỉ có sự trì trệ và dối trá kéo dài từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhưng tệ hơn cả, đó là một xã hội đánh mất khả năng nhận ra sự bất công ngay cả khi nó hiển hiện trước mắt. Khi sự thật bị bóp méo quá nhiều lần, khi những lời dối trá được lặp đi lặp lại với tần suất dày đặc, con người ta sẽ dần chấp nhận nó như một thực tại không thể thay đổi. Và khi điều đó xảy ra, không cần đến một bộ máy đàn áp mạnh tay, chính những nạn nhân của sự cai trị sẽ tự biến mình thành những người bảo vệ cho hệ thống đã trói buộc họ.

Có một câu hỏi cần phải đặt ra: Vì sao Việt Nam có quá nhiều trí thức nhưng lại thiếu vắng những tiếng nói trí thức đích thực? Bởi vì rất nhiều người có học thức đã chọn cách im lặng, hoặc tệ hơn, chọn cách phục vụ cho hệ thống. Chúng ta khoác lên mình danh xưng trí thức nhưng không sử dụng tri thức của mình để bảo vệ lẽ phải, mà chỉ để bảo vệ vị trí và quyền lợi của bản thân. Chúng ta biết rõ những gì đang diễn ra, nhưng thay vì lên tiếng, chọn cách đứng ngoài hoặc thậm chí hợp tác với quyền lực để đàn áp những tiếng nói bất đồng.

Đây chính là bi kịch lớn nhất của giới trí thức Việt Nam: Sự thỏa hiệp với bất công, sự khiếp nhược trước quyền lực, sự phản bội đối với chính lý tưởng của mình. Nhưng lịch sử đã chứng minh rằng, những ai lựa chọn đứng về phía áp bức không bao giờ có thể thoát khỏi hậu quả của nó. Một khi hệ thống mất đi giá trị cốt lõi, ngay cả những kẻ từng được hưởng lợi từ nó cũng sẽ bị nuốt chửng.

Những quốc gia tiến bộ trên thế giới không phải ngẫu nhiên mà có. Họ đã trải qua những giai đoạn mà chính quyền muốn bịt miệng trí thức, nhưng giới trí thức ở đó đã không chấp nhận điều đó. Từ châu Âu đến Mỹ, từ Đông Âu đến Đông Á, những cuộc cách mạng tư tưởng đều bắt đầu từ những con người không chấp nhận bị kiểm soát bởi nỗi sợ hãi. Voltaire [3], Rousseau [4], Kant [5], Hayek [6], Orwell [7]– tất cả họ đều là những trí thức đã dám đối mặt với quyền lực để bảo vệ quyền được suy nghĩ, quyền được nói của con người. Nếu họ cũng chọn cách im lặng như nhiều người ngày nay, thế giới này sẽ vẫn còn chìm trong bóng tối của chủ nghĩa chuyên chế.

Nhưng, quay trở lại Việt Nam, điều quan trọng không phải là trách cứ ai đã sai, mà là đặt câu hỏi: Làm thế nào để thay đổi? Một quốc gia không thể phát triển nếu trí thức không dám phản biện, nếu xã hội không dám đòi hỏi quyền của mình. Những bản án dành cho những người như Huy Đức có thể làm nản lòng một số người, nhưng cũng có thể là động lực để những người khác nhận ra rằng: nếu không đấu tranh, chúng ta sẽ không còn gì cả. Một chính quyền không thể đàn áp mãi mãi nếu xã hội không chấp nhận bị đàn áp. Một bộ máy cai trị không thể kiểm soát tất cả mọi người nếu tất cả mọi người cùng lên tiếng.

Tự do ngôn luận không đến từ sự ban phát của chính quyền, mà đến từ sự đòi hỏi không ngừng nghỉ của người dân. Lịch sử nhân loại đã chứng minh điều đó hết lần này đến lần khác. Khi Nelson Mandela [8] bị giam cầm, điều đó không làm phong trào đấu tranh chống phân biệt chủng tộc ở Nam Phi yếu đi, mà còn làm nó mạnh mẽ hơn. Khi Václav Havel [9] đàn áp, điều đó không khiến phong trào dân chủ tại Tiệp Khắc [10] tan rã, mà còn là tiền đề cho cuộc Cách mạng Nhung [11].

Việt Nam không thiếu những người có đủ nhận thức để hiểu điều này, chỉ thiếu những người có đủ can đảm để hành động. Nhưng sự thay đổi không thể chỉ đến từ một cá nhân hay một nhóm nhỏ, mà phải là ý thức tập thể của cả một dân tộc. Khi người dân không còn sợ hãi, khi trí thức không còn chấp nhận sự kiểm duyệt, khi công lý không còn bị bóp méo bởi những điều luật phục vụ quyền lực, đó mới là lúc một tương lai thực sự có thể bắt đầu.

Bản án của Osin Huy Đức, dù có là gì đi nữa, cũng không phải là dấu chấm hết. Nó chỉ là một trong những dấu mốc trên con đường dài của một dân tộc đang tìm cách thoát khỏi bóng tối. Nhưng để thay đổi, câu hỏi không phải là ai sẽ làm điều đó, mà là liệu tất cả chúng ta tiếp tục cúi đầu hay đứng thẳng để đòi lại tiếng nói của mình.

________

[1] Trí thức không chỉ là những người có học vấn cao, mà quan trọng hơn, là những người mang trách nhiệm đối với sự thật và công lý. Trong mọi thời đại, trí thức luôn đóng vai trò khai sáng, thúc đẩy tiến bộ xã hội và phản biện quyền lực khi cần thiết. Nhưng ở Việt Nam, trí thức vừa đối diện với những thách thức tri thức, đồng thời với áp lực kiểm soát, sự đàn áp và nguy cơ bị bịt miệng. Một trí thức đúng nghĩa không phải là người chỉ thuần thục kiến thức, mà là người dám đặt câu hỏi, dám nói lên sự thật ngay cả khi nó không được chào đón. Thời đại Việt Nam hôm nay không thiếu người tài giỏi, nhưng thiếu những người dám bước qua nỗi sợ hãi để bảo vệ giá trị của trí tuệ. Khi trí thức trở thành công cụ của quyền lực, xã hội mất đi ánh sáng dẫn đường. Nhưng khi trí thức dám đứng lên, đó là khởi đầu của một kỷ nguyên mới.

[2] Osin Huy Đức (tên thật: Trương Huy San) là một nhà báo, nhà bình luận chính trị người Việt Nam, nổi tiếng với những bài viết phản biện sắc bén và tác phẩm “Bên Thắng Cuộc”, một cuốn sách gây tiếng vang về lịch sử Việt Nam sau 1975. Ông từng là phóng viên của nhiều tờ báo lớn trước khi trở thành cây bút độc lập. Hiện tại, Huy Đức đang bị cầm tù và đối mặt với nguy cơ bị kết án theo điều luật mơ hồ về “lạm dụng quyền tự do ngôn luận để chống phá nhà nước”, phản ánh tình trạng đàn áp tư tưởng và tự do báo chí tại Việt Nam.

[3] Voltaire (1694–1778): Nhà triết học, nhà văn và nhà khai sáng người Pháp, nổi tiếng với tư tưởng tự do ngôn luận, phản đối chế độ chuyên chế và sự áp bức của tôn giáo. Câu nói kinh điển của ông: “Tôi không đồng ý với điều anh nói, nhưng tôi sẽ bảo vệ đến chết quyền được nói ra điều đó.” dù chưa được xác nhận là của ông, vẫn thể hiện tinh thần đấu tranh mạnh mẽ cho tự do ngôn luận.

[4] Jean-Jacques Rousseau (1712–1778) – Triết gia Khai sáng người Pháp, tác giả Bàn Về Khế Ước Xã Hội(Du Contrat Social), đề xướng quyền tự do và chủ quyền nhân dân, ảnh hưởng sâu sắc đến Cách mạng Pháp và các nền dân chủ hiện đại.

[5] Immanuel Kant (1724-1804) – Nhà triết học người Đức, một trong những tư tưởng gia vĩ đại nhất của thời kỳ Khai sáng. Ông đề xướng “Triết học Phê phán”, nhấn mạnh vào lý trí, đạo đức và tự do cá nhân. Tác phẩm “Phê phán lý tính thuần túy” (1781) đặt nền móng cho nhận thức luận hiện đại, trong khi “Phê phán lý tính thực tiễn” (1788) và “Nền tảng Siêu hình Học về Đạo đức” (1785) khẳng định rằng con người phải hành động theo nguyên tắc đạo đức phổ quát, không bị ràng buộc bởi quyền lực hay lợi ích cá nhân. Kant tin rằng tự do ngôn luận và tự chủ trí tuệ là điều kiện cốt lõi để khai sáng xã hội.

[6] Friedrich Hayek (1899–1992) – Nhà kinh tế học và triết gia chính trị người Áo, tác giả của The Road to Serfdom (1944), một tác phẩm kinh điển cảnh báo về nguy cơ của chủ nghĩa toàn trị và sự kiểm soát nhà nước đối với tự do cá nhân. Hayek lập luận rằng một xã hội tự do chỉ có thể tồn tại khi quyền cá nhân, đặc biệt là tự do ngôn luận và tư tưởng, không bị nhà nước kiểm soát. Ông là người bảo vệ mạnh mẽ của kinh tế thị trường và tư tưởng tự do cổ điển.

[7] George Orwell (1903-1950) – Nhà văn, nhà báo và nhà phê bình chính trị người Anh, nổi tiếng với các tác phẩm “1984” và “Animal Farm”, trong đó ông cảnh báo về sự kiểm soát tư tưởng, chế độ toàn trị và nguy cơ thao túng sự thật. Orwell trở thành biểu tượng của tư tưởng chống độc tài, với những khái niệm như “Big Brother”“Doublethink”, và “Newspeak”, phản ánh sự bóp méo ngôn ngữ để kiểm soát nhận thức con người.

[8] Nelson Mandela (1918-2013) – Nhà lãnh đạo phong trào chống phân biệt chủng tộc ở Nam Phi, bị giam cầm 27 năm vì đấu tranh chống chế độ Apartheid. Sau khi được trả tự do, ông trở thành Tổng thống Nam Phi (1994-1999) và là biểu tượng toàn cầu của hòa giải, công lý và tự do.

[9] Václav Havel (1936–2011) – Nhà văn, nhà bất đồng chính kiến, và tổng thống đầu tiên của Cộng hòa Séc sau khi chế độ cộng sản sụp đổ. Ông là một trong những lãnh đạo chủ chốt của Cách mạng Nhung (1989), phong trào bất bạo động dẫn đến sự chấm dứt chế độ cộng sản tại Tiệp Khắc. Với tư tưởng dân chủ, tự do ngôn luận và nhân quyền, Havel không chỉ là một biểu tượng đấu tranh chống độc tài mà còn là một nhà tư tưởng có ảnh hưởng lớn trong chính trị toàn cầu.

[10] Phong trào dân chủ tại Tiệp Khắc bắt đầu mạnh mẽ từ những năm 1970 với Hiến chương 77, một tuyên ngôn do Václav Havel và nhiều trí thức soạn thảo nhằm yêu cầu chính quyền tôn trọng nhân quyền. Đến năm 1989, Cách mạng Nhung bùng nổ khi hàng trăm ngàn người xuống đường biểu tình ôn hòa, buộc chính quyền cộng sản sụp đổ mà không đổ máu. Tiệp Khắc sau đó chuyển đổi thành nền dân chủ đa đảng, mở đường cho sự phát triển của Cộng hòa Séc và Slovakia ngày nay.

[11] Cách mạng Nhung (Velvet Revolution) là cuộc cách mạng ôn hòa diễn ra vào năm 1989 tại Tiệp Khắc (nay là Cộng hòa Séc và Slovakia), dẫn đến sự sụp đổ của chế độ cộng sản tại nước này mà không cần đổ máu. Dưới sự lãnh đạo của Václav Havel và phong trào đối lập, hàng trăm nghìn người dân đã xuống đường biểu tình, buộc chính quyền phải nhượng bộ. Cuộc cách mạng này là một trong những dấu mốc quan trọng của làn sóng dân chủ hóa Đông Âu cuối thế kỷ 20.