HỌC NHÂN ĐIỆN VÀ THIỀN CỦA TÍN HỮU CÔNG GIÁO

  HỌC NHÂN ĐIỆN VÀ THIỀN CỦA TÍN HỮU CÔNG GIÁO

Lời ngỏ

Khi tôi đặt bút viết về “Học Nhân Điện và học Thiền của các tín hữu Công giáo”, tôi biết mình sẽ gặp những ý kiến bất đồng  trong giới Công giáo về vấn đề này, vì có nhiều linh mục, nam nữ Tu sĩ và giáo dân đã học “Nhân điện” và học Thiền. Tuy vậy tôi vẫn quyết định viết, hy vọng những nghiệm xét này giúp những anh chị em Công giáo học thiền và học nhân điện định hướng lại con đường mình đang đi, và hãy khám phá lại đời sống tâm linh dồi dào phong phú trong Đức Kitô:

“Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.”(x. Ga 10,10).
Từ năm 1980, tôi đã có dịp  xét nghiệm về tập thiền, và từ năm 1992 nghiệm xét về “Nhân điện”. Tôi quyết định viết ra những nghiệm xét của mình về vấn đề “học Nhân Điện và học Thiền”, khi đọc kinh nghiệm của hai cha Don Calloway và Robert Thorn trên trang web Mễ Du vào tháng 8 năm 2006.

Tôi rất mong được anh chị em trong giới Công giáo chia sẻ và đóng góp về kinh nghiệm đã trải qua khi học “Nhân điện” và “tập thiền” này. Xin chân thành cám ơn anh chị em trước.
Từ “nghiệm xét” dùng ở đây được lấy ở trong thư của Thánh Gio-an tông đồ: “Anh em thân mến, đừng cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy nghiệm xét các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì có lắm tiên tri giả đã xuất hiện trên thế gian.”(Bản dịch của Linh mục Nguyễn Thế Thuấn).

(1G  4:1 Anh em thân mến, anh em đừng cứ thần khí nào cũng tin, nhưng hãy cân nhắc các thần khí xem có phải bởi Thiên Chúa hay không, vì đã có nhiều ngôn sứ giả lan tràn khắp thế gian.( giờ kinh phụng vụ)
Những tên thật của những người trong bài viết này đã được thay đổi bằng tên khác, để tránh những điều đáng tiếc sẽ xảy ra khi ai đó biết tên thật của những anh chị em đó.

Có một điều,mà bbt trang web Khơi nguồn này chúng tôi xin sửa lại chữ Thiền Kitô Giáo ra chữ : suy ngiệm trong lòng như Đức mẹ ôm ấp và suy nghiệm trong lòng theo cùng 1 ý đó,vì mình không nói: đi ăn cướp xấu, khác với ăn cướp tốt, mà nói:
Đi cứu người hay đi giúp người. Vả lại mình biết cái vụ Thiền này không đến từ Thiên Chúa mà từ kẻ nói lời dối trá,từ ma qủy, nên chi mình dùng chữ của Kinh Thánh là Suy gẫm về Chúa kitô ,về tình yêu và ơn cứu độ của Ngài,vì Ngài là ông tổ Chữa lành, sao lại còn đi học với ai khác hay ma qủy mà làm chi zậy ! Amen !
Tu Sĩ Giuse-Maria Trưông Văn Trung XV.
DÒNG SỨC SỐNG CHÚA KITÔ

I. HỌC NHÂN ĐIỆN

1. Gặp gỡ Soeur Minh học Phái nhân điện của thầy Lương Minh Đáng

Vào khoảng 1992, tôi được Sơ Lan nói rằng có Sơ Minh trong Dòng được dịp học nhân điện với Thầy Lương Minh Đáng ở Mỹ, và Sơ Lan tặng tôi một tập sách nói về “Nhân điện”. Sau khi đọc kỹ tập sách nhân điện, tôi đến Nhà Dòng xin gặp Sơ Minh để xin giải đáp một thắc mắc về nhân điện.

Tôi hỏi : Thưa Sơ, con đọc trong sách thấy nói rằng ai đã học nhân điện cao cấp có thể mở lớp học nhân điện sơ cấp và trung cấp, còn muốn mở cao cấp thì phải xin ý kiến của Thầy Lương Minh Đáng, nếu không xin mà tự mở lớp sẽ bị mất “điện”, có đúng như vậy không thưa Sơ ?

Sơ Minh : đúng như vậy.

Tôi hỏi tiếp: Nếu như vậy thì con thấy việc mất điện do không hỏi ý kiến của Thầy Đáng giống như việc  “dứt phép thông công” trong Công giáo mình quá; mà nếu đúng như vậy thì “cái nhân điện” mà chúng ta có đâu phải do luyện tập mà có, nhưng do một Đấng nào đó ở cõi vô hình ban cho khi chúng ta vâng lời giữ luật của họ, còn nếu không vâng không giữ luật thì Đấng ấy cất đi, Sơ thấy con nghĩ như vậy có đúng không  ?

Sơ Minh ngẩn người ra một lúc vì cái lập luận của tôi, nhưng rồi Sơ cũng nói: “Thú thật với Thầy, học nhân điện thì học chứ trong đó còn nhiều điều huyền bí lắm không hiểu hết được”

Khi Sơ Minh nói lên điều đó, tôi liền nghĩ trong lòng: “Chúa ơi ! còn nhiều điều huyền bí không hiểu hết, mà Sơ dám liều mình học nhân điện và để Thầy Đáng “khai luân xa” thì không khôn ngoan chút nào”. ( Chúa là Đường là sự thật ,rất trong sáng, chứ không huyền bí u u tối tối vậy đâu à, bbt Khơi-nguồn)

Tôi được biết Sơ đã mở nhiều lớp để dạy “Nhân điện”  và Sơ “khai luân xa ” cho nhiều người, rất đông giáo dân và  các Sơ đến học nhân điện với Sơ Minh. Không biết rõ về những điều huyền bí của một môn phái mà dám bước vào là hơi liều lĩnh rồi, lại còn phổ biến và kéo nhiều người đi vào theo mình thì thật là liều mạng quá trời rồi.

Thậm chí gần đây, tôi biết có một Nhà Dòng yêu cầu các em thỉnh sinh trước khi vào Nhà Tập phải học một nghề hoặc học nhân điện, tôi thực không hiểu vị Bề trên đó nghĩ gì khi yêu cầu họ phải học nhân điện như vậy.( Đui dắt mù lăn cù xuống hố .)

2. GẶP GỠ MỘT giáo dân Công giáo HỌC Phái nhân ĐIỆN CỦA THẦY Dasit Narada (1846-1942) ở Tích Lan (Sri Lanca)
Tháng 7 năm 2004, tôi có tổ chức tĩnh tâm năm cho một số anh chị em giáo dân ở Đan Viện Thánh Mẫu Vĩnh Phước. Khoảng 20 anh chị em tĩnh tâm ba ngày trọn, hai ngày lắng nghe giảng và thinh lặng hoàn toàn.

Ngày thứ  ba trong khi đồng hành với anh Hải, anh mới chia sẻ là anh có tập thiền theo Phái nhân điện của Thầy Dasit Narada. Anh Hải đã theo học một khoá “Nhân điện” với một Bà Thầy trình độ nhân điện cao cấp trong phái nhân điện này. Sau khoá học thì anh Hải có thể chữa bệnh, nhưng phải sau ba năm học với bà Thầy thì anh Hải mới có thể học  “trừ tà”.

Hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu nói trước khi về trời :
17 Đây là những dấu lạ sẽ đi theo những ai có lòng tin: nhân danh Thầy, họ sẽ trừ được quỷ, …

Nghe nói về “trừ tà”, tôi liền hỏi kỹ thì anh Hải nói rằng sau khi đặt tay truyền nhân điện để chữa bệnh tà nhập (giới nhân điện gọi là bệnh thần kinh giả), thì “vẽ ấn” trên luân xa số 7 (đỉnh đầu) để tà khỏi nhập lại. Anh Hải có đưa tôi xem một miếng giấy hình vuông màu vàng trên đó có một chữ, hình như chữ Phạn màu đen.

Khi xem xong tôi nói với anh:

“Anh theo tà phái rồi, vì ấn là biểu hiện của đa số các môn phái tà”.

Nghe nói vậy anh Hải lặng người đi một lát rồi hỏi tôi:
“Thưa Thầy, như vậy bây giờ em phải làm gi ?”

Tôi trả lời:
“Anh phải can đảm từ bỏ nó thôi”.

Suy nghĩ một chút anh liền đưa cho tôi miếng giấy “vẽ ấn” và nói:
“Xin Thầy giúp em từ bỏ nó”.

Tôi liền mời anh cùng tôi đọc kinh Tin Kính để tuyên xưng đức tin Công giáo, đọc kinh kính Tổng Thần Micae xin Tổng Thần Micae cầu bầu xua đuổi Xa-tan, và đặt tay cầu nguyện cho anh. Chúng tôi xin Chúa Giêsu xua trừ ảnh hưởng của tà thần ra khỏi anh. Sau đó tôi dùng lửa đốt tờ giầy “vẽ ấn” đó.

Sáng hôm sau trong nghi thức dâng mình cho Chúa Giê-su, anh chia sẻ và thú nhận thêm rằng lần đầu tiên trong mấy năm nay (có lẽ từ khi bắt đầu học nhân điện) anh thoát khỏi một cám dỗ dai dẳng về ham muốn tình dục (dù anh đã có vợ, và có con), và anh cảm nhận một niềm vui nội tâm sâu xa khi dâng mình cho Chúa Giê-su.

3. KINH NGHIỆM CỦA LINH MỤC DON CALLOWAY

Ở Mễ Du, Mẹ Đầy Ơn Phúc có đề cập đến “An bình giả tạo” trong thông điệp ngày 20/07/2006. Nữ tu Emmanuel có phỏng vấn Cha Don Calloway ở Mễ du, Cha nói về cách mà người ta bị lầm lạc hiện nay. Xin bạn vào trang http://www.childrenofmedjugorje.com/medj/reports/  07_15_06.html

3.1. Những điều huyền bí

Nữ tu Emmanuel: Xin Cha cho biết Cha phổ biến thông điệp Mễ du bằng cách nào?

Cha Don Calloway: Hầu như trong mọi lần tôi tới các giáo xứ, các điểm truyền giáo, các hội nghị, các nhóm bạn trẻ, các nhà tù. Thường khi tới những nơi đó, tôi nói những điều căn bản, như về năm hòn sỏi, nói thật đơn giản để mọi người có thể nhớ. Nhiều người đến với tôi vì thấy ma, những điều liên quan đến ma quỷ, những điều huyền bí, chúng ở nhan nhản mọi nơi. Họ tham gia các thứ như Wicca, New Age, Nhân Điện hay các môn như mát-xa, Yoga, v.v… Bạn phải bảo họ rằng những thứ đó chỉ có thể được xua trừ bằng cầu nguyện và chay tịnh. Đó là một phần của thông điệp, bạn phải làm như vậy !

3.2. Luyện tập Nhân Điện

Nữ tu Emmanuel: Thưa Cha, nhiều người đang mắc mưu trong các luyện tập Nhân Điện. Cha khuyên họ điều gì ạ?

Cha Don Calloway: Có một cuốn sách tên là “Thế Mạng cho Thần Tăm Tối” (Ransomed from Darkness). Có rất nhiều người bị những thứ như vậy lừa phỉnh, ví dụ bộ truyện Harry Porter. Bởi vậy nên tôi sẽ nói như Chúa Giêsu:
“Thà con các ngươi ngu dốt mà được vào Nước Trời còn hơn.”

Nhiều người, đặc biệt là trong các tu viện và các xứ đạo, nghĩ rằng mấy chuyện đó cũng ổn.

Yoga, Thái Cực Quyền, những thứ này không chỉ đơn giản là các môn thể dục,  mà còn là một triết lý sống mà bạn phải theo, và bạn đang cố trở nên tự mình giúp mình, hay là Đấng Cứu Độ cho chính mình, cố tự chữa lành. Không thể nào đâu! Nhiều người đã rất bối rối khi tôi nói đến những điều này.

Chuỗi Mân Côi chính là câu trả lời. Nếu bạn muốn học cách trở nên điềm tĩnh và an bình, và nếu hơi thở bạn đã trở nên đều hoà và thấy khỏe hơn, tuyệt! Nhưng nếu bạn không có một hy sinh gì đó kèm theo, thì bình an đó có thể là do ma quỷ.

4. Nhận định

4.1. “Nhân điện” không phải là tôn giáo nên dễ lôi cuốn người có tôn giáo vào Phái “Nhân điện” :

Trong tập “Tài liệu Lớp 4” của một lớp nhân điện được tổ chức tại Hoà  Lan ngày 11-12/05/1996. Khi có người hỏi : “… có phải đây là tôn giáo mới hay không ? “ (câu hỏi số 90).
Thầy Lương Minh Đáng trả lời:
“Đây không phải là tôn giáo nào hết vì tôi đâu có đưa ra điều lệ gì đâu, hay là giáo điều và luật lệ gì đâu”

Câu trả lời của Thầy Lương Minh Đáng là một câu trả lời rất hay, vì nếu nó là một tôn giáo thì các linh mục, Tu sĩ và giáo dân Công giáo thấy “Tôn giáo Nhân điện” đã chạy xa rồi, đâu có chịu để các Thầy nhân điện đặt tay lên đầu để “khai luân xa” cho họ đâu. Các thầy nhân điện nói rằng bạn cứ giữ nguyên tôn giáo của bạn, bạn vẫn cứ cầu nguyện với Chúa, với Mẹ Maria  …. nhưng chúng tôi chỉ nói về một ít điều này thôi…,

Thánh Phê-rô nhắc nhở chúng ta :

“Trong dân cũng đã từng xuất hiện những ngôn sứ giả; giữa anh em cũng vậy, sẽ có những thầy dạy giả hiệu, đó là những kẻ sẽ lén lút đưa vào những tà thuyết dẫn tới diệt vong. Vì chối bỏ vị Chúa Tể đã chuộc họ về, họ sẽ mau chóng chuốc lấy hoạ diệt vong” (2 Pr 2,1).

Như một con virus đi vào máy tính, nó từ từ làm chậm chương trình máy tính, và dần dần làm máy tính “bị treo” không làm việc được nữa. Cũng tương tự như thế, thầy Lương Minh Đáng đưa thuyết luân hồi vào những học tập ở lớp nhân điện cao cấp, nghe rồi lòng tin của bạn hơi nghiêng ngả, nhưng dần dần những điều ấy sẽ thay đổi nếp nghĩ của bạn, và lòng tin của bạn sẽ từ từ chết lịm lúc nào không hay: “treo máy !” lòng tin của bạn nơi Chúa và Giáo Hội không “khởi động” được ! ?

Hiện nay việc học “nhân điện” không còn xa lạ gì với giới Linh mục, Tu Sĩ  nam nữ và giáo dân của chúng ta. Nhiều người sốt sắng học nhân điện, mong rằng mình có thể cứu nhân độ thế, mà không biết “nghiệm xét các thần khí” (x. 1 Ga 4,1) theo lời dạy của Thánh Gio-an Tông đồ.
Vàng thau lẫn lộn,  không ai biết “cái năng lượng vũ trụ” mà giới “Nhân điện” hay nói tới đến từ Chúa hay từ Xa-tan, từ thần khí tốt (Chúa Thánh Thần) của Thiên Chúa hay thần khí xấu (tà khí) của ma quỉ.

Nghiệm xét kỹ và chịu khó đọc những kinh nghiệm thương đau của những anh chị em khác khi học nhân điện, bạn sẽ nhận ra “cái năng lượng vũ trụ”  ấy đến từ  Xa-tan.Ngoài ra Xa-tan còn cám dỗ lòng trí lại hay bị  :khao khát tìm kiếm tình cảm trai gái dù là tu hành hay không !Nhất là rất kiêu ngạo ,ta đây học biết rộng…

4.2.  Đặt tay “khai luân xa”:

Với khẩu hiệu “cứu nhân độ thế”, các thầy nhân điện hoặc những người đã học “Nhân điện” luôn miệng quảng cáo rằng các bạn được dịp xoa dịu những đau khổ bệnh tật của đồng loại ; khiến chúng ta nghĩ rằng đó là một việc rất tốt lành, thôi thì cứ  cúi đầu xuống cho họ đặt tay.
Nhưng đa số giáo dân và giới tu của Công giáo đâu biết rằng Xa-tan núp sau chiêu bài đó để thao túng chúng ta, sau khi cho chúng ta chia sẻ ít “năng quyền” mang tên “nhân điện chữa bệnh” của nó. Cái “thần khí xấu” (tà khí) mà các thầy nhân điện nhận được từ những bậc Thầy khai luân xa cho họ, giờ đây được truyền vào anh chị em qua nghi thức “khai luân xa”, và “thần khí xấu” ấy ở trong anh chị em sẽ từ từ chi phối đời sống tâm linh của anh chị em.

Linh mục Don Calloway cho chúng ta biết: “Nhiều người đến với tôi vì họ thấy ma, những điều liên quan đến ma quỷ, những điều huyền bí, chúng ở nhan nhản mọi nơi. Họ tham gia các thứ như Wicca, New Age,Nhân Điện, hay các môn như Mát-xa (massage), Yoga, Thiền v.v… >>

Như vậy nhân điện có liên quan đến ma quỉ, nên khi chúng ta thân thiện giao tiếp, hay chấp nhận cho các thầy nhân điện của Xa-tan hoặc môn đệ của họ “khai luân xa” cho chúng ta qua việc đặt tay của họ, hay nói cách khác đó là nghi thức làm cho chúng ta gia nhập làm đệ tử, làm môn đệ của  Phái “Nhân điện” hoặc “nhập pháp môn” Nhân điện.  Qua việc đặt tay “khai luân xa”, “năng lượng vũ trụ” gì đó hoặc  nói khác đi một “thần khí xấu” đi vào người được khai luân xa qua luân xa trên đỉnh đầu, và  “thần khí xấu” đó chi phối thể xác và tâm linh của người đó (kinh nghiệm của Anh Hải ở trên, và kinh nghiệm của Cha Robert Thorn ở phần sau).

Ma quỉ được dịp đi vào trong anh chị em qua việc “khai luân xa”, Xa-tan cho anh chị em  “nhân điện” hay “năng lượng vũ trụ” gì đó của nó,  để chữa bệnh cho người khác hoặc tự chữa bệnh, thậm chí cả trừ tà nữa.

Khi được “khai luân xa ”, chúng ta tự nguyện mời Xa-tan vào trong chúng ta, chứ Xa-tan không ép buộc chúng ta. Khi chúng ta chịu phép rửa tội Xa-tan bị duổi ra khỏi chúng ta qua lời nguyện trừ tà của linh mục chủ sự làm phép rửa tội. Nhà cửa tâm linh được quét dọn sạch sẽ, được trang hoàng bằng ơn thánh của Chúa Giêsu, mà giờ đây chúng ta tự nguyện mời Xa-tan vào, anh chị em hãy lắng nghe Lời Chúa nhắc nhở:

“Khi thần ơ uế xuất khỏi một người, thì nó đi rảo qua những nơi khô cháy, tìm chốn nghỉ ngơi mà tìm không ra. Bấy giờ nó nói: “Ta sẽ trở về nhà ta, nơi ta đã bỏ ra đi.” Khi đến nơi, nó thấy nhà để trống, lại được quét tước, trang hoàng hẳn hoi. Nó liền đi kéo thêm bảy thần khác dữ hơn nó, và chúng vào ở đó. Rốt cuộc, tình trạng của người ấy lại còn tệ hơn trước” (Mt 12,43-45).

4.3. Khai luân xa và hiện tượng ma nhập khi học nhân điện với thày Mai viết Nhự

Xin Bạn đọc toàn bài ở trang http://dactrung.net/phorum/tm.aspx?m=321084 , ở đây xin trích một phần nhỏ của bài viết của người lấy bút hiệu là Bác Mù:
Khoảng đầu tháng 4 năm 2007, qua lời giới thiệu của một nguời cháu ruột, hai em gái của tôi (tạm gọi là em A và em B) đã đến thọ giáo với thày Mai viết Nhự,
Thày Nhự dạy học trò môn Nhân Điện Khoa Tự Động,

Thày không có tính tiền học phí gì cả.  Thày chỉ dạy học trò trong 6 ngày, chứ không như các môn phái nhân điện khác thường phải mất nhiều thời gian hơn, có thể đến 6 tháng.  Khi đến học, thày sẽ để tay lên đầu, lên trán để mở luân xa số 7 và số 6 bằng nhân điện của chính thày.
Thày cũng mở những luân xa 5,4, 3, 2 và 1 bằng cách để tay lên vị trí những luân xa này trên sống lưng.

Trong truờng hợp em B của tôi, chỉ 5 phút sau khi thày Nhự dùng nhân điện của thày để mở luân xa cho em, B rùng mình một cái rồi hai tay B tự động chắp lại, không hề theo sự điều khiển của B, vái lạy tứ phuơng và B có thể quay nguời dẻo dai như nguời lên đồng, múa lên những đông tác mà B, môt nguời thường bị đau lưng kinh niên, không bao giờ có thể làm đuợc.  Bệnh đau lưng, mệt mỏi trong B do đi làm vất vả lại thêm cuộc hành trình xuống nhà thày Nhự từ Sài-gòn trên cái xe không êm ái, trên đọan đuờng kẹt xe như nêm như cối thốt nhiên biến sạch.

Hai em rất vui vẻ, sung suớng nghe lời thày Nhự dạy bảo là khi muốn chữa bệnh cho mình hoặc nguời khác là chỉ cần kêu “6, 7 hãy chữa bệnh này đi!” là 6, 7 (luân xa 6 và 7) sẽ làm đúng y như vậy.  Em A còn hân hoan khoe với tôi qua điện thọai là 6, 7 của em rất giỏi; có 1 hôm em sơ ý bị một hộp thịt đã mở cắt đứt tay rất sâu, máu chảy dầm dề.  Em bèn kêu 6, 7 cầm máu lại, là máu ngưng chảy liền; em kể cho tôi nghe rất hăng hái, khuyên tôi nên về Việt Nam để  đi học nhân điện ở thày Nhự để chữa bệnh tiểu đuờng vốn đã làm bạn đồng hành với tôi từ lâu năm.

Xin hết sức cẩn thận khi đi học nhân điện khoa tự động ở những người thầy như thầy Mai Viết Nhự.  Tôi không đủ dữ kiện để kết luận là thày Nhự có liên quan trực tiếp đến vấn đề tạo cầu nối giúp các hồn ma nhập vào cơ thể các học viên của Thày hay không; tôi chỉ biết là 2 cô em gái của tôi đều bị ma nhập ngay trong lúc đang học nhân điện với thày, sau khi thày mở luân xa số 6 và 7 cho hai em.

Chị K. cũng cho tôi biết là 1 số nữ tu Công Giáo cùng bị hiện tượng ma nhập sau chuyến du hành từ Mỹ về Việt Nam sau khi cũng học khóa nhân điện với thày Nhự.  Sao lại có sự trùng lập đặc biệt như thế?

Tôi mong bài viết này có thể đóng góp chút nào trong việc ngăn ngừa những trường hợp không may có thể xảy ra sau khi học nhân điện khoa tự động.

Xin các bạn, nếu có thể, đưa bài viết này của tôi ở bất cứ website hay báo chí nào trong hoặc ngoài nuớc để hy vọng thông tin này sẽ giúp ích cho nguời đọc chút nào chăng. Xin cảm ơn các bạn.  (08/06/2007, Bác Mù)

4.4. Học “Nhân điện” của Thầy Lương Minh Đáng sẽ được học về luân hồi, đầu thai chuyển kiếp ở những lớp cao cấp:

Cũng trong tập “Tài liệu Lớp 4” được nói ở trên. Khi có người hỏi : ”Khi chết linh hồn sẽ đi về đâu và sẽ ra sao ? “ (câu hỏi số 86). Thầy Lương Minh Đáng trả lời: “Khi chết linh hồn sẽ đi đầu thai liền … anh chị em sau khi chết sẽ được tái kiếp làm con người liền … ”

Nếu bạn là người Công giáo chân chính, chúng ta phải biết sống theo những gì mình tin, và biểu lộ một cách dứt khoát từ chối tin những điều không phù hợp với lòng tin của người Công giáo, với Giáo lý Công Giáo. Nếu chúng ta đọc kỹ Giáo lý  Giáo Hội Công giáo số  1005 và 1013 thì trong lòng tin của người Công giáo không có việc “đầu thai chuyển kiếp”.

 Giáo Huấn của Giáo Hội Công giáo rất rõ ràng:

+ “Muốn được phục sinh với Đức Kitô, chúng ta phải cùng chết với Người, ta phải “lìa bỏ thân xác này để được ở bên Chúa” (2 Cr 5,8).
Chết là “ra đi” (Pl 1,23), hồn lìa khỏi xác.

Hồn sẽ họp lại với xác trong ngày kẻ chết sống lại” (Sách Giáo lý Số 1005 ).

+ Chết là kết thúc cuộc lữ hành trần thế, kết thúc thời gian Thiên Chúa gia ân và thương xót để con người sống cuộc đời trần thế theo ý Chúa và quyết định số phận tối hậu của mình. Khi chấm dứt “cuộc đời trần thế duy nhất này” (x. GL 48),chúng ta sẽ không trở lại với những cuộc sống trần thế khác.

“Con người chỉ chết một lần” (Dt 9,29), không “đầu thai” sau khi chết. (Sách Giáo lý Số 1013).

Người Công giáo học “Nhân điện”, được khả năng chữa bệnh ít nhiều, thích quá, rồi cố hết sức để được học những lớp “Nhân điện” cao cấp, để được khai luân xa 100%, để được thêm nhiều nhân điện, thánh Phao-lô còn cho chúng ta biết:
“Còn việc tên gian ác xuất hiện là do tác động của Xa-tan, có kèm theo đủ thứ phép mầu, dấu lạ, điềm thiêng, và đủ mọi mưu gian chước dối, nhằm hại những kẻ phải hư mất, vì đã không đón nhận lòng yêu mến chân lý để được cứu độ ”(2 Tx 2,4-10).

Chúng ta khao khát học lên những lớp cao của nhân điện, để rồi được học những điều không phù hợp và đi ngược với niềm tin Công giáo của mình. Một lúc nào đó nếu chúng ta thành tâm xét mình, chúng ta sẽ  giật mình trong hối tiếc rằng có lẽ mình cũng dần dần tin những điều các Thầy “Nhân điện” dẫn dắt mình tin việc “đầu thai chuyển kiếp”, hoặc những tin tưởng khác không phù hợp với niềm tin Công giáo, và dần dần niềm tin nơi Chúa Giêsu của bạn dần dần tàn lụi và tắt ngúm.

Chúng ta sẽ nhận ra việc tập luyện nhân điện là một loại liệu pháp sử dụng năng lượng vũ trụ cũng như  những quyền năng nào đó bắt nguồn từ một “thần khí nào đó” không liên quan gì đến Chúa Thánh Thần; và đó chính là điều Thánh Gioan đã nói:
“Thần khí nào tuyên xưng Đức Giê-su Ki-tô là Đấng đã đến và trở nên người phàm, thì thần khí ấy bởi Thiên Chúa; còn  thần khí nào không tuyên xưng Đức Giê-su, thì không bởi Thiên Chúa; đó là thần khí của tên phản Ki-tô. Anh em đã nghe nói là nó đang tới, và hiện nay nó ở trong thế gian rồi.” (1 Ga 4,2-3).

Các Phái “Nhân điện” không tuyên xưng Đức Kitô, nhưng khi đi  sâu vào tập luyện “nhân điện” chúng ta sẽ được học tập liên quan đến việc đầu thai chuyển kiếp (như Phái Nhân điện của thầy Lưông Minh Đáng), hoặc anh em sẽ được học ở cấp cao Phái Nhân điện của thầy Dasit Narada (1846-1942) ở Sri lanca (Tích Lan), người học cao cấp sẽ được  “truyền ấn” để trừ tà (nhân điện goi là thần kinh giả).

Thánh Phaolô cho chúng ta biết:
“Thần  Khí phán rõ ràng: Vào những thời cuối cùng, một số người sẽ bỏ đức tin mà theo những thần khí lừa dối và những giáo huấn của ma quỷ; đó là vì trò giả hình của những tên nói dối mà lương tâm như bị thích dấu sắt nung” (1 Tm 4,1-2).
4.5. Việc luyện tập nhân điện với giáo phái Thời Đại Mới

Vào http://www.childrenofmedjugorje.com/medj/reports/07_15_06.html , chúng ta được biết thêm về việc luyện tập nhân điện với giáo phái Thời Đại Mới (New Age)

+  Việc tập luyện nhân điện đang lan rộng nhanh chóng và phát triển mau lẹ nhờ hoạt động của giáo phái Thời Đại Mới, New Ages. Đó là một loại liệu pháp sử dụng năng lượng vũ trụ cũng như những quyền năng nào đó bắt nguồn từ một “thần khí Siêu Nghiệm” không liên quan gì đến Chúa Thánh Thần!

+ Trong môn này, năng lượng vũ trụ xuống trên bệnh nhân bằng cách vẽ “ấn” trên họ. Rồi nhà trị liệu mường tượng như năng lượng đó đi vào anh ta qua luân xa trên đỉnh đầu, đổ đầy anh ta và qua tay anh ta đổ tràn vào bệnh nhân. Điều thực sự xảy ra là nhân điện mở cánh cửa đi vào huyền bí. Có một vài trường hợp, sức khỏe người bịnh có khá hơn, nhưng nó nhanh chóng được thay thế bằng những dấu hiệu mà thường dẫn tới việc tập luyện huyền năng, và cả chiêu hồn nữa.

+  Việc tập luyện này bao gồm những dấu “ấn” mật truyền, những câu mantra, có nguồn gốc mờ ám. Như trường hợp thường thấy trong các tập luyện của giáo phái Thời Đại Mới, nó phủ nhận sự hiện hữu của một Thiên Chúa Ngôi Vị, Đấng Tạo Dựng chúng ta, và nó tập luyện với năng lượng của một tinh thần khiếm thần. Nó được truyền cho nhau trong các khoá khai tâm (ngược với ân sủng Chúa Thánh Thần không thể tự động truyền từ người này sang người khác, nhưng chỉ đón nhận từ trên ban xuống, tùy ý Chúa định).

+  Tập luyện này không thể đi đôi với niềm tin Kitô giáo của chúng ta. Với Chúa Giêsu, không có gì là bí ẩn cả! Bởi thế, yếu tố bí ẩn trong các giáo phái không hề chứa đựng điều gì tốt lành. Những cái bẫy của nó rất tinh vi và các nghiên cứu về nó chưa từng được Công khai.

II. HỌC THIỀN

1.    Gặp gỡ một giáo dân Công giáo tập Yoga và thiền theo phái “Con Đường Chân Phúc” (Ananda Marga).

+ Năm 1996, tôi có gặp anh Chánh, một thanh niên Công giáo học Yoga và Thiền theo phái “Con đường chân phúc (Ananda Marga)” do Guru (Chân sư) Ánandamúrtijii sáng lập ở Ấn Độ. Anh tập Yoga thì thấy sức khoẻ tiến bộ rõ rệt, và tập thiền thì thấy tâm trí an định. Khi nói chuyện với anh, tôi nói rằng bên Công giáo cũng “thiền”, nhưng gọi là “nguyện ngắm” hay chiêm niệm. Tôi trao đổi với anh rằng Phật giáo hay các môn phái thiền thường tập trung tư tưởng để đạt đến một cõi tĩnh lặng, và tìm ra phật tánh, chân như, hoặc một cõi nào đó … của môn phái mình.

Còn bên Công giáo khi  nguyện ngắm hay chiêm niệm, họ cũng tập trung tư tưởng mà họ hay gọi là “cầm lòng cầm trí”, không mong tìm đạt tới một khoảng không nào cả, nhưng chỉ để gặp gỡ một Thiên Chúa sống động yêu thương họ trong Đức Giê-su mà thôi. Sau đó anh Chánh bỏ thiền theo phái Yoga, và chuyển sang nguyện ngắm  theo cách nguyện ngắm  Công giáo lấy gợi ý từ Thánh Tê-rê-xa d’Avila, và sau đó anh cảm nhận được một niềm “bình an vượt lên trên mọi hiểu biết” (x. Pl 4,7) trong ân sủng của Chúa Giê-su.

Khi thiền theo Yoga, anh Chánh được thầy dạy truyền cho một câu mantra bằng tiếng Phạn, và buộc phải thề giữ bí mật câu mantra của mình, để trợ giúp việc tập thiền được tốt hơn. Anh không ngờ rằng câu mantra đó có liên quan đến một “thần khí xấu”.  Khi anh quyết định bỏ thiền của phái “con đường chân phúc” thì cái “thần khí xấu” đâu có để cho anh yên thân, và ma quỉ đâu có dễ dàng bỏ đi như vậy, nó phải “quậy cho đã tức” vì mất một con mồi nó đã khổ công lừa đảo.

Cái “thần khí xấu” mà trước đây anh thường mời gọi nó đến qua việc đọc câu mantra của riêng mỗi người khi thiền, “thần khí xấu” đó làm anh đau bụng quằn quại. Anh cầu nguyện với Chúa Giêsu và mấy ngày sau cơn đau bụng kỳ lạ mới hết. Khi đọc kinh nghiệm của Cha Robert  Thorn, anh Chánh lại càng xác tín rằng ma quỉ đã quấy nhiễu anh qua những cơn đau bụng quằn quại. Khi anh dâng mình cho Chúa Giê-su trong tay dịu hiền của Mẹ Maria nó phải ra khỏi anh, và anh được sống an bình trong cầu nguyện.

Chúng ta được biết rằng câu Mantra (chân ngôn) là những lối đọc thánh thiêng, được lập đi lập lại trong khi cầu nguyện, trong khi thiền, hay là trong khi luyện tập bùa phép. Nó là một lời cầu khẩn với thần linh, một câu thần chú. Nó là một nhóm từ, hay một phần của bản kinh chứa đựng huyền năng.  Chúng ta còn được được biết rằng câu Mantra thường là tiếng Phạn (chú thích: tiếng Phạn là một cổ ngữ của Ấn Độ), mà không ai hiểu ý nghĩa thực của nó là gì trừ ý nghĩa được thầy dạy mình gán cho, và ý nghĩa bao giờ cũng rất là cao đẹp.

Tôi dùng chữ “gán”, bởi vì cả người dạy cũng không thực  sự biết ý nghĩa những câu mantra đó như trường hợp cha Robert Thorn với Siêu Nghiệm Thiền được kể ở dưới đây chẳng hạn.

+  Xin được trích dẫn một phần bài “Cái nguy hại của Yoga” của Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt trên Vietcatholic: trong đó chứng từ của Ông Christian-Marie, tín  hữu Công Giáo nước Pháp, ông cho biết:

Yoga là phương pháp khổ chế nhằm dẫn đưa tâm trí con người đến trạng thái của lương tâm tinh tuyền, của sự hiện hữu tinh tuyền. Đó là trạng thái mà con người ý thức về cái tôi của mình, nghĩa là về điều siêu-việt-hoá sự hiện hữu, trừu-tượng-hoá sự hiện hữu.

… Yoga khiến con người ý thức về cái-ngã, cái vô-thể, cái hoà-lẫn trong khoảng không, bởi vì, nó không có chất thể, nghĩa là không có bản thể, không có một hiện hữu nào hết từ chính nó. Nói tắt một lời, Yoga trước tiên là học thuyết của trạng thái trống không, trống rỗng tuyệt đối. Mục đích tối hậu của Yoga là dẫn đưa linh hồn con người đến chỗ hoà lẫn, hiệp nhất với cái vô thể. Thế nhưng điều này không thể nào xảy ra được,

Do đó có thể kết luận rằng:

Yoga là một phương pháp chỉ có thể thực hiện được với sự trợ giúp của các quyền lực tăm-tối của quỷ dữ. Cái hiểm nguy là ở chỗ trạng thái tinh tuyền mà Yoga muốn đạt tới trở thành đối thủ của Thần Linh và nhường chỗ cho tên Quỷ ngày xưa trong vườn địa đàng đã quyến rũ bà Evà rằng: “Các người sẽ trở thành những thần linh”!

2.  Kinh nghiệm của  Linh Mục  Robert Thorn về “Siêu nghiệm Thiền”

Siêu Nghiệm Thiền (Transcendental Meditation) là một hình thức thiền do một Yogi là Maharishi Mahesh truyền bá từ năm 1955, Ông là đệ tử của Brahmananda Saraswati. Siêu Nghiệm Thiền cũng là tên của một phong trào do Maharishi Mahesh lãnh đạo. Ông tuyên bố rằng Siêu Nghiệm Thiền được gợi hứng và rút ra từ các tập luyện mật truyền của Ấn Độ Giáo. Phong trào này cho rằng có một nghiên cứu khoa học về cơ thể cho thấy các kỹ thuật của nó tạo ra một loạt các ảnh hưởng tích cực cho cộng đồng cũng như cho các cá nhân tập luyện.

Tuy nhiên các phê phán về phong trào này đã đặt ra vấn đề về giá trị của nghiên cứu trên, cũng như bản tính của chính phong trào. Nhiều chỉ trích cho rằng phong trào Siêu Nghiệm Thiền này là một dạng sùng bái tôn giáo. (Trích từ http://en.wikipedia.org/wiki/Transcendental_Meditation).
Vào http://www.childrenofmedjugorje.com/medj/reports/07_15_06.html , chúng ta được đọc một kinh nghiệm rất sống động của Cha Robert Thorn. Trước khi là linh mục, Cha từng là huấn luyện viên môn Siêu Nghiệm Thiền, Ngài  tặng chúng ta một bằng chứng trực tiếp về niềm bình an giả tạo.

2.1. Kinh nghiệm về Siêu Nghiệm Thiền và về Mễ Du

Tôi (Cha Robert Thorn) có một người bạn thân, một người luôn rất điềm đạm và an hoà và tôi hỏi anh làm thế nào mà được như thế.

 Anh ta đáp: ‘À, tôi tập Siêu Nghiệm Thiền.’ Tôi biết một chút ít nhờ anh chỉ dạy, và quyết định tập thử. Từ khi khởi sự, tôi cảm thấy một sự an bình tràn ngập thân tôi. Tôi thực sự cảm thấy một sự bình an lớn lao lạ thường. Nó kéo tôi khỏi xì ke, vì quy trình thiền không cho phép chơi xì ke.

Cuối cùng, tôi trở thành huấn luyện viên môn Siêu Nghiệm Thiền. Vì bị anh tôi thúc quá, nên tôi đến Mễ du – chỉ như một du khách thôi – vì tò mò ấy mà. Có một đêm, trên Đồi Hiện Ra, tôi quỳ dưới chân thánh giá và thiền. Một số khách hành hương đang cầu nguyện bên cạnh.

Một người trong bọn họ bắt đầu cầu nguyện bằng tiếng lạ, và ngay khi anh ta bắt đầu thì tôi cảm thấy khó chịu ở trong ruột. Cảm thấy như mình phải nói cái gì đó. Bất thình lình tôi bật ra tiếng lạ và tôi với anh ta bắt đầu trao đổi với nhau bằng tiếng lạ! Điều này cho thấy là cả người tội lỗi cũng có thể nói tiếng lạ!

2.2. Tập thiền trong sự khống chế của quỷ dâm dục

Sau kinh nghiệm đó ở Mễ du, tôi tiếp tục công việc cũng như các chuyến du lịch,  nhưng tôi đã bắt đầu đọc Kinh Thánh và lần chuỗi Mân Côi.

Tôi vẫn còn tập thiền và cảm thấy bị phụ nữ cuốn hút không cưỡng nổi (chú thích: như trường hợp của anh Hải trong thiền của Dasit Narada). Lúc đó, tôi vẫn còn đang sống trong tội. Tôi trở lại Mễ du (trên đường đến chỗ hẹn hò với một phụ nữ Thổ Nhĩ Kỳ để làm một cuộc chạy trốn đầy lãng mạn ở Istanbul).

Sau một vài ngày, tôi bỏ luôn các dự định còn lại để ở lại Mễ du. Vào một tối nọ, tôi được một cảm nghiệm khi tham dự nghi thức chữa lành ở trong nhà thờ ngay sau thánh lễ. Tôi đang quỳ gối, tưởng tượng như Máu Đức Kitô đang đổ tràn trên tôi. Tôi nhắm mắt lại và bất thình lình tôi nhìn thấy một con vật đen thui xấu xí, một thứ gì đó giữa cua càng và ong, đi qua lại trước con mắt tâm trí tôi.

Tôi nói theo bản năng: ‘Đó là một thần khí xấu. Tôi cần thoát khỏi nó’. Khi một linh mục nghe tôi xưng tội về chuyện đó, ngài nói: ‘Á à, nghe hấp dẫn chứ nhỉ. Kể tôi nghe anh có ăn chay không?’ Tôi đáp: ‘Dạ, có’ và vị linh mục nói tiếp: ‘Tốt, vì quyền năng của Chúa Thánh Thần sẽ mạnh hơn khi anh có ăn chay.’

2.3. Xa-tan vùng vẫy trước khi phải  ra đi

Vị linh mục đó trừ được quỷ và vì thế, qua một đêm dài sốt sắng cầu nguyện, chúng tôi từ bỏ mọi gắn bó với những thần khí xấu ở bên trong tôi nhân danh Chúa Giêsu Kitô. Tôi cảm thấy đau đớn lạ thường ở trong ruột (chú thích: như trường hợp của anh Chánh học Yoga và thiền theo phái “Con đường chân phúc (Ananda Marga)”.

Nó bắt đầu thoát khỏi cổ họng tôi giống như bị ợ chua liên tục, có lúc tôi thực sự nhìn thấy một luồng khí thoát ra ngay khỏi miệng tôi ! Tôi bị lê trên sàn nhà trong khi vị linh mục rảy nước phép trên người tôi, ngài đặt tượng chịu nạn trên bụng tôi và tôi đau đớn kinh khủng.

2.4. Ý nghĩa của câu mantra liên quan đến quỷ dâm dục

Có một lúc trong đêm hôm đó, khi vị linh mục ra lệnh: ‘Nhân danh Chúa Giêsu Kitô, mày là ai?’ Tôi thấy mình đang đọc câu mantra (chân ngôn) của tôi khi thiền. Đọc lớn câu mantra là điều cấm kỵ vì như thế là làm suy yếu sức mạnh của nó để đem bạn vào “bên trong”. Vì thế điều làm tôi ngạc nhiên là chính tôi lại đọc nó ra.

Sau này tôi hỏi vị linh mục xem có gì sai trái với Siêu Nghiệm Thiền không và tôi giải thích cho Ngài biết cái mà tôi đọc ra là câu mantra dùng khi thiền của tôi. Ngài nói: ‘À, nó có phản ứng với quyền năng và thẩm quyền của Chúa Giêsu Kitô đấy!’ Sau này, cả hai chúng tôi khám phá ra ý nghĩa của câu mantra đó- đó là quỷ dâm dục. Vào một lúc khác trong đêm đó, tên của một trong những con quỷ là tên của một vị chân sư trong Siêu Nghiệm Thiền!

3. Kinh nghiệm về thế mạng cho thần tăm tối

3.1. Cuốn sách “Thế Mạng cho Thần Tăm Tối” (Ransomed from Darkness)
Cuốn sách “Thế Mạng cho Thần Tăm Tối” nói về :
– Giáo phái Thời Đại Mới, về:
– Đức Tin Kitô giáo và :
– Cuộc Chiến vì Các Linh Hồn.

Tác giả là Moira Noonan, một người Công giáo, đã có 25 năm kinh nghiệm về huyền bí.
Bà làm việc trong cơ quan Khoa Học về Tôn giáo với tư cách là một chuyên viên tâm lý và đào sâu chuyên môn trong các lãnh vực như :
–    thôi miên trị liệu,
–    tử vi,
–    tiến trình các phép lạ,
–    nhân điện,
–    đồng bóng,
–    bói quả cầu pha lê,
–    các Bà Chúa,
–    thấu thị, và
–    các tập luyện huyền bí khác…

3.2. Sau hàng loạt cảm nghiệm hối cải mạnh mẽ, bao gồm cả Mễ du, bà trở lại đạo

Hiện giờ bà Moira Noonan đang làm chứng, rao giảng Tin Mừng, và giải thích ý nghĩa sâu xa cũng như ảnh hưởng của phong trào Thời Đại Mới. Sách trên kể lại hành trình tập luyện và từ bỏ huyền năng của bà, và cũng chứa đựng các quan sát của bà về phong trào Thời Đại Mới, các mối nguy hiểm của nó, cũng như cách mà các tư tưởng Thời Đại Mới thâm nhập vào trong Giáo Hội.

Mời bạn đọc kỹ hơn ở trang web http://www.childrenofmedjugorje.com/medj/reports/07_15_06.html

3.3. Bói toán và ma thuật

Sách Giáo lý Công giáo số 2116 và 2117 cho chúng ta biết:

+ Bói toán:
Phải loại bỏ mọi hình thức Bói toán :
Cậy nhờ Xa-tan hay ma quỉ,
Gọi hồn người chết hay những cách khác ngỡ rằng sẽ đoán được tương lai .

10 giữa anh (em), không được thấy ai làm lễ thiêu con trai hoặc con gái mình, không được thấy ai làm nghề bói toán, chiêm tinh, tướng số, phù thuỷ,11 bỏ bùa, ngồi đồng ngồi cốt, chiêu hồn.  ( x. Ðnl 18,10-11); 8 Quả vậy, ĐỨC CHÚA các đạo binh, Thiên Chúa Ít-ra-en, phán như sau:
Các ngươi chớ để cho mình bị lầm lạc vì các ngôn sứ đang ở giữa các ngươi, cũng như vì các tay bói toán; đừng tin theo mộng mị các ngươi mơ thấy,9 bởi vì chúng chỉ nhân danh Ta mà tuyên sấm điều dối trá cho các ngươi. Ta chẳng hề sai chúng – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.Gr 29,8 ).

Coi  tử vi, chiêm tinh, xem chỉ tay, giải điều mộng, xin xăm, Bói toán quá khứ vị lai, đồng bóng, là những hình thức che giấu ước muốn có quyền trên thời gian, trên lịch sử và trên cả con người, cũng như ước muốn liên kết với các thế lực huyền bí, điều này nghịch lại với lòng tôn kính và thần phục chỉ dành cho Thiên Chúa.(số 2116)

+  Ma thuật hay pháp thuật: Ai muốn dùng ma  thuật hay pháp thuật để chế ngự các thế lực huyền bí, bắt chúng phục vụ mình và nắm được quyền lực siêu phàm trên người khác dù là để chữa bệnh, cũng lỗi nặng nhân đức thờ phượng.

Các việc này càng đáng lên án hơn nữa khi có dụng ý hại người, hay nhờ đến sự can thiệp của ma quỉ.
Mang bùa cũng là điều đáng trách.
Chiêu hồn thường đi kèm cả Bói toán hay ma thuật.

Hội Thánh cảnh giác các tín hữu phải xa lánh các điều ấy.

Khi dùng các phưông thuốc gia truyền:
không được kêu cầu các thế lực ma quỉ cũng như lợi dụng sự nhẹ dạ của người khác.(số 2117)

4. NHẬN ĐỊNH:

Kịch bản mới (ngày nay),
Diễn viên cũ (Xa-tan )

4.1. Xa-tan ngày xưa (địa đàng)

“Khi ma quỉ nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì ma quỉ là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối.” (Ga 8,44b). Xưa kia trong vườn địa đàng Xa-tan lấy hình con rắn dụ dỗ ba E-và ăn trái cấm, ngày nay Xa-tan lừa dối chúng ta qua “tuyệt  chiêu” đã dùng để lừa dối bà E-và trong vườn địa đàng xưa, khi Bà E-và khao khát một quyền năng, một dạng “năng lượng vũ trụ” ngày nay, để trở nên như vị thần, và khi đã là “thần” bà E-và không còn phải lệ thuộc vào Thiên Chúa nữa. Bà E-và nghe Xa-tan phỉnh gạt nói: 
“… ông bà sẽ nên như những vị thần” (St 3,5),
kết quả là con người phải chết. Chúa Giê-su đã lên án Xa-tan:
“Ngay từ đầu, ma quỉ đã là tên sát nhân” (Ga 8,44a).

Xa-tan có thể ban cho chúng ta một thứ quyền năng nào đó, nhưng  “quyền năng” hoặc “năng lượng vũ trụ” ấy không liên quan gì đến Chúa, nhưng liên quan đến sự dối trá của Xa-tan vì “Nó đã không đứng về phía sự thật, vì sự thật không ở trong nó” (Ga 8,44a).

4.2. Xa-tan ngày nay (thế kỷ 20 và 21)

Trong các giáo phái ngày nay (thế kỷ 20 và 21), Xa-tan không hiện ra dưới hình một con rắn, vì người ta sẽ sợ hãi mà co chân chạy trốn ngay; nhưng Xa-tan mặc áo cà sa và cầm thiền trượng, nó xuất hiện như một vị Thiền Sư đắc đạo, hay một Chân sư (Guru). Vị thiền sư hay Guru này được con người ngày nay tiếp nhận một cách nhiệt thành với những kỹ thuật tập luyện để tăng cao sức khoẻ (yoga, khí Công), hay có khả năng khai luân xa cho người khác có “Nhân điện” để cứu nhân độ thế.

Dù là hình thức “Nhân điện” hay “thiền”, các bậc thầy luôn luôn dẫn người theo học họ đến một “cách thiền” nào đó để đat tới một sự hoàn thiện nào đó trong Yoga, hoặc thiền, hoặc để có được nhiều  “nhân điện” hơn. Bạn muốn tiến xa hơn trong thiền thường bạn phải được một chân sư dìu dắt.

Cha Robert Thorn cho chúng ta kinh nghiệm của Ngài :
“Khi nhớ lại và xem xét mọi giáo huấn của Siêu Nghiệm Thiền,
thình lình mọi chuyện đối với tôi trở nên rõ ràng như ban ngày,
những chuyện họ nói đều là ma quỷ!.

Cái bình an mà bạn cảm nghiệm qua thiền là một thứ bình an giả tạo, quy về chính mình”. Trong khi chúng ta phải quy về Chúa Giêsu Kitô mà thôi ! Các đấng tu hành,các nhà dòng thay vì tìm học về Lời Chúa để đi làm chữa lành trừ qủy ,trừ ma bệnh như Chúa, như các tông đồ khi xưa,  lại đi học cách chữa bệnh của những ma đầu đaị diện cho satan, thì làm sao mà không bị kống chế bởi tà thần dâm dục, xác thịt, thèm khát tình cảm trai gái, gian dâm, rất kiêu ngạo…vì đã tự động rước nó vào con người mình rồi “Quân này thờ ta bằng môi miếng , nhưng lòng nó xa ta

III. LỠ HỌC ‘NHÂN ĐIỆN’ VÀ “TẬP THIỀN” CÙA TÀ KHÍ (SA-TAN) LÀM SAO THOÁT RA ?

1.    BẠN SẼ THẮC MẮC :
2.    Tôi học nhân điện, tôi chữa bệnh cứu giúp người bệnh và
3.    Tôi vẫn giữ đạo bình thường, có thấy gì thay đổi gì đâu ?
4.     Sao ông Thầy nói nghe ghê quá VẬY !

Nhiều người sẽ nói rằng tôi đã tập luyện nhân điện và chữa bằng nhân điện từ nhiều năm nay mà đâu có thấy gì. Bạn không thấy gì là tại bạn chưa nghiệm xét kỹ đấy thôi:

“Vì họ nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe không hiểu.

Thế là đối với họ đã ứng nghiệm lời sấm của ngôn sứ I-sai-a, rằng:
Các ngươi có lắng tai nghe cũng chẳng hiểu, có trố mắt nhìn cũng chẳng thấy” (Mt 13,13-14)
Nếu nghiệm xét kỹ bạn sẽ phát hiện ra “bình an giả tạo” và “sự trì trệ từ từ” của đời sống đạo đức và bị đam mê trì kéo.

1.1.    Sự bình an giả tạo sẽ đánh lừa bạn:

“Ta biết các việc ngươi làm, biết ngươi được tiếng là đang sống, mà thực ra đã chết.
Hãy tỉnh thức ! Hãy củng cố chút sức còn lại đang suy tàn, vì Ta nhận thấy các việc của ngươi không được hoàn hảo trước mặt Thiên Chúa của Ta. (Kh 3,1b-2)”.
Tinh thần ích kỷ chỉ lo tập luyện để để được bình an nội tâm cho mình, cha Robert Thorn chia sẻ về Siêu Nghiệm Thiền (hoặc môn thiền nhân điện cũng vậy thôi): “Trong Siêu Nghiệm Thiền, bạn sẽ cảm thấy bạn có tất cả mọi thứ bạn muốn được thỏa mãn, vì bạn đi vào lãnh vực này và ma quỷ cung cấp cho bạn mọi thứ bạn cần. Và dĩ nhiên là ma quỷ sẽ chu cấp mọi nhu cầu của bạn vì mỗi khi bạn thiền, bạn mơn trớn vuốt ve chúng và ma quỷ muốn bạn còn tiếp tục thiền trong môn phái của nó! Cái bình an mà bạn cảm nghiệm qua thiền là một thứ bình an giả tạo, quy về chính mình. Bạn chỉ ve vuốt cái TÔI của chính mình và rồi bạn thấy thoải mái. Bạn không nhận ra rằng bạn đang biến thành “kẻ chống lại Chúa Giêsu”, như người ta thường nói! Còn bình an thực sự chỉ được Thiên Chúa tuôn đổ xuống trên bạn khi bạn hướng về Ngài mà thôi. Thay vào đó, Siêu Nghiệm Thiền hoàn toàn là tự mãn”.

1.2.    “Sự trì trệ từ từ” xuống cấp của đời sống đạo đức và bị đam mê trì kéo

Trường hợp anh Hải trong câu chuyện trên, hoặc kinh nghiệm của cha Robert Thorn tập Siêu Nghiệm Thiền trước khi làm linh mục ; anh Hải tuy vẫn đi nhà thờ, nhưng anh vẫn khổ sở vì một ham muốn tình dục cứ như đốt cháy tâm hồn và thân xác anh. Anh chỉ thoát khỏi những ham muốn tình dục của Xa-tan khi dâng mình cho Chúa Giê-su và anh được Chúa Giêsu ban tặng bình an của Ngài, chứ không phải của Xa-tan.

 Hãy nhớ lời của Chúa Giêsu
“Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng” (Ga 14,27).
Nếu bạn để ý kỹ lòng tin của bạn bị “xói mòn” từ từ, lòng mến với Chúa Giê-su dần dần nhạt nhẽo với tình trạng “chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng” :
“Ta biết các việc ngươi làm: ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta. Ngươi nói:
“Tôi giàu có, tôi đã làm giàu, tôi chẳng thiếu thốn chi”; nhưng ngươi không biết rằng ngươi là kẻ khốn nạn, đáng thương, nghèo khổ, đui mù và trần truồng” (Kh 3,15-17).

2. NHẬN ĐỊNH

2.1. Không phải bất cứ lối tập luyện nhân điện nào cũng bởi ma quỉ

Bạn có thể đã tập những môn khí Công, những môn dưỡng sinh để tăng thể lực và nội lực hoặc nội công, nhưng môn khí Công hoặc dưỡng sinh nào dẫn bạn đến một CÁCH THỨC “Thiền” thì bạn nên để ý, nhất là khi học lên cao với những dẫn dắt của các thầy dạy “Nhân điện”  sẽ dẫn bạn xa dần niềm tin  Công giáo, thì bạn hãy nghiệm xét lại cách tập của bạn dựa trên những chỉ dẫn của Chúa Giê-su trong Tân Ước, các thư của Thánh Gio-an, Thánh Phao-lô, Thánh Phê-rô ….  để :
“Nghiệm xét các thần khí” (1 Ga 4,1).

2.2. Bạn phải thực sự cảnh giác

+ Bạn phải thực sự cảnh giác với những cách luyện tập “Nhân điện” mà nhân điện đó do một loại liệu pháp sử dụng năng lượng vũ trụ cũng như những quyền năng nào đó và bắt nguồn từ một “thần khí Siêu Nghiệm”; không liên quan gì đến Chúa Thánh Thần.

+ Bạn phải thực sự cảnh giác với những cách tập luyện “Nhân điện” của bạn có những dấu “ấn” mật truyền, những câu mantra, có nguồn gốc mờ ám như trường hợp:

Anh Hải được “truyền ấn” với phái nhân điện của Thầy Dasit Narada,
Anh Chánh với câu mantra của  “Con đường chân phúc”,

Cha Robert Thorn với câu mantra của Siêu nghiệm  thiền.

+ Bạn là người Công giáo, bạn phải thực sự cảnh giác với những cách tập luyện “Nhân điện” của bạn có những dẫn dắt tới những thuyết không phù hợp với niềm tin Công giáo như thuyết luân hồi, đầu thai chuyển kiếp …. như trong phái nhân điện của Thầy Lương Minh Đáng chẳng hạn.

+ Bạn phải xét lại cách tập luyện của bạn nếu các tập luyện của bạn dẫn tới việc thôi miên trị liệu, nhớ lại tiền kiếp, tử vi, nhân điện, đồng bóng, Bói quả cầu pha lê, cái Pyramide: Kim tự Tháp,tấm giấy chứng nhận…các Bà Chúa, thấu thị, và các tập luyện huyền bí khác như kinh nghiệm từ bỏ huyền năng của bà Moira Noonan trong cuốn “Thế mạng cho Thần Tăm Tối”.

3. LÀM SAO THOÁT RA KHỎI CÁI ÁCH CỦA SA-TAN ?

Nếu bạn đã học “Nhân điện” hoặc “tập thiền”,Yoga… bạn hãy chân thành tự nghiệm xét nơi mình, bạn phải thực sự xét lại khi có sự trì trệ trong lòng tin, lòng mến, và bạn bị lôi cuốn bởi các đam mê xấu:

“Nhưng Ta trách ngươi điều này:
ngươi đã để mất tình yêu thuở ban đầu. Vậy hãy nhớ lại xem ngươi đã từ đâu rơi xuống, hãy hối cải và làm những việc ngươi đã làm thuở ban đầu. Bằng không, Ta đến với ngươi, và Ta sẽ đem cây đèn của ngươi ra khỏi chỗ của nó, nếu ngươi không hối cải ” (Kh 2,4-5).

Nếu bạn thấy những kinh nghiệm về “Nhân điện” và “tập thiền”  của những anh chị em (Cha Don Calloway, Cha Robert Thorn, anh Hải, Anh Chánh, bà Moira Noonan …) trong bài viết này soi sáng cho cách “tập thiền” và “nhân điện” của bạn; khi bạn nhận ra một “thần khí xấu” đang dẫn dắt bạn,  và  bạn muốn thoát ra khỏi cái  ách của Xa-tan và đón nhận cái ách êm  ái và nhẹ nhàng của Chúa Giê-su:
“Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường.
Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,29) ;
tôi xin chân thành đề nghị với bạn những cách sau:

3.1. Bạn hãy cầu nguyện và ăn chay

Cha Don Calloway cho chúng ta một kinh nghiệm xua trừ: Bạn phải bảo họ rằng những thứ đó (Wicca, New Age, Nhân Điện, Yoga , Thiền… ) chỉ có thể được xua trừ bằng cầu nguyện và chay tịnh:
“các môn đệ mới hỏi riêng Đức Giê-su: “Tại sao chúng con đây lại không trừ nổi tên quỷ ấy?” Người đáp: “Giống quỷ ấy, chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi” (Mc 9,28-29).

3.2. Bạn hãy đến với một Cộng Đoàn tràn đầy Thần Khí

Bạn xin cộng đoàn cầu nguyện cho bạn: Nếu Thần Khí vào,thì tà khí của ma quỉ phải đi ra thôi, khi Cộng Đoàn hiệp nhất trong Chúa Kitô, Ngài ở giữa họ và chính Chúa Giê-su xua trừ tà thần hoặc thần khí xấu ra khỏi bạn.

3.3. Bạn hãy đến gặp một linh mục tràn đầy Thần Khí

Bạn xin linh mục tràn đầy Thần Khí cầu nguyện và xua trừ ma quỉ ra khỏi bạn: như trường hợp Cha Robert Thorn trước khi làm linh mục ở Mễ Du.
Xin chúc bạn đi sâu vào cầu nguyện và thực sự gặp gỡ Chúa Kitô. Bạn sẽ cảm nhận “bình an của Thiên Chúa, bình an vượt lên trên mọi hiểu biết, sẽ giữ cho lòng trí bạn được kết hợp với Đức Ki-tô Giê-su” (x. Pl 4,  )

Kinh Nghiệm qua các khóa học hỏi về Lòng thương xót Chúa do Cha JB Đinh T Sơn huấn luyện đã có nhiều trường hợp được chữa lành  trừ tà ma qủy hết tại chỗ qua ca ngợi thờ phượng trong Danh Giêsu, Cha đã mở các khóa ở các nhà dòng Xitô Vũng Tàu , Long Thành, Phan Thiết, nhà thờ Tân Định, Trung Tâm Mục Vu SàiGòn, Nữ Vương Hòa Bình, Gò Vấp,Thủ Đức, vùng U Minh, nhà thờ Đông Hòa Kiên Giang.

Tu Sĩ Giuse-Maria Trương Văn Trung XV

Bán Lược Cho Sư

 Bán Lược Cho Sư

http://www.youtube.com/watch?v=ZrnSeTbf7dY&feature=related

 Một công ty nọ muốn tuyển người bán hàng giỏi đã trao cho mỗi người trong hàng trăm ứng viên, 100 chiếc lược và đề nghị họ đến các chùa để bán. Cái oái oăm là ở chùa sư đã xuống tóc, làm gì có nhu cầu sử dụng lược. Mà không có nhu cầu thì sao bán được hàng. Hàng trăm người đã ra đi nhưng hầu hết bó tay.

Tuy thế có 3 người bán được hàng. Người thứ nhất mang lược đến chùa vừa chào hàng đã bị các vị sư mắng là diễu cợt họ. Nhưng anh này vẫn cắn răng chịu đứng cầu xin họ mua lược. Cuối cùng, một vị sư thương tình mua giùm một chiếc lược. Người thứ hai, sau khi đi vòng quanh một ngôi chùa trên núi, tóc bị gió thổi tung xác xơ, anh ta xin gặp sư trụ trì.

Ðược gặp, anh ta chắp tay niệm “nam mô” và thưa rằng: Trên núi cao gió thổi mạnh, các thiện nam tín nữ đến đây dâng hương mà tóc tai rối bù, e không thành kính trước cửa Phật. Xin nhà chùa chuẩn bị một vài chiếc lược để trước lúc dâng hương các phật tử chải tóc cho gọn gàng, không bù rối. Nghe anh ta nói có lý, sư trụ trì đồng ý mua lược. Nhà chùa có 10 lư hương nên mua 10 chiếc lược cho anh ta. Còn người thứ 3, anh ta đến thẳng ngôi chùa lớn nhất vùng quanh năm hương khói nghi ngút.

Anh xin gặp thượng toạ trụ trì mà thưa rằng: “Bạch thầy, chùa ta lớn nhất vùng, ngày nào cũng có hàng trăm tín đồ đến thắp hương. Phàm là người dâng hương, ai cũng có tấm lòng thành cúng quả. Chùa lớn như chùa ta, thiết tưởng cũng nên có chút tặng phẩm khuyến khích người làm việc thiện. Con có mang theo ít lược của công ty. Thầy có thư pháp hơn người, xin viết lên lược 3 chữ “Lược tích thiện” làm tặng phẩm. Món quà này thật nhiều ý nghĩa”. Nhà chùa nghe ra, cũng hứng thú và mua liền 100 chiếc lược làm quà.

Như vậy, trong 3 người bán lược cho sư, công ty đánh giá họ thế nào?

Người thứ nhất thuộc mẫu bán hàng cổ điển, cần cù nhẫn nại và kiên trì. Người thứ hai có năng lực quan sát, suy đoán sự việc, dám nghĩ dám làm. Còn người thứ ba, anh ta nghiên cứu phân tích kỹ nhu cầu và tâm lý của đám đông, có ý tưởng tốt, lại có giải pháp cụ thể nên đã mở ra một thị trường tốt cho sản phẩm. Ðây xứng đáng là người bán hàng giỏi của công ty. Anh ta đã được tuyển mộ làm phụ trách bán hàng.

Nhờ có “Lược tích thiện” làm quà tặng mà một đồn mười, mười đồn trăm, dân chúng đổ về đây dâng hương rất đông, danh tiếng chùa càng lừng lẫy và phương trượng chùa đã ký hợp động mua hàng nghìn chiếc lược của công ty. Rõ ràng, ở một nơi tưởng như không có nhu cầu, nếu chịu khó quan sát, phân tích các mối quan hệ, sẽ có thể phát hiện nhu cầu hoặc tìm cách kích cầu để bán hàng.

Do vậy HÃY LUÔN THỬ THÁCH NĂNG LỰC CHÍNH MÌNH TRƯỚC NHỮNG VẤN ĐỀ TƯỞNG CHỨNG KHÔNG THỂ GIẢI QUYẾT ĐƯỢC, BẠN SẼ TẠO RA SỰ ĐỘT PHÁ!

Vấn đề khó ở chỗ là tìm không ra được “nguyên nhân bản chất” của vấn đề. Khi hiểu được vấn đề chính, chúng ta cần một ý tưởng để “hóa giải”. Do vậy làm gì cũng cần hiểu 2 vấn đề:

1. Nguyên nhân đích thực là gì?

2. Ý tưởng (giải pháp) để thực hiện?

Nguồn: www.yume.vn

ĐẠO CHÚA VỚI LUÂN HỒI

                                                                                           tác giả PHÙNG VĂN HOÁ

 Trong giới trí thức Phương Tây ít năm gần đây, người ta háo hức chạy theo Phật Giáo và tỏ ra rất hâm mộ Thuyết Luân Hồi vì cho rằng chỉ có nó mới có thể giải quyết được rốt ráo vấn đề sinh tử, tử sinh của con người. Trước tình hình không mấy sáng sủa đó, những người tha thiết với việc bảo vệ Đức Tin Công Giáo không  thể thờ ơ. Mới đây, để chuẩn bị cho Đại Lễ Phục Sinh, Đức Hồng Y Godfried Daneels, Tổng Giám Mục Malines ( Bỉ ) đã cho phổ biến Thư Mục Vụ mang tựa đề “Bên kia cõi chết” trong đó ngài  nhấn mạnh những khác biệt căn bản giữa Đức tin Kitô Giáo vào sự Phục Sinh và niềm tin vào Luân Hồi” ( KinhThanhvn.com ).

 Để có thể nhận ra  sự khác biệt ấy là như thế nào, thiết nghĩ cũng cần nên biết quan điểm của Thư Mục Vụ về cả hai lãnh vực Phục Sinh và Luân Hồi.

Về  sự Phục Sinh được đề cập thì đây không phải sự Sống Lại của Đức Kitô nhưng là của mọi con người sau khi chết. “Cái chết không có nghĩa là sự  kết  thúc của hữu thể nhân loại, họ vẫn tiếp tục sống bên cạnh Thiên Chúa là Đấng đưa họ vào mãi mãi  trong cuộc  sống mới cùng với một thân xác được tôn vinh, tất cả những điều này vì cái chết và sự Phục Sinh của Đức Kitô. Đấng không ở lại trong mồ nhưng quyền uy  Thiên Chúa đã làm cho Ngài về lại  cõi sống” ( KinhThanhvn.org ).

 Còn đây là  cái hiểu về Luân Hồi: “Sau khi chết, hữu thể nhân loại trở về lại cuộc sống dương thế nhưng là trong một thân xác khác. Tiến trình này thay đi đổi lại một số lần không xác định được, như vậy có khả năng “làm lại cuộc đời” ( KinhThanhvn.org ).

      Ta có thể tóm kết sự khác biệt ấy  thế này:

Phục Sinh  dược hiểu  như là con người chỉ sống có một kiếp sống. và sau khi chết đều được về sống bên cạnh Thiên Chúa. Còn Luân Hồi thì phải trải qua vô số kiếp không thể xác định.

Lập luận sau khi chết, con người đều được phục sinh còn được khẳng định thêm một lần nữa: “Sau cuộc sống trần thế này, cuộc sống duy nhất và không còn tái hiện nữa. Thiên Chúa  sẽ hồi sinh chúng ta, mỗi người theo cách cá nhân như Người đã làm cho Con của Người. Vì Người yêu mỗi người chúng ta theo từng cá thể, và tất cả chúng ta trong mắt Người đều mang một danh tính duy nhất. Chúng ta  không phải là một hạt ngọc trai ở vòng cổ gồm những cuộc tái sinh  không ngừng diễn ra để rồi không ngừng tiến đến cái chết. Cái chết  đã bị Đức Kitô  đánh bại một lần cho tất cả. Vì thế chúng ta được giải thoát khỏi sự chết và khỏi mọi sự luân hồi” ( KinhThanhvn.org ).

 Vấn đề có hay không sự khác biệt giữa Phục Sinh và Luân Hồi sẽ được bàn tới sau. Nhưng nếu bảo rằng Đức Kitô đến để giải thoát tất cả  khỏi sự chết và khỏi mọi sự luân hồi là điều không thể chấp nhận. Tại sao ? Bởi như thế  là chẳng hiểu một chút chi cả về Phục Sinh lẫn Luân Hồi.

      Đức Kitô đến cõi thế như  lời Ngài  nói, mục đích là để rao giảng Tin Mừng Nước Trời ( Lc 4, 42 – 43 )  và Nước Trời ấy là nước mầu nhiệm nội tại, cần phải hết sức nỗ lực mới có thể vào “Luật pháp và tiên tri đến Gioan là hết. Rồi từ đó Tin Mừng Nước Trời  được rao giảng và ai nấy đều phải nỗ lực mà vào” ( Lc 16, 16 ).  Chúa đến rao giảng Tin Mừng Nước Trời là để cho ta biết tìm đường mà  “VÀO” ( Thể Nhập ), chứ làm gì có cái chuyện cứu tất cả  ra khỏi luân hồi ?

 Luân Hồi là một luật và luật này bao quát trong cả hai lãnh vực vô tình cũng như hữu tình. Quả đất xoay quanh cái trục nghiêng của  chính nó, đồng thời quanh mặt trời. Phía hướng về mặt trời  thì sáng, phía bị khuất thì tối. Hết tối lại sáng, hết sáng lại tối, đó là luân hồi. Ngoài ra còn có bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông xoay vần đắp đổi, đó là luân hồi. Hạt gieo xuống  nảy mầm thành cây, cây ra hoa kết quả, quả lại được gieo xuống  để nảy mầm thành cây, đó là luân hồi. Thở ra  rồi lại hít vào, hít vào rồi lại thở ra, đó là luân hồi.

 Đấy là trong giới vô tình, còn trong giới hữu tình thì luân hồi lại gắn liền với nghiệp báo gọi là nghiệp báo luân hồi. Tạo nghiệp thiện sẽ được  quả thiện, tạo nghiệp ác sẽ gặp quả ác v.v… Luân hồi là một định luật mà hễ đã là luật thì không bao giờ có thể thay đổi.  Đức Kitô đến không phải để  phá luật: “Chớ tưởng Ta đến để phá luật pháp hoặc ngôn sứ. Ta đến không phải để phá đâu nhưng là để kiện toàn” ( Mt  5, 17 ).

Vả lại, chính Chúa cũng công nhận luật luân hồi  khi Ngài ám chỉ việc Ngôn Sứ Elia tái sinh nơi Gioan Baotixita ( Mt 17, 10 – 13 ).  Chúa đến không phải để phá luật  nhưng kiện toàn, nghĩa là  Ngài đem lại  cho việc thi hành luật một giá trị mới,  đó là  thể nhập ( VÀO )  Nước Trời ở nơi mỗi một tâm hồn.

 Điều kiện thiết yếu cho việc  thể nhập ấy, trước hết là cần phải tái sinh. Đức Kitô nói  với Nicôđêmô:  “Quả thật, Ta nói cùng ngươi, nếu ai không tái sinh thì không thể  thấy được Nước Trời” ( Ga 3, 3 ). Tái sinh là sinh lại, đồng thời cũng tức là Phục Sinh. Chúa nói bất cứ ai  cũng phải tái sinh mới  vào được Nước Trời,  chứ không phải hễ cứ chết là  được  phục sinh về sống bên cạnh Thiên Chúa đâu ?  Phục sinh  tức là tái sinh nhưng nghĩa tái sinh của Đạo Chúa hoàn toàn không phải là luân hồi.

       I.  Phân biệt  tái sinh và luân hồi nghiệp quả

      Tái sinh theo như ý của Chúa muốn nói là điều rất khó để mà tiếp nhận. Sau khi  nghe Chúa  nói con  người cần phải tái sinh mới thấy được Nuớc Trời  thì Nicôđêmô nêu ngay thắc mắc: “Người đã già thì làm sao sinh ra được ? Có thể nào vào lòng mẹ lần thứ hai mà sinh ra được  nữa sao ? ( Ga 3, 4 ).  Trước câu hỏi hết sức ngớ ngẩn ấy, Đức Kitô  một lần nữa  quả quyết và lần này giải thích có phần rộng rãi hơn: “Nếu người nào chẳng bởi nước và Thánh linh mà sinh thì không thể vào Nước Trời được. Hễ chi sinh bởi xác thịt là xác thịt, hễ chi sinh bởi Thánh Linh là Thánh Linh. Chớ lấy làm lạ vì cớ Ta đã nói với các ngươi.  Các ngươi cần phải tái sinh,  gió muốn thổi đâu thì thổi, ngươi nghe tiếng nó nhưng chẳng biết nó đến từ đâu và đi đâu. Hễ người nào sinh bởi Thánh Linh thì cũng như vậy” ( Ga 3, 5 – 8 ).

Việc tái sinh của mỗi một tín hữu cần phải được thực hiện thông qua Bí Tích Rửa Tội. Phép Rửa này có người thắc mắc, vừa mới sinh ra thì nào đã có tội tình gì  đâu mà phải… rửa ?  Nghe vậy xem chừng có lý, thế nên có ai đó đề nghị  thay  cho rửa tội  thì nên gọi là nghi lễ nhập đạo.  Thế nhưng giải như  vậy là chưa hiểu được tính chất sâu xa của Bí Tích mà chính Chúa cũng đã lãnh nhận  bởi Gioan Tiền Hô: “Song Gioan  ngăn cản mà rằng: Chính tôi cần Ngài làm phép rửa mà Ngài lại đến cùng tôi sao ? Chúa đáp: Bây giờ hãy làm đi, vì chúng ta đáng phải hòan tất  mọi điều công chính như thế” ( Mt 3, 13 – 15 ). Chúa chịu phép rửa  nơi Gioan  không phải là để làm gương cho chúng ta về sau nhưng như Ngài nói: “chúng ta”, ám chỉ Ngài và Gioan  đáng phải hoàn tất điều công chính ấy. Cần nên nhớ chỉ khi Chúa chịu phép rửa xong lên khỏi mặt nước  thì tầng trời mới mở ra, “Ngài thấy Thánh Linh của Đức Chúa Trời  ngự xuống như  chim bồ câu đậu trên Ngài và này có tiếng từ trời phán: Đây là Con Ta yêu dấu, đẹp lòng Ta mọi đàng” ( Mt 3, 16 – 17 ).

 Chúa là Đấng hoàn toàn vô tội mà cũng chịu phép rửa, điều ấy  cho chúng ta  thấy việc tái sinh  bởi nước và Thánh Thần quan hệ biết chừng nào cho phần rỗi linh hồn  của mỗi người. Mặc dù Bí Tích Rửa Tội mang một dấu ấn không thể phai mờ trong tâm hồn người tín hữu.  Thế nhưng rất có thể đó chỉ là một thứ hình thức  lễ nghi  chẳng đem lại một kết quả nào nếu ta không thực sự tái sinh tức sống lại phần linh hồn.

Con người ( chúng sinh ) không ai lại không bởi tội mà sinh và sinh bởi tội như thế  là sinh trong sự chết. Tội nguyên tổ như đã biết đó là tội phân biệt thiện ác ( x. St 2, 9 ).  Mỗi khi tâm khởi phân biệt là tâm đi vào cõi chết: “Một mai ngươi ăn ắt hẳn phải chết” ( St 2, 17 ).  Tâm khởi phân biệt là đã bước vào cõi chết. Ngược lại, bỏ tâm phân biệt đi thì lại được vào cõi sống ( Tái sinh ). Như vậy tính chất sâu xa của việc tái sinh  trong Đạo Chúa  tức là bỏ đi tâm phân biệt. Điều này trái ngược hẳn với  luân hồi củng có nghĩa là tái sinh nhưng  tái sinh trong nghiệp.

       Luân Hồi trong phạm vi chúng hữu tình luôn gắn  với nghiệp thế nên  gọi là luân hồi nghiệp báo ( Báo ứng ). Hiểu như vậy thì Luân Hồi  là sự trở đi trở lại  của nghiệp  mà nhân của nó là  vô minh.  Đức Phật Thích Ca  sau 21 ngày đêm tham thiền nhập định  đã giác ngộ  được chân lý của sự khổ và  nguyên nhân gây ra cho nó bao gồm trong mười hai duyên gọi là Thập Nhị Nhân Duyên  ( Vô Minh, Hành, Thức,  Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ,  Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Già,  Chết ).

 Vì Vô Minh nên phát sinh dục vọng ( Hành ). Do nơi dục vọng mà nhận  biết ( Thức ). Từ chỗ nhận biết ấy mà có cái gọi là Tâm và Thân ( Danh Sắc ). Thân tâm bao gồm ngũ quan và  ý  thức ( Lục nhập ). Năm giác quan cùng với ý  thức  là sáu cánh cửa để tiếp xúc  với ngoại vật ( Xúc ). Có tiếp xúc thì có lãnh nhận ưng chịu ( Thọ ). Ưng chịu phát sinh sự yêu thích ( Ái ). Yêu thích thì muốn nắm giữ ( Thủ ) Nắm giữ đi liền với sở hữu, quyết giữ lấy ( Hữu ). Từ chỗ giữ lấy đó mà sinh  đi sinh lại  trong luân hồi lục đạo ( Thiên, nhân, Atula, ngạ quỷ, súc sinh, địa ngục ) ( Sinh ).  Hễ đã có sinh thì phải có già và chết ( Chết ).

 Thập nhị nhân duyên diễn ra trong một vòng tròn khép kín, cái này làm nhân cho cái kia  và ngược lại vì vậy mà gọi nó là luân hồi hay vòng tử sinh, sinh diệt. Vòng sinh tử xét trong một kiếp sống  thì gọi  là phần đoạn sinh tử. Còn xét trong tính chất sâu xa của nó thì mười hai nhân duyên ấy cũng chỉ gồm thâu trong một niệm  gọi là Nhất  Niệm Vô Minh.

Trong con mắt phàm tục thì thấy  con người ta sinh ra  sống trên đời này một thời gian vắn dài nào đó rồi thì ai ai cũng phải chết, và khi chết rồi thì mờ mịt chẳng biết đi đâu, về đâu. Nhưng với con mắt của những bậc đại giác thì  kiếp sống ấy chỉ là những niệm tưởng tiếp nối, niệm này nối tiếp  niệm kia  và nếu còn ở trong vòng vô minh thì sẽ không bao giờ có thể dứt. Tôn giáo có mặt là để đem lại sự giải thoát. Thế nhưng sự giải thoát ấy cần phải được nhận thức đó là thoát ra khỏi sự vô minh ở nơi chính mình.

       II.  Con  đường  chuyển  hóa  của Đạo  Chúa

      Có một sự thực  nhưng rất khó để mà nhận biết, đó là con người cứ nghĩ rằng mình sống với thân thể nhưng thật ra là sống với tư tưởng. Ta  ví  tư tưởng  là  người tài xế,  còn thân thể  là chiếc xe hơi. Khi nhìn chiếc xe, thấy nó chạy bon bon chỗ này chỗ kia, quẹo trái quẹo phải, đối với người có trí khôn thì ai cũng phải nghĩ đó là do người tài xế ngồi bên trong điều khiển. Người ta chỉ nhìn  thấy chiếc xe  chứ không thấy tài xế nhưng khi xe chạy  thì biết liền trong xe có người cầm lái. Ngược lại đối với người thiểu năng tâm trí hoặc ở rừng sâu núi thẳm mới ra phố lần đâu  thấy xe chạy liền cho rằng  đó là cái xe nó chạy. Xe chạy biết ngay là có người điều khiển là người có trí khôn, ngược lại là dại là khờ.

Hiểu như vậy thì hết thảy chúng ta những con người  trần mắt thịt này  đều là dại hết bởi lẽ không hề biết phân biệt tư tưởng và người tư tưởng. Mặc dầu vậy, nói có tư tưởng và người tư tưởng  thì cũng chẳng đúng. Tại sao ? Bởi phân biệt như thế  thì cũng  chẳng khác nào công nhận có một chủ thể cho tư tưởng. Chủ thể ấy chính là “Cái Tôi”. Nếu tôi là chủ thể của tư tưởng  thì đáng lẽ ra tôi có thể điều khiển được  tư tưởng, muốn nó vui liền được vui, muốn nó hướng thượng thì liền hướng  thượng v.v…

Thực tế thì đâu phải vậy, biết bao lần khi ta đọc kinh  dự lễ nghe giảng không muốn chia lòng chia trí  hoặc… ngủ gật mà nào có được đâu ? Nhiều khi ta chẳng muốn uống rượu say xỉn  nhưng rồi bạn bè lôi kéo  lại say lại xỉn, vợ con mè nheo bực cả mình… Về ý tưởng này Thánh Phaolô  đã có một câu nói rất ư chính xác: “Vì lòng muốn ở nơi tôi  nhưng quyền lực làm điều thiện thì lại không có. Cho nên điều thiện tôi muốn thì  tôi lại không làm. Còn điều ác không muốn thì tôi lại làm. Song nếu tôi làm điều tôi không muốn  thì chẳng còn phải là tôi làm điều đó nữa, bèn là tội lỗi ở trong tôi” ( Rm 7, 18 – 20 ).

       Không muốn nhưng lại cứ làm, điều ấy chứng tỏ tôi  không phải là chủ sở hữu của tư tưởng. Nói cách khác, chính tội lỗi nó làm chủ chứ không phải là tôi.  Tội lỗi làm chủ tức là nghiệp xấu nó dẫn dắt vào con đường mà mình không hề muốn. Nghiệp có thể ví  nó như một tên độc tài, nó bắt làm gì thì phải làm. Tuy nhiên nghiệp không từ trên trời rớt xuống, cũng không phải ở dưới đất chui lên mà nó  là do  chính  mình tạo nên.

Một  tên nghiện rượu,  ma túy chẳng hạn thì có ai bắt ép nó phải uống phải chích choác đâu ? Có lẽ ban đầu nó cũng thấy rượu là cay là đắng nhưng một khi đã nghiền nó rồi  thì làm nô lệ cho nó, không uống thì nó hành cho vật vã khốn khổ… Nghiệp là do mình tạo nhưng không phải cứ có nghiệp là xấu, nhưng có nghiệp xấu ác thì cũng có nghiệp thiện lành. Tạo nghiệp xấu ác phải lãnh quả xấu ác.  Trái lại tạo nghiệp thiện lành  sẽ được quả thiện lành. Quan trọng ở chỗ là phải làm cách sao  để tạo ra được nghiệp thiện nghiệp lành,  đó mới là vấn đề.

Chúng ta đọc tiếp lời Thánh Phaolô để thấy được câu trả lời:  “Vậy tôi thấy trong tôi có luật này, khi tôi muốn làm điều thiện thì điều ác lại cặp theo. Vì theo người bền trong  tôi vẫn vui thích luật pháp của Đức Chúa Trời. Nhưng tôi  thấy trong chi thể tôi  có một luật khác chiến đấu với luật trong tâm trí tôi bắt tôi làm nô lệ  cho luật của tội lỗi vẫn ở trong chi thể tôi. Ôi ! Tôi là người khốn khổ biết dường nào. Ai sẽ giải cứu tôi khỏi thân thể của sự chết này ? Cảm tạ Đức Chúa Trời đó là nhờ Giêsu Kitô Chúa chúng ta. Như vậy chính mình tôi lấy tâm trí phục luật pháp của Đức Chúa Trời nhưng lấy xác thịt phục luật pháp của tội lỗi” ( Rm 7, 21 – 25 ).

Qua những lời phải nói là tâm huyết của Thánh Phaolô, một con người được ơn Chúa cho trở lại, đã cho thấy cuộc đời  tín hữu chúng ta luôn là một cuộc chiến cam go giữa hai thế lực thiện ác mà nếu không có ơn Chúa thì không một ai có thể lướt thắng.  Mỗi người là một ông vua nhưng là một thứ vua ươn hèn, không cai trị nổi đám quan quân tướng sĩ ( mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý ), mặc chúng tác yêu tác quái, muốn ăn ngủ, chơi bời, nói năng  nghĩ tưởng thế nào cũng được.  Biết đó là không hay không tốt  nhưng bởi trót  đã để cho chúng lấn quyền nên đành bất lực buông trôi.

Trong tất cả đám quần thần đó thì Ý  Thức là quan trọng nhất, công  rất nhiều nhưng tội cũng  lắm ( Công vi thủ, tội vi khôi ). Cứ nắm được Ý là nắm đầu được tất cả, nhưng để nắm được Ý  thì nhất định là phải có phương pháp và phương pháp ấy chính là sự chuyển hóa tâm thức.  Tâm ta từ vô lượng kiếp do bởi ảnh hưởng của tội nguyên tổ là tội phân biệt thì nay  phải nhất quyết  chuyển nó thành Tâm Vô Phân Biệt. Chúa dạy  yêu người thì đừng có phân biệt  người thân kẻ thù ( Mt 5, 43 – 44 ). Làm phúc bố thí thì đừng cho tay trái biết việc tay phải làm ( Mt 6, 3 – 4 ).  Bao lâu còn sống với Tâm Phân Biệt  thì còn quanh đi quẩn lại trong vòng tử sinh sinh tử  rất khó để mà thoát ra khỏi nó.

 Điều khó ấy tự sức con người  không một ai có thể, nhưng  nếu biết cậy dựa vào Ơn Chúa  thì lại được, bởi vì “Ơn Ta đủ cho ngươi, vì quyền năng của Ta nên trọn trong sự yếu đuối” ( 2Cr 12, 9 ).

PHÙNG VĂN HÓA

Đạo bất khả tu du ly dã.

        Đạo bất  khả tu du ly dã.                                                                                                                         (Không thể rời xa Đạo dù chỉ trong tích tắc.)                                                                                                            Trung Dung 

Đây là chuyện tôi nghe: 

Có thầy nọ sống đời tu hành rất mực thánh thiện. Không kể những lúc bắt buộc phải nhín chút thời gian dành cho các sinh hoạt cần thiết của đời thường, thầy luôn cố gắng thu xếp tối đa thời gian trong ngày để cầu nguyện, tụng kinh, ngồi thiền, v.v… Đầu óc thầy hầu như không còn chỗ nào trống trải cho các tà niệm sái quấy có thể thừa cơ len lỏi vào. Sau nhiều năm dài tu hành tinh nghiêm, cẩn mật như thế, thầy thấy mãn nguyện trước sự tiến bộ tâm linh. 

Thế rồi khuya hôm nọ, sau khi xong cữ thiền giờ Tý, thầy đi ngủ và mơ thấy mình dự một buổi tiệc lớn gồm toàn những bậc đạo cao đức trọng. Trong lúc chủ tiệc chưa ra tiếp khách, mọi người lần lượt được rước tới bàn ăn rất to và dài. Ai cũng có chỗ ngồi trang trọng theo đúng thứ bậc vì chủ tiệc đã gắn sẵn trên mặt bàn những tấm thẻ nhỏ ghi họ tên từng thực khách. Thầy thấy mình được vinh dự xếp ngồi gần chủ tiệc, nhưng ở vị trí thứ nhì. Vị trí thứ nhất dành cho người bán tạp hóa ở khu phố không xa nơi thầy cư trú. 

Sáng hôm sau, thầy tìm tới tiệm tạp hóa, lựa một góc và nhẫn nại đứng quan sát rất lâu. Tiệm không lớn lắm nhưng lúc nào cũng có khách hàng vào ra nườm nượp. Chủ tiệm chẳng hở tay bán hàng, thu tiền, thối tiền… vẻ mặt lúc nào cũng tươi cười, nói năng hòa nhã… Tuyệt nhiên không thấy chủ tiệm có cử chỉ, động tác đặc biệt gì tỏ ra ông đang tĩnh tâm hay cầu nguyện. 

Nhân một lúc ngớt khách, thầy bước tới chào chủ tiệm và kể lại giấc mơ kỳ lạ. Chủ tiệm ôn tồn nói: “Tôi cần chiết dầu ăn từ cái thùng hai mươi lít ra hai mươi cái chai xếp sẵn ở góc kia. Xin thầy giúp một tay. Đừng để chai nào đầy quá hay vơi quá. Đừng làm sánh dầu ra ngoài chai nhớp nháp. Lát nữa sẽ tiếp tục câu chuyện của thầy.” 

Thầy chiết dầu vừa xong thì đúng lúc chủ tiệm được ngơi tay bán hàng. Ông ta bước tới hỏi: “Nãy giờ cắm cúi lo chiết dầu ra chai, trong đầu thầy có giây phút nào nhớ nghĩ tới Trời tới Phật không?”

Thầy bẽn lẽn: “Tôi làm không quen, ráng tập trung rót dầu vào từng chai theo đúng yêu cầu của ông, mệt toát mồ hôi. Do đó chẳng được phút giây nào rảnh trí mà nhớ nghĩ tới Phật Trời!”

Chủ tiệm cười hiền: “Nếu thầy bận bịu buôn bán như tôi cả ngày, lu bu quanh năm suốt tháng, thì tâm thầy ắt xa Trời xa Phật mịt mù luôn! Tôi không có phước lớn để được rảnh rang chuyên lo tu hành như thầy. Tôi chỉ ráng tập thành thói quen cho tâm tôi lúc nào cũng nhớ Trời nhớ Phật. Khi bán hàng cho khách tôi nguyện không để ai phải phiền lòng vì bị cân non đong thiếu. Khi chiều chuộng khách hàng tôi nguyện không để ai mích lòng vì thấy tôi thiên vị. Gặp khách hàng xấu tính, tôi nói cười nhã nhặn, thầm nhắc nhở: Thánh Thần giả dạng thường dân tới thử thách mình đây. Tôi tu như vậy đó, thưa thầy.

Huệ Khải

 

Trỗi dậy từ cõi chết

Lễ Phục sinh 2012                                                                                          +TGM.Giuse Ngô Quang Kiệt

Cv 10, 34a.37-43; Col 3, 1-4; Ga 20, 1-9

Chúa Giêsu đã sống lại. Sống lại lúc nào và thế nào thì không ai được chứng kiến. Tuy nhiên chắc chắn Chúa đã sống lại vì các tông đồ đã được gặp Chúa Phục Sinh. Cuộc gặp gỡ đó làm thay đổi cuộc đời và con người của các ngài.

Ta thấy sự thay đổi cụ thể của thánh Phêrô trong Bài trích sách Công vụ Tông đồ hôm nay. Trước cuộc Khổ Nạn của Chúa, Ngài nhút nhát chối Thầy, nay Ngài mạnh mẽ, hùng hồn rao giảng Chúa Kitô Phục Sinh cho đông đảo quần chúng, kể cả nơi công đường trước mặt các vị chức sắc cao cấp. Trước đây Ngài không hiểu Lời Chúa, nay Ngài thông suốt Sách Thánh và minh chứng rằng “Tất cả các tiên tri đều làm chứng về Người”. Có sự thay đổi đó vì Ngài đã được gặp gỡ Chúa Phục Sinh như lời Ngài xác quyết: “Còn chúng tôi đây xin làm chứngNgày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tưởng”.

Sáng sớm ngày thứ nhất, mọi người đổ xô ra mộ và đã không thấy gì trừ ngôi mộ trống. Hòn đá bật tung, khăn liệm xếp gọn gàng, còn Người thì họ không thấy. Tất cả không phải là những bằng chứng thuyết phục. Chỉ sau khi gặp Chúa Phục Sinh, các môn đệ mới thật sự tin tưởng và hiểu được ý nghĩa của việc Chúa Phục Sinh. Niềm tin và hiểu biết đó có những bước tiệm tiến.

Thoạt tiên khi gặp Chúa Phục Sinh, các tông đồ tưởng là thấy ma. Trong đời sống bình thường, thấy người chết là thấy hồn ma của họ.  Hồn ma thuộc về thế giới kẻ chết. Nhưng Chúa Phục Sinh không phải là hồn ma. Người cho các ông xem chân tay. Ma đâu có da thịt thế này. Người ăn uống với các ông. Ma đâu có ăn uống thế này(x. Lc 24, 36-43). Rõ ràng Chúa Phục sinh đang sống. Và Chúa là Thiên Chúa của kẻ sống nên Người ở trong thế giới kẻ sống.

Không phải hồn ma, Chúa Phục Sinh cũng không phải con người cũ, trở về sự sống cũ trong thân xác cũ. Chúa Phục Sinh không giống như đứa con trai bà góa thành Naim, hay như Lazaro Chúa cho chết bốn ngày sống lại. Sống lại như thế là trở lại thân xác cũ, để rồi một ngày kia cũng phải chết như mọi người khác. Chúa Phục Sinh có một thân xác khác. Tuy vẫn còn mang những vết thương nhưng đó là thân xác hiển vinh. Có thể đi qua những cánh cửa đóng kín. Có thể cùng lúc hiện diện ở nhiều nơi khác nhau. Có thân xác nhưng không còn là thân xác cũ nên các môn đệ không nhận ra Người nếu Người không cho họ biết. Như Bà Madalena(x. Ga 20, 11-18). Như hai môn đệ trên đường đi Emmaus(x. Lc 24, 13-33). Như các môn đệ đánh cá tại Biển Hồ(x. Ga 21, 1-8). Sự sống sau phục sinh của Chúa có gì rất mới, rất lạ. Đó là sự sống trong Thiên Chúa, đồng hiện hữu với Thiên Chúa.

Tuy đồng hiện hữu với Thiên Chúa, Chúa Kitô Phục Sinh không phải là Thiên Chúa xa cách. Gặp gỡ Chúa vẫn là gặp gỡ sống động với một nhân vật cụ thể, chứ không phải chỉ là một cảm nghiệm thần bí. Chúng ta có thể chiêm ngưỡng các cuộc gặp gỡ thật sống động và cảm động khi Chúa cho ông Tôma đụng tay vào các vết thương(x. Ga 20, 24-29). Khi Chúa nướng cá và cùng ngồi ăn với các môn đệ(x. Ga 21, 9-14). Khi Chúa giải nghĩa Kinh Thánh cho các môn đệ trên đường Emmaus(x. Lc 24, 13-33). Khi Chúa hỏi Phêrô về tình yêu mến và trao quyền cho ông bên bờ hồ Galilê(x. Ga 21, 15-19). Đức Thánh Cha Bênêđíchtô, trong tác phẩm “Chúa Giêsu thành Nagiaret tập 2 đã ghi nhận điều đó nơi thánh Phaolo: “Thánh Phaolo phân biệt rõ ràng giữa những kinh nghiệm thần bí – tỉ như được nâng cao lên tầng trời thứ ba như được diễn tả trong 2 Cor 12, 1-4 – với cuộc gặp gỡ của ngài với Đấng Phục Sinh trên đường Đamas, đó là một sự kiện trong lịch sử, một cuộc gặp gỡ với một nhân vật sống động” (Joseph Ratzinger, Chúa Giêsu thành Nagiaret tập 2, bản dịch Nguyễn văn Trinh, nxb Tôn giáo, 2011, tr. 328).

Chính những cuộc gặp gỡ sống động này đã biến đổi các tông đồ. Mở ra cho các ngài một chân trời mới lạ chưa từng có. Một cảm nghiệm thực đến từng chân tơ kẽ tóc đó là Chúa Phục Sinh vượt lên trên tất cả. Vượt qua mọi không gian và thời gian. Chẳng  có gì giam hãm được Người. Người vượt qua thế giới hữu hạn để bước vào thế giới vô biên, trong bầu trời tự do vô hạn. Tự do đối với quyền lực phàm trần. Với Chúa Phục Sinh các môn đệ xác tín rằng cái ác không thể có tiếng nói cuối cùng. Công lý của Chúa cao vượt trời xanh. Chúa Phục Sinh vượt lên trên trần gian tầm thường, nhỏ nhen, ti tiện. Người đã mở ra chân trời cao thượng, tha thứ tất cả, chấp nhận tất cả, yêu thương tất cả. Và nhất là Chúa Phục Sinh mở ra chiều kích mới cho hiện sinh con người để con người không còn tuyệt vọng vì những giới hạn và tính chất bọt bèo của thân phận, nhưng tràn đầy hi vọng vì con người có thể triển nở đến vô biên và đạt đến tầm vóc viên mãn trong Thiên Chúa. Từ cõi chết, Chúa Phục Sinh làm một bước nhẩy vọt, vươn đến một cuộc sống mới với những phẩm chất cao vượt. Mở ra cho con người một tương lai tràn đầy niềm tin yêu và hi vọng. Đó là một tin vui mừng lớn lao. Đó là lẽ sống của nhân loại.

Xác tín vì gặp Chúa Phục Sinh sống động. Choáng ngợp vì chân trời mới lạ do Chúa Phục Sinh mở ra, các tông đồ phấn khởi, mạnh dạn ra đi loan tin vui mừng cho mọi tạo vật, bất chấp mọi khó khăn, gian lao, thử thách, kể cả tù đầy, khổ hình và tử hình.

Chúa nhật Phục Sinh được gọi là Chúa Nhật Áo Trắng. Vì đây là ngày dành riêng cho người Tân Tòng. Người Tân Tòng vừa được chịu bí tích Thánh Tẩy, mặc áo trắng tượng trưng cho linh hồn rất tinh tuyền đã được rửa sạch trong máu Chúa Kitô. Linh hồn người tân tòng vừa cùng Chúa Kitô chết đi cho con người cũ và cùng Chúa Kitô Phục Sinh sống lại cho con người mới. Con người trong sạch. Con người vượt trên sự sống trần gian. Con người mới thuộc thượng giới. Con người trở thành con Thiên Chúa.  Xin chúc mừng chị Maria Giang đã được sống  lại với Chúa Kitô trong đời sống mới. Và xin mượn lời của thánh Phaolo trong thư gửi tín hữu Côlose trong bài Sách Thánh thứ 2 gửi đến chị: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới… Anh em hãy hướng lòng trí về những gì thuộc thượng giới, chứ đừng chú tâm vào những gì thuộc hạ giới”. Đó chính là ý nghĩa của tất cả đời sống người tín hữu.

Lạy Chúa Kitô Phục Sinh, xin cho con được sống lại thật về phần linh hồn. Amen.

+TGM.Giuse Ngô Quang Kiệt

Lại một chuyến về thăm quê nhà

LẠI MỘT CHUYẾN VỀ THĂM QUÊ NHÀ

                                                                            tác giả: Phùng văn Phụng

Tôi quyết định vượt nửa vòng trái đất về thăm má tôi vì má tôi tuổi hạc đã quá cao. Năm nay đã được 69 tuổi rồi.Tháng 12 năm tới, năm 2012, má tôi được tròn 100 tuổi. Tôi cũng muốn thăm lại các người thân, bà con hai bên, thăm lại bạn bè cũ và nhân tiện gặp gỡ lại các bạn đồng nghiệp cũ cũng như các em cựu học sinh trường Lương văn Can. Tôi cũng muốn về thăm lại nhà tôi ở hồi còn nhỏ, chỗ tôi lần đầu tiên cắp sách đến trường, được mang tên trường tiểu học Rạch Núi.

Tôi về Việt nam vỏn vẹn có 5 tuần lễ. Sinh hoạt, ăn ngủ, sống ở trong căn nhà cũ .. khi tôi còn học lớp đệ nhất (lớp 12) trường Chu văn An hồi 1961. Cách nay đúng 50 năm, ở đây ba tôi dựng tạm một nhà lá để ba tôi và tôi cùng vài người tài xế xe lam ăn uống, sinh hoạt nghỉ ngơi sau một ngày làm việc mệt nhọc. Xung quanh nhà tôi ở chưa có ai cất căn nhà nào khác cả. Năm này má tôi vẫn còn sống dưới quê, bán tiệm tạp hóa nhỏ ở làng Đông Thạnh, Chợ núi.

Về Việt nam lần này, tôi đi hảng máy bay Singapore. Máy bay đi từ Houston sang Moscow (Nga) rồi từ Moscow đi Singapore và từ Singapore về Sài gòn. Thời gian đi từ Mỹ về Việt nam cũng như từ Việt nam sang Mỹ mất khoảng 26 tiếng ngồi trên máy bay, kể cả giờ chờ đợi để chuyển máy bay ở phi trường Singapore và phi trường Moscow mất thêm khoảng 6, 7 tiếng nữa. Hôm trở về Mỹ, 5 giờ chiều mới được vào để “check in”lấy vé lên máy bay, vậy mà đến 2 giờ trưa ngày hôm sau mới tới được phi trường “George Bush” ở Houston. Ngồi trên phi cơ gần hai đêm một ngày mới tới nơi. Nếu đi hảng khác như hảng “Continental” chẳng hạn, từ Houston vượt Thái Bình Dương sang Nhật, rồi về Sài gòn, thời gian sẽ ngắn hơn nhiều.
Sau khi rời phi trường Tân Sơn Nhất, vừa về đến nhà, tôi vội vàng gọi cho anh Hồ công Hưng báo tin tôi đã về tới Việt nam để hy vọng anh Hưng tổ chức buổi gặp gỡ các bạn đồng nghiệp cũ cũng như các em cựu học sinh trường Lương văn Can để cùng nhau tâm sự vui buồn với nhau.
Tháng 3 năm 2009, tôi có về dự cuộc họp mặt với các thầy cô cũ và các em cựu học sinh trường Lương văn Can, ra trường 1975 tại nhà hàng Đồng Diều ở quận 8. Tôi có gặp Huỳnh văn Cung. Chuyến về thăm nhà lần này (2011) tôi không còn gặp được Huỳnh văn Cung nữa. Khoảng năm 1985, sau khi Cung ra tù tôi có mời Cung đến nhà tôi ăn một bửa cháo. Tôi cũng ra tù trước Cung chừng hai năm. Về lần này, tôi cũng không còn gặp được bạn đồng nghiệp rất thân là Nguyễn Kim Hùng, cùng tốt nghiệp trường sư phạm, cùng đổi về dạy học tại Quận Đất Đỏ (Bà rịa) những năm 1964,1965. Sau này Hùng đổi về trường Nguyễn An Ninh, đã mất vì bịnh ung thư máu.

Đi thăm quê nội làng Tân Tập, quận Cần Giuộc Long An.

Tôi về Việt Nam lần này gặp mùa mưa bảo. Hai trận bảo liên tiếp theo nhau. Hết bảo số 5 thổi vào miền Trung kế tiếp là bảo số 6 thổi vào Hà nội, Hải phòng. Do đó miền Nam bị ảnh hưởng mưa nhiều.Tôi về thăm mộ ba tôi ở làng Tân tập, nằm sâu giữa ruộng, phải xắn quần lên tới đầu gối, lội dưới nước sình mới tới được khu đất chứa nhiều ngôi mộ có mộ ông bà, chú bác tôi … trong đó có mộ của ba tôi. Ba tôi được chôn cất ở đây từ năm 2005, hơn sáu năm rồi. Có tin đồn sẽ giải toả khu mồ mả này, sẽ phải bốc mộ dời di nơi khác. Nhà nước sẽ lập khu thương cảng, chừng nào lập, có lập cảng không, không ai biết. Ở vùng Tân Tập này người ta đã bỏ hoang ruộng đất rất nhiều. Đất xấu, năng xuất thấp, cỏ năng mọc đầy, giá nhân công cao nên họ bỏ ruộng hoang không trồng lúa. Một số bà con chuyển sang nghề nuôi tôm hy vọng còn lời chút đỉnh để sống. Đa số người dân vùng này lên Sài gòn làm công hay buôn bán lặt vặt để có tiền lo cái ăn, cái mặc và lo cho con cái học hành. Xe đò có thể chạy từ Chợ lớn xuống tới bờ sông Soi Rạp luôn. Kỳ trước (2009) đường đang làm, xe cộ chưa chạy được, tôi phải đi bộ từ ngả tư đến nhà tôi gần chợ Rạch Núi. Kỳ này xe đò 16 chỗ ngồi có thể chạy trên đường này và đậu trước nhà cũ của tôi. Nơi tôi đã sinh ra, đã lớn lên, đã học từ lớp một cho tới lớp 5. Thầy hai Lang, thầy ba Hương, ông đốc Kiệt v.v…đã dạy cho tôi biết đọc biết viết, dạy cho tôi có kiến thức, hiểu biết thông thường để ra đời làm ăn sinh sống và quý thầy cô cũng dạy cho tôi biết yêu mến cha mẹ, anh chị em, bà con thân thuộc, yêu quê hương đất nước qua các bài giảng trong sách Quốc văn Giáo Khoa Thư. Ngày nay đọc lại sách này vẫn còn xúc động, tình nghĩa thầy trò, bạn hữu, xóm giềng thân thương quý mến v.v. Tôi nhìn lại căn nhà cũ tôi ở hồi nhỏ, nay thuộc về chủ mới, chị mười Não con cô Bảy tôi. Căn nhà này ngày nay đã hoàn toàn đổi khác, không còn phảng phất chút gì của khung cảnh cũ mà tôi đã sống từ hồi tấm bé.

Đi thăm Nhà thờ Tắc Sậy và mộ Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp.

Tháng 03 năm 2005 tôi có viếng nhà thờ Tắc Sậy và thăm mộ Cha Trương Bửu Diệp để cầu nguyện, xin ơn. Lúc đó nhà thờ cũ chưa xây. Mộ Cha ở sâu phía trong bên trái nhà thờ Tắc Sậy. Năm nay nhà thờ mới đã xây xong. Mộ của Cha được dời ra phía trước, xây cất khang trang hơn. Khách hành hương viếng mộ Cha Phanxicô càng ngày càng đông hơn. Nhà nghỉ, khách sạn, quán ăn phục vụ cho khách hành hương tươm tất sạch sẽ hơn nhiều so với năm 2005.
Cha Phanxicô sinh ngày 01-01-1897, thụ phong Linh mục năm 1924 tại Nam Vang. Tháng 03 năm 1930 là cha sở họ đạo Tắc Sậy. Năm 1945-1946 chiến tranh loạn lạc, bà con di tản, Cha bề trên địa phận kêu Ngài lánh mặt khi nào yên ổn lại trở về họ đạo, nhưng Ngài trả lời: “Con sống giữa đoàn chiên, nếu chết cũng chết giữa đoàn chiên”. Ngày 12 tháng 03 năm 1946, Ngài bị bắt cùng với trên 70 giáo dân thuộc họ đạo Tắc Sậy và cuối cùng Ngài đã hy sinh, chết thay cho những người giáo dân bị bắt chung.
Trong bản tóm lược tiểu sử của Cha có ghi :
Tận Hiến Cuộc Đời cho Thiên Chúa
Hy Sinh Kiếp Sống Giúp Con Người.

Ngày nào cũng có khách hành hương đến viếng nhà thờ Tắc Sậy và mộ Cha. Riêng ngày thứ bảy, chúa nhật càng đông khách hành hương. Đặc biệt, hằng năm vào những ngày 11 và 12 tháng ba dương lịch ngày Cha Trương Bửu Diệp qua đời là lúc nhiều người không kể lương giáo từ khắp nơi nô nức đến họ đạo Tắc Sậy, một họ đạo nhỏ nay thuộc giáo phận Cần Thơ, nằm trong địa bàn của xã Tân Phong, huyện Gia Rai, tỉnh Bạc Liêu.
Người ta đến đây để cầu nguyện với Thiên Chúa thông qua Cha Trương Bửu Diệp xin các ơn cần thiết cho bản thân, cho gia đình, cho thân nhân như xin được khỏi bịnh ngặt nghèo, làm ăn được may mắn, trôi chảy, cầu nguyện cho con cái chịu khó học hành, con hư hỏng trở về đường ngay v.v…hay cầu nguyện cho nhiều nhu cầu về đời sống tâm linh khác nữa. Con người ngoài đời sống vật chất cơm ăn, áo mặc, nhà ở còn đời sống tinh thần, đời sống tâm linh như sự đau khổ, bịnh hoạn, tật nguyền, sự sống, sự chết… con người cần đến Đấng Tối Cao là Thiên Chúa, là ông Trời nâng đỡ, an ủi, che chở, cứu giúp cho. Và ở đây có rất nhiều tấm bảng cũng như ghế ngồi của khách hành hương dâng cúng để tạ ơn Thiên Chúa, cám ơn Cha Trương Bửu Diệp cầu thay nguyện giúp những ơn lành mà Thiên Chúa đã ban cho bản thân và gia đình họ. 

                            Nhà thờ Tắc Sậy
Vài suy nghĩ thoáng qua?
* Nếu sống ở Mỹ, khi cảnh sát thấy trẻ em đi ngoài đường trong giờ học từ thứ hai đến thứ sáu, thì trẻ em đó sẽ bị bắt và gọi cha mẹ đến phạt sao không cho con em đến trường và bảo lảnh các em này về, vì ở Mỹ trẻ em đến tuổi đi học bắt buộc phải đến trường. Giáo dục ở bậc tiểu học và trung học hoàn toàn miễn phí. Miễn phí từ lớp một đến lớp mười hai. Phụ huynh học sinh không phải đóng bất cứ học phí nào. Nếu học sinh thật sự nghèo còn được cho ăn trưa miễn phí. Hàng ngày các em còn có xe “bus”đưa rước đến trường. Dầu nghèo, dầu giàu các em đều có cơ hội đồng đều đến trường để mở mang kiến thức. Con của nông dân hay ngư phủ đều có thể trở thành Bác sĩ, Luật sư hay bất cứ ngành nghề nào nếu các em có ý chí và chịu khó siêng năng học tập. Khi đến tuổi vào Đại học các em được vay tiền đóng học phí với lãi xuất nhẹ. Sau khi học thành tài, ra trường làm việc các em trả nợ sau. Ở Việt nam 12 năm đầu đóng nhiều thứ tiền quá nên có nhiều trẻ em phải bỏ học vì cha mẹ nghèo, thật là một thiệt thòi cho các em, từ đó nhân tài có thể bị mai một. Có một buổi sáng khoảng 10 giờ, tôi đã nhìn thấy một cháu khoảng 9,10 tuổi đi bán vé số, đáng lẽ giờ đó em phải đến trường học.
Buổi chiều, nhiều người đi bán vé số quá từ trẻ tuổi đến người lớn tuổi đều có. Đa số họ sinh quán từ miền Trung như Quảng Nam, Quảng Ngãi v.v… Ở Mỹ việc bán vé số dành cho các tiệm tạp hóa (grocery) bán bằng máy không cần người đi lang thang chào bán, cho nên đỡ rất nhiều nhân công.

* Sau 1975, vì không thể làm ăn sinh sống bình thường nên rất nhiều người phải bỏ đất nước Việt nam mà ra đi. Những kỹ nghệ gia, thương gia, bác sĩ, giáo sư những trí thức bị o ép, không được tự do làm việc, tự do phát triển khả năng nên họ tìm đất mới mà dung thân. Sự ra đi ồ ạt của giới trí thức, kỹ nghệ gia, thương gia, những người có tài, học vấn cao đã làm chảy máu chất xám. Các viên chức chế độ cũ bị tù đày (cải tạo) trên ba năm cũng đều được cho đi định cư tại nước ngoài. Đa số họ có trình độ văn hóa lớp 11 trở lên, đó là thành phần ưu tú của miền Nam Việt nam. Nếu ở đất nước cũ họ không được trọng dụng, là thành phần sống bên lề xã hội, nhưng qua đất nước khác, họ là thành phần đóng góp đáng kể vào xã hội mới. Con cái họ với “gene” di truyền của cha mẹ đã cố gắng học tập, chịu khó làm việc nên đã khá thành công trong xã hội mới. . Ngày nay những đứa con thuộc thành phần ưu tú đó đã tốt nghiệp ở các trường Đại học ở Mỹ, ở Âu Châu hay ở Úc. Hiện nay không khéo “cuộc di cư mới của những người con ưu tú” vẫn còn tiếp diễn, chảy máu chất xám vẫn chưa chấm dứt. Tất cả những học sinh giỏi sau lớp 12 hay sau bậc Cử nhân mà đi du học, nếu tốt nghiệp, nếu đậu Master hay PhD đều được các nước sở tại mời làm việc với lương bổng cao. Và dĩ nhiên, các sinh viên này sẽ ở lại nước mình đi du học thay vì trở về Việt nam làm việc. Muốn cho các em sau khi tốt nghiệp ở Đại học nước ngoài này trở về Việt nam làm việc, tài năng của các em phải được phát huy thực sự, các em phải được trọng dụng thực sự, lương trả cho các em phải tương xứng, lúc đó mới hy vọng lôi kéo được các em này trở về nước để phục vụ.Trước năm 1975, đa số các sinh viên đi du học đều trở về nước chứ ít khi họ chịu ở lại. Còn ngày nay đa số đều mong muốn ở lại nước sở tại sau khi tốt nghiệp hơn là trở về Việt nam mặc dầu đất nước Việt hơn 36 năm qua không có chiến tranh. Tại sao vậy?

* Trước cửa nhà tôi là chỗ sửa xe gắn máy và vá vỏ xe. Hai cháu nhỏ tuổi 9X đã văn tục, dùng ngôn từ đ.m. để tỏ thái độ giận dữ vì vỏ xe bị xẹp. Thế hệ trẻ tuổi của Sài gòn có thể phát ngôn thiếu văn hoá như thế sao? Tôi không thể tin rằng “văn hoá chửi thề” do miệng các cháu gái thế hệ 9X lại có thể xảy ra giữa Sài gòn được coi là “Hòn ngọc viễn đông” của Đông Nam Á này.

* Quán xá ăn uống quá nhộn nhịp nhất là về ban đêm. Chỗ nào cũng có thể bán quán nhậu được. Con đường Đào Cam Mộc, khoảng năm trăm mét đã mọc lên chừng 10 quán nhậu. Mà quán nhậu nào cũng đông khách. Có vẻ như dân Sài gòn ăn nhậu nhiều quá chăng?

* Một người cháu làm nghề điện lạnh đã đến một trường học để sửa chửa hệ thống máy lạnh của nhà trường. Anh ta than phiền là ông Hiệu trưởng đã đòi “lại quả” 10% số tiền mà anh đã nhận. Và anh Hiệu trưởng nói: “ anh đưa thẳng cho tôi không cần đưa bao thơ làm gì cả”. Và người cháu này đã nói một câu cũng đáng cho chúng ta suy ngẫm: “Thầy giáo gì mà lại đòi hối lộ.”
Thầy giáo gì mà lại đòi hối lộ? Có nghĩa là anh ta vẫn rất quý mến nhà giáo, là những kỹ sư tâm hồn hiện nay, anh ta hoàn toàn tin tưởng người làm giáo dục thường rất đàng hoàng, không tham lam, “nghèo cho sạch, rách cho thơm”, bởi vì thầy cô giáo không chỉ dạy dỗ cho các em nên người hữu dụng cho xã hội mai sau, nhưng nhà giáo còn phải là chứng nhân (làm guơng) cho các em học sinh mà còn làm gương tốt cho xã hội nữa. Cho nên nhiều người vẫn mong muốn: “Thời đại ngày nay không cần thầy dạy mà cần những chứng nhân”.

* Chạy vô đường ngược chiều được xem là bình thường. Khi gặp đèn đỏ xe vẫn chạy là bình thường vì nếu không chạy thì xe phía sau sẽ bóp còi. Xe gắn máy qua mặt rồi chận đầu xe đang chạy phía trước. Khi phải đậu lại vì đèn đỏ, nhiều xe chạy lấn tràn qua phía bên trái, chận đầu, cản trở xe ngược chiều không thể chạy lên được.v.v.. Ở Mỹ xe chạy theo “lane” của mình, muốn sang “lane” chớp đèn báo hiệu trước, rồi sang “lane”. Khi chạy xe ít dùng đến còi xe. Ở Việt nam đường hẹp, lưu lượng xe gắn máy quá nhiều, thường dùng còi xe inh ỏi, lúc nào cũng có vẻ bực mình, tôi có cảm tưởng như người Sài gòn muốn lao vùn vụt đi phía trước, để giải tỏa bớt sự nóng bức của thời tiết, bởi áp lực công việc, bởi nhiều thứ “stress” khác đè nặng lên tâm hồn con người Sài gòn ngày hôm nay.

Thăm Vĩnh hưng, Mộc hóa mùa nước nổi.

Lần đầu tiên thăm vùng nước nổi phải đi ghe máy để vào căn nhà của ông mười Mích, là thân hữu rất thân tình của anh Hưng. Căn nhà gạch lọt thỏm giữa vùng nước mênh mông ở Mộc Hóa gần biên giới Campuchia. Xung quanh toàn là nước phù sa màu gạch bùn. Chính phù sa này sau khi nước rút, đã giúp cho đồng bằng màu mở tốt tươi để bà con nông dân trồng lúa thu hoạch mùa màng năng xuất cao cũng như đem lại đủ loại cá tôm sau khi nước rút.
Xin xem “Về thăm lại Đồng Tháp Mười mùa nước nổi” tác giả Hồ Công Hưng.

Buổi tiệc tại nhà hàng 241:

Một buổi tiệc do anh Hồ Công Hưng và một nhóm Cựu Học sinh trường Lương văn Can tổ chức tại nhà hàng 241 vào trưa ngày 09 tháng 10 năm 2011. Gặp lại Thầy Hiệu Trưởng Uông Đại Bằng, Cựu Nghị viên Dương văn Long đã hồi phục rất nhiều sau trận tai biến cách nay mấy năm. Gặp lại rất nhiều thầy cô cũ, thầy Trương sui gia với người anh bạn dì ruột, thầy Đinh Trọng Kỳ, thầy Truyền, thầy Trọng v.v…Gặp lại rất nhiều Cựu học sinh Lương van Can mà nay đã đến tuổi U60, đã có sui gia, đã làm ông bà nội, ông bà ngoại. Không khí ấm cúng, yêu thương, lưu luyến của tình đồng nghiệp, thầy trò ngày xưa. Những mẫu chuyện vui buồn hơn 36 năm về trước được kể lại, được nhắc nhở như gói ghém tình nghĩa yêu thương gắn bó với nhau dường như không muốn chấm dứt.

– Ngày 21.10.2011 –
Phùng văn Phụng

Sơ Theresa Cecilia Đỗ Thị Thanh Hương

SƠ THERESA CECILIA ĐỖ THỊ THANH HƯƠNG

 Sáng thứ bảy, ngày 28 tháng 5 năm 2011, tôi đến nhà dòng Nữ Đa Minh Việt Nam số 5250  đường Gasmer để tham dự Thánh Lễ tiễn đưa Sơ Theresa Cecilia Đỗ Thị Thanh Hương  trở về nhà Cha khi mới tròn 36 tuổi (sinh ngày 20 tháng 04,1975 về với Chúa ngày 23 tháng 05,2011).

 Nhà nguyện chật ních người đến để cầu nguyện và tiễn đưa Sơ. Vì không đủ chỗ ngồi nên rất nhiều người phải đứng để dự lễ. Trên một ngàn năm trăm người tham dự Thánh lễ tiển đưa này.

 Sáng Chúa nhật 22-5 Sơ đi đến Giáo Xứ các Thánh tử Đạo Việt Nam để dạy Giáo Lý, giúp các em Thêm Sức. Sơ đã bị một em 19 tuổi, người Mễ, say rượu từ trong đường nhỏ vượt bảng “stop”, đụng phải Sơ. Vì bị thương tích quá nặng nên ngày hôm sau Sơ đã về với Chúa. Người bạn ngồi cạnh bên tôi đặt câu hỏi:

 ” Tại sao những người hiền lành, thánh thiện như Sơ lại ra đi sớm, trong khi có nhiều người rất ác, hung dữ, sống bê tha, luôn sống lường gạt người khác hay những người tham nhũng, hối lộ hoặc kẻ giết người không gớm tay, họ sống giàu có, sung sướng trên sự đau khổ của người khác mà lại sống lâu, 80, 90 tuổi mới chết.?” Những người đạo đức, hy sinh, đang dạy dỗ cho các em nên người, giúp cho sự thăng tiến xã hội tốt đẹp như Sơ Thanh Hương mà Chúa lại cất đi, còn bọn gian ác, Chúa lại để cho chúng nhởn nhơ sung sướng?

 Tối chúa nhật hôm sau, tôi lại đi tham dự buổi đọc kinh tại nhà quàn Thiện Tâm đường Bellaire cho cụ bà cố Agata Nguyễn thi Chi trong Giáo Xứ Ngôi Lời Nhập Thể có hai người con đi tu, một là Sơ đang phục vụ ở Congo, Phi châu và một người con trai đang là thầy sáu, hai tuần nữa sẽ chịu chức Linh mục.

 Cầm tập sách hướng dẫn cầu nguyện tôi đọc được ,trong bài đọc 1 đã trả lời câu hỏi trên của người bạn như sau:

 Sách Khôn Ngoan 4:câu 10: “Người công chính đẹp lòng Thiên Chúa,

nên được  Thiên Chúa yêu thương”

câu 13:  Người công chính nên hoàn thiện

 chỉ trong thời gian ngắn,

thì kể như đã hoàn tất một sự nghiệp lâu dài.

câu 14: “Tâm hồn họ đẹp lòng Đức Chúa,

nên Người vội đem họ ra khỏi nơi gian ác.

Người đời thấy thế mà không hiểu;

họ không nghĩ được rằng

đó chính là cách Người ban ơn,

thương xót những kẻ Người tuyển chọn

và viếng thăm các thánh của Người.

 Được biết gia đình Sơ Thanh Hương cùng Sơ bề trên nhà Dòng đã đến gia đình của anh người Mễ, người gây ra tai nạn để an ủi gia đình họ. Họ hết sức ngạc nhiên về sự tham viếng này, sự lo âu, bối rối vì đã gây tai nạn chết người cũng được an ủi phần nào. Đó là cử chỉ hành động thể hiện tình yêu thương và sự tha thứ mà Thầy chí Thánh Giê Su đã truyền dạy cho các môn đệ của Ngài.

 Phùng văn Phụng

Sau đây là bài viết “Tình Sử Dâng Hiến” của Sơ Đỗ thị Thanh Hương

“Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con.” Thiên Chúa hứa cho con sự sống, “để con yêu mến Chúa và làm cho Chúa được mến yêu” (Gn 20:28; Th. Thérèse Lisieux).

Con luôn giữ mãi kỷ niệm tình Chúa thương con qua biến cố 30 tháng 4, năm 1975. Mẹ con kể rằng, con sinh ra giữa bầu trời mịt mù khói lửa. Tại Bến Tre, miền Tây Việt Nam , người người chạy tán loạn. Mẹ cũng ôm con chạy ẩn núp từ hầm này sang hầm khác. Lúc bấy giờ, Mẹ hầu như đã kiệt sức vì mới sanh con, thân xác đau đớn rã rời bởi những mãnh mìn vụn bắn trúng. Nhưng vì con, Mẹ đã kiên trì chịu đựng để bảo vệ mạng sống cho con. Các cậu dì của con đã tưởng con chết, nhưng quyền năng vô biên vô tận của Thiên Chúa và tấm lòng hy sinh tột độ của Mẹ đã có sức ngăn cản sự chết để con được sống. Từ giây phút nhận lãnh bí tích Rửa Tội, con đã được gọi và chọn để sống sung mãn trong Thần Khí Thánh của Chúa.

Con lớn lên theo dòng thời gian. Khi trí khôn con bắt đầu nhận ra Chúa và hiểu được tình Chúa yêu con, tim con cũng bắt đầu rung nhịp yêu thương. Tiếng Chúa khẽ gọi hồn con, âm thầm, lắng đọng nhưng vang vọng thâm sâu. Tiếng gọi huyền nhiệm ấy mỗi lúc một gần và được xác tín từ lúc Đức Giám Mục Tomayo sức dầu thiêng hình Thánh Giá trên trán con, và đọc: “Hãy lãnh nhận Ấn Tín của Chúa Thánh Thần.” Dầu thiêng và Lời đã thấm nhập vào trí hồn con. Thánh Thần Chúa đến với con thật mạnh mẽ, tim con nóng ran, hồn trào dâng niềm hạnh phúc khó tả. Rồi Đức Giám Mục vỗ nhẹ trên má, chúc bình an và sai con ra đi làm chứng nhân, làm men muối cho đời! Ngỡ ngàng và ngạc nhiên, con tự hỏi mình có thể minh chứng được điều gì cho Chúa đây?

Theo con hiểu, lịch sử cứu độ đã là một lịch sử về một chuỗi lời hứa: Thiên Chúa đã hứa với ông Nô-e rằng cõi đất sẽ không bao giờ còn bị ngập trong đại hồng thủy nữa. Người đã hứa với ông Abraham rằng miêu duệ ông sẽ nhiều như sao trên trời, như cát ngoài bãi biển. Người đã hứa với ông Môsê là đưa dân Người ra khỏi đất nô lệ để sống như một người con tự do. Và cuối cùng, Ngài thực hiện lời hứa ban Đấng Cứu Thế qua việc hiến tế Con Một là Đức Giêsu Kitô để cứu chuộc loài người.

Ôi Thiên Chúa của con, là Thiên Chúa đã hứa và đã giữ lời. Vì con là con của Ngài, nên con cũng dám làm điều mà Cha con đã làm trước. Đó là, vào buổi ban mai của tuổi mười tám với đầy mộng mơ, con đã tự nguyện bước theo tiếng gọi huyền nhiệm để vào Tu Viện Thánh Đa Minh. Với bao năm rèn luyện, tu thân, học tập và những phút giây sống thân mật với Thiên Chúa, con hiểu được hạnh phúc không phải là một cảm hứng nồng nàn chống phai, hay chỉ bao hàm vỏn vẹn một khả năng biết vui với người vui và khóc với những ai buồn sầu. Nhưng con khám phá niềm hạnh phúc bất tận này vào những lúc mà dường như mọi sự là màu đen, khi con phải trải qua những cuộc chiến “xương máu” để lì Ở’ lại, và nên Một’ trong Tình Yêu Thiên Chúa (Jn.15:9).

Con đã gắng giữ lời giao ước: “Lúc bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe, lúc vui cũng như lúc bị ruồng bỏ.” Để rồi hôm nay, con nằm phủ phục để dâng hiến một tương lai tự con không biết trước, để chia sẻ những gì con “là”. Qua lời khấn Khó Nghèo, Vâng Lời và Khiết Tịnh, con đánh liều tự buộc mình trung thành, gắn bó với Chúa cho đến chết mà không biết tương lai sẽ ra sao? Con tin vào Chúa chứ không tin vào mình. Với niềm xác tín đó, con tự nguyện tuyên khấn trọn đời, trao mình vào tay Bề Trên, và ” cả những chị em đến sau, rồi còn cam kết vâng phục những người chưa chào đời .” Nữa (Timothy Radclift p.189).

Cha Timothy đã trích lời của Thánh Thomas Aquinas: ” Tuyên khấn, đây là một hành vi chứng tỏ lòng quảng đại triệt để, bởi vì trong khoảnh khắc chúng ta dâng hiến cuộc đời, chúng ta sẽ sống khoảnh khắc ấy liên tục qua dòng thời gian .” Chúa ơi, con như đã hiểu! Những năm dài thực tập sống khoảnh khắc cam kết trọn đời chung thủy, là tiếp nối sứ mệnh Đức Kitô làm chứng cho Lời Hứa Sự Thật. Lạy Chúa là Đấng đã hứa và giữ lời hứa. Chúa biết thế giới ngày nay đang bị đe dọa bởi nhiều sự thất tín, bội nghĩa vong ân, biết bao cuộc hôn nhân dỡ dang, đổ vỡ… Một khi lời hứa mất đi ý nghĩa, thì lời khấn trung thành cho đến chết có nghĩa gì? Chúa ơi, xin dâng lên Chúa tất cả chúng con là những người nam nữ sống đời tu trì cũng như sống đời phối ngẫu. Chúng con rất cần ơn Chúa để nổ lực thi hành sứ vụ, ơn gọi Chúa trao ban, và dám giữ lời cam kết thủy chung trọn đời. Hành vi trung thành giữ lời hứa này rất khó thực hiện. Những nếu ở lại’ với Chúa, chúng con sẽ nên chứng từ hùng hồn cho thế giới nhận biết có một Vì Thiên Chúa đang hiện diện, Đấng đã hứa và đã giữ lời hứa, đầy thành tín và yêu thương chúng con rất mực.

Nguồn: http://www.nutudaminh.org/vni/Unicode/BSN/Sr_Huong.htm

Đường gian truân đi đến tự do

Đường gian truân đi đến tự do.

(Đã đăng trên báo Người Việt ngày 16 March 2010)

Tác giả: Phùng Văn Phụng

Khoảng Tháng Giêng năm 1983, tôi trở về nhà sau gần tám năm đi tù cải tạo, xa gia đình. Nhìn dọc theo đường Phạm Thế Hiển bên kia cầu Chữ Y, hoàn toàn thay đổi, không còn nhìn ra được các chỗ quen thuộc trước đây.

Nhiều nhà lấn ra phía trước. Nhiều nhà lên lầu. Những nền trống lúc ra đi tôi thấy, nay được xây lầu, nhà mới. Bước vào nhà, tôi thấy bốn năm đứa nhỏ đang ngồi học, tôi không biết đứa nào là con của tôi. Một đứa trẻ đang ngồi học, chạy thẳng ra phía sau nhà nói: “Má ơi có ông nào kiếm má kìa?” Tôi đi theo, ra sau nhà, tôi thấy bà xã tôi đang nấu cơm. Tôi gặp cậu Bảy, tự nhiên nước mắt tuôn trào, tôi khóc!

Tôi không thể nào cầm được nước mắt. Tôi không ngờ còn sống để được gặp lại cha mẹ, vợ con, vì tôi cứ đinh ninh rằng tôi sẽ bỏ xác ở nơi rừng thiêng nước độc, khó hy vọng sống sót để về tới nhà.

Trước 1975, tôi là giáo sư trung học. Khi cải tạo về, tôi chưa được làm người dân bình thường. Tôi còn bị quản chế, đi đâu cũng phải khai báo, phải trình diện công an hàng tuần. Mỗi sáng thứ hai đem sổ trình công an, ghi rõ từng ngày đã làm gì, tiếp xúc với ai. Nội cái việc trình diện hàng tuần như vậy cũng đủ làm cho tôi không còn sáng suốt, không còn tâm trí để tính chuyện làm ăn. Mà làm ăn cái gì mới được, khi tôi không có đồng xu dính túi. Lúc này nhà cầm quyền cấm tư nhân làm ăn. Ngay cả bán cà phê còn phải bán chui nữa mà. Mọi thứ buôn bán đều phải vô hợp tác xã hết.

Người dân bình thường còn bị khó khăn trong công ăn việc làm, huống hồ gì tôi, người vừa về từ trại cải tạo. Tôi phải xoay sở, kiếm sống bằng nghề lao động chân tay.

Tôi quyết định đi… đạp xích lô

Anh Ðạt, bạn tù, trước ở chung cùng trại cải tạo với tôi ở trại Tân Lập, Vĩnh Phú về trước tôi mấy tháng, có chiếc xe xích lô cho mướn. Sáng sớm, tôi lấy bộ quần áo hơi tệ một chút. Áo sơ mi cũ. Quần tây cũ nhưng lành lặn.

Tôi đến nhà anh Ðạt mượn chiếc xích lô chạy thử, xem có hành nghề xích lô nổi không? Ðạp tới dốc cầu Nhị Thiên Ðường, tôi phải xuống xe, đẩy lên dốc. Nhưng chỉ là chiếc xe xích lô, không có người, nên tôi đẩy chiếc xe không lấy gì làm khó khăn. Tôi thấy vui vui, vì lần đầu tiên… đạp xích lô, dùng sức lao động của mình để kiếm sống.

Tôi đạp xe qua cầu Nhị Thiên Ðường, chạy đến bến xe Chợ Lớn, khu chợ Bình Tây để kiếm khách. Vì là lần đầu chạy xích lô, tôi đâu có biết, là người ta cấm rước khách trước cổng chợ.

Vừa đậu xe trước cổng, bảo vệ chợ đến lấy cái nệm trên xe để dùng cho khách ngồi. Thế là cái xe xích lô của tôi trống trơn. Tôi đạp xe không, chạy vòng vòng một hồi, đến ngã tư đường Nguyễn Trãi và Nguyễn Tri Phương, gặp khách gọi. Ðó là hai vợ chồng người Hoa mập mạp leo lên xe, bảo tôi chạy từ ngã tư, từ đường Nguyễn Trãi, chạy dọc theo đường Nguyễn Tri Phương để đi lên phía đường Vĩnh Viễn. Tôi không ngờ là đường lên dốc, tôi đạp không nổi vì ông bà người Hoa này quá mập. Chắc hai vợ chồng này cũng phải gần 160 hay 170 kí lô. Sau chuyến xe chở hai người Hoa đó, tôi thấy quá mệt, đành phải đem xe về trả lại cho anh Ðạt. Tôi biết sức mình không thể làm nổi nghề này. Ðêm đó, tôi trằn trọc suốt đêm, tim tôi đập nhiều, đập liên hồi, không ngủ được. Mãi đến mấy ngày sau mới bình tĩnh trở lại, sức khỏe mới bình thường.

Tôi lại đổi nghề, đi làm… thợ hồ

Anh Hai tôi nhờ tôi đi theo để sửa chữa ống cống ở Quận 11. Sáng sớm, tôi cùng anh Hai, mỗi người một chiếc xe đạp chạy qua Quận 11. Tôi xách theo một phần cơm đeo tòn ten ở ghi đông xe. Ðến nơi, tôi phụ anh Hai bốc dỡ các miếng “đan” vuông vức mỗi bề chừng tám tấc, khiêng ra khỏi miệng cống. Anh Hai tôi sửa chữa những chỗ hư hại. Sau đó hè hục khiêng đậy lại chỗ cũ. Sau một ngày làm việc ngoài trời nắng gắt, anh phát cho tôi một ngày “lương” là công tôi phụ giúp khiêng mấy tấm “đan.” Ngày hôm sau anh không nhờ tôi nữa vì tôi không làm nổi những việc nặng nhọc mà anh cần tôi giúp.

Thế là lại đổi nghề, tôi đi bán… vé số dạo

Anh Nguyễn Tấn Th. đang làm nghề bán vé số. Anh đặt cái bàn bán vé số ở chợ Phạm Thế Hiển. Trước năm 1975, anh tốt nghiệp Cao Học Hành Chánh, làm ở Nha Thuế Vụ, Bộ Tài Chánh.
Bây giờ anh thất nghiệp, lãnh vé số để bán, vừa bán lẻ, vừa giao cho các bạn hàng. Tôi đến nhà anh để nhận vé số về bán kiếm lời. Chỗ ngồi thì bà con đã sắp xếp hết rồi, tôi đâu còn chỗ nào chen chân vô được. Ðành phải đi bán dạo.

Lúc đó, tôi nghĩ phải đi thật xa ra khỏi khu vực Quận 8 thì mới hy vọng không gặp học trò cũ của mình. Tôi nghĩ, trước đây cũng từng đi dạy học, cũng là một giáo sư trung học, mà bây giờ đi bán vé số thì cảm thấy mắc cỡ quá, coi kỳ cục quá.

Sau khi anh Thời đưa sấp vé số cho tôi, tôi đâu dám mời bà con ở Quận 8. Tôi đi bộ qua đò Chánh Hưng, đi vòng qua chợ Xóm Củi cũng chưa dám bán, tôi đi dọc Kinh Tàu Hủ, bến Lê Quang Liêm, qua khỏi Bưu điện Chợ Lớn, khoảng khá xa, tôi hy vọng sẽ không còn gặp ai là người quen nữa.
Tôi đi một khoảng xa đến bến xe xích lô đạp, có mấy anh tài xế đang đợi khách. Tôi nghĩ trong đầu chắc là bán được rồi đó. Tôi liền lấy trong túi quần một cọc chừng năm sấp vé số để mời khách. Tôi vừa đưa sấp vé số, vừa nói:

– “Mời mấy anh mua giùm vé số.”

Vừa mời xong, có một người trong nhóm tài xế nói:

– “Chào thầy. Em là học trò trường Lương Văn Can, mời thầy uống cà phê, hút điếu thuốc.”

Tôi giựt mình, vội vàng đút thật nhanh mấy xấp vé số vào trong túi quần và em này kéo ghế mời tôi ngồi đưa ngay một điếu thuốc thơm đầu lọc, bấy giờ gọi là thuốc “có cán.” Tình nghĩa thầy trò, quí nhau lắm mới mời thuốc lá thơm. Uống vội chút cà phê, hút xong điếu thuốc. Tôi mắc cỡ, thấy ngại ngùng quá nên không dám tiếp tục đi bán nữa. Trở về nhà, tôi giao hết mấy xấp vé số cho đứa con gái út lúc đó chín tuổi, nhờ cháu đi đò qua phường Chánh Hưng bán tới xế trưa khoảng bốn, năm giờ chiều thì hết.

Thế là có nghề mới: giặt bao nylon

Tôi cùng anh Hoàng Văn Ð. đi đến các tiệm mua bán vật liệu phế thải, kiếm bao nylon dơ mà mua. Ðem giặt ở chỗ máy nước công cộng, phơi khô rồi đem đến các cơ sở sản xuất ra bao ny lon mà bán. Ngồi giặt bao nylon cho hết các chất bẩn như dầu mỡ, đất cát, bụi, giặt cho thật sạch cũng rất gian nan. Kiếm chỗ sân vận động để phơi cho thật khô rồi đem đến cho các tiệm làm bao ny lon bán. Nhưng họ ép giá, đòi giá quá thấp cho nên bán xong chỉ lấy lại được vốn là mừng rồi. Giặt sạch, phơi khô, công việc cả ngày mà không có lời nên đành bỏ cuộc, không tiếp tục làm nghề này được.

Chuyển sang nghề mua bán sách báo cũ

Tôi vào trong các tiệm phế liệu ở Quận 7 (cũ), mua bịch nylon, thấy họ có một số sách báo cũ, tôi lựa các sách tạm gọi là “coi được,” mua lại để ở nhà. Sắp xếp loại nào có giá trị đem ra đường Huỳnh Thúc Kháng để bán cho các gian hàng bán sách cũ. Tôi đi với đứa con gái lúc đó khoảng 13, 14 tuổi, ôm phụ giùm các cuốn sách.

Ra đến nơi, mới vừa ôm các cuốn sách để giới thiệu với các quày bán sách, thì bị bảo vệ đến tịch thu sạch trơn, không cho bán, mặc dầu các sách này chẳng phải là sách cấm. Họ nói rằng buôn bán không có giấy phép nên họ tịch thâu. Tôi đau lòng, rất buồn vì thầy giáo không đi dạy được, bán sách cũ cũng không cho. Làm gì để sống đây? Tôi chỉ còn có con đường hồi hương, về quê làm ruộng hay đi kinh tế mới cuốc đất trồng khoai. Ðó cũng là chủ trương của nhà nước lúc bấy giờ.

Trở lại nghề cũ: đi dạy kèm

Phụ huynh học sinh cũ thương tình mời tôi đến nhà để dạy Toán, Anh văn cho con họ. Tôi làm nghề dạy kèm tư gia. Mỗi chỗ dạy chừng hai ba học sinh. Những lúc trời mưa, trời gió cũng đi xe đạp đến dạy. Dạy đâu được vài tháng các em cũng không chịu học nữa vì cái học lúc này không hấp dẫn các em. Bác sĩ ra trường lãnh tháng lương không bằng nghề vá xe đạp ở ven đường. Tôi lại chuyển nghề.

Ði bán bia, nước ngọt

Sau một thời gian dạy học không đủ sống, bà xã tôi có một người bạn dạy chung trường có cơ sở nước ngọt, cần người bỏ mối.

Họ cho mượn năm kết vỏ chai để tôi lấy hàng đi bỏ mối. Tôi đến các quán bán nước ngọt, bán bia, mời chào. Quán đầu tiên là quán… bà Ba, trên đường Liên Tỉnh số năm, dưới dốc bên phải cầu Nhị Thiên Ðường.

Thấy giá rẻ, cho mượn vỏ chai nữa nên bà Ba chịu liền. Tôi mừng quá, lần đầu giới thiệu hàng mới mà có người nhận ngay. Tôi vòng qua chợ Bông Sao, đi dọc theo đường Lộ Ðá Ðỏ hỏi bất cứ quán bán nước nào ven đường. Lúc này, chỉ có một người bỏ mối nước ngọt mà thôi, nên tôi không có gặp sự cạnh tranh nào đáng kể. Tôi ráng hết sức đi lấy hàng và giao hàng.

Có khi trời đang nắng, cái nắng gay gắt của buổi trưa Hè, tôi cũng phải chở nước ngọt bằng xe đạp, hai kết được ràng ở phía sau xe, hai giỏ xách để ở đàng trước chở được một kết nước ngọt, vị chi là ba kết trên xe.
Sau khoảng ba tháng chở nước ngọt bằng xe đạp, tôi bắt đầu bị cảm thường xuyên. Sau một thời gian cảm ho, nằm ngủ không được vì khó thở, tôi phải kê đầu gối lên cao mới ngủ được, mới thở được. Nhiều đêm ho và quá mệt, tôi đành phải đi bác sĩ. Người ta khám phá tôi bịnh lao và phổi có nước. Thế là phải vô bịnh viện Nguyễn Trãi nằm điều trị mất một tháng.

Về nhà phải uống thuốc mất một năm rưỡi nữa mới lành bịnh. Tôi còn nhớ, lúc đó vừa giao nước ngọt và bán thêm rượu bia, có tên là “bia lên cơn,” bia này được nấu bằng cùi thơm hay vỏ của trái thơm để vài ngày lên men, có gas uống cũng chóng mặt, cũng say. Bà con thích uống loại này vì… rẻ, còn bia hơi quá đắt, lại khan hiếm, nên không đủ cung ứng cho nhu cầu.

Ngoài “bia lên cơn,” còn có rượu nhẹ 36, là loại rượu pha cồn công nghiệp, uống vô nhức đầu chịu không nổi.

Lúc mới về, phó chủ tịch phường sai tôi đi đắp kinh.  Sáng sớm phải đội cái nón lá lên đầu, xách theo bình nước lã để uống và phải lội xuống sình để đắp bờ đê. Trong thực tế, họ cho người dẫn chúng tôi đến con kinh nhỏ gần ụ Nam Chành, bắt chúng tôi xuống sình để vét kinh, đào đất đắp lên bờ.
Người ở dưới ruộng, từ xa giữa ruộng, xắn một cục đất tạm coi là khá lớn, chuyền tay cho người thứ nhất đã rớt xuống một miếng, chuyền đến tay người thứ hai đã rớt thêm một miếng đất nữa đến khi miếng đất truyền đến người cuối cùng quăng được cục đất lên bờ thì nó chỉ còn bé tí tẹo.

Sau một buổi làm việc như vậy, số đất đem lên bờ chẳng còn bao nhiêu, chỉ làm cho đường đi càng dơ bẩn hơn mà thôi. Ðối diện với nhà tôi là công an phường. Cho nên sáng ngủ thức dậy là thấy công an rồi. Công an thường xuyên theo dõi xem tôi có liên lạc với sĩ quan của chế độ cũ để tổ chức phản động chống nhà cầm quyền hay không? Ðó là hình thức tù “lỏng” mà thôi. Tôi thì lúc nào cũng lo sợ, hồi hộp không biết sẽ bị bắt lại bất cứ lúc nào vì bất cứ lý do gì. Lòng tôi không yên. Lo âu hoài. Lo hết chuyện này đến lo chuyện khác. Lo làm ăn. Lo bị đói, không đủ ăn. Toàn gia đình làm việc cật lực mới sống được, mới tồn tại được. Theo luật bù trừ, con cái tôi vì phụ giúp buôn bán nên không còn chú tâm hoàn toàn vào việc học nữa. Còn riêng cá nhân tôi lo bán bia, bán nước ngọt nên không còn thì giờ dạy con cái học hành.

Cám ơn Thượng Đế, cám ơn mọi người.

Hành trình qua Mỹ thật cam go. Khi được cộng sản thả ra từ trại Nam Hà, thành phố Hà Nam Ninh về đến Sài Gòn, một thời gian ngắn khoảng vài tháng, tôi nhờ anh Nguyễn Gia Ph., một cựu giáo sư dạy cùng trường Lương Văn C. về trước tôi khoảng hai năm, cho tôi mẫu đơn để tôi điền đơn gởi sang Tòa Ðại Sứ Mỹ ở Bangkok, Thái Lan để xin định cư tại Hoa Kỳ. Trong thời gian này, ít ai dám làm đơn vì còn sợ cộng sản biết được có thể bắt bỏ tù trở lại vì đã ở tù rồi mà còn muốn theo kẻ thù là “Ðế Quốc Mỹ,” còn thích “bơ sữa” của kẻ thù. Như vậy là chưa… cải tạo được.

Tôi quyết định làm đơn rồi “lén,” gởi… chui, nhờ người làm trong bưu điện gởi giùm. Không có ai, không có chỗ nào dám nhận đánh đơn của mình. Tôi phải tự đánh máy lấy và tự gởi, lòng tôi lo âu không biết thơ của mình có tới Thái Lan không? Ðơn tôi có bị công an kiểm duyệt và tôi có bị làm khó dễ khi nộp đơn chui như vậy hay không?

Tôi gởi nhiều đơn, đơn nào cũng giống nhau cứ vài tháng lại gởi một cái đơn. Tôi cứ gởi đại nhiều lần, hy vọng thơ này lạc còn có thơ khác tới. Tôi cũng gởi cho bà Khúc Minh Thơ để bà gởi sang Bangkok can thiệp giùm tôi.
Ði dạy học trở lại thì nhà nước cộng sản không cho. Tôi hoàn toàn thất nghiệp. Tôi chỉ còn hy vọng lối thoát duy nhất này, đi Mỹ để giải quyết chuyện làm ăn, chuyện học hành của con cái, nhất là tôi có thể tìm được tự do.

Tôi được người cháu gọi bằng cậu, cháu ngoại bác Hai tôi ở làng Tân Tập nhận bảo trợ cho tôi từ năm 1983. Khi nộp đơn đi Mỹ, người cháu này lo giấy tờ cho tôi và được phía Mỹ chấp thuận từ năm 1984, được gọi là tờ “Loi.” Nếu có tờ giấy này, có thể dùng để xin xuất cảnh ở Việt Nam. Hành trình đi Mỹ của gia đình chúng tôi rất là gian nan. Tôi thường ra Sở Ngoại Vụ, trước dinh Ðộc Lập cũ, để nghe ngóng tin tức. Ôi thôi đủ thứ loại tin tức, thêu dệt đủ thứ về cuộc sống sung sướng, giàu sang ở Mỹ.

Tôi cùng với người bạn, là anh Quang, đi nộp đơn, nhưng vì anh ấy có bảo lãnh trước nên Sở Ngoại Vụ nhận đơn để làm giấy xuất cảnh, còn tôi chỉ có tờ “Loi.” không có ai bảo lãnh cả, nên họ không cho nộp đơn, bảo phải chờ thông báo sau.
Khi cho tù cải tạo nộp đơn, vì nộp trễ, tôi được lên danh sách HO 23. Lúc này có rất nhiều người khiếu nại bên phía Mỹ để xin đi sớm nêu lý do là nộp đơn quá lâu rồi, ở trong nước bị chèn ép, khó khăn, nguy hiểm. Tôi cũng có làm đơn khiếu nại. Cuối cùng tôi được “đôn” lên HO 19, đi trước khoảng một năm.
Trước khi ra đi, phải khám sức khỏe. Khi đi khám bịnh phải lo đủ thứ, lo đủ nơi. Phải lo khám trước ở nhà riêng của bác sĩ, chụp phổi trước xem có bị nám không? Chi tiền cho bác sĩ để đến khi khám bịnh chính thức sẽ được dễ dàng hơn. Khi đi phỏng vấn cũng phải bỏ vô hồ sơ vài chục ngàn đồng để được dễ dàng không bị các viên chức cộng sản làm khó dễ. Tôi quá sức hồi hộp vì sợ có điều gì trở ngại không? Tôi biết hồ sơ tôi rất tốt vì từ năm 1983 khi tôi làm đơn gởi qua Bangkok, Thái Lan, cho đến lúc được phỏng vấn không có gì thay đổi cả.Tháng cuối cùng trước khi tôi được lên máy bay, tôi bị cảm liên miên vì tôi quá lo lắng. Tôi thuộc diện phải giao nhà cho nhà nước quản lý. Tôi có khiếu nại. Họ ngâm hồ sơ không chịu giải quyết để tôi nóng lòng muốn đi Mỹ thì phải ký giao nhà cho họ.Tối hôm Chúa nhật tôi lên máy bay mà cả tuần cuối cùng đó, tôi thường xuyên lên sở nhà đất họ cũng không chịu trả lời, bảo tôi phải chờ.Tôi đã có giấy tờ đăng ký chuyến bay, đã có dịch vụ lo chuyên chở hành lý. Ðã hẹn ngày giờ chở gia đình tôi ra sân bay. Nhưng đến những ngày chót mà tôi cũng chưa có giấy chứng nhận không có nhà cửa. Nếu thiếu tờ giấy này tôi không thể nào lên máy bay được. Sáng thứ bảy, tôi đi cùng một nhân viên dịch vụ của tôi đứng đợi ở Sở nhà đất. Chúng tôi phải chung tiền cho họ vậy mà mãi đến chiều thứ bảy khi sắp đóng cửa, họ mới chịu đưa giấy tờ cho tôi. Trước đó mấy ngày, hôm thứ năm, tôi có nhận được giấy báo đình chỉ chuyến bay. Khi nhận được giấy đình chỉ chuyến bay tôi như người mất hồn không biết giải quyết ra sao? Vợ tôi thúc hối cứ ký giao nhà cho nhà nước để được đi sớm. Lòng tôi rối như tơ vò, tôi không thể làm như vậy được vì nhà này đâu phải là nhà của tôi đâu mà tôi ký giao, tôi chỉ đứng tên cái nền nhà giùm cho ba má tôi mà thôi.Tôi không thể ký giao nhà của ba má tôi được. Cơ sở đại lý bia thì đã bán lại cho em tôi rồi. Ðã cầm lấy tiền, đã thanh toán nợ nầng xong.Trong một tháng cuối cùng tôi không lúc nào yên ổn cả. Lo bán tiệm. Lo khám sức khỏe. Lo thăm viếng bà con, anh em, bạn bè. Lòng tôi ngổn ngang trăm mối, đầu óc quay cuồng bao nỗi lo âu.

Lần ra đi này lại thêm thử thách mới cho tôi, lại phải thay đổi nghề nghiệp nữa, rồi sẽ sống bằng nghề gì đây, lại bắt đầu bằng nghề mới ở tuổi 51, sức khỏe tôi không phải loại tốt cho nên nếu làm nghề gì nặng nhọc đâu có làm nổi. Ở quê hương mình tôi có thể nói tiếng Việt với nhau, làm ăn cũng có cơ sở rồi, phấn đấu gần 8 năm được một cửa hàng để buôn bán, một số khách hàng quen thuộc, sinh sống tương đối rất thoải mái so với người xung quanh như vậy là mình có phước lớn lắm rồi. Cho nên bạn bè mới nói làm ăn rần rần như vậy, còn muốn đi Mỹ làm gì nữa. Nhưng họ đâu hiểu rằng làm ăn như vậy, nhưng có gì chắc chắn đâu. Họ có thể đóng thuế thật cao lên, mình chịu không nổi mà bỏ cuộc hoặc rủi ro có truyền đơn hay có biến động gì họ có thể bắt mình vô tù ngay. Về tinh thần làm sao mà yên ổn được. Do đó, tôi phải dứt khoát ra đi, đi bất cứ xứ sở nào, nếu được đi Mỹ thì còn quí giá nào bằng.

Ngày ra đi mừng vui, lo âu lẫn lộn. Mừng vui vì thoát khỏi chế độ Cộng sản, được tự do đọc báo, đọc sách với mọi tư tưởng, mọi khuynh hướng. Tôi có thể nói về bất cứ điều gì mình cho là đúng, không sợ bị bắt bớ, bỏ tù. Nhưng tôi lo lắng không biết làm gì để sống đây. Anh văn không giỏi lắm, nghề nghiệp chuyên môn không có. Tôi cũng đành phó thác cho “Thượng Đế, Ông Trời” về tương lai của mình. Mặc dầu có lo lắng cho tương lai, nhưng sự ra đi thoát khỏi chế độ Cộng sản cũng là niềm vui đối với tôi và gia đình tôi, để giải quyết nhiều vấn đề cùng một lúc, nhà cửa chật chội sẽ được rộng rãi thêm ra vì vắng một gia đình. Con cái sau này có nghề nghiệp theo ý muốn. Tôi không còn bị sự kềm kẹp của công an. Tôi được hít thở không khí tự do đó chính là niềm ao ước thiêng liêng, quan trọng nhất trong đời tôi.

Hôm lên phi cơ ra đi, phi cơ vừa cất cánh, tôi cảm tưởng như mình vừa thoát khỏi cơn mơ. Tôi thành thật cám ơn tất cả những người thân yêu, bạn bè, thầy cũ, học trò cũ đã quan tâm nâng đỡ tinh thần tôi trong những ngày tháng khó khăn lúc tôi vừa mới ra tù. Tôi vẫn nhớ Bác sĩ Trạm tay cầm hai hộp sửa đến thăm tôi lúc tôi mới về. Tôi vẫn nhớ thầy Hoàn thầy dạy tôi hồi tôi học lớp 9 ở trung học, đã đến thăm tôi rất sớm. Các bạn của bà xã tôi đến ăn mừng tại nhà tôi. Con xin hết lòng tạ ơn Thượng Ðế đã quan tâm, nâng đỡ con, hướng dẫn gia đình con đi được đến bến bờ tự do.

Phùng Văn Phụng