KHI TÌNH YÊU ĐƯỢC GỌI LÀ “ĐẠO”

KHI TÌNH YÊU ĐƯỢC GỌI LÀ “ĐẠO”      August 11, 2012                                         Maria Túc Lynh

http://translate.google.com/translate?hl=en&sl=vi&tl=en&u=http%3A%2F%2Fkeditim.net

Đã có lần con được nghe ai đó nói rằng: Con người sinh ra là để yêu và được yêu, nếu có ai đó không được nếm cảm giác ấy thì quả thật là bất hạnh cho cuộc đời mình. Câu nói đó quả thật không sai chút nào.

Và hôm nay khi con lại được nghe và hiểu thêm về cách đón nhận và chia sẻ tình yêu của một người biết cách và sử dụng đúng cách để vừa có được và cho được. Con cảm thấy là mình cần chia sẻ để quý vị có thể tham khảo thêm.

Điều ưu tiên nhất trong việc làm sao để nhận biết là mình đang được yêu và mình yêu. Đó là trái tim chúng ta phải luôn biết rộng mở, mềm mại. Thứ đến là phải tỉnh táo nhận biết đối tượng mà chúng ta nhắm đến mà đón nhận.

Tình Yêu này tuyệt vời lắm, những điều đặc biệt mà con nhận được từ “đối tượng” này là, trong thứ tình cảm đây không hề có chút gì vụ lợi, mà tình yêu được trao tặng không chút đắn đo, suy tính.

Tuy nhiên không phải ai cũng có điều kiện, biết cách để đón nhận và chia tặng cho mọi người.

Sở dĩ con dám gợi lên vấn đề này vì con và những anh chị em thân thương của con, gần như đã thành công và tìm thấy một sự yên bình và hạnh phúc trọn vẹn. Khi áp dụng một phương pháp cực kỳ đơn giản nhưng không kém phần thú vị này.

Đó là một nơi có một trái tim rất nồng nàn chào đón, một trung tâm giải phẫu tất cả các bệnh lý của nhân loại, đương nhiên là không loại trừ sắc đẹp. Nơi ấy càng đặc biệt hơn khi lại ưu tiên tuyệt đối, cho những ai nhận biết sự bất tài và nhỏ bé của mình. Và cũng từ nơi ấy những con người đó được tìm thấy và nhận biết giá trị đích thực của mình.

Từ những ngày đầu tiên, khi chưa biết trái tim đó thuộc về ai mà mới nghe sao lạ tai và kỳ lạ thế. Tại sao mình phải biết để trái tim của mình vào trái tim của Người đó. Trái tim của mình phải biết rộng mở, phải để nó luôn biết thẩm thấu hòa tan trong một “biển tình yêu”, trong cội nguồn yêu thương. Cuối cùng thì chính Con Người sở hữu trái tim đó đã dẫn đưa con đến. Đến vì tò mò, đến vì muốn tìm một cái phao giữa lúc con đang chơi vơi, đến chỉ vì đơn giản là tìm cứu cánh mà thôi.

Rồi đến một ngày không xa, con đã biết nói những lời nói dịu dàng, thỏ thẻ, êm ái, nũng nịu để nói lên những câu nói âu yếm thiết tha với Người sở hữu trái tim đặc biệt đó.

Con Người đặc biệt đó là một chuyên gia tâm lý rất tài ba, chỉ cần nhìn thấy ánh mắt của con là Người đã biết con cần gì và mong muốn điều gì. Người ấy thấu suốt tâm cang của chúng con một cách kỳ lạ, rồi Người từ từ chọn từng trường hợp, từng ca bệnh mà chữa trị cũng như ban tặng.

Chỉ với những câu nói ngây ngô, đơn sơ nhưng được xuất phát từ đáy lòng của chúng con, đều được Người đáp trả một cách hoàn hảo.

Không để quý vị phải thắc mắc lâu, con xin trân trọng giới thiệu. Đó là Thiên Chúa Tình Yêu và đạo mà Người Ấy sáng lập và bảo trợ đời đời cho những ai đón nhận. Con gọi đó là Đạo Tình Yêu chính là Đạo Công Giáo.

Khi muốn Người ấy là Cha thì chúng con thường nhõng nhẽo bằng những câu: “Cha ơi! con sợ lắm rồi, nhưng vì con nhận thức rằng Cha là Đấng có đầy uy quyền sẽ bảo vệ và gìn giữ con. Cho dù tình huống trước mắt có hiểm nguy và gian khổ tới đâu, con luôn vững tin mà đón nhận và đi tới”.

Lúc cô đơn thì muốn Người ấy là Người Yêu thì: “Giêsu ơi! Em đang rất cần một lời nói tình tứ của Người lấp đầy khoảng trống trong trái tim em bằng cách cụ thể là cho em được rước Người vào lòng”.

Lúc bị người khác ăn hiếp thì, Anh Ấy là một Người Anh Cả đầy bản lĩnh của một đàn em thơ dại. Với câu kêu cứu rằng: “Anh ơi cứu em và làm chủ trong sự việc này cho em vì họ đang muốn ăn hiếp em”.

Khi đau yếu bệnh tật cho dù là thể xác hay tâm hồn, thì chúng con liền nghĩ tới một vòng tay dịu dàng ấm áp vuốt ve, và thế là: “Giêsu ơi! Con đau lắm. Con xin Người sờ chạm và xoa diệu vết thương này cho con”.

Càng tiếp cận, càng thâm nhập vào Con Người tuyệt diệu này thì con càng thấy con người thế gian quả thật rất may mắn và diễm phúc. Diễm phúc vì trong cuộc sống đầy những gian dối của người đời (có lần con được nghe một linh mục chia sẻ trong bài giảng là “thế gian” là “gian thế đấy), lại có một tôn giáo. Mà Người đứng đầu được xưng tụng là nguồn cội tình yêu và luôn luôn mong muốn ban phát tình yêu bằng mọi cách. Ban phát trong mọi hoàn cảnh, mọi trường hợp và bất kể người xin thuộc dân tộc nào và tôn giáo nào.

Từ ngày con quyết định chọn Người là Đấng Bảo Trợ cho cuộc đời con và những người thuộc về con. Con cảm thấy là con được quá nhiều điều, từ bình an trong mọi hoàn cảnh, từ hạnh phúc đích thực khi sống hòa nhập và phó thác vào Người một cách trọn vẹn.

Nhân đây con cũng xin kể cho quý vị nghe một câu chuyện rất dễ thương từ một người đã trưởng thành trong đức tin. Anh ta đã cảm nghiệm được tình Cha quá trọn vẹn khi trải qua nhiều biến cố trong cuộc đời mình.

Anh ấy kể rằng. Đời sống sẽ con người ta sẽ thật hạnh phúc và bình an, nhất là khi người ta biết sống phó thác vào lòng thương xót Chúa, tình yêu Chúa, có một trái tim mềm mại và dễ thấm nhuần như một cục bông. Còn những người chưa nhận ra và quyết không chịu nhận tình yêu mà tự sống chiều theo bản thân và tự kiêu, ảo tưởng rằng mình có thể có tất cả như viên đá khi không cần biết Chúa thì sẽ luôn sống trong cô độc và bất hạnh.

Sau đây là tâm sự của hai nhân vật chính là: Một miếng bông và một viên đá.

Vào một ngày đẹp trời, trên một cánh đồng có nhiều hoa cỏ. Một miếng bông sau một chuyến bay bổng tham quan theo cơn gió nhè nhẹ một cách khoan khoái nhẹ nhàng đầy vẻ đáng yêu đã chạm nhẹ vào một viên đá đang cô độc một mình bên khóm hóa xinh đẹp. Tuy đang cận kề bên một tuyệt tác của đấng tạo hóa nhưng viên đá kia lại có gương mặt rất thảm sầu và mang trong mình đầy tâm trạng cô độc.

Thấy vậy, miếng bông thắc mắc, bèn lân la đến hỏi chuyện và mong được an ủi chia sẻ người bạn bên đường cô đơn.

Bông hỏi đá: Bạn ơi! Bạn đang sở hữu một vẻ ngoài rắn chắc và đầy bản lĩnh, sao bạn lại mang một nét mặt đầy vẻ ưu tư lo lắng. Điều làm cho mình càng thắc mắc hơn, là bạn đang cận kề bên một vẻ đẹp tuyệt vời, mà bạn lại không thấy hạnh phúc và yêu đời.

Viên đá liền ngước đôi mắt đầy vẻ mệt mỏi và thất vọng trả lời một cách đầy bi quan, nhưng cũng không kém phần kiêu kỳ: “Tôi chẳng thấy gì là thú vị, hoa đẹp rồi cũng đến khi héo rũ và xấu xí. Tôi tự biết mình là kẻ đầy bản lĩnh vì tôi biết có thể làm tất cả. Tôi không cần ai giúp, thi thoảng tôi còn gặp người vì vô ý vấp phải tôi để rồi xuýt xoa than đau vì vết thương do tôi gây ra. Người ta còn dùng tôi để trả thù bằng cách ném tôi vào đối phương, hòng gây thương tích. Nói tóm lại là cuộc đời tôi là những chuỗi ngày, chuỗi sự kiện không hiện hữu danh từ tình yêu. Nói tóm lại là cuộc đời tôi không cần sự sẻ chia, không cần một thứ tình yêu mà bạn đang có… Vì tôi đang rất tự hào về mình, măc dù nhiều lúc cũng cô đơn trống vắng. Nhất là mỗi khi nghe ai đó nói câu: “…ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau…”

Miếng bông rất đau lòng về lời chia sẻ cuộc đời của viên đá, bông khẩn khoản đến gần nhẹ nhàng đặt lên viên đá một vòng tay êm ái. Bông thỏ thẻ, dịu dàng mang nét mặt tràn đầy vui tưoi, hạnh phúc để sẻ chia cùng viên đá.

Bông nhỏ nhẹ bên tai của viên đá: “Bạn đáng mến của tôi ơi! Mình xin bạn chỉ một chút thời gian quý báu của bạn, để chia sẻ cảm nhận của mình khi mình biết trao phó cuộc đời mình cho một tình yêu vĩ đại. Bạn biết không, mình luôn sẳn sàng chịu thấm đẫm những giọt nước từ trời yêu thương, mình luôn chuẩn bị sẳn tư thế để bay bổng trong vùng trời đầy yêu thương và bình an với một tâm hồn thật nhẹ nhàng và hạnh phúc. Mình luôn được những cơn gió mát dịu dàng đầy yêu thương đưa đến bất cứ khắp nơi. Từ những cánh đồng hoa xinh đẹp, để mình được tung tăng chiêm ngắm vẻ đẹp tuyệt tác của Đấng Tạo Hóa. Đến những nơi đầy những niềm đau như bệnh viện hay nơi xảy ra những cuộc giao tranh. Ở những nơi đó, đồng loại của chúng tôi dùng sự êm ái nhẹ nhàng của mình, mà xoa dịu nõi đau từ những vết thương bằng cách lau rửa thật nhẹ nhàng. Chúng tôi còn được dùng làm cái gối cho người ta tựa đầu, mong tìm một giấc mơ đẹp. Người ta cũng có thể dùng chúng tôi để ôm ấp trong những đêm lạnh khi cảm thấy cô đơn, buồn tủi vì cuộc đời.

Nói tóm lại cuộc đời của mình, mình cảm thấy rất hạnh phúc khi mình biết rằng đang được một cái bóng tình yêu vĩ đại bao bọc, khi mình biết sống hòa tan vào tình yêu ấy trong mọi tình huống, hoàn cảnh. Mình rất mong bạn hãy suy xét lại tình trạng của bạn hiện tại, bạn cũng thú nhận là cuộc đời bạn là những chuỗi ngày cô độc. Bạn cứ mãi co cụm bản thân, không hòa mình, không phó thác mà bạn cứ tự ru mình bằng những suy nghĩ không tích cực thì mình nghĩ điều bạn được ở cuộc đời này chỉ là bất hạnh và đau khổ.

Bây giờ thì mình xin tạm biệt bạn. Cơn gió tình yêu của mình đang tới và mình đang chuẩn bị sẳn sàng để cùng tình yêu của mình mang những thông điệp yêu thương, những sự bình an đích thực và hòa bình đến khắp nơi trên cõi đất này, theo tiếng gọi của Một Tình Yêu Vĩ Đại. Mình xin chúc bạn sớm tìm thấy hạnh phúc, ý nghĩa tình yêu đích thực và sự bình an đúng nghĩa của cuộc đời mình.”.

Vì con thấy câu truyện này có một ý nghĩ khá nhẹ nhàng và dễ thương, nhất là ý nghĩa của truyện cũng là mục đích của bài viết của con. Là nếu ta biết sống phó thác, hòa tan trong tình yêu với trái tim mềm mại và luôn biết rung động trước những tín hiệu của Thiên Chúa Tình Yêu và Lòng Thương Xót của Chúa. Thì điều ta được sẽ là những bình an, hạnh phúc, sự tự do đúng nghĩa, vì thế nên con xin hầu cùng quý vị.

“..Thiên Chúa là Tình Yêu…”(1Ga 4,8). Đây là một câu nói khẳng định chỉ có Thiên Chúa, ở nơi Thiên Chúa và hòa tan trong Chúa thì con người mới cảm nhận hết được như thế nào là sự bình an đích thực, sự tự do đúng nghĩa và niềm hạnh phúc tuyệt vời…,mà chúng con là những tân tòng bé nhỏ đã nhận ra, những người được gọi là người Công Giáo cũng nhận ra.

Trong bài viết này, con cũng xin phép được dành tặng riêng cho những quý vị không thuộc đạo Công Giáo. Cho dù quý vị đang thuộc tôn giáo nào, có một niềm tin vào đấng vô hình nào. Thì con cũng mong quý vị hiểu rằng Thiên Chúa muôn đời là Thiên Chúa Tình Yêu. Một Tình Yêu không biên giới, không phân biệt dân tộc nào, hay bất cứ tôn giáo nào. Tình Yêu đó luôn sẳn sàng trao tặng cho quý vị, chỉ cần quý vị mở rộng trái tim. Hãy để trái tim mình mềm mại như miếng bông thì quý vị sẽ thấy chúng con nói không hề sai.

Con rất mong quý vị đón nhận bài viết cùng câu truyện trên và xin quý vị cầu nguyện cho những tân tòng nhỏ bé chúng con. Chúng con cũng đang cố gắng một cách tối đa, để cho trái tim của mình biết mềm dịu như miếng bông, hòng ngày càng được hòa tan trọn vẹn trong biển tình yêu của Thiên Chúa.

Cuối bài viết con xin Thiên Chúa Tình Yêu chúc lành và luôn ban tràn đầy hồng ân trên quý vị.

Con

Maria Túc Lynh

Bánh bởi trời

Bánh bởi trời

                                                                                ĐTGM. Ngô Quang Kiệt.

                                                                                       nguồn: thanhlinh.net

Cuộc đời tiên tri Êlia là một cuộc chiến đấu anh dũng và kiên cường. Một mình người phải chiến đấu chống lại cả một dân tộc bỏ đạo do hoàng hậu Dêdaben cầm đầu. Người khiển trách dân chúng vì họ đã nghe theo hoàng hậu mà bỏ Chúa. Người thách thức 400 sư sãi của thần Baan trong một cuộc dâng của lễ cầu mưa. Người đã chiến thắng. Nhưng chính vì chiến thắng. Người bị hoàng hậu săn đuổi, phải chạy trốn vào sa mạc. Hôm nay, đói khát đến lả người, vị tiên tri dũng mãnh rồi cũng cảm thấy mệt mỏi rã rời. Người mất hết sức lực thể chất lẫn tinh thần. Chẳng thiết sống, người xin Chúa cất người ra khỏi thế gian phiền nhiễu đầy bất trắc. Người mất hết sức phấn đấu. Người chỉ muốn an nghỉ trong Chúa. Nhưng Chúa sai thiên thần đem bánh cho người. Ăn được bánh bởi trời, tiên tri mới đủ sức vượt qua sa mạc, sau cùng đi tới núi của Thiên Chúa.

Tương tự như thế, đời sống ta cũng là một chuyến đi về nhà Thiên Chúa. Để đến với Thiên Chúa, ta phải vượt qua sa mạc cuộc đời đầy chông gai cạm bẫy. Đường đi rất xa và rất khó khăn. Những chiến đấu có thể sẽ khiến ta mệt mỏi rã rời. Ta sẽ chẳng đủ sức đi trọn con đường nếu không được nâng đỡ, an ủi. Để giúp ta đủ sức chiến đấu và đi trọn con đường khó khăn thử thách tiến về nhà Cha. Thiên Chúa đầy tình yêu thương đã ban cho ta tấm bánh bởi trời. Tấm bánh bởi trời mà Chúa Cha ban cho ta chính là Đức Giêsu Kitô, người Con duy nhất của Người. Món quà của Chúa Cha ban được thực hiện dưới hai hình thức: Lời Chúa và Phép Thánh Thể.

Đức Giêsu Kitô là Lời Ban Sự Sống của Thiên Chúa. Lời Thiên Chúa là Lời Ban Sự Sống. Chính Đức Giêsu đã khẳng định điều này khi Người trả lời ma quỉ cám dỗ: “Người ta sống không nguyên bởi bánh. Nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”. Thật vậy, chính Lời Chúa làm cho sự sống xuất hiện. Nhờ Lời quyền năng của Thiên Chúa, vũ trụ được tạo thành. Lời Chúa là lẽ sống của Đức Giêsu, nên trọn đời Người luôn đi tìm thực hiện thánh ý Chúa Cha: “Lương thực của Thầy là làm theo ý Đấng sai Thầy”. Xưa kia, Thiên Chúa nói qua trung gian các tổ phụ và các tiên tri. Nay, Đức Giêsu là Lời của Thiên Chúa trực tiếp nói với nhân loại. Lời Người ban sự sống cho Ladarô, cho con trai bà góa thành Naim. Lời Người tha thứ tội lỗi cho Mađalêna, cho người phụ nữ ngoại tình, cho Giakêu. Lời Người hoán cải người phụ nữ xứ Samaria. Người đưa tất cả những người tội lỗi trở về con đường sự sống. Lời Người đã giúp cho bao thế hệ tìm thấy lẽ sống. Lời Người ban cho họ một sự sống mới, tươi trẻ, phong phú, dồi dào hơn. Chính vì thế, thánh Phêrô đã lên tiếng tuyên xưng: “Lạy Thầy, bỏ Thầy chúng con biết đi theo ai. Chỉ Thầy mới có những Lời ban sự sống đời đời”.

Ban Lời hằng sống chưa đủ với tình yêu thương của Người, Đức Giêsu còn ban cho ta chính bản thân Người trong bí tích Thánh Thể. Thật là một tình yêu sâu xa tha thiết. Khi nuôi dưỡng ta bằng chính thịt máu Người, Đức Giêsu không những muốn kết hiệp mật thiết với ta trong từng thớ thịt, từng dòng máu, mà Người còn muốn ban cho ta sự sống đời đời. Bí tích Thánh Thể là lương thực thần linh. Lương thực thần linh ban sự sống thần linh. Qua bí tích Thánh thể, sự sống thần linh dần dần thấm nhập bản thân ta. Đây là một tiến trình thần hóa chầm chậm. Ta trở nên một thân thể với Đức Giêsu. Ta sống cùng sự sống của Người, sự sống đời đời trong hạnh phúc của Thiên Chúa.

Thánh lễ chính là bữa tiệc trong đó Thiên Chúa dọn ra hai bàn tiệc. Bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể. Cả hai bàn tiệc cũng đều là chính Đức Giêsu. Trong thánh lễ, ta nghe lời Chúa dạy dỗ ta. Lời Chúa chỉ cho ta con đường ngay thẳng, con đường hạnh phúc, con đường đưa ta về với Chúa. Thánh Thể Chúa ban sức mạnh giúp ta đủ sức đương đầu với những khó khăn thử thách của cuộc đời.

Bởi thế, khi tham dự thánh lễ, ta cần lưu ý lắng nghe Lời Chúa. Chúa muốn nói riêng với từng người. Hãy lắng nghe để tìm ra điều Chúa muốn nhắn gửi. Hãy lắng nghe để tìm ra lẽ sống. Hãy lắng nghe để biết con đường phải đi. Lời Chúa là con đường đưa tới sự thật và sự sống.

Hãy rước lễ một cách kính cẩn sốt sắng. Phép Thánh Thể chính là một quà tặng của tình yêu Thiên Chúa. Hãy hưởng nếm sự ngọt ngào được kề cận Thiên Chúa. Hãy múc lấy nơi Thánh thể nguồn sức mạnh để thắng vượt những thử thách trong cuộc đời. Hãy để Thánh Thể uốn nắn, biến đổi ta để ta ngày càng nên giống Người hơn. Hãy nếm cảm hương vị thiên đàng ngay khi còn tại thế.

Lạy Chúa là Cha vô cùng yêu thương, con cảm tạ Cha đã ban cho con chính Con Một yêu quý của Cha làm bánh trường sinh nuôi dưỡng và đưa chúng con vào sự sống đời đời.

Bánh trường sinh.

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Một ngôn sứ dũng cảm như Êlia trên núi Các-men cũng có lúc chán nản, thất vọng, chỉ muốn xin được chết. Giữa sa mạc, Êlia nằm ngủ dưới gốc cây. Ông không còn đủ sức tiếp tục cuộc hành trình. Một thiên thần đã đem đến cho ông bánh và nước, nhờ đó ông có sức đi đến núi của Thiên Chúa.

Người Kitô hữu cũng phải đi ngang qua sa mạc cuộc đời, với bao thách đố, ngờ vực, hiểm nguy… Chúng ta cần được dưỡng nuôi, nâng đỡ, để có sức đi hết cuộc hành trình về quê thật. Có thiên thần nào hiện ra đem bánh cho ta không? Có thứ manna nào từ trời rơi xuống?

Thiên Chúa Cha muốn ban cho ta tấm bánh từ trời, đó là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa (Ga 6,32-33). Đức Giêsu là Tấm Bánh Cha ban cho nhân loại, và chính Ngài cũng muốn tặng bản thân mình cho ta: “Tôi là Bánh trường sinh” (c.48). “Tôi là Bánh hằng sống từ trời xuống” (c.51). Khi nói đến Bánh hằng sống, Bánh trường sinh, chúng ta thường nghĩ ngay đến bí tích Thánh Thể và ít khi nghĩ đến Tấm Bánh Lời Chúa.

Mỗi thánh lễ là một bữa tiệc. Chúng ta được mời đến dự bàn tiệc Lời Chúa trước khi dự bàn tiệc Thánh Thể. Cả hai đều là lương thực cần thiết cho tín hữu.

Công đồng Vaticanô (PV 7) khẳng định rằng khi chúng ta nghe đọc Lời Chúa trong Phụng Vụ thì Chúa Giêsu “hiện diện trong Lời của Người, vì chính Người nói khi ta đọc Kinh Thánh trong Giáo Hội”. Như thế Chúa Giêsu vẫn loan báo Tin Mừng trong từng thánh lễ (PV 33). Ngài vẫn trao cho ta Tấm Bánh là Lời của Ngài.

Con người sống đâu chỉ nhờ cơm bánh vật chất, mà còn nhờ mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra. Đức Giêsu là Lời viết hoa của Thiên Chúa. “Thầy có những lời ban sự sống đời đời” (Ga 6,68).

Lời Chúa là thức ăn khó nuốt. Cuốn Tân Ước tôi cầm trên tay là một bản văn cổ, thuộc nền văn hóa xứ Pa-lét-tin cách đây hơn 2000 năm. Phải học hỏi, đào sâu mới hiểu đúng và hiểu đủ. Lời Chúa cũng là thức ăn khó nuốt, vì là một lời mời gọi tôi ra khỏi mình, bỏ lại những tính toán khôn ngoan và hợp lý. Tiếng Chúa đụng đến con người tôi, ở đây, bây giờ, và mời tôi dấn thân vào một cuộc mạo hiểm. Nhưng Lời Chúa sẽ là tấm bánh thơm ngon nếu tôi biết lắng nghe và đem ra thực hành. Càng sống Lời Chúa, tôi càng gặp được ánh sáng và sức mạnh, nhất là được hiệp thông với con người Đức Giêsu.

Hãy hưởng dùng Tấm Bánh Chúa trao cho bạn, và hãy chia sẻ cho nhau kho tàng Lời Chúa.

Gợi Ý Chia Sẻ

·        Có câu Lời Chúa nào đã soi sáng cho bạn khi bạn đứng trước một chọn lựa? Có câu Lời Chúa nào đã ảnh hưởng trên đời sống của bạn?

·        Theo ý bạn, để hiểu các bài Sách Thánh trong Thánh Lễ có dễ không? Thế nào là một bài giảng Lời Chúa “đạt yêu cầu”, theo ước mơ của bạn?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con nhìn thấy sự hiện diện của Chúa dưới muôn ngàn dáng vẻ. Chúa hiện diện lặng lẽ như tấm bánh nơi nhà Tạm, nhưng Chúa cũng ở nơi những ai nghèo khổ, những người sống không ra người. Chúa hiện diện sống động nơi vị linh mục, nhưng Chúa cũng có mặt ở nơi hai, ba người gặp gỡ nhau để chia sẻ Lời Chúa. Chúa hiện diện nơi Giáo Hội gồm những con người yếu đuối, bất toàn, và Chúa cũng ở rất sâu trong lòng từng Kitô hữu.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con thấy Chúa đang tạo dựng cả vũ trụ và đang đưa dòng lịch sử này về với Chúa. Xin cho con gặp Chúa nơi bất cứ ai là người vì họ có cùng khuôn mặt với Chúa. Xin cho con khám phá ra Chúa đang hẹn gặp con nơi mọi biến cố buồn vui của đời thường. Ước gì con thấy Chúa ở khắp nơi, thấy đâu đâu cũng là nhà của Chúa. Và ước gì con đừng bỏ lỡ bao cơ hội gặp Chúa trên bước đường đời của con. Amen.

ĐTC: Lời cầu nguyện giúp đương đầu với những lúc khó khăn nhất

 ĐTC: Lời cầu nguyện giúp đương đầu với những lúc khó khăn nhất


                                                                                          Linh Tiến Khải

8/8/2012                                                                  nguồn: Vietcatholic.net

Cần cầu nguyện với thân xác và tâm hồn để bước vào trong ánh sáng rạng ngời sự hiên diện của Thiên Chúa. Vì lời cầu nguyện và tương quan cá nhân với Thiên Chúa giúp chúng ta đương đầu với cả những lúc khó khăn nhất trong cuộc sống.

Đức Thánh Cha Biển Đức XVI đã nói như trên với các tín hữu và du khách hành hương trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 8-8-2012 trong sân nhà nghỉ mát Castel Gandolfo.

Trong bài huấn dụ Đức Thánh Cha đã nhắc tới gương mặt của thánh Đaminh mà Giáo Hội mừng nhớ hôm qua. Thánh Đaminh Guzman là linh mục sáng lập dòng các Anh em thuyết giáo gọi là các tu sĩ Đaminh. Trong một bài giáo lý trước đây Đức Thánh Cha đã trình bày vai trò quan trọng của thánh nhân trong việc canh tân Giáo Hội thời người. Hôm qua ngài đã đề cập tới đời sống cầu nguyện của thánh Đaminh. Đức Thánh Cha nói:

Thánh Đaminh đã là con người của cầu nguyện. Say mê Thiên Chúa, người đã không có khát vọng nào khác hơn là sự cứu rỗi các linh hồn, đặc biệt các linh hồn đã rơi vào lưới của lạc giáo. Là người noi gương Chúa Kitô, thánh nhân nhập thể một cách triệt để ba lời khấn phúc âm, kết hiệp chứng tá cuộc sống khó nghèo với việc rao giảng Lời Chúa. Dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, người tiến tới trên con đường trọn lành kitô. Trong mọi lúc lời cầu nguyện đã là sức mạnh ngày càng canh tân và khiến cho các công tác tông đồ của người được phong phú.

Tiếp tục bài huấn dụ Đức Thánh Cha nói:
Chân phước Giordano thành Sassonia (+1237) người kế vị thánh Đaminh cai quản dòng Đaminh đã viết về thánh nhân như sau: “Ban ngày, không ai tỏ ra lịch thiệp hơn người, và ngược lại ban đêm không ai kiên trì trong việc canh thức cầu nguyện như người. Ban ngày người dành cho tha nhân, nhưng ban đêm người dành cho Thiên Chúa” (P. Filippini, S. Domenico visto dai suoi comtemporanei, Bologna 1982, tr. 133). Nơi thánh Đaminh chúng ta có thể trông thấy mẫu gương việc hội nhập hài hòa giữa việc chiêm niệm các mầu nhiệm của Thiên Chúa và hoạt động tông đồ. Theo các chứng tá của những người sống gần thánh nhân nhất, “thánh nhân luôn luôn nói chuyện với Thiên Chúa hay nói về Thiên Chúa”. Nhận xét này ám chỉ sự hiệp thông sâu xa của thánh nhân với Thiên Chúa, và đồng thời ám chỉ sự dấn thân liên lỉ dẫn đưa người khác tới sự hiệp thông ấy. Tuy đã không để lại các bút tích về lời cầu nguyện, truyền thống đaminh đã thu thập và truyền lại kinh nghiệm sống động của người trong tác phẩm tựa đề “Chín kiểu cầu nguyện của thánh Đaminh”. Được sáng tác giữa các năm 1260-1288  bởi một tu sĩ Đaminh, nó giúp chúng ta hiểu một chút về cuộc sống nội tâm của thánh nhân.

Mỗi một kiểu cầu nguyện, luôn luôn trước mặt Chúa Giêsu Chịu Đóng Đanh, diễn tả một thái độ của thân xác và tinh thần, được thấm nhập một cách thân tình chúng trợ giúp sự cầm trí và lòng sốt mến. Đức Thánh Cha giải thích chín kiểu cầu nguyện của thánh Đaminh như sau:

Bẩy kiểu đầu tiên theo một đường nét đi lên, như các bước đi của một con đường hướng tới sự hiệp thông thân tình với Thiên Chúa Ba Ngôi. Thánh Đaminh đứng cúi đầu cầu nguyện để diễn tả sự khiêm tốn, nằm dài dưới đất để xin ơn tha thứ các tội lỗi, qùy hãm mình để tham dự vào các khổ đau của Chúa, đôi tay giang ra nhìn lên Chúa Chịu Đóng Đanh để chiêm niệm Tình Yêu Tột Đỉnh, hướng nhìn về trời để cảm thấy bị lôi cuốn vào trong thế giới của Thiên Chúa.

Hai kiểu cuối cùng, trái lại, tương đương với hai thói quen đạo đức mà thánh nhân thường sống. Trước hết là suy niệm riêng trong đó lời cầu nguyện chiếm hữu đựơc một chiều kích thân tình, sốt mến và thanh bình hơn nữa.

Sau khi đọc Kinh Thần Vụ và sau khi dâng Thánh Lễ, thánh Đaminh kéo dài việc nói chuyện với Thiên Chúa, không giới hạn thời gian. Người ngồi yên tịnh, cầm trí trong thái độ lắng nghe, đọc một cuốn sách hay chăm chú nhìn lên Chúa Chịu Đóng Đanh. Người đã sống những lúc tương quan này với Thiên Chúa một cách sâu đậm như thế, và cả bên ngoài người ta cũng có thể nhận ra các phản ứng tươi vui hay tiếng khóc của người. Các chứng nhân kể lại rằng có lần ngưới xuất thần với gương mặt biến hình, nhưng ngay sau đó lại khiêm tốn trở về với các sinh hoạt thường ngày, được bồi dưỡng bởi sức mạnh đến từ Trên Cao. Thế rồi lời cầu nguyện trong các chuyến du hành từ tu viện này sang tu viện khác; người đọc Kinh Sáng, Kinh Giờ Ba, Kinh Chiều với các anh em khác, và khi đi qua các thung lũng và núi đồi người chiêm ngắm vẻ đẹp của tạo vật. Khi đó từ trái tim người vọt lên một bài ca chúc tụng và cảm tạ Thiên Chúa vì biết bao ơn lành, nhất là vì sự tuyệt diệu lớn lao nhất là ơn cứu độ do công trình của Chúa Kitô.

Các bạn thân mến, thánh Đaminh nhắc nhớ cho chúng ta biết rằng nguồn gốc chứng tá đức tin – mà mỗi kitô hữu phải làm trong gia đình, trong công ăn việc làm, trong dấn thân xã hội và cả trong những lúc nghỉ ngơi nữa – là nơi lời cầu nguyện, nơi sự tiếp xúc cá nhân với Thiên Chúa. Chỉ có sự tiếp xúc thực sự với Thiên Chúa trao ban cho chúng ta sự mạnh mẽ sống sâu đậm mỗi biến cố, đặc biết trong những lúc khổ đau nhất.

Rồi Đức Thánh Cha kết luận bài huấn dụ như sau: vị thánh này cũng nhắc nhớ cho chúng ta biết tầm quan trọng của các thái độ bề ngoài trong lúc cầu nguyện. Qùy gối, đứng trước mặt Chúa, chăm chú nhìn Chúa Chịu Đóng Đanh, dừng lại cầm trí trong thinh lặng, không phải là phụ thuộc, nhưng chúng giúp chúng ta đặt mình với tất cả con người vào trong tương quan với Thiên Chúa. Tôi muốn nhắc nhở một lần nữa sự cần thiết cho cuộc sống tinh thần của chúng ta, đó là hằng ngày phải tìm ra những lúc để cầu nguyện trong yên lặng. Chúng ta phải lấy cho mình thời giờ ấy đặc biệt trong mùa hè, có một chút thời giờ để nói chuyện với Thiên Chúa. Đó sẽ là một kiểu giúp những ai ở gần bước vào trong ánh sáng rạng ngời sự hiện diện của Thiên Chúa, đem lại an bình và tình yêu mà chúng ta cần có.

Tiếp đến Đức Thánh Cha đã chào các tín hữu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Trong tiếng Pháp ngài khuyến khích tín hữu noi gương thánh Đaminh trở thành những người say mê Thiên Chúa, noi gương Chúa Kitô, để trở thành những con người của lời cầu nguyện, nhựa sống cho các hành động và chứng tá của chúng ta.

Trong tiếng Anh ngài nhắn nhủ tín hữu biết noi gương thánh Đaminh hòa hợp lời cầu nguyện với các sinh hoạt hằng ngày, và tươi vui làm chứng cho Chúa.

Bằng tiếng Đức ngài nói khi cầu nguyện thân xác cũng cần có các thái độ cầm trí và môi trường thinh lặng chung quanh giúp bước vào tương quan với Thiên Chúa.

Bằng tiếng Tây Ban Nha ngài nhắc cho tín hữu biết rằng nguồn gốc của mọi chứng tá là lời cầu nguyện và tương quan liên lỉ với Chúa trao ban sức mạnh cho tín hữu.

Bằng tiếng Ba Lan Đức Thánh Cha khuyên tín hữu bắt chước thánh Đaminh năng nói chuyện với Chúa qua lời cầu nguyện liên lỉ, vì nó giúp tín hữu trưởng thành trong tinh thần.

Chào các tín hữu Slovac Đức Thánh Cha xin ánh sáng Lời Chúa soi chiếu mọi bước đường cuộc sống của họ.

Chào các tín hữu nói tiếng Ý ngài cám ơn sự hiện diện của họ và cầu chúc họ được tràn đầy các ơn của Chúa Thánh Thần để canh tân nhiệt huyết tông đồ và lòng sốt mến.

Sau cùng Đức Thánh Cha đã cất Kinh Lậy Cha và ban phép lành tòa thánh cho mọi người.

Một hành động của lòng nhân ái

Một hành động của lòng nhân ái


Trong suốt thời gian xảy ra nội chiến, Tổng thống Abraham Lincoln vẫn thường đến các bệnh viện để thăm hỏi và trò chuyện với những thương binh đang điều trị ở đó. Một lần, các bác sĩ dẫn Lincoln đến bên giường một người lính trẻ đang gần kề cái chết.

“Tôi có thể làm cho anh được điều gì ngay bây giờ không?” Tổng thống hỏi.

Người lính trẻ rõ ràng không nhận ra Lincoln. Anh cố thều thào: “Xin ông hãy giúp tôi viết một lá thư cho mẹ!”

Bút và giấy được mang tới, và vị Tổng thống bắt đầu nắn nót viết từng chữ mà người lính trẻ có thể đọc được bằng hơi sức yếu ớt còn lại của mình:

“Mẹ yêu quý! Con bị thương rất nặng trong khi đang thi hành nhiệm vụ. Con e rằng con không thể qua khỏi được. Nhưng mẹ ơi, mẹ đừng quá đau buồn vì con nhé. Xin hãy hôn em Mary và John giúp con. Xin ơn trên phù hộ cho bố mẹ.”

Người lính đã quá yếu sức và không thể tiếp tục được nữa, nên vị Tổng thống ký tên giùm anh vào cuối bức thư và thêm vào dòng chữ: “Viết thay cho con trai bà – Abraham Lincoln.”

Người lính trẻ nhìn vào bức thư, và anh thật sự ngạc nhiên khi đọc thấy tên người đã giúp anh thực hiện nguyện vọng cuối cùng của mình.

“Ngài chính là Tổng thống ư?” anh hỏi.

“Vâng, tôi đây!” Lincoln trả lời một cách bình thản, và lại tiếp tục hỏi rằng ông có thể làm thêm được gì cho anh.

“Xin ngài hãy nắm lấy tay tôi!” anh nói. “Điều đó sẽ giúp tôi rất nhiều khi phải đối mặt với cái chết!”

Và trong căn phòng tĩnh lặng, vị Tổng thống cao gầy nắm chặt tay anh lính trẻ trong bàn tay mình, nhẹ nhàng nói những lời an ủi, động viên cho đến khi anh ra đi trong thanh thản.

– The Best of Bits & Pieces

ST

Bí quyết trường sinh

Bí quyết trường sinh (Ga 6,41-51) 

Chúa nhật 19 thường niên, năm B

                                                                                                           Tác giả: Thiên Phúc

                                                                                                            nguồn: thanhlinh.net

Tần Thủy Hoàng là vị vua Trung Quốc, sống trước Chúa Giáng Sinh khoảng 200 năm. Ông là người đã truyền xây Vạn Lý Trường Thành dài hơn 2.000 dặm. Ðó là kiến trúc duy nhất trên trái đất, mà các phi hành gia có thể nhìn thấy từ ngoài không gian. Theo tạp chí National Geographic, Tần Thủy Hoàng rất sợ chết, ông muốn được trường sinh bất tử, nên tìm đủ mọi cách để được cải lão hoàn đồng. Một ngày kia, các chiêm tinh gia kể cho ông nghe về một hòn đảo thần tiên ở biển Ðông, dân cư ở đấy đã khám phá ra bí quyết trường sinh.

Tần Thủy Hoàng liền phái một số tàu thuyền chất đầy châu báu lên đường, hy vọng đổi được bí quyết trường sinh. Nhưng dân chúng không đổi cho ông bí quyết trường sinh của họ.

Thế rồi ông lo xây nhà mồ như cung điện nguy nga rộng lớn, lấy châu ngọc làm tinh tú, lấy thủy tinh làm sông Ngân Hà, lấy vàng bạc lát tường và chôn sống hàng trăm cung nữ trong đó, để kiếp sau được sống như thần tiên. Nhưng kẻ tàn bạo ham sống ấy chỉ làm vua được hơn chục năm và sống trên năm mươi tuổi thì chết đi.

***

Trường sinh bất tử là ước mơ ngàn đời của con người. Cứ mỗi lần một người thân giã từ cõi thế, thì ước mơ được sống mãi lại càng dày vò con người dữ dội hơn. Nên không lạ gì khi Ðức Giêsu nói về cuộc sống trường sinh thì mọi người tuôn đến như đi tìm kho báu.

Nhưng mầu nhiệm về “Sự sống đời đời” lại rất xa tầm trí mọn của đám dân chúng. Ðức Giêsu không giúp họ thoát khỏi cái chết của thân xác, vì chính Người cũng vui lòng chết như mọi người. Nhưng Người cứu họ thoát khỏi cái chết của linh hồn: cái chết vĩnh viễn xa lìa Thiên Chúa và hoàn toàn ly biệt với tha nhân, cái chết đi vào trầm luân muôn kiếp, cái chết dẫn đến cõi tiêu diệt muôn đời.

Cuộc sống vĩnh cửu ấy, hôm nay Ðức Giêsu đã mạc khải: “Ta là Bánh ban Sự Sống… Ai ăn Bánh này sẽ được sống muôn đời” (Ga.6,47). Vậy bí quyết trường sinh mà Tần Thủy Hoàng khó nhọc đi tìm kiếm tận các đảo thần tiên, lúc nào cũng hiện diện trước mặt chúng ta, trong mọi thánh đường Công giáo. Chính là Ðức Giêsu nguồn mạch trường sinh.

Người đang hiện diện với chúng ta bằng thần trí Người: “Ở đâu có hai hoặc ba người tụ họp nhân danh Ta, Ta sẽ ở đó với họ” (Mt.18,20).

Người còn hiện diện với chúng ta qua Lời Chúa. Lời mà Người nói cách đây 2000 năm cũng chính là Lời Người đang nói với chúng ta trong tin mừng.

Người hiện diện với chúng ta qua các linh mục trong lúc giảng dạy và trong khi cử hành các Bí tích: “Ai nghe các con là nghe Ta” (Lc.10,16).

Ðặc biệt Người hiện diện thực sự với chúng ta trong Bí tích Thánh Thể: “Ta là bánh hằng sống… Ai ăn bánh này sẽ được sống đời đời” (Ga.6,52).

Như vậy, “Sự sống đời đời” không phải là chuyện viễn vông xa vời, nhưng là một thực tại đang triển nở trong đời sống người tín hữu. Mỗi thánh lễ là một bàn tiệc nuôi dưỡng linh hồn đưa ta về chốn trường sinh.

***

Lạy Ðức Giêsu, như Tấm Bánh Thánh xin cho tâm hồn chúng con nên trong trắng, cố xa tránh những ô uế cho dù nhỏ mọn để luôn xứng đáng với Chúa.

Xin cho tâm hồn chúng con nên khiêm hạ nhỏ bé, nhưng luôn bày tỏ một tình yêu lớn lao.

Và cho tâm hồn chúng con luôn kết hợp với Chúa, để được Chúa dẫn vào cuộc sống muôn đời. Amen.

(Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)

Linh mục: Niềm tin – Hy vọng

Linh mục: Niềm tin – Hy vọng

                                                                                                     Phạm Thục

 

 WGPSG — “Đẹp thay bước chân những người loan báo Tin Mừng” (Rm10,15).

Liên tục trong những tháng vừa qua, các giáo phận, dòng tu đã diễn ra nhiều đợt phong chức linh mục. Vào lúc 10g00 ngày 04/08/2012, 13 thầy phó tế của Tỉnh Dòng Đa Minh Việt Nam đã được tiến chức, do Đức Giám mục Giáo phận Vinh Phaolô Nguyễn Thái Hợp, OP chủ phong, tại Tu viện Albêtô – Ba Chuông trong niềm hân hoan.

Hầu hết các tân chức đều trẻ, trên dưới 30 tuổi, lứa tuổi tràn đầy sức sống, hẳn sẽ góp phần cho Giáo hội Việt Nam ngày càng trẻ trung, đáp ứng cho nhu cầu mục vụ hôm nay.

Ở đây, tôi xin được ghi nhận cảm tưởng của một vài thành phần dân Chúa về thiên chức linh mục

Những người trẻ kì vọng gì nơi các linh mục?

Tại Việt Nam hôm nay đang dần hình thành một xã hội tiêu thụ, trong đó người trẻ bị cuốn hút vào những giá trị “ảo” xa lạ. Những nền tảng đạo đức truyền thống bị coi là lỗi thời, sinh hoạt gia phong trong gia đình bị xáo trộn, nếp sống xứ đạo bị coi là “một thời đã xa”. Ngày hôm nay, cuộc sống của gia đình Việt Nam, cha mẹ con cái chung một bàn ăn, vừa dùng cơm vừa trao đổi, bàn luận về việc học, về công ăn việc làm, bàn luận về một bài báo, một bộ phim hay một cuốn sách xem ra rất hiếm. Đơn giản vì mỗi người gần như ai cũng có công việc riêng của mình, cha mẹ thì lo tìm kiếm thêm hầu có của ăn, của để; con cái người đã trưởng thành thì lao vào công việc, làm giàu hay tìm kiếm danh vọng; người còn đang đi học thì học lấy học để, học đủ mọi thứ, từ học kiến thức đến học cách giải trí như: chơi game, chat, mail, mode, hiphop…và coi đó là thước đo của một người có trình độ hiểu biết, nhân cách trưởng thành. Người trẻ nói chung có những cách suy nghĩ lạ đời, “tai tiếng” đi gần với “tăm tiếng”, với mục tiêu là thể hiện mình, mong có nhiều người biết đến, cho dù có trái ngược với những gì vẫn được coi là luân thường đạo lý.

Về phương diện tôn giáo, cụ thể là đạo Công giáo chúng ta, hầu như các sinh hoạt về niềm tin chỉ còn quy tụ được thiếu nhi từ 6 đến 14 tuổi, tức là lứa tuổi học sinh cấp I, II. Đây là thời gian mà gia đình nếu có quan tâm đến đời sống đạo thường đưa con đến nhà thờ, vào hội đoàn để qua đó được quý cha, quý thầy, quý soeur hay các anh chị giáo lý viên giúp dạy giáo lý hầu đón nhận bí tích Thánh Thể và Thêm Sức; sau đó là để con tự “bơi” trong dòng sông cuộc đời. Chính vì thế, bước vào tuổi thanh niên, từ 15 tuổi trở lên, người trẻ cảm thấy bơ vơ, dễ bị cám dỗ xa dần đời sống tâm linh. Trong giai đoạn này, nếu được nâng đỡ, huấn luyện về niềm tin, về nhân bản… thì người trẻ sẽ cảm thấy gắn bó với đạo của mình, và ngày càng trở nên xác tín hơn.

Do đó, “Mục vụ giới trẻ” được quan tâm đặc biệt. Các linh mục đã dấn thân, phục vụ đối tượng “tương lai của xã hội và Giáo hội”, một sứ vụ cực kỳ khó khăn. Tuy nhiên, với sức trẻ và bầu nhiệt huyết căng tràn cộng với sự năng động, vui tươi, các ngài đã và đang giúp các bạn trẻ sống viên mãn ơn gọi Kitô hữu trong tinh thần trẻ trung của Đức Kitô. Bởi vì, chính Người đã sống trọn đời trẻ của mình trên dương thế, đã bước vào đời rao giảng khi tròn 30 tuổi.

Bên cạnh đó, khi đồng hành với người trẻ, các linh mục đã nhận ra những ưu tư, khắc khoải của người trẻ để:

– Tìm ra những giải pháp, những lời giải đáp giúp người trẻ đi theo con đường của Đức Kitô.

– Tập cho người trẻ biết làm việc để mưu ích cho mọi người, vì đó là tham gia vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa; họ không trở thành xa lạ với chính mình, với anh em đồng loại.

– Truyền thông cho giới trẻ niềm vui, niềm hy vọng có cuộc sống vì mọi người, sống thanh cao, sống có ích; họ dám mạnh dạn đáp lại tiếng gọi của Đức Kitô, không sống khiếp đảm như Chân phước Giáo hoàng Gioan Phaolô II căn dặn: “Hỡi các bạn trẻ, đừng sợ phải sống thánh thiện”.

Tâm tình của một anh em không tín ngưỡng:

Tôi đã theo dõi hoạt động của các linh mục, tôi thắc mắc linh mục là ai? Và tôi được biết rằng linh mục là hiện thân của Đức Kitô giữa trần đời. Một người như mọi người, nhưng đã thánh hiến trọn vẹn cho Thiên Chúa, Đấng các ngài tôn thờ. Tôi cảm phục linh mục: “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, sống giữa thế gian mà không theo thói thế gian. Tôi thích thú nhìn chân dung người linh mục: ung dung tự tại, thênh thang giữa đất trời, chẳng màng danh lợi thú cho riêng mình, chỉ mong gieo “tin yêu vào nơi nghi nan, chiếu trông cậy vào nơi thất vọng” cho người người an bình, hạnh phúc. Lạ một điều! Linh mục lại là đối tượng bị nhiều chỉ trích, chống đối, đàm tiếu, thị phi. Cảm thương thay cảnh “làm dâu trăm họ”…Lạ lùng quá! Dù trăm bề khó khăn thử thách, người người vẫn hiên ngang đáp lại tiếng gọi của trời cao, quả là một huyền nhiệm quá cao sâu của tình yêu dâng hiến.

Tôi yêu linh mục: Giữa một thế hệ gian tà sa đọa, các ngài đã chiếu sáng như những vì sao trên bầu trời, chỉ đường dẫn lối cho mọi người tìm về Chân-Thiện-Mỹ.

Tôi cần linh mục: Niềm tin yêu – hy vọng – cứu cánh của tôi, của một xã hội đang băng hoại đạo đức và luân lý; giá trị con người bị đồng tiền đảo lộn chi phối. Các ngài có đó thì trật tự vãn hồi, hòa bình thiết lập, tình yêu lên ngôi cho cuộc đời này đáng yêu, đáng sống và sống dồi dào.

Vâng! Quả vậy, linh mục là ân ban của Thiên Chúa cho nhân loại! Trong khi hãnh diện về các ngài, chúng tôi không quên cầu nguyện cho các ngài, vì “Ơn Thánh chứa đựng trong bình sành, dễ vỡ”. Phải! Các ngài cũng là con người yếu đuối, cần sự nâng đỡ của Thiên Chúa, cần sự cảm thông, cộng tác của cộng đồng dân Chúa, để các ngài chu toàn trọng trách được giao phó, theo gương Vị Mục tử nhân lành tối cao là Chúa Giêsu: tận tâm, lo lắng cho đoàn chiên được “sống và sống dồi dào”.

Giờ đây, trần hoàn ơi hãy cùng chúng tôi hát vang ngợi khen, chúc tụng Thiên Chúa: Bài ca tạ ơn con dâng lên Chúa…Tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho đời biết bao kỳ công. Tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho đời biết bao hồng ân… qua tay các linh mục.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

DANH NGÔN THÁNH JOHN MARY VIANNEY (CHA SỞ XỨ ARS)

DANH NGÔN THÁNH JOHN MARY VIANNEY (CHA SỞ XỨ ARS)



 

Về Hỏa Ngục:

Nếu những người trầm luân khốn nạn có được thời giờ mà chúng ta đánh mất, chắc hẳn họ sẽ xử dụng chúng một cách tốt đẹp biết bao!  Nếu họ có được nữa giờ mà thôi, có lẽ nửa giờ ấy sẽ làm cho hỏa ngục vắng tanh.

Về sự tự hiến:

Hạnh phúc thay những tâm hồn có thể nói được với Chúa:  <<Lạy Chúa, con đã luôn luôn thuộc về Ngài!>>.  A!  trao hiến tuổi thanh xuân cho Thiên Chúa là điều tốt đẹp và cao cả biết bao! Đó thật là nguồn vui và nguồn hạnh phúc!

 

Về sự trong sạch:

Chúng ta như những tấm gương bé nhỏ mà Thiên Chúa ngắm mình trong đó. Các con muốn Thiên Chúa nhận ra Người trong một tâm hồn nhơ nhớp thế nào được?

Về sự kiêu căng:

Chúng ta thích những viêc làm của mình được người ta biết đến. Chúng ta vui khi người ta để ý đến các nhân đức của chúng ta; chúng ta buồn khi người ta nhận ra các khuyết điểm của chúng ta. 

Các thánh không như thế:  các ngài lấy làm khổ tâm khi người ta biết đến các nhân đức của mình và hài  lòng khi người ta nhìn thấy những khuyết điểm của mình.

Về đức khiêm nhượng:

Người ta hỏi một vị thánh:  nhân đức đầu tiên là gì, ngài trả lời:<< Đó là đức khiêm nhượng>> _  <<Và nhân đức thứ hai?>> – <<Đức khiêm nhượng>> <<Còn nhân đức thứ ba?>>  – <<Đức khiêm nhượng>>

Về sự chết:

Chúng ta giống như những ụ cát nhỏ mà gió dồn lại trên con đường:  chúng tụ lại trong chốc lát rồi tản mác liền ngay sau đó…  Các anh chị em chúng ta đã chết chỉ còn là một nắm tro tàn.

 Về sự đau khổ:

Thập giá là ân huệ mà Thiên Chúa ban cho các bạn hữu của Người.

Về lòng từ bi của Thiên Chúa:

Lòng từ bi của Thiên Chúa giống như một thác nước chảy tràn lan:  khi đi qua, nó lôi cuốn theo các con tim…

 Về việc thánh hóa ngày Chúa Nhật:

Ngày Chúa Nhật là tài sản của Thiên Chúa; đó là ngày thuộc về Người, ngày của Chúa.  Người đã tạo dựng tất cả các con ngày trong tuần; Người có thể giữ lại tất cả, nhưng Người đã ban cho các con sáu ngày và chỉ giữ lại ngày thứ bảy.

 

Các con có quyền gì chạm đến cái không thuộc về các con?  Các con biết rằng của trộm cướp khong bao giờ sinh lợi.  Ngày mà các con lấy của Chúa cũng sẽ khong sinh lợi cho các con.  Cha biết hai phương thế rất chắc chắn để trở nên nghèo túng:  đó  là làm viêc ngày Chúa Nhật và lấy của kẻ khác.

CGM

nguồn: từ Maria Thanh Mai gởi

Lời Thầm: Cái Chết

Lời Thầm: Cái Chết

                                                                                LM. Vũ Xuân Huyên

1- Cái chết là một thất bại đối với những người đã chọn trần thế làm quê hương, nhưng là một chiến thắng đối với những người đã chọn quê trời làm quê hương.

2- Người ta sinh ra để chết ở đời này. Và chết ở đời này để sinh vào đời sau.

3- Ta thường nhìn cái chết như là tận cùng của cuộc đời này mà quên rằng sự chết cũng là khởi điểm của cuộc đời sau, nên sinh ra buồn rầu chán nản.

4- Sự sống vĩ đại, nhưng sự chết còn vĩ đại hơn, vì nó đưa ta đến sự sống.

5- Chết là đi vào “mùa Đông hy vọng” để đón chờ một “mùa Xuân phục sinh”.

6- Nhiều người tin rằng:  Chết là hết. Tin Mừng Phục sinh là câu trả lời của Chúa cho riêng họ: Không, chết chưa phải là hết, đúng hơn mới thực sự bắt đầu. Chúa Kitô sống lại trước, ta sẽ sống lại sau.

7- Người Kitô hữu có hai quê hương: quê hương đời này và quê hương đời sau. Họ có thể tạm chấp nhận sống vô quê hương đời này, nhưng không thể chết vô quê hương đời sau.

8- Chết không phải là kết thúc đời này, nhưng là hoàn tất đời này.

9-Ai không chuẩn bị chết, thì cái chết của họ, dù lúc nào đi nữa, cũng vẫn là cái chết “bất đắc kỳ tử”.

10- Tập chết mỗi ngày cũng là một cách sống tốt.

LM. Vũ Xuân Huyên

****************************************

Lạy Chúa,

Đứng trước cái chết, con cũng run sợ như ai

Vì con chưa thấy sẵn sàng để gặp Chúa.

Cả cuộc đời con, con đã lo toan rất nhiều,

Nhưng điều quan trọng nhất là chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ ấy

Thì con lại chưa làm gì cả.

Con thật dại khờ khi nghĩ rằng con sẽ có đủ thời gian,

Con sẽ làm được điều đó bất cứ lúc nào con muốn.

Nhưng sự thật là con chưa bao giờ tự làm chủ được sự sống của mình

Làm sao con lại dám cho mình cái quyền làm chủ được sự chết?

Ngày nào đó con đến trước mặt Chúa

Không biết Chúa có nhận ra con hay không,

Hay là Chúa bảo “đi cho khuất mắt Ta, hỡi phường gian ác”

Lạy Chúa là Chúa Tạo Vật,

Con xin Chúa sự khôn ngoan

Để sống trọn vẹn giây phút hiện tại

Trong ân nghĩa của Chúa

Để rồi ngày nào đó con đi gặp Chúa,

Sẽ không như hai người xa lạ

Nhưng là hai người rất thân quen.

Lúc đó, Chúa sẽ gọi con bằng tên rất trìu mến

Và giang đôi tay đón con vào lòng.  Amen!

*******************

Nguồn http://www.ngocthach.com/lmvuxhuyen.html

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

KINH CẦU CHO GIA ÐÌNH

KINH CẦU CHO GIA ÐÌNH

  Lạy Chúa Giê-su, chúng con xác tín rằng, hôn nhân và gia đình là công trình sáng tạo của Thiên Chúa, công trình của yêu thương, khôn ngoan và thánh thiện.  Chúng con tin rằng, Chúa muốn và Chúa luôn ban ơn, để hôn nhân được hạnh phúc trong sự duy nhất và bền bỉ, trong việc truyền sinh và phát huy sự sống.

 Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương mà nâng hôn nhân lên hàng Bí tích.  Xin Chúa cho các đôi vợ chồng sống trung thành với nhau, cho cha mẹ biết ý thức trách nhiệm giáo dục con cái, cho con cái biết vâng phục và yêu mến cha mẹ.  Xin Chúa làm cho các thế hệ trẻ, tìm được nơi gia đình sự nâng đỡ chắc chắn cho giá trị làm người của họ, và được trưởng thành trong chân lý và tình thương.

 Lạy Thánh Gia Na-da-rét, là gương mẫu của đời sống thánh thiện, công bình và yêu thương, xin cho gia đình chúng con trở nên nơi đào tạo nhân đức,  trong hiền hoà, phục vụ và cầu nguyện. Xin cho chúng con xây dựng gia đình, thành mối an ủi cho cuộc đời đầy thử thách. Xin cho chúng con biết làm cho mọi người trong gia đình, đều được thăng tiến, để góp phần vào việc phát triển xã hội, và cộng tác trong việc xây dựng Giáo Hội.

 Xin Ba Ðấng luôn hiện diện trong gia đình chúng con, khi vui cũng như lúc buồn, khi làm việc cũng như lúc nghỉ ngơi, khi lo âu cũng như lúc hy vọng, khi sinh con cũng như lúc có kẻ qua đời, để khi trải qua mọi thăng trầm của cuộc sống, chúng con luôn luôn chúc tụng Chúa, cho đến ngày được sum họp với Ba Ðấng trong Nước Trời.

  Amen.

Đơn giản và phức tạp

Đơn giản và phức tạp

http://25.media.tumblr.com/tumblr_m54h8cBrLR1qaordwo1_1280.jpg

Khi còn nhỏ thì đơn giản, lớn lên trở nên phức tạp. 
Khi nghèo khó thì đơn giản, lúc giàu có trở nên phức tạp.
Khi thất thế thì đơn giản, lúc có địa vị thì trở nên phức tạp.
Tự nhận bản thân đơn giản, đánh giá người khác phức tạp.

Thật ra, thế giới này rất đơn gỉan chỉ có lòng người là phức tạp. 

Mà suy cho cùng thì lòng người cũng đơn giản, 

chỉ có lợi ích chi phối nên con người mới trở nên phức tạp. 

Đời người, đơn giản thì vui vẻ. Nhưng người vui vẻ được mấy người.
Đời người, phức tạp thì phiền não. Nhưng người phiền não thì quá nhiều.  

http://24.media.tumblr.com/tumblr_m4v7tvfapt1qaordwo1_1280.jpg

Trong cuộc đời mỗi người đều không thể tránh khỏi những lúc buồn phiền, lo lắng thậm chí là đau khổ. Người vui vẻ, không phải là người không có buồn phiền, mà là người không để cho những nỗi buồn và niềm đau ấy khống chế. Thật ra, đau khổ không hề đáng sợ, đáng sợ là ngay cả trái tim cũng phản bội bản thân mà đứng về phía đau khổ. 

Muốn quản lý tốt tâm trạng của bản thân thì cần phải quên đi những điều làm mình không vui, đừng coi trọng những mâu thuẫn, hiểu lầm phát sinh trong cuộc sống, mà hãy xem đó như là một yếu tố giúp chúng ta mài dũa đời sống tâm linh của mình vững chắc hơn. Chỉ có như thế thì nỗi đau khổ của mình như gió thoảng mây trôi mà thôi.

nguồn: Từ chị Nguyễn Kim Bằng gởi

LINH MỤC THIÊN PHONG BỬU DƯỠNG (1907-1987)

LINH MỤC THIÊN PHONG BỬU DƯỠNG (1907-1987)

 

                                                                        Tác giả Đỗ Tân Hưng

                                                                           nguồn: DungLac.org

http://translate.google.com/translate?hl=en&sl=vi&tl=en&u=http%3A%2F%2Fkeditim.net

Thuở nhỏ, tôi ở gần cầu Bến Ngự, bên kênh đào Phú Cam. Đối diện bên kia sông là nhà cụ Ưng Trình, thân sinh của linh mục Bửu Dưỡng. Tuy nhiên, tôi chưa lần nào được diện kiến cha Bửu Dưỡng vì vào thời điểm đó, cha ở Đà Lạt.
Người em út cùng cha khác mẹ của linh mục Bửu Dưỡng là Bửu Tôn, học chung với tôi lớp “septième” ở Trường Providence Huế, do các linh mục Thừa Sai Paris đảm trách. Xét về tuổi tác, Bửu Tôn rất cách xa cha Bửu Dưỡng vì hồi đó, Bửu Tôn chỉ trên mười tuổi, nhưng cha Bửu Dưỡng đã ngoại tứ tuần. Bửu Tôn không theo đạo Công giáo.
Tôi còn nhớ hồi đó, một bạn học của tôi đã hỏi Bửu Tôn: «Tại sao cha Bửu Dưỡng có đạo, còn mầy thì không». Bửu Tôn chỉ cười và nói: «Cũng không biết nữa». Sự « không biết» đó – hay nói theo ngôn ngữ nhà Phật là sự «vô minh» – đã đưa đẩy Bửu Tôn đi vào một ngã rẽ cuộc đời mang nhiều hệ lụy với cơn «biển động » ở miền Trung sau nầy. Kể từ năm 1963 trở đi, Bửu Tôn là một bộ mặt năng động trong phong trào đấu tranh Phật giáo của sinh viên Đại Học Huế.
Trong quyển “Từ Ánh sáng Mặt Trời Tình Yêu” Tập II, Lê Ngọc Bích và Nữ tu Mai Thành, đã sưu tập tài liệu để viết về cuộc đời cha BỬU DƯỠNG, dưới nhan đề “Từ Ác Cảm Đến Hiến Thân”, được lược tóm như dưới đây. 

TIẾT MỘT
THỜI NIÊN THIẾU
Dòng dõi hoàng tộc

Cậu ấm Bửu Dưỡng thuộc dòng dõi hoàng gia triều Nguyễn, là cháu trực hệ đời thứ năm của vua Minh Mạng. Thân phụ là cụ Ưng Trình, đại thần Cơ Mật viện và đại thần Tôn Nhơn Phủ (1936) và Thượng Thư. Thân mẫu là cụ bà Trần Thị Như Uyển, cũng dòng dõi quan lại cấp Thượng Thư..
Cậu Bửu Dưỡng là con trai thứ năm, sinh ngày 19/3/1907. Thiếu thời, cậu học trường Quốc Học Huế, rồi trường Cao Đẳng Hà Nội. Sau khi tốt nghiệp, cậu trở về Huế làm thông phán sở Bưu Chính cho đến lúc “duyên Trời” ấn định.
Ác cảm với Đạo Công Giáo
Sinh trưởng trong gia đình hoàng tộc, tôn sùng đạo Phật, linh mục Bửu Dưỡng viết trong “Cuộc hành trình của đời tôi” như sau:
“Trước kia tôi rất ghét Kitô giáo và không muốn có một liên hệ nào dù xa dù gần với các linh mục hay người có đạo. Tôi không bao giờ đọc một cuốn sách báo nào dính dáng đến đạo Công giáo. Cái ấn tượng ghét đạo đã khiến tôi trở thành cực đoan một cách vô lý, đến độ mỗi khi nhìn thấy chữ ‘Thiên Chúa’, tôi cảm thấy khó chịu và nếu có thể, tôi sửa thành chữ ‘Trời’. Khi dạy học cho các trẻ em, tôi chống lại việc dùng chữ Thiên Chúa. Lòng ác cảm đã khiến tôi trở thành điên rồ.
Có những thời gian tôi cảm thấy bất an trong đời sống, dường như tôi đang trải qua những cơn khủng hoảng của đời sống, cái tâm trạng nầy kéo dài trong suốt ba năm liền…Những lần tôi không giải trí với các bạn trong giờ giải trí, những đêm dài mất ngủ, những buổi chiều trống rỗng, sau khi nghe vài bản nhạc buồn…
Tất cả những tâm trạng ấy đưa tôi đến việc tự hỏi: ‘Có phải Kitô giáo là một tôn giáo thật và tôi phải theo hay không?’ Tôi phải theo? Thật là một điều ngoài trí tưởng tượng! Không bao giờ! Dù nó đúng nó trật, nó hay…nhưng ‘ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn’”.
Ác cảm do thành kiến
Nhưng dần dần thanh niên Bửu Dưỡng nhận thấy mình bất công đối với Kitô giáo và phải chăng Phật giáo có gốc Ấn Độ và Khổng Tử là người Trung Hoa, còn Chúa Giêsu đâu phải là gốc Âu châu mà là gốc Do Thái. Ác cảm của “Mệ Bửu Dưỡng” chẳng qua do thành kiến của người công tử hoàng gia của một nước bị Pháp đô hộ mà các nhà truyền giáo thời đó phần đông là người Pháp, còn rất xa lạ với phong tục và văn hóa Việt Nam.

TIẾT HAI
THỜI GIAN TÌM HIỂU
Người bạn thân tên S.

Trong bản tường thuật “Cuộc hành trình của dời tôi”, linh mục Bửu Dưỡng nhắc nhiều đến một người bạn thân tên S. trọ tại nhà mình vào năm cuối cùng bậc trung học. Hai người cùng học một lớp nhưng khác trường: cậu Bửu Dưỡng là học sinh trường Quốc Học còn anh S. thì học trường Pellerin của các thầy dòng Lasan, hiểu biết về đạo Công giáo, nhưng không phải là tín hữu Công giáo:
“Chúng tôi nói chuyện với nhau rất hợp qua các đề tài học hành và giải trí, nhưng khi vô tình đề cập đến vấn đề đức tin, chúng tôi không tránh được việc cãi cọ, nói là cãi cọ không đúng lắm, thường tôi hay đáp trả bằng những lời lẽ khá nặng nề…Một buổi tối, chúng tôi như những thanh thiếu niên nói chuyện trong lúc nhàn rỗi…Rồi chẳng biết từ đâu, vấn đề tôn giáo xen vào, bắt nguồn từ những người coi tử vi và bói toán mà chúng tôi đã tìm gặp để nhờ xem về kết quả kỳ thi cuối năm.”
Tôi mở đầu:
“Mặc dù nhà Phật được quảng bá sâu rộng, nhưng Đức Phật không phải là Đấng Sáng Tạo. Chúng ta tin rằng Trời đã dựng nên và nuôi dưỡng chúng ta, nhưng chúng ta lại không thờ Trời. Chúng ta chỉ dâng lễ vật lên bàn thờ Phật và rồi sống theo ý riêng mình. Chúng ta cũng kính thờ Khổng Tử và tin tưởng vào tử vi và bói toán. Con người thật lạ lùng.”
Anh S. phản ứng ngay:
“Người Kitô hữu không giống vậy. Họ tin Thiên Chúa là Đấng Quan Phòng và Đấng Sáng Tạo. Họ không tin và thờ Thiên Chúa một cách vô lý như chúng ta. Giống như người Do Thái, nhưng người Do Thái vì giải thích Cựu Ước theo ý riêng của họ nên vẫn đang mong đợi Đấng Cứu Thế, trong khi người Kitô hữu tin Chúa Giêsu chính là Đấng Cứu Thế đã đến.
“Thật ra nhiều thế kỷ trước khi Chúa Giêsu giáng sinh, các tiên tri trong thời Cựu Ước đã loan báo về thời gian và nơi chốn Ngài sẽ được sinh ra. Họ còn nói chi tiết hơn cả về đời sống khó nghèo, sự đau khổ và cái chết bi thảm của Ngài. Người Do Thái tin những lời tiên tri nầy, nhưng từ chối không tin vào con người Giêsu”.
Những lời lẽ nầy khiến tôi suy nghĩ nhiều.
Tiếp cận sách vở báo chí
Ngoài anh S., cậu Bửu Dưỡng còn được biết Kitô giáo qua một số bạn bè khác và qua những cuộc tiếp cận đây đó hoặc qua sách vở báo chí…đã vô tình gợi lên nơi cậu ước muốn tìm hiểu Chúa Kitô.
Nhân một ngày đẹp trời, sau khi đậu trung học, cậu thư sinh Bửu Dưỡng thích thú đến một tiệm sách mua hai cuốn “Le genie du Christianisme” (“Ưu tính của Kitô giáo”) của Chateaubriand và “Pensées” (“Tư Tưởng”) của Pascal. Cậu thư sinh mua không phải vì nội dung tư tưởng mà vì thích lối hành văn của hai tác giả nổi tiếng trong nền văn học Pháp.
Mua rồi quên lãng cho đến một hôm khi chuẩn bị hành trang ra Hà Nội học Cao Đẳng, cậu Bửu Dưỡng mới mở ra đọc cuốn “Pensées” của Pascal: “Tôi chú ý vì đoạn văn có nhiều ý nghĩa. Đồng thời, cùng lúc ấy có một sức mạnh lạ thường nào đó chen vào tâm hồn tôi, thế là tôi quyết định đem hai cuốn sách đó đi theo”.
Đọc những trang sách “Pensées” của Pascal, cậu Bửu Dưỡng không thể nào không khám phá ra chiều kích siêu việt và linh diệu của Kitô giáo…Tác phẩm nổi tiếng nầy là một tổng thể đồ sộ gồm những chủ đề cốt lõi, siêu linh, sâu sắc về tầm vóc vô biên của con người, về Thiên Chúa nhập thể, về bác ái và mầu nhiệm Thiên Chúa, mầu nhiệm Tình Yêu, về Chân Lý của trái tim, với lời bất hủ của Pascal: “Trái tim có những lý lẽ mà lý trí không biết đến”…
Hẳn là qua những trang sách nầy, tâm hồn cậu Bửu Dưỡng đã cảm nghiệm đưọc một “sức mạnh lạ thường” thúc đầy cậu tiến xa hơn trên con đường tìm hiểu Kitô giáo….
“Càng ngày tôi càng tin tưởng hơn vào chân lý nơi Giáo Hội Công giáo, nhưng tôi không nghĩ đến việc sẽ rửa tội. Mỗi lần ý nghĩ rửa tội xuất hiện là tôi vội xua đuổi nó ngay. Mỗi lần tôi nhìn những người Công giáo Việt Nam, tôi có cảm tưởng họ đang theo một tôn giáo ngoại bang, nó xa lạ khác thường với phong tục tập quán dân tộc nhiều quá, nó có vẻ ‘Tây’ quá”.
Nhưng Ơn Chúa đã giúp cậu Bửu Dưỡng vượt qua những trở ngại bên ngoài đó để chạm đến cốt lõi Tình Yêu Thiên Chúa qua một cuộc gặp gỡ bất ngờ, đặc biệt là qua chứng từ của một nhà sư Phật giáo.

TIẾT BA
KHÚC RẼ CUỘC ĐỜI
Lên núi Phước Sơn

“Một ngày nọ, khi đến thăm ông nội tôi, tôi gặp một tu sĩ Phật giáo đang ở nhà ông tôi. Vị tu sĩ không ngớt lời ca ngợi những thầy tu dòng khổ hạnh truyền giáo Xitô (Cistercians) tại một ngôi nhà mới lập ở núi Phước Sơn, tỉnh Quảng Trị. Sự tìm hiểu của tôi về đời sống của họ đưa tôi đến sự khâm phục và cuối cùng dẫn tôi đến quyết định gia nhập Giáo Hội Công giáo.”
Thượng tuần tháng 5/1928, cậu Bửu Dưỡng lên đường ra Quảng Trị, tìm lên vùng núi Phước Sơn, xin học giáo lý để nhận bí tích Rửa tội và…gia nhập dòng Xitô. Linh mục Bề Trên là Henri Denis (Cố Thuận) trực tiếp dạy giáo lý.
Lễ Rửa tội được cử hành ngày lễ Đức Mẹ lên trời, 15/8/1928. Tân tòng Bửu Dưỡng nhận thánh danh Bonifacius, có nghĩa là “Bộ mặt đẹp”. Bề Trên Dòng chủ lễ, bên cạnh là thầy phó tế Tađêô Lê Hữu Từ – một vị giám mục tương lai. Quan khách dự lễ rất đông vì hôm đó cũng là ngày kỷ niệm 10 năm dòng Xitô được thành lập ở Phước Sơn. Trong các vị quan khách có sự hiện diện của cụ Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài.
Sau lễ Rửa tội, linh mục Bề Trên Dòng cử hành nghi thức mặc áo thỉnh sinh để tân tòng Bonifacius nhập dòng Xitô với tên Théophane mà chính thầy Bửu Dưỡng dịch là Thiên Phong. Đây là tên thánh của một linh mục truyền giáo người Pháp Theophane Vénard bị xử trảm ngày 2/2/1861 thời vua Minh Mạng. Thầy Bửu Dưỡng rất mộ mến vị thừa sai trẻ tuổi dũng cảm chịu tử hình vì trung thành với Thiên Chúa.
Dòng Đa Minh chi nhánh Lyon
Sau một năm ở tập viện Xitô Phước Sơn, tu sinh Bửu Dưỡng vì sức khỏe yếu, đau bao tử, bị chứng tê thấp, lại bị mụt nhọt ở chân, được Bề Trên cho về nhà nghỉ dưỡng bệnh tại gia đình ở Huế. Trong thời gian nầy, thầy Bửu Dưỡng có nhiều quan hệ với Dòng Chúa Cứu Thế, với ý muốn nhập dòng nầy, nhưng không thành…
Trong khi dịch giùm cho các linh mục Dòng Chúa Cứu Thế một số bài giảng, thầy được đọc sách của Thánh Tôma Aquinô, thầy say mê triết lý và thần học của vị tiến sĩ nổi tiếng thuộc Dòng Đa Minh và có ý muốn theo chân ngài trong một dòng tu chuyên nghiên cứu và thuyết giảng đạo lý Kitô giáo.
Linh mục Bề Trên Dòng Chúa Cứu Thế giới thiệu thầy với Dòng Đa Minh mới đến Hà Nội lập dòng và thầy được chấp nhận để thử một thời gian. Mọi sự đều êm xuôi. Thầy Bửu Dưỡng cảm thấy mình đi đúng hướng và được gởi đi du học tại Pháp ở Dòng Đa Minh chi nhánh Lyon.
Sau một năm tập viện, ngày 26/11/1936, tu sinh Bửu Dưỡng là người Việt Nam đầu tiên của tỉnh Dòng Đa Minh Lyon được tuyên khấn dòng. Mặc dù mụt nhọt ở chân trở nên trầm trọng, thầy Bửu Dưỡng phải chịu giải phẩu cưa một chân, gắn chân giả. Bề Trên Dòng vẫn nhận phong chức linh mục cho thầy vì khả năng trí tuệ đặc biệt của thầy.
Lễ phong chức được cử hành ngày 2/2/1940. Từ nay linh mục con dòng cháu giống của vua chúa triều Nguyễn không còn gì trăn trở băn khoăn mà thẳng đường trực chỉ dấn thân rao giảng Tin Mừng cứu độ của Chúa Giêsu cho đến trọn đời.
Để vừa tạ ơn vừa tạ tội với vị tử đạo kiệt xuất Théophane Vénard – thánh quan thầy của mình – tân linh mục Bửu Dưỡng đã tìm về cái nôi sinh trưởng của ngài ở Saint Loup sur Thouet nước Pháp, dâng Thánh Lễ tạ ơn đất quê hương đã sinh ra thánh nhân và ngỏ lời xin lỗi cộng đoàn Công giáo nơi đây vì vua nước Việt Nam đã hành quyết một vị thánh trẻ tuổi hiến thân cho Thiên Chúa đến giọt máu cuối cùng.
Linh mục Bửu Dưỡng tiếp tục học thần học ở Pháp và năm 1945 lấy bằng tiến sĩ thần học. Năm 1947, cha hồi hương về Việt Nam và vào tháng 2/1951, nhậm chức Bề Trên Tu Viện Đa Minh Hà Nội.

TIẾT BỐN
NHỮNG NĂM THÁNG PHỤC VỤ
Hội cấp tế nạn nhân

Đã từng mục kích những đau thương do chiến tranh thế giới thứ hai gây ra ở Âu châu, linh mục Bửu Dưỡng về Việt Nam giữa lúc khói lửa chiến tranh ác liệt. Giáo dân người Nùng, Thái, Tài, Mường từ giáo phận Lạng Sơn chạy về Hà Nội tị nạn khá đông.
Linh mục Bửu Dưỡng tập họp những người thiện chí Công giáo cùng các tôn giáo bạn thành lập “Hội Cấp Tế Nạn Nhân Chiến Tranh” ra đời ngày 25/9/1949… Hội chỉ nhằm mục tiêu hỗ trợ cấp tốc nạn nhân chiến tranh, thăm viếng tù nhân ở các trại giam, can thiệp trả tự do và trợ cấp những gì cần thiết cho họ: giúp nhắn tin, chuyển thư từ, chuyển đồ tiếp tế của thân nhân gửi, thăm viếng, cấp thuốc cho bệnh nhân nghèo, lập khu tạm trú cho đồng bào tản cư, lập nhà cho cô nhi quả phụ…
Những hoạt động của Hội vang dội ra nước ngoài. Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế sang Hà Nội thăm viếng. Đức cố Giáo Hoàng Piô XII mấy lần gởi tiền giúp Hội. Năm 1951, linh mục Bửu Dưỡng sang Roma, được Đức Giáo Hoàng tiếp kiến và lắng nghe các hoạt động của Hội.
Giáo xứ Du Sinh
Sau hiệp định Genève, linh mục Bửu Dưỡng dẫn ba thầy trợ sĩ và ba sinh viên thỉnh tu vào Nam, tạm trú tại đường Pasteur Đà Lạt. Ngài lập một trại nhập cư mang tên là Du Sinh trên một vùng đồi diện tích rộng, gần thác Cam Ly, quy tụ những gia đình di cư ngày càng đông: 1000 người năm 1955 và 2500 người năm 1963…
Linh mục Bửu Dưỡng giúp họ ổn định cuộc sống, rồi khởi công xây cất nhà thờ, khánh thành vào lễ Giáng Sinh 1957. Cha có nhiều sáng kiến trong việc thiết kế tháp chuông và tường thành với những hoa văn theo kiến trúc Á Đông. Tên “Du Sinh” cũng do chính ngài phiên âm Việt hóa tên Thánh “Giuse”, vừa diễn tả nguồn gốc “du hành” của những giáo hữu di tản từ Bắc vào Nam.
Công tác mục vụ và giáo dục
Không chỉ có nhà thờ, cha Bửu Dưỡng còn mở trường tư thục Mai Khôi, một trường dạy nữ công gia chánh, một nhà nuôi trẻ mồ côi, xây bệnh xá, đặt hệ thống dẫn nước. Tiếc thay những công trình giáo dục và xã hội trên đây không còn tồn tại. Vừa đảm trách giáo xứ, cha vừa nhận dạy học tại Đại Học Đà Lạt, Saigon, Huế.
Ngày 27/8/1959, linh mục Bửu Dưỡng đi Roma yết kiến Đức Thánh Cha, qua Paris nghiên cứu các phương pháp giáo dục của Pháp rồi đi Mỹ tìm hiểu các dự án định cư người tị nạn chiến tranh, phát triển canh nông, các cơ sở văn hóa, xã hội để về quê hương xây dựng trại định cư mẫu mực hơn. Quả ngài là một mục tử vừa trí tuệ, vừa tận tụy lo lắng cho đoàn chiên cùng ngài “du hành” từ đất Bắc đến vùng cao nguyên Dalat.
Năm 1964, ngài được chuyển về xứ đạo An Hòa (Đức Trọng) thay cho linh mục Henri Nerdeux đổi về Cần Thơ. Linh mục Bửu Dưỡng vừa là chánh xứ An Hòa, vừa dạy triết ở trường trung học Adran của các sư huynh Lasan Dalat.
Đến năm 1969, ngài nhận phụ trách giáo xứ Tùng Nghĩa cũng là một xứ đạo nhập cư quy tụ các giáo dân người Thái, Nùng, Mán…Tại đây ngài hoàn chỉnh công trình của linh mục tiền nhiệm và triển khai một kiến trúc mới, gồm có tháp chuông, thành tường kiên cố, mua thêm đất nới rộng khuôn nhà thờ.
Năm 1970, chuyển về Saigon, cha Bửu Dưỡng hợp tác với hội Minh Trí thành lập Đại Học Minh Đức, với năm phân khoa: Triết Lý, Y Tế, Kinh tế, Thương Mại, Khoa Học Kỹ Thuật, Kỹ Thuật Canh Nông. Không có môn nào mà ngài không quan tâm.
Năm 1974, linh mục chịu đại tang cụ thân sinh Ưng Trình tạ thế. Mặc dù là linh mục, trong tang lễ, ngài vận khăn tang và mặc áo tang như mọi thành viên trong gia đình, với tinh thần tôn trọng nghi lễ phụng tự của truyền thống gia đình.

TIẾT NĂM
LÁ RỤNG VỀ CỘI
Nước Trời vĩnh cửu

Sau năm 1975, linh mục Bửu Dưỡng sống với cộng đoàn học viện Đa Minh ở Thủ Đức. Sức khỏe yếu dần, chân đi lại rất khó khăn nên ngài đến nghỉ tại “Gia Đình Na Gia” rồi chuyển đến một ngôi nhà giữa cánh đồng thoáng mát gần Bình Triệu. Mặc dù yếu mệt, ngài không ngừng tiếp khách, bàn luận, giảng giải với nhiều người đến thăm.
Ngày 1/5/1987, sau khi tiếp chuyện hơn một giờ với một linh mục, trao đổi về vấn đề Giáo Hội, ngài trở về phòng và chết gục trên bàn giấy. Ngài quả là linh mục trung kiên bàn luận và diễn giảng cho đến hơi thở cuối cùng. Ngài hưởng thọ 80 tuổi.
Thánh Lễ an táng được cử hành trọng thể tại nhà thờ Đức Mẹ Fatima Bình Triệu, với sự hiện diện của Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình, cha Nguyễn Văn Lập chánh xứ Bình Triệu, cha Ánh giám tỉnh Dòng Đa Minh là linh mục chủ tang, cha Lịch giảng, với sự hiện diện của Đức Cha Lãng, địa phận Xuân Lộc cùng với 80 linh mục, xung quanh rất nhiều cựu môn sinh, sinh viên, bạn bè thân hữu…Ngài được an nghỉ giữa anh em Đa Minh của ngài tại nghĩa trang Bình Hưng Hòa, có khoảnh đất dành cho Dòng Đa Minh.
Di sản thiêng liêng và văn hóa
Ngoài công trình đa dạng của cố linh mục về mục vụ, nghệ thuật kiến trúc, nhất là về mặt giáo dục và giảng dạy, ngài còn để lại một di sản thiêng liêng và văn hóa khá dồi dào gồm nhiều tác phẩm:
–     Tôn giáo: Chúa Cứu thế: “Ngài là ai?” Ngài muốn gì? Ngài ở đâu?
–     Triết học quan: Các triết lý Đông, Tây, Kim, Cổ, gồm ba cuốn: Quan niệm triết học (Triết học nhập môn). Quan niệm người đời (siêu hình, tâm lý, luân lý). Quan niệm đời người (đạo đức, xã hội, chính trị).
–    Vấn đề đau khổ (đối chiếu các tư tưởng tôn giáo, triết học, văn nghệ và khoa học).
–    Tứ Thư Giải Luận (phiên âm, dịch nghĩa, giải thích và bình luận Tứ Thư: Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ, Mạnh Tử.
–    Tùng Thiện Vương (tiểu sử và thi văn): viết chung với thân phụ là cụ Ưng Trình.
–    Sưu tập, giải thích ca dao, tục ngữ Việt Nam, sắp theo thứ tự A,B,C. Sưu tập nầy được thực hiện vào những năm cuối đời của ngài, nhưng còn dở dang…
Nhận định
Linh mục Bửu Dưỡng là một học giả hàn lâm của văn hóa Việt Nho và của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, đi từ ác cảm đến hiến thân trọn vẹn cho Chân Lý Tin Mừng của Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa nhập thế.
Theo linh mục Hoàng Đắc Anh, cựu Bề Trên Dòng Đa Minh nhánh Lyon ở Việt Nam, linh mục Bửu Dưỡng đã sống trọn vẹn đến tận cùng đặc sủng của Dòng Đa Minh thuyết giáo, đã say mê chiêm niệm, nghiên cứu, chấp bút và giảng dạy để loan báo Tin Mừng trọn đời, không ngừng nghỉ.
Phải chăng linh mục Bửu Dưỡng là một tổng hợp Đức Tin và triết lý nhân bản, văn hoá Đông và Tây, Triết Lý nhân sinh và Thần Học siêu linh, khoa học và nghệ thuật, lý thuyết và thực hành…Suốt đời linh mục luôn hướng về thế giới siêu linh của Tin Mừng cứu độ phổ quát cho tất cả nhân loại mà không hề mất gốc Á Đông và Việt Nam mang dòng máu con Hồng cháu Lạc. Ngài vừa là một “Du Sinh” miệt mài rảo bước xây dựng Nước Trời ở trần thế, vừa là “Thiên Phong”, ngọn gió cao hướng về Nưóc Trời vĩnh cửu.

Tác giả Đỗ Tân Hưng