Bằng chứng Chúa Giêsu hiện hữu

Bằng chứng Chúa Giêsu hiện hữu

Tác giả Tiến sĩ ADRIAN ROGERS (*)

 

 

Chúa Giêsu đã bước đi trên thế gian này. Ngài đã sinh ra và chết đi. Làm sao chúng ta biết được? Có ba bằng chứng cho chúng ta biết.

Các thánh

Cv 10:39-41 nói: “Còn chúng tôi đây xin làm chứng về mọi việc Người đã làm trong cả vùng dân Do-thái và tại chính Giêrusalem. Họ đã treo Người lên cây gỗ mà giết đi. Ngày thứ ba, Thiên Chúa đã làm cho Người trỗi dậy, và cho Người xuất hiện tỏ tường, không phải trước mặt toàn dân, nhưng trước mặt những chứng nhân Thiên Chúa đã tuyển chọn từ trước, là chúng tôi, những kẻ đã được cùng ăn cùng uống với Người, sau khi Người từ cõi chết sống lại”.

Hơn 500 người đã thấy Chúa Giêsu sau khi Ngài sống lại, và đa số những người này đã chết vì đức tin. Người ta có thể sống để nói dối, nhưng rồi họ chết vì cái gì chứ?

Kinh thánh

Cv 10:43 nói: “Tất cả các ngôn sứ đều làm chứng về Người và nói rằng phàm ai tin vào Người thì sẽ nhờ danh Người mà được ơn tha tội”. Khi tác giả nói “các tiên tri”, tác giả đang nói về các ngôn sứ từ sáng thế tới ngôn sứ Malaki (nhớ rằng hồi đó chưa có Tân ước).

Sách Sáng thế, chương 3, nói về Đấng sẽ đạp dập đầu con rắn. Sách Sáng thế, chương 12, nói về Đấng đó đến từ dòng dõi Áp-ra-ham. Trong Sáng  thế 22, chúng ta đọc về việc hiến tế Isaac trên núi, nơi mà sau đó Chúa Giêsu chịu đóng đinh! Toàn bộ sách Lê-vi đầy những hình ảnh về việc hiến tế đổ máu để cứu khỏi tội lỗi. Trong Thánh vịnh 22 có những lời tiên tri về Chúa Giêsu chịu đóng đinh: “Tưởng mình như tan dần ra nước, toàn thân con xương cốt rã rời, con tim đau đớn bồi hồi, mềm như sáp chảy tơi bời ruột gan. Nghe cổ họng
khô ran như ngói, lưỡi với hàm dính lại cùng nhau, chốn tử vong Chúa đặt vào…Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn dài; chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn…”
. Trong Mikha 5:2, nói rõ Chúa Giêsu sẽ sinh ra tại Belem: “Đức Chúa sẽ bỏ mặc Ít-ra-en cho đến thời một phụ nữ sinh con. Bấy giờ những anh em sống sót của người con đó sẽ trở về với con cái Ít-ra-en”.

Tôi có thể tiếp tục, nhưng cuối cùng là: Có kế hoạch cứu độ trong Kinh thánh và qua Máu cứu độ của Thiên-Chúa-Làm-Người, tức là Đức Giêsu Kitô.

Chúa Thánh Thần

Chúa Thánh Thần dùng Lời Chúa và nói: “Amen. Điều đó đã được viết. Đó là sự thật”. Tôi tạ ơn Chúa vì tôi không phải cố gắng thuyết phục bạn tin Chúa Giêsu. Nếu tôi có nói điều gì để thuyết phục bạn thì có thể có ai đó nói bạn ra khỏi đó!

1 Ga 5:9-11 nói: “Chúng ta vẫn nhận lời chứng của người phàm, thế mà lời chứng của Thiên Chúa còn cao trọng hơn, vì đó là lời chứng của Thiên Chúa, lời Thiên Chúa đã làm chứng về Con của Người. Ai tin vào Con Thiên Chúa, người đó có lời chứng ấy nơi mình. Ai không tin Thiên Chúa, thì coi Thiên Chúa là kẻ nói dối, vì kẻ ấy không tin vào lời Thiên Chúa đã làm chứng về Con của Người. Lời chứng đó là thế này: Thiên Chúa đã ban cho chúng ta
sự sống đời đời, và sự sống ấy ở trong Con của Người”
.

TRẦM THIÊN THU

(Chuyển ngữ từ Jesus.org)

(*) Qua đời ngày 15-11-2005.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Những thiên thần hộ mệnh âm thầm

Những thiên thần hộ mệnh âm thầm

 

Trong đời thường, đôi khi chúng ta nhận được sự trợ giúp trực tiếp hay gián tiếp của
một cộng đồng hay cá nhân nhưng chúng ta không biết hoặc chỉ biết sau một thời
gian. Trong cuộc sống tâm linh cũng thế, có những cá thể vô hình đã giúp đỡ chúng ta trong một số tình huống. Các cá thể này có thể là các tổng lãnh thiên thần, các thiên thần của Thiên Chúa. Sự giúp đở này không chỉ thuộc lãnh vực tâm linh, mà còn thuộc lãnh vực trần thế.

Các thiên thần là ai? Các thiên thần là những thần khí, chuyên lo phục vụ, được sai
đi giúp ích những người sẽ thừa hưởng phần rỗi. Các ngài tồn tại trong một không gian nằm ngoài sự nhận biết của tri giác chúng ta.

Trong Tân Ước, thỉnh thoảng các ngài được đề cập đến, và chúng ta nhận biết các vai
trò của các thiên thần qua các đoạn văn này:

§        Chăm sóc loài người và chiêm ngưỡng nhan Thiên Chúa ( Mt 18, 10).

§        Các thiên thần có đời sống độc lập với nhục thể (Mt 22, 30)

§        Các thiên thần tham gia điều hành trong ngày cánh chung (Mt 13, 39).

§        Chia sẻ niềm vui khi thấy một người tội lỗi quay về ( Lc 15, 10).

§        Mang sứ điệp của Thiên Chúa đến loài người (Lc 1, 19).

§        Dẫn đưa linh hồn người công chính vào chốn thiên cung ( Lc 16, 22)

§        Dâng lên Thiên Chúa lời kinh của các thánh (Kh 5, 8).

 

Rõ ràng, giữa con người và các thiên thần có mối dây liên lạc mật thiết. Các ngài
là công cụ mà Thiên Chúa tạo ra nhằm trợ giúp, cho mỗi chúng ta trên con đường
lữ hành ở trần thế, trước khi về quê Trời. Công việc của các ngài thực hiện, đa phần diễn ra trong âm thầm, lặng lẽ.

Chắc chắn chúng ta đôi lần đã được các ngài, khi thì truyền tải các thông điệp của
Thiên Chúa, lúc thì trợ giúp chúng ta trong những lúc gian nguy. Nhưng do bị
giới hạn của việc nhận biết thông qua các tri giác, nên vô tình chúng ta không
nhận ra những trợ lực vô hình hoặc chỉ  lờ mờ nhận ra. Trải nghiệm vấn đề
này thường mang đậm tính cá nhân. Sự thông tri là đặc ân mà Thiên Chúa dành ban
cho những người khá đặc biệt. Nhiều khi tại một thời điểm, có nhiều người xung
quanh nhưng chỉ một số ít người là được cho thấy, nghe.

Lạy Thiên Chúa, vì vẫn luôn yêu thương loài người, nên Ngài sử dụng các thiên thần  để bênh vực, che chở chúng con, mọi nơi, mọi lúc. Nhân lễ kính các tổng lãnh thiên thần,
chúng con xin cám ơn sự trợ giúp âm thầm của các ngài. Và xin cho chúng con luôn biết sống xứng đáng với những ân phúc mà chúng con đã lãnh nhận
.

 

G. Tuấn Anh.

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

Thiên Chúa Thiện Hảo Đến Nhường Bao

Thiên Chúa Thiện Hảo Đến Nhường Bao

(CN 26 TN, Năm B)

 

Tác giả:Tuyết Mai

“Nếu tay con nên dịp tội cho con, hãy chặt tay đó đi: thà con mất một tay mà được
vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai tay mà phải vào hoả ngục, trong lửa không hề tắt. Và nếu chân con làm dịp tội cho con, hãy chặt chân đó đi: thà con mất một chân mà được vào cõi sống, còn hơn là có đủ hai chân mà phải ném xuống hoả ngục. Và nếu mắt con làm dịp tội cho con, hãy móc mắt đó đi, thà con còn một mắt mà vào nước Thiên Chúa, còn hơn là có đủ hai mắt mà phải ném xuống hoả ngục, nơi mà dòi bọ rúc rỉa nó không hề chết và lửa không hề tắt”. (Mc 9, 37-42. 44. 46-47).

Ấy chết xin anh chị em đừng có hiểu ý cạn là Thiên Chúa muốn cho tất cả chúng ta trở thành tật nguyền, vô dụng, và là thành phần ăn bám vào xã hội.    Nhất là trong cái thời xa
xưa của cha ông chúng ta rất cần đến công việc tay chân, để cho công việc đồng áng, trồng trọt, lưới cá, thợ mộc, thợ nề, v.v…. Như nghề Thợ Mộc của Thánh Cả Giuse Dưỡng Phụ của Chúa Giêsu; như nghề chài lưới của 12 Tông Đồ của Chúa; mà Ngài Giêsu thường đem các nghề này ra để dẫn dụ dậy dỗ cho con cái của Ngài dễ hiểu.

Tôi nghĩ sở dĩ Thiên Chúa chúng ta phải dùng hình ảnh mạnh mẽ để có thể gây ấn tượng khó quên, cố ý hăm dọa và ngăm đe là vì con cái Chúa quá chai lì, rất khó dậy chăng?.
Chứ một Thiên Chúa vô cùng Thiện Hảo và rất Nhân Lành như Người đâu lại nhẫn
tâm muốn nhìn thấy hết thảy con cái của Người đánh mất đi cái Đẹp, cái Toàn Mỹ,
lại là do chính bàn tay quyền năng của Người tác tạo nên.   Phà hơi thở của người vào để ban cho chúng ta có được Sự Sống và Người đã rất thỏa mãn, nên sau đó Người đã nghỉ ngơi.

Ai trong chúng ta đây đã từng bỏ rất nhiều thời giờ và công sức cho một Công  Trình Xây Dựng và Xây Cất Vĩ Đại, cống hiến cho con người và vì con người, sau đó tự hủy hoại Công Trình Đẹp Đẽ ấy đi bao giờ?.   Ai lại không hiểu rằng làm con người qua bao thời đại, từ thời của hai ông bà Adong và Evà, đều đã sống chìu theo Tội Lỗi và tấm thân hay chết này; thử hỏi nếu Thiên Chúa chúng ta Người Ác như thế thì thế gian này còn mấy ai được nguyên vẹn và sống cho được?.

Người thì bị Mù hết cả hai con mắt nhưng ai cấm cho hai cái bàn tay không được mò mẫm làm nên dịp tội? Người thì bị cụt hết cả hai cánh tay thì ai cấm hai cái chân và hai con mắt chúng không làm nên dịp tội? v.v….. Giả như tất cả chúng ta hiền lành chơn chất tới cái độ
Sợ Hãi nghe theo Lời Chúa dậy ấy như trên thế giới hiện nay vẫn còn những Nước bên Trung Đông giữ những Lề Luật của Chúa răm rắp và khe khắt; thì hóa ra Thiên Chúa của chúng ta lại không Nhân Lành, không Yêu Thương, và không Tha Thứ Tội cho chúng ta hay sao?.

Có phải chính Người Dậy chúng ta là Sống luôn Tha Thứ cho nhau như Người hằng Tha Thứ Tội Lỗi cho con cái của người?.   Lời Chúa thì xưa nay hay bị hiểu cong queo và đi ngược lại
với Ý Tốt Lành của Người. Xin được hỏi nếu con người phạm tội nhưng sau đó biết Ăn Năn Sám Hối trở lại thì lấy mắt đâu để thấy người cùng khổ mà thương mà cảm?.   Lấy tay đâu để cho đi hay san sẻ của cải của mình có dư? Lấy chân đâu để đến được tận nơi?.   Chúa đâu có muốn vì tội nhất thời mà biến hết thảy chúng ta hay toàn thế giới trở thành những con người đui mù, câm điếc, què quặt, sứt mẻ, hay nằm chờ chết …. Thì Chúa lấy ai để mà làm
Bác Sĩ, Dược Sĩ, Y Tá, hay người Hảo Tâm với Trái Tim và Tấm Lòng thật lớn, nay cũng đã ra phế nhân?.

Nhìn quanh không khác nào cả thế giới vừa mới trải qua Chiến Tranh của Bom Nguyên Tử.   Có phải đường lối Chúa dậy con người cũng y như cha mẹ dậy con cái trần gian khi chúng bướng bỉnh và hư hỏng thì không gì hay hơn cho bằng là chúng ta đem những hình ảnh sợ
hãi có thật mà hù dọa chúng hay không?.   Ai mà không sợ hãi nếu bị mù mắt chứ!.   Ai lại không sợ bị cụt hai cánh tay, có đau đớn lắm không khi chính mình chẳng làm gì cho mình được, và có tệ hơn hay ngang bằng với khi mất cụt cả hai cánh chân?.   Chẳng lẽ Thiên Chúa của chúng ta Người không biết Cảm Thương là gì!?.

Có phải chúng ta đã từng chứng kiến cảnh Chúa Giêsu chết treo trên Thập Giá để Cứu Chuộc nhân loại? Cũng không ngoài mục đích Muốn Dậy con cái Người nên Tốt Lành và Thánh Thiện hơn?.   Không gì Tốt Lành, Hữu Hiệu, và Lợi Ích cho bằng là hằng năm
tất cả con cái Chúa được Sống Lại hay được Chúa Nhắc Nhở để Sống Ăn Năn Chừa
Cải Tội, suốt 40 ngày Chay Thánh.   Để chứng kiến Tình Yêu Thương Thiên Chúa rất Yêu Thương con người nhân loại đến là nhường bao.

Do đó để giúp chúng ta thấy Thiên Chúa Người luôn Thiện Hảo và Nhân Lành là qua những Gương Thánh xưa có cuộc Sống Sa Đọa, Tội Lỗi, và ngay cả rất Độc Ác như Thánh PhaoLô Trở Lại.   Sau khi bị Chúa cho ngã ngựa ngài trở nên vị Thánh có cuộc sống đẹp lòng Chúa và cho chúng ta biết bao nhiêu bài học Giá Trị của ngài.   Kế đến là Thánh Phanxicô Khó Nghèo cùng nhiều Thánh khác tương tự.

Lậy Thiên Chúa vô cùng Yêu Thương! Giúp chúng con hiểu sâu hơn những Dụ Ngôn và Lời Quyền Năng của Chúa, để chúng con lưu ý (alert) hơn nữa những gì là Tội để chúng con Chừa Cải.   Cho chúng con nhận biết Chúa luôn ở rất gần để chúng con luôn biết chạy đến Chúa cho mọi sự mọi điều chúng con Cần.   Để được Chúa Gội Rửa Tâm Hồn luôn què quặt và bệnh hoạn của chúng con.   Biết luôn Cảm Tạ Thiên Chúa cho mọi Ơn Lành Chúa ban mà chúng con đã biến chúng thành Điều Dữ và Điều Xấu.

Giúp chúng con sống trong tâm tình Tri Ân Chúa và Thương Yêu người như yêu chính mình.   Nếu chỉ là Hai  giới Răn giản dị có thế mà con người của chúng con có thể ra Tật Nguyền cách Dễ Dàng thế hay sao??.

Lậy Chúa Thánh Thần, xin Người ngự đến! Canh Tân đổi mới, đời sống chúng con …. Thêm sức Linh Hồn, bồi thêm Lửa Mến …. Amen.

 

** Xin bấm vào mã số dưới đây để hát theo:

http://www.youtube.com/watch?v=2tZRdg0FdNw

(Tình Yêu Chúa Thánh Thần)

Y Tá Của Chúa,

Tuyết Mai

(09-27-12)

MỘT BÀI THƠ TUYỆT VỜI

MỘT BÀI THƠ TUYỆT VỜI
Nominated by UN as the best Poem Written
by an African Kid

When I born, I black
When I grow up, I black :
When I go in Sun, I black
When I scared, I black
When I sick, I black
And when I die, I still black
And you white fellow
When you born, you pink
When you grow up, you white
When you go in sun, you red
When you cold, you blue
When you scared, you yellow
When you sick, you green
And when you die, you grey
And you calling me colored??
__________

Bài thơ được tổ chức UN bình chọn  là bài thơ hay nhất . Bài thơ được viết bởi một đứa bé Châu Phi

Khi tôi sinh ra, tôi  màu đen
Khi tôi lớn lên, tôi màu đen
Khi tôi đi dưới mặt trời, tôi màu đen
Khi tôi sợ, tôi màu đen
Khi tôi đau, tôi màu đen
Và khi tôi chết, tôi cũng màu đen
.
Anh nói rằng anh trắng
Khi anh sinh ra, anh màu hồng
Khi anh lớn lên, anh màu trắng
Khi anh đi dưới mặt trời, anh màu đỏ
Khi anh lạnh, anh màu xanh
Khi anh sợ, anh màu vàng
Khi anh đau, anh màu tái (lục)
Và khi anh chết, anh màu xám
Và tại sao anh lại nói tôi là da màu !


Vì bài này quá đơn giản để dịch, vì quá nghẹn  ngào mà dịch, quá cảm phục dưới cái nh́ìn tinh tế và cách lập luận logic của một đứa bé mà dịch, và thật sự bất ngờ trước những câu chữ thật đơn giản nhưng sức chứa đựng truyền tải thật phi thường mà dịch.

Cho nên nói khi chưa biết làm thơ thì thấy vần điệu là hay, khi mới biết làm  thơ thì thấy chữ nghĩa được tu từ đẻo gọt là hay, khi làm thơ được rồi thì thấy quan sát, đột phá, đổi mới là hay… Rồi cho đến một khi nào đó thì thấy tất cả đều là vô nghĩa. Chỉ còn lại tấm lòng với cảm xúc đích thực của chính mình tuôn chảy ra một cách tự nhiên, thoát khỏi sự ràng buộc của ngôn từ – thi tứ, thoát khỏi sự gọt nắn, o bế của chức danh, tuổi tác, đẳng cấp, giới tính..khi đó mới thực sự đúng nghĩa là Thi Ca.

nguồn:Nguyễn Thọ gởi

TRƯỜNG CŨ,

TRƯỜNG CŨ,
Song Như.
Hàng tràm bông vàng đã trổ bông,
Hương bay tản mác giữa trời không,
Sân trường lặng lẽ trưa hè vắng,
Riêng chỉ mình tôi nặng cõi lòng…

Tôi nhớ ngày xưa cũng nơi đây,
Em mỉm cười duyên tôi ngất ngây,
Nghe bao xao xuyến lan tràn khắp,
Trong trái tim yêu chứa thật đầy…

Hàng cây soi bóng đong đưa gió,
Hoa lả lướt rơi dạ thẫn thờ,
Nhớ bao bạn cũ giờ xa cách,
Biết sẽ tìm đâu lại tuổi thơ…

Dáng ai thong thả đường đất đỏ,
Chợt nghĩ đến em chuyến lỡ đò,
Dòng sông chia cách đôi bờ bến,
Ước có cây cầu nối lại cho…!

Erskine Park.4Am30. 29/8/2012.
Song Như.

Kính tặng Thầy,  Cô và các bạn L V C.

Mười Lăm Điều Thượng Đế Sẽ Không Hỏi

 

 

Mười Lăm Điều Thượng Đế Sẽ Không Hỏi

Fifteen Things God Won’t Ask

 

1.——————-

Thượng đế sẽ không hỏi bạn lái ô tô hiệu gì, nhưng sẽ hỏi bạn chở được bao nhiêu người không có phương tiện đi lại.

God won’t ask which car you drive, but will ask how many people you drove who didn’t have transportation.

 

2——————–.

Thượng đế sẽ không hỏi nhà bạn lớn cỡ nào, nhưng sẽ hỏi bạn đã chào đón bao
nhiêu người đến nhà.

God won’t ask how big is your house, but will ask how many people you welcomed into your home.

 

3.————-

Thượng đế sẽ không hỏi về quần áo thời trang trong tủ áo của bạn, nhưng sẽ hỏi
bạn bao nhiêu trong số quần áo ấy đã giúp kẻ khó.

God won’t ask about the fancy clothes in your wardrobe, but will ask how many of those clothes helped the needy.

 

4.——————

Thượng đế sẽ không hỏi về địa vị xã hội của bạn, nhưng sẽ hỏi bạn đã thể hiện
tư cách thế nào với những người khác.

God won’t ask about your social status, but will ask what kind of class you displayed with others.

 

5.———————

Thượng đế sẽ không hỏi bạn có bao nhiêu tài sản của cải, nhưng sẽ hỏi liệu
những thứ ấy có điều khiển cuộc đời của bạn không.

God won’t ask how many material possessions you had, but will ask if they dictated your life.

 

6.————————-
Thượng đế sẽ không hỏi bạn lương cao nhất của bạn là bao nhiêu, nhưng sẽ hỏi liệu bạn có mất mình để có được mức lương ấy không.

God won’t ask what your highest salary was, but will ask if you compromised your character to obtain that salary.

7.——————-

Thượng đế sẽ không hỏi bạn làm thêm ngoài giờ bao nhiêu thời gian, nhưng sẽ hỏi bạn có làm thêm giờ vì gia đình và những người yêu dấu.

God won’t ask how much overtime you worked, but will ask if you worked overtime for your family and loved ones.

8.——————-

Thượng đế sẽ không hỏi bạn đã nhận bao nhiêu lần đề bạt, nhưng sẽ hỏi bạn đã đề
bạt người khác ra sao.

God won’t ask how many promotions you received, but will ask how you promoted others.

9————————-.

Thượng đế sẽ không hỏi chức vụ nghề nghiệp của bạn là gì, nhưng sẽ hỏi bạn có cải cách công việc bằng khả năng tốt nhất của bạn không.

God won’t ask what your job title was, but will ask if you reformed your job to the best of your ability.

10.————————–

Thượng đế sẽ không hỏi bạn đã làm gì để giúp mình, nhưng sẽ hỏi bạn đã làm gì
để giúp người khác.

God won’t ask what you did to help yourself, but will ask what you did to help others.

11.———————-

Thượng đế sẽ không hỏi bạn có bao nhiêu người bạn, nhưng sẽ hỏi bạn là bạn chân
thực của bao nhiêu người.

God won’t ask how many friends you had, but will ask how many people to whom you were a true friend.

12.——————

Thượng đế sẽ không hỏi bạn đã làm gì để bảo vệ quyền lợi của mình, nhưng sẽ hỏi
bạn đã làm gì để bảo vệ quyền lợi của người khác.

God won’t ask what you did to protect your rights, but will ask what you did to protect the rights of others.

13.—————–

Thượng đế sẽ không hỏi bạn sống ở khu nhà nào, nhưng sẽ hỏi bạn đã đối xử với
hàng xóm ra sao.

God won’t ask in what neighborhood you lived, but will ask how you treated your neighbors.

14.————————-

Thượng đế sẽ không hỏi về màu da của bạn, nhưng sẽ hỏi về các nhân cách của
bạn.

• God won’t ask about the color of your skin, but will ask about the content of your character.

15.——————
Thượng đế sẽ không hỏi bao nhiêu lần hành động của bạn đi đôi với lời nói, nhưng sẽ hỏi bao nhiêu lần hành động không đúng như lời nói.

God won’t ask how many times your deeds matched your words, but will ask how many times they didn’t.

nguồn: Minh Thư  Đỗ gởi

NHỎ ƠI,

NHỎ ƠI,

Kính tặng Quý Thầy Cô và các bạn LVC.

Trời mưa lắc rắc nhỏ đi đâu,

Nước thấm áo hoa ướt cả đầu,

Gió rung nhè nhẹ tim se lạnh,

Ở lại bên anh chuyện tâm đầu…

Nhớ thuở học trò ngày hai buổi,

Cùng nhau lặng lẽ ngược dòng trôi,

Con đò sóng sánh tim ngây dại,

Chỉ biết nhìn ai…đến thế thôi…

Thời gian ngăn cách chia đôi ngã,

Anh theo tiếng gọi của quê nhà,

Em về xóm chợ xa thành thị,

Đêm ngắm vầng trăng nhớ thiết tha…

Người đi biền biệt không quay lại,

Bến vắng tiêu điều một kẻ say,

Con đò viễn xứ xa xôi quá,

Có nhớ chiều nào tiễn đưa ai…

Liverpool.24/9/2012.

Song Như.

CON CÁI LÀ QUÀ TẶNG VÔ GIÁ THIÊN CHÚA DÀNH CHO CHA MẸ

CON CÁI LÀ QUÀ TẶNG VÔ GIÁ

THIÊN CHÚA DÀNH CHO CHA MẸ

nguồn: Ephata 527
Cha mẹ tôi đến với nhau vào cái tuổi mà mọi người thường bảo là “trễ hẹn”, cha tôi 36, mẹ tôi thì 29. Đám cưới đã qua đi ba mùa xuân đầy ắp yêu thương, nhưng hoa quả của tình yêu vẫn là một sự mong đợi của gia đình nội ngoại hai bên, mặc dù ông bà tôi đã có rầt nhiều cháu.
Bằng đời sống cầu nguyện với lòng cậy trông, cha mẹ tôi đã được Thiên Chúa yêu thương nhậm lời. Thế là một hình hài bé nhỏ bắt đầu dần hình thành trong dạ mẹ. Khi đó mẹ tôi đã bước sang tuổi 32, biết chuyện ai cũng đều e ngại cho đứa con đầu lòng như tôi, và quả thật là thế !
Tháng thứ ba của thai kỳ, bỗng nhiên mẹ tôi bị ra huyết rất nhiều. Bác sĩ bảo rằng mẹ tôi có
thai ngoài tử cung và yêu cầu phẫu thuật bỏ thai. Niềm vui với đứa con vừa hoài thai trong lòng chưa được bao lâu lại bỏ đi ư ? Cả nhà tôi rất lo lắng và xin bác sĩ cố gắng xem lại bệnh tình của mẹ tôi. Nhờ ơn Chúa, mẹ tôi tai qua nạn khỏi và tôi được giữ lại.
Tháng thứ tư qua đi trong êm đềm. Tháng thứ năm, một lần nữa mẹ tôi lại bị ra huyết. Lần này không nghiêm trọng lắm, nhưng bác sĩ khuyên nên cẩn thận vì thai nhẹ, rất yếu.
Tới tháng thứ sáu cũng qua đi trong sự lo lắng của gia đình.
Một chiều Chúa Nhật trong tháng thứ bảy của thai kỳ, tôi đã được khoảng 29 tuần tuổi, một lần nữa mẹ tôi lại ra huyết. Huyết ra lênh láng. Mẹ tôi được đưa vào bệnh viện trong cơn mưa chiều tầm tã nặng hạt. Cùng với mẹ tôi, lúc đó cũng có một ca của một thai phụ tương tự như mẹ tôi. Sau khi bác sĩ khám cho mẹ tôi và thai phụ kia, ông ấy trao cho cả hai bà mẹ cùng một loại thuốc đen mun nhỏ như hạt tiêu và dặn rằng uống rồi, khi nào đau bụng thì kêu ông ấy đến để lấy thai nhi ra. Khi đó mẹ tôi rất hoang mang lo lắng.
Khoảng một giờ sau khi uống thuốc, người thai phụ kia đau bụng dữ dội và bác sĩ đã lấy thai nhi vừa chết ra khỏi cung lòng của mẹ bé. Nhìn thấy cảnh tượng đó mẹ tôi vô cùng sợ hãi. Sau khi hoàn tất công việc cho thai phụ kia, quay sang mẹ tôi, ông ấy hỏi thăm sức khỏe mẹ tôi. Mẹ tôi nói không có cảm giác đau đớn gì cả, Với nụ cười trên môi, vị bác sĩ nói với mẹ tôi: ”Chúc mừng bà vì bà đã giữ lại được cháu”. Một giấc ngủ êm đềm đến với mẹ. Những tuần lễ sau đó là thời gian chuẩn bị cho tôi được chào đời.
Một ngày trong tuần thứ ba mươi tư của thai kỳ, mẹ tôi vỡ ối nhưng mãi đến 12 tiếng đồng
hồ sau, khi nước ốc đã cạn sạch, tôi mới lọt lòng mẹ. Trường hợp này là một ca sinh khó, nhưng tôi và mẹ đã được an toàn và khỏe mạnh, như một phép lạ kỳ diệu. Mẹ tôi bế con cân nặng 2,8kg trên tay, hai hàng lệ lăn dài trên gò má vì sung sướng và hạnh phúc.
Lạy Chúa, con quả thật hạnh phúc được sinh ra trong sự quan phòng kỳ diệu của Chúa, được cha mẹ đón nhận bằng cả tình yêu. Con có được một mái nhà, một mái nhà yên ấm thật sự để đi về mỗi ngày, với mâm cơm nóng hổi thơm ngon tình gia đình. Con hạnh phúc vì có cha mẹ luôn bên cạnh mình vực con dậy và tiếp tục dẫn dắt con sau những lần vấp ngã xót đau khi con bước chập chững vào đời. Cảm tạ Chúa đã cho con trái tim biết yêu, biết rung động trước cái đẹp và biết cảm thông chia sẻ với những mảnh đời bất hạnh. Cảm tạ Chúa đã thương con, cho con sống trong tình yêu của Chúa, cho con biết ca tụng tình yêu thương của Chúa.
Lạy Chúa, giờ đây lời kinh con dâng lên Chúa là một lòng thờ kính Chúa, là một niềm cậy trông đặt tất cả niềm tin nơi Chúa. Cuộc sống này dù có gian nan vất vả, chúng con vẫn xin nguyện chúc cho cha mẹ luôn có được hạnh phúc và niềm vui. Nguyện xin tình yêu của Chúa đến ở trong gia đình con, cho cha mẹ được muôn phúc lành.
Xin Chúa ban cho con biết ý thức và luôn giữ trọn đạo hiếu với cha mẹ trong mọi hoàn cảnh. Xin cho con nhận ra rằng những gì con có được hôm nay chính là tình yêu của Chúa cho con thông qua hai bậc sinh thành là cha và mẹ con…
Emmanuel LÊ TRẦN CHÍ HIẾU, Nhóm Fiat

“Mặt Trời đen quá đen, đen như đời ta!”

“Mặt Trời đen quá đen, đen như đời ta!”
“Đời hằng mong thoát đi, đi khung trời xa.”
(Nguyễn Trung Cang – Mặt Trời Đen)
(Mt 6: 14-15)
Trần Ngọc Mười Hai
Có một thời, chừng như hồi đó là thập niên 50 hay 60 thì phải, bần đạo kịp thấy lòng mình rộn lên những ca từ như “Mặt Trời Đen quá đen” do Trung Cang viết. Ca từ này, trùng hợp với ý/lời ở nhạc bản  “Noir, c’est noir!” của Johnny Halliday, rất cùng thời. Ca từ nhạc trẻ, khi đó diễn tả mặt trời đượm mầu đen, như đời mình. Gọi đó là lời tiên tri hoặc sấm hay không, bần đạo thật chẳng dám. Chỉ dám nhớ mỗi điều là: ca sĩ thời ấy cứ thích hát các nhạc bản có nhịp điệu kích động. Còn, ý/từ có ra sao cũng chẳng cần bàn.
Hôm nay, ngồi buồn xét lại lời ca hôm nào, bần đạo đây thấy có cái gì đó nó khiến mình cứ phải suy phải nghĩ cũng rất lung. “Lung” đây, dĩ nhiên chẳng thể nào lung lạc niềm tin hay niềm gì đó cho cam. Mà, chỉ thấy hôm đó sao các tác giả lại cứ muốn người nghe nhắc nhở cảm thông với chuyện đời mình, thế thôi. Cảm thông chuyện đời, nay người người lại vẫn bảo: dù ta sống ở thời nào đi nữa, hãy cứ hy vọng vào sự thứ tha, vì Đấng-Thánh-Hiền-Bậc-Trên từng khẳng định: “Dậy mà đi, niềm tin đã cứu con!”
Hôm nay đây, nhân lúc dừng lại chỉ dăm ba phút phù du, bần đạo lại mời bạn và  mời tôi, ta suy nghĩ đôi điều về niềm tin có sám hối, thứ tha, có cả ân lộc cho thấy đời mình không chỉ gồm tóm mỗi chuyện như bên dưới:
“Cuộc đời như chó hoang, lang thang về đêm.

Cuộc tình không mấy khi nghe câu dịu êm.

Mặt trời không muốn sáng, soi cho ta thấy

nắng lên trong đêm dài, cho đời ta ấm áp.”
(Nguyễn Trung Cang – bđd)
Thật ra thì, đời mình hoặc đời người dù có như “chó hoang, lang thang về đêm”. Hoặc, như “Mặt trời không muốn sáng” để “soi cho ta thấy”, có “nắng lên trong đêm dài cho đời ấm áp” đi nữa, thì hỡi bạn và tôi, ta vẫn thấy lòng rất ấm nhờ lời vàng Chúa dạy còn đó vẫn y nguyên:
“Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta,
thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em.
Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta,
thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em.”
(Mt 6: 14-15)
Xem thế thì, đời mình và đời người chỉ thấy ấm lòng/ấm dạ khi đã và đang tha thứ hoặc nhận ơn thứ tha từ người khác. Nhưng, trước khi để lòng dạ mình được ấm áp hơn với những xác quyết từ bậc thày uyên bác, tưởng cũng nên tạt ngang qua đôi ba truyện kể để thư giãn, rồi sẽ tính. Tính, cả những chuyện hoặc “sự thể” được kể ra đây như thế này:
“Sáng hôm ấy, một ngày đẹp trời hơi bị hiếm, tôi bèn tranh thủ ra phòng mạch sớm hơn thường lệ. Mới tám rưỡi, đã thấy bệnh nhân đứng tuổi nọ ngồi đó chờ tôi xem lại vết mổ để cắt chỉ. Xem ra, ông có hơi vội vì còn phải đi đâu đó có cuộc hẹn. Tò mò không ít, tôi bèn hỏi ông một đôi câu xem ông có vấn đề gì không mà cứ nhấp nha nhấp nhỏm như thế, ai dè ông liền trút bầu tâm sự kể cho tôi nghe hệt như với người nhà. Nghe xong tôi lại hỏi:
-Bộ, ông có cái hẹn nào khác hay sao mà vội thế?
-Hẹn hò gì đâu, bác sĩ. Tuổi này mà hẹn hò với ai nữa cơ chứ.
-Thế sao tôi thấy ông có vẻ nóng ruột lắm thì phải?
-Dạ, không phải thế đâu. Chả là, lâu nay tôi hạ quyết tâm giữ đúng hẹn dù có chuyện không cần đúng giờ.
-Thế thì lần này ông có hẹn gặp ai thế?
-Là bà xã của tôi thôi.
-Tuổi này đi gặp vợ mà cũng phải đúng giờ sao?
-Đúng vậy. Bởi, khi xưa tôi từng thất hẹn nhiều lần với bà ấy, thế nên hôm nay tôi có lời thề là sẽ không bao giờ lỡ hẹn với người tình của mình đến suốt đời.
-Sao gọi là người tình của mình, lãng mạn quá nhỉ?
-Ấy! Chuyện chẳng có gì là lãng mạn đâu bác sĩ, nó cũng chỉ thế này: Hồi đó lần đầu tiên gặp người vợ sắp cưới, tôi trễ tầu cũng khá lâu, vì lúc ấy tôi đinh ninh mình có hẹn với
một người khác, nên đã quên khuất đi mất. Khổ nỗi là người vợ sắp cưới của tôi biết cái tật hay nịnh đầm của tôi, nên mới tính cho tôi đi tầu suốt cho tiện bề sổ sách. Kỳ đó, tôi phải năn nỉ đến gẫy lưỡi mới êm. Cũng vì nể mặt bà con chòm xóm, nên bà ấy tuyên bố chỉ tha cho tôi lần ấy thôi. Sau này, có lỡ mà tái phạm, thì tôi chỉ còn mỗi nước đi chầu Diêm vương là xong ngay, chứ bà ấy sẽ không tha. Bởi thế nên, mới vội vã…
-À ra thế. Vậy, bây giờ tôi giúp bác giữ trọn lời thề năm xưa nhé. Xong! Bây giờ bác có thể “ra đi” gặp bã được rồi đấy. Nhưng hãy nhớ lời vợ dặn, đừng có đào hoa nữa, đấy nhe ông!.”
Người kể hôm nay từng nói với mọi người rằng: truyện kể hôm nay thật ra chẳng có gì gọi là “rách việc” hết. Có kể ra đây, cũng để coi đó như một  dẫn nhập cho đề tài hơi khô cứng và chậm tiêu, thôi. Minh định rồi, người kể nay đã cùng tôi, mời bạn đọc lẫn bạn nghe qua CD, cứ tha hồ mà “lướt sóng” với chuyện phiếm, để gọi là “mua việc” cho tiện việc.
Mua việc, là mua vào mình những chuyện lình xình rất “rách việc”. Mua việc, là “buôn chuyện” Đạo, xục xạo chuyện đời những là thứ tha/tha thứ cả đến lỗi phạm rất tày trời. Và, mua việc là mua vào mình những chuyện mà người người ở chốn nợ đời ít bàn ra tán vào, cho thông thoáng. Bàn, chuyện đạo/đời có lỗi phạm khơi khơi, cần sám hối với ăn năn. Mua việc, là mua chuyện “bực mình” không tên tuổi để rồi cứ tự hỏi: không biết có nên tha thứ nữa hay không. Và, mua chuyện còn là mặc vào mình những chuyện lỉnh kỉnh mà người đời thường hay né tránh.
Vậy thì, hỡi bạn và tôi, ta không ngại ngùng thì cứ mua việc cho rộng đường dư luận rất lai rai, dài dài, để nói: từ ngàn xưa, ở đất miền Do thái xa xôi/diệu vợi có các vị “lão làng”/“già làng” từng bàn nhiều những chuyện tha thứ đến 77 lần 7 như Tin Mừng thánh Mátthêu từng ghi như sau:
“Thưa Ngài, nếu anh em tôi có lỗi với tôi,
tôi phải tha đến mấy lần? đến 7 lần phải không?
Đức Giêsu nói với ông:‘Ta không nói: đến 7 lần mà đến 77 lần 7..”
(Mt 18: 21-22)
Ngôn ngữ thời nay, người người sử dụng cụm từ “tha thứ” khác thời xưa, cũng rất nhiều. Người thời nay khi nghe thế, sẽ bảo: “Ấy! Bạn đừng bận tâm mấy chuyện ấy!” Người Công giáo phương Tây, cũng vậy, mỗi khi nghe ai nói lời xin lỗi, lại cứ bảo: “Thôi! Ta hãy quên chuyện ấy đi!” hoặc: “Hãy bỏ qua giùm tôi đi, hỡi bạn hiền!.”Hoặc: “Đề nghị bà con mình ra ngoài kiếm cái gì làm vài ngụm, cho quên đời!” Có trường hợp, bạn nói: “Hãy quên tay đó đi. Hắn “dởm” chết được, hơi đâu mà bận tâm, cho mệt!”
Người đời sử dụng nhiều từ ngữ rất “thứ tha”, nhưng có lúc lại vẫn vi phạm sơ xuất/lỗi lầm đến độ khó mà nhận được thứ tha trở ngược lại. Bởi, mọi chuyện đâu phải cứ “đâm sau lưng chiến sĩ” rồi xin lỗi sao?
Tha thứ, là một trong các đề tài được nói nhiều ở Tân Ước. Hội thánh thường hay trích dẫn các chương/đoạn nói đến yêu cầu này rải rác trong Tin Mừng như thánh Mát-thêu nói trong kinh Lạy Cha, và lời hỏi/đáp giữa Chúa và tông đồ của Ngài; hoặc, Tin Mừng thánh Luca có truyện “người con đi hoang” phá tán tài sản gia đình là thế, mà khi trở về vẫn được thứ tha, và còn được Cha nhân từ thết đãi tiệc rượu như người trọng vọng, vv…
Với người đi Đạo sống ở đời thường, không phải chuyện gì cũng đều có thể tha thứ một cách rất dễ dàng được. Bởi, khi thứ tha, người người đều lồng vào đó một động thái độc đáo/riêng biệt chỉ một mình mới có. Độc đáo, là bởi trong đó có tác dụng ngay ở đây, bây giờ, để đối xử cách riêng tư với người bị đụng chạm. Cung cách xử sự riêng tư, có dính đến giao dịch, trao đổi về đạo đức/chức năng, một động tác liên quan đến hai người: một tha thứ và một nhận sự tha thứ.
Người tha thứ, nhận trách nhiệm về sự xấu sẽ xảy đến. Không coi đó là xấu xa nữa. Người tha thứ có kinh nghiệm từng trải, đã biết tôn trọng cả người bị đụng chạm, không còn muốn gây thương tích cho đối tác của mình nữa. Có kinh nghiệm từng trải ở đây, là hiểu biết những tai hại xảy đến cho cả hai bên. Nên, mới cương quyết đổi thay. Mới mở đường cho mình lập lại khuôn khổ để có được sự thứ tha.
Trong khi đó, người nhận ơn thứ tha, quyết không trả thù hoặc có ý giáng trả mọi tai hại về vật chất cũng như tinh thần. Quyết từ nay không còn gây oan nghiệt/giận hờn cho bất cứ ai. Nhưng, nhất quyết đổi thay mọi thái độ dù hành xử của mình hay của ai khác không thể tha thứ được.
Đọc Tin Mừng, hẳn người đọc cũng thấy có khác biệt giữa ơn tha thứ Chúa ban và sự thứ tha từ người phàm. Chúa thứ tha, Ngài không kể số lần hoặc không gian/thời gian được dùng đến để tha thứ. Và ơn thứ tha Ngài ban ra, vẫn mang tính chất cao cả, không có gì để tranh luận hơn/thua. Tha thứ từ nơi con người, thường là có tha đấy nhưng với điều kiện này khác. Điều kiện ấy, được diễn tả qua câu ví: “bánh ít đi, bánh qui lại” hoặc, tha đấy nhưng từ nay thì đừng hòng ta nhìn mặt, đừng hòng được ta chơi với nữa . Tức, tha đấy nhưng không hẳn là tha vô điều kiện và/hoặc có hạn chế.
Và khác biệt rõ nét giữa thứ tha của ta với tha thứ từ Chúa, vẫn là câu Chúa nói: “Hãy trỗi dậy mà đi, niềm tin của con đã cứu con.” Nói cách khác, Chúa thứ tha cả khi con người cố chấp/biếng nhác hoặc tán tận lương tâm. Nói cho cùng, thứ tha của Chúa là sự tha thứ không câu nệ. Chẳng bao giờ Ngài trách cứ hoặc đe doạ trừng phạt bất cứ ai, dù người đó sơ xuất thật quá quắt.
Về tha thứ Chúa đòi, nay ta quay về với ca-từ vừa trích dẫn, sẽ thấy khác. Khác, ở chỗ:
“Nụ cười ta đánh rơi mất khi còn thơ
Chỉ còn hiu hắt trên đôi môi hững hờ
Từng niềm tin vỡ tan bước xa mông mơ
Mặt trời đen vẫn xua bóng đen nhởn nhơ
(Nguyễn Trung Cang– bđd)
Cũng may là, nghệ sĩ ở trên còn vớt vát đôi câu về “mặt trời đen” những hờn oán, rất như sau:
“Nụ cười chưa tan biến sao như nước mắt
Thấm lên đôi vai gầy ôi buồn đau biết mấy
Chuyện buồn mong quên hết ta mong quên hết
Vứt đi bao u sầu, mong tìm nơi nương náu.”
(Nguyễn Trung Cang – bđd)
Đúng thế. Hãy “vứt đi bao u sầu”, và “Chuyện buồn, ta mong quên hết”. Quên hết, để chỉ nghĩ đến niềm vui nhà Đạo mình vẫn quan niệm và nhắn nhủ.
Nhận định của nghệ sĩ về đời người có “Nụ cười chưa tan biến, sao như nước mắt thấm lên đôi vai gầy, ôi buồn đau biết mấy.“ Thế đó, là khác biệt giữa nhận định của nghệ sĩ ngoài đời với người đi Đạo. Tuy nhiên, khác biệt tha thứ giữa người đi Đạo và Đạo của Chúa vẫn thứ tha Ngài không đòi phải sám hối.
Khác biệt này, có tác giả từng viết ra lời nhận định nghe hơi lạ, nhưng rất thấm, như:
“Thánh Tôma Akinô từng nghĩ rằng tha thứ kiểu con người thực hiện không đòi phải sám hối, nhưng đó không là sự thứ tha của Thiên Chúa. Thiên Chúa, khi tha thứ, Ngài luôn tạo ra sự thể và hy vọng là người mắc lỗi sẽ sám hối. Thế nhưng, có học trò thuộc trường phái Tô-mít lại suy nghĩ theo cách khác. Vị ấy tên là M. Leblanc từng viết trong “Revue Thomiste” đăng vào năm 2010, tr. 595-614, đã có nhận xét như sau:
Lòng Chúa xót thương –tiếng La-tinh là: “Misericordia” một cụm từ được ghép từ hai chữ “Miser” (nỗi thống khổ) và “Cordia” (tâm can con người) chung làm một. Cụm từ này, nói lên điều cốt tuỷ là: tâm can con người luôn thấu hiểu/cảm thông sự thống khổ của người khác. Lòng xót thương, đến với những ai đau khổ, sầu buồn vì thiếu tiền thiếu của hoặc có sai trái do lỗi lầm mình mắc phạm. Xót thương cả những người đau ốm, yếu ớt hoặc thấy thua sút về mọi mặt, có giới hạn về mọi thứ khiến mình ra khốn khổ.
Thành thử, đó là lý do làm cho tâm can con người thấy xót thương cho những người rơi vào hoàn cảnh khốn đốn, nghèo khổ. Không thể có lòng xót thương nếu không định ra được sự thống khổ ở ai đó. Người có lòng xót thương là nhìn vào những ai đang khốn khổ khi nhìn lại chính mình. Làm như thế, người có lòng thương xót sẽ biết mình cùng một phận với người nghèo đói/khổ sở. Thấy mình đồng cảm với sự khốn khổ của người kia. Nếu bảo rằng thương xót là hành xử của tình yêu, thì người có lòng xót thương sẽ yêu đương người cùng khổ như thành phần của chính con người mình. Để chứng minh là mình có lòng thương xót, trước tiên mình phải cảm nghiệm chính mình cũng khốn khổ, có cùng một khổ ải như người khác. Với người khác.
Lòng xót thương, diễn tả tâm trạng của tâm can bao hàm cả tính xót xa lẫn thân phận khốn khổ cùng gộp chung ở một vị trí. Nơi tâm can con người đã thấy hiện diện cả tấm lòng xót xa hết mọi người. Tình thương xót tóm gọn cả sự sầu khổ của người khác rồi dùng đó làm của riêng mình, ngang qua tình thương yêu-kết hiệp với người mình đau xót.
Người có lòng xót xa xem bạn bè như chính mình. Những gì làm bạn bè khổ sở cũng là yếu tố khổ sở riêng tư của chính mình. Tức, cả người xót dạ và cả người được thương vẫn cảm nghiệm cùng một tình tự hệt như thế. Cũng bị đụng chạm vì nó như cái gì đó thật rất xấu nằm ở trong. Nói cách khác, người có lòng dạ xót xa nỗi khốn khổ cả với người chịu khổ đau. Người già lẫn kẻ khốn khó đều thấy rõ nỗi khổ ngay bên trong người khác để rồi sẽ nói: tôi cũng thế. Người đau yếu, hãi hùng cũng khổ như nhau. Sự Xót xa dường như đòi phải nên khốn khó với người đau khổ ngay trong cơn khổ ải của họ. Ở đây nữa, Thiên Chúa là Đấng xót xa cả người khốn khổ theo cung cách đó và chỉ mỗi cách đó, thôi.
Bằng vào tình thương yêu-kết hiệp, người người coi bạn bè cũng như mình, quyết lấy đi mọi đau khổ của người khác làm của mình. Chính vì lý do này, mà cụm từ cảm thông/san sớt xuất từ tiếng La tinh “con-dolere” (cùng chịu khổ đau). Ở đây nữa, còn có nghĩa san sớt và cảm thông nỗi sầu của nhau, nữa.
Vấn đề hỏi rằng: Chúa có làm như thế không? Ngài thực hiện cá chuyện ấy chứ? Phải chăng Chúa từng làm hoặc vẫn coi con người như thành phẩm của chính Ngài? Nếu vậy, thì Chúa cũng mủi lòng cùng đau với nỗi đau của ta và cũng xót xa hết mọi người đấy chứ?
Có thể nói Chúa hành xử thay cho ta, nên Ngài chuyển thông chính Đức Chúa Cha đến với ta qua các nỗi khổ của ta. Thiên Chúa là Sự Tốt Lành Tiên Quyết tạo hiệu quả cất lấy đi hoặc làm vơi nhẹ nỗi khó khăn của ta. Tuy nhiên, việc đó dù có bảo bọc tính mủi lòng thánh thiêng thế nào đi nữa, việc ấy cũng không cho thấy cội nguồn của các hành động mà Ngài làm cho mọi người. Nếu hiểu thế, khác nào bảo Thiên Chúa chẳng có lòng đam mê/cảm xúc nào hết. Thiên Chúa là người chỉnh sử mọi khó khăn của ta chứ không là người cùng đồng cảm cho ta và với ta.
Nhìn cung cách hiệp nhất, sẽ thấy Chúa và ta cùng tham gia tiến trình yêu thương-kết hiệp dễ mủi lòng. Cung cách ấy, lòng cảm động xót xa người khác như chính mình. Điều đó dễ thấy nơi tình cảm thương yêu của mẹ hiền với đàn con: chính đó là tình thương yêu-kết hiệp thể hiện nơi món quà người mẹ tặng cho con. Bởi quà tặng, tức bản thân con cái là thực chất sống động do cha mẹ chuyển tặng. Cũng như câu truyện diễn tả Chúa tạo dựng người nữ ở sách Khởi Nguyên nói lên sự việc người phàm ban tặng thực chất đời mình để người khác (ở đây là con cái) được hiện hữu qua tạo dựng và như thế, người nữ là người nhận quà thương yêu/kết hiệp Chúa ban tặng từ nam nhân đầu đời thể hiện nơi nhân vật Ađam. Cũng một hình ảnh tương tư nơi hoa trái lủng lẳng trên cây nhưng chưa rớt xuống, vẫn là thành phần của chính cây. Hình ảnh này dù chỉ mang tính chất thể, nhưng tình trạng này cũng xảy đến bằng động tác thương yêu-hiệp nhất, rất xót xa/mủi lòng.” (xem Lm Kevin O’Shea CSsR, I Beg Your Pardon: A Study of What Forgiveness Means Giáo án giảng dạy tại Đại Học Công Giáo Úc, Sydney 26/5/2012 tr. 45-46)
Nói về tình thương yêu-kết hiệp theo ngôn ngữ thần học, là nói và diễn giải rất như thế. Còn, nói về cuộc đời theo kiểu nghệ sĩ ngoài đời, lại nói bằng lời ca, đôi lúc có cả tiếng khóc thét, cũng tối đen như:
“Sao ta vẫn thấy  mặt trời đen như mực!

Mặt trời đen, đen như đêm ma quái Ah ha ha ha ha..
Sao ta vẫn thấy mặt trời đen như mực!
Mặt trời đen, đen như đêm ma quái Ah ha ha ha ha…”
(Nguyễn Trung Cang – bđd)
Nói về mặt trời dù “đen như mực” giống đời người, đâu có nghĩa là nghệ sĩ mình cứ thế “ăn thua đủ” để rồi tả tình/tả cảnh bằng những câu ca đầy than vãn và oán thán cả một đời.
Oán và thán, cả đấng thánh hiền từng tạo dựng cuộc đời người, cho mình! Nói về cuộc đời rất không đen như mặt trời, là tiếp tục nói như đấng bậc ở trời Tây vẫn cứ bảo:
“Nhìn sự việc đầy thương yêu –dù khổ đau/đen tối vẫn còn đó- là tự hỏi: giữa Đấng Tạo Hoá và tạo vật có tương quan nào đó xem ra không được ổn. Tuy là thế, sự thật vẫn là sự
thật, tức: vẫn luôn có tình thương yêu đậm sâu rất thánh thiêng quyết kết hiệp Đấng Tạo Hoá với tạo vật, còn vững mạnh hơn cả cách biệt về bản thể giữa Tạo Hoá và tạo vật ở đời.
Nếu ai đó lại tìm cách áp đặt sự cách biệt này vào với Tạo hoá và con người, thì chắc chắn người đó đã có vấn đề, Bởi, Thiên Chúa không thể tham gia kết hiệp vào thứ gì đó trong con người của ta mà lại không mang tính thánh thiêng của Thiên Chúa. Đúng hơn phải
nói: Thiên Chúa thương ta như cái gì đó xuất tự chính mình Ngài. Điều này có nghĩa là: ngay trong ta, đã có sự tốt lành ở bên trong khiến cho Thiên Chúa thương yêu ta đến độ muốn cho ta được kết hiệp với Ngài không thể có giới hạn hoặc nhược điểm. Thiên Chúa chuyển đạt sự hiện hữu thánh thiêng của Ngài cho ta vì mục đích kết hiệp đó. Và khi Thiên Chúa thông chuyển chính mình Ngài cho ta, thì việc đó đến từ sự tốt lành của Thiên Chúa, mà ta gọi là tạo dựng. Và, khi Thiên Chúa thuyên chuyển chính mình Ngài cho một thực thể mang trong mình một nhược điểm hoặc hạn định hoặc cả đến sự xấu, mà lại đến từ lòng xót xa thương yêu của Ngài, thì ta gọi đó là gì đây?Có thể đó là tầm kích (thường thì đó là tầm kích dè dặt, không đúng cách) về tạo dựng. Và, có lẽ ta phải dùng ngôn từ
nào khác để cắt nghĩa hiện tượng này, mới đúng…
Sự việc này không giống như tình thương yêu xót xa kiểu con người, nhưng còn hơn thế nữa. Như thế thì, đó không phải là tương quan mang đầy bản thể giữa tạo vật và Đấng Tạo Hoá. Chính ra phải hơn thế nữa. Thiên Chúa thương yêu ta như là chính mình Ngài, và việc này vẫn tồn tại dù sự thân thiện giữa ta với Chúa bị cắt đứt. Trên thực tế,  thì căn bản là sự thể ấy sẽ được tái thiết lập vào sau lúc đứt đoạn, và ta gọi đó là sự thứ tha.
Ở đây nữa, ngôn ngữ vẫn mang tầm vóc rất hạn chế, lờ mờ một ẩn dụ. Thứ ẩn dụ khó lòng mà chỉnh sửa nếu không có ngôn ngữ cực mạnh của mặc khải mà người nhà Đạo gọi là Khải huyền.” (x. Lm Kevin O’Shea, bđd ở trên)
Nói cho cùng và còn muốn nói thêm về tha thứ, thì cũng chỉ bảo rằng: ở sự thứ
tha thần thánh Chúa tặng ban, vẫn là sự toàn vẹn khác với việc ta mong đợi về
sự vẹn toàn ở trong ta và nơi Chúa. Chính vì thế, nên ta thấy khó mà hiểu nổi
làm sao lại có được sự thứ tha rất vẹn toàn khi con người của ta luôn là bất toàn.
Điều này chỉ có thể hiểu được bằng chuyện ví von/so sánh như bầu khí cởi mở
và/hoặc tính cách tích cực thấy có ở sự tha thứ mang tính rất hạn chế nơi ta,
mà thôi. Hạn chế, cả trong sự việc ta nhận là mình có cố gắng để thứ tha, nhưng
chưa hoàn toàn. Bởi thế, cũng nên tìm thêm ngôn từ nào diễn đạt rõ nghĩa hơn và
mạnh mẽ hơn về thứ tha hoặc tha thứ.
Trong khi chờ đợi để có được ngôn từ như thế, tưởng cũng nên về với truyện kể
để suy tư và thư giãn, cho đẹp cuộc đời. Truyện để kể là những “sự” như sau:
“Trong một tiệm ăn, ông khách gọi bồi bàn mang cho ông ly café, nhà hàng mang tới một ly café trong đó có một con ruồi nhặng đang vẫy vùng, tìm đường thoát.
Qua sự kiện này, thông thường phản ứng của khách thế nào?
Khách Nhật: lễ độ trả tiền, không đụng tới ly café, kín đáo ra về.
Khách Ăng Lê: lạnh lùng chỉ cho chủ tiệm con ruồi trong ly.
Khách Pháp: phàn nàn, cau có vì ly café làm ông mất vui, phí phạm cả một ngày trong 3 tháng hè thường niên.
Khách Mỹ: gọi điện cho luật sư riêng, ra lệnh làm thủ tục kiện tụng, đòi 2 triệu dollars bồi thường thiệt hại tinh thần.
Khách Đức: đề nghị chủ tiệm thi hành kỷ luật với nhân viên có lỗi.
Khách Ý: mọi chuyện ổn thoả, nếu tiệm không tính tiền café và bữa ăn.
Khách Ả Rập: rút ngân phiếu mua tiệm ăn rồi đóng cửa, sa thải hết nhân viên.
Khách Thụy Điển: cảnh cáo chủ tiệm không tôn trọng sinh mạng và hạnh phúc của sinh vật.
Khách Mễ: gạt con ruồi, rồi uống hết ly café.
Khách Tầu: tu ly café ừng ực rồi nhậu con ruồi ngon lành, hỏi chủ tiệm có cách nào dụ thêm ruồi vào nhà bếp.
Khách Do Thái: dụ bán con ruồi cho người Tầu, bán ly café cho người Mễ, kiện chủ tiệm và nghiệp đoàn tiệm ăn về tội kỳ thị Do thái. Chính phủ Do thái tố cáo Hồi giáo đã sáng chế võ khí khủng bố mới bằng ruồi nhằm tiêu diệt Do Thái, ra lệnh cho quân đội nhẩy dù, đổ bộ, chiếm toàn vùng Gaza và một phần lãnh thổ Ai Cập dọc biên giới Palestine. Vận động Do thái tố cáo chính phủ Mỹ làm tay sai cho Hồi giáo, bán đứng Do Thái. Tổng thống Mỹ chính thức cáo lỗi và Thượng Viện biểu quyết tăng gấp ba viện trợ quân sư, kinh tế của Mỹ cho Do Thái.” (truyện cười trên mạng, vừa gửi đến)
Người kể truyện hôm nay lại bàn luận bằng sự việc kéo theo hành xử cần phổ biến: đó là sự tha thứ. Tha cho người đầu bếp pha cà-phê đã sơ ý để ruồi nhặng lọt vào ly. Truyện kể
chẳng có gì là ly kỳ, hồi hộp hoặc đưa ra bài học nào hết. Nhưng người kể lại cứ kéo theo triết lý của nhà Đạo sống ở đời là phải biết tận dụng mọi tình huống để hiện thực một thứ tha, dù người phạm lỗi chẳng mảy may tỏ dấu gì là sám hối hết.
Không những thế, người kể hôm nay lại còn đề nghị người đọc chuyện phiếm qui về điển tích trích dẫn từ lời vàng của Chân Phước Têrêxa thành Calcutta như sau:
“Ngày nay, có quá nhiều đau khổ trong các gia đình trên toàn thế giới. Bởi thế nên, cầu nguyện cho mọi người trên thế giới là việc cũng quan trọng như tha thứ. Người ta hỏi
tôi phải khuyên bảo thế nào cho đôi vợ chồng đang gặp khó khăn nghĩa là chung đụng sống với nhau nhiều năm mà không có tha thứ cho nhau, thì tôi luôn luôn trả lời: ‘Hãy cầu nguyện và tha thứ’. Hãy làm thế cho các thanh thiếu niên từ các mái nhà đầy hung bạo: ‘Hãy cầu nguyện và tha thứ’ cho các người mẹ cô độc không được gia đình hỗ trợ: ‘Hãy luôn cầu nguyện và tha thứ’ và lúc nào cũng thầm thì với Chúa, rằng: ‘Lạy Chúa, con yêu Chúa. Lạy Chúa, con hối lỗi thật rồi. Lạy Chúa, con tin Chúa. Lạy Chúa, con tín thác mọi sự thuộc về con cho Chúa. Xin Chúa giúp con yêu thương và tha thứ cho nhau như Chúa vẫn yêu thương tha thứ cho chúng con.”
(Trích: Triết lý tuyệt vời và lối sống đơn giản của Mẹ Têrêxa Calcutta phổ biến trên mạng)
Nói cho cùng, suy tư cầu nguyện kiểu của Chân Phước Têrêxa thành Calcutta có là cung cách để ta bàn về cuộc đời mà người nghệ sĩ cứ tưởng và cứ hát rằng:
“Cuộc đời như chó hoang, lang thang về đêm.

Cuộc tình không mấy khi nghe câu dịu êm…”
(Nguyễn Trung Cang – bđd)
Lời cuối hôm nay, còn là lời nhắn ngược với nghệ sĩ hôm trước rằng: cuộc đời người
và cuộc tình vẫn còn đó những “câu dịu êm” đấy chứ. Dịu êm đây, là tha thứ dù
anh có nhận xét rất bi đát. Đời người, vẫn còn đó yêu thương-kết hiệp, nếu bạn
và tôi ta vẫn chịu ra ngoài mà chào đón hết mọi người, trong tương quan tốt của
con người.
Trần Ngọc Mười Hai

Chả bao giờ dám bảo rằng

cuộc đời người rất đen đủi,

dù có chán.

Maria Thanh Mai gởi

Tôi đi tìm cát

Tôi đi tìm cát

Chiên Già

WGPSG —

Sông kia rày đã nên đồng

Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai

Đêm nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.

(Sông lấp – Tú Xương)

Nghe tiếng ếch văng vẳng bên tai mà thi nhân xao xuyến trong lòng, như thấy đồng vọng đâu đây tiếng gọi đò tha thiết. Không còn sông, bởi “sông kia rày đã nên đồng”. Hình ảnh một con sông quê với tiếng gọi đò văng vẳng trong đêm đã trôi vào quên lãng, đã chìm vào quá khứ, vậy mà bỗng nhiên trỗi dậy trong tâm tưởng, đánh thức trái tim, khua lên xao xác những hồi cố ngọt ngào. Thế nên mới phải “giật mình”… [1].

Nhớ sông xanh, nhớ đò xưa, thi nhân giật mình hoài niệm quá khứ ngọt ngào. Tôi cũng từng “giật mình” giống thi nhân xưa, nhưng là giật mình … đi tìm cát!

Một trong nhiều tiêu chuẩn để đánh giá mức độ phát triển của một vùng đó là vùng đó đã đô thị hóa được bao nhiêu phần trăm. Mức độ đô thị hóa lại đi kèm với bê tông hóa, càng nhiều bê tông cốt thép bao nhiêu, tốc độ “hóa thành thị dân” càng tăng bấy nhiêu. Hiên nhà được tráng xi măng, đường phố được trải nhựa, vỉa hè lát gạch hoặc đổ bê tông dày cả gang
tay… Sân cát trở nên món hàng xa xỉ, trở thành đối tượng để ước mong, để hoài niệm!

Đô thị hóa lan tới đâu, sân cát mất dần tới đó! Cỏ cây không còn đất để mọc, trẻ em mất sân chơi tự nhiên để rồi dán chặt mắt vào màn hình vi tính, hết game online đến thế giới ảo, dần dần đánh mất cuộc sống thực với biết bao mối tương quan thân yêu và dễ thương, các em cũng dần lãng quên những trò chơi sôi động và hào hứng trên sân cát bụi mù: chơi khăng,
đánh đáo, rồng rắn lên mây, bắn bi, trốn tìm, bịt mắt bắt dê,…

Giật mình trong đêm, tôi mơ về sân cát tuổi thơ lấm lem bụi đất, rộn rã tiếng cười, chan chứa tình bạn!

Không chỉ giật mình hoài niệm về những trò chơi vui nhộn trên sân cát cùng các bạn
thuở xưa, tôi còn giật mình lo lắng đi tìm cát! Tìm cát vì: “Bí quyết hạnh phúc phải chăng là ghi lên mặt cát những phiền muộn, và khắc sâu vào đá những vui tươi của chúng ta?!” [2].

Những khoảng sân cát ngày xưa, hôm nay đây dần vắng bóng! Biết tìm cát nơi đâu để “viết phiền muộn lên đó, nhờ gió cuốn đi”?

Nơi đâu nhiều cát cho bằng sa mạc! Muốn tìm thật nhiều cát, nơi đâu cho bằng tiến
vào sa mạc. Sa mạc thiên nhiên giữa đất trời thì khó kiếm do ở xa, khó vào vì thiếu phương tiện, nhưng “Sa mạc cõi lòng” của mỗi người thì bản thân đương sự có thể gặp thấy bất cứ lúc nào và bất kỳ thời điểm nào cũng có thể vào, nếu thực sự muốn!

Đôi khi chính bản thân mỗi người có thể chủ động để quyết định đi vào “sa mạc lòng”
của mình, và cũng thường khi chính Thiên Chúa sẽ “dẫn dụ” họ đi vào nơi đó: “Bởi thế, này Ta sẽ quyến rũ nó, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình” (Hs 2,16).

Quả thế, khi vào sa mạc, tôi có thật là nhiều cát để viết để vẽ tất cả nỗi phiền muộn tha nhân đã “dành” cho tôi, cũng như “khai báo” tất cả lầm lỡ, yếu đuối của bản thân, rồi khẩn cầu lòng thương xót của Thiên Chúa, Đấng từ bi và nhân hậu đến như cơn gió mát thổi bay, xóa mờ tất cả những nét vẽ nét chữ nguệch ngoạc đó!

Nơi sa mạc, tôi gặp được một vị Thiên Chúa sẵn sàng “ngoảnh mặt” đi mà “không nhìn bao tội lỗi và xoá bỏ hết mọi lỗi lầm” (Tv 51,11), và như thế tôi sẽ “được thanh tẩy”, để “trở nên trắng hơn tuyết” (Tv 51,7). Tôi sẽ dìm mình vào lòng thương xót của Chúa và được thứ tha!

Tới lượt tôi, tôi sẽ học được bài học tha thứ: “Xin tha nợ cho chúng con, như chúng con cũng tha nợ cho kẻ có nợ với chúng con
(Kinh Lạy Cha).

Trong sa mạc, Thiên Chúa sẽ thanh luyện, dạy dỗ và an ủi tôi… tôi sẽ được tái tạo, trưởng thành, thánh hóa, vượt qua phiền muộn của quá khứ để “vui luôn trong Chúa” (Pl 4,4) ngay giây phút này.

Tôi vào sa mạc đi tìm cát cũng là để tìm lại Tôi, con-người-nguyên-sơ trong trắng đã được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa!

_____________________

[1] xin xem bài luận “Sông lấp – Trần Tế Xương

[2] xin xem bài viết “Trên Đá này…

Maria Thanh Mai gởi

 

ĐÂY LÀ MỘT CÂU CHUYỆN CÓ THẬT XẢY RA VÀO NĂM 1892 TẠI ĐẠI HỌC STANFORD

ĐÂY LÀ MỘT CÂU CHUYỆN CÓ THẬT XẢY RA VÀO NĂM 1892 TẠI ĐẠI HỌC STANFORD

Có một cậu học sinh 18 tuổi đang gặp khó khăn trong việc trả tiền học. Cậu ta là một đứa trẻ mồ côi, và cậu ta không biết đi nơi đâu để kiếm ra tiền. Thế là anh chàng này bèn nảy ra một sáng kiến. Cậu ta cùng một người bạn khác quyết định tổ chức một buổi nhạc hội ngay trong khuôn viên trường để gây quỹ cho việc học.

Họ tìm đến người nghệ sĩ dương cầm đại tài Ignacy J Paderewski . Người quản lý của
Paderewski yêu cầu một khoản phí bảo đảm $2000 để cho ông ấy được biểu diễn.
Sau khi họ thoà thuận xong, hai người sinh viên ấy bắt tay ngay vào công việc chuẩn bị để cho buổi trình diễn được thành công.

Ngày trọng đại ấy cuối cùng đã đến. Paderewski cuối cùng cũng đã buổi diễn tại tanford. Thế nhưng không may là vé vẫn chưa được bán hết. Sau khi tổng kết số tiền bán vé lại, họ chỉ có được $1600. Quá thất vọng, họ đến chỗ của của Paderewski để trình bày hoàn cảnh của mình. Hai người sinh viên ấy đưa Paderewski toàn bộ số tiền bán vé, cùng với 1 check nợ $400, và hứa rằng họ sẽ trả số nợ ấy sớm nhất có thể.

“KHÔNG”, Paderewski nói. “Cái này không thể nào chấp nhận được.” Ông ta xé tờ check, trả lại $1,600 cho hai chàng thanh niên và nói : “Đây là 1600 đô, sau khi trừ hết tất cả các chi phí cho buổi biểu diễn thì còn bao nhiêu các cậu cứ giữ lấy cho việc học. Còn dư bao nhiêu thì hãy đưa cho tôi”. Hai cậu sinh viên ấy vô cùng bất ngờ, xúc động cảm ơn Paderewski..

Đây chỉ là một làm nhỏ, nhưng đã chứng minh được nhân cách tuyệt vời của
Paderewski.

Tại sao ông ấy có thể giúp hai người mà ông ấy thậm chí không hề quen biết. Chúng ta tất cả đều đã bắt gặp những tình huống như vậy trong cuộc sống của mình. Và hầu hết chúng ta đều nghĩ : “Nếu chúng ta giúp họ, chúng ta sẽ được gì ?”. Thế nhưng, những người vĩ đại họ lại nghĩ khác: “Giả sử chúng ta không giúp họ, điều gì sẽ xảy ra với những con người đang gặp khó khăn ấy?”. Họ không mong đợi sự đền đáp, Họ làm chỉ vì họ nghĩ đó là việc nên làm, vậy thôi.

Người nghệ sĩ dương cầm tốt bụng Paderewski hôm nào sau này trở thành Thủ Tướng
của Ba Lan. Ông ấy là một vị lãnh đạo tài năng. Thế nhưng không may chiến tranh thế giới nổ ra, và đất nước của ông bị tàn phá nặng nề. Có hơn một triệu rưỡi người Ba Lan đang bị chết đói, và bây giờ chính phủ của ông không còn tiền để có thể nuôi sống họ được nữa. Paderewski không biết đi đâu để tìm sự giúp đỡ. Ông ta bèn đến Cơ Quan Cứu Trợ Lương Thực Hoa Kỳ để nhờ sự trợ giúp.

Người đứng đầu cơ quan đó chính là Herbert Hoover, người sau này trở thành Tổng Thống Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Ông Hoover đồng ý giúp đỡ và nhanh chóng gửi hàng
tấn lương thực để cứu giúp những người Ba Lan đang bị đói khát ấy.

Thảm họa cuối cùng cũng đã được ngăn chặn. Thủ Tướng Paderewski lúc bấy giờ mới
cảm thấy nhẹ nhõm. Ông bèn quyết định đi sang Mỹ để tự mình cảm ơn ông Hoover
vì cử chí cao quý của ông ấy đã giúp đỡ người dân Ba Lan trong những lúc khó khăn. Thế nhưng khi Paderewski chuẩn bị nói câu cảm ơn thì ông Hoover vội cắt ngang và nói : “Ngài không cần phải cảm ơn tôi đâu, thưa ngài Thủ Tướng. Có lẽ ngài không còn nhớ, nhưng vài năm trước, ngài có giúp đỡ hai cậu sinh viên trẻ tuổi ở bên Mỹ được tiếp tục đi học, và tôi là một trong hai chàng sinh viên đó đấy ”

THẾ GIỚI NÀY ĐÚNG THẬT LÀ TUYỆT VỜI, KHI BẠN CHO ĐI THỨ GÌ, BẠN SẼ NHẬN LẠI ĐƯỢC NHỮNG ĐIỀU TƯƠNG TỰ.

 

KINH CẦU NGUYỆN TRONG LÚC ĐAU KHỔ

KINH CẦU NGUYỆN TRONG LÚC ĐAU KHỔ

 

Ôi Bánh Hằng Sống, xin giúp con nơi chốn khách đời này, để con được sức mạnh trung thành bước theo những dấu chân của Đấng Cứu Thế. Lạy Chúa, con không xin Chúa cất con xuống khỏi thập giá, nhưng con xin Chúa ban cho con sức mạnh để con được vững vàng trên con đường ấy. Lạy Chúa Giêsu, con muốn được giang rộng trên cây Thánh giá như Chúa đã làm. Con muốn chịu mọi cực hình và đau đớn mà Chúa đã chịu. Con muốn uống cho cạn chén đắng.

Ôi Chúa Giêsu của con, xin ban cho con sức mạnh chịu đựng đau khổ để con không mang bộ mặt nhăn nhó khi con uống chén đắng. Xin giúp con làm việc hy sinh của con cho được đẹp lòng Chúa. Ước gì điều ấy không bị lem luốc bởi tình yêu ích kỷ của con. Xin tất cả những gì ở trong con, từ đau buồn đến sức mạnh của con là sự ca ngợi dâng lên Chúa. Amen.

Maria Thanh Mai gởi