PHỤC VỤ LÀ CON ĐƯỜNG DẪN VỀ NƯỚC TRỜI

PHỤC VỤ LÀ CON ĐƯỜNG DẪN VỀ NƯỚC TRỜI

(CN 29 TN, Năm B)

Tác giả:Tuyết Mai

Khi ấy, Chúa Giêsu gọi các ông lại gần mà bảo: “Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước, thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn,
thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì  hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”. (Mc 10, 42-45).

Cảm tạ Thiên Chúa, Người rất nhân lành là hằng dậy dỗ chúng con những người con khờ khạo, tham lam, và gian ác hiểu thế nào để có cuộc sống Vĩnh Cửu trên Nước Trời.   Hiểu rằng con đường để được lên Nước Trời không phải là điều dễ dàng để ai cũng có thể làm
được.   Con đường lên Trời ấy, khổ nỗi Nó không thong dong như những  gì trần gian mong muốn và ao ước để có được.   Ngược lại con đường lên Trời ấy lại là sống Có cũng như  không.   Có nghĩa không dính bén, không màng danh lợi, chức vụ, và sống như người không nhà không cửa, thì mới được Nước Trời làm gia nghiệp.

Nhưng sống được như vậy cũng mới là nửa điều kiện mà thôi! Sở dĩ tôi nói thế là vì trần gian hầu hết con cái Chúa đều là nghèo khổ.   Sinh ra đã nghèo.   Nghèo từ nhỏ đến
lớn.   Có người Nghèo suốt cả cuộc đời.   Có phải cuộc sống nghèo thường thì sống lươn lẹo để cho có?.   Miệng mồm đãi đưa, mời mọc bán hàng không đúng giá, cân lượng sai lệch rất nhiều, xăng thì đổ thêm nước vào đấy, hàng Tầu thì bảo là hàng Ta, hàng ngoại quốc, v.v….. Do đó ta phải sống thành thật thì mới được!.   Sống thành thật thì phải có cái bụng thành thật.   Có lương tâm.   Đối xử với người như đối với chính mình.   Thờ phượng một Thiên Chúa duy nhất.   Dù thế nhưng Chúa cũng chưa vừa ý vì như thế những anh chị em ngoại đạo họ cũng đối xử với nhau được như vậy!?.

Ngoài việc giữ đạo là giữ 10 Điều Răn Đức Chúa Trời, sau lại yêu người như chính mình ta vậy, còn phải phải Phục Vụ cho anh chị em, và là người rốt hết trong xã hội thì khi ấy chúng ta mới được có tiêu chuẩn để được Chúa đón về Trời??.   Hay Chúa còn đòi hỏi con người chúng ta như thế nào nữa thì mới được Chúa đón nhận???.

Nói đi thì cũng phải nói lại thưa anh chị em! Tôi thiết nghĩ Thiên Chúa của chúng ta Người rất Nhân Lành và Rộng Lượng vô cùng.   Dù chúng ta có thế nào đi chăng nữa, Người cũng đón nhận chúng ta mà!.   Chúng ta là cha mẹ cứ thử đem gia đình con cái của mình ra xem thử nhé, xem chúng ta sẽ đối xử với con cái của chúng ta ra sao, trước pháp luật nghiêm minh và công bằng?.   Có ai biết con mình phạm tội giết người mà giấu pháp luật hay không, và vì sao ta giấu?.   Có ai tự đem con mình ra giao cho pháp luật xử hình vì biết con mình phạm tội giết người, và vì sao?.   Chúng ta là cha mẹ, tình yêu ấy không thể nào
sánh ví cho bằng; bất luận ra sao chúng ta cũng muốn che đậy cho con của mình không bị xử tử.   Hoặc phải được hứa rằng con mình không bị xử tử thì mới giao nó cho pháp luật!?.

Đó là Pháp Luật của trần gian, ai ở đâu thì phải thi hành theo Quốc Gia đó, Thưa có phải? Nhờ đó mà con người ta cũng phải biết sợ để không dám phạm tội?.   Nói đâu cho xa ngay tại nước VN của chúng ta đây, cách đây vài hôm tôi có dịp đọc được mẩu tin tức có 2 người bị 100 người đánh tới chết vì tội ăn cắp chó đem bán.   Người nào đọc được tin này hay biết tin này, chắc có 10 lá gan cũng không dám đi ăn cắp chó của người ta nữa, dù đã có ý định từ trước khi có chuyện chết người này xẩy ra.

Hẳn chúng ta là con người cũng hiểu rằng tại sao một gia đình hay một xã hội lại phải cần có Pháp Luật.   Có phải Pháp Luật đặt ra là để cho con người có cuộc sống an toàn, trật
tự, và thanh bình hay không?.   Và Luật của Chúa cũng không ngoài lý tưởng sống ấy!.   Người ban cho chúng ta Điều Răn của Người là để tất cả chúng ta sống tốt và hiền hòa với nhau.   Người ban cho chúng ta Lời của Chúa là để giúp chúng ta có Tấm Gương lành mà noi theo.   Người cũng ban cho chúng ta cách thức để được vào Nước Trời, dễ dàng nếu chúng ta có Chúa làm Chủ cuộc đời của chúng ta.   Ngoài Chúa ra Người còn ban cho chúng ta một người Mẹ gương mẫu, thật hoàn hảo vẹn  toàn.   Là Mẹ Maria muôn đời khiết trinh.   Là Mẹ của toàn thể nhân loại con người.   Là Mẹ của toàn thể Giáo Hội trên toàn quốc.

Có phải Đức Maria muôn đời đồng trinh, cuộc sống của ngài luôn là Phục Vụ?.   Phục Vụ Con Mẹ, phục vụ bạn đời của mình là Thánh Cả Giuse, phục vụ tất cả tông đồ của Chúa, và phục vụ tất cả anh chị em sống chung quanh Mẹ?.   Rồi nhìn Gương trong Giáo Hội Chúa cũng vậy, ai càng làm lớn thì lại càng phải Phục Vụ nhiều, và càng là người nhỏ bé nhất.   Càng phục vụ nhiều lại có nghĩa là càng yêu nhiều.   Càng yêu nhiều mới có thể quên mình để được phục vụ anh chị em.   Và quanh đi quẩn lại là những tấm gương sáng ngời tất cả các
Thánh Nam Nữ trong quá khứ đã chứng minh cách rất rõ ràng, con đường dấn thân
Phục Vụ là con đường dẫn hết thảy con cái Chúa vào được Nước Trời.   Cho nên hễ ai sống ích kỷ, tham lam, gom góp, tranh dành, để có được giầu có, hạnh phúc trên trần gian này …. thì lẽ tất nhiên Nước Trời chẳng phải là của họ.

Ai cần được ngồi bên trái hay bên phải Chúa trên Nước Trời? Hẳn nếu chúng ta tự đặt cho ta câu hỏi đó, thì có phải chính chúng ta đã không xứng đáng để được ngồi vào đâu cả trên Nước Thiên Chúa hay không?.   Vì cái tôi, cái ích kỷ chỉ muốn được ngồi chỗ nhất thì ước muốn ấy cũng chứng minh cho ta và cho Chúa thấy rằng, mình chỉ muốn sống cả đời có được người phục vụ mà thôi không?.   Ấy cái con người đê hèn của chúng ta là thế đó!.   Một lời nịnh hót vẫn nghe hay hơn là một lời khuyên đúng.   Một lời “mật ngọt mà chết ruồi” vẫn nghe hay hơn là một lời “thuốc đắng dã tật”, v.v….

Con đường lên Thiên Đàng hay con đường muốn xuất ngoại qua Mỹ định cư vĩnh viễn, cả hai nơi điều kiện chúng cũng na ná giống nhau mà thôi!.   Điều kiện để được đi, dù là đi đâu, đi lên hay đi ngang qua vượt đại dương thì chúng ta phải có chương trình để chuẩn
bị cho chuyến đi ấy!.   Đi đâu cũng đòi hỏi chúng ta phải dành rất nhiều thời gian để chuẩn bị.   Chuẩn bị tiền bạc và chuẩn bị hành lý.   Đi qua Mỹ thì ngoài tiền bạc để lo giấy tờ chúng ta phải hao tốn rất nhiều thời gian để làm việc toàn thời gian để dành dụm, càng nhiều càng
tốt, vì một chuyến đi là không bảo đảm sẽ có ngày quay về?.   Còn đường lên Trời thì ngày trở về lại càng không có thể.

Nếu nói về điều kiện đòi hỏi ở trên thì vì ta sống mà không để ý đấy chứ! Chứ thực ra ai từng ở trên thương trường làm ăn, cũng hiểu danh từ Phục Vụ đúng nghĩa là như thế nào rồi!?.
Mỹ thì bảo rằng khách là Vua, là Số 1.   Chìu khách, có nghĩa phục vụ khách ở mức tối đa, nhất là các hàng quán ăn như nhà hàng chẳng hạn.   Tiệm uốn cắt tóc, hay tiệm nails, đều phải phục vụ hết lòng.   Vì có phục vụ tốt, niềm nở với khách, chìu chuộng khách thì khách mới đến nữa, và ta mới kiếm được nhiều tiền huê hồng (tips) thưa có phải?.   Chỉ có khó khăn cho những người làm công việc trong các hãng xưởng nếu là nhân công thì khó nhận ra công việc phục vụ này lắm, vì hằng ngày làm việc với những đồ vật vô tri vô giác; chẳng lẽ phục vụ cho đồ vật?.

Nhưng ngoài nhân công ra thì hãng có hạng cấp chỉ huy hay gọi là (white colors).   Ở thứ hạng này thì tất cả ai cũng hiểu danh từ phục vụ như thế nào rồi!.   Vì không có tinh thần phục vụ thì công việc không được trôi chảy ở mức có trật tự và nghe lời.   Ai có tinh thần phục vụ thì sẽ có tinh thần vâng lời hay nghe lời vì hầu hết chúng ta sống và làm việc chung với nhau.   Do đó dù là trong gia đình nhỏ bé nhưng chúng ta cũng có luật có lệ.   Để trên nhường dưới nhịn, và quan trọng là vì chúng ta yêu thương nhau.   Không ai muốn ai đau khổ.   Không ai muốn ai có quyền hành trên ai mà không muốn có không khí của hạnh phúc, có không khí của một mái ấm gia đình.

Chẳng phải chúng ta không hiểu ý của Chúa đâu, hiểu quá đi là đàng khác, nhưng có thể vì chúng ta muốn bẻ cong Ý của Chúa, nên mới thấy là khó hiểu đấy thôi!.   Hay vì trần gian luôn có giai cấp nên chúng ta không thuyết phục với danh từ phục vụ mà chỉ muốn cho
người phục vụ mình?.   Hoặc vì chúng ta hiểu trần gian là có giai cấp rõ rệt? Người giầu có chỉ tay năm ngón là những người bắt người ta phải phục vụ cho mình, và nghe lời mình.   Còn người làm công, người hầu mới phải cúi đầu mà phục vụ người chủ và khách của chủ?.   Có phải vì chúng ta hiểu cái hiểu “ghen ghét” như thế hay không?.

Quả thật Trời và Đất là hai nơi, khó qua lại được với nhau.   Chỉ vì sự suy nghĩ cạn của chúng ta đã là cái cản, cái chắn, không cho chúng ta qua được ranh giới của Nơi bên kia cách dễ dàng.   Nhưng có phải hiểu không cũng chưa gọi là đủ vì nếu chỉ hiểu mà không có được bản đồ Người cho thì làm sao ta biết cách mà lên?.   Thử hỏi xem những người phi hành gia họ có biết Nước Trời nằm ở nơi nào hay không thì rõ?.   Ở đây Chúa cũng chỉ cho ta cách thức để được lên Trời là con đường phục vụ!!!.   Có tinh thần phục vụ, xả thân phục vụ cho anh chị em, theo thời gian Chúa sẽ mạc khải cho biết thêm con đường Về Trời thật đậm và rõ nét hơn, thưa anh chị em, và đó là điều chắc chắn!.

Lời của Thiên Chúa nói thì cả bao ngàn năm nay vẫn như đinh đóng cột, chúng ta đừng phí thời giờ để nghi hoặc hay thắc mắc, mà điều chính yếu là thời giờ thì sắp cùng cạn và sắp gần hết.   Chúa chỉ đòi hỏi nơi chúng ta hãy thân thưa cùng Chúa là Xin Vâng theo Thánh Ý Chúa.   Mở rộng tâm hồn của chúng ta để đón nhận Ý  Chúa, công việc của chúa, vì Người cần bàn tay và sự góp sức của chúng ta trên anh chị em đang rất cần đến chúng ta.

Để chương trình của Chúa mới được hoàn thành theo sự Tốt Đẹp mà Thiên Chúa mong mỏi ở hết thảy con người trần gian.   Để khi ấy ngày Quang Lâm mới được xẩy ra cách nhanh chóng, cách tốt đẹp, và hoàn hảo!?.   Để trái đất sẽ còn lại những gì mà Chúa muốn chúng có trên trái đất.   Nhưng riêng con người sẽ được Thiên Chúa ban thưởng là đặc ân, được Chúa đem lên sống cùng Chúa Nơi Thiên Đàng sẽ là muôn đời có sự Sống Vĩnh Cửu.   Amen.

Y Tá Của Chúa,

Tuyết Mai

(10-17-12)

 

Đau khổ và Đức tin

Đau khổ và Đức tin

Đăng bởi pleikly lúc 8:02 Sáng 20/10/12

VRNs (20.10.2012) – Sài Gòn – Chúa nhật XXIX TN, năm B.

Không ai muốn “chạm trán” đau khổ, nghĩa là ai cũng tìm mọi cách và bằng mọi giá để
tránh đau khổ, thế nhưng hầu như ngày nào chúng ta cũng phải đối mặt với đau khổ, dù ít hay nhiều, với các dạng và mức độ khác nhau.

Chính Chúa Giêsu đã từng tỏ cho các môn đệ biết rõ rằng “Ngài phải đi Giêrusalem,
phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16:21). Một câu ngắn mà có tới 2 từ PHẢI và 1 từ BỊ, cả hai đều ở thể thụ động. Não lòng quá! Đau khổ có hệ lụy gần gũi với nước mắt, loại nước đặc biệt mang vị mặn đặc trưng.

Thế nhưng đau khổ như một phần tất yếu của cuộc sống, như “phần cứng” được cài đặt
mặc định trong mỗi con người. Một đứa trẻ chưa hề nếm mùi đau khổ, thế mà vừa sinh ra đã bật tiếng khóc để chào đời. Vui sao lại khóc? Đứa trẻ nào không khóc là có vấn đề, cha mẹ lo sốt vó. Như vậy, mặc nhiên người ta đã chấp nhận sự đau khổ là phần tất yếu. Đúng vậy, Chúa Giêsu đã xác định: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (Mt 6:34).

 

ĐAU KHỔ CÓ VỊ ĐẮNG HAY NGỌT ?

Bài đọc I hôm nay là một phần của bài thứ tư trong số các Bài Ca Người Tôi Trung: “Đức
Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu”
(Is 53:10). “Bị nghiền nát vì đau khổ” là để “được trường tồn”. Ngược đời quá! Với con người, như thế thật là chua chát, cay đắng, có thể không còn nước mắt để khóc nữa. Người Tôi Trung đó chính là Đức Kitô, Con Thiên Chúa. Ngôn sứ Isaia giải thích: “Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ
gánh lấy tội lỗi của họ”
(Is 53:11).

Đau khổ nào cũng cay đắng, đắng đến tê lòng, nhưng đau khổ vẫn có vị ngọt bùi kỳ
lạ. Trong thực tế cuộc sống, khi chịu đau khổ vì tình yêu, có người gọi nỗi đau khổ đó là “thú đau thương”, là “nỗi đau dịu êm”. Vậy đó, đau thương mà vẫn thú vị, đau khổ mà vẫn dịu êm. Còn nước mắt lại được ví von là “giọt nước mắt ngà”. Thế mới lạ, thế mới cao thượng. Người đời con khả dĩ nhận thức như vậy huống chi những người tin nhận Đức Kitô là Thiên Chúa! Ai có thể cảm nhận được như vậy chính là người ta đã vượt lên trên nỗi đau khổ. Chắc chắn không ai có thể tránh đau khổ, nhưng muốn tránh đau khổ thì chỉ còn cách đi xuyên qua đau khổ. Đó là cách độc đáo để tự “vượt qua số phận”.

Người can đảm chấp nhận đau khổ mà không than thân trách phận, không so đo với những
người may mắn khác, chắc hẳn người đó phải có chiều sâu tâm linh, sống trong niềm phó thác nơi Thiên Chúa quan phòng. Thật vậy, tác giả Thánh vịnh bày tỏ: “Lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin” (Tv 33:4). Nói được như vậy là biết rõ Chúa là người thế nào: “Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất” (Tv 33:9). Chúng ta không thể nào hiểu hết tình yêu Chúa, cũng không thể cân-đo-đong-đếm Lòng Chúa Thương Xót, vì tình yêu thương ấy hoặc lòng trắc ẩn ấy vẫn triền miên hết ngày dài lại đêm thâu, suốt từ thuở hồng hoang trải dài từ đời nọ tới đời kia (x. Lc 1:50).

Tác giả Thánh vịnh tiếp tục minh định: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn” (Tv 33:18-20). Ngay cả khi chúng ta quên Ngài mà Ngài vẫn luôn nhớ đến chúng ta, thậm chí cả khi chúng ta hoàn toàn đối nghịch với Ngài mà Ngài vẫn miệt mài tìm chúng ta để đưa về hưởng an bình nơi “đồng cỏ xanh rì bên suối ngọt lành” [x. Tv 22 (23)]. Vô tri bất mộ. Nhưng đã nếm thử Chúa ngọt ngào thế nào rồi thì không thể giữ riêng cho mình, mà tự lòng  mình sẽ thôi thúc chia sẻ với người khác về Chúa: “Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi Ngài luôn che chở phù trì” (Tv 33:20), đồng thời tin tưởng và vui mừng cầu nguyện liên lỉ: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài” (Tv 33:22).

Và tới lúc này thì sự đau khổ không còn vị đắng nữa mà lại hóa vị ngọt ngào và êm
dịu. Nghĩa là người ta có thể cảm nhận sâu sắc thế nào là “thú đau thương”, là “nỗi đau dịu êm” hoặc “giọt nước mắt ngà”.

Thánh  Phaolô cho biết: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các
tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin”
(Dt 4:14). Niềm tin luôn quan trọng trong cuộc sống đời thường, đức tin càng quan trọng gấp bội trong đời sống Kitô hữu, nhất là chúng ta đang sống trong Năm Đức Tin (*), đồng thời còn phải lưu ý việc tân Phúc Âm hóa.

Thánh Phaolô vừa giải thích vừa khuyến khích: “Vị Thượng Tế của chúng ta không
phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Ngài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần”
(Dt 4:15-16). Chúa Giêsu đã mặc khải cho Thánh nữ Faustina: “Lòng Thương Xót của Thiên Chúa lớn hơn cả tội lỗi của cả nhân loại”. Quả thật, nếu Lòng Chúa Thương Xót không lớn lao hơn mọi thứ xấu xa tồi tệ nhất trên đời này thì chúng ta chết ngay lập tức. Tại sao? Không khí là bằng chứng sống động về Lòng Chúa Thương Xót: Nếu không khí loãng hơn một chút hoặc đậm đặc hơn một chút, chúng ta đủ chết ngắc rồi chứ đừng nói chi đến thiếu không khí. Đơn giản về không khí thôi thì chúng ta cũng phải không ngừng tạ ơn
Chúa rồi, đừng nói chi đến những thứ khác!

 

ĐAU KHỔ CÓ ĐÁNG MƠ ƯỚC ?

Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và nói: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây” (Mc 10:35). Rào trước đón sau, thậm chí như “ra điều kiện” với Chúa vậy. Và chúng ta cũng thường xuyên có cách cầu nguyện như vậy. Chúa Giêsu hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” (Mc 10:36). Các ông thưa ngay, không hề ngại ngùng: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang” (Mc 10:37). Rất thẳng thắn, rất thực tế, rất rõ ràng. Đây là cách cầu nguyện vị
kỷ và tìm tư lợi. Hai con trai ông Dêbêđê chắc mẩm Sư phụ mình rất “ngon”, nổi tiếng như cồn, quyền phép vô song, uy tín vô cùng, chắc chắn Sư phụ sẽ lên ngôi báu trị vì thiên hạ, làm cận thần của Thầy mình thì còn gì oai hơn chứ? Trên cả tuyệt vời! Nếu là chúng ta, có thể chúng ta không muốn làm cận thần như họ, vì như vậy vẫn “bèo” lắm, mà có thể chúng ta muốn làm phó nguyên soái hoặc thủ tướng, chí ít cũng phải xin làm bộ trưởng.

Tuy nhiên, Đức Giêsu bảo ngay: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có  uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10:38). Chén này không phải là chén mật hoặc chén sữa, cũng chẳng phải là chén cà-phê, càng không phải là chén mật ngọt, mà là chén mật đắng; phép rửa này không rửa bằng nước mà rửa bằng máu tươi. Có lẽ các ông không hiểu ý Chúa nên mạnh dạn đáp: “Thưa được” (Mc 10:39a). Quá ngon!

Đức Giêsu thản nhiên: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy
sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được”
(Mc 10:39b-40). Vế thứ hai trong câu nói của Chúa Giêsu thật đáng lưu ý. Nghe Thầy trò họ đối thoại, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với anh em Giacôbê và Gioan. Đó cũng chính là động thái của chúng ta ngày nay, cũng ghen ăn tức ở chứ chẳng hơn gì ai!

Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: “Anh em biết rằng những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10:42-44). Và Ngài dẫn chứng: “Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10:45).

Vấn đề phục vụ là chuyện rất tế nhị, dễ “chạm” vào “phần mềm nhạy cảm” của bất kỳ
ai – dù đời hay đạo. Nhưng Lời Chúa quá rõ ràng, không bóng gió, không “nói khéo”, không tránh né. Tuy nhiên, trong sinh hoạt thường nhật, cái mà người ta nói là phục vụ người khác nhưng thực chất có thể lại chỉ là cung cách “phục vụ có điều kiện”.

Phục vụ cũng liên quan đau khổ. Hầu như mọi thứ đều liên đới với nhau, nối kết như
mạng nhện vậy, nối kết không trực tiếp thì gián tiếp. Trên một tấm bảng đồng,
người ta khắc những dòng chữ này:

Lạy Chúa, con cầu xin được Mạnh Mẽ để thành đạt trong cuộc đời, Chúa lại làm cho
con ra yếu đuối để biết vâng lời khiêm hạ.

Con cầu xin có Sức Khỏe để mong thực hiện những công trình lớn lao, Chúa lại cho
con chịu tàn tật để chỉ làm những việc nhỏ tốt lành.

Con  cầu xin được Giàu Sang để sống sung sướng thoải mái, Chúa lại cho con nghèo
nàn
để học biết thế nào là khôn ngoan.

Con  cầu xin có Uy Quyền để mọi người phải kính nể ca ngợi, Chúa lại cho con sự thấp
hèn
để con biết cần Chúa.

Con cầu xin cho Có Tất Cả để tận hưởng cuộc đời, Chúa lại cho con cả cuộc đời
để tận hưởng mọi sự.

Con  xin gì cũng chẳng được theo ý con muốn. Nhưng những điều con đáng phải mơ ước
mà con không hề biết cầu xin, thế mà Chúa vẫn ban cho con thật dư đầy từ
lâu.

Lạy Chúa, hóa ra con lại là người hơn hết trên đời này, bởi con đã nhận được
vàn ân phúc của Chúa
.

Toàn những thứ trái ngược nhau. Tuy nhiên, chúng ta khả dĩ nhận thấy rằng đau khổ
không là điều đáng nguyền rủa, mà ngược lại, đau khổ là điều đáng mơ ước: Thánh giá Chúa trao – như người ta thường nói với người gặp đau khổ. Vui chịu đau khổ là sống đức tin, là bước qua cửa hẹp (Mt 7:13-14; Lc 13:24), là vác thập giá theo Chúa (Mt 10:38; Lc 14:27), là từ bỏ mình (Mt 10:39; Lc 14:33).

Năm Đức Tin đã khởi đầu, nhắc nhở chúng ta phải nghiêm túc xem lại đức tin của
chính mình: “Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 10:32-33).

Lạy Thiên Chúa nhân hậu, xin ban cho chúng con lòng can đảm và khôn ngoan để chúng
con tuyên xưng Danh Chúa mọi nơi và mọi lúc, đồng thời biết dùng ánh mắt đức tin để nhân biết Thánh Ý Ngài trong từng nỗi đau khổ của cuộc đời. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

__________________________________

(*)
ĐGH Biển Đức XVI đã ban hành Tông thư Porta Fidei (Cổng Đức Tin) hồi tháng
10-2011, nói về việc mở Năm Đức Tin để kỷ niệm 50 năm Công đồng Vatican II
(Chân phước GH Gioan XXIII) và 20 năm xuất bản sách Giáo lý Công giáo (Chân
phước GH Gioan Phaolô II). Năm Đức Tin đã chính thức khai mạc tại Rôma ngày
11-10-2012, và sẽ kết thúc ngày 24-11-2013 (lễ Chúa Giêsu Kitô, Vua vũ trụ).
Chủ đề của Năm Đức Tin là Tân Phúc Âm hóa.

Giáo
hội Công giáo Việt Nam chính thức khai mạc Năm Đức Tin ngày 18-10-2012 tại GP
Thanh Hóa, nơi diễn ra Hội nghị thường niên các Giám mục Việt Nam, và các giáo
xứ khai mạc Năm Đức Tin ngày 21-10-2012, Chúa nhật Khánh nhật Truyền giáo.

MẸ MARIA BAN MUÔN ƠN LÀNH

MẸ MARIA BAN MUÔN ƠN LÀNH

Tác giả:Tuyết Mai

Ai là con cái ngoan của Mẹ Maria, đều cảm nhận được điều này! Tại sao tôi lại bảo là con ngoan vì thưa rằng chúng ta là cái giống nhút nhát, hèn kém, tự ti mặc cảm, hầu hết không có bằng cấp để đi vào đời.   Nên khôn ngoan nhất là luôn sống bám vào Mẹ của mình,
để luôn được Mẹ che chở, bảo bọc,  và đỡ nâng.

Không nhìn đâu xa mà nhìn chính gia đình của chúng tôi đây chẳng hạn, cháu lớn cả của chúng tôi thì luôn bé bỏng, không làm điều gì mà chúng tôi cảm thấy an tâm!?.   Kế đến là thằng cháu trai út của chúng tôi, còn trong cái tuổi ham chơi “Ăn chưa no, lo chưa tới”; còn mơ mộng và trèo cao khi trong tay chưa làm ra được đồng nào mà còn ngửa tay xin tiền của cha mẹ.   Nhưng được cái cháu chững chạc hơn tuổi và rất ngoan.   Mừng nhất là cháu còn ở tuổi Trung Học mà ngày nào cháu cũng đeo Áo ảnh Đức Bà.

Chắc cháu hiểu rằng có Đức Bà trên người thì luôn được Đức Bà gìn giữ.   Chắc cháu cũng đã bao nhiêu phen được Đức Mẹ Maria cứu giúp nên cháu đã rất tin và vẫn còn tiếp tục muốn đeo.   Áo Đức Bà tôi đã tập cho cháu đeo suốt từ nhỏ hồi còn học ở cấp Tiểu Học lận, nên cháu đã quá quen.   Mừng hơn nữa là cháu không mắc cở với bạn bè cùng trang lứa, vì bạn của cháu phần đông là ngoại giáo.   Sáng nào cháu ra khỏi nhà tôi cũng hỏi cháu Áo Đức Bà đâu thì cháu đều sờ lại cổ, nếu quên thì tự lấy mà đeo vào cổ.

Vâng, tôi luôn bảo cháu điều chắc chắn là con đi ra ngoài đường có Áo Đức Bà là mẹ an tâm lắm lắm! Chứ còn con về nhà rồi thì đã có cha mẹ lo cho con đầy đủ.   Con có vui mừng và cảm thấy an toàn không nào khi biết rằng Đức Mẹ luôn bên cạnh con, gìn giữ, che chở
cho con được hồn an xác mạnh.   Tôi xin được phép khuyên những cặp vợ chồng trẻ nên dậy dỗ con cái và tập đeo cho các cháu Áo ảnh Đức Bà càng sớm càng tốt, và nếu có thể.   Vì sao tôi nói là có thể, vì tôi biết có nhiều nơi không cho phép các cháu đeo.

Thưa anh chị em, nhân tháng 10 là tháng Đức Mẹ Mân Côi, tôi rất hãnh diện để thân thưa cùng mọi người là gia đình chúng tôi luôn có Mẹ hiện diện!.   Sẽ có nhiều người hỏi vì sao chúng ta lại không đến thẳng , không nhờ vào quyền phép của Người Cha hay Người Con
duy nhất?.   Vì một lẽ rất dễ hiểu vì có Mẹ thì Mẹ luôn bênh vực cho con cái của Mẹ; vì qua Mẹ sẽ có hiệu quả hơn nhiều.

Điều này ai làm phận con cái sẽ hiểu rất rõ! Có phải trong gia đình anh chị em rất thường phải chạy đến người mẹ để cầu cứu khi phạm lỗi tầy đình mà có thể người cha không tha thứ
được?.   Ai còn nhớ trong 10 lần lỗi phạm thì mẹ chịu chở che cho chúng ta đủ đến 10 lần? Và vì rất nhiều lần che chở cho chúng ta mà mẹ phải chịu bị cha giận hay có khi mẹ cũng chịu hứng những lằn roi dùm cho chúng ta nữa!?.

Vâng, thế thì Đức Mẹ của chúng ta cũng thế đấy!.   Không nhờ tình thương yêu của Mẹ dành cho con cái Mẹ thì trái đất này chắc một mảnh vụn cũng không còn và Thiên Đàng cũng chẳng có bóng dáng của chúng ta trên đó!.   Suy nghĩ cho cùng thì thật tội nghiệp cho Đức Mẹ của chúng ta vô bờ vô biên.   Mẹ vì chúng ta mà khóc không ngừng chảy máu mắt.   Mẹ vì tội lỗi của chúng ta mà khuyên răn chúng ta ngày đêm là hãy siêng năng chạy đến Kinh Mân Côi của Mẹ.   Tại sao sự cầu nguyện riêng với Mẹ mà không đủ hay sao lại phải
đọc những lời Kinh nghe rất là khô chán, khó đọc, và buồn ngủ ấy?.

Có thể vì Kinh Mân Côi là Bửu Bối tối cần mà Thiên Chúa cho phép các con của Mẹ dưới trần gian siêng năng đọc thì sẽ được Thiên Chúa tha thứ tội chăng?.   Hoặc Kinh Mân Côi mỗi khi có ai đọc lên sẽ làm cho Thiên Chúa vui lòng khôn tả?.   Chắc hẳn Kinh Mân Côi làm dịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa nhiều và nhanh nhất?.   Điều này hẳn được chứng minh qua bao thời đại là Kinh Mân Côi đã từng cứu chữa và giảm thiểu những cơn thịnh nộ của Chúa mà lẽ ra thế giới con người sẽ phải  chịu khổ đau hơn gấp nhiều lần nữa kìa!.   Kinh Mân Côi đã từng chứng minh qua bao ngàn năm, từng giúp nhiều quốc gia trên thế giới có được hòa bình và tự do.   Như bức tường Bá Linh đã bị sụp đổ.   Nước Cộng Sản càng ngày càng bước vào chế độ Dân Chủ và Tự Do.

Bao lâu con cái của Mẹ dưới trần còn ngân nga Kinh Mân Côi thì toàn cõi địa cầu sẽ có ngày có Tự Do đích thực.   Chỉ khi ấy Danh Tiếng Giêsu Con Mẹ sẽ được tỏa lan trên không
khí và cùng khắp cõi địa cầu.   Chỉ khi ấy con người mới được sống trong hạnh phúc, trong hòa bình, no ấm, và có công lý.   Chỉ khi ấy Thiên Đàng thật sự ở ngay trên trần gian này.   Có dễ dàng lắm thay khi ấy tất cả con cái Chúa và Mẹ sẽ tay trong tay, nắm chặt vòng tay trong Chuỗi Kinh Mân Côi liên kết của Mẹ, nối bện chặt nhau tiến về Nước Trời, mà
không một sự dữ nào có thể cắt đứt cho được.

Lậy Mẹ Maria, toàn thể nhân loại chúng con hiểu rằng khi chúng con sống xa Mẹ thì chúng con sẽ chết; chết dần chết mòn, tiêu tan cả hồn lẫn xác.   Dù chúng con có đang sống nhưng
từ tâm hồn đến thể xác chúng con như thiếu hẳn nguồn sinh lực của sự sống.   Thiếu hơi thở trong lành, thiếu nguồn trợ lực của Thiên Chúa.   Giúp chúng con tập làm quen với Kinh Mân Côi chỉ vì mục đích là chúng con muốn có được sự sống muôn đời bên Ba Ngôi Thiên Chúa và rất muốn được Mẹ yêu chúng con mãi mãi, thưa Mẹ Maria rất dấu ái của chúng con.   Amen.

Y Tá của Chúa,

Tuyết Mai

(10-19-12)

CẢM NHẬN ÂN SỦNG CHÚA

CẢM NHẬN ÂN SỦNG CHÚA

Tuyết Mai

Có khi nào trong anh chị em cảm thấy sôi sục và bị đốc thúc để đi tìm đến với người cùng khổ bất hạnh, ở khắp mọi nơi hay không?.   Thật chính những lúc đó anh chị em phải tin rằng mình có được Ơn Chúa Thánh Linh.   Ngài thúc đẩy chúng ta phải đi hay phải làm điều gì đó cho Ngài hay cho anh chị em của chúng ta, trong khả năng cá biệt mà Ngài ban cho.

Ân Sủng Chúa Thánh Linh có rất nhiều hình thức, khả năng, và công tác khác nhau.   Có người thì Chúa ban cho ơn viết lách, làm nhạc, làm thơ theo linh ứng.   Có nghĩa anh chị
em chỉ là cây viết của Chúa không hơn không kém! Vì cây viết thì đã có đầy mực và Chúa chỉ dùng anh chị em cầm dùm cây viết cho Chúa mà thôi!.   Hay Chúa chỉ nhờ anh chị em ngồi đó, mượn 10 ngón tay hữu dụng, để đánh dùm cho Chúa những điều Chúa muốn anh chị em hoàn thành trên trang giấy đó!.

Nên nhớ rằng Chúa không cần cái trí thông minh của mình đâu nhé, chỉ khi ấy anh chị em mới hiểu rằng đó là Ơn Chúa xuống trên anh chị em!.   Vì ngoài Ơn Chúa ra hết thảy chúng ta chỉ là cây viết cạn khô mực, đáng được vứt vào sọt rác.   Đó là lý do mà tôi muốn cùng được chia sẻ cùng anh chị em vì có người sẽ hỏi hay thắc mắc, sao tôi có thể viết được nhiều đến thế?.   Có khi một ngày tôi có thể viết được 2 bài hoặc có khi hơn và vì sao tôi luôn có ý để viết, dù bất cứ ý gì, đề tài gì? Vâng, cảm tạ Chúa vì đó là Ơn và là ý Chúa!.   Đối với
tôi, Chúa ban cho tôi Ơn Gọi cách đặc biệt trong sự chia sẻ kinh nghiệm sống về gia đình và con cái của chúng tôi đến cho mọi người; cho những ai cần.   Nhất là cho những anh chị em trẻ, rất mới mẻ trong cuộc sống gia đình.

Tôi biết Người đang dùng tôi cách hữu hiệu nhất! Nếu không, bảo đảm tôi sẽ rất nhút nhát vì tự ti mặc cảm nơi chính mình.   Trình độ học viết luận văn của tôi ư? Đã có vài Webs đã
từ chối đăng bài của tôi vì tôi không đủ tiêu chuẩn?.   Chẳng những tôi chẳng buồn phiền chi cả, nhưng chỉ tiếc rằng họ không nhận biết việc họ làm, thế thôi!.   Tôi viết bài chẳng phải để cho BBT đọc.   Tôi viết bài chẳng phải để cho quý cha đọc.   Hay tôi viết bài chẳng phải để cho những nhà thông thái đọc.   Nhưng tâm lý họ quên rằng, tất cả những người có trình độ cao thường thì chẳng ai muốn đọc bài của ai cả!?.   Đó có phải là điều đáng buồn, nhưng đó là sự thật!?.

Còn tôi ư? Vâng, tôi viết là để cốt ý muốn chia sẻ cho những ai có cùng trình độ.   Dễ hiểu và biết rằng ngoài kia cũng có rất nhiều anh chị em, có vấn đề trong gia đình và con cái.   Chia sẻ để thấy rằng chẳng phải ai cũng có Thánh Giá nhẹ để vác, mà không học cách của người khác để vác cho không cảm thấy nặng nề, và bớt đau khổ, v.v….. Nhất là thế hệ con cháu của mình.   Tôi cũng nhìn nhận rằng dạo sau này Chúa muốn tôi viết thật nhiều, chắc biết rằng trong tương lại rất gần tôi sẽ bị chứng bệnh “Mất trí nhớ” là Alzeimer’s chăng?.   Và không ai bằng, chính tôi cảm nhận được điều đó!.

Cái đầu của tôi đã chịu thua và thôi học lâu lắm rồi! Chắc vì Chúa hiểu cái trí thông minh của tôi rất giới hạn cho nên Người đã giúp tôi lấy được cái chứng chỉ hạng bét của ngành Y Tá; nhưng cũng đủ giúp tôi nuôi cả gia đình suốt hơn 10 năm trời nay; thay thế ông nhà
tôi sau khi ông bị thất nghiệp.   Ai từng đọc những bài viết của tôi chắc hẳn đều cảm nhận được điều này?.   Thế đấy, cái đầu bị bệnh của tôi khả năng của nó chẳng có thể viết được một bài luận văn mà không có đủ trăm lỗi chính tả trong đó!.   Nhưng Thiên Chúa đã dùng khả năng còn lại của tôi là chính 10 ngón tay Người ban và trái tim luôn biết Xin Vâng theo
Thánh Ý Người.

Xin Vâng là điều lệ đầu tiên mà Chúacó thể vào tận cõi lòng của chúng ta, dù tội lỗi của ta có ngập lụt.   Vì sự Xin Vâng và ta có cho phép Chúa thì Chúa mới có thể vào để tu sửa, canh tân, và đổi mới chúng ta được, thưa anh chị em!.   Điều sai là chúng ta cứ tưởng tội lỗi của ta đã làm cái chắn “kỳ đà cản mũi” giữa ta và Chúa, nhưng không phải thế đâu! Mà là vì ta không cho phép Chúa đến với ta đấy mà thôi!.

Có ai còn nhớ tấm hình Chúa Giêsu nửa đêm khuya khoắt, đến trước cửa nhà ta mà gõ cửa để hy vọng rằng, chúng ta có ý muốn mời Chúa vào nhà tâm hồn của chúng ta, và cho Chúa được ở lại hay không?.   Hình ảnh đó nói lên điều gì thưa anh chị em? Là hãy mở cửa tâm hồn ra để mời Chúa vào nhà.   Chứ Chúa không biết rằng hết thảy chúng ta đây, ai là kẻ không có tội? Chúa không biết rằng nhà nào nhà nấy, bên trong cũng đầy dẫy những màng nhện giăng, mối mọt gặm nhấm, ngay cả căn nhà đó nó sắp sập đến nơi mà chúng ta cũng nào có biết?.

Vâng, hãy mở cửa mời Chúa vào nhà, thì bảo đảm Chúa sẽ quét sạch hết căn nhà dơ dáy “tội lỗi” của chúng ta rất nhanh chóng.   Sạch như căn nhà mới được xây xong!.   Để sau đó chúng ta mới được Sống cách đúng nghĩa hơn.    Trong không khí trong lành, không bệnh tật rồi chết cách bất đắc kỳ tử; không được trối trăn hay không kịp ăn năn tội.

Đã có Chúa trong đời thì có phải bệnh Ung Thư hay mọi bệnh nan y cũng đều được Chúa chữa cho khỏi, ngay cả cái chết gần kề.   Amen.

Y Tá Của Chúa,

Tuyết Mai

(10-16-12)

 

Trái tim nhân hậu

Trái tim nhân hậu

Chân phước Mẹ Têrêsa Calcutta cả đời đấu tranh cho giá trị nhân phẩm của những con người nghèo khổ nhất, đã nêu gương luân lý làm cầu nối các khoảng cách về văn hóa, giai cấp và tôn giáo. Một con người có vóc dáng nhỏ bé nhưng lại có trái tim “cực đại” và đầy lòng nhân ái. Bà nói: “Ngay cả những người giàu cũng khao khát tình yêu, muốn được quan tâm, muốn có ai đó thuộc về mình”.

Cha mẹ của bà là người Albani. Bà sinh ngày 26-8-1910 tại Shkup (nay là Skopje), thuộc Cộng hòa Nam Tư (Macedonia), trước đó là Yugoslavia, với tên “cúng cơm” là Agnes Gonxha Bojaxhiu. Bà là con út trong 3 người con. Lúc bà 7 tuổi, cha của bà bị giết,
nên bà quan tâm chính trị. Tuổi thiếu niên, bà là thành viên của nhóm bạn trẻ trong giáo xứ, gọi là nhóm Tương tế Tôn giáo (Sodality), dưới sự hướng dẫn của một linh mục Dòng Tên, bà cảm thấy quan tâm việc truyền giáo. Lúc 17 tuổi, bà gia nhập Dòng Nữ tử Loreto ở Ai-len, một dòng chuyên về giáo dục, rồi bà được gởi tới Bengal năm 1929 để vào nhà tập. Bà chỉ lõm bõm tiếng Anh nhưng vẫn khấn lần đầu, với tên dòng là Têrêsa (chọn theo tên của Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu).

Đến năm 1950, nữ tu Têrêsa lập Dòng Truyền giáo Bác ái (Dòng Thừa sai Bác ái, Missionaries of Charity). Bà nhận Giải Nobel Hòa bình năm 1979 và nhận Giải Bharat Ratna (भारत रत्न, nghĩa là “Viên ngọc Ấn Độ”, giải thưởng cao nhất của Ấn Độ dành cho người dân) năm 1980. Trước đó, năm 1962, bà đã được chính phủ Ấn trao giải Padma Shri. Trong những thập niên kế tiếp bà được trao tặng các giải thưởng lớn như Giải Jawaharlal Nehru về Hiểu biết Quốc tế năm 1972.

Trong thời kỳ Ấn Độ bị người Anh đô hộ (British Raj), trường Loreto nhận rất ít người Ấn, đa số là người Hindu Bengal, con gái các gia đình có thế lực ở Calcutta, nhưng đa số
giáo viên vẫn là các nữ tu gốc Ai-len. Nữ tu Têrêsa không thuộc Dòng Nữ tử Loreto nữa nhưng thi thoảng bà vẫn về thăm. Bà dạy ở các trường nữ khác trong 3  năm trước khi (như bà nói) “theo Chúa đến với người nghèo khổ”. Theo các nữ sinh nói, sự gián đoạn đó không hoàn toàn thân thiện, ít là phần các nữ tu Dòng Loreto.

Hình ảnh nữ tu Têrêsa nhỏ bé, với tấm khăn choàng sari (trang phục của phụ nữ Ấn) xõa xuống vai và lưng, bước đi trên đường đá đỏ, trông thật giản dị và khiêm nhường. Bà luôn có một hoặc hai nữ tu choàng sari đi theo. Bà là con người kỳ lạ của thế kỷ XX. Có thể bà “khác người” vì chúng ta không thấy nữ tu nào choàng sari như vậy. Nhưng đó là thói quen của nữ tu Têrêsa vùng Calcutta, bà “quên” mình là người Albani để hòa nhập và hoàn toàn nên giống các phụ nữ Ấn.

Chính phủ đã “ầm ĩ”chống truyền giáo nhưng chưa bao giờ làm khó các nữ tu truyền giáo.

Đầu thập niên 1950, các học sinh không có đạo ở Nhà Loreto đã nghi ngờ ý định của Mẹ Têrêsa trong việc giúp đỡ các trẻ em đường phố hoặc trẻ mồ côi. Bà đang cứu vớt chúng để
“dụ” đưa chúng vào đạo Công giáo? Cứ hai tuần một lần, Mẹ Têrêsa nói chuyện để vận động phụ nữ không phá thai và bảo vệ sự sống. Dự định của Mẹ Têrêsa là chăm sóc những người bệnh ở thời kỳ cuối, những người đến Đền Kalighat để được chết gần “thánh địa”. Mẹ Têrêsa không mong kéo dài sự sống cho họ, nhưng buồn về tình trạng nhơ uế và cô độc của họ trong thời gian cuối đời. Mẹ Têrêsa quan ngại về tỷ lệ tử vong và ám ảnh về cách chết của họ, ngược với quan niệm của người Hindu về sự tái sinh và sự chết là được giải thoát khỏi maya.

Mẹ Têrêsa lập một trại phong (Leprosarium) ở ngoại ô Calcutta, trên khu đất do chính phủ cấp. Bà là người lý tưởng hóa hơn là người lập dị. Người phong cùi bị coi thường không chỉ
ở Calcutta mà ở khắp Ấn Độ, đến vài xu lẻ cũng không ai muốn bố thí cho họ. Ai cũng sợ bị lây nhiễm. Từ đó, người ta cũng có ánh mắt không thiện cảm với Mẹ Têrêsa.

Từ năm 1970, Mẹ Têrêsa trở nên một nhân vật nổi tiếng thế giới với các hoạt động nhân đạo cứu giúp người nghèo và những người sống trong hoàn cảnh tuyệt vọng, một phần cũng
nhờ cuốn sách và bộ phim tư liệu tựa đề “Something Beautiful for God” (Điều tốt đẹp dành cho Chúa) của Malcome Muggeridge.

Bà không chỉ là nhà truyền giáo, mà còn là một “lương y” tận tình chăm sóc người phong cùi. Cách dấn thân của bà đã thay đổi người dân Calcutta, chính các nữ tu Dòng Loreto
cũng trở lại tìm bà.

Dân Calcutta rất quý mến Mẹ Têrêsa. Các chị em ở trường nữ Loreto hồi thập niên 1970 đều trở nên các bà vợ tốt, có địa vị trong xã hội và tình nguyện hoạt động xã hội theo ý định
của Mẹ Têrêsa, nhất là vì trại phong. Những năm sau, Mẹ Têrêsa rất tin tưởng những phụ nữ tốt nghiệp trường Loreto.

Số phận những người vận động luân lý dễ bị tổn thương vì các thay đổi của thói đạo đức giả hoặc tùy tiện của các chiến dịch. Những kẻ gièm pha đã kết tội Mẹ Têrêsa là phóng đại
cảnh nghèo khổ của dân Calcutta. Mẹ Têrêsa luôn phải phải đấu tranh, dù vẫn bị người ta chỉ trích nhưng hoạt động của bà không suy giảm. Thậm chí bà còn thành công và cảm hóa chính những người đã nghi ngờ hoặc những người ghen ghét bà. Chính Mẹ Têrêsa đã thay đổi nhiều trái tim, đó là phép lạ thực sự vĩ đại.

Mẹ Têrêsa nói: “Ở Tây phương có sự cô đơn, điều mà tôi gọi là bệnh-phong-của-Tây-phương. Bằng nhiều cách, nó còn tệ hơn người nghèo của chúng tôi tại Calcutta. Tôi không bao giờ từ chối một đứa trẻ nào, không bao giờ, dù chỉ một”.

Năm 1950, cũng là năm Mẹ Têrêsa lập Dòng Truyền giáo Bác ái, ĐGH Piô XII đã phê chuẩn dòng này. Mẹ Têrêsa cũng đã từng có những lần sang thăm Việt Nam.

Vì tuổi cao sức yếu, Mẹ Têrêsa qua đời ngày 5-9-1997, sau hơn nửa thế kỷ phục vụ những người cùng đinh trong xã hội trong đức ái của Chúa Giêsu. Mẹ Têrêsa được ĐGH Gioan Phaolô II tôn phong chân phước ngày 19-10-2003.

Lạy Chân phước Têrêsa, xin ban cho chúng con trái tim nhân hậu như Mẹ để chúng con yêu thương mọi người, nhất là những người nghèo khổ, những người bị ruồng bỏ, những người bị ngược đãi,… Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ
của chúng con. Amen.

TRẦM THIÊN THU

BUỒN

BUỒN

thanh_nien_giau

Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay tường thuật về hai cái buồn: một cái buồn của Đức Giêsu và một cái buồn của anh nhà giàu.  Đức Giêsu buồn vì người Ngài yêu mến đã từ chối lời mời gọi của Ngài, buồn vì người mà Chúa yêu thương lại gắn bó với tiền bạc nhiều hơn là gắn bó với Chúa, đã chọn của cải vật chất hơn là chọn Chúa.  Anh nhà giàu buồn vì có sự rạn nứt nơi bản thân.  Anh đã đi tìm gặp Chúa, đã thao thức tìm kiếm “một cuộc sống vĩnh cửu đời đời”, nhưng anh đã bị tiền bạc vật chất trói buộc; anh đã từ chối lời mời gọi của Chúa, đã cúi mặt bước đi với đầy phiền muộn.

Thầy Giêsu đòi anh từ bỏ tiền bạc của cải, điều mà anh đã thu góp và gắn bó trong bao nhiêu năm, điều mà anh yêu mến nhất và muốn giữ lại nhiều nhất. Tiền bạc là chỗ dựa của đời anh, anh sẵn sàng làm mọi điều Thầy đòi hỏi, trừ việc từ bỏ chỗ dựa này.

Không biết anh có nhìn thấy “con người thật” của mình không? Có thấy mình đang bị của cải trói buộc? Có thấy mình đang làm nô lệ cho tiền bạc vật chất? Tiếc thay anh không đủ quyết tâm và nỗ lực để ra khỏi sự trói buộc này, anh cũng không có đủ can đảm để cởi bỏ sự nô lệ với tiền bạc vật chất, dù anh vẫn khát khao sự sống vĩnh cửu đời đời.

Cái buồn của anh, đôi khi cũng là của bạn và tôi hôm nay. Ai trong chúng ta cũng từng bị giằng co giữa ước mơ lý tưởng và níu kéo ràng buộc của tiền bạc vật chất. Của cải vật chất có sức hấp dẫn mãnh liệt. Ta làm chủ nó hôm nay, nhưng nếu không cương quyết và sáng suốt,
ngày mai nó sẽ làm chủ ta và trở thành xương thành thịt của ta, mà ta không thể thể dứt bỏ.

Không chắc anh nhà giàu có bị luận phạt hay không, nhưng chắc chắn anh ta khó có được cuộc sống hạnh phúc. Hạnh phúc chỉ đến với người dám sống và làm theo lời mời gọi của Chúa.

Vào thời Đức Giêsu, giàu có được coi là một phúc lành. Vậy mà Ngài lại coi giàu có là một cản trở nguy hiểm.  “Người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” (Mc.10:23). Nếu ta biết bỏ tất cả những gì cản trở để đến với Chúa, ta sẽ đạt được chính Chúa.  Được Chúa là được tất cả. Có Chúa là có tất cả. Vì Chúa là hạnh phúc viên mãn.  Được Chúa rồi ta sẽ không còn khao khát gì khác nữa.

Chính vì thế, khi thánh Phêrô hỏi Chúa: “Chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Chúa, chúng
con sẽ được gì?
” (Mc.10:28). Chúa đã trả lời: “Ai bỏ mọi sự mà theo Ta, sẽ được gấp trăm, và được sự sống vĩnh cửu.
(Mc.10:30).

Lắm tiền nhiều của sẽ làm con người có ảo tưởng là mình giỏi, mình thành công, mình cao sang quan trọng…Nó làm con người trở nên kiêu căng, khép kín trước Thiên Chúa, không cần Thiên Chúa, và hay nhẫn tâm chà đạp lên quyền lợi phúc lộc của người anh em. Tệ nạn tham nhũng hối lộ và cường quyền áp bức ở Châu Á ngày nay là một thí dụ về sự nguy hiểm
của tiền bạc.

Theo Đức Giêsu, đôi khi ta phải chấp nhận tay trắng, chịu bấp bênh thua thiệt. Nhưng đừng quên theo Ngài cũng là trở nên giàu có.  Không phải sự giàu có do ích kỷ giữ lại, nhưng là sự giàu có do mở ra và trao tặng.  Không phải sự giàu có do tìm kiếm chiếm đoạt, nhưng là sự giàu có đến như một quà tặng biếu không.

Người khôn ngoan thì phải biết nhìn xa trông rộng.  Biết bỏ những mối lợi trước mắt để tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu.  Như thế yêu mến Chúa là chìa khóa của sự khôn ngoan. Chọn Chúa là chọn giá trị tuyệt đối, vĩnh cửu không gì có thể so sánh được.

Theo Đức Giêsu, ta sẽ được lại cả những điều đã mất. Và cái được quan trọng nhất là được chính Đức Giêsu (Pl.3:8).

***

Lạy Chúa! Xin cho con đừng quay lưng trước lời mời gọi của Chúa, đừng ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương Chúa dành cho con.

Xin dạy con biết yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Vì Chúa là hạnh phúc và là cùng đích của đời con. Amen.

(Tổng hợp từ R. Veritas)

nguồn: Nguyễn Kim Bằng gởi

Con hạc trắng

Con hạc trắng
Bạn có bao giờ ngắm kỹ một con hạc trắng chưa? Nó trông thật mảnh mai; chân dài, người mỏng, trong một bộ lông trắng muốt. Trông nó thanh cao như một người luống tuổi mà vẫn giữ được phong cách ung dung… Con hạc được coi là một con vật sống lâu cho nên người ta gọi tuổi của các cụ là tuổi hạc.
Tết năm nào gia đình tôi cũng lên Đà Lạt nghỉ ngơi tại nhà 1 người anh bà con. Ðằng sau nhà anh tôi có một con đường mòn dẫn tới một công viên. Con đường mòn vào cuối Xuân chớm Hạ thật là đẹp. suối róc rách chảy, cây cỏ xanh mướt, những bông hoa núi nở trắng xóa. Chúng tôi mỗi buổi sáng dắt theo con chó đi bộ, vừa đi vừa trò chuyện.
Tôi bất giác hỏi:
– Sao con người không giống cây cỏ, vào mùa đông héo, úa, rụng, đến xuân, hạ lại hồi sinh nhỉ?
Anh tôi cười, nói:
– Cứ giữ mãi được Xuân, Hạ trong lòng mình là tốt rồi.
Chúng ta những người ở  lứa tuổi đang bước vào tuổi già hay đã già. Tinh thần và thể xác không còn như hai mươi năm, mười năm về trước hay thậm chí như mới năm ngoái nữa.
Thông thường bất cứ người mang quốc tịch nào, sinh sống ở phần đất hay hoàn cảnh nào thì khi về già hay ngồi gậm nhấm lại quá khứ. Ở tuổi già, không có phương tiện di chuyển, bị trở ngại trong giao tiếp đã làm một số người sống một cuộc sống tẻ nhạt, từ tẻ nhạt đưa tới trầm cảm, khép kín.
Từ đó sinh ra bao nhiêu bệnh, và khi có bệnh, sự chạy chữa xem chừng không có hiệu quả lắm cho những người này.
Bác Sĩ Ornish, tác giả cuốn sách Love & Survival, nói rõ: Tách lìa tình thân gia đình và bạn bè là đầu mối cho mọi thứ bệnh từ ung thư, bệnh tim đến ung nhọt và nhiễm độc.
Tình thương và tinh thần lạc quan là gốc rễ làm cho chúng ta bệnh hay khỏe.
Ba mươi năm trước mà nghe ai nói cô đơn sinh ra các chứng bệnh thì người ta sẽ chỉ cười nhẹ.. Nhưng bây giờ điều này đã được nhiều bác sĩ công nhận là đúng.
Những buổi tĩnh tâm chung, có cầu nguyện, có tịnh niệm (tùy theo tôn giáo của mỗi người) chia sẻ những buồn vui, lo lắng của mình cùng người khác cũng giúp khai thông được những tắc nghẽn của tim mạch như là ăn những thức ăn rau, đậu lành mạnh vậy.
Nếu không nói ra được những gì dồn nén bên trong thì chính là tự mình làm khổ mình. Khi nói ra, hay viết ra được những khổ tâm của mình thì hệ thống đề kháng được tăng cường, ít phải uống thuốc.
Theo Bác Sĩ Ornish, khi bị căng thẳng cơ thể sẽ tiết ra một hóa chất làm cho mọi sinh hoạt ứ đọng, ăn không ngon, đầu không suy nghĩ, mạch máu trì trệ,mất sức đề kháng, dễ cảm cúm.
Như vậy sự cô đơn cũng là chất độc như cholesterol trong những thức ăn dầu mỡ, mà chỉ có sống lạc quan mới cứu rỗi được.
Nếu bạn không mở tâm ra cho người khác thì bác sĩ bắt buộc phải mở tim bạn ra
thôi!!!
Tuổi như thế nào thì gọi là già, chúng ta biết khi một người qua đời ở tuổi 60 thì được gọi là
‘hưởng thọ’.   Vậy sau tuổi 60 mỗi ngày ta sống là một “bonus”, phần thưởng của Trời cho.
Chúng ta nên sống thế nào với những ngày ‘phần thưởng’ này. Lấy thí dụ một người lớn tuổi, sống cô đơn, biệt lập, không đi ra ngoài, không giao thiệp với bạn hữu, thế nào cũng đi đến chỗ tự than thân trách phận, bất an, lo âu, ủ dột và tuyệt vọng. Từ đó bắt nguồn của bao nhiêu căn bệnh.
Trong Những lời Phật dạy có câu:

Sai lầm lớn nhất của đời người là đánh mất mình.


Phá sản lớn nhất của đời người là tuyệt vọng…

Chắc trong chúng ta không ai muốn rơi vào hoàn cảnh này. Gặp gỡ bè bạn thường xuyên trong những sinh hoạt thể thao là điều tốt lành nhất cho thể lý.
Ði tập thể thao như nhẩy nhẹ theo nhạc, tắm hơi, bơi lội, tennis v.v… đã giúp cho người lớn tuổi giữ được thăng bằng, ít ngã, và nếu có bệnh, uống thuốc sẽ công hiệu hơn, mau lành hơn.
Gặp bạn, nói được ra những điều phiền muộn cho nhau nghe, ngồi tĩnh tâm, đến nhà thờ, chùa cầu nguyện giúp được làm chậm lại sự phát triển của bệnh.
Bác Sĩ Jeff Levin giáo sư đại học North Carolina khám phá ra từ hàng trăm bệnh nhân, nếu người nào thường xuyên đến nhà nguyện họ có áp suất máu thấp hơn những người không đến nhà nguyện, ông bỏ ra hàng đêm và nhiều cuối tuần để theo dõi, tìm hiểu những kết quả cụ thể của ” Tín ngưỡng và sức khỏe “!
Cuốn sách ông phát hành gần đây nhất có tên là God, Faith and Health. Trong đó ông cho biết những người tín ngưỡng khỏe mạnh hơn, lành bệnh chóng hơn, ít bị nhồi máu cơ tim, gặp sự thăng trầm trong đời sống họ biết cách đối diện, họ luôn luôn lạc quan.
Lạc quan là một cẩm nang mà chúng ta nên luôn luôn mang theo bên mình. Ðừng bao giờ nói, hay nghĩ là ” Tôi già rồi, tôi không giúp ích được cho ai nữa ”  hoặc  ” Tôi vụng về, ít học, chẳng làm gì được ” .
Tôi xin kể câu chuyện Hai con ngựa của thầy phó tế George A.Haloulakos.
Cạnh nhà tôi có một cánh đồng cỏ, hàng ngày có một cặp ngựa, con nọ lớn hơn con kia một chút thong thả ăn cỏ ở đấy. Nhìn từ xa chúng là đôi ngựa bình thường giống những con ngựa khác. Tuy nhiên nếu bạn đến gần, bạn sẽ khám phá ra là có một con mù.
Trên đường trở về chuồng mỗi chiều, con ngựa nhỏ chốc chốc lại ngoái cổ lại nhìn bạn, muốn biết chắc bạn mù của nó vẫn đi theo tiếng chuông của nó để lại đằng sau..
Chủ nhân của nó chắc thương nó không nỡ bỏ đi, mà còn cho nó một chỗ ở an toàn. Chính điều này đã thành một câu chuyện tuyệt vời.
Ðứng bên chúng, bạn chợt nghe có tiếng chuông rung, phát ra từ cái đai nhỏ vòng quanh cổ con ngựa nhỏ hơn, chắc là một con cái. Tiếng chuông báo cho con bạn mù của nó, biết là nó đang ở đâu mà bước theo. Quan sát kỹ một chút bạn sẽ thấy cái cách con ngựa sáng chăm sóc con ngựa mù, bạn nó, chu đáo như thế nào. Con ngựa mù lắng nghe tiếng leng keng mà theo bạn, nó bước chậm rãi và tin rằng bạn nó không để nó bị lạc.
Cũng giống như chủ nhân của đôi ngựa có lòng nhân từ, Thượng đế không bao giờ vứt bỏ bạn vì bạn kiếm khuyết, hoạn nạn hay gặp khó khăn. Người luôn luôn đem đến cho chúng ta những người bạn khi chúng ta cần được giúp đỡ.Ðôi khi chúng ta là con ngựa mù, được dẫn dắt bởi tiếng chuông mầu nhiệm mà Thượng đế đã nhờ ai đó rung lên cho chúng ta. Những khi khác chúng ta là con ngựa dẫn đường, giúp kẻ khác nhìn thấy.
Bạn hiền là như vậy. Không phải lúc nào ta cũng nhìn thấy họ, nhưng họ thì luôn hiện diện đâu đó. Hãy lắng nghe tiếng chuông của nhau.
Hãy tử tế hết sức mình, bởi vì có một người mà bạn gặp trên đời, biết đâu cũng đang ở trong một hoàn cảnh khó khăn nào đó họ phải phấn đấu để vượt qua. Không gì hơn là tuổi già nương dựa vào nhau trong tình bạn. Luôn luôn nghĩ bao giờ mình cũng có cái cho đi mà người khác dùng được.
Tính hài hước, làm cho người khác cười cùng với mình cũng là những liều thuốc bổ.
Thi sĩ Maya Angelou vào sinh nhật thứ 77, trong chương trình phỏng vấn của Oprah, hỏi về sự thay đổi vóc dáng của tuổi già, bà nói:
” Vô số chuyện xẩy tới từng ngày… Cứ nhìn vào bộ ngực của tôi xem. Có vẻ như hai chị em nó đang tranh đua xem đứa nào chạy xuống eo trước ” . Khán giả nghe bà, cười chẩy cả nước mắt.
Những vấn đề chính ảnh hưởng đến sức khỏe của bạn (qua tinh thần) là:
+Sự cảm thông giữa cha mẹ và con cái, giữa ông bà với các cháu.
+Tinh thần chấp nhận và lạc quan.
+Nghĩ đến những điều vui nhỏ mỗi ngày.
+Tham gia những sinh hoạt nào phù hợp với sức khỏe.
+Làm việc thiện nguyện.
Sinh, bệnh, lão, tử. Con đường đó ai cũng phải đi qua. Nhưng đi như thế nào thì hầu như 80% chính mình là người lựa chọn.
+Nhóm bạn: Ðọc sách, kể chuyện,
đánh cờ, chơi bài (không phải ăn thua).
+Tham gia các lớp thể dục: Như Yoga, ngồi thiền, khí công v.v…Và ngay cả chỉ đi bộ với nhau 30 phút mỗi ngày cũng giúp cho tinh thần sảng khoái, sức khỏe tốt hơn là ở nhà nằm quay mặt vào tường.
Hãy thỉnh thoảng đọc lên thành tiếng câu ngạn ngữ này: ‘Một nét mặt vui vẻ mang hạnh phúc đến cho trái tim và một tin vui mang sức khỏe cho xương cốt.’
Chúc tất cả anh chị em luôn cảm thấy vui khoẻ và trọn vẹn an lành trong tâm hồn !
nguồn: Anh chị Thụ Mai gởi

LẠC LÕNG, & MÙA THU TRONG EM…

LẠC LÕNG,

Nguồn vui đã mất tự lâu rồi,

O về bên nớ bỏ mình tôi,

Nỗi buồn man mác theo dòng nước,

Biết đến bao giờ sẽ ngừng trôi…

Sông Hương núi Ngự vẫn còn đây,
Thiên Mụ hồi chuông thức tim này,

Con đò viễn xứ chưa về bến,
Khắc khoải lòng nhau nỗi đắng cay…

Tràng Tiền nối nhịp tim ai đã,

Chẳng nối hộ tôi mối tình xa,

Một mình lần bước trong đêm tối,

Mơ cuối đường hoang một mái nhà…

O có về thăm tôi tối nay,

Trăng đêm ủ rũ khuất vầng mây,

Che cả tim yêu niềm thổn thức,

Hồn mãi mộng mơ trọn kiếp này !!!

Liverpool.7/10/2012.

Song Như.

MÙA THU TRONG EM…

Em đến thăm tôi một sáng buồn,

Mùa thu vàng lá giọt mưa tuôn,

Mắt em là cả trời thơ mộng,

Ấp ủ dòng thơ tận cõi nguồn…

Từ lúc chia tay càng xa mãi,

Nhớ nhau ngồi đếm những tàn phai,
Thấy em trong cuối trời phiêu lãng,

Hồn mãi cưu mang sẽ có ngày…

Thu qua mấy độ thu lại về,

Em còn xa khuất tận bến mê,

Nhớ dong thuyền cũ về thăm nhé,

Đừng để tim anh lắm ê chề…

Sầu thu man mác ánh thu khơi,

Đếm những dòng trôi ngẫm sự đời,

Rừng bao nhiêu lá anh thầm đếm,

Gởi bấy nhiêu thương đến cho người…

Liverpool.8/10/2012.

Song Như.

TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU VÀ LÒNG XÓT THƯƠNG

TÊRÊSA HÀI ĐỒNG GIÊSU VÀ LÒNG XÓT THƯƠNG

Lm. Giuse Trần Đình Long

Dòng Thánh Thể

 

 

Lễ an táng chị Têrêsa Hài Đồng Giêsu, một nữ tu Dòng Kín từ giã cõi đời lúc vừa tròn 24 cái xuân xanh, được cử hành tại nghĩa trang thành phố Lisieux ngày 4/10/1897. Đó là một
đám táng rất đơn sơ, lèo tèo vài vị giáo sĩ, một nhóm bà con bạn hữu và mấy chị Dòng Kín bậc hai. Tất cả chỉ có thế ! Cuộc sống của chị đơn sơ tầm thường quá, tới nỗi có chị đã nói : “Không biết mai đây Têrêsa chết đi, chúng ta sẽ viết tiểu sử giới thiệu ra sao đây ?”. Con đường nên thánh của chị giản dị quá. Nụ cười của chị hồn nhiên qua. Lời nói của chị tình cảm quá, tới nỗi khi cuốn sách “Một Tâm Hồn” được gởi tới những vị có uy tín trong Giáo Hội, một vị đã đọc với một vẻ hoài nghi lạnh nhạt : “Chà, Thánh đâu như hoa lề đường, sao mà dễ thế ! Chuyện gì phải qua rồi cũng sẽ qua !”.

Nhưng các vị đó đã lầm. Bông hoa lề đường đó đã tỏa hương thơm ngào ngạt khắp thế giới. Ngọn gió Thánh Linh thổi nhè nhẹ nhưng đã làm rung chuyển thế kỷ 20. Thánh nữ là sứ
điệp của Thiên Chúa, là lời sống động của Thiên Chúa. Chị đã khám phá ra một con đường nên Thánh mới lạ, rất ngắn, rất dễ, ai cũng có thể đi để tới Thiên Chúa.

Tuyên dương đời sống của thánh nữ, giáo hội ca ngợi giáo thuyết của chị và đã công nhận con đường thơ ấu thiêng liêng rất phù hợp với tinh thần Phúc Âm. Đường thơ ấu thiêng liêng là một bí quyết nên thánh cho mọi tín hữu khắp hoàn cầu. Nếu đường thiêng liêng này được phổ biến, chúng ta sẽ thấy việc canh tân xã hội và giáo hội được thực hiện. Thiên Chúa đã muốn làm tăng giá trị cho Têrêsa bằng một hồng ân khôn ngoan rất đặc biệt. Đức Piô XII đã mạnh bạo đặt sứ mệnh quan trọng của thánh nữ ngang với sứ mệnh của các vị tiến sĩ trong Giáo Hội.

Thánh nữ thành Lisieux đã tìm ra một con đường rất thẳng, rất ngắn, rất mới lạ, lại đơn giản dễ dàng. Đức Piô XI khẳng định : “Chị Dòng Kín khiêm nhượng đã đem cho thế giới một sứ điệp mới. Đường thơ ấu thiêng liêng đã mở ra trong giáo hội một giai đoạn mới, khiến việc nên thánh trở nên dễ dàng với mọi người.”

Tình yêu là tâm điểm, là nguyên tắc, là tận cùng của con đường thơ ấu thiêng liêng. Têrêsa nói : “Với TÌNH YÊU không những tôi CHẠY mà còn BAY”.Châm ngôn sống của thánh nữ là TÌNH YÊU. Yêu Chúa, yêu người với tất cả tấm lòng khiêm cung nhỏ bé như trẻ thơ tin
yêu phó thác vào cha mẹ.

Tinh thần Têrêsa quy tụ phần tinh túy nhất của Tin Mừng. Chúng ta thuộc về một gia đình siêu nhiên liên kết thành huyền thể Chúa Kitô và lan tràn vô biên. Chúng ta có Thiên
Chúa là Cha, Đức Trinh Nữ Maria là mẹ, và tất cả các thánh trên trời dưới đất là anh chị em trong Chúa Kitô.

Têrêsa không có những việc hãm xác kỳ lạ. Mẹ Agnès làm chứng : Tôi thấy Têrêsa càng về cuối đời, càng cố sống hãm mình cách hoàn toàn đơn sơ và mực độ. Chị thường nói với tôi rằng : “Ma quỷ hay đánh lừa những linh hồn quảng đại nhưng thiếu khôn ngoan bằng cách
thúc đẩy họ vào những hy sinh thái quá, vừa làm hại sức khỏe, vừa khiến họ không thể chu toàn bổn phận được, đồng thời lại muốn lấy đó làm tự mãn.Chỉ với những việc làm hèn mọn vô tên tuổi, nhưng lại trung thành lãnh nhận, linh hồn sẽ đạt tới đức yêu mến tinh tuyền là sự bỏ mình hoàn toàn cách mau chóng hơn.”

Giáo hội bảo đảm chắc chắn rằng lối khổ hạnh mới mẻ gồm những việc nhỏ mọn này là con đường nên thánh đích thực không kém đường lối khổ hạnh phi thường.

Cách cầu nguyện của Têrêsa rất đơn giản : “Tôi ở như đứa trẻ không biết chữ. Tôi cứ đơn sơ thật thà trần tình với Chúa những điều tôi muốn nói và bao giờ tôi cũng được Chúa
cảm thông.”

Têrêsa không có những hoạt động hiển hách : “Các chị đừng tưởng phải làm những việc lớn lao mới nên trọn lành được. Chúa Giêsu không cần đến những công trình hiển hách, hay những tư tưởng quảng bác của chúng ta. Nếu Ngài muốn những quan niệm cao siêu, Ngài
đã chẳng có các Thiên Thần thông biết trổi vượt các bậc kỳ tài trần gian ư ? Vậy Chúa không đến trần gian để tìm kẻ thần thông hay các bậc thiên tài, nhưng để yêu dấu sự đơn sơ chân thành.”

Chân lý sáng ngời nhất trong quan niệm của Têrêsa về thế gian cũng như trong cái nhìn Kitô giáo về vũ trụ là :TÌNH CHA của Thiên Chúa đối với chúng ta.

Sở dĩ tín điệp Têrêsa có sức mạnh chinh phục là vì nó biết tìm lại chân lý căn bản của Kitô
giáo. Êm dịu biết bao khi gọi Thiên Chúa là Cha và trở nên con của Ngài. Thánh nữ chỉ nhìn thấy sự dịu hiền vô tận và lòng nhân từ thương xót của Cha trên trời chiếu giãi trong ánh sáng của Thánh Linh, đơn sơ, nhưng sâu sắc.

Quả thật tình yêu là căn nguyên mọi hoạt động của Thiên Chúa trên các vật thụ tạo. Têrêsa dễ nhận ra rằng :Lòng thương xótlà nguyên nhân công việc cứu chuộc của Chúa Kitô
và tất cả chương trình quan phòng của Thiên Chúa.

“Không phải vì đã được gìn giữ khỏi phạm tội trọng mà tôi phó thác yêu mến tiến về Chúa. Cả khi tôi cảm thấy lương tâm bị đè nặng bởi những tội có thể phạm, tôi cũng dám nức lòng phó thác, và với tâm hồn thống hối tôi gieo mình vào vòng tay cứu chuộc… Tôi biết rằng chỉ trong nháy mắt, mọi xúc phạm sẽ tiêu tan như giọt lệ rơi trong than hồng.”

Không bao giờ Têrêsa tỏ vẻ buồn bực khó chịu đối với những chị em đến làm phiền mình. Trong giờ giải trí chị đem hứng thú cho mọi người. Cuối đời chị, lúc bệnh nặng, một hôm Têrêsa viết nhật ký ở ngoài vườn, mấy chị em quấy rầy chị luôn. Mỗi lần, thay vì bực bội hay là xin chị em để mình thư thái, Têrêsa êm đềm đặt bút xuống và gấp tập lại với nụ cười tươi nở trên môi. Chị tự nhủ : “Em đang viết về đức bác ái huynh đệ thì đây là lúc thực hành… Thực hành bác ái huynh đệ bao nhiêu là yêu Chúa bấy nhiêu.”

Bác ái chân chính là biết chịu đựng lỗi lầm của bạn hữu, không ngạc nhiên khi thấy họ yếu
đuối.

Thánh Têrêsa đã khám phá một chân lý mới trong Tin Mừng, mà chính Chúa Giêsu đã nhấn mạnh rất nhiều là : “Trung thành trong điều rất nhỏ mọn”. Bổn phận dù hèn kém, dù tầm thường đến đâu cũng hợp với nền luân lý hoàn hảo nhất.

Sự thánh thiện trước hết là biết thánh hóa đời sống hàng ngày. Phải có một lòng trung thành tuyệt đối và tươi vui với bổn phận trong khung cảnh rất giản dị của đời sống
tầm thường, nơi mà Chúa nhân hậu đã đặt ta vào dưới sự thúc đẩy bền bỉ và mạnh
mẽ của TÌNH YÊU.

Trong cuộc sống âm thầm nơi tu viện, chính khi thực hành những phận sự hèn mọn nhất, tương tự như công việc tầm thường hàng ngày của ta, mà chị Têrêsa Hài Đồng đã trở nên vị
đại thánh đáng kính mến.

Têrêsa sống như trẻ thơ. Trẻ nhỏ đã ý thức được sự yếu hèn của mình, nó cảm thấy mình nghèo khổ thiếu thốn mọi sự và hoàn toàn lệ thuộc : “Ở như trẻ nhỏ tức là biết sự hư vô
của mình, chờ mong mọi sự nơi Chúa từ bi như trẻ con chờ mong cha mình, tức là không lo lắng gì, không tìm kiếm gì…Ta càng khiêm nhường nhận biết mình yếu đuối và khốn nạn, Thiên Chúa từ nhân càng ghé mình đến ta để đổ ơn thánh cho ta dồi dào hơn…Nơi những linh hồn thật khiêm nhường, tình yêu không có gì cản trở, ngay cả những lỗi lầm cũng giúp họ nâng mình gần Chúa hơn.”

Không bao giờ chị Têrêsa Hài Đồng xin cho mình một chút an vui. Chị chấp nhận tất cả từ tay Chúa với một niềm tin yêu phó thác : “Bây giờ tôi không ước ao điều gì nữa nếu điều
đó không làm cho tôi mến Chúa Giêsu đến điên rồ. Chính tình yêu lôi cuốn tôi…Tôi không biết xin gì nữa ngoài việc chu toàn ý Chúa… Chỉ có một điều tôi ao ước, đó là Ý CHÚA…Tôi đã phó thác dù sống hay chết.”

Phó thác đích thực là chỉ tìm ý Chúa. Thánh nữ đã thú nhận phải mất lâu ngày mới đạt tới bậc phó thác đó : “Tôi phải qua nhiều thác ghềnh trước khi đến dòng sông bình an, trước khi đến quả ngon ngọt của việc phó thác hoàn toàn, và của tình yêu hoàn hảo.”

Sau này Mẹ Agnès đã thú nhận rằng : “Không bao giờ tôi có thể đoán được rằng một ngày kia có thể có vấn đề phong thánh cho một chị dòng sống như mọi người thường. Và người ta
thấy chị nhà bếp phân vân không biết nhà dòng sẽ có thể lấy gì mà kê lên bảng thông cáo khi chị Têrêsa qua đời, vì họ chỉ đoán chị là một nữ tu tốt lành.”

Để đạt tới tuyệt đỉnh thánh thiện, không cần làm phép lạ hay ngất trí, không cần phải hoàn tất những công việc phi thường, nhưng chỉ cần mỗi ngày biết chấp nhận bổn phận Chúa
đã ủy thác và hoàn tất với tâm tình yêu mến là đủ. Cách nên Thánh theo Têrêsa là một nếp sống thường ngày hết sức đơn sơ mà được thánh hóa bởi tình yêu.

Chúa muốn dẫn chúng ta tới tột đỉnh thánh thiện, chỉ cần bỏ mình để vâng theo những kế hoạch do lòng nhân từ và thương yêu của Chúa với tâm tình hiếu thảo, cậy trông như
một trẻ thơ. Việc nên thánh ở tại tâm hồn đơn sơ khiêm nhường, ý thức sự yếu hèn của mình mà bạo dạn phó thác cho lòng nhân từ và thương xót của Chúa.

Việc giáo hội phê nhận đường thơ ấu thiêng liêng của chị thánh Têrêsa mời gọi ta mở rộng quan niệm về việc nên thánh. Thánh nhân không chỉ là một người bằng khổ hạnh ăn chay
hãm mình hay đánh tội đến chảy máu, làm cho mọi người phải kinh ngạc. Nhưng thánh
nhân còn là người khiêm tốn, đơn sơ, thuận theo ý Chúa, tín thác hoàn toàn vào lòng thương xót của Chúa, âm thầm chu toàn bổn phận rất nhỏ nhặt hằng ngày của mình trước những con mắt hằn học và khinh khi của người đời.

Đây là lúc để cùng Mẹ Maria, cùng hai thánh nữ Têrêsa và Faustina, chúng ta trở về với con đường nên thánh trong tin yêu phó thác vào lòng thương xót của Chúa. Hãy làm mọi việc, dù là những việc nhỏ nhặt tầm thường nhất, trong tình yêu, theo cách Con Một Chúa đã làm. Vì sứ điệp của Têrêsa trước hết là sứ điệp của TÌNH YÊU: “Ơn gọi của con là trở nên tình yêu.Trong trái tim giáo hội, Mẹ yêu dấu, con sẽ là tình yêu. Như thế con sẽ là tất cả!”

“Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa”

nguồn: Maria Thanh Mai gởi

XIN CHÚA CHÚC LÀNH TRÊN CON GÁI VÀ MỌI NGƯỜI

XIN CHÚA CHÚC LÀNH TRÊN CON GÁI VÀ MỌI NGƯỜI

Tác giả: Tuyết Mai

Hình như hết thảy chúng ta cha mẹ thường thương con không đồng đều? Hay vì làm
bậc cha mẹ luôn lo lắng, luôn bận tâm cho những đứa con khù khờ, thường ốm đau,
và nghèo khổ hơn?. Điều này thì hết thảy cha mẹ tôi nghĩ ai cũng thế!. Chứ những đứa con mạnh khỏe, giỏi dang, thành công trên đường đời, có tiền có bạc, thì chúng ta ít cần để ý tới chúng vì thường chúng cũng chẳng để ý gì đến ai ngoài chúng!?. Nên khi tôi nhớ con gái khờ khạo ngu ngơ của tôi cũng đúng và phải thôi!.

Hôm nay là sáng thứ Bẩy chắc cháu gái nhà tôi, đang vui vẻ lắm đây vì được thamdự vào một chương trình gây quỹ rất quy mô, rất có đông người đỡ đầu (sponsor) đến tham dự, cũng có rất đông người đến xem, chung vui và giúp cho nhau một tay (American Cancer Society). Trong số người đó có con gái tôi. Chỉ nghĩ thế thôi cũng đã cho tôi một niềm vui khó tả vì biết rằng con gái đang theo đuổi đúng Con Đường và Chúa rất hài lòng về cháu. Còn hãnh diện nào so sánh cho bằng khi biết rằng mình làm cha mẹ đã dậy con cái làm điều đúng. Sống đúng với điều Chúa dậy, mong muốn, và sống cho anh chị em.

Tuy cháu có những suy nghĩ không được trưởng thành và thường là rất ngu ngơ khờ
khạo. Nhưng việc làm của cháu nó đánh bại được tất cả sự suy nghĩ nông cạn của cháu. Như người Mỹ có câu “Action speak louder than words” có nghĩa “Hành động chứng minh mạnh mẽ hơn những lời nói xuông”.

Cầu xin Thiên Chúa ban phép lành cho tất cả mọi người có mặt tại đó nhất là trời hôm nay có nắng ấm và trong xanh; hứa hẹn sẽ gặt được thành công mỹ mãn, thành công mọi bề. Hứa hẹn sẽ quyên góp được nhiều hiện kim để giúp cho tất cả những ai đang mang chứng bệnh Ung Thư có được cơ hội chữa trị. Nếu chúng ta không chứng kiến tận mắt thì chúng ta vẫn tưởng rằng thời nay con người ta sống thiếu tình người, trái tim chai lạnh, thờ ơ trước những con người bất hạnh. Nhưng hãy đến để mà xem thấy được tình Chúa và tình người hòa quyện với nhau trong bầu không khí lành mạnh, thánh thiêng, và rất hạnh phúc.

Cầu xin Thiên Chúa luôn ban cho chúng con mở rộng Trái Tim, mở rộng đôi bàn
tay, và mau mắn cho đi hay chia sẻ để người người cùng đi trên một Con Đường mà
Thánh Giá Chúa luôn là Ánh Quang dẫn đường cho tất cả con cái Chúa đến được bến
bờ của sự Sống Muôn Đời, Nơi có Thiên Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần.
Amen.

Y Tá Của Chúa,

Tuyết Mai

(10-13-12)

CÒN RẤT NHIỀU NGƯỜI SỐNG TỐT LÀNH

CÒN RẤT NHIỀU NGƯỜI SỐNG TỐT LÀNH

(Gia Đình Hạnh Phúc)

Tác giả:Tuyết Mai

Tối hôm thứ Năm hơn 10g thì cháu gái lớn “cả” nhà tôi vừa mới đi học lớp tối về, thì anh bạn trai mới “già” đã có mặt chờ cháu ở trước cửa nhà chúng tôi.   Để gặp gỡ anh bạn này, tôi và ông nhà tôi, đã chờ cơ hội này suốt mấy ngày nay rồi! Vì hai đứa chúng cũng đã chuẩn bị để cùng nhau đi làm việc thiện nguyện cho một chương trình rất quy mô của Mỹ được tổ chức hàng năm; suốt 3 ngày liên tiếp cuối tuần nhưng bắt tay vào việc là ngay sáng thứ Sáu.   Chương Trình này có tên là American Cancer Society là Hội giúp đỡ cho tất cả bệnh nhân bị bệnh Ung Thư.   Hội tổ chức “chạy tiếp sức” suốt 24 giờ không ngừng nghỉ và suốt trong 2 ngày liền là hai ngày thứ Bẩy và Chúa Nhật.

Anh bạn trai này đã có mặt trong ban tổ chức cả 10 năm nay rồi! Chỉ riêng nhóm của anh không cũng thu vào được cho Hội là ½ triệu US Dollars; chưa kể còn mấy chục nhóm giống anh nữa!.   Ngoài công việc sắp xếp bàn ghế, dựng lều, chỗ ăn chỗ ở cho nhóm, anh còn kiêm thêm việc chụp hình cho Hội vì anh là thợ chuyên nghiệp về chụp hình (professional photographer).

Nhân dịp này anh muốn đem cháu gái đến Hội để giới thiệu cháu cho mọi người, cùng để cháu học hỏi thêm cách sinh hoạt của Hội có tầm cỡ lớn mạnh như thế nào?.   Chỉ trong một chút thời gian ngắn được nói chuyện với anh bạn của cháu, chúng tôi cũng hiểu và đọc
được trong ánh mắt sự thành thật của con người anh như thế nào?.   Anh là một con người nồng nhiệt, trung thực trong lời nói, đơn giản, vui vẻ, hiền lành, và có trái tim cộng tấm lòng thật lớn.   Không trách con gái chúng tôi rất mến mộ anh vì anh có Chúa trong anh, nên anh luôn thích những công việc thiện nguyện giúp người.  Tôi rất có cảm tình với anh vì tôi rất yêu chuộng những con người có tấm lòng luôn trải rộng ra như thế vì anh chị em
bất hạnh.

Bây giờ thì tôi tin những lời con gái cháu nói với tôi là hai đứa hiện chỉ là bạn nhau trong sáng và lành mạnh vì chúng tin rằng có Chúa luôn ở giữa chúng.   Thật sự ra thì các cháu
nhà tôi chúng còn đang bận học hành, nhưng cảm tạ Chúa đây là thời gian mà tôi được Bình An nhất, bởi tôi luôn tin rằng gia đình chúng tôi đã luôn có Chúa và Đức Mẹ chăm lo.   Luôn được gìn giữ cả xác lẫn hồn.

Chúng tôi luôn ao ước các con sống cuộc đời chân chính, đơn giản cuộc sống, ít đòi hỏi, chấp nhận cuộc đời với tinh thần vui vẻ và lạc quan.   Luôn bỏ thời giờ rảnh rỗi và công sức
cho những chương trình thiện nguyện.   Nếu có thể và có khả năng thì đi càng xa nhà càng tốt.   Nghèo nhưng cuộc sống luôn có Chúa và có anh chị em ở quanh mình, thì còn hạnh phúc nào hơn cho cuộc đời của mình, thưa có phải?.   Ích kỷ và gom góp thì không bao giờ là bài học dậy cho các cháu nhà tôi, ngay cả học cách nói dối!.

Ý tôi muốn nói thời buổi của ngày nay ai cũng gặp nhiều khó khăn, nhất là túng thiếu về tiền bạc, nhưng thưa anh chị em Tiền không mua được Tình Chúa và Tình người.   Tiền là
bạc!!??.   Tôi còn ao ước cho chúng được một lần trong đời là đi tham dự Giới Trẻ Thế Giới để cho chúng được cảm nhận và hãnh diện đạo Công Giáo của chúng ta.   Là đạo truyền thống được duy trì không bao giờ thay đổi từ thời Chúa Giêsu giao lại cho Thánh Phêrô cách nay gần 2000 năm.   Để tin rằng Giáo Hội Chúa sẽ không bao giờ bị hủy diệt (no matter what).   Đi để thấy rằng con cái Chúa Tốt Lành còn rất nhiều nhiều người ở khắp mọi nơi trên toàn trái đất.

Lậy Thiên Chúa Vua của tình yêu, xin thương ban cho tất cả con cái Chúa học dần cách Buông Bỏ thì tâm hồn chúng con mới được nhẹ nhõm như trái bong bóng, đưa chúng con đến thẳng Nhà Chúa, cách dễ dàng.   Amen.

 

Y Tá Của Chúa,

Tuyết Mai

(10-13-12)

 

TỪ BÈ TAM ĐIỂM ĐẾN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

TỪ BÈ TAM ĐIỂM ĐẾN GIÁO HỘI CÔNG GIÁO

Ngày 26-11-1929, sau trận chiến nội tâm ”tàn-khốc”, ông Einar Berrum quyết định gởi thư đến trụ sở hội tam điểm tại Na-Uy, xin rút tên ra khỏi hội.

Thư gửi đi, ông tức khắc tìm được niềm an bình hạnh phúc khôn tả! Cùng ngày đó, ông đến gặp Cha Sở nhà thờ chính tòa Công Giáo Oslo, thủ đô Na-Uy, xin gia nhập Giáo Hội Công Giáo .. Bốn năm sau, ông lấy giấy ghi lại cuộc trở về với Giáo Hội Công Giáo.

Con đường dẫn tôi đến với Giáo Hội là con đường bình thường. Có lẽ không bao giờ tôi viết lại, nếu không có người xin tôi viết. Và khi chấp nhận lời yêu cầu, cùng lúc tôi muốn bày tỏ lòng yêu mến và ghi ơn Giáo Hội Công Giáo, Mẹ chúng ta.

Tôi sinh năm 1872 tại Osolo và được may mắn lớn lên trong gia đình Kitô. Thân phụ tôi là tín hữu tin lành mộ đạo.

Sau khi mãn bậc tiểu học, tôi được cha mẹ gửi sang Anh quốc, bắt đầu bậc trung học đệ nhất cấp tại trường Thánh Olave ở thành phố York.

Đây là trường học tin lành. Dĩ nhiên người ta nói với chúng tôi về ông tổ tin lành Luther và trình bày cho chúng tôi biết tất cả thành kiến xấu về Giáo Hội Công Giáo và Vị Giáo Hoàng của Giáo Hội này! Chính trong bầu khí bài xích Giáo Hội Công Giáo mà tôi đi vào thế giới của tôn giáo và của văn chương khoa học.

Tôi không bao giờ quên Chúa Nhật đầu tiên tại thành phố York. Hôm ấy tôi bước vào nhà thờ mang tên Thánh Olave, vị thánh người Na-Uy. Đó là nhà thờ Anh giáo. Ban đầu tôi cứ ngỡ mình đang ở trong nhà thờ Công Giáo, vì lúc ấy, tôi chưa thạo tiếng Anh cho lắm..

Lần đầu tiên trong đời, tôi học biết quỳ gối. Và những nghi lễ trang trọng cùng với thánh ca có nhạc cụ đi kèm, nghe thật du dương và thật sốt sắng. Buổi phụng vụ Chúa Nhật ghi vào lòng tôi một ấn tượng tốt đẹp. Từ đó, tôi có thói quen đến nhà thờ này vào mỗi Chúa Nhật để tham dự các nghi lễ phụng vụ.. Sau này, khi trở lại Oslo, tôi cũng thường đến tham dự các buổi cử hành phụng vụ tại nhà thờ Anh giáo. Tôi đến đây không phải vì tâm tình mộ đạo cho bằng bị lôi cuốn bởi nét đẹp của các buổi cử hành. Thế thôi.

Sau khi mãn bậc trung học đệ nhất cấp tại Anh quốc, tôi trở về Na-Uy học tiếp. Đến năm 1908 – tôi 36 tuổi – xảy ra biến cố làm thay đổi cuộc đời. Thân phụ tôi giữ chức vụ cao trong hội tam điểm. Ông muốn các con trai ông phải ghi tên vào hội này. Ngày 24-4-1908, anh em tôi chính thức ghi tên gia nhập hội tam điểm.

Năm 1918, tôi thành hôn với thanh nữ Đan-Mạch sống tại thủ đô Copenhagen. Hiền thê tôi là tín hữu tin lành đạo đức và là phụ nữ trí thức. Nàng say mê văn chương và thích nghe bài giảng hay. Khi thành hôn với tôi, nàng về sinh sống tại tỉnh nhỏ ở Na-Uy. Chỉ có điều duy nhất nàng cảm thấy nhung nhớ, đó là những bài giảng hay trong các nhà thờ tin lành ở thủ đô Copenhagen.

Một Chúa Nhật mùa chay năm 1928, khi trở về nhà, nàng hớn hở nói với tôi nàng vừa tìm ra vị giảng thuyết thật hay, tại nhà thờ Công Giáo thánh nữ Brigitte. Tôi tỏ dấu tức giận và hờn dỗi, vì thấy vợ tự ý đi tìm nhà thờ Công Giáo, với vị giảng thuyết Công Giáo. Dầu vậy, từ đó, chúng tôi đều đặn đến nghe giảng tại nhà thờ này .. Tuy nhiên, hạnh phúc lứa đôi bắt đầu lung lay. Đôi khi chúng tôi còn cãi vả to tiếng với nhau nữa. Trong khi đó, vợ tôi mỗi ngày một đến gần Giáo Hội Công Giáo.

Ngày 2-12-1928, Chúa Nhật Mùa Vọng, sau khi bất bình với nhau về nhiều sự, vợ tôi vẫn cố gắng thuyết phục tôi đi lễ nơi nhà thờ Các Linh Mục dòng Đaminh tại Oslo. Tôi miễn cưỡng nghe lời vợ. Đến nơi, tôi chọn ngồi vào hàng ghế sau cùng. Nhưng thay vì cảm thấy khó chịu, tôi lại cảm thấy lòng thanh thản lạ thường. Vị Linh Mục chủ lễ và giảng hôm đó là
người Pháp. Vậy mà ngài nói rành tiếng Na-Uy, không thể chê được. Thêm vào đó, bài giảng thật hay. Tôi xúc động thật sự.

Năm sau, ngày 4-10-1929, vợ tôi chính thức gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Cuộc chiến nội tâm của tôi còn kéo dài đến ngày 26-11 cùng năm. Sau đó tôi quyết định ra khỏi hội tam điểm và xin gia nhập Giáo Hội Công Giáo. Từ đó tôi tận hưởng niềm an bình hạnh phúc thật sự.

(”Stella Maris”, Octobre/1993, trang 30-31).


Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Maria Thanh Mai gởi